
0
ĐẢNG BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
--- ---
LỚP BỒI DƯỠNG ĐẢNG VIÊN MỚI KHÓA III – NĂM 2010
BµI KIÓM TRA
Họ và tên: Lê Đắc Nhường
Đơn vị: Chi bộ Khoa Toán Tin
THÁNG 09/2010

1
Câu 1: Phân tích và làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với cương vị công
tác hiện nay đồng chí đã làm gì để thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Trả lời:
Phân tích và làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết
hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trong bản chất của Đảng.
Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế
quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước
đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy khắp mọi miền đất nước, thu
hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến.
Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi
nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn
áp và thất bại.
Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở nên là yêu
cầu cơ bản, cấp bách. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong “tình hình
đen tối như không có đường ra”. Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh
vác sứ mệnh trọng đại đó?
Nhưng rồi chính lịch sử có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch ra cái tất yếu
từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác khẳng định chủ nghĩa tư
bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không
có người bóc lột người. Và người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công
nhân - sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng
chủ nghĩa tư bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong
kiến và đã bành trướng ra khắp thế giới, chi phối mọi mặt đời sống xã hội loài người.
Chính vào thời điểm ấy Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra, mở đầu cho một xu thế mới của
lịch sử thế giới, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng có
quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và thấm sâu trong
mảnh đất Việt Nam – nơi mà chính “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi;
chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa
thôi”. Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ

2
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Vời kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa
Mác – Lênin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam chuyển
hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại: năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc
gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng.
Đảng tuyên bố: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội Cộng sản”. Một cách tự nhiên, ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa Xã
hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam
chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi, từ đó dọc theo thế kỷ XX,
sang thế kỷ XXI, và tiếp tục đi cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có
chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,
đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc, có một xã hội tốt lành
gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất
cả vì niềm vui, hoà bình, hạnh phúc của con người.
Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của Đảng
và nhân dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp
với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu
cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và
nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị
cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam hôm nay và mai sau.
Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ
phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa
không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và
chính trị của các chế độ ấy - những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về
tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng giai cấp.
Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập theo
lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của
chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là: Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh
tế, văn hoá, đối ngoại; xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với
dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình
đẳng, công việc nội bộ quốc gia – dân tộc nào phải do quốc gia – dân tộc đó giải quyết,
không có sự can thiệp từ bên ngoài.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ căn nguyên kinh tế

3
sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
sinh ra. Nhờ đó, nó xoá bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô
dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc
mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi
thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày
càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc
vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác
trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối
quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc
khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng
con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới
ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn và
theo hệ giá trị đó, Đảng đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, tiến
hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn toàn không cân sức với “hai đế quốc to”, mở ra
thời kỳ phi thực dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên
thế giới.
Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
Quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng tiêu
biểu bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tín độc
lập tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên
ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong khu vực và trên thế giới.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là
cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của
dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh
thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay
và mai sau.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng
thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc
biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, thì hệ giá trị độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc
bảo phù hợp với xu thế thời đại; sẽ đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to
lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và
trên thế giới.

4
Để thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, với cương vị là một giảng viên của Trường Đại học Hải Phòng tôi tự nhận thấy:
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục có vị trí quan trọng, đó là nguồn sáng
soi đường cho giáo dục Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua và cả trong giai đoạn sắp tới.
Nghiên cứu về tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vấn đề rất phong phú,
hấp dẫn và lý thú. Cho đến nay đã có hàng trăm công trình nghiên cứu của nhiều tác giả
trong và ngoài nước viết về tư tưởng của Người về giáo dục. Mỗi công trình đều có sắc thái
riêng khi tiếp cận dưới những góc độ khác nhau nhưng đều đi đến khẳng định chung: Hồ
Chí Minh là một nhà giáo dục lớn của Việt Nam, Người đã để lại một di sản tư tưởng rất
quý giá. Ngày nay chúng ta đang khai thác triệt để những tư tưởng đó để củng cố và phát
triển sự nghiệp giáo dục của nước nhà. Trong kho tàng quý báu đó, có một vấn đề mà
người hết sức quan tâm, đó là, vai trò và phẩm chất của người thầy giáo nhân dân trong sự
nghiệp giáo dục.
Giáo dục là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và toàn dân, nhưng người trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ là nhà giáo. Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo
cán bộ cho nước nhà, là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hoá có trách
nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa
văn hoá của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng lục
sáng tạo phù hợp với sự phát triển và tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: " Không có
thầy giáo thì không có giáo dục...không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến
kinh tế - văn hoá". Cho nên trong mọi chương trình, mọi chính sách, tài liệu giáo khoa dù
hay đến đâu nếu không có thầy giáo tốt thì không có tác dụng gì với thế hệ trẻ. Người
nói:"Thời trước, giáo dục là gõ đầu trẻ để kiếm cơm....Bây giờ nhiệm vụ khác trước, các
cô, các chú có nhiệm vụ bồi dưỡng công dân... mục đích giáo dục bây giờ là phục vụ nhân
dân, phục vụ tổ quốc, đào tạo lớp người cán bộ mới".
Trong bài phát biểu tại Trường Đại học sư phạm Hà Nội(10/1964) Người nói: "Có gì vẻ
vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng Chủ nghĩa Xã
hội và Chủ nghĩa Cộng sản. người thầy giáo tốt, người thầy giáo xứng đáng là người thầy
vẻ vang nhất, dù tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương. Song
những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang,
nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân thì làm sao mà xây dựng Chủ nghĩa
Xã hội được. Vì vậy nghề thầy giáo rất quan trọng, rất vẻ vang. Ai có ý kiến không đúng
về nghề thầy giáo thì phải sữa chữa".
Bác Hồ của chúng ta đã từng làm thầy giáo nhiều năm, đã từng đào tạo nhiều thế hệ
cách mạng cho nên người rất hiểu công lao to lớn và thầm lặng của người thầy. Lúc còn là
thầy giáo Nguyễn Tất Thành, dạy ở trường Dục Thanh Người rất được học sinh yêu quý,