intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài thảo luận chủ đề 9: Thực trạng bảo hiểm xuất nhập khẩu của Việt Nam

Chia sẻ: Vũ Văn Hiệu | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

116
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bảo hiểm là một sự cam kết bồ thường của người bảo hiểm đối với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thỏa thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài thảo luận chủ đề 9: Thực trạng bảo hiểm xuất nhập khẩu của Việt Nam

  1. KHOA NGÂN HÀNG BỘ MÔN THANH TOÁN QUỐC TẾ  BÀI THẢO LUẬN CHỦ ĐỀ 9 THỰC TRẠNG BẢO HIỂM XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Cẩm Thủy NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 12 1. Vương Thị Huyền (Nhóm trưởng) 2. Phạm Đức Nam 3. Vũ Thị Lý 4. Nguyễn Ngọc Sơn 5. Đào Thị Nhân 6. Lê Tiến Hưng 7. Nguyễn Thị Loan 8. Vũ Văn Hiệu 9. Nguyễn Cơ Thạch 10. Lê Văn Hậu
  2. MỤC LỤC Sơ lược về bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu..............................................................................3 Thực trạng bảo hiểm hàng hóa XNK ở Việt Nam.............................................................................7 Một số đánh giá và định hướng đối với bảo hiểm trong xuất nhập khẩu......................................17
  3. Sơ lược về bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu 1.1. Khái niệm Bảo hiểm là một sự cam kết bồ thường của người bảo hiểm đối với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thỏa thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. Bảo hiểm xuất nhập khẩu là bảo hiểm mà có đối tượng bảo hiểm là hàng hóa xuất nhập khẩu. Người được bảo hiểm là người nhận trách nhiệm về rủi ro, được hưởng phí bảo hiểm và phải bồi thường khi có tốn thất xảy ra. Người bảo hiểm có thể là công ty nhà nước hay của tư nhân. Người được bảo hiểm là người có lợi ích bào hiểm, là người bị thiệt hại khi rủi ro xảy ra và được người bảo hiểm bồi thường. người được bảo hiểm là người có tên trong hợp đồng bảo hiểm và là người phải nopojphis bảo hiểm. Trong cáchợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu thì người được bảo hiểm có thể là người xuất kh ẩu, người nhập khẩu. 1.2. Đặc điểm Hàng hóa xuất ra và nhập vào đều phải đi qua các cửa khẩu biên giới quốc gia. Vì vậy, nó phải tuân thủ các quy chế của từng quốc gia về số lượng, chủng loại hàng hóa, phải chịu sự kiểm tra, giám sát của hải quan, của cơ quan kiểm dịch. Xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các cá nhân, các tổ chức thương mại giữa các nước đều phải thực hiện theo hợp đồng mua bán ngoại thương. Hợp đồng này đồng thời phải theo đúng thông lệ quốc tế và những quy định của quốc gia của người bán và người mua. Trong hợp đồng phải quy định về quy cách, phẩm chất, số lượng, ký mã hiệu, đóng gói bao bì, giá cả, cước vận chuyển, phí bảo hiểm, đồng tiền thanh toán, .. theo thỏa thuận giữa bên mua và bên bán. Hàng hóa được vận chuyển theo thông lệ quốc tế phải mua bảo hiểm. Việc mua bảo hiểm phải được thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm có thể thực hiện giữa bên mua hoặc bên bán với cơ quan bảo hiểm. Nếu người bán hàng mua bảo hiểm, có th ể nhượng lại quyền lời bảo hiểm bằng cách kí nhận cho người mua hàng để khi hàng nhập khẩu nếu bị tổn thất gì thì có thể đòi cơ quan bảo hiểm bồi thường. Hàng hóa xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng các phương tiện khác nhau theo hợp đồng. Người vận chuyển hàng hóa cũng đồng thời là người giao hàng cho người
  4. mua. Do đó, người vận chuyển có trách nhiệm rất cao trong việc bảo đảm an toàn cho số hàng hóa được vận chuyện. Để có những chứng cứ về mối ràng buộc trách nhiệm, khi vận chuyển hàng hóa pahri có vận đơn (trong đó thể hiện bằng chứng của hợp đồng chuyên chở), bằng chứng về quyền sở hữu hàng hóa và bằng chứng hoàn thành nhiệm vụ chuyên chở và giao hàng theo đúng hợp đồng mua bán. 1.3. Vai trò của bảo hiểm a) Bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất. Bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất là tác dụng chủ yếu của bảo hiểm và cũng xuất phát chính từ nhu cầu này mà bảo hiểm đã ra đời. Nói đến bảo hiểm là nói đến khả năng bồi thường khi có tổn thất xảy ra, và vai trò của các công ty bảo hiểm là cung cấp các loại dịch vụ đặc biệt nhằm khôi phục khả năng vật chất, tài chính như tr ước khi xảy ra rủi ro, hoặc bồi thường cho người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm con người. b) Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Bên cạnh khả năng giải quyết các hậu quả của rủi ro, bảo hiểm còn góp phần thực hiện một nội dung trong các biện pháp rủi ro. Đó là đề phòng và hạn chế mức thấp nhất những tổn thất có thể xảy. Nhờ đó, những thiệt hại đáng tiếc về người và tài sản được giảm thiểu và những hậu quả về kinh tế - xã hội cũng đ ược chủ đ ộng phòng tránh. c) Sử dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn rỗi, tạo được nguồn vốn lớn để đầu tư vào lĩnh vực khác Trong cuộc sống cũng như trong kinh doanh, người ta luôn phai tính đến những rủi ro có thể gặp phải, và luôn muốn chủ động trong tình uống xấu nhất. Việc tự khắc phục rủi ro đòi hỏi các cá nhân, tổ chức phải bỏ ra một khoản tiền lớn l ập quỹ dự phòng. Xét trên toàn xã hội, tổng các quỹ dự phòng sẽ là một khoản tiền không nhỏ, có nhả năng sinh lợi lớn nếu đem đầu tư. d) Tăng thu ngân sách nhà nước Hàng năm, thông qua việc nộp thuế, bảo hiểm đã đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, bảo hiểm đã góp phần tiết kiệm cho ngân sách thông qua việc tốt khâu phòng ngừa và hạn chế tổn thất, giúp bảo vệ tối đa tài sản công cộng, giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại đáng tiếc. Điều này giúp nhà nước giảm bớt chi tiêu những khoản lớn để bù đắp những tổn thất như phải xây dựng đường xá,
  5. cầu cống, nhà xưởng, cong trình… ngoài ra, một thị trường bảo hiểm phát triển mạnh mẽ và ổn định sẽ thu hút các cá nhân và tổ chức mua bảo hiểm của công ty bảo hiểm trong nước, góp phần tiết kiệm một khoản ngoại tệ lớn cho ngân sách nhà nước. e) Tạo tâm lý an tâm trong kinh doanh Khi kinh doanh ngày càng phát triển, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao thì người ta càng có nhu cầu được đảm bảo an toàn cho tương lai. Môi tr ường kinh doanh cũng như môi trường xã hội đang dần xuất hiện những rủi ro mới. Những rủi ro thiên nhiên như bão lũ, hạn hán, cháy rừng tự nhiên… đang trở lên hết sức phức tạp. Thế giới đang biến triển hết sức phức tạp, khó đoán như chiến tranh, khủng bố, xung đột. trong tình hình như vậy, bảo hiểm chính là một giải pháp hữu hiệu, góp phần tích c ực tạo ra tâm lý an tâm trong kinh doanh trong cuộc sống cho con người. 1.4. Các loại bảo hiểm trong xuất nhập khẩu Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, một trong những cách thức phân chia thường gặp là phân chia theo phương thức vận tải. Là một khẩu song hành và rất quan tr ọng trong quá trình xuất nhập khẩu nên bảo hiểm cũng được phân chia rất phổ biến theo phương thức vận tải. Chủ yếu các loại bảo hiểm tập trung vào bảo hiểm hàng hóa vận tải bằng đường biển và vận tải hàng hóa bằng đường hàng không. Theo đó bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển thường áp dụng đối với các hàng hóa thông thường nhưng không gồm các loại hàng hóa như than, dầu chở rời, hàng đông lạnh, thịt đông lạnh… còn đối với các hàng hóa có lô nhỏ, đòi hỏi giao ngay, an toàn và chính xác, có giá trị cao, có cự ly vận chuyển dài thường được vận chuyển bằng đường hàng không sẽ được bảo hiểm đường hàng không. Ngoài ra đối với từng loại bảo hiểm theo các phương thức lại chia ra các loại bảo hiểm khác nhau với các đặc điểm như: Bảo hiểm hàng hóa XNK theo các điều khoản loại A, B, C Theo các điều kiện bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển ICC 1/11982 (Institute Cargo Clauses - điều khoản bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm London ban hành và được sử dụng rộng rãi trên thế giới), BIC chịu trách nhiệm bảo hiểm cho những r ủi ro dưới đây, trừ những trường hợp loại trừ. Bảng so sánh các rủi ro được/ không được bảo hiểm Rủi ro ICC (A) ICC (B) ICC (C) Cháy và nổ V V V Tàu/ phương tiện vận chuyển mắc cạn, đắm, lật V V V úp
  6. Phương tiện vận tải bị lật, trật bánh V V V Tàu đâm va vào nhau hoặc phương tiện vận chuyển đâm va phải bất kỳ vật thể gì bên ngoài không kể V V V nước Dỡ hàng tại cảng lánh nạn V V V Động đất, núi lửa phun, sét đánh V V X Hy sinh tổn thất chung V V V Ném hàng khỏi tàu hoặc hàng bị nước cuốn khỏi V V V tàu Nước biển, sông, hồ tràn vào tàu, xà lan, hầm tàu, V V X container hoặc nơi chứa hàng Tổn thất toàn bộ kiện hàng bị rơi khỏi tàu hoặc rơi V V X trong khi đang xếp/ dỡ hàng Tổn thất chung và chi phí cứu hộ V V V Cướp biển, trộm cắp và không giao hàng V X X Bảo hiểm trách nhiệm người vận tải hàng xuất nhập khẩu (shipping line / consol): • Giới hạn tất cả các yêu cầu bồ thường về tổn thất và hư hỏng xảy ra trong vòng 1 năm. • Giới hạn trách nhiệm của người vận tải về tổn thất, hư hỏng theo thông lệ quốc tế (tính theo trọng lượng hoặc đơn vị). • Không bao gồm “các rủi ro khác” (bất khả kháng). • Không thể mua bảo hiểm vào ngày bắt đầu vận tả.i • Luôn có thể bị vượt quá/khấu trừ. Bảo hiểm đình công đối với hàng hóa XNK Các rủi ro được bảo hiểm là: • Tổn thất hay hư hỏng đối với đối tượng được bảo hiểm gây ra bởi: • Đình công, cấm công nhân hay những người tham gia vào việc gián đoạn lao động, nổi loạn hay bạo động dân sự. • Bất kì kẻ khủng bố hay người nào hành động vì động cơ chính trị hoặc tôn giáo. Ngoại trừ sự chậm trễ, làm biến đổi bản chất vốn có của hàng hóa đ ược bảo hiểm và sự tổn thất hay hư hỏng gây ra bởi các hành động thù nghịch, có tính chất chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, bạo động dân sự hay phản đối có tính chất tương tự. Bảo hiểm chiến tranh đối với hàng hóa XNK
  7. Các rủi ro được bảo hiểm là: - Chiến tranh, nội chiến, hành động thù địch gây chiến v.v... - Thu giữ, tịch thu, bắt giữ do những hành động ở trên gây ra. - Mìn, thủy lôi v.v... Ngoại trừ: - Tổn thất, hư hỏng hay chi phí phát sinh từ bất kì việc sử dụng vũ khí hiếu chiến nào, hoặc chiến tranh sử dụng chất nổ hạt nhân hay vũ lực phản ứng hoặc phóng xạ nào. - Chỉ áp dụng cho đoạn đường vận tải biển. Thực trạng bảo hiểm hàng hóa XNK ở Việt Nam 1.5. Thực trạng xuất nhập khẩu ở Việt Nam thời gian qua Trong những năm qua, xuất - nhập khẩu của Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của đất nước. Xuất - nhập khẩu tăng trưởng với nhịp độ bình quân khá cao về kim ngạch, đa dạng và phong phú về mặt hàng. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng. Trong năm 2013, theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước trong tháng 9/2013 đạt gần 22,46 tỷ USD, giảm 3,4% so kết quả thực hiện của tháng 8 trước đó; trong đó, xuất khẩu đạt 11,18 tỷ USD, giảm 6,2% và nhập khẩu là 11,27 tỷ USD, giảm nhẹ 0,4%. Với kết quả này, cán cân thương mại hàng hóa trong tháng 9 này của Việt Nam có mức thâm hụt nhẹ trị giá 88 triệu USD. Như vậy, tính từ đầu năm đến hết tháng 9 năm 2013, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt 192,53 tỷ USD, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu đạt 96,27 tỷ USD, tăng 15,5% và nhập khẩu là 96,26 tỷ USD, tăng 15,1%. Kết quả là cán cân thương mại hàng hoá của Việt Nam khá cân bằng trong 3 quý tính từ đầu năm 2013. Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại từ tháng 1/2013 đến hết tháng 9/2013
  8. Ghi chú: Số liệu từ tháng 1 đến tháng 6/2013 là số liệu điều chỉnh, số liệu tháng 7,8 và 9 là số liệu sơ bộ. Nguồn: Tổng cục Hải quan Trong tình hình xuất nhập khẩu kể trên, có thể thống kê các nhóm hàng xuất khẩu chính bao gồm: Điện thoại các loại và linh kiện, Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, Hàng dệt may, Giày dép các loại, Dầu thô, Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác, Thủy sản, Gỗ và sản phẩm gỗ, Cao su, Gạo, Hạt điều, Than đá. Các nhóm hàng nhập khẩu chính bao gồm: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác, Điện thoại các loại và linh kiện, Xăng dầu các loại, Nguyên vật liệu ngành dệt may, da, giày, Sắt thép các loại, Thức ăn gia súc và nguyên liệu, Phế liệu sắt thép, Chất dẻo nguyên liệu, Phân bón các loại, Ô tô nguyên chiếc… Nhìn vào cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam, kết hợp với các điều kiện về tự nhiên, kinh tế kỹ thuật,… có thể thấy ngành xuất nhập khẩu đang từng bước phát triển và chủ yếu tập trung vào các hàng hóa thông thường đ ược vận chuy ển bằng phương thức vận tải đường biển. Một số mặt hàng có thể vận chuyển bằng đường hàng không nhưng còn nhiều hạn chế. Điều này phần nào cũng phản ánh được một phần nào việc sử dụng các loại hình bảo hiểm tương ứng đối với các hàng hóa xuất nhập khẩu. 1.6. Thực trạng bảo hiểm hàng hóa XNK 2.2.1. Sơ lược thị trường bảo hiểm Việt Nam và bảo hiểm hàng hóa XNK thời gian qua
  9. Tính đến nay, tổng số doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường là 58 doanh nghiệp, trong đó gồm 29 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 15 doanh nghiệp bảo hi ểm nhân thọ, 12 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và 2 doanh nghiệp tái bảo hiểm. Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, thị trường bảo hiểm vẫn đạt được kết quả nhất định. - Tổng doanh thu phí bảo hiểm 6 tháng toàn thị trường ước đạt 20.922 tỷ đồng, tăng 6,3%% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó, tổng doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 11.767 tỷ đồng, tăng trưởng khoảng 2,2 %; doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đạt 9.155 tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2012. - Tổng số tiền thực bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm 6 tháng năm 2013 ước là 8.551 tỷ đồng, trong đó các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ước là 4.045 tỷ đồng; các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ước là 4.506 tỷ đồng. - Tổng số tiền đầu tư 6 tháng năm 2013 ước đạt 95.796 tỷ đồng. Trong đó, doanh nghiệp nhân thọ đạt khoảng 70.996 tỷ đồng, doanh nghiệp phi nhân thọ đạt khoảng 24.800 tỷ đồng. - Tổng số phí bảo hiểm thu xếp qua môi giới uớc tính 6 tháng đầu năm 2013 là hơn 2.804 tỷ đồng, tăng 26,1%; tổng doanh thu hoa hồng môi giới bảo hiểm đạt hơn 231 tỷ, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2012. (Theo số liệu thống kê thị trường Cục quản lý, giám sát bảo hiểm – Bộ Tài chính) Bảo hiểm trong xuất nhập khẩu nói chung hay bảo hiểm hàng hóa XNK nói riêng đề nằm trong bảo hiểm phi nhân thọ. 6 tháng đâu năm 2013, tổng doanh thu phí bảo ̀ hiểm gốc của thị trường phi nhân thọ ước đạt 11.767 tỷ đồng, tăng 2,31% so với cùng kỳ năm 2012. Ước số tiền thực bồi thường bảo hiểm gốc của thị trường phi nhân thọ 6 tháng đầu năm 2013 là 4.506 tỷ đồng, tỷ lệ thực bồi thường bảo hiểm gốc là 38,29% cao hơn tỷ lệ thực bồi thường bảo hiểm gốc cùng kỳ năm 2012 (35,32%). Trong số doanh thu kể trên cần chú ý tới Bảo hiểm thân tàu và TNDS ch ủ tàu đ ạt doanh thu 1.795 tỉ đồng, giảm 3,67%. Số tiền đã bồi thường 830 tỉ đồng, chiếm 46% (chưa kể dự phòng bồi thường). Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đạt doanh thu 1.927 tỉ đồng, tăng trưởng 6,2%.. Tỉ lệ đã bồi thường chiếm 27% tương đương 516 tỉ đồng. Để có cái nhìn khách quan hơn về bảo hiểm trong xuất nhập khẩu, nhóm đi vào nghiên cứu thực tế quy trình thực hiện các công tác triển khai của bảo hiểm hàng hóa trong xuất nhập khẩu của đại đa số các doanh nghiệp hiện nay.
  10. 2.2.2. Thực trạng các quy trình các công tác triển khai bảo hiểm hàng hóa trong xuất nhập khẩu a/ Công tác khai thác tìm kiếm khách hàng Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu là một trong những nhiệm vụ truyền thống của các công ty kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Hiện nay với sự tham gia kinh doanh của 29 công ty làm cho quá trình cạnh tranh diễn ra hết sức sôi động và gay găt. Hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường không những giảm mạnh mà các công ty còn không ngừng nâng cao chất l ượng dịch vụ cho khách hàng, với vai trò là người tư vấn và là nhà bảo hiểm. Hầu hết các công ty bảo hiểm hiện nay đều rất coi trọng việc giữ lại số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm cũ thông qua tiếp tục hợp đồng hàng năm đồng thời tích cực chủ đ ộng tìm kiếm và khai thác khách hàng mới trong mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế. Trình đ ộ năng l ực nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên bảo hiểm ngày một nâng cao giúp cho quá trình tư vấn, phân tích đánh giá rủi ro đưa ra các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất có hiệu quả. Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu thường bảo hiểm lô hàng có giá trị rất lớn nên việc tái bảo hiểm là vô cùng quan trọng. Công tác khai thác bảo hiểm là một khâu rất quan trọng trong các doanh nghiệp. Khai thác được coi như là đầu vào cho hoạt động sản xuất tạo ra lợi thế thương mại cuối cùng cho doanh nghiệp, nó quyết định đến sự sống còn của công ty. Doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh dịch vụ tài chính không có hoạt động sản xuất nên họ chủ yếu tập trung vào khai thác thị trường. Nếu các công ty khai thác tốt tức là bán đ ược nhiều h ợp đồng bảo hiểm mang lại doanh thu lớn sẽ là cơ sở để tăng lợi nhuận, chiếm lĩnh th ị phần, nâng cao vị thế của mình trên thị trường bảo hiểm. Chính vì tính chất quan tr ọng của khâu khai thác mà hầu hết các công ty bảo hiểm phải lập ra các chiến l ược khai thác. Công việc khai thác càng trở nên khó khăn hơn trong thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Vào đầu năm các nhân viên của phòng bảo hiểm hàng hải phải thu thập đ ược thông tin về kim ngạch xuất khẩu qua đó sẽ tập hợp số liệu để lập kế hoạch khai thác và định mức thu phí trong năm của các đối tượng. Đối với khách hàng mới thì các cán bộ phải tìm cách tiếp cận để tìm hiều về ngành hàng, cách thức đóng gói chất xếp, luồng vận chuyển. Các nhân viên phải tìm cách tiếp cận được với những khách hàng này cho họ thấy sự hiện diện của công ty và giúp họ hiểu hơn về sản phẩm mà công ty có th ể cung cấp. Thông qua tư vấn giúp đỡ các công ty xuất nhập khẩu lựa chọn điều kiện bảo
  11. hiểm phù hợp. Đối với khách hàng cũ, các khách hàng truyền thống, các nhân viên phải thuyết phục được họ tiếp tục hợp đồng một cách tự nguyện. Lượng khách hàng truyền thống này sẽ đảm bảo cho công ty một doanh thu ổn định. Một công ty bảo hiểm có lượng khách hàng truyền thống chiếm tỷ lệ cao chứng tỏ chất lượng dịch vụ c ủa công ty là rất tốt và biểu phí phù hợp. b/ Công tác giám định và bồi thường tổn thất Ngay sau khi nhận được thông báo tai nạn, tổn thất từ khách hàng qua bất cứ hình thức nào, công ty bảo hiểm phải cử ngay nhân viên thu thập thông tin ban đầu liên quan đến tổn thất và mở sổ theo dõi tổn thất, sổ nhận khai báo tổn thất. Quy trình giám định bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển: - Nhận yêu cầu giám định - Thực hiện giám định - Thông báo kết quả giám định - Lập biên bản giám định và lập hồ sơ giám định - Thu phí giám định Nhận yêu cầu giám định: Khi phát hiện ra tổn thất người được bảo hiểm phải gửi ngay giấy yêu cầu giám định đến công ty bảo hiểm, yêu cầu ban đầu có thể bằng điện thoại nhưng sau đó phải bổ sung giấy yêu cầu chính thức theo mẫu để lưu vào tập hồ sơ giám định. Đ ồng thời người yêu cầu giám định phải bổ sung đầy đủ các giấy tờ có liên quan cần thiết. Dựa trên các chứng từ thu thập được, giám định viên phân tích yêu cầu giám định, xem xét các điều kiện bảo hiểm, loại hàng hóa, phương thức đóng gói, phương tiện vận chuy ển… để đánh giá sơ bộ tổn thất có được bảo hiểm hay không, có thuộc phạm vi trách nhiệm của công ty bảo hiểm không. Nếu tổn thất không được bảo hiểm hoặc có thể khẳng định ngay không thuộc trách nhiệm bảo hiểm thì phải trả lời ngay cho khách hàng đ ể khách hàng có biện pháp thích hợp đối với hàng hóa của mình, tránh tổn thất hàng hóa phát sinh. Nếu tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm hoặc trách nhiệm bảo hiểm chưa xác định được ngay hoặc phạm vi bảo hiểm chưa rõ ràng, công ty bảo hiểm sẽ tiến hành các công việc tiếp theo. Thực hiện giám định: Việc giám định có thể do công ty tự tổ chức giám định hoặc thuê các công ty giám định chuyên nghiệp. Giám định viên cần phải phối hợp với các bên liên quan để thu thập
  12. thông tin, xét nghiệm hiện trường một cách chính xác. Các giấy tờ có liên quan đ ến v ụ giám định thường gồm: - Giấy chứng nhận bảo hiểm - Vận đơn B/L - Chi tiết đóng gói P/L - Hóa đơn mua hàng Invoice - Hợp đồng mua bán Sale Contract - Giấy chứng nhận phẩm chất - Biên bản hàng hóa hư hỏng, đổ vỡ do tàu gây nên - Sơ đồ xếp hàng - Nhật ký hàng hải - Giấy chứng nhận kín chắc hầm tàu trước khi xếp hàng - Giấy chứng nhận vệ sinh hầm tàu trước khi xếp hàng - Giấy chứng nhận ôn độ. • Công tác giám định tại hiện trường: Giám định viên cùng đại diện của chủ tàu, chủ hàng đến nơi hàng tổn thất để tiến hành giám định. - Kiểm tra miệng hầm: + Xem xét tình trạng niêm chì, ký hiệu niêm chì, vị trí cặp chì + Cách che đậy miệng hầm, tình trạng miệng hầm. - Kiểm tra hàng trước khi dỡ hàng, xem xét tình trạng hàng xếp mặt trên - Kiểm tra tình hình chèn lót, sắp xếp hàng, thông gió, thiết bị của tàu và các yếu tố có thể gây nên tổn thất. Nếu thấy hàng ướt phải xem ngay ống dẫn nước, dẫn dầu, đường thông gió, hàng lỏng xung quanh. Nếu hàng bị rách vỡ phải kiểm tra khả năng do dụng cụ xếp dỡ hàng xuống tàu, cách chèn lót sắp xếp của tàu, bao bì đóng gói, khả năng va chạm của tàu. - Giám định bên ngoài kiện hàng: kiểm tra ký mã hiệu xem đúng trong hợp đ ồng hay không, các ký hiệu đề phòng hạn chế tổn thất; kiểm tra bao bì: vật liệu bao bì, cách thức đóng gói, dấu vết tổn thất của bao bì. - Giám định bên trong kiện hàng: tùy thuộc tình trạng tổn thất loại hàng, số l ượng tổn thất nhiều hay ít đề nghị chủ tàu và chủ hàng mở toàn bộ hoặc một s ố ki ện hàng bên trong để xem xét: + Xem cách đóng bao bì, xếp chèn hàng hóa
  13. + Số lượng, khối lượng có trong mỗi kiện + Tình trạng tổn thất của hàng hóa + Các dấu vết, biểu hiện hư hỏng thiệt hại, các vật lạ và các hiện tượng khả nghi. - Lấy mẫu và chụp ảnh + Cần phải lấy mẫu để xét nghiệm và phân tích lý hóa để xác định được nguyên nhân tổn thất, xác định giá trị hàng hóa có đủ phẩm chất hay không hay đ ể so sánh, xác định mức độ tổn thất. + Khi điều kiện cho phép giám định viên nên chụp ảnh về hàng hóa. Tuy nhiên bắt buộc phải chụp ảnh khi chủ tàu không chịu ký vào biên bản giám đ ịnh, lô hàng b ị t ổn thất lớn hay dùng lời không thể diễn tả được tình trạng và mức độ tổn thất. - Xác định mức tổn thất, ghi rõ số lượng hàng bị hư hỏng, ước tính chi phí để khắc phục, tỷ lệ giảm giá, giá trị còn lại của hàng hóa. Lập biên bản giám định: Khi giám định xong, giám định viên phải ghi toàn bộ nội dung chi tiết của cuộc giám định, kết quả giám định được lập thành biên bản giám định đ ể khách hàng, người bảo hiểm và các bên có liên quan có cơ sở pháp lý phân bổ trách nhiệm, người được bảo hiểm có cơ sở để khiếu nại giải quyết bồi thường. Biên bản giám định phải ghi rõ: - Nguyên nhân, mức độ tổn thất - Tình trạng sắp xếp chèn lót thiết bị của tàu - Số lượng kiện, số thứ tự kiện hàng bị tổn thất - Tình trạng tổn thất và tổn thất của bao bì Biên bản giám định phải được tiến hành tại hiện trường và có chữ ký của các bên liên quan xác nhận. c/ Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Tổn thất xảy ra với hàng hóa ngoài do thiên nhiên còn do sự cẩu thả trong quá trình chuyên chở, xếp dỡ, hoặc do hành động trộm cắp cố ý… Nếu những tổn thất đó có thể được giảm thiểu bằng các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất hiệu quả, chủ đ ộng của những người liên quan đến quá trình vận chuyển thì không những người bảo hiểm giảm được tỷ lệ bồi thường, nâng cao hiệu quả kinh doanh, giảm phí cho khách hàng mà còn bảo vệ được hàng hóa cho xã hội nói chung. Do đó, đ ề phòng và hạn ch ế t ổn thất không chỉ là nghĩa vụ của các Doanh Nghiệp Bảo Hiểm mà còn là nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm
  14. Đề phòng tổn thất là chỉ các biện pháp được sử dụng để hạ thấp tần xuất tổn thất hay nói cách khác là hạn chế tổn thất là các biện pháp sử dụng nhằm làm giảm mức độ trầm trọng của tổn thất khi rủi ro xảy ra. Hoạt động đề phòng và hạn chế tổn thất gồm 3 khâu: - Phải điều tra, thu thập các thông tin liên quan tới đối tượng được bảo hiểm để xác định rủi ro của đối tượng được bảo hiểm và liên quan đến chính bản thân khách hàng - Phân tích và tư vấn cho khách hàng trong công tác quản lí r ủi ro. Sau khi đã có được thông tin cơ bản ở bước trên, nhân viên công ty dựa trên việc phân tích đặc điểm, Đối tượng bảo hiểm và những tổn thất trong quá khứ của khách hàng để tư vấn cho họ những biện pháp cụ thể để quản lý rủi ro - Thực hiện chương trình quản lý rủi ro. Đây là công việc chủ yếu thuộc về phía người tham gia bảo hiểm, nhiệm vụ của họ là thực hiện những gì đã cam kết với nhà bảo hiểm, còn người bảo hiểm cử người kiểm tra xem chương trình có phù hợp với thực tế hay không và cung cấp những dịch vụ tư vấn phù hợp Nhìn chung trong những năm vừa qua công tác đề phòng và hạn chế tổn thất ở Việt Nam đã được nhìn nhận một cách thấu đáo và ngày càng được quan tâm hơn, đó cũng là cách tránh những tổn thất lớn có thể xảy ra, vì thế nên chất l ượng và hi ệu quả cũng ngày càng được nâng cao. Đặc biệt là công tác này được chú trọng thực hiện ngay từ khâu khai thác hợp đồng trong việc đánh giá và quản lý rủi ro, bám sát và tư vấn cho khách hàng về quy cách đóng gói, xếp dỡ hàng hóa, thuê phương tiện chuyên chở (tuổi tàu, phân hạng tàu, cờ tàu, độ tin cậy…) hay việc giám định hàng hóa ngay tại cảng đi đối với một số mặt hàng xuất khẩu nhằm đưa ra các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất rất lớn nên công ty đã rất chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ của các giám định viên và không ngừng tạo lập mối quan hệ với các tổ chức có liên quan nhằm phối hợp chặt chẽ, kịp thời thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra đối với hàng hóa được bảo hiểm d/ Công tác chống trục lợi bảo hiểm hàng hóa XNK Từ giữa những năm 1960 vấn đề trục lợi bảo hiểm trở nên phổ biến hơn và tồn tại trong một số nhỏ khách hàng. Uỷ ban bảo hiểm Úc đã ước tính hơn 10% doanh thu bảo hiểm để bồi thường tổn thất do trục lợi và tổng số tiền đó lên tới hơn 1,4 tỷ dollar hàng năm tại Úc. Trên thế giới, tại một số nước phát triển, các doanh nghiệp bảo hiểm là các doanh nghiệp tư nhân, chính vì thế xuất phát từ phía lợi ích các doanh nghiệp luôn
  15. có những biện pháp tối ưu để hạn chế trục lợi. Do đó, gần như rất ít trường hợp khi có tổn thất xảy ra thì mới thực hiện hành vi trục lợi bởi vì các công ty bảo hiểm ở các nước phát triển thường là các tập đoàn lớn, có nguồn tài chính vững mạnh, do đó họ thường thuê các công ty giám định có uy tín lớn. Hơn nữa, việc quản lý nhân viên r ất chặt chẽ. Bên cạnh đó, việc vận tải hàng hóa bằng container đang phát triển nên đã giảm thiểu được phần lớn rủi ro mất hàng. Vì vậy muốn trục lợi thành công, bên trục lợi phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng. Nên hầu hết các vụ trục lợ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu đề xuất phát ở giai đợn đầu kí kết hợp đồng, hay có ý đồ gấy tổn thất hàng hóa từ trước. Do đó trục lợi bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đ ường biển trên thế giới thường tồn tại dưới hình thức trục lợi từ phía người tham gia bảo hiểm. Ở Việt Nam, hành vi trục lợi từ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu có điểm khác trên thế giới. Đa số các hành vi trục lợi đó được tiến hành sau khi có tổn thất hơn là có sự chuẩn bị ngay khi bắt đầu kí kết hợp đồng bảo hiểm. Vì kẻ trục l ợi l ợi dụng thông đồng với nhân viên trong công ty bảo hiểm hay với cơ quan giám định tổn thất đ ể th ực hiện hành vi trục lợi của mình. Hơn nữa, Việt Nam cơ bản là nước công nghiệp, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là nông sản, thủy sản, nguyên liệu thô,…hàng nhập thường là nguyên liệu phục vụ sản xuất, các nguyên liệu phục vụ nông nghiệp như phân bón, thức ăn gia súc,…Phần lớn hàng hóa xuất nhập khẩu thường có giá trị không cao, chính vì muốn giảm thiểu chi phí chuyên chở nên hàng hóa thường không được bảo quản trong container dễ gây ra tổn thất trong quá trình chuyên chở. Hơn nữa tập quán giao nhận của Việt Nam có những điểm khác như: Hàng hóa nhập khẩu thường được tập kết tại cảng sau đó mới chia cho chủ hàng, hay thay vì vận chuyển bảo quản trong container thì vận dụng các phương thức chở xá được sử dụng phổ biến với các mặt hàng như thức ăn gia súc, phân bón,… dễ gây tổn thất, trộm cắp trong quá trình đóng bao. Vì thế các hình thức trục lợi từ phía người tham gia bảo hiểm không chỉ là hành vi của người mua bảo hiểm lien kết với nhân viên doanh nghiệp bảo hiểm, người chuyên chở, chủ tàu mà còn với nhân viên cảng giao dịch. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam thường hạn chế trục lợi bảo hiểm bằng cách thực hiện công tác quản lý rủi ro, quản lý hợp đồng bảo hiểm và phát hi ện kh ả năng trục lợi bằng kinh nghiệm của các nhân viên bảo hiểm có trình độ chuyên môn cao Đối với hoạt động XNK hàng hóa bằng đường biển luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Người bảo hiểm cần phải chú trọng đến công tác quản lý rủi ro đ ể l ường tr ước đ ược
  16. các khả năng xảy ra trục lợi. Nhận thức được điều này, các Doanh Nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng đã áp dụng nhiều biện pháp để quản lý rủi ro như: Thực hiện các khâu điều tra, thu thập những thông tin liên quan đến đối tượng được bảo hiểm, đ ặc điểm của rủi ro và chính bản thân khách hàng bảo hiểm. Sau khi kí kết hợp đồng, DN bảo hiểm phải tổ chức quản lý hợp đồng, theo dõi toàn bộ quá trình thực hiện hợp đồng của cả hai bên. Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa XNK thường phức tạp và lâu dài vì vậy quản lý hợp đồng là công việc trọng tâm trong quản lý khách hàng bảo hiểm Quản lý hợp đồng bảo hiểm hàng hóa XNK bằng đường biển là trách nhiệm nghĩa vụ của DN bảo hiểm đối với khách hàng. Chất lượng thực hiện hợp đồng tốt hay x ấu ảnh hưởng trực tiếp đến sự tín nhiệm của khách hàng và xã hội đối với DN bảo hiểm. Quản lý chất lượng thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hóa XNK là 1 nội dung quan trọng nhất và phạm vi rất rộng bao gồm cả việc đề phòng và hạn chế tổn thất, giám định và bồi thường bảo hiểm trong đó khâu giám định luôn là khâu dễ bị tr ục l ợi bảo hiểm. Nhận thức được vấn đề trên, DN bảo hiểm VN đã tổ chức quản lý hợp đ ồng, theo dõi thực hiện hợp đồng để hạn chế tình trang trục lợi bảo hiểm Việc phát hiện những nghi ngỡ và khả năng trục lợi ở một số mặt hàng, tàu, một số cảng, người tham gia bảo hiểm… Thường nhờ vào kinh nghiệm của những cán bộ có chuyên môn cao. Từ đó phối hợp với các cơ quan điều tra, công an để phát hiện và phòng chống trục lợi bảo hiểm hàng hóa XNK Quy định của pháp luật nhằm phòng chống trục lợi bảo hiểm hàng hóa XNK: Luật kinh doanh bảo hiểm 2010 Các chế tài ngăn chặn hành vi trục lợi bảo hiểm hàng hóa XNK: Về dân sự, theo quy định tại điều 17 Luật kinh doanh bảo hiểm, khi phát hiện hành vi trục lợi, DN bảo hiểm có quyền từ chối trả tiền bảo hiểm cho người hưởng thụ hoặc từ chối bồi thường cho người được bảo hiểm hoặc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật Dân sự, hợp đồng Dân sự được giao kết do bị lừa dối có thể dẫn đến hợp đồng bị tuyên là vô hiệu và “không làm phát sinh quy ền và nghĩa vụ dân sự của các bên; các bên khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn tr ả cho nhau những gì đã nhận. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. Tùy từng trường hợp, xét theo tính chất của giao dịch vô hiệu, tài sản giao dịch và hoa lợi, lợi tức thu được có thể bị tịch thu theo quy định của pháp luật
  17. Đối với những hành vi trục lợi bảo hiểm không có đủ các điều kiện để cấu thành tội phạm, người thực hiện hành vi trục lợi có thể phải chịu các chế tài hành chính theo quy định tại Điều 15, Nghị định 118/2003/NĐ-CP ngày 13/10/2003 của chính phủ như: - Cảnh báo hoặc phạt tiền từ 1trđ đến 5trđ đối với cá nhân, tổ chức có hành vi trục lợi để nhận tiền bồi thường, tiền bảo hiểm - Phạt tiền từ 2trđ đến 10trđ đối với cán bộ, nhân viên của DN bảo hiểm, đại lý bảo hiểm hay DN môi giới bảo hiểm có 1 trong những hành vi như yêu cầu người th ụ hưởng quyền lợi bảo hiểm trả thù lao, hay các quyền lợi vật chất khác trái pháp luật trong quá trình giải quyết bồi thường, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật. Một số đánh giá và định hướng đối với bảo hiểm trong xuất nhập khẩu 1.7. Đánh giá Tổng quát các vấn đề nêu trên có thể thấy trong những năm qua, bảo hiệm trong xuất nhập khẩu hàng hóa có những cơ hội và những thách thức nhất định có thể kể đến như: Về cơ hội: Thứ nhất, Trong điều kiện hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới những năm vừa qua, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đang ngày càng được mở rộng như đã trình bày phía trên. Điều này chính là cơ hội để ngành bảo hiểm trong xuất nhập khẩu hàng hóa trong nước phát triển. Thứ hai, nhà nước và Chính phủ đang có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Là một trong năm lĩnh vực mà nhà nước đẩy mạnh hỗ trợ cả về vốn (thông qua hỗ trợ lãi suất) lẫn các chính sách thông thoáng (giảm thuế…), lĩnh vực xuất nhập khẩu hứa hẹn những cơ hội phát triển mạnh. Bảo hiểm đối với hàng hóa xuất nhập khẩu lẽ dĩ nhiên cũng được lợi từ những chính sách này. Thứ ba, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã và đang ngày càng lớn mạnh. Trong những năm qua, ngành bảo hiểm Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong việc khai thác khách hàng mới. Chất lượng phục vụ được nâng lên đáng kể. Ngoài việc cung cấp sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng, các doanh nghiệp bảo hiểm đã chủ động tăng cường tiếp cận khách hàng để tư vấn kỹ thuật chuyên môn, giúp khách hàng l ựa chọn rủi ro tham gia bảo hiểm cho phù hợp và đạt hiệu quả. Hiện nay các ngân hàng, doanh nghiệp, công ty bảo hiểm có những cán bộ chủ chốt am hiểu về dịch vụ bảo hiểm và đội ngũ nhân viên được đào tạo đầy đủ về kiến thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
  18. Bên cạnh những cơ hội kể trên, còn không ít những khó khăn, những điểm hạn chế cần khắc phục đối với bảo hiểm các hàng hóa trong xuất nhập khẩu. Về thách thức: Thứ nhất, Hoạt động XNK của nước ta chủ yếu áp dụng phương thức xuất khẩu theo FOB và nhập khẩu theo CIF. Với các phương thức XNK trên đã hạn chế khả năng ký kết của các công ty bảo hiểm Việt Nam bởi quyền vận tải và bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó, đối tác nước ngoài tuỳ ý thuê tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường, hó ký hợp đồng với các công ty của nước mình, như vậy các công ty bảo hiểm nước ngoài có điều kiện phát triển hơn. Thứ hai, Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm VN còn hạn chế, chưa mang tầm quốc tế. Ngoại từ Bảo Việt thành lập năm 1965 có vốn lớn, các công ty khác đều vừa mới được thành lập sau Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 với mức vốn kinh doanh chưa đến 80 tỷ đồng, trong khi đó, nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài ra đời cách đây hàng trăm năm, vốn kinh doanh hàng tỷ Đôla Mỹ. Thêm vào đó, trình độ cán bộ làm công tác bảo hiểm nói chúng còn bấp caaoj so với đòi hỏi của thị trường mà còn non yếu so với mặt bằng thế giới. Thứ ba, Hành vi trục lợi trong bảo hiểm hàng hoá XNK. Hàng hoá được yêu cầu bảo hiểm trong hàng trình vận chuyển nhưng chưa đóng phí bảo hiểm. Khi biết hàng về đến nới an toàn, khách hàng xin huỷ đơn bảo hiểm hoặc huỷ hợp đ ồng bảo hi ểm đ ể khỏi phải đóng phí. Thậm chí có chủ hàng biết thông tin hàng hoá của mình bị tổn thất rồi mới đến mua bảo hiểm hoặc thông đồng với cán bộ của doanh nghiệp bảo hiểm để mua bảo hiểm và nhận bồi thường cho tổn thất đó. Trên thực tế còn có việc tạo hiện trường giả các vụ tai nạn, cháy hoặc chìm tàu, cố ý gây tai nạn trong bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm, gian lận đối với người thứ ba, mặc dù đã nhận tiền bảo hiểm... Từ những hạn chế kể trên, để có thể phát triển bảo hiểm hàng hóa trong xuất nhập khẩu thời gian tới, nhóm cho rằng cần đẩy mạnh những mặt sau: 1.8. Một số định hướng giải pháp cho bảo hiểm hàng hóa XNK Thứ nhất, Đẩy mạnh công tác khách hàng Trong nền kinh tế thị trường khách hàng là một trong những nhân tố quy ết đ ịnh đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp đặc biệt đối với các doanh nghiệp bảo hiểm khi hoạt động dựa trên quy luật “số đông bù số ít” và bán các sản ph ẩm d ựa trên
  19. niềm tin của khách hàng. Do vậy các doanh nghiệp cần phát triển công tác khách hàng một cách mạnh mẽ thông qua các lĩnh vực: - Đẩy mạnh nghiên cứu thị trường và khách hàng. Các công ty cần có kế hoạch thu thập các thông tin về hạn ngạch xuất nhập khẩu cho từng mặt hàng, nắm bắt được định hướng xuất nhập khẩu trong năm để có thể tư vấn và cung cấp các dịch vụ bảo hiểm phù hợp, tiện lợi cho khách hàng. Kết hợp với việc nắm bắt được nhu cầu của khách hàng để có những chính sách tiếp cận, khai thác một cách tốt nhất. - Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng Bảo hiểm là một sản phẩm vô hình, khách hàng khó có thể nhận được lợi ích của nó thông qua các giác quan. Chính vì vậy mà chúng ta phải nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để tăng tính hữu hình của sản phẩm. Hơn nữa chất l ượng ph ục v ụ khách hàng có ý nghĩa quyết định đến việc khách hàng có tiếp tục sử dụng sản phẩm nữa hay không. Dịch vụ chăm sóc khách hàng chu đáo sẽ tạo được niềm tin của khách hàng, giúp các doanh nghiệp bảo hiểm giữ được chân khách hàng làm gia tăng số l ượng các h ợp đồng tái tục khi hết hạn hợp đồng, đặc biệt là với những khách hàng truy ền thống, những khách hàng lớn của doanh nghiệp. Ngoài ra giữ chân một khách hàng cũ có l ợi hơn và dễ dàng hơn rất nhiều so với việc đi khai thác một khách hàng mới bởi không những tiết kiệm được chi phí khai thác ban đầu, mà khi họ tin tưởng và hài lòng về chất lượng dịch vụ, họ sẽ là “kênh tuyên truyền” hữu hiệu giúp doanh nghiệp có thêm những mới. Chất lượng phục vụ khách phải được quan tâm chú trọng từ khâu khai thác, đ ến khâu giám định và bồi thường. Thứ hai, nâng cao công tác giám định và bồi thường tổn thất Hiện nay số vụ tổn thất càng ngày càng tăng theo số lượng hợp đồng do đó làm tăng chi phí giám định, để hạn chế điều này một mặt các công ty cẩn phải không ngừng đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ giám định, mặt khác nên đ ể chuyên môn hóa khâu giám định có như vậy thì mới có thể đi sâu nghiên cứu và chuyên môn hóa trong lĩnh vực của mình để giảm bớt chi phí phát sinh và nâng cao chi phí công việc. Bên cạnh đó, công tác bồi thường phụ thuộc rất lớn vào việc triển khai các biện pháp đ ề phòng, hạn ch ế tổn thất và đơn giản hóa các thủ tục trong quá trình xét giải quy ết khiếu nại, đòi bồi thường. Vì thế để nâng cao chất lượng công tác này không chỉ cần làm tốt các công tác trên mà phải có những biện pháp ngăn ngừa những gian lận có thể xảy ra trong quá trình khiếu nại đòi bồi thường. Để ngăn ngừa những gian lận có thể xảy ra tổn thất khi xem xét khiếu nại đòi bồi thường tổn thất cần phải xác định rõ các tổn thất. Kinh nghiệm
  20. thực tế của cán bộ là khá quan trọng, bên cạnh đó, công ty nên đề ra những yêu cầu đối với KH về tinh thần trung thực cũng như thiện chí khi ký kết hợp đ ồng đặc bi ệt là đ ối với những khách hàng mới. Nếu họ vi phạm thì phải có thể xử lý theo mức đ ộ nặng nhẹ khác nhau. Có thực hiện được như trên thì mới đạt hiệu quả thiết thực trong việc ngăn ngừa gian lận trong bảo hiểm hàng hóa XNK. Thứ ba, đẩy mạnh công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Với những đặc điểm của mình, vận tải đường biển thường gặp phải rất nhiều rủi ro bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì thế, để công tác đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả thì công tác này cần được thực hiện ngay từ khi xếp hàng lên tàu và tiếp tục duy trì trong suốt hành trình cho đến khi dỡ hàng tại cảng đến. Để đề phòng tổn thất có thể xảy ra, các công ty nên chỉ định một công ty khác của bảo hiểm tại bến cảng hoặc thuộc đơn vị chuyên trách tiến hành quá trình bốc xếp hàng lên, xuống tàu nhằm ngăn chặn những công nhân bốc xếp không làm đúng quy cách hoặc dùng phương tiện không thích hợp trong việc bốc xếp hàng hóa từ đó hạn chế được số vụ bồi thường tổn thất. Ngoài ra công ty cũng cần chú ý tham mưu cho KH về các mặt: điều kiện BH tốt nhất, chất lượng hàng, bao bì đóng gói, điều kiện bốc dỡ, tình trạng tàu, tình trạng tài chính của tàu… Thứ tư, hoàn thiện công tác phòng chống trục lợi bảo hiểm Xét một cách toàn diện, đây là một trong những biện pháp không tác động trực tiếp đến việc mở rộng bảo hiểm hàng hóa trong xuất nhập khẩu nhưng lại tối cần thiết để giảm thiểu các rủi ro cho các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như phòng tránh được rủi ro đạo đức xuất phát từ cả phía khách hàng lẫn các nhân viên bảo hiểm. Do đó, hoàn thiện được công tác phòng chống trục lợi bảo hiểm thông qua các cơ chế giám sát chặt chẽ và thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng bảo hiểm sẽ gián tiếp hỗ trợ cho các doanh nghiệp bảo hiểm phát triển và hỗ trợ bảo hiểm hàng hóa trong xuất nhập khẩu phát triển hơn. Thứ năm, các giải pháp hỗ trợ khác Ngoài các giải pháp liên quan trực tiếp tới quy trình thực hiện bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, nhóm nghiên cứu cho rằng những công tác về nhân sự, đào tạo cán bộ hay mở rộng mạng lưới kinh doanh cũng cực kỳ cần thiết. Con người là trung tâm của mọi sự phát triển, con người vừa là mục đích vừa là động lực cho sự phát triển. Một doanh nghiệp muốn có sự phát triển bền vững thì vấn đề cần phải quan tâm hàng đầu là công tác đào tạo và tuyển dụng nguồn nhân lực. Bảo hiểm là ngành kinh doanh dịch vụ đặc biệt, đòi hỏi những nhân viên làm trong lĩnh v ực
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0