Bài tiểu luận: Từ láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu
lượt xem 21
download
Bài tiểu luận đề tài Từ láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu được nghiên cứu với các nội dung: Cơ sở khoa học của đề tài và vấn đề có liên quan, những đóng góp về mặt ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Đình Chiểu qua việc sử dụng từ láy. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài tiểu luận: Từ láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA: KHOA HỌC – XÃ HỘI BÀI TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI: TỪ LÁY TRONG THƠ VĂN CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Nga Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55 MSSV: DQB 06130015
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu MỤC LỤC SVTH: Nguyễn Thị Hoài 2 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Láy là một phương thức cấu tạo từ quan trọng của tiếng việt. Trong h ệ thống từ vựng Tiếng Việt từ láy chiếm một số lượng phong phú. Mấy thập kỷ qua, từ láy Tiếng Việt luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước bởi tính đa diện, phức tạp nhưng cũng đầy lý thú của nó. Trong nền văn học Việt Nam đã có nhiều tác phẩm lớn được tìm hiểu về giá trị của lớp từ láy như: “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi; “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du; Một số khúc ngâm thế kỷ XIX; Các tác phẩm thơ nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, thơ nôm Nguyễn Khuyến, thơ Tú Xương, thơ Xuân Diệu, Thơ Tố Hữu...Và cũng không phải ngẫu nhiên mà em chọn tác gia Nguyễn Đình Chiểu làm đối tượng nghiên cứu. Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác gia lớn của nền văn học Việt Nam cận đại, một tấm gương cao cả trong quan hệ đời sống hằng ngày cũng như btrong quan hệ với dân với nước. Nói đến Nguyễn Đình Chiểu là nói dến một cây bút có sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa văn và người,giữa sống và viết. Tiếp cận với Nguyễn Đình Chiểu là tiếp cận với lá cờ đầu của văn thơ yêu nươc chống pháp cuối thế kỷ XIX, một cây bút Nam Bộ tiêu biểu và một sự nghiệp văn thơ chở đạo cứu đời, một thứ văn trữ tình đạo đức có ảnh hưởng to lớn đối với đời sống tinh thần dân tộc, đặc biệt là nhân dân nam bộ. Đúng như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nói “đời sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng văn học, nghệ thuật, nêu cao sức mạnh của người chiến sĩ trên mặt trật văn hoá và tư tưởng”. Vì vậy nghiên cứu về vấn đề ngôn ngữ văn chương của ông là một việc làm có ý nghĩa. Đối với chương trình văn học thuộc phạm vi nhà trường ở mọi cấp học về thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu được đưa vào giảng dạy với số lượng kiến thức tương đối lớn.Tuy nhiên từ trươc đến nay việc giảng dạy trong nhà trường cũng như các sách dành cho nghiên cứu giảng dạy đặc điểm ngôn ngữ văn chương của Nguyển Đình Chiểu cũng chưa thưc sự quan tâm, chưa khai SVTH: Nguyễn Thị Hoài 3 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu thác và thấy hết được giá trị nghệ thuật, nét riêng của từ láy cũng như sư đắc dụng của nó để tạo nên phong cách văn chương Nguyễn Đình Chiểu. Vì lẽ đó em đã chọn đề tài “từ láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu” để tìm hiểu với hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ giúp em nhìn nhận mộtcách toàn diện hơn, đầy đủ hơn về sự phát triển của ngôn ngữ văn học, về sự phong phú đa đang dạng và khả năng biểu đạt tinh tế, chính xác linh hoạt của lớp từ láy Tiếng Việt. Đồng thời góp phần vào việc hỗ trợ giảng dạy sau này cho bản thân em. 2.Lịch sử vấn đề. Trong lĩnh vực ngôn ngữ học việc nghiên cứu về từ láy Tiếng Việt đã được các tác giả như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Tuệ, Hoàng Văn Hành, Đái Xuân Ninh, Hà Quang Năng, Hoàng Cao Cương, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thiện Giáp, Phi Tuyết Hinh, Đào Thản, Nguyễn Thị Hai, Hữu Đạt, Nguyễn Đức Tồn,...Chú ý nghiên cứu về đặc điểm như: Đặc điểm cấu tạo, đặc trưng ngữ nghĩa, giá trị biểu trưng, giá trị gợi tả âm thanh, hình ảnh, giá trị biểu cảm của từ láy. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu bao gồm: Các sách nghiên cứu về Tiếng Việt trong đó có từ láy, những chuyên luận về từ láy các tác phẩm là các bài nghiên cứu trên tạp chí. Có thể kể đến như: Cách sử lí những hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ của Đỗ Hữu Châu in trong tạpchí số 1,1971; Trường từ vựng ngữ nghĩa và việc dùng từ ngữ trong các tác phẩm nghệ thuật củaĐỗ Hữu Châu đăng trong tạp chí số 3,1974; Từ láy trong phương ngữ Nam Bộ của Trần thị Ngọc Lang in trong tạp chí ngôn ngữ số 3,1992; từ láy trong Tiếng Việt và sự cần thiết phải nhận diện nó của Phạm Văn Hoàng đăng trong tạp chí ngôn ngữ số 4,1985... cũng có một số đề tài chuyên nghiên cứu về vấn đề từ láy trong các tác phẩm Việt Nam như: “Hệ thống từ láy Tiếng Việt trong một số khúc ngâm thế kỷ XIX luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hường ĐHSP Hà Nội (2004); Tìm hiểu giá trị từ áy trong sử dụng (khảo sát qua thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương )” luận văn thạc sĩ ngữ văn của Nguyễn Thị Thu Hương ĐHSP Hà Nội;... Nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu ngoài học giả pháp thì 50 năm sau ngày mất của ông,năm 1938, Phạm Văn Hùm là người Việt Nam đầu tiên đứng ở góc độ khoa học đã lí giải mối quan hệ giữa sáng tác của Nguyễn SVTH: Nguyễn Thị Hoài 4 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Đình chiểu với cuộc đời của ông. Trong những dịp kỷ niệm ngày mất của nhà thơ,75 năm,150 năm đã có rất nhiều bài nghiên cứu trong đó có các ngôn ngữ văn chương có thể kể đến: để có một văn bản “Lục vân Tiên” gần với nguyên tác hơn của Lê Hữu in trong văn nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh số 22, ngày 271998; Bài viết của Bùi Đức Tịnh in trong cuốn: Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm, nhà xuất bản giáo dục,1998; Vài nét về từng phương ngôn trong ngôn ngữ Nguyễn Đình Chiểu của Nguyễn Công Đức;... Qua các công trình tiêu biểu nói trên cũng như một số luận khảo cứu sau đó cho chúng ta thấy việc nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu ngày càng đươc mở rộng và đào sâu trên cơ sở tư liệu về nhiều mặt. Em nghĩ công việc nghiên cứu về ngôn ngữ thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu vẫn cần được tiếp tục đề tài này của em cũng là một cố gắng theo hướng đó. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 3.1. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận này là từ láy và việc sử dụng nó trong một số sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. 3.2.Phạm vi nghiên cứu. Tiểu luận tập trung nghiên cứu đặc điểm từ láy ở các mặt cấu trúc, ngữ nghĩa và giá trị sử dụng của chúng trong một số tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu. 4. Phương pháp nghiên cứu. Trong tiểu luận này em sử dụng một số phương pháp sau đây: + Phương pháp thống kê, phân loại. + Phương pháp phân tích ngôn từ nghệ thuật. + Phương pháp đối chiếu, so sánh. 5. Đóng góp của đề tài. + Góp phần nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa, giá trị sử dụng của một lớp từ khi tham gia vào cac văn bản cụ thể, để thấy rõ tài năng nét riêng của tác giả văn học nói chung và Nguyễn Đình Chiểu nói riêng trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ. 6. Cấu trúc tiểu luận. Ngoài phần mở đầu, phần kết luận thì tiểu luận gồm 3 chương với những nội dung chính sau: SVTH: Nguyễn Thị Hoài 5 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Chương I: Cơ sở khoa học của đề tài và vấn đề có liên quan. Chương II: Những đóng góp về mặt ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Đình Chiểu qua việc sử dụng từ láy. SVTH: Nguyễn Thị Hoài 6 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN 1.Các khái niệm và các quan niệm xung quanh vấn đề từ láy. Láy là một phương thức cấu tạo từ quan trọng của Tiếng Việt.Nói đến từ láy là nói đến một lớp từ có giá trị đặc biệt bởi kha năng gợi tả,gợi cảm, tạo âm thanh hình ảnh cao của nó.Trong Việt ngữ học đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, đồng thời cũng có rất nhiều cách lý giải khác nhau về hiện tượng láy và từ láy. Ở đây em sẽ nêu ra một số khái niệm tiêu biểu với những quan niệm của các nhà nghiên cứu về hiện tượng láy Tiếng Việt. Đỗ Hữu Châu định nghĩa: “từ láy là những từ đươợc cấu tạo theo phương thức láy, đó là phương thức lặp lại toàn bộ hay bộ phận hình thức âm tiết(với những thanh điệu giữ nguyên hay biến đổi theo quy tắc biến thanh, tức là quy tắc thanh điệu, biến đổi theo hai nhóm, nhóm cao: thanh hỏi, thanh sắc, thanh ngang à nhóm thấp: thanh huyền, thanh ngã, thanh nặng ) của một hình vị hay đơn vị có nghĩa”. Nguyễn Thiện Giáp nêu: “ ngữ láy âm là những cụm từ được hình thành do sự lăp lại hoàn toàn hay lặp lại có kèm theo sự biến đổi ngữ âm nào đó của từ đã có. Đăc trưng ngữ nghĩa nỗi bật cuả ngữ láy âm là giá trị gợi tả(biểu cảm, mô phỏng, tượng hình, tượng thanh )” Hoàng Văn Hành quan niệm: Từ láy, nói chung, là từ được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những quy tắc nhất định, sao cho quan hệ giữa các tiếng trong từ vừa điệp, vừa đối, vừa hài hoà với nhau về âm và về nghĩa, có giá trị biểu trưng hoá”. Hồ Lê nêu: “ từ lắp láy là một từ kháđặc biệt, xét về mặt cấu tạo. Nó có tính chất của từ đơn; Nó được tạo ra theo phương thức lắp láy. Nhưng không ít trường hợp, quan hệ lắp láy về mặt ngữ nghĩa lại không được hiện ra một cách rõ ràng”. Nguyễn Nguyễn Trứ lại cho rằng: “Từ láy đôi trong tiếng việt hiện đại là một loaại từ đơn trong đó có sự láy lại hoặc là toàn bộ âm tiết, hoăc là phần phụ âm đầu hay phần vần trong kết cấu âm tiết của hai yếu tố tạo SVTH: Nguyễn Thị Hoài 7 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu thành. Giữa hai âm tiết thường có mối quan hệ thanh điệu theo những quy luật nhất định”. 2. Sự phân loại từ láy trong tiếng việt. 2.1. Quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố trong từ láy. Đa số các nhà nghiên cứu đều quan niệm từ láy như một đơn vị từ vựng gồm hai thành tố: Thành tố gốc và thành tố láy, trong đó thành tố gốc sản sinh ra thành tố láy, còn thành tố láy chính là thành tố gốc bị biến dạng đi ít nhiều theo những quy tắc nhất định trong quá trình láy. Ví dụ: Đỏ (thành tố gốc) đo đỏ (đo là thành tố láy) Rối (thành tố gốc) bối rối (bối là thành tố láy) “ phương thức cấu tạo nên các từ phức theo cách tạo ra hình vị láy là hình vị cơ sở”.Trong tiếng việt có những tiếng có giá trị như những hình vị, gọi là tiếnghình vị được dùng làm cơ sở để mà nhân đôi gọi là tiếng gốc, còn tiếng xuất hiện trong quá trình nhân đôi ấy gọi là tiếng láy. Trong tiếng việt có rất nhiều từ láy mà trong thành phần cấu tạo dễ dàng xác định được những yếu tố tự thân có nghĩa, có khả năng hoạt động độc lập như một từ. Đó chính là những thành tố gốc hay hình vị cơ sở tạo nên các từ láy kiểu như: Lành lặn, nhỏ nhen, nho nhen, bập bồng, đẹp đẽ, sáng sủa, vội vàng... Bên cạnh đó tiếng việt còn có rất nhiều từ láy, mà trên quan điểm đồng đại, rất khó và dường như không xác định được thành tố gốc. Đó là những từ láy kiểu: đủng đỉnh, bâng khuâng, thình lình,băn khoăn, mang máng...Lý giải của các nhà nghiên cứu về vấn đề này không giống nhau: chỉ thừa nhận các từ láy được tạo ra bằng phương thức láy một tín hiệu đơn âm tiết cơ bản (tức là một tín hiệu có ý nghĩa độc lập, hoặc có khi là một tín hiệu có ý nghĩa nhưng không có tính độc lập) là những từ láy chân chính. Quan niệm này được thể hiện trong “giáo trình việt ngữ” tập I và tập II.Tuy nhiên trong cả hai giáo trình các tác giả đều thừa nhận trong thực tế tồn tại khá nhiều trường hợp rất khó xác định hình thức cơ bản như: chạng vạng, la đà, lê thê...và không được coi là những từ láy chân chính những kiểu như: đu đủ, bìm bịp... SVTH: Nguyễn Thị Hoài 8 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Hoàng Văn Hành lý giải: “Coi việc không xác định được thành tố gốc của từ láy là kết quả của quá trình mở nghĩa của từ gốc”. Tác giả chia từ láy thành hai loại: từ láy có lý do và từ láy không lý do. Từ láy có lý do là từ láy mà nghĩa của nó được xác định nhờ cấu trúc của bản thân nó, Ví dụ: chín chắn, có thể giải thích được trên cơ sở nghĩa của từ tố chính là khuôn vần [ch]ắn. Từ láy không có lý do là từ láy mà nghĩa của nó không thể giải thích được băng cấu trúc bản thân nó. Trong sự vận dụng khái niệm từ láy để thực hiện dề tài này, em có thể khái quát về từ láy theo cách hiểu sau: “từ láy là từ đa âm tiết được cấu tạo theo phương thức láy, trong đó quan hệ giữa các âm tiết phải thể hiên được sự hoà phối và lặp lại về mặt ngữ âm, có giá trị biểu trưng và sắc thái hoá về ngữ nghĩa”. 2.2. Phân loại từ láy về mặt cấu tạo. Từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là bốn tiếng và còn có loại ba tiếng. Tuy nhiên, loại đầu tiên là loại tiêu biểu nhất cho từ láy và phương thức láy của tiếng Việt. Một từ sẽ được coi là từ láy khi các yếu tố cấu tạo nên chúng có thành phần ngữ âm được lặp lại; nhưng vừa có lặp (còn gọi là điệp) vừa có biến đổi (còn gọi là đối). Ví dụ: đỏ đắn: điệp ở âm đầu, đối ở phần vần. Vì thế, nếu chỉ có điệp mà không có đối (chẳng hạn như: người người, nhà nhà, ngành ngành... thì ta có dạng láy của từ chứ không phải là từ láy. Kết hợp tiêu chí về số lượng tiếng với cách láy, có thể phân loại từ láy như sau: Từ láy gồm hai tiếng (cũng gọi là từ láy đôi) có các dạng cấu tạo sau: Láy hoàn toàn. Gọi là láy hoàn toàn nhưng thực ra bộ mặt ngữ âm của hai thành tố (hai tiếng) không hoàn toàn trùng khít nhau, chỉ có điều là phần đối của chúng rất nhỏ khiến người ta vẫn nhận ra được hình dạng của yếu tố gốc trong yếu tố được gọi là yếu tố láy. Có thể chia các từ láy hoàn toàn thành ba lớp nhỏ hơn: + Lớp những từ láy hoàn toàn, chỉ đối nhau ở trọng âm (một trong hai yếu tố được nói nhấn mạnh hoặc kéo dài). Ví dụ: cào cào, ba ba, rề rề, lăm lăm, khăng khăng, kìn kìn, lù lù, lâng lâng, đùng đùng, hây hây, gườm gườm, SVTH: Nguyễn Thị Hoài 9 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu đăm đăm... + Lớp từ láy hoàn toàn đối nhau ở thanh điệu. Nguyên tắc đối thanh điệu ở đây là: thanh bằng đối với thanh trắc trong mỗi nhóm cùng âm vực; bằng đứng trước, trắc đứng sau. Ví dụ: đo đỏ, ra rả, hây hẩy, hau háu, hơ hớ, ngay ngáy, phơi phới, sừng sững, chồm chỗm, vành vạnh, lừng lững, hơn hớn, càu cạu, thoang thoảng... Tuy nhiên, ở đây vẫn còn một số ngoại lệ như: cỏn con, dửng dưng, mảy may, cuống cuồng... + Lớp từ láy hoàn toàn, đối ở phần vần nhờ sự chuyển đổi âm cuối theo quy luật dị hoá: m – p ng – c n – t nh – ch Ví dụ: ăm ắp, chiêm chiếp, cầm cập, lôm lốp, hèm hẹp... chan chát, khin khít, sồn sột, thon thót, ngùn ngụt... khang khác, vằng vặc, rừng rực, phưng phức, phăng phắc... anh ách, chênh chếch, đành đạch, phành phạch, rinh rích... Thanh điệu của các yếu tố trong mỗi từ vẫn tuân theo quy luật của lớp từ láy hoàn toàn đối nhau ở thanh điệu. Láy bộ phận. Những từ láy nào chỉ có điệp ở phần âm đầu, hoặc điệp ở phần vần thì được gọi là láy bộ phận. Căn cứ vào đó, có thể chia từ láy bộ phận thành hai lớp. + Lớp từ láy (điệp) âm đầu, đối ở phần vần. Ví dụ như:bập bềnh, cò kè, ho he, thơ thẩn, đẹp đẽ, làm lụng, ngơ ngác, say sưa, xoắn xuýt, vồ vập, hấp háy... Trong lớp này, có những từ xét về mặt lịch sử vốn không phải là từ láy, nhưng vì quan hệ về nghĩa giữa các yếu tố của chúng mất dần đi, làm cho quan hệ ngữ âm ngẫu nhiên giữa các yếu tố đó nổi lên hàng đầu, và hiện giờ người Việt nhất loạt coi chúng là từ láy. Ví dụ: chùa chiền, tuổi tác, giữ gìn, sân sướng... Nghĩa của những từ như vậy được tổ chức theo kiểu của các từ tre pheo, chó má, đường sá, xe cộ, áo xống... SVTH: Nguyễn Thị Hoài 10 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Trong khi xét sự đối vần ở đây, cũng cần lưu ý tới hiện tượng đối ứng ở âm chính. Hiện tượng này không phải là quy luật toàn thể, nhưng đều đặn ở một số nhóm từ. u đối với i: cũ kĩ, hú hí, xù xì, tủm tỉm, mũm mĩm... ô – ê: ngô nghê, xồ xề, hổn hển, thỗn thện... o – e: ho he, vo ve, khò khè, võ vẽ, nhỏ nhẻ... i – a: hỉ hả, rỉ rả, xí xoá, hí hoáy... u – ă: tung tăng, hung hăng, vùng vằng, thủng thẳng... u – ơ: ngu ngơ, rù rờ, khù khờ, cũn cỡn... ô – a: bỗ bã, hốc hác, mộc mạc, ngột ngạt... ê – a: nghê nga, khề khà, rề rà, xuề xoà, hể hả... + Lớp từ láy (điệp) phần vần, đối ở âm đầu. Ví dụ như: bâng khuâng, bơ vơ, lừng chừng, lù đù, lã chã, càu nhàu, lỗ mỗ, thao láo, hấp tấp, tủn mủn, lụp xụp, lảng vảng, lúng túng, co ro, lan man, làng nhàng... Gần nửa số lượng từ láy vần có âm đầu của tiếng thứ nhất là âm / l / và phần lớn chúng có chứa một tiếng còn rõ nghĩa. Tuy vậy, vẫn có không ít từ mà cả hai tiếng đều không rõ nghĩa, ví dụ: bải hoải, hấp tấp, lập cập, bầy hầy, thình lình, liểng xiểng, xớ rớ, lấc cấc... Từ láy ba và bốn tiếng được cấu tạo thông qua cơ chế cấu tạo từ láy hai tiếng. Tuy vậy, từ láy ba tiếng dựa trên cơ chế láy hoàn toàn, còn từ láy bốn lại dựa trên cơ chế láy bộ phận là chủ yếu. Ví dụ: khít khìn khịt, sát sàn sạt, dửng dừng dưng, trơ trờ trờ... đủng đà đủng đỉnh, lếch tha lếch thếch, linh tinh lang tang, vội vội vàng vàng... Trên thực tế, số lượng từ láy ba tiếng và bốn tiếng không nhiều. Mặt khác, có thể coi chúng chỉ là hệ quả, là bước tiếp theo trên cơ chế láy của từ láy hai tiếng mà thôi. Từ láy ba là láy toàn bộ kèm theo sự biến thanh và biến vần (ví dụ: nhũn – nhũn nhùn nhùn; xốp – xốp xồm xộp...). Nhiều khi ta gặp những "cặp bài trùng" giữa từ láy hai tiếng và ba tiếng như: sát sạt – sát sàn sạt; trụi lủi – trụi thui lủi; nhũn nhùn – nhũn nhùn nhùn; khét lẹt – khét lèn lẹt... Từ láy bốn tiếng thì tình hình cấu tạo có đa tạp hơn. Có thể là: "Nhân đôi" từ láy hai tiếng nhưng biến vần của tiếng thứ hai thành e, a, ơ, à cho phù hợp, hài hoà về âm vực giữa các vần, các thanh: SVTH: Nguyễn Thị Hoài 11 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu vớ vớ va vớ → vẩn vẩn lề mà lề lề mề → mề... "Nhân đôi" từ láy hai tiếng nhưng biến đổi sao cho hai tiếng đầu có thanh điệu thuộc âm vực cao, hai tiếng sau mang thanh điệu âm vực thấp: bồi hồi – bổi hổi bồi hồi. "Nhân đôi" từng tiếng của từ láy hai tiếng: hùng hổ → hùng hùng hổ hổ vội vội vội vàng → vàng vàng... Thực hiện cách thứ ba vừa nêu, nhưng biến âm đầu của tiếng thứ nhất và thứ ba thành /l/: nhồm lồm nhồm loàm → nhoàm nhoàm thơ thẩn → lơ thơ lẩn thẩn... Ngoài ra, còn có một số từ khác không cấu tạo theo các cách nêu trên; hoặc từ một từ gốc có thể cấu tạo hai từ láy bốn tiếng chứ không phải chỉ có một. Chẳng hạn: bù lu bù loa; bông lông ba la... hoặc bắng nhắng – bắng nha bắng nhắng; bắng nhắng bặng bặng nhặng... Sự biểu đạt ý nghĩa của từ láy rất phức tạp và rất thú vị, nhất là ở nhiều nhóm từ cùng có khuôn cấu tạo lại có thể có những điểm giống nhau nào đó về nghĩa. 3. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) tên tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ. Sau khi bị mù, ông còn lấy thêm hiệu là Hối Trai. Cha là Nguyễn Đình Huy, quê Thừa Thiên. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người Gia Định. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho giáo nên từ nhỏ Nguyễn Đình Chiểu đã được học chữ nghĩa thánh hiền. Năm 1843, ông đỗ tú tài tại trường thi Gia Định. Năm 1846, ông ra Huế học để chuẩn bị thi tiếp. Đến năm 1849, trước khi vào trường thi thì ông nhận được tin mẹ mất, đành bỏ dở để trở về Nam chịu tang. Trên đường về, phần do vất vả, bệnh tật, phần do thương mẹ, Nguy ễn SVTH: Nguyễn Thị Hoài 12 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Đình Chiểu khóc đến nỗi bị đau mắt nặng rồi mù. Không khuất phục trước số phận bất hạnh, ông mở trường dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho dân nghèo; đồng thời sáng tác thơ ca để bày tỏ lòng yêu nước và thái độ căm thù quân xâm lược cùng bè lũ phong kiến bán nước. Nguyễn Đình Chiểu đã giữ vững khí tiết của một nhà Nho chân chính và tấm lòng son sắt với nước với dân cho đến hơi thở cuối cùng. Nguyễn Đình Chiểu gặp rất nhiều bất hạnh trong cuộc đời riêng, ở tuổi thanh xuân, ông đã từng ôm ấp lí tưởng cao đẹp trí quân trạch dân, tức là phò vua giúp nước để thỏa chí nam nhi. Nhưng những tai ương dồn dập trút xuống khiến ông không thể thực hiện được lí tưởng ấy. Mẹ mất, đường công danh dang dở, vợ sắp cưới bội ước, bản thân lại mù lòa… Một con người bình thường khó có thể đứng vững trước ngần ấy chuyện không may liên tục xảy ra trong một thời gian ngắn, nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã vượt qua tất cả bằng một nghị lực phi thường, bằng tình yêu cuộc sống mãnh liệt. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã khắc sâu, tô đậm hình ảnh những con người lao động mộc mạc, chân chất mà ông hết lòng yêu thương, mến phục. Hình ảnh người dân Nam Bộ trọng nghĩa khinh tài kết tinh trong nhân vật Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Hớn Minh, Tử Trực…, trong nhân vật ông Ngư, ông Tiều mà ai ai cũng biết. Lục Vân Tiên dũng cảm, nghĩa hiệp: Làm ơn há dễ trông người trả ơn. Ông Ngư hết lòng cứu người trong Cơn hoạn nạn: Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn. Kiều Nguyệt Nga tiết hạnh, trung trinh… Đó là những nhân vật tư tưởng của tác giả mà cũng là hình tượng được dân chúng Nam Bộ thời ấy tôn thờ. Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống tinh thần cộng đồng là vì lẽ đó. Nội dung thấm đẫm tư tưởng nhân nghĩa của truyện khiến nó đã trở thành kinh nhật tụng của đồng bào Nam Bộ. Đi đâu cũng thấy hiện tượng mọi người thích thú nghe nói thơ, kể thơ Vân Tiên, bởi trong đó có biết bao bài học thấm thía về đạo lí. Đằng sau câu chuyện tưởng như minh hoạ cho những tư tưởng, triết lí đậm chất Nho giáo ấy chính là những bài học đạo đức đề cao tình nghĩa vợ chồng, cha con, bè bạn, tình thương yêu, cưu mang, đùm bọc giữa người với người. Đó là đạo lí truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã có tự ngàn đời. Khi thực dân Pháp tấn công lấn chiếm Lục tỉnh Nam Kì thì tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã chuyển biến thành tư tưởng yêu nước SVTH: Nguyễn Thị Hoài 13 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chống xâm lăng. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu thơ tâm huyết để bày tỏ quan điểm của mình: Thà đui mà giữ đạo nhà, Còn hơn có mắt ông cha không thờ. Dù đui mà khỏi danh nhơ, Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình. Dù đui mà đặng trọn mình, Còn hơn có mắt đổi hình tóc râu. Thái độ kiên quyểt bất hợp tác với kẻ thù của ông càng làm cho nhân dân tin tưởng và khâm phục. Điều đáng trân trọng ở ông là cả tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng yêu nước đều hướng tới nhân dân lao động. Qua một số tác phẩm nổi tiếng như Chạy Tây, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư Tiều y thuật vấn đáp… Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện rất rõ lập trường, quan điểm của mình là đứng hẳn về phía nhân dân để phê phán và lên án triều đình nhà Nguyễn hèn nhát đầu hàng, bán rẻ giang sơn gấm vóc của tổ tiên để lại, quay lưng ngoảnh mặt làm ngơ trước tình cảnh lầm than của dân đen, con đỏ: Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây, Một bàn cờ thế phút sa tay. Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy, Mất ổ bầy chim dáo dác bay. Bến Nghé của tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây. Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng ? Nỡ để dân đen mắc nạn này! (Chạy Tây) Trong bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, nhà thơ căm hận gọi lũ xâm lược là quân tả đạo, đi tới đâu gieo rắc mùi tinh chiên tanh hôi và thói mọi đến đó. Dân chúng phẫn nộ muốn xông ra ăn gan, cắn cổ quân thù cho hả dạ. Thái độ ấy hoàn toàn đối lập với thái độ thờ ơ vô trách nhiệm của phần lớn vua quan nhà Nguyễn. Giặc Pháp chiếm nước ta đã ba năm và đánh chiếm Nam Bộ đã hơn mười tháng, dân trông tin quan như trời hạn trông mưa, chờ đợi đến mỏi SVTH: Nguyễn Thị Hoài 14 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mòn mà vẫn không thấy triều đình có phản ứng gì. Yêu nước, căm thù quân xâm lược, những người dân ấp dân lân vốn côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó đã tự nguyện đứng lên làm nhiệm vụ trọng đại chém rắn, đuổi hươu, đoạn kình, bộ hổ để cứu nước, cứu nhà. Từ mái tranh nghèo, họ xông ra thẳng chiến trường với vũ khí là rơm con cúi, lưỡi dao phay, ngọn tầm vông… những vật dụng quen thuộc trong cuộc sống lao động hằng ngày. Những nghĩa sĩ nông dân tung hoành nơi chiến trận, chẳng đợi ai đòi ai bắt, chẳng sợ tàu thiếc tàu đồng súng nổ. Họ đã làm cho quân giặc khiếp vía kinh hồn. Những vũ khí thô sơ trong tay họ cũng góp phần làm nên chiến thắng: Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia. Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Trong cuộc chiến đấu không cân sức, gần ba chục nghĩa sĩ đã ngã xuống. Cái chết vì nghĩa lớn của họ khiến cho đất trời và lòng người cảm động: Đoài sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ. Điểu an ủi lớn nhất đối với gia đình họ là chồng con mình đã sống và chết đúng theo quan niệm chết vinh còn hơn sống nhục của ông cha từ bao đời nay. Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh: Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì nghe càng thêm hổ. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ. Ngòi bút thấm đẫm cảm xúc mến yêu, kính phục của Nguyễn Đình Chiểu đã vẽ nên bức tranh công đồn ngất trời tráng khí, đã dựng nên tượng đài sừng sững về người nghĩa sĩ nông dân yêu nước muôn thuở sáng ngời. Tinh thần tự nguyện xả thân cứu nước của họ góp phần khẳng định truyền thống anh dũng, bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Với những cống hiến to lớn cho dân tộc, cho nền văn học nước nhà, Nguyễn Đình Chiểu mãi mãi xứng đáng với niềm tin yêu, kính phục của nhân dân dành cho ông. Nhận xét về Nguyễn Đình Chiểu, nhà lí luận phê bình văn học Hoài Thanh viết: Sự gắn bó sâu xa với quần chúng là đặc điểm nổi bật trong cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu, là nhân tố chủ yếu đào tạo nên con người, sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. SVTH: Nguyễn Thị Hoài 15 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu SVTH: Nguyễn Thị Hoài 16 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu CHƯƠNG II: ĐÓNG GÓP VỀ MẶT NGÔN NGỮ VĂN CHƯƠNG CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU QUA VIỆC SỬ DỤNG TỪ LÁY 1. Nguyễn Đình Chiểu đối với việc phát triển ngôn ngữ văn chương của dân tộc. Theo cuốn Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu in lần thứ hai, Nxb Văn học Hà Nội1971 thì toàn bộ sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu gồm 29 tác phẩm trừ 6 bài thơ: Thầy thuốc; Câu cá; Đốn củi; Hoàng trùng trập khởi; Ngũ luân tuyệt cú và Thất Kinh Châu là sáu tác phẩm được đưa vào phần phụ lục bởi đây là những tác phẩm còn chưa xác minh rõ có phải là của Nguyễn Đình Chiểu hay của tác giả khác. Nguyễn Đình Chiểu đã kế thừa một di sản văn học dân tộc bằng tiếng Việt vô cùng lớn cả về số lượng và chất lượng. Mặt chủ yếu góp phần làm nên bản sắc riêng, vẻ đẹp độc đáo ở Nguyễn Đình Chiểu là ở chỗ, cùng với tác các tác giả khuyết danh của một loạt truyện Nôm giàu giá trị, Nguyễn Đình Chiểu đã làm cho ngôn ngữ của văn học gần gũi với hiện thực hơn, gần gũi với lời ăn tiếng nói, của quần chúng nhân dân hơn. Hồng Dân có nhận định như sau: Cái đẹp của ngôn từ trong cung oán ngâm khúc, trong Truyện Kiều… có phần giống cái đẹp của cây đa, cây đề được chăm chút gọt tỉa khéo léo trong vườn thượng uyển, trong công viên, còn cái đẹp của ngôn từ trong loạt truyện Nôm, mà ngày nay vẫn chưa tìm ra tên tác giả, cũng như cái đẹp của ngôn từ trong văn thơ Nguyễn Đình Chiểu lại có cái đẹp của cây đa, cây đề mọc ở đầu làng, ở giữa cánh đồng, ở một bến nước, bờ sông nào đó của thôn quê Việt Nam, mộc mạc và bình dị, chân thực và hồn nhiên lạ thường Tính bình dị, mộc mạc, chân thực trong ngôn ngữ của Đồ Chiểu là đặc điểm xuyên suốt trong toàn bộ sáng tác của ông. Rồi cũng chính những từ ngữ hết sức dung dị, chân chất, mộc mạc ấy lại được Đồ Chiểu đưa vào những áng thơ văn yêu nước chống Pháp làm nên một hơi thở mới của đời sống hiện thực trong giai đoạn chống Pháp, một thời kỳ “khổ nhục nhưng vĩ đại” của lịch sử Việt Nam. Lịch sử ấy đã được ghi lại trong những áng văn thơ bằng chính chất liệu của đời sống chiến đấu dũng cảm, trần trụi, gân guốc của nhân dân với ngôn ngữ hàng ngày. Vì vậy đọc thơ văn Nguyễn Đình SVTH: Nguyễn Thị Hoài 17 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Chiểu có thể thấy ngôn ngữ trong các tác phẩm của ông không hề xa lạ với ngôn ngữ trong nền văn học hiện thực của chúng ta ngày nay. “Đó là dấu hiệu của một thi pháp nghệ thuật mới sẽ được tiếp tục phát triển sau này” Theo đánh giá của Giáo sư Nguyễn Đình Chú thì thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã đạt tới thành tựu chung trong lịch sử văn học nước nhà cụ thể là: Ở thể loại thơ luật đường, Nguyễn Đình Chiểu còn đứng sau nhiều tác giả như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… nhưng một đôi bài của Đồ Chiểu (Xúc cảnh, Làm thuốc…) lại vẫn xứng đáng xếp vào hàng những bài thơ luật Đường hay nhất của thơ luật Đường nước ta. Về truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu chỉ đứng hàng sau Truyện Kiều của Nguyễn Du. Riêng về văn tế, tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu là số một trong kho tàng văn tế Việt Nam .Với những thành tựu đó, ông thực sự là nhà văn tiêu biểu cho dòng văn chương đạo đức, lá cờ đầu của văn thơ chống ngoại xâm thời Pháp thuộc. Cùng với các tác gia tiêu biểu của thế hệ trước: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… Nguyễn Đình Chiểu là người đã có những đóng góp to lớn trong việc tạo nên những bước phát triển mới cho ngôn ngữ văn chương tiếng Việt. 2. Hiệu quả đặc biệt của từ láy trong tư duy hình tượng Để chiếm lĩnh đối tượng của mình, trong lĩnh vực văn nghệ hình thành một kiểu tư duy đặc biệt gọi là tư duy nghệ thuật. Các nhà văn xây dựng hình tượng để tái hiện cuộc sống thông qua ngôn từ, lấy ngôn từ làm chất liệu mà từ láy là một trong những chất liệu đặc biệt. Chúng ta có thể thấy rõ vai trò của từ láy trong tư duy nghệ thuật qua sự so sánh về cách miêu tả hình ảnh cánh cò trong hai câu thơ sau: Lạc hà dữ cô lộ tề phi Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc (Vương Bột) Mây biếc về đâu bay gấp gấp Con cò trên ruộng cánh phân vân (Xuân Diệu) Cả hai câu thơ của hai thi sỹ đều là cảnh thu tuyệt đẹp, với những cánh cò, làn nước mùa thu, bầu trời thu trong xanh, với mây biếc. Điều dễ ràng SVTH: Nguyễn Thị Hoài 18 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu nhận thấy ở đây là cả hai nhà thơ này đều miêu tả cánh cò, nhưng trong nghệ thuật vận dụng ngôn từ khác nhau và hiệu quả nghệ thuật tạo ra cũng không như nhau. Hình ảnh cánh cò trong câu thơ của Vương Bột được miêu tả trong một trạng thái tĩnh, lặng lẽ bay với ráng chiều nhưng bằng việc sử dụng từ láy phân vân thì hình ảnh cánh cò trong câu thơ của Xuân Diệu đã trở thành một cánh cò trong một trạng thái động. Người đọc như cảm nhận được nhịp đập, sự vận động trong gân cốt của cánh cò, con cò bay mà không hẳn là bay mà nửa như muốn đậu. Cũng bằng sự vận dụng từ láy mà tất cả những biến thái tinh vi nhất của tự nhiên đã được diễn tả một cách chính xác: Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu Lả lả cành hoang nắng trở chiều (Xuân Diệu) Câu thơ đã hiện ra trước mắt chúng ta một con đường tình với tất cả vẻ xinh xắn, duyên dáng của nó. Con đường “nhỏ nhỏ” chứ không phải là “nhỏ”, gió “xiêu xiêu” mà chưa hẳn đã “xiêu”. Con đường đang dập dìu cùng gió, cành hoang đang lơi lả cùng nắng “lả lả”. Có thể nói rằng với các từ láy hình ảnh con đường đã trở nên đầy tình tứ, mời mọc những bước chân tình ái. Và đây là một bức tranh lao động: Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày… Hình tượng trong câu ca dao trên là cảnh lao động nông nghiệp vất vả, nặng nhọc. Nếu như ở câu lục tác giả dân gian giới thiệu về công việc và thời điểm của công việc thì câu bát nói về sự vất vả, nặng nhọc của công việc đó. Từ láy thánh thót đã tái hiện được hình ảnh người nông dân đang cày đồng, những giọt mồ hôi không phải chỉ là rơi mà là rơi rất nhiều, rơi lien tục, qua từ “thánh thót”. Qua đó tác giả dân gian cũng đã bộc lộ nỗi niềm, sự cảm thông sâu sắc đối với những người nông dân một nắng hai sương vất vả làm ra hạt gạo. Chúng ta cũng có thể thấy rõ giá trị của từ láy trong tư duy hình tượng qua những câu thơ sau của nhà thơ Nguyễn Khuyến: Năm gian nhà cỏ thấp le te Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe SVTH: Nguyễn Thị Hoài 19 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
- Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Lưng giậu phất phơ mầu khói nhạt Làn ao lóng lánh bóng trăng loe… (Thu ẩm) Bức tranh thu được tái hiện qua hình ảnh ngôi nhà, ngõ tối, giậu và bóng trăng. Tuy nhiên ở đoạn thơ trên, người đọc chỉ thực sự cảm nhận được bức tranh thu cụ thể với những nét buồn bao phủ lên cảnh vật, cũng như tâm trạng con người nhờ có các từ láy: le te, lập lòe, phất phơ, lóng lánh. Ngôi nhà năm gian của thi nhân không chỉ được miêu tả là thấp mà là “thấp le te”, có nghĩa là rất thấp, cái mái như úp chụp xuống gợi cho người đọc một cảm giác về sự chật chội, nóng bức. Ngõ tối, đêm sâu được kết hợp với ánh sáng lập lòe của đom đóm càng gợi cho người đọc cảm nhận về ngõ tối của làng quê như sâu hơn, hun hút hơn. Từ phất phơ miêu tả khói bay trên lưng giậu và từ láy lóng lánh miêu tả mặt nước ao với bóng trăng loe… tất cả là điểm nhấn cho một bức tranh thu buồn, mang đầy mầu sắc tâm trạng của tác giả. Tuy nhiên mỗi một nhà văn, nhà thơ, trong mỗi một thời đại khác nhau, sử dụng ngôn từ với một mục đích khác nhau và hiệu quả nghệ thuật đạt được là không như nhau. Tìm hiểu vai trò của từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. 3. Vai trò của từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu 3.1. Từ láy với nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm Với ba truyện thơ Nôm dài, ba bài văn tế và hàng loạt các sáng tác khác như: thơ điếu, hịch, thơ luật Đường, chúng ta thấy thế giới nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu hết sức phong phú, nói như nhà nghiên cứu La Yên thì trong đó “diễu hành cả một nhân loại” . Từ người nông dân nghĩa sỹ, đến vua chúa, nguyên nhung tướng lĩnh, từ ông Ngư, ông Tiều, ông Quán đến tín đồ của các tôn giáo, từ người hàn sỹ đến bọn quan lại sang giàu, cô tiểu thư và tỳ tất, những nhân vật điển hình cho một tính cách sống trong đời sống thực như Bùi Kiệm và những nhân vật là cụ thể hóa một ý niệm trừu tượng như Mộng Thê Triền, Bào Tử Phược… Mỗi nhân vật đều có một vẻ riêng, không trùng lặp. Sự hiện diện của các nhân vật làm cho thế giới nhân vật trong thơ văn Đồ Chiểu hết sức phong phú. Nhưng có thể nói tựu trung lại hình tượng cơ bản, trung tâm được thể hiện rõ nhất trong hai giai đoạn sáng tác của ông SVTH: Nguyễn Thị Hoài 20 Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Thực trạng và giải pháp việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Lào Cai giai đoạn 1998- 2003 và những giải pháp thực hiện quy chế dân chủ ở ba loại hình giai đoạn 2004-2010.
61 p | 851 | 208
-
Bài luận Lập dự án đầu tư thành lập cơ sở sản xuất gạch
28 p | 239 | 84
-
Tiểu luận: Các nguồn nitrat nitrit vào trong thực phẩm
19 p | 415 | 81
-
Bài tiểu luận: Thiết kế trang phục dạ hội cho nữ thanh niên từ 18 đến 25 tuổi lấy cảm hứng từ siêu xe Mazda Furai
39 p | 4547 | 43
-
Đề tài triết học " QUAN ĐIỂM DÂN SINH VÀ TRIẾT LÝ NHÂN SINH HỒ CHÍ MINH "
16 p | 195 | 34
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu quy trình xây dựng cơ sở dữ liệu GIS phục vụ huấn luyện, diễn tập trong quân đội, lấy ví dụ tại khu vực giáp ranh Hà Nội, Hòa Bình
100 p | 61 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Mối quan hệ giữa tính thanh khoản và tỷ suất sinh lợi trên thị trường chứng khoán Việt Nam
75 p | 35 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn