intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Từ láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu

Chia sẻ: Lê Thị Quỳnh Nga | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:32

245
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận đề tài Từ láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu được nghiên cứu với các nội dung: Cơ sở khoa học của đề tài và vấn đề có liên quan, những đóng góp về mặt ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Đình Chiểu qua việc sử dụng từ láy. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Từ láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA: KHOA HỌC – XàHỘI ­­­­­­­­­­ BÀI TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI: TỪ LÁY TRONG THƠ VĂN CỦA  NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU Giảng viên hướng dẫn:  Nguyễn Thị Nga Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hoài Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55 MSSV: DQB 06130015
  2. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu MỤC LỤC SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  2                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  3. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Láy là  một phương thức cấu tạo từ quan trọng của tiếng việt. Trong h ệ  thống từ vựng Tiếng Việt từ láy chiếm một số  lượng phong phú. Mấy thập   kỷ  qua, từ  láy Tiếng Việt luôn là vấn đề  thu hút sự  quan tâm của nhiều nhà  nghiên cứu trong và ngoài nước bởi tính đa diện, phức tạp nhưng cũng đầy lý  thú của nó. Trong nền văn học Việt Nam đã có nhiều tác phẩm lớn được tìm hiểu   về  giá trị  của lớp từ láy như: “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi; “ Truyện   Kiều” của Nguyễn Du; Một số  khúc ngâm thế  kỷ  XIX; Các tác phẩm thơ  nôm truyền tụng của Hồ  Xuân Hương, thơ  nôm Nguyễn Khuyến, thơ  Tú  Xương, thơ Xuân Diệu, Thơ Tố Hữu...Và cũng không phải ngẫu nhiên mà em   chọn tác gia Nguyễn Đình Chiểu làm đối tượng nghiên cứu. Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác gia lớn của nền văn học Việt   Nam cận đại, một tấm gương cao cả trong quan hệ đời sống hằng ngày cũng   như btrong quan hệ với dân với nước. Nói đến Nguyễn Đình Chiểu là nói dến  một   cây   bút   có   sự   thống   nhất   chặt   chẽ   giữa   nói   và   làm,   giữa   văn   và   người,giữa sống và viết. Tiếp cận với Nguyễn Đình Chiểu là tiếp cận với lá cờ  đầu của văn thơ  yêu nươc chống pháp  cuối thế kỷ XIX, một cây bút Nam Bộ tiêu biểu và một   sự  nghiệp văn thơ  chở  đạo cứu đời, một thứ  văn trữ  tình đạo đức có  ảnh  hưởng to lớn đối với đời sống tinh thần dân tộc, đặc biệt là nhân dân nam bộ.   Đúng như  cố  thủ  tướng Phạm Văn Đồng nói “đời sống và sự  nghiệp của  Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị  và tác dụng văn  học, nghệ thuật, nêu cao sức mạnh của người chiến sĩ trên mặt trật văn hoá   và tư tưởng”. Vì vậy nghiên cứu về vấn đề ngôn ngữ văn chương của ông là   một việc làm có ý nghĩa. Đối với chương trình văn học thuộc phạm vi nhà trường ở mọi cấp học   về  thơ  văn của Nguyễn Đình Chiểu được đưa vào giảng dạy với số  lượng  kiến thức tương đối lớn.Tuy nhiên từ trươc đến nay việc giảng dạy trong nhà   trường cũng như các sách dành cho nghiên cứu giảng dạy đặc điểm ngôn ngữ  văn chương của Nguyển Đình Chiểu cũng chưa thưc sự quan tâm, chưa khai  SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  3                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  4. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu thác và thấy hết được giá trị nghệ thuật, nét riêng của từ láy cũng như sư đắc  dụng của nó để tạo nên phong cách văn chương Nguyễn Đình Chiểu. Vì  lẽ   đó  em   đã  chọn  đề  tài “từ  láy  trong thơ  văn của Nguyễn  Đình  Chiểu” để  tìm hiểu với hy vọng kết quả  nghiên cứu sẽ  giúp em nhìn nhận   mộtcách toàn diện hơn, đầy đủ  hơn về  sự  phát triển của ngôn ngữ  văn học,  về  sự  phong phú đa đang dạng và khả  năng biểu đạt tinh tế, chính xác linh  hoạt của lớp từ  láy Tiếng Việt. Đồng thời góp phần vào việc hỗ  trợ  giảng   dạy sau này cho bản thân em. 2.Lịch sử vấn đề. Trong lĩnh vực ngôn ngữ  học việc nghiên cứu về  từ  láy Tiếng Việt đã  được các tác giả  như: Đỗ  Hữu Châu, Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Tuệ, Hoàng  Văn Hành, Đái  Xuân Ninh, Hà Quang Năng, Hoàng Cao Cương, Diệp Quang   Ban, Nguyễn Thiện Giáp, Phi Tuyết Hinh, Đào Thản, Nguyễn Thị  Hai, Hữu  Đạt, Nguyễn Đức Tồn,...Chú ý nghiên cứu về  đặc điểm như: Đặc điểm cấu  tạo, đặc trưng ngữ nghĩa, giá trị biểu trưng, giá trị gợi tả âm thanh, hình ảnh,   giá trị biểu cảm của từ láy. Những  công trình nghiên cứu tiêu biểu bao gồm: Các sách nghiên cứu về  Tiếng Việt trong đó có từ  láy, những chuyên luận về  từ  láy các tác phẩm là  các bài nghiên cứu trên tạp chí. Có thể  kể  đến như: Cách sử  lí những hiện   tượng trung gian trong ngôn ngữ của Đỗ Hữu Châu in trong tạpchí số 1,1971;  Trường từ  vựng ngữ  nghĩa và việc dùng từ  ngữ  trong các tác phẩm nghệ  thuật củaĐỗ  Hữu Châu đăng trong tạp chí số  3,1974; Từ  láy trong phương  ngữ Nam Bộ của Trần thị Ngọc Lang in trong tạp chí ngôn ngữ số 3,1992; từ  láy trong Tiếng Việt và sự cần thiết phải nhận diện nó của Phạm Văn Hoàng   đăng trong tạp chí ngôn ngữ số 4,1985... cũng có một số  đề  tài chuyên nghiên   cứu về  vấn đề  từ  láy trong các tác phẩm Việt Nam như: “Hệ  thống từ  láy  Tiếng Việt trong một số khúc ngâm thế kỷ XIX luận văn thạc sĩ của Nguyễn  Thị Hường ĐHSP Hà Nội (2004); Tìm hiểu giá trị từ áy trong sử dụng (khảo  sát qua thơ Hồ Xuân  Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương )” luận văn thạc sĩ   ngữ văn của Nguyễn Thị Thu Hương ĐHSP Hà Nội;... Nghiên cứu về  Nguyễn Đình Chiểu ngoài học giả  pháp thì 50 năm sau  ngày mất của ông,năm 1938, Phạm Văn Hùm là người Việt Nam đầu tiên  đứng  ở  góc độ  khoa học đã lí giải mối quan hệ  giữa sáng tác của Nguyễn   SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  4                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  5. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Đình chiểu với cuộc đời của ông. Trong những dịp kỷ niệm ngày mất của nhà  thơ,75 năm,150 năm đã có rất nhiều bài nghiên cứu trong đó có các ngôn ngữ  văn chương  có  thể  kể   đến:  để  có một văn bản “Lục vân  Tiên” gần với   nguyên tác hơn của Lê Hữu in trong văn nghệ Thành Phố  Hồ Chí Minh số 22,  ngày 2­7­1998; Bài viết của Bùi Đức Tịnh in trong cuốn: Nguyễn Đình Chiểu  về tác gia và tác phẩm, nhà xuất bản giáo dục,1998; Vài nét về  từng phương   ngôn trong ngôn ngữ Nguyễn Đình Chiểu của Nguyễn Công Đức;... Qua các công trình tiêu biểu nói trên cũng như một số luận khảo cứu sau   đó cho chúng ta thấy việc nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu ngày càng đươc  mở  rộng và đào sâu trên cơ  sở  tư  liệu về  nhiều mặt. Em nghĩ công việc  nghiên cứu về ngôn ngữ thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu vẫn cần được tiếp  tục đề tài này của em cũng là một cố gắng theo hướng đó. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 3.1. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận này là từ  láy và việc sử  dụng nó   trong một số sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. 3.2.Phạm vi nghiên cứu. Tiểu luận tập trung nghiên cứu đặc điểm từ láy ở các mặt cấu trúc, ngữ  nghĩa và giá trị sử dụng của chúng trong một số tác phẩm của Nguyễn Đình  Chiểu. 4. Phương pháp nghiên cứu. Trong tiểu luận này em sử dụng một số phương pháp sau đây: + Phương pháp thống kê, phân loại. + Phương pháp phân tích ngôn từ nghệ thuật. + Phương pháp đối chiếu, so sánh. 5. Đóng góp của đề tài. + Góp phần nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa, giá trị sử dụng của một lớp   từ  khi tham gia vào cac văn bản cụ  thể, để  thấy rõ tài năng nét riêng của tác  giả  văn học nói chung và Nguyễn Đình Chiểu nói riêng trong nghệ  thuật sử  dụng  ngôn từ. 6. Cấu trúc tiểu luận. Ngoài phần mở  đầu, phần kết luận thì tiểu luận gồm 3 chương với  những nội dung chính sau: SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  5                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  6. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Chương I: Cơ sở khoa học của đề tài và vấn đề có liên quan. Chương II: Những đóng góp về  mặt ngôn ngữ  văn chương của Nguyễn  Đình Chiểu qua việc sử dụng từ láy. SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  6                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  7. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ  CÓ LIÊN QUAN 1.Các khái niệm và các quan niệm xung quanh vấn đề từ láy. Láy là một phương thức cấu tạo từ quan trọng của Tiếng Việt.Nói đến  từ láy là nói đến một lớp từ có giá trị  đặc biệt bởi kha năng gợi tả,gợi cảm,  tạo âm thanh hình  ảnh cao của nó.Trong Việt ngữ  học đã có rất nhiều công  trình nghiên cứu, đồng thời cũng có rất nhiều cách lý giải khác nhau về  hiện  tượng láy và từ láy. Ở đây em sẽ nêu ra một số khái niệm tiêu biểu với những   quan niệm của các nhà nghiên cứu về hiện tượng láy Tiếng Việt. Đỗ   Hữu   Châu   định   nghĩa:   “từ   láy   là   những   từ   đươợc   cấu   tạo   theo   phương thức láy, đó là phương thức lặp lại toàn bộ hay bộ phận hình thức âm  tiết(với những thanh điệu giữ  nguyên hay biến đổi theo quy tắc biến thanh,  tức là quy tắc thanh điệu, biến đổi theo hai nhóm, nhóm cao: thanh hỏi, thanh   sắc, thanh ngang à nhóm thấp: thanh huyền, thanh ngã, thanh nặng ) của một   hình vị hay đơn vị có nghĩa”. Nguyễn Thiện Giáp nêu: “ ngữ láy âm là những cụm từ được hình  thành  do sự  lăp lại hoàn toàn hay lặp lại  có kèm theo sự  biến đổi ngữ  âm nào đó  của từ   đã có.  Đăc trưng ngữ  nghĩa nỗi bật cuả  ngữ  láy âm là giá trị  gợi  tả(biểu  cảm, mô phỏng, tượng hình, tượng thanh )” Hoàng Văn Hành quan niệm: Từ láy, nói chung, là từ được cấu tạo bằng  cách nhân đôi tiếng gốc theo những quy tắc nhất định, sao cho quan hệ  giữa   các tiếng trong từ vừa điệp, vừa đối, vừa hài hoà với nhau về âm và về nghĩa,   có giá trị biểu trưng hoá”. Hồ Lê nêu: “ từ lắp láy là một từ kháđặc biệt, xét về mặt cấu tạo. Nó có  tính chất của từ đơn; Nó được tạo ra theo phương thức lắp láy. Nhưng không   ít trường hợp, quan hệ lắp láy về mặt ngữ nghĩa lại không được hiện ra một   cách rõ ràng”. Nguyễn Nguyễn Trứ lại cho rằng: “Từ láy đôi trong tiếng việt hiện đại  là một loaại từ  đơn trong đó có sự  láy lại hoặc là toàn bộ  âm tiết, hoăc là  phần phụ  âm   đầu hay phần vần trong kết cấu âm tiết của hai yếu tố  tạo   SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  7                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  8. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu thành. Giữa hai âm tiết thường có mối quan hệ  thanh điệu theo những quy   luật nhất định”. 2. Sự phân loại từ láy trong tiếng việt. 2.1. Quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố trong từ láy. Đa số các nhà nghiên cứu đều quan niệm từ láy như một đơn vị từ vựng  gồm hai thành tố: Thành tố gốc và thành tố láy, trong đó thành tố gốc sản sinh   ra thành tố láy, còn thành tố láy chính là thành tố gốc bị biến dạng đi ít nhiều   theo những quy tắc nhất định trong quá trình láy. Ví dụ: Đỏ (thành tố gốc)  ­   đo đỏ (đo là thành tố láy) Rối (thành tố gốc)  ­   bối rối (bối là thành tố láy) “ phương thức cấu tạo nên các từ  phức theo cách tạo ra hình vị  láy là  hình vị  cơ  sở”.Trong tiếng việt có những tiếng có giá trị  như  những hình vị,  gọi là tiếng­hình vị được dùng làm cơ sở để mà nhân đôi gọi là tiếng gốc, còn  tiếng xuất hiện trong quá trình nhân đôi ấy gọi là tiếng láy. Trong tiếng việt có rất nhiều từ  láy mà trong thành phần cấu tạo dễ  dàng xác định được những yếu tố  tự  thân có nghĩa, có khả  năng hoạt động   độc lập như một từ. Đó chính là những thành tố gốc hay hình vị cơ sở tạo nên  các từ  láy kiểu như: Lành lặn, nhỏ  nhen, nho nhen, bập bồng, đẹp đẽ, sáng   sủa, vội vàng... Bên cạnh đó tiếng việt còn có rất nhiều từ láy, mà trên quan điểm đồng  đại, rất khó và dường như không xác định được thành tố gốc. Đó là những từ  láy kiểu: đủng đỉnh, bâng khuâng, thình lình,băn khoăn, mang máng...Lý giải  của các nhà nghiên cứu về vấn đề này không giống nhau: chỉ thừa nhận các từ láy được tạo ra bằng phương thức láy một tín hiệu  đơn âm tiết cơ bản (tức là một tín hiệu có ý nghĩa độc lập, hoặc có khi là một  tín hiệu có ý nghĩa nhưng không có tính độc lập) là những từ  láy chân chính.   Quan niệm này được thể hiện trong “giáo trình việt ngữ” tập I và tập II.Tuy   nhiên trong cả  hai giáo trình các tác giả  đều thừa nhận trong thực tế  tồn tại   khá nhiều trường hợp rất khó  xác định hình thức cơ bản như:  chạng vạng, la   đà, lê thê...và không được coi là những từ láy chân chính những kiểu như: đu  đủ, bìm  bịp... SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  8                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  9. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Hoàng Văn Hành lý giải: “Coi việc không xác định được thành tố  gốc  của từ láy là kết quả của quá trình mở nghĩa của từ gốc”. Tác giả chia từ láy   thành hai loại: từ láy có lý do và từ láy không lý do. Từ láy có lý do là từ láy   mà nghĩa của nó được xác định nhờ  cấu trúc của bản thân nó, Ví dụ: chín  chắn, có thể  giải thích được trên cơ  sở  nghĩa của từ  tố  chính là khuôn vần  [ch­]­ắn. Từ láy không có lý do là từ láy mà nghĩa của nó không thể giải thích  được băng cấu trúc bản thân nó. Trong sự vận dụng khái niệm từ láy để  thực hiện dề tài này, em có thể  khái quát về  từ láy theo cách hiểu sau: “từ láy là từ  đa âm tiết được cấu tạo  theo phương thức láy, trong đó quan hệ  giữa các âm tiết phải thể  hiên được  sự hoà phối và lặp lại về mặt ngữ âm, có giá trị biểu trưng và sắc thái hoá về  ngữ nghĩa”. 2.2. Phân loại từ láy về mặt cấu tạo. Từ  láy tiếng Việt có độ  dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là bốn tiếng và  còn có loại ba tiếng. Tuy nhiên, loại đầu tiên là loại tiêu biểu nhất cho từ láy  và phương thức láy của tiếng Việt. Một từ sẽ  được coi là từ láy khi các yếu tố  cấu tạo nên chúng có thành  phần ngữ  âm được lặp lại; nhưng vừa có lặp (còn gọi là điệp) vừa có biến  đổi (còn gọi là đối). Ví dụ: đỏ  đắn: điệp ở  âm đầu, đối ở  phần vần. Vì thế,   nếu chỉ  có điệp mà không có đối (chẳng hạn như: người người, nhà nhà,   ngành ngành... thì ta có dạng láy của từ chứ không phải là từ láy. Kết hợp tiêu  chí về số lượng tiếng với cách láy, có thể phân loại từ láy như sau: Từ láy gồm hai tiếng (cũng gọi là từ láy đôi) có các dạng cấu tạo sau: Láy hoàn toàn. Gọi là láy hoàn toàn nhưng thực ra bộ mặt ngữ âm của   hai thành tố  (hai tiếng) không hoàn toàn trùng khít nhau, chỉ  có điều là phần   đối của chúng rất nhỏ  khiến người ta vẫn nhận ra được hình dạng của yếu  tố  gốc trong yếu tố  được gọi là yếu tố  láy. Có thể  chia các từ  láy hoàn toàn   thành ba lớp nhỏ hơn: +   Lớp những từ  láy hoàn toàn, chỉ  đối nhau  ở  trọng âm (một trong hai  yếu tố được nói nhấn mạnh hoặc kéo dài). Ví dụ: cào cào, ba ba, rề rề, lăm   lăm, khăng khăng, kìn kìn, lù lù, lâng lâng, đùng đùng, hây hây, gườm gườm,   SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  9                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  10. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu đăm   đăm...  +  Lớp từ láy hoàn toàn đối nhau  ở  thanh điệu. Nguyên tắc đối thanh điệu ở  đây là: thanh bằng đối với thanh trắc trong mỗi nhóm cùng âm vực; bằng  đứng trước, trắc đứng sau. Ví dụ: đo đỏ, ra rả, hây hẩy, hau háu, hơ hớ, ngay ngáy, phơi phới, sừng   sững, chồm chỗm, vành vạnh, lừng lững, hơn hớn, càu cạu, thoang thoảng...  Tuy nhiên,  ở  đây vẫn còn một số  ngoại lệ  như:  cỏn con, dửng dưng, mảy   may,   cuống   cuồng...  +  Lớp từ láy hoàn toàn, đối ở phần vần nhờ sự chuyển đổi âm cuối theo quy   luật dị hoá: m – p ng – c n – t nh – ch Ví dụ: ăm ắp, chiêm chiếp, cầm cập, lôm lốp, hèm hẹp...     chan chát, khin khít, sồn sột, thon thót, ngùn ngụt...    khang khác, vằng vặc, rừng rực, phưng phức, phăng phắc...    anh ách, chênh chếch, đành đạch, phành phạch, rinh rích...  Thanh điệu của các yếu tố trong mỗi từ vẫn tuân theo quy luật của lớp từ láy  hoàn toàn đối nhau ở thanh điệu. Láy bộ phận. Những từ láy nào chỉ có điệp ở phần âm đầu, hoặc điệp ở  phần vần thì được gọi là láy bộ  phận. Căn cứ  vào đó, có thể  chia từ  láy bộ  phận thành hai lớp. +  Lớp từ  láy (điệp) âm đầu, đối  ở  phần vần. Ví dụ  như:bập bềnh, cò   kè, ho he, thơ thẩn, đẹp đẽ, làm lụng, ngơ  ngác, say sưa, xoắn xuýt, vồ  vập,   hấp   háy...  Trong lớp này, có những từ  xét về  mặt lịch sử  vốn không phải là từ  láy,  nhưng vì quan hệ  về  nghĩa giữa các yếu tố  của chúng mất dần đi, làm cho  quan hệ ngữ âm ngẫu nhiên giữa các yếu tố đó nổi lên hàng đầu, và hiện giờ  người Việt nhất loạt coi chúng là từ láy. Ví dụ:  chùa chiền, tuổi tác, giữ gìn,   sân sướng... Nghĩa của những từ  như  vậy được tổ  chức theo kiểu của các   từ tre pheo, chó má, đường sá, xe cộ, áo xống...  SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  10                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  11. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Trong khi xét sự đối vần ở đây, cũng cần lưu ý tới hiện tượng đối ứng ở  âm chính. Hiện tượng này không phải là quy luật toàn thể, nhưng đều đặn ở  một số nhóm từ. u đối với i: cũ kĩ, hú hí, xù xì, tủm tỉm, mũm mĩm...  ô – ê: ngô nghê, xồ xề, hổn hển, thỗn thện...  o – e: ho he, vo ve, khò khè, võ vẽ, nhỏ nhẻ...  i – a: hỉ hả, rỉ rả, xí xoá, hí hoáy...  u – ă: tung tăng, hung hăng, vùng vằng, thủng thẳng...  u – ơ: ngu ngơ, rù rờ, khù khờ, cũn cỡn...  ô – a: bỗ bã, hốc hác, mộc mạc, ngột ngạt...  ê – a: nghê nga, khề khà, rề rà, xuề xoà, hể hả... +  Lớp từ láy (điệp) phần vần, đối  ở  âm đầu. Ví dụ  như:  bâng khuâng,   bơ vơ, lừng chừng, lù đù, lã chã, càu nhàu, lỗ mỗ, thao láo, hấp tấp, tủn mủn,   lụp xụp, lảng vảng, lúng túng, co ro, lan man, làng nhàng...  Gần nửa số lượng từ láy vần có âm đầu của tiếng thứ nhất là âm /­ l ­/  và phần lớn chúng có chứa một tiếng còn rõ nghĩa. Tuy vậy, vẫn có không ít  từ mà cả hai tiếng đều không rõ nghĩa, ví dụ: bải hoải, hấp tấp, lập cập, bầy   hầy, thình lình, liểng xiểng, xớ rớ, lấc cấc... Từ  láy ba và bốn tiếng được cấu tạo thông qua cơ  chế cấu tạo từ láy  hai tiếng. Tuy vậy, từ láy ba tiếng dựa trên cơ  chế  láy hoàn toàn, còn từ  láy   bốn lại dựa trên cơ chế láy bộ phận là chủ yếu. Ví dụ:  khít khìn khịt, sát sàn   sạt, dửng dừng dưng, trơ  trờ  trờ... đủng đà đủng đỉnh, lếch tha lếch thếch,   linh tinh lang tang, vội vội vàng vàng... Trên thực tế, số  lượng từ  láy ba tiếng và bốn tiếng không nhiều. Mặt  khác, có thể coi chúng chỉ là hệ quả, là bước tiếp theo trên cơ chế láy của từ  láy hai tiếng mà thôi. Từ láy ba là láy toàn bộ kèm theo sự biến thanh và biến vần (ví dụ: nhũn  – nhũn nhùn nhùn; xốp – xốp xồm xộp...). Nhiều khi ta gặp những "cặp bài  trùng" giữa từ  láy hai tiếng và ba tiếng như: sát sạt – sát sàn sạt; trụi lủi –   trụi thui lủi; nhũn nhùn – nhũn nhùn nhùn; khét lẹt – khét lèn lẹt... Từ láy bốn tiếng thì tình hình cấu tạo có đa tạp hơn. Có thể là: "Nhân đôi" từ láy hai tiếng nhưng biến vần của tiếng thứ hai thành e, a,  ơ, à cho phù hợp, hài hoà về âm vực giữa các vần, các thanh: SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  11                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  12. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu vớ  vớ   va   vớ  → vẩn vẩn lề   mà   lề  lề mề → mề... "Nhân đôi" từ  láy hai tiếng nhưng biến đổi sao cho hai tiếng đầu có   thanh điệu thuộc âm vực cao, hai tiếng sau mang thanh điệu âm vực thấp:  bồi   hồi   –   bổi   hổi   bồi   hồi.  ­ "Nhân đôi" từng tiếng của từ láy hai tiếng: hùng hổ → hùng hùng hổ hổ vội  vội   vội   vàng  → vàng vàng... Thực hiện cách thứ  ba vừa nêu, nhưng biến âm đầu của tiếng thứ  nhất   và thứ ba thành /l­/: nhồm  lồm   nhồm   loàm  → nhoàm nhoàm thơ thẩn → lơ thơ lẩn thẩn... Ngoài ra, còn có một số  từ  khác không cấu tạo theo các cách nêu trên;  hoặc từ một từ gốc có thể cấu tạo hai từ láy bốn tiếng chứ không phải chỉ có   một. Chẳng hạn: bù lu bù loa; bông lông ba la... hoặc bắng nhắng – bắng nha   bắng nhắng; bắng nhắng bặng bặng nhặng... Sự biểu đạt ý nghĩa của từ láy rất phức tạp và rất thú vị, nhất là ở nhiều   nhóm từ cùng có khuôn cấu tạo lại có thể có những điểm giống nhau nào đó   về nghĩa. 3. Vài nét về  cuộc đời và sự  nghiệp văn chương của Nguyễn Đình   Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) tên tự  là Mạnh Trạch, hiệu Trọng  Phủ. Sau khi bị mù, ông còn lấy thêm hiệu là Hối Trai. Cha là Nguyễn Đình  Huy, quê Thừa Thiên. Mẹ  là Trương Thị  Thiệt, người Gia Định. Sinh ra và  lớn lên trong một gia đình Nho giáo nên từ nhỏ Nguyễn Đình Chiểu đã được  học chữ  nghĩa thánh hiền. Năm 1843, ông đỗ  tú tài tại trường thi Gia Định.  Năm 1846, ông ra Huế học để chuẩn bị thi tiếp. Đến năm 1849, trước khi vào  trường thi thì ông nhận được tin mẹ  mất, đành bỏ  dở  để  trở  về  Nam chịu   tang. Trên đường về, phần do vất vả, bệnh tật, phần do thương mẹ, Nguy ễn   SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  12                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  13. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Đình Chiểu khóc đến nỗi bị  đau mắt nặng rồi mù. Không khuất phục trước   số  phận bất hạnh, ông mở  trường dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho dân   nghèo; đồng thời sáng tác thơ  ca để  bày tỏ  lòng yêu nước và thái độ  căm thù   quân xâm lược cùng bè lũ phong kiến bán nước. Nguyễn Đình Chiểu đã giữ  vững khí tiết của một nhà Nho chân chính và tấm lòng son sắt với nước với   dân cho đến hơi thở cuối cùng. Nguyễn Đình Chiểu gặp rất nhiều bất hạnh trong cuộc đời riêng, ở tuổi   thanh xuân, ông đã từng ôm ấp lí tưởng cao đẹp trí quân trạch dân, tức là phò  vua giúp nước để  thỏa chí  nam nhi. Nhưng những tai  ương dồn dập trút  xuống khiến ông không thể thực hiện được lí tưởng ấy. Mẹ mất, đường công  danh dang dở, vợ  sắp cưới bội  ước, bản thân lại mù lòa… Một con người   bình thường khó có thể đứng vững trước ngần ấy chuyện không may liên tục  xảy ra trong một thời gian ngắn, nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã vượt qua tất  cả bằng một nghị lực phi thường, bằng tình yêu cuộc sống mãnh liệt. Thơ  văn Nguyễn Đình Chiểu đã khắc sâu, tô đậm hình  ảnh những con   người lao động mộc mạc, chân chất mà ông hết lòng yêu thương, mến phục.  Hình ảnh người dân Nam Bộ trọng nghĩa khinh tài kết tinh trong nhân vật Lục   Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Hớn Minh, Tử Trực…, trong nhân vật ông Ngư,  ông Tiều mà ai ai cũng biết. Lục Vân Tiên dũng cảm, nghĩa hiệp: Làm ơn há  dễ  trông người trả   ơn. Ông Ngư  hết lòng cứu người trong Cơn hoạn nạn:   Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn. Kiều Nguyệt Nga tiết hạnh, trung trinh…   Đó là những nhân vật tư tưởng của tác giả  mà cũng là hình tượng được dân  chúng Nam Bộ  thời  ấy tôn thờ. Truyện thơ  Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình   Chiểu có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống tinh thần cộng đồng là vì lẽ đó. Nội  dung thấm đẫm tư  tưởng nhân nghĩa của truyện khiến nó đã trở  thành kinh  nhật tụng của đồng bào Nam Bộ. Đi đâu cũng thấy hiện tượng mọi người  thích thú nghe nói thơ, kể thơ Vân Tiên, bởi trong đó có biết bao bài học thấm  thía  về   đạo  lí.  Đằng  sau  câu   chuyện  tưởng  như   minh  hoạ   cho  những   tư  tưởng, triết lí đậm chất Nho giáo ấy chính là những bài học đạo đức đề  cao   tình nghĩa vợ  chồng, cha con, bè bạn, tình thương yêu, cưu mang, đùm bọc  giữa người với người. Đó là đạo lí truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã có tự  ngàn đời. Khi thực dân Pháp tấn công lấn chiếm Lục tỉnh Nam Kì thì tư  tưởng  nhân nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã chuyển biến thành tư tưởng yêu nước  SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  13                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  14. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chống xâm lăng. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu thơ tâm huyết để  bày tỏ quan điểm của mình: Thà đui mà giữ đạo nhà, Còn hơn có mắt ông cha không thờ. Dù đui mà khỏi danh nhơ, Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình. Dù đui mà đặng trọn mình, Còn hơn có mắt đổi hình tóc râu. Thái độ kiên quyểt bất hợp tác với kẻ thù của ông càng làm cho nhân dân  tin tưởng và khâm phục. Điều đáng trân trọng  ở  ông là cả  tư  tưởng nhân  nghĩa và tư tưởng yêu nước đều hướng tới nhân dân lao động. Qua một số  tác phẩm nổi tiếng như  Chạy Tây, Văn tế  nghĩa sĩ Cần  Giuộc, Ngư  Tiều y thuật vấn đáp… Nguyễn Đình Chiểu đã thể  hiện rất rõ  lập trường, quan điểm của mình là đứng hẳn về phía nhân dân để phê phán và  lên án triều đình nhà Nguyễn hèn nhát đầu hàng, bán rẻ  giang sơn gấm vóc   của tổ  tiên để  lại, quay lưng ngoảnh mặt làm ngơ  trước tình cảnh lầm than   của dân đen, con đỏ: Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây, Một bàn cờ thế phút sa tay. Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy, Mất ổ bầy chim dáo dác bay. Bến Nghé của tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây. Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng ? Nỡ để dân đen mắc nạn này!                                                                       (Chạy Tây) Trong bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, nhà thơ căm hận gọi lũ xâm lược là  quân tả  đạo, đi tới đâu gieo rắc mùi tinh chiên tanh hôi và thói mọi đến đó.  Dân chúng phẫn nộ muốn xông ra ăn gan, cắn cổ quân thù cho hả dạ. Thái độ  ấy hoàn toàn đối lập với thái độ thờ ơ vô trách nhiệm của phần lớn vua quan   nhà Nguyễn. Giặc Pháp chiếm nước ta đã ba năm và đánh chiếm Nam Bộ đã  hơn mười tháng, dân trông tin quan như trời hạn trông mưa, chờ đợi đến mỏi   SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  14                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  15. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mòn mà vẫn không thấy triều đình có phản  ứng gì. Yêu nước, căm thù quân  xâm lược, những người dân ấp dân lân vốn côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó  đã tự  nguyện đứng lên làm nhiệm vụ  trọng đại chém rắn, đuổi hươu, đoạn   kình, bộ hổ để cứu nước, cứu nhà. Từ mái tranh nghèo, họ xông ra thẳng chiến trường với vũ khí là rơm con   cúi, lưỡi dao phay, ngọn tầm vông… những vật dụng quen thuộc trong cuộc   sống lao động hằng ngày. Những nghĩa sĩ nông dân tung hoành nơi chiến trận,   chẳng đợi ai đòi ai bắt, chẳng sợ tàu thiếc tàu đồng súng nổ. Họ  đã làm cho   quân giặc khiếp vía kinh hồn. Những vũ khí thô sơ  trong tay họ  cũng góp  phần làm nên chiến thắng: Hoả  mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong   nhà dạy đạo kia. Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu   quan hai nọ. Trong cuộc chiến đấu không cân sức, gần ba chục nghĩa sĩ đã ngã xuống.  Cái chết vì nghĩa lớn của họ khiến cho đất trời và lòng người cảm động: Đoài  sông Cần Giuộc, cỏ  cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ  Trường Bình, già trẻ  hai hàng luỵ nhỏ. Điểu an ủi lớn nhất đối với gia đình họ là chồng con mình   đã sống và chết đúng theo quan niệm chết vinh còn hơn sống nhục của ông  cha từ bao đời nay. Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh: Sống làm chi theo quân tả  đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại   thêm buồn; sống làm chi  ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì nghe càng   thêm hổ. Thà thác mà đặng câu địch khái, về  theo tổ  phụ  cũng vinh; hơn còn mà   chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ. Ngòi   bút  thấm   đẫm   cảm xúc  mến yêu,  kính phục  của Nguyễn  Đình  Chiểu đã vẽ  nên bức tranh công đồn ngất trời tráng khí, đã dựng nên tượng   đài sừng sững về  người nghĩa sĩ nông dân yêu nước muôn thuở  sáng ngời.   Tinh thần tự  nguyện xả  thân cứu nước của họ  góp phần khẳng định truyền   thống anh dũng, bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Với những cống hiến to lớn cho dân tộc, cho nền văn học nước nhà,   Nguyễn Đình Chiểu mãi mãi xứng đáng với niềm tin yêu, kính phục của nhân   dân dành cho ông. Nhận xét về Nguyễn Đình Chiểu, nhà lí luận phê bình văn   học Hoài Thanh viết: Sự gắn bó sâu xa với quần chúng là đặc điểm nổi bật   trong cuộc  đời  Nguyễn  Đình Chiểu, là nhân tố  chủ  yếu  đào tạo nên con  người, sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  15                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  16. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  16                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  17. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu CHƯƠNG II:   ĐÓNG GÓP VỀ MẶT NGÔN NGỮ VĂN CHƯƠNG  CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU QUA VIỆC SỬ DỤNG TỪ LÁY 1. Nguyễn Đình Chiểu đối với việc phát triển ngôn ngữ văn chương  của dân tộc. Theo cuốn Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu in lần thứ hai, Nxb Văn học Hà   Nội­1971 thì toàn bộ sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu gồm 29 tác phẩm trừ 6  bài thơ: Thầy thuốc; Câu cá; Đốn củi; Hoàng trùng trập khởi; Ngũ luân tuyệt   cú và Thất Kinh Châu là sáu tác phẩm được đưa vào phần phụ lục bởi đây là   những tác phẩm còn chưa xác minh rõ có phải là của Nguyễn Đình Chiểu hay  của tác giả khác. Nguyễn Đình Chiểu đã kế  thừa một di sản văn học dân tộc bằng tiếng  Việt vô cùng lớn cả về số lượng và chất lượng. Mặt chủ yếu góp phần làm  nên bản sắc riêng, vẻ  đẹp độc đáo ở Nguyễn Đình Chiểu là ở  chỗ, cùng với  tác các tác giả  khuyết danh của một loạt truyện Nôm giàu giá trị, Nguyễn  Đình Chiểu đã làm cho ngôn ngữ của văn học gần gũi với hiện thực hơn, gần  gũi với lời ăn tiếng nói, của quần chúng nhân dân hơn. Hồng Dân có nhận  định như  sau: Cái đẹp của ngôn từ  trong cung oán ngâm khúc, trong Truyện  Kiều… có phần giống cái đẹp của cây đa, cây đề được chăm chút gọt tỉa khéo   léo trong vườn thượng uyển, trong công viên, còn cái đẹp của ngôn từ  trong   loạt truyện Nôm, mà ngày nay vẫn chưa tìm ra tên tác giả, cũng như  cái đẹp   của ngôn từ trong văn thơ Nguyễn Đình Chiểu lại có cái đẹp của cây đa, cây   đề  mọc ở đầu làng, ở  giữa cánh đồng, ở  một bến nước, bờ sông nào đó của  thôn quê Việt Nam, mộc mạc và bình dị, chân thực và hồn nhiên lạ thường Tính bình dị, mộc mạc, chân thực trong ngôn ngữ  của Đồ  Chiểu là đặc  điểm xuyên suốt trong toàn bộ  sáng tác của ông.   Rồi cũng chính những từ  ngữ  hết sức dung dị, chân chất, mộc mạc  ấy lại được Đồ  Chiểu đưa vào  những áng thơ  văn yêu nước chống Pháp làm nên một hơi thở  mới của đời  sống hiện thực trong giai đoạn chống Pháp, một thời kỳ “khổ nhục nhưng vĩ   đại” của lịch sử Việt Nam. Lịch sử  ấy đã được ghi lại trong những áng văn   thơ  bằng chính chất liệu của đời sống chiến đấu dũng cảm, trần trụi, gân  guốc của nhân dân với ngôn ngữ hàng ngày. Vì vậy đọc thơ văn Nguyễn Đình  SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  17                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  18. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Chiểu có thể  thấy ngôn ngữ  trong các tác phẩm của ông không hề  xa lạ  với   ngôn ngữ trong nền văn học hiện thực của chúng ta ngày nay. “Đó là dấu hiệu  của một thi pháp nghệ thuật mới sẽ được tiếp tục phát triển sau này” Theo đánh giá của Giáo sư  Nguyễn Đình Chú thì thơ  văn Nguyễn Đình  Chiểu đã đạt tới thành tựu chung trong lịch sử văn học nước nhà cụ thể là: Ở  thể loại thơ luật đường, Nguyễn Đình Chiểu còn đứng sau nhiều tác giả như  Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… nhưng một đôi  bài của Đồ Chiểu (Xúc cảnh, Làm thuốc…) lại vẫn xứng đáng xếp vào hàng   những bài thơ luật Đường hay nhất của thơ luật Đường nước ta. Về  truyện  thơ  Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu chỉ  đứng hàng sau Truyện Kiều  của Nguyễn Du. Riêng về  văn tế, tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu là số  một trong kho tàng văn tế Việt Nam .Với những thành tựu đó, ông thực sự là  nhà văn tiêu biểu cho dòng văn chương đạo đức, lá cờ đầu của văn thơ chống  ngoại xâm thời Pháp thuộc. Cùng với các tác gia tiêu biểu của thế  hệ  trước: Nguyễn Trãi, Nguyễn  Du, Hồ Xuân Hương… Nguyễn Đình Chiểu là người đã có những đóng góp to  lớn trong việc tạo nên những bước phát triển mới cho ngôn ngữ văn chương   tiếng Việt. 2. Hiệu quả đặc biệt của từ láy trong tư  duy hình tượng Để  chiếm lĩnh đối tượng của mình, trong lĩnh vực văn nghệ  hình thành  một kiểu tư duy đặc biệt gọi là tư duy nghệ thuật. Các nhà văn xây dựng hình  tượng để tái hiện cuộc sống thông qua ngôn từ, lấy ngôn từ làm chất liệu mà   từ láy là một trong những chất liệu đặc biệt. Chúng ta có thể thấy rõ vai trò của từ láy trong tư duy nghệ thuật qua sự  so sánh về cách miêu tả hình ảnh cánh cò trong hai câu thơ sau: ­ Lạc hà dữ cô lộ tề phi Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc (Vương Bột) ­ Mây biếc về đâu bay gấp gấp Con cò trên ruộng cánh phân vân (Xuân Diệu) Cả hai câu thơ của hai thi sỹ đều là cảnh thu tuyệt đẹp, với những cánh  cò, làn nước mùa thu, bầu trời thu trong xanh, với mây biếc. Điều dễ  ràng  SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  18                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  19. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu nhận thấy ở đây là cả hai nhà thơ này đều miêu tả cánh cò, nhưng trong nghệ  thuật vận dụng ngôn từ khác nhau và hiệu quả nghệ thuật tạo ra cũng không  như nhau. Hình ảnh cánh cò trong câu thơ của Vương Bột được miêu tả trong   một trạng thái tĩnh, lặng lẽ  bay với ráng chiều nhưng bằng việc sử dụng từ  láy phân vân thì hình  ảnh cánh cò trong câu thơ  của Xuân Diệu đã trở  thành  một cánh cò trong một trạng thái động. Người đọc như cảm nhận được nhịp   đập, sự vận động trong gân cốt của cánh cò, con cò bay mà không hẳn là bay   mà nửa như muốn đậu. Cũng bằng sự  vận dụng từ  láy mà tất cả  những biến thái tinh vi nhất   của tự nhiên đã được diễn tả một cách chính xác: Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu Lả lả cành hoang nắng trở chiều (Xuân Diệu) Câu thơ đã hiện ra trước mắt chúng ta một con đường tình với tất cả vẻ  xinh xắn, duyên dáng của nó. Con đường “nhỏ nhỏ” chứ không phải là “nhỏ”,  gió “xiêu xiêu” mà chưa hẳn đã “xiêu”. Con đường đang dập dìu cùng gió,  cành hoang đang lơi lả cùng nắng “lả lả”. Có thể nói rằng với các từ láy hình   ảnh con đường đã trở nên đầy tình tứ, mời mọc những bước chân tình ái.  Và  đây là một bức tranh lao động: Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày… Hình tượng trong câu ca dao trên là cảnh lao động nông nghiệp vất vả,  nặng nhọc. Nếu như   ở  câu lục tác giả  dân gian giới thiệu về  công việc và  thời điểm của công việc thì câu bát nói về  sự  vất vả, nặng nhọc của công  việc đó. Từ láy thánh thót đã tái hiện được hình ảnh người nông dân đang cày  đồng, những giọt mồ  hôi không phải chỉ  là rơi mà là rơi rất nhiều, rơi lien   tục, qua từ “thánh thót”. Qua đó tác giả dân gian cũng đã bộc lộ nỗi niềm, sự  cảm thông sâu sắc đối với những người nông dân một nắng hai sương vất vả  làm ra hạt gạo. Chúng ta cũng có thể  thấy rõ giá trị  của từ  láy trong tư  duy hình tượng  qua những câu thơ sau của nhà thơ Nguyễn Khuyến: Năm gian nhà cỏ thấp le te Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  19                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
  20. Từ Láy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu Lưng giậu phất phơ mầu khói nhạt Làn ao lóng lánh bóng trăng loe… (Thu ẩm) Bức tranh thu được tái hiện qua hình ảnh ngôi nhà, ngõ tối, giậu và bóng  trăng. Tuy nhiên ở đoạn thơ trên, người đọc chỉ thực sự cảm nhận được bức  tranh thu cụ  thể  với những nét buồn bao phủ  lên cảnh vật, cũng như  tâm  trạng con người nhờ có các từ láy: le te, lập lòe, phất phơ, lóng lánh. Ngôi nhà  năm gian của thi nhân không chỉ  được miêu tả  là thấp mà là “thấp le te”, có  nghĩa là rất thấp, cái mái như úp chụp xuống gợi cho người đọc một cảm giác  về  sự  chật chội, nóng bức. Ngõ tối, đêm sâu được kết hợp với ánh sáng lập   lòe của đom đóm càng gợi cho người đọc cảm nhận về ngõ tối của làng quê  như sâu hơn, hun hút hơn. Từ phất phơ miêu tả khói bay trên lưng giậu và từ  láy lóng lánh miêu tả mặt nước ao với bóng trăng loe… tất cả là điểm nhấn  cho một bức tranh thu buồn, mang đầy mầu sắc tâm trạng của tác giả. Tuy nhiên mỗi một nhà văn, nhà thơ, trong mỗi một thời đại khác nhau,   sử  dụng ngôn từ  với một mục đích khác nhau và hiệu quả  nghệ  thuật đạt  được là không như  nhau. Tìm hiểu vai trò của từ  láy trong thơ  văn Nguyễn  Đình Chiểu chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. 3. Vai trò của từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu 3.1. Từ láy với nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm Với ba truyện thơ Nôm dài, ba bài văn tế  và hàng loạt các sáng tác khác   như: thơ  điếu, hịch, thơ  luật Đường, chúng ta thấy thế  giới nghệ  thuật của   Nguyễn Đình Chiểu hết sức phong phú, nói như  nhà nghiên cứu La Yên thì  trong đó “diễu hành cả một nhân loại” . Từ người nông dân nghĩa sỹ, đến vua  chúa, nguyên nhung tướng lĩnh, từ  ông Ngư, ông Tiều, ông Quán đến tín đồ  của các tôn giáo, từ người hàn sỹ  đến bọn quan lại sang giàu, cô tiểu thư và  tỳ tất, những nhân vật điển hình cho một tính cách sống trong đời sống thực  như  Bùi Kiệm và những nhân vật là cụ  thể  hóa một ý niệm trừu tượng như  Mộng Thê Triền, Bào Tử Phược… Mỗi nhân vật đều có một vẻ riêng, không   trùng lặp. Sự hiện diện của các nhân vật làm cho thế giới nhân vật trong thơ  văn Đồ Chiểu hết sức phong phú. Nhưng có thể nói tựu trung lại hình tượng   cơ bản, trung tâm được thể hiện rõ nhất trong hai giai đoạn sáng tác của ông  SVTH: Nguyễn Thị Hoài                  20                Lớp: ĐHSP Ngữ Văn – K55
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2