intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo " Chi phí sản xuất và giá thành sữa tươi của các hộ nông dân chăn nuôi bò sữa, huyện Tiên Du - Bắc Ninh năm 2006 "

Chia sẻ: Le Dang Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:0

103
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thực hiện nghị quyết số 09/2000/NQ-CP của chính phủ đạt 64.000 tấn năm 2001 đến 350.000 tấn năm 2010 trong cả nước. trong những năm đầu thế kỷ 21 , số đầu bò sữa trong cả nước đã tăng mạnh. Báo cáo " Chi phí sản xuất và giá thành sữa tươi của các hộ nông dân chăn nuôi bò sữa, huyện Tiên Du - Bắc Ninh năm 2006 "

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo " Chi phí sản xuất và giá thành sữa tươi của các hộ nông dân chăn nuôi bò sữa, huyện Tiên Du - Bắc Ninh năm 2006 "

  1. Chi phí sản xuất và giá thành sữa tươi của các hộ nông dân chăn nuôi bò sữa, huyện Tiên Du - Bắc Ninh năm 2006 TS. Nguyễn Văn Song* SUMMARY The trend for dairy farming activities is decreasing since at the end of the year 2004. Processed food and depreciation costs are increasing faster than fresh milk farm gate price. The production cost of fresh milk of dairy farming households in Tien Du – Bac Ninh is 3.635 VND/per kg of fresh milk while the fresh milk farm gate price is 3.700 VND/per kg . Therefore, dairy farming activities are unprofitable in recent years. Key words: production cost, dairy farming activities, farm gate price. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Thực hiện nghị quyết số (09/2000/NQ-CP) của Chính phủ đạt 64,000 tấn năm 2001 đến 350,000 tấn năm 2010 trong cả nước. Trong những năm đầu của thế kỷ 21 (2000 - giữa năm 2004), số đầu bò sữa trong cả nước đã tăng mạnh. Nhưng trong những năm gần đây (2005 & 2006), ở Tiên Du - Bắc Ninh và một số địa phương khác trong toàn quốc tổng đàn bò sữa có xu hướng giảm. Chăn nuôi bò sữa trong những năm qua đã góp phần thu hút một số lượng lớn lao động nông nhàn trong nông nghiệp và nông thôn. Tiên Du - Bắc Ninh là một huyện thuộc vùng châu thổ sông Hồng, có vị trí thuận lợi về thị trường tiêu thụ sữa tươi do huyện nằm gần nhà máy sữa Gia Lâm và Hà Nội. Chăn nuôi bò sữa được bắt đầu phát triển ở Tiên Du từ năm 1995 nhưng chủ yếu là tự phát, đến năm 1998 có hai dự án (Việt –Pháp & Việt Bỉ) thúc đẩy phát triển chăn nuôi bò sữa (CNBS) của huyện. Số đầu bò sữa của huyện đạt cao nhất vào năm 2003 (547 con), nhưng từ năm 2004 đến nay, số đầu bò sữa của huyện không tăng mà có đang giảm mạnh, chỉ còn 206 con vào tháng 11 năm 2006. So với thời điểm cao nhất, số BS đã giảm quá một nửa (xem bảng 1). Nông dân không còn được thu hút và thiết tha trong CNBS. Vì sao có hiện tượng này? và đâu là nguyên nhân chính dẫn tới xu hướng này? Những nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự giảm sút tổng đàn bò ở Tiên Du - Bắc Ninh trong những năm gần đây cần có lời giải hợp lý. Bảng 1. Biến động đàn bò sữa và số hộ của huyện Tiên Du - Bắc Ninh năm cao nhất và các tháng cuối năm 2006 Năm 2003 Tháng 5 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Thời gian (cao nhất) 2006 2006 2006 2006 Số đầu bò sữa (con) 547 231 212 207 206 Nguồn: Dự án phát triển mở rộng CNBS, giai đoạn 2 Việt- Bỉ 2006 & Đỗ Kim Chung.2005. Mục tiêu nghiên cứu và phân tích: Nghiên cứu và phân tích nhằm hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sữa tươi của các hộ nông dân chăn nuôi bò sữa ở huyện Tiên Du - Bắc Ninh, tìm hiểu khó khăn các nông hộ CNBS đang phải đối mặt, đề ra các biện pháp, đề xuất một số biện pháp và giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn của các hộ CNBS trong khu vực nghiên cứu. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Nguồn số liệu Số liệu sử dụng cho nghiên cứu và phân tích được điều tra 37 hộ chăn nuôi bò sữa trong huyện huyện. Số mẫu điều tra được tiến hành ở hai xã Cảnh Hưng và Tri Phương. Hai xã này là những xã có số đầu bò sữa chiếm hơn 80% số bò sữa trong toàn huyện Tiên Du. 2.2 Phương pháp, phân tích và sử lý số liệu Nghiên cứu sử dụng phương pháp hạch toán chi phí, tính giá thành đơn vị sản phẩm và sử dụng các chỉ số tính giá thành và phương pháp phân tích kinh tế. 1
  2. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN Chu kỳ vắt sữa có ảnh hưởng lớn tới năng suất, sản lượng và giá thành sữa tươi của đàn bò. Theo kết quả điều tra các hộ CNBS của hai xã Tri Phương và Cảnh Hưng (Bảng 2) cho thấy: Khoảng cách giữa hai lứa đẻ bình quân của một con bò sữa là 400 ngày. Trong đó, thời gian khai thác sữa là 323,5 ngày, thời gian cạn sữa là 76.5 ngày. Năng suất sữa bình quân một chu kỳ khai thác đạt 4.058 kg. Kết quả tổng hợp và phân tích cho thấy tất cả các chỉ tiêu phản ánh năng suất, sản lượng sữa khai thác của xã Tri Phương đều thấp hơn so với xã Cảnh Hưng, trong khi giống bò của hai xã không có gì khác biệt. Mặc dù thời gian cho sữa của bò trong các nông hộ xã Tri Phương dài hơn (30 ngày) so với xã Cảnh hưng, nhưng năng suất sữa một chu kỳ của xã Tri phương lại thấp hơn nhiều so với xã Cảnh Hưng (306 kg/1 chu kỳ). Nguyên nhân chính của sự chênh lệch giá thành giữa hai xã là do môi trường không khí của xã Tri Phương đã và đang bị ô nhiễm nặng nề do khói lò gạch. Với 75 lò gạch lớn nhỏ, nằm phía đông của xã đã làm cho không khí và môi trường của xã Tri Phương ô nhiễm nặng. Chính sự ô nhiễm của khói lò gạch đã làm kéo dài thời gian khai thác sữa và khoảng cách giữa hai lứa đẻ. Điều này đã làm ảnh hưởng lớn tới việc tăng chi phí và giá thành sữa bò tươi của xã Tri Phương so với xã Cảnh Hưng. Bảng 2. Chu kỳ khai thác sữa, năng suất và sản lượng sữa của đàn bò. Chỉ tiêu Đơn vị Tri Cảnh Bình quân Phương Hưng 1. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ ngày 415 385 400 - Thời gian khai thác sữa ngày 340 307 323,5 - Thời gian cạn sữa ngày 75 78 2. Bình quân sản lượng sữa - Năng suất sữa bình quân/ngày kg/ngày 11,5 13,7 12,6 - Năng suất sữa bình quân một chu kỳ kg/chu kỳ 3.910 4.206 4.058 Nguồn: tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2006 Hach toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm sữa bò tươi là khâu quan trọng để kết luận về hiệu quả chăn nuôi bò sữa của các hộ nông dân. Chi phí sản xuất và giá thành sữa bò tươi trong những năm gần đây tăng nhanh do tốc độ tăng giá thức ăn tinh và dịch nở mồm long móng đang hoành hành. Bên cạnh đó, CNBS đòi hỏi một trình độ kỹ thuật toàn diện từ khâu chọn giống, phối giống, chăm sóc, quy mô đàn... nhưng hầu hết các hộ nông dân CNBS còn rất non kém về những vấn đề này. Những nguyên nhân chính đó đã dẫn tới một số hộ nông dân có giá thành sữa cao hơn so với giá bán. Kết quả điều tra, tổng hợp phân tích cho thấy (Bảng 3) chi phí thức ăn chiếm tới 99% chi phí vật chất thường xuyên và gần 70% tổng chi phí cho đàn bò. Chính vì vậy, chất lượng thức ăn, khẩu phần thức ăn, phương pháp và kỹ thuật cho ăn là yếu tố quan trọng trong giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm sữa tươi. Bảng 3. Chi phí thức ăn và chi phí vật chất khác cho chăn nuôi bò sữa (ĐVT: 1000đ) Chỉ tiêu Tri Phương Cảnh Hưng Bình Quân 1. Thời kỹ khai thác sữa 15.079 15.183 15.131 Thức ăn thô xanh 5.152 5.185 5.169 Thức ăn tinh 9.927 9.998 9.963 2. Thời kỳ cạn sữa 1.736 2.053 18.955 Thức ăn thô xanh 1.033 1.188 1.111 Thức ăn tinh 703 865 784 2
  3. 3. Thức ăn khác 124 130 127 4. Phối giống 96 111 104 5. Chi khác (thú y…) 44 52 48 Tổng 17.079 17.529 17.305 Nguồn: tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2006 Chi phí sản xuất và giá thành là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả và trình độ quản lý chi phí của một quá trình sản xuất. Chi phí sản xuất và giá thành sản xuất sản phẩm sữa tươi được trình bày ở bảng 4. Chiếm tỉ trọng lớn nhất trong chi phí chăn nuôi bò sữa là chi phí về thức ăn (thức ăn tinh và thức ăn thô) đã được trình bày ở Biểu 3. Bên cạnh đó, chi phí khấu hao đàn bò chiếm tới 13.5% tổng giá thành sản xuất sữa tươi. Trong những năm gần đây, do chăn nuôi bò sữa lãi thấp, hoặc không có lãi, nhiều hộ nông dân hiện nay đang muốn chuyển đổi sang kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp khác, vì vậy, giá bò sữa giảm mạnh làm cho chi phí khấu hao đàn bò tăng nhanh trong tổng giá thành. Bảng 4. Giá thành sản xuất sữa của các nông hộ huyện Tiên Du - Bắc Ninh (giá năm 2006) Chỉ tiêu ĐVT Tri Phương Cảnh Hưng Bình quân 1. Sản luợng sữa kg 6.203 7.439 6.821 2. Các khoản chi phí 1000đ 26.753 27.614 27.184 CP vật chất thường xuyên “ 19.122 18.988 19.055 Chi phí cố định “ 3.986 4.921 4.454 Chi phí cơ hội (LĐ gia đình) “ 3.645 3.705 3.675 3. Các khoản thu ngoài sữa “ 2.345 2.430 2387.5 Thu từ bán bê đực “ 450 450 450 Thu từ bán bê cái “ 360 240 300 Thu từ phân bón “ 1.535 1.740 1.637,5 Giá thành 1 kg sữa tươi đ/kg 3.934 3.385 3.635 Giá bán sữa tươi mà nông hộ đ/kg 3.700 3.700 3.700 nhận được Nguồn: tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2006 Giá thành sản xuất sữa tươi bình quân chung cho huyện Tiên Du là 3.635 đồng/kg sữa tươi, nếu so với giá sữa mà các hộ nông dân nuôi bò sữa nhận được từ các trạm thu gom sữa (3.700 đồng/kg) thì hầu như không có lãi. Giá thành sữa của các hộ nông dân xã Tri Phương là 3.934 cao hơn giá thu gom sữa, chính vì vậy các hầu hết các hộ nuôi bò sữa của xã Tri Phương bị lỗ vốn. Lãi suất trong chăn nuôi bò sữa hầu như không có, các hộ chỉ lấy công làm lãi và giải quyết nhu cầu lao động dư thừa trong nông thôn. Nguyên nhân chính gây ra hiên tượng này là: Thứ nhất: chăn nuôi bò sữa là nghề rất mới mẻ đối với nông dân Việt Nam nói chung và vùng nghiên cứu nói riêng, vì vậy các nông hộ chăn nuôi bò sữa gặp rất nhiều khó khăn trong việc chăm sóc bò theo đúng quy trình kỹ thuật, đặc biệt trong khâu thú y, chọn, phối giống và kết hợp khẩu phần ăn cho bò sữa. Thứ hai: những người nông dân CNBS không riêng ở huyện Tiên Du mà các khu vực khác đang phải đối mặt với giá thức ăn hỗn hợp (ngô, đậu tương, thức ăn đậm đặc) tăng nhanh trong thời gian vừa qua. Trước đây giá ngô hạt trên thị trường chỉ khoảng 2.200 đồng/kg thì hiện nay giá ngô hạt đã tăng tới gần 2.700 – 2.800 đồng/kg. Trong khi ngô hạt là nguyên liệu chủ yếu chiếm 80% trong thành phần thức ăn hỗn hợp của bò sữa. Thứ ba: Các khoản chi phí cố định tăng nhanh, khấu hao đàn bò với tỉ lệ lớn do bò sữa bị mất giá làm cho giá thanh sữa tăng cao. Thứ tư: 3
  4. hầu hết các hộ chăn nuôi bò sữa không chủ động được thức ăn thô xanh, đặc biệt là về mùa khô, thêm sự thiếu hiểu biết về kỹ thuật chăn nuôi bò sữa hộ cho ăn thêm thức ăn tinh (thay cho thức ăn thô xanh) càng làm cho khẩu phần ăn của bò sữa bị mất cân đối, làm tăng giá thành nhưng không làm tăng chất lượng và sản lượng sữa. Thứ năm: Quy mô đàn bò của các hộ còn nhỏ bình quân 2,8 con/hộ, đây chưa phải là một quy mô phù hợp, theo nghiên cứu thì các hộ chăn nuôi có từ 4-5 con mới có lãi do tiết kiệm được các chi phí trong khâu chăm sóc và chi phí khấu hao tài sản cố định. Thứ sáu: ô nhiễm môi trường không khí tại xã (do khói lò gạch) đã làm cho sinh lý bò sữa bị ảnh hưởng nghiêm trọng, phối giống nhiều lần mới cho kết quả, chu kỳ cho sữa dài kéo dài thời gian cạn sữa và giảm năng suất sữa. 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 4.1 KẾT LUẬN Chăn nuôi bò sữa đã được phát triển ở hai khu vực đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Mê Kông, cũng như ở Bắc Ninh trong những năm 2002 -2003. Chăn nuôi bò sữa đã góp phần thu hút một số lượng đáng kể lao động nông nhàn trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Bình quân chăn nuôi bò sữa đã thu hút được 244,5 ngày công lao động gia đình/hộ/năm. Chăn nuôi bò sữa cũng đã góp phần quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu cây con trong nông nghiệp. Tổng giá trị đàn bò sữa bình quân là 30,4 triệu đồng/hộ, nhưng giá trị hiện tại của đàn bò sữa chỉ còn lại 18,6 triệu đồng/hộ. Tuy nhiên, chi phí thức ăn và chi phí khấu hao đàn bò tăng nhanh do giá nguyên liệu thức ăn tinh (ngô) tăng nhanh và giá bò cái giảm mạnh trong thời gian gần đây. Chi phí thức ăn chiếm gần 70% và chi phí khấu hao đàn bò chiếm gần 14% tổng giá thành. Giá thành đơn vị sản phẩm sữa tươi của nông hộ CNBS xã Tri Phương là 3.934 đồng/1kg sữa tươi, với giá sữa này hiện cao hơn so với giá bán mà các nông hộ nhận được từ các trạm thu mua sữa (3.700 đồng/1kg). Giá thành đơn vị 1 kg sữa tươi trung bình của các nông hộ CNBS ở huyên Tiên Du là 3.635 đồng/1kg sữa tươi gần bằng với giá sữa mà các nông hộ bán cho các trạm thu mua sữa. Điều này cho phép kết luận rằng, CNBS hiện nay là ngành lãi suất rất thấp, thậm trí còn bị lỗ. Nguyên nhân chính của hiện tượng kém hiệu qủa là do: nông hộ thiếu kinh nghiệm, kỹ thuật, quản lý và chăm sóc CNBS; giá thức ăn tăng tinh tăng nhanh hơn giá đầu ra; chi phí khấu hao đàn bò tăng nhanh do giá đàn bò sữa giảm mạnh từ năm 2004; các địa phương và các nông hộ thiếu thức ăn thô xanh trong mùa khô, vì vậy cơ cấu thức ăn cho bò trong mùa khô không cân đối, các hộ nông dân thường cho ăn nhiều thức ăn tinh thay cho thức ăn thô xanh làm tăng giá thành, nhưng hiệu quả không cao. Theo tỉ lệ điều tra, chỉ có 18,2% hộ nghèo tham gia CNBS, hầu hết các hộ này bị lỗ do thiếu kỹ thuật, kinh nghiệm và thiếu vốn đầu tư tới điểm quy mô có lãi (4-5 con bò sữa), tương đương với số vốn khoảng 125 triệu đồng. Vì vậy, CNBS không phải là biện pháp trực tiếp để xoá đói giảm nghèo. 4.2 ĐỀ XUẤT Tập trung giải quyết tình trạng thiếu kỹ thuật, kinh nghiệm trong CNBS hiện nay của các nông hộ thông qua các lớp tuập huấn khuyến nông. Bởi vì, Bò sữa rất mẫn cảm với tác động của các yếu tố tự nhiên, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, sự âu yếm của người nuôi dưỡng. Các tác động này đều có ảnh hưởng đến việc kích thích tiết sữa hoặc làm giảm sự tiết sữa. Giúp các hộ phối hợp khẩu phần thức ăn, đặc biệt là tính cân đối trong khẩu phần thức ăn tinh và thức ăn thô xanh, thức ăn thô xanh trong mùa khô cần đặc biệt trú trọng được dự trữ và đảm bảo nhằm hạ giá thành sản phẩm. Quy mô đàn bò của mỗi nông hộ còn nhỏ (2,8 con) chưa đạt mức quy mô hiệu quả, cần tập trung đầu tư cho các hộ có kinh nghiệm mở rộng quy mô đàn tới 4-5 con bò sữa, giảm các hộ qui mô nhỏ thiếu kinh nghiệm, kỹ thuật chăm sóc. 4
  5. Không nên trợ cấp trực tiếp cho các hộ mua bò giống, nên trợ cấp cho các hộ CNBS một cách gián tiếp thông qua khuyến nông, tập huấn, nâng cao trình độ kỹ thuât, chăm sóc bò sữa, chọn giống, phối giống và công tác thú y tại cơ sở. Giải quyết khâu ô nhiễm môi trường không khí do khói lò gạch gây ra tại xã Tri Phương – Tiên Du - Bắc Ninh. TÀI LIỆU THAM KHẢO DỰ ÁN VIỆT - BỈ. 2006. Phát triển mở rộng chăn nuôi bò sữa xung quanh Hà Nội, giai đoạn 2 - Cục chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn. Đỗ Kim Chung – Kim Thị Dung .2006. Vì sao nông dân không chăn nuôi bò sữa? Tạp chí khoa học kỹ thuật nông nghiệp. Số 4 + 5. Đại học Nông nghiệp I – Hà Nội. LUONG TAN NHO and et el. 2004. Study on competition capacity of dairy cattle production sector of Vietnam. Unpublished. NGHỊ QUYẾT số. 09/2000/NQ-CP ngày 15 tháng 6 năm 2000. NGUYỄN VĂN SONG, TRẦN VĂN ĐỨC, DƯƠNG VĂN HIỂU. 2005. Đánh giá hiệu quả kinh tế của các hộ chăn nuôi bò sữa và không chăn nuôi bò sữa tại năm tỉnh xung quanh Hà Nội. DỰ ÁN BS VIỆT - BỈ. * Khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn - Đại học Nông nghiệp I – Hà Nội Tel: 0912231803 NR: 8766448 5
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2