Báo cáo khoa học: "MẤY KINH NGHIỆM VỀ TIẾP CẬN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC TRÊN THẾ GIỚI "
lượt xem 11
download
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”. ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo khoa học: "MẤY KINH NGHIỆM VỀ TIẾP CẬN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC TRÊN THẾ GIỚI "
- MẤY KINH NGHIỆM VỀ TIẾP CẬN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC TRÊN THẾ GIỚI NGUYỄN XUÂN TẾ Tiến sĩ Khoa học chính trị, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Bài viết sau đây giới thiệu một số kinh nghiệm về tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức ở một số nước trên thế giới.
- Nền kinh tế tri thức (knowledge economy hoặc knowledge based economy: kinh tế dựa trên tri thức; hoặc knowledge driven economy: kinh tế được tri thức dẫn dắt) là nền kinh tế trong đó quá trình sáng tạo và khai thác tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Cũng có thể định nghĩa giản đơn hơn như năm 1996, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra: kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó tri thức đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển kinh tế – xã hội loài người. Chúng ta đều đã rõ, trước đây trong nền kinh tế nông nghiệp, vốn tri thức của con người còn quá mỏng manh, công nghệ lại đang trong tình trạng chưa phát huy được hiệu lực, tác động của tri thức thì gần như chưa đáng kể, nên nền kinh tế nông nghiệp kéo dài sáu, bảy nghìn năm, sự tiến triển hết sức chậm chạp.
- Nhưng vào cuối thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy sự chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. Từ đấy, trong hơn hai trăm năm qua, của cải của loài người đã tăng lên gấp rất nhiều lần so với trước, mọi người đều dễ dàng nhận thấy là khoa học và công nghệ đã đóng góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội. Cho đến đầu thế kỷ XX những thành tựu to lớn của khoa học với vai trò dẫn đầu của thuyết tương đối và thuyết lượng tử, là tiền đề cho cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại ra đời và phát triển bắt đầu từ nửa sau của thế kỷ XX, và đặc biệt trong hai thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ vừa qua đã bước sang giai đoạn mới – giai đoạn bùng nổ thông tin, tri thức, bùng nổ công nghệ… làm tăng nhanh nhịp điệu tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, tạo sự nhảy vọt và biến đổi về chất trong lực lượng sản xuất, trong đó tri thức, thông tin trở thành yếu tố hàng
- đầu của sản xuất, khoa học và công nghệ, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Như Giáo sư Viện sĩ Đặng Hữu đã lưu ý trong bản nghiên cứu “Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam”, đây không chỉ là cách mạng trong khoa học công nghệ, trong phát triển lực lượng sản xuất, mà còn là cách mạng trong các quan niệm, các cách tiếp cận, nó đòi hỏi con người phải đổi mới cách nghĩ, cách làm để thích nghi và làm chủ sự phát triển. Quả vậy, chưa bao giờ vai trò động lực của tri thức, của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế xã hội trở nên rõ ràng, nổi bật như ngày nay. Nền kinh tế tri thức, trong thực tế đã tạo ra những biến đổi to lớn về mọi mặt hoạt động của con người và xã hội: đó là cơ sở hạ tầng mới của xã hội mới – xã hội thông tin. Nền kinh tế này xuất hiện trong mọi lĩnh vực, trong toàn bộ cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu, nền kinh tế tri
- thức đã bắt đầu hình thành. Hiện nay ở những nước này riêng về kinh tế thông tin (những ngành kinh tế dựa chủ yếu vào công nghệ thông tin), trong đó kinh tế tri thức là chủ yếu đã chiếm khoảng 45% - 50% GDP. Trong các nước OECD, kinh tế tri thức đã chiếm hơn 50% GDP, công nhân trí thức chiếm trên 60% lực lượng lao động. Nhiều người ước tính vào khoảng năm 2030 các nước phát triển đều trở thành các nền kinh tế tri thức. Các nước ở Đông Á và Đông Nam Á cũng đang nỗ lực thực hiện chiến lược quốc gia chuẩn bị, đón nhận và vận dụng kinh tế tri thức. Trước hết, xin nói đến Nhật Bản. Theo báo cáo của Cố vấn kinh tế Takashi Kiuchi thuộc Ngân hàng Shinsei ở Tokyo (Nhật Bản) tại hội thảo “Các xu hướng và vấn đề năm 2001: Tăng trưởng kinh tế dựa trên tri thức và những tác động xã hội – chính trị ở Đông Á” tiến hành tại Tokyo ngày 25 và 26 tháng 10 năm 2000, Thủ tướng
- Chính phủ Mori đã thật sự nhanh chóng lựa chọn công nghệ thông tin là một tâm điểm quan trọng duy nhất trong sáng kiến chính sách của mình khi cuộc tổng tuyển cử kết thúc vào tháng 7. Điều này làm cho nhiều nhà quan sát ngạc nhiên bởi vì từ lâu ông Mori đã được biết đến như một nhà hoạch định chính sách giáo dục có kinh nghiệm nhưng lại thiếu kiến thức sâu rộng về công nghệ thông tin. Tuy nhiên, ngay từ đầu tháng 7, ông đã nhanh chóng ban hành một loạt biện pháp chứng minh cho sáng kiến chính sách của mình như chỉ định Hidenao Nakagawa, Tổng thư ký Nội các mới làm Bộ trưởng phụ trách chính sách Công nghệ thông tin, lập ra Ban Chiến lược Công nghệ thông tin trực thuộc Văn phòng Thủ tướng và đích thân làm Trưởng ban của ban ấy. Thủ tướng Chính phủ còn thành lập Hội đồng Chiến lược Công nghệ thông tin dưới sự bảo trợ của Ban Chiến lược và mời các nhà lãnh đạo kinh doanh
- và các nhà khoa học chủ chốt tham gia Hội đồng nhằm bàn bạc kỹ lưỡng về các phương pháp tạo ra xã hội công nghệ thông tin phù hợp nhất với đất nước. Ông Nôbuyuki Idei, Chủ tịch Công ty Sony đã được mời làm Chủ tịch Hội đồng. Đồng thời Thủ tướng còn chớp mọi cơ hội nhằm đẩy mạnh chiến dịch công nghệ thông tin của mình. Một thí dụ rõ rệt là chuyến thăm Ấn Độ gần đây của ông, tại đó ông đã đi thăm Bangalore, thủ đô công nghệ thông tin của Ấn Độ và bàn bạc về khả năng hợp tác với Chính phủ Ấn Độ trong lĩnh vực phát triển công nghệ thông tin. Và khả năng Nhật Bản nhập khẩu chuyên gia công nghệ thông tin từ Ấn Độ đang dồi dào nguồn cung là hoàn toàn có thật. Ở Trung Quốc, mấy năm trước đây cuộc tranh luận về vấn đề nền kinh tế tri thức có phải là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thế giới hay không, đã diễn ra sôi nổi trong giới khoa học Trung Quốc.
- Nhưng hai năm gần đây, một số đã cho rằng nền kinh tế tri thức không chỉ tồn tại trong nhận thức mà đã trở thành một thực tế trong đời sống kinh tế của các nước tiên tiến cũng như ở Trung Quốc. Theo nhà nghiên cứu Tian Zhong Qing thì trong vòng 10 đến 20 năm đầu của thế kỷ XXI, Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ nền kinh tế tri thức vì những lý do sau: - Một là, Chính phủ trung ương đã ban hành chiến lược “thúc đẩy nền kinh tế dựa trên khoa học và giáo dục”. - Hai là, Trung Quốc đã thiết lập một cơ sở nghiên cứu khá vững chắc về khoa học cơ bản và công nghệ với một hệ thống làm việc có sự tính toán kỹ lưỡng đến nhu cầu hiện tại và sự phát triển trong tương lai. - Ba là, việc cải cách hệ thống quản lý trong nghiên cứu khoa học và công nghệ đã đạt được nhiều tiến bộ.
- - Bốn là, Trung Quốc đang đẩy nhanh việc hình thành cơ chế đổi mới của mình với mục tiêu làm cho sức mạnh của đổi mới đạt đến mức độ của các quốc gia tiên tiến trung bình vào năm 2010. - Năm là, sự phát triển nhanh của các ngành công nghệ cao. Thí dụ các ngành điện tử và thông tin đã nằm trong 10 ngành công nghiệp chủ yếu của Trung Quốc. - Sáu là, sự hình thành các công viên công nghệ cao. Trung Quốc đã có 53 công viên công nghệ cao ở cấp Nhà nước. Đến nay chúng đang đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút công nghệ, xây dựng cơ chế đổi mới. - Bảy là, sự lớn mạnh của các doanh nghiệp tư nhân. Hàn Quốc hiện nay đang đứng ở hàng thứ 30 trên thế giới về sức cạnh tranh khoa học công nghệ, xác định chỉ có phát triển công nghệ thông tin mới đứng vững trong xu thế cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ và đặt
- mục tiêu năm 2010 sẽ vươn lên đứng hàng thứ 12, ngoài ra còn đặt kế hoạch tăng khoảng 18% vốn đầu tư cho các dự án phát triển công nghệ cao. Cũng nên kể thêm rằng ngay cả những nước đang phát triển và kém phát triển cũng đã và đang tích cực vạch ra chiến lược tranh thủ tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức. Một số nước như Malaysia, Thái Lan… cũng tích cực chuẩn bị cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế tri thức, trong đó coi công nghệ thông tin là ưu tiên hàng đầu. Một thí dụ thành công điển hình trong việc hướng tới kinh tế tri thức là vùng Bangalore (Ấn Độ) mà chúng ta đã nhắc đến ở trên. Trước kia, nơi đây rất lạc hậu, nhờ Chính phủ nước này tập trung đầu tư phát triển, Bangalore ngày nay trở thành một trong những trung tâm sản xuất và xuất khẩu phần mềm lớn nhất Châu Á với hơn 250 công ty trong và ngoài nước. Ấn Độ
- dự kiến doanh thu từ xuất khẩu phần mềm đạt hơn 5 tỷ USD năm 2000 và đến năm 2008 đạt 50 tỷ USD. Ở Phần Lan, một đất nước về mặt địa lý, rừng và đầm lầy chiếm đại bộ phận diện tích. Trước đây 50 năm, nước này là một nước nông lâm nghiệp, dân số nông nghiệp chiếm trên 70%, nay chỉ còn 6%, rừng trước đây giữ vai trò chủ yếu trong kinh tế nay chỉ chiếm không đến 3% GDP. Nước này từ kinh tế nông nghiệp đi nhanh vào kinh tế tri thức, hiện nay đang đứng đầu thế giới về tỷ lệ số người sử dụng Internet và điện thoại di động. Một trong những đặc điểm quan trọng nhất để phát triển kinh tế tri thức là lao động phải qua đào tạo ở trình độ cao. Nguồn lao động ấy hiện nay đang ở trong các trường học. Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế tri thức, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
- đại hóa đất nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Về vấn đề này, Giáo sư Phạm Minh Hạc trong bài: “Kinh tế tri thức và giáo dục – đào tạo, phát triển con người” (Nhân Dân số ra ngày 10/7/2000) đã nêu rõ nền kinh tế tri thức đòi hỏi phải có một cách nhìn mới đối với giáo dục và có đề xuất một số biện pháp chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục đào tạo phục vụ công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Là người từng giữ cương vị phụ trách Bộ Giáo dục và đã viết nhiều cuốn sách bàn về giáo dục, nên các biện pháp ông đưa ra đều có tính thuyết phục đối với mọi người. Vì vậy, chúng tôi chỉ nhấn mạnh thêm phương hướng mới để phát triển giáo dục: đó là giáo dục suốt đời, phổ cập công nghệ trên cơ sở giáo dục nhân cách theo tinh thần giáo dục nhân văn, nhân bản. Cũng cần nhắc lại là quan điểm giáo dục suốt đời do UNESCO đề ra từ năm 1972 ngày càng trở thành một quan
- điểm chủ đạo của nền giáo dục cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, đặc biệt trong nền giáo dục phục vụ sự phát triển nền kinh tế tri thức. Tư tưởng đó đã được Ủy ban Giáo dục đi vào thế kỷ XXI của UNESCO khẳng định lại một lần nữa như là một tư tưởng chỉ đạo sự phát triển giáo dục đào tạo trong thời đại ngày nay; có thể nói quả quyết rằng thế kỷ XXI là thế kỷ của giáo dục thường xuyên. Nền kinh tế tri thức đòi hỏi mỗi người phải luôn luôn bổ sung tri thức mới và trong thời đại thông tin có cơ sở vật chất để làm việc đó. Nhìn chung, chúng ta thấy rất rõ các nước đang vạch ra chiến lược tranh thủ tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức chú ý thực hiện các vấn đề này. Nhật Bản gần đây đã đẩy mạnh cải cách giáo dục nhằm đào tạo ra những con người năng động, sáng tạo hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học của đất nước trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Mỹ chi phí
- khoảng 7% GDP/năm cho việc đào tạo và phát triển nhân tài. Ở Mỹ, trung bình một nhân viên của tập đoàn Microsoft và hãng chế tạo máy bay Boeing tạo ra 6,7 và 3,8 việc làm. Mới đây, Quốc hội Mỹ đã thông qua dự luật cho phép cấp thị thực H-1B không hạn chế trong vòng 3 năm tới cho những chuyên gia và công nhân lành nghề nước ngoài. Giáo sư Hoàng Tụy trong bài: “Đổi mới tư duy để vào kinh tế tri thức” (Văn Nghệ số 15 ra ngày 14/4/2001) có kể lại câu chuyện khá tiêu biểu sau đây: Nhận thấy vai trò trung tâm của tư duy toán học trong sự phát triển công nghệ thông tin, trong cuộc cách mạng số hóa, những phát minh công nghệ khoa học lớn đều dính đến toán học, những lĩnh vực nghiên cứu nóng nhất ngày nay đều sử dụng toán ở trình độ rất cao, hãng IBM đã trả lương cho một nhà toán học hàng chục năm chỉ với nhiệm vụ tự do theo đuổi những ý tưởng toán học của mình, nhờ đó ông này đã phát minh ra lý thuyết Fractals ngày nay có ứng dụng rộng rãi,
- chẳng những trong công nghệ thông tin mà cả nhiều lĩnh vực khác, kể cả nghệ thuật. Ngoài ra, phải kể đến Ấn Độ là quốc gia đã đạt được thành công bước đầu trong việc hàng năm đưa hàng chục nghìn chuyên gia và công nhân lành nghề sang nghiên cứu và làm việc tại các trung tâm công nghệ cao của Mỹ. Nhiều người trong số họ thành đạt, nắm bắt được tri thức tiên tiến, trở về quê hương góp phần phát triển kinh tế đất nước. Và ngay trong khu vực các nước ASEAN, Chính phủ Singapore từ lâu đã thừa nhận tầm quan trọng của nguồn vốn con người như một nguồn lực cơ bản cho phát triển kinh tế. Bên cạnh việc đầu tư mạnh vào giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, Chính phủ đã mở rộng tối đa việc tuyển dụng những nhân công của các công ty đa quốc gia nước ngoài ngay từ khi bắt đầu quá trình công nghiệp hóa, và thực hiện một chính sách năng động để thu hút lao động có kỹ năng
- và tài năng ở nước ngoài vào tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, bao gồm cả khu vực công cộng. Song, việc dịch chuyển hướng tới một nền kinh tế dựa trên tri thức đã làm tăng mạnh vốn đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực. Một bộ mới – Bộ nhân lực đã được thành lập theo kiến nghị của Ủy ban cạnh tranh Singapore, và một kế hoạch nhân lực chiến lược mới được gọi là “Kế hoạch nhân lực 21” đã được đưa ra. Kế hoạch nhấn mạnh cả hai khía cạnh thu hút những tài năng mới vào các ngành công nghiệp sử dụng nhiều tri thức đã được xác định, cũng như đào tạo lại và tận dụng nguồn lao động đang có sẵn. Kế hoạch cũng nhấn mạnh tầm quan trọng phải chuẩn bị những công nhân cho “một đời nhiều nghề nghiệp” hơn là “một nghề nghiệp suốt đời”, trong nền kinh tế mới, và nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng tăng của việc học tập suốt đời.
- Các thể chế nghiên cứu và phát triển khoa học R&D được công nhận có một vai trò quan trọng ngày càng tăng trong việc thu hút và đào tạo toàn bộ thế hệ mới các nhà khoa học và kỹ sư “sáng tạo tri thức” R&D. Nhiều người trong số họ được trông đợi sẽ làm việc trong khu vực tư nhân. Như vậy các thể chế nghiên cứu và phát triển khoa học R&D được nhìn nhận như một chất dẫn xuất cho việc chuẩn bị và phân phối nguồn vốn con người cho các ngành công nghiệp mới sử dụng nhiều tri thức trong trung hạn. Điều này có thể được xem như một sự bổ sung cho vai trò giáo dục rộng hơn của các trường Đại học và các trường kỹ nghệ. Chính phủ Singapore luôn công nhận tầm quan trọng của việc học hỏi từ các nước tiên tiến. Tuy nhiên, mãi cho tới gần đây, Singapore mới đồng ý với việc nhận tri thức được tạo ra từ các nước khác, thông qua việc phối hợp gửi những người giỏi nhất đi học ở các
- trường Đại học danh tiếng ở nước ngoài, nhập khẩu các thiết bị công nghệ mới nhất, li-xăng bằng sáng chế công nghệ từ những công ty và thể chế ở nước ngoài, khuyến khích các công ty đa quốc gia nước ngoài chuyển giao công nghệ vào những hoạt động của họ ở Singapore, thu hút những tài năng ở nước ngoài và tiến hành những hoạt động học tập mô phỏng khác nhau. Trên đây là một số việc làm của một vài nước khi tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức. Với Việt Nam, để tiến tới nền kinh tế tri thức, chúng ta cần tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đi đôi với việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc đồng thời học tập những bài học thành công của những nước đi trước. Thực hiện tốt các giải pháp trên đây, chúng ta
- tin chắc sẽ gặp nhiều thuận lợi trên bước đường tiến vào nền kinh tế tri thức.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ khoa học máy tính: PHƯƠNG PHÁP PHÂN CỤM VÀ ỨNG DỤNG
100 p | 295 | 124
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Thực trạng nhân sự và một số giải pháp cải thiện công tác quản lí nhân sự tại một số doanh nghiệp da giày ở Hải Phòng – nghiên cứu điển hình tại công ty TNHH Đỉnh Vàng
102 p | 516 | 97
-
PHƯƠNG PHÁP TRÌNH BÀY BÁO CÁO KHOA HỌC - TRUNG TÂM CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
6 p | 334 | 70
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "GIẢI THUẬT TÌM ĐƯỜNG ĐI NGẮN NHẤT GIỮA HAI TẬP ĐỈNH"
6 p | 275 | 53
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu và đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đãi ngộ lao động tại công ty TNHH may xuất khẩu Minh Thành
73 p | 228 | 40
-
Báo cáo Nghiên cứu thiết kế chế tạo các bộ điều khiển CNC phục vụ cho chương trình sản xuất
84 p | 152 | 36
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Giải pháp mở rộng thị trường nội địa của công ty Cổ Phần may Hồ Gươm tại thị trường miền Bắc
72 p | 195 | 35
-
Báo cáo ĐTM Nhà máy chế biến mủ cao su Số 2 - Công ty 75 - Tổng công ty 15
85 p | 129 | 21
-
Báo cáo khoa học: "THIẾT KẾ, CHẾ TẠO HỆ THỐNG ĐIỀU KHIỂN TAY MÁY PHỤC VỤ ĐÀO TẠO NGHỀ SỬ DỤNG VI ĐIỀU KHIỂN AVR ATmel"
6 p | 96 | 19
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THÀNH PHẦN LOÀI VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ CỦA NHÓM BƯỚM NGÀY (RHOPALOCERA: LEPIDOPTERA) Ở KHU VỰC NHÀ MÁY THUỶ ĐIỆN A VƯƠNG, TỈNH QUẢNG NAM "
9 p | 139 | 17
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Hoàn thiện công tác doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh nhằm tăng cường quản lý tài chính tại Chi nhánh số 1 Công ty Cổ phần thép và vật tư Hải Phòng - Nhà máy cáp thép FCT và dây hàn điện
148 p | 96 | 14
-
Báo cáo khoa học: "Nắm bắt cách mạng tri thức, cách mạng thông tin, nhanh chóng hiện đại hoá giao thông vận tải nước ta"
6 p | 66 | 14
-
Tạp chí Khoa học và Công nghệ hạt nhân số 35 tháng 6 năm 2013
43 p | 82 | 11
-
Báo cáo khoa học: Hiệu lực của chitosan vỡ ga3, A - naa đến hoạt động quang hợp của cây ngô lvn10 trồng chậu vụ đông 2006 tại Gia Lâm - Hà Nội
7 p | 60 | 7
-
Báo cáo khoa học: " ỨNG DỤNG QUI HOẠCH ĐỘNG XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TÍNH TOÁN ĐIỀU TIẾT NĂM THEO MÔ HÌNH TẤT ĐỊNH CỦA HỒ CHỨA NHÀ MÁY THỦY ĐIỆN LÀM VIỆC ĐỘC LẬP"
7 p | 102 | 6
-
Báo cáo khoa học: " NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ MẠNG LƯỚI ĐIỆN TRUNG THẾ TP. ĐÀ NẴNG BẰNG GIS"
6 p | 92 | 5
-
Báo cáo: Bước đầu triển khai xạ phẫu não bằng kỹ thuật DCAT tại khoa xạ trị - bệnh viện E
25 p | 12 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn