intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo khoa học: "VÀI NÉT VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY NGOẠI NGỮ HIỆN ĐẠI"

Chia sẻ: Nguyễn Phương Hà Linh Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

80
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt: Ngoại ngữ đã trở thành một môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo của hầu hết các trường Đại học ở nước ta từ nhiều năm nay. Việc dạy và học ngoại ngữ thế nào cho hiệu quả đã được nhiều chuyên gia đề cập đến. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả muốn giới thiệu một số yếu tố cần thiết để học ngoại ngữ trên lớp thành công và một vài mô hình dạy học có ảnh hưởng đến thực tế giảng dạy hiện nay....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo khoa học: "VÀI NÉT VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY NGOẠI NGỮ HIỆN ĐẠI"

  1. VÀI NÉT VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY NGOẠI NGỮ HIỆN ĐẠI CN. HOÀNG QUỐC KHÁNH Bộ môn Anh văn Khoa Khoa học cơ bản Trường Đại học Giao thông Vận tải Tóm tắt: Ngoại ngữ đã trở thành một môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo của hầu hết các trường Đại học ở nước ta từ nhiều năm nay. Việc dạy và học ngoại ngữ thế nào cho hiệu quả đã được nhiều chuyên gia đề cập đến. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả muốn giới thiệu một số yếu tố cần thiết để học ngoại ngữ trên lớp thành công và một vài mô hình dạy học có ảnh hưởng đến thực tế giảng dạy hiện nay Summary: Foreign language has become a compulsory subject in the curriculums of most of the universities in our country for many years. How to teach and learn foreign languages effectively has been mentioned by many specialists. In this report, only some necessary factors to learn foreign languages successfully in class time and some basic teaching methods are introduced. đó. Thậm chí ngay ở những nước mà một phương pháp nào đó được sử dụng rộng rãi, I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP CNTT-CB cũng khó có thể biết chắc chắn có bao nhiêu DẠY NGOẠI NGỮ người sử dụng phương pháp đó vì điều này rất Cho đến những năm đầu thập kỷ 70 của khó kiểm soát. thế kỷ XX, các nhà sư phạm và chuyên gia vẫn tin tưởng một cách chắc chắn rằng phải có Từ trước tới nay có 5 phương pháp dạy một phương pháp dạy ngoại ngữ chuẩn. Việc ngoại ngữ đã từng thịnh hành vào những thời tìm kiếm phương pháp chuẩn này là động lực điểm khác nhau và ở những nước khác nhau cho những nghiên cứu về giảng dạy ngoại ngữ trên thế giới. Đó là phương pháp ngữ pháp- trong mấy chục năm qua. Đã có nhiều vấn đề dịch, phương pháp trực tuyến, cách tiếp cận chủ chốt và các tiến trình được đưa ra làm nền tình huống cấu trúc, phương pháp luyện tiếng tảng cho phương pháp dạy ngoại ngữ hiện đại. và phương pháp nghe nhìn. Cơ sở lý thuyết và thực hành của những phương pháp này cũng Thực tế giảng dạy ngoại ngữ rất đa dạng như vấn đề nảy sinh trong quá trình tranh luận và phức tạp. Sự thịnh hành của một phương về những điểm mạnh, yếu của những phương pháp nào đó trong một giai đoạn nào đó pháp này cho đến nay vẫn có ảnh hưởng lớn không có nghĩa là các phương pháp khác bị đến thực tế giảng dạy ngoại ngữ. triệt tiêu, không được sử dụng nữa. Một phương pháp mới ra đời không có nghĩa là có Có thể nói giao tiếp vẫn là mục đích cuối thể thay thế được hết các phương pháp trước cùng của tất cả các phương pháp dạy học
  2. ngoại ngữ từ trước tới nay. Tuy nhiên, tất cả được. Do đó, nhiệm vụ của người thầy là phải tạo ra những điều kiện học tập thích hợp để các phương pháp này đều cho rằng hành trình đảm bảo cho người học được kích thích, được đến đích đơn giản là thông qua việc nắm giữ tiếp xúc ngôn ngữ và có cơ hội để sử dụng cấu trúc và từ vựng. Cách tiếp cận giao tiếp ngôn ngữ đang học. Có 3 yếu tố cần thiết để như chính tên gọi của nó cho thấy phương giúp sinh viên học ngoại ngữ thành công trên pháp này chú trọng vào khả năng giao tiếp. lớp, đó là thu hút sự chú ý, nghiên cứu và kích Cách tiếp cận giao tiếp kế thừa kế thừa tất cả hoạt. những gì tích lũy được trong lịch sử giảng dạy ngoại ngữ trên thế giới. Về nguyên tắc, Thứ nhất: Thu hút sự chú ý (Engage) là phương pháp này chấp nhận tất cả các hoạt thời điểm khởi đầu trong tiến trình giảng dạy động học tập giúp làm tăng khả năng giao tiếp khi người dạy cố gắng kích thích mối quan của người học. tâm của người học, lôi cuốn sự chú ý của người học. Người dạy có thể sử dụng các hoạt Đặc điểm nổi bật nhất của cách tiếp cận động hay giáo cụ trực quan để thu hút sự chú giao tiếp là nó nhấn mạnh vào vai trò tích cực ý của người học như trò chơi, tranh ảnh, của người học. Nó yêu cầu người học phải tìm truyện cười, băng nhạc… cách tạo ra lời nói. Chính vì vậy đa số các hoạt động trên lớp đều chủ yếu xoay quanh Thứ hai: Nghiên cứu (Study) là những người học (lấy người học làm trung tâm). hoạt động yêu cầu người học tập trung vào những hiện tượng ngôn ngữ cụ thể. Người học Cách tiếp cận giao tiếp thông thường có thể nghiên cứu theo nhiều cách khác nhau: được tiến hành theo một tiến trình khá quen Giáo viên có thể giải thích ngữ pháp, người CNTT- thuộc là trình bày, thực hành giao tiếp và sáng CB học có thể tự nghiên cứu để tìm ra quy luật tạo. Đây là những yếu tố thiết yếu mà người ngữ pháp. Nghiên cứu giai đoạn này tập trung dạy ngoại ngữ nào cũng phải nắm được để đạt chủ yếu vào cấu trúc ngôn ngữ. được hiệu quả cao nhất trên lớp, tạo hứng thú Thứ ba: Kích hoạt (Ativate) là giai đoạn cho người học, giúp người học nắm được các mà các bài tập và các hoạt động được thiết kế kiến thức cơ bản và vận dụng chúng vào thực để giúp người học sử dụng ngôn ngữ một cách tế giao tiếp một cách nhuần nhuyễn. Sau đây, tự do gần với giao tiếp thông thường nhất. chúng tôi sẽ xem xét cụ thể những yếu tố này. Mục đích đối với người học không phải là chú II. PHƯƠNG PHÁP DẠY THỰC HÀNH trọng vào cấu trúc ngôn ngữ và luyện tập TRÊN LỚP những mảng cụ thể như quy tắc ngữ pháp, từ vựng hay chức năng mà họ phải vận dụng 2.1. Những yếu tố cần thiết để học được tất cả các kiến thức ngôn ngữ đã học ngoại ngữ trên lớp thành công được một cách thích hợp vào một tình huống Mọi người đều thừa nhận rằng điều kiện hay một chủ đề cụ thể. tốt nhất để học ngoại ngữ là người học được Ba yếu tố trên cần có trong hầu hết các tiếp xúc trực tiếp với ngôn ngữ đang học trong giờ giảng hay tiến trình giảng dạy cho dù đó môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, đây là điều có thể là một giờ giảng ngữ pháp, hay giảng kiện không phải lúc nào chúng ta cũng có
  3. lập mối liên hệ mật thiết và rõ ràng giữa cái một bài đọc, một bài viết… Các yếu tố ESA người học cần biết và cái được dạy. Tuy nhiên cần phải có trong một giờ giảng nhưng điều cách này đòi hỏi người thầy phải chuẩn bị đó không có nghĩa là chúng phải xuất hiện những tài liệu giảng dạy cần thiết dựa trên sự theo đúng trật tự đó. Điều chúng ta cần là phán đoán về những vấn đề sẽ nảy sinh trong không được làm cho người học nhàm chán với quá trình kích hoạt. Phương pháp này thích một tiến trình bài giảng lặp đi lặp lại. Trách hợp với người học ở trình độ trung cấp và cao nhiệm của người thầy là phải đa dạng hóa tiến cấp. trình cũng như nội dung bài giảng để thu hút sự hứng thú của người học. Trên đây là hai cách tiếp cận khác nhau trong phương pháp giảng dạy ngoại ngữ. Tuy 2.2. Cách áp dụng 3 yếu tố ESA vào nhiên, không phải bài giảng nào cũng có tiến tiến trình giờ giảng trình rõ ràng như vậy. Các bài giảng có thể là Chúng ta có thể áp dụng tiến trình ESA một sự đan xen các tiến trình nhỏ. theo một đường thẳng, có nghĩa là trước tiên giáo viên thu hút sự chú ý của lớp học, sau đó 2.3. Các mô hình dạy học có ảnh sinh viên sẽ nghiên cứu một hiện tượng ngôn hưởng đến thực tế giảng dạy hiện nay ngữ nào đó, cuối cùng họ sẽ cố gắng kích hoạt Trong những năm gần đây có 5 mô hình hiện tượng ngôn ngữ này bằng cách tạo ra dạy học có ảnh hưởng lớn đến thực tế giảng những sản phẩm lời nói. dạy trên lớp và vẫn được các nhà sư phạm áp Các giờ giảng theo mô hình mũi tên dụng. Sau đây chúng tôi sẽ điểm qua từng mô thẳng rất có hiệu quả đối với một số cấu trúc hình một. CNTT-CB nhất định. Nó cũng có thể tạo cơ hội cho * Ng ữ pháp-dịch (Grammar- người học thực hành ngôn ngữ một cách có translation) kiểm soát trong giai đoạn nghiên cứu và kích Những người theo phương pháp này cho hoạt kiến thức mới một cách thoải mái và hiệu rằng bằng cách phân tích ngữ pháp và tìm ra quả. những tương đồng giữa tiếng mẹ đẻ và ngôn Tuy nhiên nếu chỉ sử dụng tiến trình theo ngữ đang học, người học sẽ có cơ hội tìm hiểu một đường thẳng này thì chúng ta sẽ không xem ngôn ngữ mình đang học có cấu trúc như tạo cơ hội cho người học phát huy cách học thế nào. Phương pháp này dựa trên một thực của riêng mình. Tiến trình này có thể có hiệu tế là hầu hết người học ngoại ngữ ở một giai quả khi dạy các cấu trúc ngôn ngữ đơn giản, đoạn nhất định đều tìm cách dịch trong đầu nhưng nó có thể không phù hợp khi giảng dạy những gì mình đang học ra tiếng mẹ đẻ để đối các cấu trúc ngôn ngữ phức tạp. chiếu. Tuy nhiên nếu quá lạm dụng phương pháp này người học sẽ không tiếp xúc được Các yếu tố ESA cũng có thể được kết với ngôn ngữ tự nhiên và không có cơ hội để hợp theo kiếu “Boomerang”: E - A - S - A . thực hành những kiến thức mà họ đã học Theo cách này, giáo viên nắm bắt và đáp ứng được. Hiện nay, phương pháp này vẫn được những nhu cầu của người học. Các kiến thức áp dụng và tỏ ra vẫn còn hiệu quả đối với ngôn ngữ chỉ được dạy khi người học có nhu người học ở trình độ cao. cầu cần biết. Điều này rất hữu ích vì nó thiết
  4. đọc hiểu. * Luyện tiếng (Audio-lingualism) Đây là phương pháp dạy ngoại ngữ dựa Các học giả vẫn, đang và sẽ còn tranh trên những lý thuyết về hành vi. Người ta cho luận nhiều về các phương pháp giảng dạy rằng học là kết quả của việc hình thành những ngoại ngữ. Gần đây có nhiều phương pháp thói quen bằng cách luyện tập. Các lớp học giảng dạy mới được giới thiệu như hoạt động luyện tiếng yêu cầu người học nhắc đi nhắc lại khám phá (Discovery activities), phương pháp các mẫu câu khác nhau nhằm tạo cho họ từ vựng (Lexical approach)… Dù có là những thói quen ngôn ngữ. Trong quá trình phương pháp gì đi chăng nữa thì 3 yếu tố ESA nhắc đi nhắc lại như vậy, người ta hy vọng vẫn luôn là cơ sở tạo nên thành công cho việc người học sẽ ghi nhớ và vận dụng vào thực tế dạy và học ngoại ngữ. Nhiệm vụ của người giao tiếp. Tuy nhiên cách luyện này chỉ phù dạy là phải biết kết hợp các phương pháp khác hợp với người học ngoại ngữ ở giai đoạn đầu. nhau để có được kết quả cao nhất. * Giới thiệu, thực hành, tự tạo lời nói III. KẾT LUẬN (Presentation, Practice, Production) Có thể nói rằng phương pháp dạy ngoại Đây là phương pháp tương tự như mô ngữ hiện đại chỉ là khái niệm tương đối. Một hình mũi tên thẳng ở trên. Trong các giờ phương pháp có thể được coi là mới ở nơi này giảng, giáo viên đưa ra tình huống hay ngữ nhưng ở nơi khác đã bị coi là lạc hậu. Có cảnh cho kiến thức ngôn ngữ cần giảng, giải những phương pháp tuy ra đời đã lâu nhưng thích ý nghĩa và cấu trúc ngôn ngữ, sau đó vẫn có những điểm mạnh không thể phủ nhận. minh họa cách sử dụng. Tiếp đó người học CNTT- Nhiệm vụ của người thầy là phải biết tiếp luyện cách đặt câu hay làm các bài tập có sử CB cận những phương pháp mới và kế thừa dụng kiến thức ngôn ngữ mới này trước khi những phương pháp của các thế hệ trước. họ có thể nói một cách tự do hơn về mình hay Điều quan trọng nhất là chúng ta phải luôn lấy những người thật, việc thật khác. người học làm trung tâm, nắm bắt các nhu cầu * Học theo bài tập (Task-based của người học, lấy họ làm tấm gương để Learning) chúng ta soi mình, không cho phép mình được trì trệ và nhàm chán trong con mắt của những Theo phương pháp này giáo viên tập người khao khát học hỏi, khao khát tri thức. trung chủ yếu vào việc hướng dẫn người học làm bài tập. Phương pháp này về cơ bản cũng giống như mô hình Boomerang nói trên. Tài liệu tham khảo * Dạy ngoại ngữ giao tiếp [1]. Asher R. E. (ed) et al (1994). The (Communicative Language Teaching) Encyclopedia of Language and Linguistics. Đây là phương pháp dạy ngoại ngữ hiện Oxford. đang chiếm ưu thế trên thế giới. Phương pháp [2]. Gower R. et al (1995). Teaching Practice này chứng tỏ được tính ưu việt vì mục đích Handbook. Heinemann. của nó là giúp người học giao tiếp được, chứ [3]. Harmer J. (1998). How to teach English. không phải chỉ biết đến ngoại ngữ theo kiểu Longman♦
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2