Báo cáo thực hành những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
lượt xem 9
download
I.Thực tiễn : 1.Khái niệm: _Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. _Hoạt động thực tiễn là loại hoạt động mà con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất nhất định làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Đó là những hoạt động đặc trưng và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không ngừng phát triển qua các thời...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo thực hành những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐH THƯƠNG MẠI Nhóm 8 Hà Nội,24-11-2011 1
- Xin chào tất cả mọi người. Lời đầu tiên,cho tất cả các thành viên nhóm 8 gửi lời chúc sức khỏe,thành đạt với tất cả mọi người. Có thể với mọi người môn học này rất khô khan,khó hiểu,nhưng với khả năng của mình,nhóm 8 hi vọng sẽ giúp các bạn có một tiết học thú vị,dễ hiểu,nắm được những vấn đề cốt lõi nhất với cách tiếp cận vấn đề một cách đơn giản,dễ hiểu nhưng rất thú vị.Chúc mọi người thành công. Tác giả Thành viên nhóm 8 Ghi chú: 1.Nguyễn Thị Nhung 2.La Thị Nguyệt 3.Trịnh Thị Ninh D1 4.Trịnh Thị Ninh D2 5.Nguyễn Thị Bích Phượng 6.Bùi Thị Nhung 7.Ngô Thị Minh Phương 8.Đoàn Thanh Phương 9.Phạm Thị Hồng Ngọc 10.Trần Minh Phúc 11.Phạm Thị Mai Ngọc 2
- Phụ lục •Lời nói đầu 2 •Tóm tắt nội dung 4 •Thực tiễn……………………………………………………………5 •Nhận thức…………………………………………………………..9 • Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn……………17 •Ý nghĩa phương pháp luận…………………………………………22 •Tổng kết…………………………………………………………….23 3
- CÂU HỎI:PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN.Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬ?. Để trả lời câu hỏi này ta phải tập trung vào các nội dung chính sau: THỰC TIỄN NỘI DUNG LÀ GÌ? CHÍNH NHẬN THỨC MỐI QUAN HỆ BIỆN THỰC TIỄN Ý NGHĨA PHƯƠNG CHỨNG GIỮA NHẬN PHÁP LUẬN LÀ GÌ? LÀ GÌ? THỨC VÀ THỰC TIỄN BẢN CHẤT MỐI ĐỊNH NGHĨA ĐỊNH NGHĨA QUAN HỆ TÍNH CHẤT MỐI PHÂN LOẠI PHÂN LOẠI QUAN HỆ NỘI DUNG TÍNH CHẤT TÍNH CHẤT 4
- I.Thực tiễn : 1.Khái niệm: _Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. _Hoạt động thực tiễn là loại hoạt động mà con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất nhất định làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Đó là những hoạt động đặc trưng và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không ngừng phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Bởi vậy hoạt động thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất mang tính sáng tạo và có tính mục đích và tính lịch sử xã hội. 2.Phân loại: Thực tiễn biểu hiện qua ba hình thức cơ bản: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG SẢN HOẠT ĐỘNG THỰC NGHIỆM XUẤT VẬT CHẤT CHÍNH TRỊ XÃ HỘI KHOA HỌC •Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình. 5
- 6
- • Hoạt động chính trị-xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. 7
- •Thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động này có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội,đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. 8
- 3.Tính chất: _Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau , không thể thay thế cho nhau song chúng có mối quan hệ chặt chẽ , tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất có vai trò quan trọng nhất, đón vai trò quyết định đối với các hoạt động thực tiễn khác. Bởi vì, nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống của con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu nhất, có tính quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình thức thực tiễn khác. Các hình thức thực tiễn khác,suy đến cùng cũng xuất phát từ thực tiễn sản xuất vật chất và nhằm phục vụ thực tiễn sản xuất vật chất. II.Nhận thức : 9
- 1.Định nghĩa: _Trong lịch sử phát triển, triết học có nhiều quan điểm khác nhau, trái chiều nhau về nhận thức. Nhưng tất cả các trào lưu triết học trước Mác đều quan niệm sai lầm và phiến diện về nhận thức, những vấn đề lý luận nhận thức chưa được giả quyết một cách khoa học, đặc biệt chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức: +Thuyết không thể biết và thuyết hoài nghi cho rằng con người không thể nhận thức được bản chất bên trong của sự vật mà chỉ nhận thức được thuộc tính bên ngoài. +Theo chủ nghĩa duy tâm khách quan, họ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất,coi nhận thức là sự “hồi tưởng” lại của linh hồn bất tử về “thế giới các ý niệm” hoặc là sự “tự ý thức về mình của ý niệm tuyệt đối”. +Chủ nghĩa duy tâm chủ quan lại cho rằng nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm giác của con người, là do những cảm xúc, tri giác của con người mà nhận thức được thế giới. +Chủ nghĩa duy tâm chủ quan lại cho rằng nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm giác của con người, là do những cảm xúc, tri giác của con người mà nhận thức được thế giới. Chủ nghĩa Mác-Lênin, bằng sự kế thừa và phát triển những thành quả vĩ đại nhất của những học thuyết đã có, Các Mác và Ăng ghen đã xây dựng lên học thuyết biện chứng duy vật về nhận thức. Học thuyết này ra đời tạo ra một cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức vì đã xây dựng được những quan điểm khoa học đúng đắn về bản chất của nhận thức _Từ đó,người ta có định nghĩa sau: Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc của con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm tạo ra những tri thức về thế giới khách quan. Đó là quan điểm duy vật biện chứng về nhận thức. Quan điểm này xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản sau đây: + Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý chí của con người. + Thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan . + Khẳng định sự phản ánh đó là quá trình biện chứng, tích cực và tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều, từ chưa sâu sắc chưa toàn diện đến sâu sắc và toàn diện hơn….. + Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực và mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. 10
- 11
- 2.Phân loại: a)Theo quan điểm duy vật biện chứng , nhận thức là một quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận, từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học. Như vậy, theo quan điểm duy vật biện chứng thì nhận thức thuộc phạm vi hoạt động, phản ánh của con người( với tư cách là chủ thể nhận thức ) đối với thế giới khác quan( với tư cách khách thể nhận thức ), được tiến hành thông qua các hoạt động thực tiễn, và nhằm sáng tạo tri thức phục vụ hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng lấy thực tiễn là tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của những tri thức đó. NHẬN THỨC NHẬN THỨC NHẬN THỨC NHẬN THỨC LÍ NHẬN THỨC KINH NGHIỆM LUẬN THÔNG THƯỜNG KHOA HỌC 12
- +Nhận thức kinh nghiệm: là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật và hiện tượng trong giới tự nhiên xã hội hoặc qua các thí nghiệm khoa học.Kết quả thu được là những tri thức kinh nghiệm: kinh nghiệm thông thường và kinh nghiệm khoa học, hai tri thức đó bổ sung và làm phong phú lẫn nhau.=>Tri thức kinh nghiệm. VD:Ông cha ta từ xưa vẫn có câu:”Nhất nước,nhì phân,tam cần,tứ giống”,”Đi một ngày đàng học một ngày đàng,học một sàng khôn”.Đó là sự đúc kết của cho ông từ kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp,từ cuộc sống hàng ngày. +Nhận thức lý luận : là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng có tính hệ thống trong việc khái quát bản chất và quy luật của các sự vật hiện tượng.=>Tri thức lí luận. VD: Trong cuộc sống hàng ngày,mọi người đều nhận thức được một năm có 4 mùa,có ngày và đêm,có trăng rằm và trăng khuyết…… Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau nhưng quan hệ biện chứng lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, cung cấp những tư liệu phong phú cụ thể nó trực tiếp gắn chặt với hoạt động thực tiễn, nó tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sử chữa, bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái quát thành lý luận mới. tuy nhiên nhận thức kinh nghiệm còn hạn chế ở chỗ: chỉ dừng lại ở sự mô tả phan tích các loại sự kiện dữ liệu thu được từ sự quan sát và thí nghiệm trực tiếp. Do đó nó chỉ đem lại những hiểu biết mang tính riêng rẽ bề ngoài rời rạc chưa phản ánh được cái bản chất, những mối liên hệ mang tính quy luật của các sự vật hiện tượng. Vì vậy nhận thức kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu. Ngược lại mặc dù được hình thành từ sự tổng kết những kinh nghiệm, nhưng nhận thức lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý đẻ phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phàn làm biến đổi đời sống của con người, thông qua đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là caí cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất thành cái khái quát, có tính phổ biến. +Nhận thức thông thường: được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hằng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. vì vậy nhận thức thông thường mang tính phong phú và phổ biến chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội.=>Tri thức thông thường.=>tri thức thông thường. VD:Trong cuộc sống,do quan sát mà con người nhận ra rằng mặt trời hình tròn,khi lạnh thì mặc áo ấm,… +Nhận thức khoa học: hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ thiết yếu của đối tượng nghiên cứu. Sự phản ánh 13
- này diễn ra dưới dạng trừu tượng logic. Đó là các khái niệm, phạm trù và các quy luật khoa học.Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, lại vừa có tính hệ thống có căn cứ và có tính chân thật. Nó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng các ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng trong nghiên cứu. Vì thế nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt là trong thời đại khoa học và công nghệ hiện đại.=>Tri thức khoa học. VD:Do nghiên cứu mà con người đã nhận ra quy luật phát triển của mọi sự vật,hiện tượng,trong đó có con người;quy luật di truyền giải thích tại sao mọi người cùng huyết thống có những đặc điểm giống nhau… Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức, nhằm đạt tới những tri thức trân thực. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước và làm nguồn chất liệu xây dựng nội dung của các khoa học. Mặc dù chứa đựng những mầm mống của những tri thức khoa học, song nhận thức thông thường vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài, ngẫu nhiên, không mang tính bản chất của sự vật và hiện tượng và tự nó không thể chuyển thành các nhận thức khoa học. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua quá trình tổng kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó lại có tác động trở lại nhận thức thông thường, làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới. b)Phạm trù nhận thức là một phạm trù khó khăn, là một quá trình biện chứng, diễn ra rất phức tạp gồm nhiều giai đoạn và hình thức khác nhau, đó là quá trình bắt đầu từ “trực quan sinh động”(hay nhận thức cảm tính) tiến đến “tư duy trừu tượng”( hay nhận thức lý tính). Vậy nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là các giai đoạn như thế nào? NHẬN THỨC NHẬN THỨC LÍ TÍNH NHẬN THỨC LÍ TÍNH _Trước tiên, nhận thức cảm tính( trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác độngvào sự vật nhằm nắm bắt nó. Ở giai đoạn này, con người mới chỉ phản ánh được cái hiện tượng, cái biểu hiện bên ngoài của sự vật cụ thể, cảm tính được hiện thực khách quan 14
- mà chưa phản ánh được bản chất, quy luật,nguyên nhân của những hiện tượng quan sát được, do đó đây chính là giai đoạn thấp của quá trình nhận thức. Trong giai đoạn này nhận thức được thực hiên qua ba hình thức cơ bản là: cảm giác, tri giác và biểu tượng. NHẬẬN THỨC CẢM TÍNH NH N THỨC CẢM TÍNH CCẢM GIÁC ẢM GIÁC TRI GIÁÁC TRI GI C LI LUẬẬN LI LU N • Cảm giác của con người về sự vật khách quan là hình ảnh sơ khai nhất, đơn giản nhất của quá trình nhận thức, nhưng nếu không có nó thì sẽ không thể có bất cứ nhận thức nào về sự vật khách quan. Mỗi cảm giác của con người về sự vật khách quan đều có một nội dung khách quan mặc dù nó thuộc về sự phản ánh chủ quan của con người. cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nó là cơ sở hình thành nên tri giác. •Tri giác : là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện của sự vật khách quan, cụ thể, cảm tính được hình thành trên cơ sở liên kết tổng hợp những cảm giác về sự vật. So với cảm giác, tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật nhưng vẫn chỉ là sự phản ánh khách quan bề ngoài mà chưa phản ánh được cái bản chất quy luật. Trong khi đó nhận thức đòi hỏi phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không đặc trưng và còn phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên các cơ quan cảm giác của con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức cao hơn. • Biểu tượng là hình thức nhận thức cảm tính tái hiện lại hình ảnh về sự vật khách quan vốn đã được phản ánh bởi cảm giác và tri giác, nó là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính, đòng thời cũng chính là bước quá độ từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính. Đặc điểm của biểu tượng là khả năng tái hiện những hìn ảnh mang tính chất biểu trưng về sự vật khách quan, nó có tính chất liên tưởng về bề ngoài của sự vật, bởi thế nó bắt đầu có tính chất của những sự trừu tượng hóa về sự vật. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và có sự tham gia của các yếu tố phân tích ,tổng hợp. Cho nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của sự vật. Đó là tiền đề của nhận thức lý tính. 15
- =>Như vậy nhận thức cảm tính có đặc điểm: là giao đoạn nhận thức trực tiếp sự vật, phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện cơ quan cảm giác, kết quả thu nhận được tương đối phong phú, phản ánh được cả cái không bản chất, ngẫu nhiên và cả cái bản chất và tất yếu. Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất ngẫu nhiên, bên trong của sự vật. Nhận thức cần phải phát triển lên giai đoạn cao hơn mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu nhận thức, phục vụ hoạt động thực tiễn, nhu cầu hoạt động cải biến sáng tạo thế giới khách quan. _Nhận thức lý tính: +là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức, đó là sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật khách quan. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất, có tính quy luật của các sự vật hiện tượng. Nhận thức lý tính được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản: khái niệm, phán đoán và suy luận NHẬN THỨC LÍ TÍNH KHÁI NIỆM SUY LUẬN PHÁN ĐOÁN •Khái Niệm: là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức vì nó là cơ sở hình thành nên những phán đoán và tư duy về những sự vật khách quan. •Phán đoán: là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình thành thông qua việc liên kết các khái niệm lại với nhau theo phương thức khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức. Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được chia làm ba loại: Phán đoán đơn nhất, phán đoán dặc thù, phán đoán phổ biến. •Suy luận: là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính được hình thành trên cơ sở liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật. Điều kiện để có bất cứ một suy luận nào cũng phải là trên cơ sở những tri thức đã có dưới hình thức là những phán đoán, đồng thời tuân theo những quy tắc logic của các laoij hình suy luận: suy luận quy nạp và suy luận diễn dịch. _Mối liên hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính: 16
- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính cùng chung đối tượng phản ánh đó là các sự vật, cùng chung chủ đề phản ánh đó là con người và cùng do thực tiễn quy định.Đây là hai giai đoạn hợp thành của quá trình nhận thức. Do vậy chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, quan hệ biện chứng với nhau: nhận thức cảm tính là cơ sở cung cấp tư liệu cho nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao,biểu hiện được bản chất,quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, giúp cho nhận thức cảm tính có được định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn. Tuy nhiên nếu nhận thức chỉ dừng lại ở giai đoạn lý tính thì con người chỉ có được những tri thức về đối tượng đó, còn bản thân tri thức có chân thực hay không thì chưa khẳng định được. Muốn khẳng định, nhận thức phải trở về thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn. III. Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn: Mối liên hệ giữa nhận thức và thực tiễn ra sao? Trước tiên ta cần phải hiểu mối liên hệ là phạm trù triết học như thế nào? Tính chất của nó ra sao? _Các mối liên hệ mang tính đa dạng , mỗi lĩnh vực khác nhau của thế giới và biểu hiện những mối liên hệ khac nhau, rất phong phú và nhiều vẻ. Mỗi loại mối liên hệ có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. Có thể phân chia theo từng cặp như mối liên hệ: bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, trực tiếp và giám tiếp…Sự phân chia này chỉ mang tính tương đối, vì mỗi cặp mối liên hệ chỉ là một mắt xích, một bộ phận của mối liên hệ phổ biến, chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau, tùy vào phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng. tuy nhiên sự phân chia này lại rất cần thiết, vì qua đó sẽ xác đinh được vị trí và vai trò trong sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. _Từ viêc nghiên cứu về mối liên hệ, triết học Mác-Lênin đã rút ra quan điểm toàn diện trong nhận thức, khi nhận thức thì chúng ta cần có một cái nhìn toàn diện, tránh những quan điểm phiến diện, chỉ xét sự vật hiện tượng ở một mối liên hệ nào đó mà đã vội vàng đưa ra kết luận về bản chất hay tính quy luật của chúng. Bên cạnh đó, các sự vật hiện tượng còn có rất nhiều mối liên hệ tác động lẫn nhau trong sự vận động và phát triển của chúng. Do vậy khi nghiên cứu sự vận động và phát triển của sự vật cần dựa vào thực tiễn cụ thể để tiến hành phân loại các mối liên hệ để thấy rõ nội dung vai trò vị trí của chúng và từ đó có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của con người. 1.Bản chất của mối liên hệ: _Nhận thức và thực tiễn là hai phương thức quan hệ khác nhau với thế giới. Kết quả của quan hệ nhận thức, là tái hiện lại đối tượng trong ý thức, là mô hình nhận thức của đối tượng, còn kết quả của hoạt động thực tiễn là sự cải tạo vật chất đối với đối tượng. Thực tiễn chỉ có mặt ở nơi có các hình thức hoạt động, có đối tượng cảm tính, có sự cải tạo đói tượng trên thực tế, chứ không phải là trong suy nghĩ. Do vậy hoạt 17
- động nhận thức khoa học, giáo dục, tuyên truyền không phải là thực tiễn. Bản thân khoa học chỉ có khả năng đem lại bức tranh lý tưởng về thế giới trong những đặc trưng bản chất của nó. Vấn đề cũng không thay đổi cả khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp. Bởi khi đó, bản thân lực lượng sản xuất tồn tại với tư cách là hình thức được đối tượng hóa của khoa học, còn khoa học vẫn tiếp tục là hình thức hoạt động tinh thần của con người, là sự phản ánh lý tưởng của hiện thực. 2.Tính chất mối quan hệ: _Tính chất của mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn chỉ sự quy định,sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật,hiện tượng hay giữa các mặt,các yếu tố của mỗi sự vật,hiện tượng trong thế giới. _Đúng là thực tiễn không thể thiếu nhận thức, song luận điểm đó không chứng tỏ sự đồng nhất của hai hình thức hoạt động khác nhau là nhận thức và thực tiễn. +Thứ nhất, cần lưu ý rằng tham gia vào thực tiễn chỉ gồm các kết quả đã đạt được trong quá trình nhận thức trước đó. Các kết quả đó đối với hoạt động nhận thức có giá trị độc lập, còn đối với hoạt động thực tiễn thì chỉ là cơ sở lý luận,có giá trị như một mô hình của tương lai. Ý thức và sản phẩm của nó( mục đích, mô hình, lý tưởng) trong trường hợp này không có một giá trị độc lập,nó không có nhiệm vụ cải biến đối tượng cảm tính của tự nhiên hay xã hội. +Thứ hai, đương nhiên đây là một cơ chế( cho dù nó chưa được nghiên cứu đầy đủ ) để đưa các kết quả của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Chính cơ chế này đã chế định một khuynh hướng nghiên cứu mới – nghiên cứu triển khai. Đây là một lĩnh vực mới mẻ, đòi hỏi chúng ta phải có những nỗ lực to lớn. Song một điều hiển nhiên là thực tiễn cải tạo xã hội, do quần chúng tiến hành , đòi hỏi phải hoạch định mục đích, chương trình, phải nhận thức các nhiệm vụ chiến lược và sách lược. Chính vì vậy không thể thiếu nhận thức lý luận, nhận thức được tiếp biến vào các mục đích, các chương trình phục vụ nhiệm vụ cơ bản của thực tiễn cải tạo xã hội. _Như vậy giữa nhận thức và thực tiễn bao giờ cũng tồn tại mối liên hệ không thể tách rời. Song cho dù thực tiễn có hàm lượng nhận thức nhiều đến đâu thì thực tiễn và nhận thức vẫn tồn tại với tư cách là hai lĩnh vực độc lập của họat động xã hội và bao giờ cũng là hình ảnh lý tưởng( kết quả của hoạt động nhận thức ) cũng đi trước hoạt động thực tiễn. Nói cách khác hoạt động bao giờ cũng bao gồm hai khâu cơ bản và mối liên hệ giữa chúng luôn mang tính lịch sử -cụ thể - đó là khâu nhận thức ( sản xuất ra tri thức) và khâu thực tiễn( cải tạo hiên thực). _Mối quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức còn được làm sáng tỏ hơn và cụ thể hơn khi chúng ta xét nó từ quan hệ chủ thể khách thể. Thực tiễn là khâu trung gian cơ bản giữa chủ thể và khách thể. Chủ thể ở đây không đơn giản là con người có tư duy nhận thức, con người bằng xương thịt. Chủ thể được thể hiện qua tổng thể các đặc trưng 18
- xã hội của nó, còn thực tiễn là phương thức cơ bản để nó tác động lên khách thể. Thực tiễn có thể nói là hình thức liên hệ thực tại khách quan, nhờ đó mà chủ thể tự đối tượng hóa bản thân, các ý định và mục đích của mình cho khách thể,phát triển các năng lực của mình. Như vậy ngoài thực tiễn chủ thể không có một phương thức nào để hiên thực hóa từ bức tranh lý tưởng về thế giới sang việc hiên thực nó trong thế giới. _Nếu ở phần trên chúng ta đã nói rằng thực tiễn là quá trình cải tạo vật chất hiện thực thì thông qua quan hệ chủ thể khách thể, thực tiễn thể hiện là phương thức chủ thể chuyển hóa các ý mệnh mục đích động cơ… thành cái vật chất khách thể được cải tạo phù hợp với mục đích. Trọng tâm ở đây được đặt vào hai mặt của một quá trình thống nhất: từ cái ý niệm đến cái vật chất. Nếu chúng ta nhấn mạnh, tuyệt đối hóa sự cải tạo vật chất, thì sự định hướng thực tiễn bởi ý thức sẽ mất dần và do vậy thực tiễn bị biến thành hành vi máy móc, vô thức. Còn nếu tuyệt đối hóa sự chuyển biến cái ý niệm thành cái vật chất thì chúng ta không thể quan niệm thực tiễn là một quá trình khách quan.,như vậy sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm. _Từ đó suy ra rằng thưc tiễn và nhận thức là tuyệt đối độc lập với nhau.Tính tương đối của sự độc lập ấy trước hết được quy định bởi điều là:quan hệ nhận thức của con người với thế giới khách quan bao giờ cũng có thể là quan hệ tuyệt đối với thực tiễn.hơn nữa, quan hệ nhận thức luôn phục tùng thực tiễn và phát triển trên cơ sở cải tạo xã hội.đến lượt mình,vốn là hoạt động của chủ thể có ý thức và ý nghĩa,thực tiễn luôn bao hàm hoạt động nhận thức của chủ thể với tư cách là khâu đặt mục đích của hoạt động thực tiễn. _Song nhận thức thực tiễn và nhận thức vẫn có sự đói lập với nhau.Nhận thức do thực tiễn chế định và phục vụ thực tiễn,xong chúng có tính độc lập tương đối,mang nhưng đặc trưng riêng của hoạt động.quan hệ giữa thực tiễn và nhận thực là một quá trình mang tính lịch sử_xã hội,cụ thể,chúng có quan hệ biện chứng.nắm được tính chất biện chứng của quá trình đó là tiền đề quan trọng nhất giúp chúng ta luôn có một lập trường sáng suốt,tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận,cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lí luận suông. 3.Vai trò của nhận thức và thực tiễn: a)Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức: _Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở,động lực và mục đích của nhận thức,là tiêu chuẩn của chân lí. 19
- Thật vậy,thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức,nó đề ra nhu cầu,nhiệm vụ cách thức khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.Chính con người có nhu cầu tất yếu khách quan,phải là giải thích thế giới và cải tạo thế giới nên con người tất yếu phải tác động vào các sự vật,hiện tượng bằng các hoạt động thực tiễn của mình.sự tác động này của con người đã làm cho các sự vật,hiện tượng bộc lộ những thuộc tính,những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng,qua đấy đem lại những tài liệu cho quá trình nhận thức,giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất .Quy luật vận động và phát triển của thế giới. Ví dụ:Bằng việc trồng thử nghiệm cây đậu Hà Lan trong khu vườn của mình và nghiên cứu tìm hiểu,Menden đã tìm ra quy luật phân li độc lập trong sinh học,để lại giá trị lớn cho xã hội loai người. Do đó,nếu thoát li thực tiễn,không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa vời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh,tồn tại và phát triển của mình.Ngoài ra,nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện,năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và phát triển,các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại,có tác động “nối dài”các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới. _Thực tiễn còn đóng vai trò là tiêu chuẩn của chân lí,kiểm tra tính chân lí của quá trình nhận thức.Thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đạt được trong nhận thức.bởi lẽ,nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan của bộ óc người nên dựa vào chuẩn mực thực tiễn,ta biết được mức độ của nhận thức đạt đến đâu.thực tiễn không ngừng bổ sung,điều chỉnh,sửa chữa,phát triển và hoàn thiện nhận thức. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
13 p | 6078 | 759
-
Kỹ năng giao tiếp trên truyền hình trước và sau ống kính Camera
321 p | 252 | 81
-
Bài giảng Thực hiện bảng khảo sát bằng bảng hỏi - PGS,TS Nguyễn Ngọc Hùng, ThS Nguyễn Thị Hiền
29 p | 490 | 69
-
Bản án Chế độ thực dân Pháp - Nguyễn Ái Quốc
186 p | 374 | 68
-
Cuộc hành trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh
5 p | 307 | 55
-
PHƯƠNG PHÁP NGUYÊN CỨU KHOA HỌC
19 p | 171 | 41
-
Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông: thực trạng, nguyên nhân và giải pháp
9 p | 237 | 37
-
Bài giảng Cách thức thực hiện khảo sát bằng bảng hỏi - PGS.TS. Lê Ngọc Hùng, ThS. Nguyễn Thị Hiền
30 p | 191 | 24
-
Vai trò của nhân viên công tác xã hội trường học trong mối quan hệ với gia đình, cộng đồng và hệ thống nhà trường Việt Nam hiện nay
10 p | 200 | 23
-
Nâng cao nhận thức của thanh niên về phòng chống bạo lực gia đình
14 p | 156 | 18
-
Kinh tế chính trị chương trình PTIT (Nguyễn Quang Hạnh vs Nguyễn Văn Lịch) - phần 6
30 p | 86 | 15
-
Bí ẩn những vùng đất "chết"
5 p | 132 | 13
-
Một số biện pháp nâng cao chất lượng thực hiện nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” ở các tổ chức cơ sở Đảng trong Đảng bộ trường Sĩ quan chính trị
3 p | 166 | 7
-
Những người tạo nên sự thay đổi - Cẩm nang thanh niên tiên phong xóa bỏ bạo lực với phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới
57 p | 17 | 7
-
Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 và hành trình “từ viết về cuộc phiêu lưu đến cuộc phiêu lưu của viết”
8 p | 46 | 6
-
Phát triển giáo dục mở và tài nguyên giáo dục mở - Một phương thức bảo đảm quyền tiếp cận, thụ hưởng giáo dục đại học
21 p | 11 | 2
-
Tổ chức dạy học bài: Ứng dụng của chữ trang trí (trang trí đầu báo tường – trang trí bìa lịch treo tường) theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh lớp 7 – Trường phổ thông thực hành CLC Nguyễn Tất Thành
12 p | 30 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn