YOMEDIA
ADSENSE
Báo cáo tổng kết đề tài sinh viên NCKH: Kiến thức, thái độ và nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh hai trường trung học phổ thông Nguyễn Đức Cảnh và Nguyễn Trãi, tỉnh Thái Bình năm 2016
157
lượt xem 29
download
lượt xem 29
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Mục tiêu chính của báo cáo tổng kết “Kiến thức, thái độ và nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh hai Trường trung học phổ thông Nguyễn Đức Cảnh và Nguyễn Trãi, tỉnh Thái Bình năm 2016” là: Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ của học sinh về giới tính ở 2 Trường trung học phổ thông Nguyễn trãi và Trường trung học phổ thông Nguyễn Đức Cảnh năm 20162. Mô tả nhu cầu về giáo dục giới tính của học sinh ở 2 Trường nêu trên năm 2016.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo tổng kết đề tài sinh viên NCKH: Kiến thức, thái độ và nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh hai trường trung học phổ thông Nguyễn Đức Cảnh và Nguyễn Trãi, tỉnh Thái Bình năm 2016
- BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI SINH VIÊN NCKH KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ NHU CẦU GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CỦA HỌC SINH HAI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN ĐỨC CẢNH VÀ NGUYỄN TRÃI, TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2016 Giang viên h ̉ ướng dẫn: Ths.Nguyễn Văn Tiến Chủ nhiệm đề tài: SV.Phạm Thị Thu Huyền – Lớp YTCC3.K1
- 2 THÁI BÌNH – NĂM 2016 LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian dài thực hiện nghiên cứu, chúng em xin được chân thành cảm ơn các Thầy/Cô giáo Trường Đại học Y Dược Thái Bình đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài nghiên cứu. Với tất cả tình cảm sâu sắc nhất chúng em, xin bày tỏ lòng cảm ơn tới thầy hướng dẫn Ths. Nguyễn Văn Tiến người đã tận tình giúp đỡ chúng em từ khi xác định vấn đề nghiên cứu, viết đề cương, chia sẻ thông tin và hoàn thành nghiên cứu này. Chúng em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu, Quý thầy cô giáo tại 2 trường THPT Nguyễn Đức Cảnh và THPT Nguyễn Trãi, nơi chúng em tiến hành nghiên cứu, đã tạo điều kiện giúp đỡ, góp ý, hướng dẫn và tham gia vào nghiên cứu này. Chúng em xin chân thành cảm ơn các Thầy/Cô trong Hội đồng chấm đề tài đã cho chúng em những góp ý quý báu để hoàn chỉnh đề tài. Xin cảm ơn các bạn trong lớp YTCC3K1 đã cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm và giúp đỡ nhau trong quá trình thực hiện nghiên cứu. Một lần nữa chúng em xin trân trọng cảm ơn! 2
- Thái Bình, ngày 18 tháng 05 năm 2016 Nhóm nghiên cứu BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI SINH VIÊN NCKH KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ NHU CẦU GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CỦA HỌC SINH HAI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN ĐỨC CẢNH VÀ NGUYỄN TRÃI, TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2016 ̉ Giang viên hướng dẫn: Ths.Nguyễn Văn Tiến Chủ nhiệm đề tài: SV.Phạm Thị Thu Huyền Lớp YTCC3.K1 Sinh viên tham gia: Trần Thị Khuyên – Lớp YTCC3.K1
- 4 Trương Diệu Thu – Lớp YTCC3.K1 Đào Huy Cừ – Lớp YTCC3.K1 Nguyễn Thế Duy – Lớp YTCC3.K1 THÁI BÌNH – 2016 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCS Bao cao su BPTT Biện pháp tránh thai BLTQĐTD ̣ Bênh lây truyên qua đ ̀ ường tinh duc ̀ ̣ GDGT Giáo dục giới tính KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình NHT Nạo hút thai NPT Nạo phá thai QHTD ̣ ̀ ̣ Quan hê tinh duc SKSS Sức khỏe sinh sản TD Tình dục TDAT ̣ Tinh duc an toan ̀ ̀ VTN ̣ ̀ Vi thanh niên 4
- MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Trang Bảng 3.1 Một số thông tin chung của đối tượng nghiên cứu 28 Bảng 3.2 Phân bố tỷ lệ học sinh có kiến thức đúng về tuổi bắt 29 đầu dậy thì theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.3 Hiểu biết của học sinh về dấu hiệu dậy thì của nữ 30 giới theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.4 Hiểu biết của học sinh về dấu hiệu dậy thì của nam 31 giới theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.5 Hiểu biết về quan hệ tình dục theo địa bàn nghiên cứu 32
- 6 Bảng 3.6 Hiểu biết của học sinh về thời điểm mang thai trong 32 chu kì kinh theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.7 Hiểu biết của học sinh về các biện pháp tránh thai 33 theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.8 Hiểu biết của học sinh về các bệnh lây truyền qua 34 đường tình dục theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.9 Quan điểm của học sinh về việc nạo phá thai ở tuổi vị 36 thành niên Bảng 3.10 Quan niệm của học sinh về việc nạo phá thai ở tuổi vị 36 thành niên Bảng 3.11 Mức độ tìm hiểu thông tin giáo dục giới tính của học 37 sinh theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.12 Những nội dung về giáo dục giới tính học sinh mong 38 muốn tìm hiểu theo địa bàn nghiên cứu Bảng 3.13 Nhu cầu giáo dục giới tính trong nhà trường theo địa 38 bàn nghiên cứu Bảng 3.14 Đồi tượng học sinh lựa chọn để chia sẻ vấn đề giới 39 tính Bảng 3.15 Nhu cầu của học sinh về hình thức giáo dục giới tính 40 theo giới DANH MỤC BIỂU ĐỒ Trang Biểu đồ 3.1 Hiểu biết của học sinh về chu kì kinh nguyệt theo địa 29 bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.2 Hiểu biết của học sinh về hiện tượng sinh dục bất 30 thường ở nữ giới theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.3 Kiến thức của học sinh về dấy hiệu sinh dục bất 31 thường ở nam giới theo địa bàn nghiên cứu 6
- Biểu đồ 3.4 Hiểu biết của học sinh về khả năng có thai khi quan 33 hệ tình dục theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.5 Hiểu biết của học sinh về cách sử dụng một số biện 34 pháp tránh thai theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.6 Kiến thức về cách phòng bệnh lây truyền qua đường 35 tình dục theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.7 Đánh giá tổng điểm kiến thức của học sinh về giáo 35 dục giới tính theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.8 Đánh giá tổng điểm thái độ của học sinh về giáo dục 37 giới tính theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.9 Nhu cầu của học sinh về hình thức giáo dục giới tính 40 theo địa bàn nghiên cứu Biểu đồ Đánh giá chung về nhu cầu giáo dục giới tính của học 41 3.10 sinh theo địa bàn nghiên cứu
- ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, trên thế giới có khoảng hơn 1,7 tỷ người ở độ tuổi vị thành niên (VTN), chiếm khoảng ¼ dân số thế giới. Ở Việt Nam, có tỷ lệ VTN cao và ngày càng gia tăng, năm 1999 VTN là 17,3 triệu người chiếm 22,7%, năm 2009 là 27,9% [23]. Sự phát triển đất nước phụ thuộc vào thể chất và trí tuệ của lớp người này. Chính vì vậy, nghiên cứu chăm sóc sức khỏe sinh sản (SKSS) và nhu cầu giáo dục giới tính (GDGT) ở VTN đã và đang trở thành một vấn đề bức thiết, quan trọng hàng đầu trong chiến lược dân số cũng như chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Theo tổ chức y tế thế giới tình hình quan hệ tình dục sớm và nạo phá thai ở tuổi VTN tại nhiều nước đang tăng lên ở mức báo động, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Ở các nước phát triển như Newzealand có 49% VTN (1519 tuổi) đã có quan hệ tình dục (QHTD) trước hôn nhân, ở Mỹ là 46% và ở Thụy Điển là 54,2% nam VTN đã có QHTD [ 38]. Tại Indonesia, theo Cơ quan kế hoạch quốc gia đã đưa ra thông báo hơn một nửa số thanh thiếu niên ở Jakarta đã tham gia vào QHTD trước hôn nhân (51 trong 100 thanh thiếu niên) [37]. Một trong những nguyên nhân là do các em không được trang bị đầy đủ các kiến thức về giới tính, đây chính là những lỗ hổng GDGT cho học sinh hiện nay. Theo điều tra của Vũ Quý Nhân và cộng sự cho thấy số VTN có QHTD trước hôn nhân chiếm 14,8% đối với nam và 2,4% đối với nữ. Tỷ lệ phụ nữ chưa chồng nạo hút thai (NHT) chiếm 2030% tổng số phụ nữ NHT ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh [39]. QHTD trước hôn nhân và có thai ngoài ý muốn trước khi lập gia đình dẫn đến nhiều hậu quả nặng nề. Số VTN nạo phá thai (NPT) trong tổng số phụ nữ NPT ngày càng tăng.
- Điều này là hậu quả của việc có QHTD sớm nhưng thiếu hiểu biết. Một khảo sát về kiến thức, thái độ và hành vi ở tuổi VTN trên 1.100 đối tượng VTN tại thành phố Hải Phòng cho thấy sự hiểu biết về các vấn đề có liên quan đến SKSS còn rất hạn chế: trong số các đối tượng được phỏng vấn có 79% đối tượng cho rằng có hiểu biết về sự thụ thai thì chỉ có 41,6% biết thời gian có thai theo chu kỳ kinh nguyệt. Trong số 16,5% đối tượng có QHTD chỉ có 18,8% biết dùng các biện pháp tránh thai [32]. Ở Thái Bình theo con số hiện nay của cơ sở y tế, hàng năm có khoảng 20.000 ca nạo hút thai, 30% trong số ca trên là người chưa có gia đình (1524 tuổi) trên thực tế con số này còn lớn hơn nhiều [28]. Những thách thức to lớn mà tuổi VTN khi QHTD sớm đó là mang thai ngoài ý muốn, nạo phá thai, HIV/AIDS. Vì vậy, rất cần có sự chuyển biến phù hợp trong bộ máy quản lý xã hội, hệ thống giáo dục và sự quan tâm của gia đình. Cho đến thời điểm này, tại Thái Bình chưa có báo cáo điều tra nghiên cứu về các hoạt động chăm sóc SKSS ở trẻ VTN, chưa có nhiều số liệu chính thức, đầy đủ về nhu cầu giáo dục giới tính, cũng như kiến thức và thái độ về hoạt động tình dục ở lứa tuổi học sinh. Trước thực trạng trên cũng như dựa trên tổng quan tài liệu nghiên cứu về hiểu biết của các em học sinh trường trung học phổ thông liên quan vấn đề giáo dục giới tính, chúng tôi thực hiện nghiên cứu: “Kiến thức, thái độ và nhu cầu giáo dục giới tính của học sinh hai Trường trung học phổ thông Nguyễn Đức Cảnh và Nguyễn Trãi, tỉnh Thái Bình năm 2016”, nhằm mục tiêu: 1. Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ của học sinh về giới tính ở 2 Trường trung học phổ thông Nguyễn trãi và Trường trung học phổ thông Nguyễn Đức Cảnh năm 2016. 2. Mô tả nhu cầu về giáo dục giới tính của học sinh ở 2 Trường
- nêu trên năm 2016. Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Khái niệm về giáo dục giới tính và vị thành niên. 1.1.1. Một số khái niệm. GDGT là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục về giải phẫu sinh dục, sinh sản, QHTD, SKSS, các quan hệ tình cảm, quyền sinh sản và các trách nhiệm, tránh thai, và các khía cạnh khác của thái độ tình dục của con người. Theo tác giả Đỗ Hà Thế Bình “Giáo dục giới tính là một quá trình hướng vào việc vạch ra những nét, những phẩm chất, những đặc trưng cũng như khuynh hướng phát triển của nhân cách, xác định thái độ xã hội cần thiết của con người đối với người khác.” [ 12]. Tác giả Bùi Ngọc Oánh đã kết luận: “Giáo dục giới tính là quá trình giáo dục con người (thanh thiếu niên), nhằm làm cho họ có nhận thức đầy đủ, có thái độ đúng đắn về giới tính và quan hệ giới tính, có nếp sống văn hoá giới tính, hướng hoạt động của họ vào việc rèn luyện để phát triển nhân cách toàn diện, phù hợp với giới tính, giúp cho họ biết tổ chức tốt nhất cuộc sống riêng cũng như xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát triển.” [9]. GDGT gồm nhiều nội dung: sự phát triển của giới tính, SKSS, các mối quan hệ cá nhân, tình cảm, về ngoại hình, về vai trò của giới. GDGT giúp trẻ VTN có một quan điểm tích cực về tình dục, đồng thời cung cấp
- các thông tin và kỹ năng để trẻ VTN có được thái độ và hành vi đúng, hiểu biết và có trách nhiệm về những quyết định của mình [15]. Theo tổ chức y tế thế giới, VTN là những người trong độ tuổi 1019, đang trong giai đoạn tăng trưởng nhanh về mặt thể chất và hoàn thiện bộ máy sinh sản, trưởng thành về tâm lý xã hội và hình thành nhân cách. Cũng theo WHO, thanh niên là những người ở độ tuổi từ 1524 tuổi và những người trẻ tuổi là những người ở độ tuổi từ 1024 tuổi [8], [11], [14]. Căn cứ vào tình hình thực tế của Việt Nam, một số tác giả chia tuổi của VTN thành hai nhóm tuổi: tuổi vị thành niên sớm từ 1014 tuổi và vị thành niên mộn từ 1519 tuổi [13]. VTN là một quá trình chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ thành người trưởng thành. Tuổi từ 10 đến 19 là một khoảng thời gian thay đổi nhanh chóng cả về thể chất, tâm lý cũng như bắt đầu phát triển các mối quan hệ xã hội. Mặc dù không còn là trẻ con, song những người ở độ tuổi này cũng chưa phải là người lớn, họ phải đối mặt với những thách thức về sự phát triển thể chất và tâm lý cũng như sự nhìn nhận và hòa nhập với xã hội xung quanh, họ có thể đặt mình vào những nguy cơ mà không suy xét đến hậu quả. Về mặt sinh học, họ có thể trở thành những người làm cha mẹ nhưng chưa sẵn sàng về bổn phận. Họ tự cảm thấy tính độc lập của bản thân rất cao, song phần lớn các nhu cầu vật chất ở tuổi VTN vẫn lệ thuộc vào người lớn. Thông thường, người ta chia tuổi VTN làm 3 giai đoạn [5], [11]: Giai đoạn VTN sớm (1013 tuổi): Giai đoạn này đặc trưng bởi sự phát triển nhanh chóng về thể chất và quá trình trưởng thành về tính dục. Ở độ tuổi này có sự phát triển tư duy trừu tượng rất rõ rệt. Giai đoạn VTN trung bình (1416 tuổi): Về thể chất vẫn tiếp tục
- thay đổi với tốc độ chậm hơn, nhưng những thay đổi về tâm lý trở nên mạnh mẽ hơn, các em có xu hướng tách khỏi gia đình để tìm đến các mối quan hệ với bạn bè đồng lứa. Các em ở độ tuổi này hay tò mò và bắt đầu quan tâm, muốn khám phá năng lực bản thân trong QHTD. Giai đoạn VTN muộn (1719 tuổi): Sự phát triển về thể chất và tâm lý dần ổn định hơn. Các em ở độ tuổi này phát triển mạnh mẽ tư duy trừu tượng, đưa ra nhiều ý tưởng hơn cũng như có xu hướng bảo vệ chính kiến của mình mạnh mẽ hơn. 1.1.2. Những biến đổi về thể chất [6], [8]. Ở tuổi VTN, cơ thể biến đổi nhanh về vóc dáng, cơ quan sinh dục phát triển, các đặc điểm giới tính khác như lông, râu, ngực trở nên rõ rệt, các em gái bắt đầu có kinh nguyệt, em trai có hiện tượng xuất tinh. Chiều cao có khác nhau giữa nam và nữ do thời kỳ dậy thì xảy ra ở độ tuổi khác nhau, thường gặp sớm hơn ở các em gái. Đến cuối tuổi dậy thì, các em đã trở thành những chàng trai, cô gái với vóc dáng, khả năng thể chất và sức mạnh khác nhau. Đôi khi những biến đổi quá nhanh gây tình trạng sốc hoặc cảm giác e thẹn, xấu hổ, không yên tâm, thiếu tự tin, lúng túng ở một số VTN do các em chưa có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết đầy đủ về bản thân. 1.1.3. Những biến đổi về sinh lý [8]. Ở nữ giới xảy ra hiện tượng kinh nguyệt, là dấu hiệu thông báo sự trưởng thành của bộ máy sinh sản ở nữ. Nam giới thường dậy thì muộn hơn nữ khoảng 2 năm, biểu hiện là sự hoạt động của tinh hoàn. Hiện
- tượng cương dương vật và xuất tinh ban đêm (giấc mộng ướt hay còn gọi là mộng tinh) cho thấy khả năng sinh sản của nam giới đã bắt đầu. Nhưng từ tuổi VTN đến tuổi hôn nhân cũng còn trên dưới 10 năm. Vì vậy, trẻ VTN cần hiểu điều này mà tăng cường việc học tập, rèn luyện để tránh những hành động sai lầm đáng tiếc làm tổn hại đến sức khoẻ và hạnh phúc, tương lai như QHTD sớm, tảo hôn… 1.1.4. Những biến đổi về tâm lý [8]. Ở tuổi này, các em bắt đầu phát triển ý thức tự trọng, tính độc lập trong suy nghĩ và hành động. Các em cần được tiếp cận với các hệ thống hỗ trợ cũng như cơ hội để phát triển những mối quan hệ gần gũi, gắn bó với gia đình, nhà trường, bạn bè và cộng đồng… Nếu thiếu sự hỗ trợ này, các em sẽ bị người khác lạm dụng và bóc lột. Sự hỗ trợ của gia đình, trường học, bạn bè, người thân… sẽ tạo ra một môi trường an toàn trong đó các em vừa được bảo vệ, vừa có khả năng chủ động và độc lập. Các em đã có những xúc cảm giới tính, bắt đầu quan tâm đến bạn khác giới. Tâm trạng cũng thay đổi rất nhanh và biến động mạnh. Nhưng thời gian này, lý trí chưa đủ giúp các em làm chủ được bản thân. Vì vậy, các em cần được rèn luyện những kỹ năng sống để giúp các em xây dựng được các mối quan hệ bạn bè, giải quyết mâu thuẫn, biết cách cùng hợp tác với người khác trong nhóm, hình thành lòng tự trọng cũng như biết kìm chế trước sức ép từ bạn bè cùng lứa và người lớn khác để không tham gia vào những hành vi nguy cơ có hại cho sức khoẻ và an toàn của bản thân và của người khác. Có sự mất cân bằng trong tâm lý và sinh lý, tuy rằng chỉ là tạm thời, song một số hành vi và sự chọn lựa của tuổi VTN có thể gây hậu quả suốt
- đời nếu các em thiếu sự hướng dẫn và hỗ trợ của người lớn, đồng thời thiếu kiến thức và kỹ năng tự bảo vệ. 1.2. Khái niệm về sức khỏe sinh sản. ̣ ̃ ̉ ̉ ưc y tê thê gi Theo đinh nghia cua tô ch ́ ́ ́ ới WHO Sức khỏe là tình trạng phát triển hài hòa của mỗi người về thể lực, trí tuệ và khả năng hòa nhập cộng đồng, chứ không phải chỉ là không có bệnh tật, ốm đau hoặc không tàn phế. Từ đó, sức khỏe sinh sản là một trạng thái hoàn hảo về mặt thể chất, tinh thần chứ không chỉ đơn thuần là không có bệnh tật trong mọi vấn đề liên quan đến hệ thống sinh sản, chức năng sinh sản và quá trình sinh sản [10], [13], [14]. Như thế SKSS cũng có thể hiểu là mọi người có thể có cuộc sống TDAT, hài lòng, họ có khả năng sinh sản, tự do quyết định có sinh con hay không, sinh con khi nào và sinh bao nhiêu con. Chương trình hành động của Hội nghị Cairo cũng đã đề cập đến nội dung cơ bản của chăm sóc SKSS là: Tư vấn, giáo dục, truyền thông và dịch vụ KHHGĐ an toàn, hiệu quả và chấp nhận tự do lựa chọn của khách hàng, kể cả nam giới. Chú trọng sức khỏe VTN ngay từ lúc bước vào tuổi hoạt động tình dục và sinh sản. Giáo dục sức khỏe và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh, bao gồm cả chăm sóc trong lúc có thai, khi đẻ và sau đẻ. Phòng ngừa và điều trị bệnh viêm nhiễm đường sinh dục và các BLTQĐTD. Điều trị vô sinh. Xử trí các vấn đề sức khỏe phụ nữ như các bệnh phụ khoa, giáo dục tình dục học cho cả nam và nữ, huy động nam giới có trách nhiệm trong
- mỗi hành vi tình dục và sinh sản…[13] SKSS VTN là những nội dung về SKSS liên quan đến lứa tuổi VTN, bao gồm sức khỏe và dinh dưỡng, nhất là đối với vị thành niên gái. Những hiểu biết về cách giữ gìn sức khỏe khi có thai, biến đổi của cơ thể trong giai đoạn phát triển quan trọng này của mỗi con người, phát triển hiểu biết về tình dục học và sức khỏe tình dục là những mặt quan trọng của SKSS trong suốt đời người. Ngoài ra, những vấn đề khác của tuổi VTN hiện còn là những bất cập như tình yêu, quan hệ tình dục, phòng tránh thai, nạo hút thai, sinh đẻ ở tuổi VTN, viêm nhiễm đường sinh sản, các BLTQĐTD, bao gồm cả HIV/AIDS [13]. Hội nghị Quốc tế về dân số và phát triển cũng thu hút sự chú ý đến những nhu cầu về SKSS của VTN đã và đang bị các dịch vụ SKSS hiện hành ở phần lớn các nước bỏ quên. Chương trình hành động của Hội nghị tuyên bố rất rõ ràng rằng cần phải cung cấp rộng rãi các thông tin và dịch vụ cho vị thành niên để giúp họ hiểu được các nhu cầu tình dục của bản thân và bảo vệ họ trước nguy cơ có thai ngoài ý muốn va BLTQĐTD. Làm ̀ mẹ khi ở tuổi VTN thì người mẹ có nguy cơ tử vong cao hơn rất nhiều so với mức bình thường và tăng rủi ro đau ốm/bệnh tật và tử vong cho con cái họ. Ở nhiều nước, vị thành niên bị ép buộc hoặc bị thúc bách phải có hoạt động tình dục. Phụ nữ trẻ, đặc biệt là thanh thiếu niên nghèo, là nhóm dễ gặp rủi ro nhất. VTN (cả trai và gái) sớm bắt đầu QHTD càng dễ gặp nguy cơ lây nhiễm các bệnh lây truyền qua QHTD kể cả HIV/AIDS, bởi họ thường không được ai chỉ bảo cách tự bảo vệ mình như thế nào [4].
- 1.3. Những vấn đề liên quan đến giáo dục giới tính ở vị thành niên trên thế giới. Theo thống kê của WHO, hiện nay còn khoảng 120 triệu cặp vợ chồng trẻ chưa được hưởng dịch vụ KHHGĐ và khoảng 60 80 triệu cặp vợ chồng trẻ bị vô sinh, mà nếu biết được sớm từ khi VTN thì có thể khắc phục được. Ngoài ra, hàng năm còn có 20 triệu trường hợp nạo hút thai (NHT) không an toàn, trong đó có nhiều người mang thai ngoài ý muốn vì không có thông tin từ thời VTN. Mỗi năm có khoảng 10% số trẻ được sinh ra từ các bà mẹ ở tuổi VTN. Mỗi năm còn có 585.000 phụ nữ chết do thai nghén hoặc sinh đẻ và 25 triệu trẻ em sinh ra thiếu cân vì mẹ thiếu dinh dưỡng và thiếu kiến thức chăm sóc thai nghén [30]. Theo ước tính của Văn phòng thông tin dân số Mỹ về SKSS của lớp người trẻ, thì có ít nhất 80% số người bước vào tuổi 20 ở vùng cận sa mạc Sahara đã trải qua hoạt động tình dục. Đó là một trong những nguyên nhân xã hội làm cho BLTQĐTD và nhất là HIV/AIDS phát triển rất nhanh ở vùng này. Thống kê của Quỹ Liên hiệp quốc về phòng chống AIDS cho biết, số người bị nhiễm HIV/AIDS ở khu vực này chiếm 2/3 tổng số người nhiễm HIV/AIDS trên toàn thế giới [29]. Hiện nay, hàng năm có khoảng 15 triệu VTN nữ sinh con, chiếm 10% số phụ nữ sinh con trên thế giới, trong đó, số mang thai trước khi cưới và không có ý định cưới ngày một tăng. Một điều tra ở Kenia đưa ra tỷ lệ phụ nữ 1519 tuổi có thai ngoài ý muốn chiếm 47% phụ nữ có chồng và 74% phụ nữ chưa chồng. Ở Peru, có tỷ lệ tương tự là 51% và 69%. Tổng hợp số liệu từ các nước và các khu vực khác cho thấy [29]: Bắc Phi và Tây Á, 15% 23% số VTN sinh con ngoài ý muốn. Ấn Độ và Pakistan có số sinh con ngoài dự định khoảng 16%.
- Philippin, Bangladesh, Srilanka và Thái Lan có tỷ lệ sinh con ngoài dự định là 23% 41%. Ở một số nước thuộc châu Mỹ Latinh, số VTN mang thai ngoài ý muốn từ 20% 52%. Tình hình trên khiến cho mức độ NHT của VTN rất cao. Ví dụ ở Tanzania có 71% VTN NHT, trong khi số VTN chỉ chiếm 24% mẫu điều tra. Hàng năm, thế giới có khoảng 4,4 triệu trường hợp NHT của VTN [29]. Đây là con số đáng báo động về SKSS do các hoạt động tình dục không an toàn, thiếu chủ động và thiếu hiểu biết mang lại. 1.4. Tình hình kiến thức, thái độ và nhu cầu về giáo dục giới tính của vị thành niên Việt Nam. Giai đoạn VTN là thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ em thành người lớn, được đánh dấu bằng những thay đổi đặc tính về mặt thể chất cũng như tâm tư, tình cảm. Những vấn đề sức khỏe của VTN có ảnh hưởng và để lại hậu quả nặng nề cho cả cuộc đời họ về sau. Vì vậy sức khỏe của nhóm người trẻ tuổi này là yếu tố then chốt cần đầu tư vì sự tiến bộ và phát triển kinh tếxã hội cho mỗi quốc gia và toàn cầu. Để thích ứng với sự phát triển về thể chất và bảo vệ SKSS ở VTN là rất quan trọng. Chính vì vậy, GDGT cho đối tượng VTN là một vấn đề vô cùng cấp thiết. Nhiều công trình nghiên cứu về SKSS VTN đã được tiến hành ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Trong vài thập kỷ nay, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu tiến hành ở nhiều nước khác nhau thuộc cả châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Kết quả nghiên cứu đã được phổ biến rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới [26]. Nhiều nghiên cứu về chỉ tiêu hình thái cơ thể người như chiều cao, cân nặng, vòng ngực và chỉ số phát triển thể lực như Pignet, BMI của các
- tác giả Trần Thị Loan [24], Vương Thị Thu Thủy [34],... cho thấy trong những năm gần đây có sự gia tăng so với số liệu nghiên cứu trước năm 1975 và trong thập niên 80, điêu nay liên quan đ ̀ ̀ ến điều kiện sống ngày càng tốt hơn. Về tuổi dậy thì chính thức ở VTN, một số nghiên cứu đã đưa ra kết quả là tuổi dậy thì chính thức trung bình của VTN ở thành thị và nông thôn đồng bằng có chiều hướng sớm hơn trước đây; tuổi dậy thì chính thức trung bình của VTN ở một số dân tộc ít người: nữ là 14,29 ± 1,25, nam là 15,42 ± 1,08 (ở Vĩnh Phúc và Phú Thọ) [20], muộn hơn so với thành thị, nhưng tương đương so với vùng nông thôn; hoặc nữ là 14,38 tuổi, nam là 15,4 tuổi, muộn hơn so với đồng bằng nhưng không khác biệt so với học sinh miền núi khác (trường nội trú tỉnh Sơn La) [19]. Theo kết quả điều tra cơ bản của Quàn Lệ Nga và cộng sự tại Hà Nội, Vĩnh Phú và Thái Bình mô tả khía cạnh liên quan đến kiến thức, thái độ và hành vi của VTN về SKSS cho thấy, tỷ lệ hiểu biết của VTN về BPTT cũng hạn chế, chỉ có khoảng một nửa biết về bao cao su (BCS) và 1/3 biết về dụng cụ tử cung [22]. 1.4.1. Kiến thức và thái độ của vị thành niên về các vấn đề giới tính và sức khỏe sinh sản. Theo báo cáo Savy (Bộ Y tế2003) thì các vấn đề liên quan đến sức khỏe thường gặp ở VTN bao gồm [33]: Còn thiếu kiến thức về SKSS: thiếu kiến thức về các biện pháp tránh thai, đặc biệt là về các BLTQĐTD và thời điểm dễ thụ thai trong chu kỳ kinh nguyệt của nữ thanh niên. Tỷ lệ phá thai ở độ tuổi VTN và vấn đề mang thai ngoài ý muốn, phá thai không an toàn được coi là vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần, ảnh hưởng đến
- giống nòi cũng như các quan niệm về giá trị trong xã hội. Thiếu tiếp cận với các nguồn thông tin chính xác: VTN phần nào được cung cấp thông tin về SKSS, về các biện pháp tránh thai. Tuy nhiên, những thông tin này chưa được đầy đủ, đặc biệt là các thông tin về bệnh nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục. Nguồn thông tin chính xác và tin cậy thì khó tiếp cận. Ví dụ như: VTN thiếu cả những thông tin cơ bản về tình dục an toàn và phòng tránh thai ngoài ý muốn. Việc triển khai các chương trình giáo dục, các mô hình can thiệp cho VTN về SKSS, an toàn tình dục và phòng chống HIV/AIDS còn ít và chưa đầy đủ. Phần lớn các chương trình can thiệp chỉ nhằm vào yếu tố nguy cơ và bệnh tật hơn là quan tâm xây dựng môi trường lành mạnh để từ đó giảm thiểu các yếu tố nguy cơ và khuyến khích các yếu tố bảo vệ. QHTD trước hôn nhân ở VTN: Tình trạng QHTD trước hôn nhân đã trở nên khá phổ biến ở VTN. Tuy nhiên, môi trường xã hội không ủng hộ khiến cho các bạn trẻ gặp phải khó khăn khi cần được tư vấn, hỗ trợ cụ thể để quyết định hành vi tình dục của mình. Bên cạnh đó, tình dục đồng giới là vấn đề rất nhạy cảm, thậm chí còn là điều cấm kỵ, khiến cho việc thảo luận và chia sẻ các quan điểm về sở thích, hành vi tình dục của VTN càng trở nên khó khăn hơn. Ít tiếp cận với BCS: Hầu hết VTN đều biết được tác dụng của BCS nhưng thái độ đối với BCS còn khá tiêu cực, đồng nhất việc sử dụng BCS với QHTD không đúng đắn và vấn đề mại dâm, điều này cũng là một sự cản trở cho VTN trong việc sử dụng BCS. Thiếu hiểu biết về HIV/AIDS: Có mối liên hệ giữa trình độ học vấn của VTN và hiểu biết về HIV/AIDS. Trong số VTN chưa bao giờ đến trường thì có gần ¼ chưa bao giờ nghe nói về HIV/AIDS. Mặc dù đa số
- VTN có nhận thức cao về HIV/AIDS, nhưng mức độ nhận thức không đồng nghĩa với tính chính xác của kiến thức. Với khoảng 70% người nhiễm HIV trong độ tuổi dưới 30 là bằng chứng cho thấy sự thiếu kiến thức và thiếu kỹ năng đã khiến cho VTN chưa có khả năng thực hành hành vi TDAT và không biết cách tự bảo vệ mình tránh lây nhiễm HIV/AIDS. Bên cạnh đó, sự kỳ thị với người nhiễm HIV cũng là một vấn đề khiến cho việc phòng lây nhiễm HIV/AIDS trong nhóm VTN trở nên khó khăn hơn. Thiếu tiếp cận với các dịch vụ y tế có chất lượng: Tình hình tiếp cận các dịch vụ y tế, nhất là các dịch vụ y tế công ở tất cả các nhóm VTN rất thấp, đặc biệt ở những nhóm thiệt thòi như VTN đường phố, khuyết tật, VTN dân tộc thiểu số…[6]. Theo một nghiên cứu của Lê Huỳnh Thị Cẩm Hồng và Trương Trọng Hoàng năm 2008, những kiến thức về những thay đổi bình thường ở tuổi dậy thì và kiến thức về điều kiện tiếp xúc giữa nam và nữ có thể có thai là được biết đến nhiều nhất vì đây là những kiến thức phổ thông và tương đối dễ tiếp cận hơn so với một số chủ đề tế nhị khác như thủ dâm, nạo phá thai (NPT), các BPTT và các BLTQĐTD có ít học sinh có kiến thức đúng. Tỷ lệ học sinh có kiến thức chung đúng về các vấn đề giới tính không cao (31,5%). Điều này cho thấy việc cung cấp kiến thức cho các em học sinh hiện nay là vô cùng cần thiết [17]. Nhìn chung phần lớn học sinh không chấp nhận việc QHTD trước hôn nhân nhưng vẫn còn một tỷ lệ khá cao (20,3%) coi việc QHTD ở tuổi VTN là bình thường trong tình yêu. Cuộc khảo sát cũng cho thấy những học sinh nam có thái độ đồng ý việc QHTD ở tuổi VTN cao gấp 2,87 lần so với học sinh nữ. Có đến gần phân nửa số học sinh tham gia nghiên cứu
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn