HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN VĂN THẠCH
biÕn ®æi ph©n tÇng x· héi nghÒ nghiÖp
ë thµnh phè ®µ n½ng tõ n¨m 2002 ®Õn n¨m 2010
Chuyên ngành : Xã hội học
Mã số
: 62 31 30 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC
HÀ NỘI - 2014
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. GS, TS Lê Ngọc Hùng
2. PGS, TS Nguyễn Chí Dũng
Phản biện 1:......................................................... .........................................................
Phản biện 2:......................................................... .........................................................
Phản biện 3:......................................................... .........................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2014
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1.1. Tính cấp thiết về mặt lý luận Phân tầng xã hội (PTXH) là một trong những chủ đề nghiên cứu cơ bản của Xã hội học. Ở nước ta, từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, đã có nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm nghiên cứu, lí giải vấn đề PTXH trên cả phương diện lí luận và thực tiễn. Tuy nhiên, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào khía cạnh PTXH về mức sống; mô tả, đo lường mức độ giàu nghèo… Còn về phương diện PTXH nghề nghiệp và sự biến đổi của quá trình này thì chưa có nhiều những nghiên cứu. Vì vậy, xây dựng cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu biến đổi PTXH nghề nghiệp nhằm cung cấp cứ liệu cho việc hoạch định chính sách điều chỉnh PTXH nghề nghiệp, phát triển xã hội bền vững đang là yêu cầu rất cấp thiết hiện nay.
1.2. Tính cấp thiết về mặt thực tiễn Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã và đang tác động tạo ra sự thay đổi nhiều mặt trong đời sống kinh tế - xã hội. Các loại hình nghề nghiệp thì ngày càng phát triển theo hướng phong phú đa dạng hơn. Sự dịch chuyển lao động giữa các lĩnh vực nghề nghiệp diễn ra mạnh mẽ theo hướng giảm dần lao động trong các nghề mang đặc trưng của xã hội nông nghiệp truyền thống và tăng lên đáng kể lao động trong các nghề của xã hội công nghiệp hiện đại. Từ sự biến đổi cơ cấu kinh tế đã kéo theo sự biến đổi phân tầng xã hội diễn ra khá gay gắt giữa các giai tầng xã hội, cũng như giữa các nhóm xã hội nghề nghiệp.
Đà Nẵng được tách ra từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng để trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương từ năm 1997; những năm sau đó, nhất là từ năm 2002 đến năm 2010 là giai đoạn thành phố thực hiện quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa rộng khắp với quy mô, tốc độ rất nhanh (sau năm 2010, do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên quá trình đô thị hóa chậm lại). Từ khi trở thành đơn vị hành chính trực thuộc trung ương, đến năm 2010, Đà Nẵng đã thu hồi đất với tổng diện tích 11.488 ha; tổng số hộ thuộc diện giải tỏa đền bù gần 90.000 hộ. Trong đó, số hộ giải tỏa thu hồi đi hẳn là 41.282 hộ, số hộ giải tỏa thu hồi một phần 21.125 hộ, số hộ giải tỏa đất nông nghiệp, lâm nghiệp 20.333 hộ. Với các chủ trương, chính sách quy hoạch, chỉnh trang đô thị đã tạo ra những sự thay đổi lớn về không gian vật chất đô thị, về cơ cấu kinh tế - xã hội và chiến lược phát triển nền kinh tế của thành phố...Tất cả những yếu tố đó đã tác động mạnh mẽ đến biến đổi PTXH nghề nghiệp.
2
Thực tế nói trên cho thấy, việc việc vận dụng lý thuyết và phương pháp Xã hội học vào nghiên cứu biến đổi kinh tế - xã hội nói chung và đặc biệt là sự biến đổi PTXH nghề nghiệp nói riêng, trên quy mô toàn quốc cũng như ở thành phố Đà Nẵng là nhiệm vụ cần thiết nhằm nhận diện thực trạng biến đổi, luận giải những yếu tố tác động đến sự biến đổi cũng như đánh giá hệ quả của sự biến đổi PTXH nghề nghiệp đến sự phát triển kinh tế - xã hội, từ đó kiến nghị những giải pháp hợp lý, hướng đến sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững là điều hết sức cần thiết. Việc lựa chọn đề tài: Biến đổi phân tầng xã hội nghề nghiệp ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2002 đến năm 2010 để nghiên cứu là nhằm đáp ứng các yêu cầu quan trọng nói trên.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án 2.1. Mục tiêu nghiên cứu: Làm rõ thêm những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu về biến đổi PTXH nghề nghiệp; nhận diện thực trạng biến đổi PTXH nghề nghiệp từ năm 2002 -2014, tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự biến đổi cũng như đánh giá hệ quả của những biến đổi đó đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng; đề xuất các giải pháp nhằm phát triển xã hội bền vững.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu nói trên, Luận án có các
nhiệm vụ sau:
- Xác định cơ sở lý luận, phương pháp luận và các khái niệm PTXH nghề
nghiệp và biến đổi PTXH nghề nghiệp.
- Phân tích dữ liệu để nhận diện thực trạng biến đổi PTXH nghề nghiệp. - Tìm hiểu những nhân tố chủ yếu tác động làm biến đổi PTXH nghề nghiệp
- Đánh giá ảnh hưởng của sự biến đổi PTXH nghề nghiệp đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Dự báo xu hướng biến đổi PTXH nghề nghiệp trong những năm tới ở thành phố Đà Nẵng.
- Đề xuất giải pháp điều chỉnh PTXH nghề nghiệp hướng đến phát triển xã
hội bền vững.
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng: Luận án nghiên cứu sự biến đổi phân tầng xã hội
nghề nghiệp.
3.2. Khách thể: Luận án nghiên cứu các nhóm xã hội nghề nghiệp đang hoạt
động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng qua ở thời điểm điều tra.
3.3. Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu sự biến đổi phân tầng xã hội
nghề nghiệp ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2002 đến 2010.
3
4. Câu hỏi nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, các câu
hỏi nghiên cứu được xác định như sau:
Câu hỏi 1: Cần dựa trên cơ sở phương pháp luận nào để nghiên cứu quá trình
biến đổi PTXH nghề nghiệp hiệu quả nhất.
Câu hỏi 2: Thực trạng biến đổi PTXH nghề nghiệp ở thành phố Đà Nẵng từ
năm 2002 - 2010 diễn ra như thế nào?
Câu hỏi 3: Những yếu tố chủ yếu nào đã và đang tác động đến sự biến đổi
PTXH nghề nghiệp ở thành phố Đà Nẵng ?
Câu hỏi 4: PTXH nghề nghiệp sẽ biến đổi theo xu hướng nào và cần các giải
pháp gì để điều chỉnh PTXH nghề nghiệp, phát triển xã hội bền vững?
5. Giả thuyết nghiên cứu và khung phân tích 5.1. Giả thuyết nghiên cứu - Giả thuyết 1: Từ sau năm 2000 đến nay, sự PTXH nghề nghiệp ở thành phố Đà Nẵng diễn ra nhanh hơn về cả quy mô, mức độ so với tình hình chung của cả nước.
- Giả thuyết 2: Các yếu tố giới tính, tuổi, địa bàn sinh sống, trình độ học vấn
đã tác động mạnh đến sự biến đổi PTXH nghề nghiệp.
- Giả thuyết 3: Chủ trương đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa và chính sách ưu tiên phát triển giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực là những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự biến đổi PTXH nghề nghiệp của thành phố Đà Nẵng.
Môi trường tự nhiên, kinh tế - xã hội
Hệ thống chính sách
Đặc điểm cá nhân người lao động
5.2. Khung phân tích
Biến đổi PTXH nghề nghiệp
Vị thế kinh tế nghề nghiệp
Vị thế xã hội nghề nghiệp
Vị thế quyền lực nghề nghiệp
Hệ quả xã hội
4
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6.1. Cơ sở lý luận - Luận án được thực hiện dựa trên những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về biến đổi xã hội.
- Dựa trên quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng và Nhà nước Việt Nam, của cấp uỷ và chính quyền thành phố Đà Nẵng.
- Vận dụng các lý thuyết của Karl Marx, Max Weber và của các nhà XHH
hiện đại để luận giải sự biển đổi phân tầng xã hội nghề nghiệp.
- Để đạt được mục đích nhận diện biến đổi PTXH nghề nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, tác giả lựa chọn hướng tiếp cận theo 9 nhóm xã hội nghề nghiệp để xử lý và phân tích vị thế kinh tế - xã hội. Cơ sở để phân loại 9 nhóm xã hội nghề nghiệp là dựa vào bảng Danh mục nghề nghiệp mà Tổng cục Thống kê xây dựng nhằm phục vụ cho các cuộc KSMS hộ gia đình ở nước ta trong hơn một thập niên qua
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể - Phân tích tài liệu có sẵn, là những tài liệu thu thập được từ các báo cáo
tổng kết, các nghiên cứu đã có và các tài liệu khác liên quan đến đề tài.
- Phương pháp định lượng: + Sử dụng file số liệu gốc của hai cuộc Khảo sát mức sống hộ gia đình năm
2002 và 2010, do Tổng cục Thống kê thực hiện.
+ Điều tra chọn mẫu với số lượng 451 phiếu trưng cầu ý kiến đại diện cho 9
nhóm xã hội nghề nghiệp trên các quận/huyện của thành phố Đà Nẵng.
- Phương pháp định tính: Tác giả thực hiện 27 mẫu phỏng vấn sâu đại diện
cho 9 nhóm xã hội xã hội nghề nghiệp; và 4 cuộc thảo luận nhóm.
7. Đóng góp mới của Luận án 7.1. Đóng góp mới về mặt khoa học - Hệ thống hóa, bổ sung và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về PTXH nghề nghiệp và biến đổi PTXH nghề nghiệp; đặc biệt là xây dựng khái niệm, hệ thống tiêu chí đánh giá để nghiên cứu về biến đổi PTXH nghề nghiệp.
- Phân tích, mô tả thực trạng biến đổi PTXH nghề nghiệp ở TP Đà Nẵng từ năm 2002 đến năm 2010 và đưa ra dự báo xu hướng biến đổi những năm sau 2010.
- Lý giải và chỉ ra những yếu tố tác động đến quá trình biến đổi PTXH nghề
nghiệp ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2002 đến năm 2010.
- Đánh giá ảnh hưởng của sự biến đổi PTXH nghề nghiệp đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của Đà Nẵng.
5
7.2. Đóng góp mới về mặt thực tiễn - Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong các công việc hoạch định và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, cũng như lựa chọn giải pháp để điều chỉnh PTXH nghề nghiệp, phát triển xã hội bền vững
- Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan đến sự biến đổi xã hội trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa và phát triển kinh tế thị trường hiện nay.
8. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án gồm 5 chương, 13 tiết.
Chương 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP
1.1. Những nghiên cứu về phân tầng xã hội và phân tầng xã hội nghề
nghiệp trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về phân tầng xã hội Trên cơ sở nền tảng lý luận được thiết lập trước đó, từ những năm 40 của thế kỷ XX đến nay, thuật ngữ “phân tầng xã hội” được sử dụng khá rộng rãi ở rất nhiều nước trên thế giới, và ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu đi sâu khảo sát, lý giải hiện thực PTXH diễn ra trong các xã hội và các tác giả cũng đã không ngừng có sự bổ sung phát triển lý thuyết phân tầng.
1.1.2. Nghiên cứu về phân tầng xã hội nghề nghiệp Từ việc tổng quan những nghiên cứu về PTXH trên thế giới đã cho thấy, ngày càng có nhiều các nghiên cứu phân tầng dựa vào tiêu chí nghề nghiệp để phân chia. Ngay trong tư tưởng của Karl Marx cũng đề cao yếu tố phân công lao động xã hội; sự nhấn mạnh đến cơ may thị trường của Max Weber cũng là sự quan tâm đến lợi thế nghề nghiệp; rồi hàng loạt các nghiên cứu về PTXH của tác giả Ian Robertson, Gilbert Kahl (1996), Tominaga Kenichi, Lục Học Nghệ cùng các cộng sự (2004) vv…đều dựa trên tiêu chí nghề nghiệp để phân tầng xã hội - đây là điều còn đang ít được nghiên cứu trong PTXH ở Việt Nam.
1.2. Tổng quan nghiên cứu về phân tầng xã hội và phân tầng xã hội
nghề nghiệp ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu lý luận về phân tầng xã hội Trên cơ sở phân tích, đánh giá và tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của các nhà khoa học trên thế giới, các nghiên cứu về PTXH ở nước ta đến nay đã có
6
những đóng góp đặc biệt quan trọng trong việc phổ biến và phát triển lý thuyết, từ hệ khái niệm đến cách thức tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, tiêu chí đánh giá PTXH.
1.2.2. Nghiên cứu thực nghiệm về phân tầng xã hội Các nghiên cứu đã đi sâu phân tích một số khía cạnh khác nhau của PTXH, phân hóa giàu - nghèo từ thực trạng, xu hướng, các nhân tố tác động; đến đánh giá ảnh hưởng của PTXH đến sự phát triển kinh tế - xã hội, và những giải pháp góp phần điều chỉnh PTXH. Tuy nhiên, cho đến nay, các nghiên cứu mới chỉ tập trung chủ yếu vào việc phân tích, mô tả thực trạng PTXH theo mức sống, phân hóa giàu nghèo mà chưa có những nghiên cứu sâu về các phương diện khác của phân tầng. Hay nói cách khác, trong ba dấu hiệu (tiêu chí) khi nói đến PTXH là vị thế kinh tế - vị thế chính trị - vị thế xã hội thì phần lớn các nghiên cứu chưa đi sâu tiếp cận hai dấu hiệu sau.
1.2.3. Nghiên cứu về phân tầng xã hội nghề nghiệp ở Việt Nam Trong khi nhiều nghiên cứu của giới xã hội học trên thế giới đã dựa trên tiêu chí nghề nghiệp để PTXH thì điều này lại ít có trong các nghiên cứu PTXH ở Việt Nam. Từ năm 2010 đến nay chỉ mới có các nghiên cứu của Đỗ Thiên Kính, Lê Văn Toàn... bắt đầu đề cập đến PTXH nghề nghiệp.
Xuất phát từ thực tế nói trên, Luận án đi vào nghiên cứu vấn đề còn bỏ ngỏ: Biến đổi PTXH nghề nghiệp ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2002 đến năm 2010. Luận án tập trung làm rõ thêm các vấn đề cơ bản sau: Xây dựng hệ khái niệm, hệ thống tiêu chí đánh giá về PTXH nghề nghiệp; phân tích thực trạng biến đổi PTXH nghề nghiệp đã và đang diễn ra như thế nào; những yếu tố nào tác động đến quá trình đó ở thành phố Đà Nẵng; cần có những giải pháp gì để điều chỉnh PTXH nghề nghiệp, phát triển xã hội bền vững.
Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIẾN ĐỔI PHÂN TẦNG XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP
2.1. Một số khái niệm cơ bản 2.1.1. Phân tầng xã hội Kế thừa có chọn lọc quan điểm của những người đi trước, tác giả luận án đưa ra quan niệm về PTXH như sau: PTXH là sự phân hóa xã hội thành các tầng lớp xã hội khác nhau, mỗi tầng là một tập hợp người tương đối giống nhau về vị thế, bao gồm vị thế kinh tế, vị thế chính trị và vị thế xã hội; từ đó mà họ có được thứ bậc nhất định trong cấu trúc xã hội; và có được những cơ hội hưởng thụ và thăng tiến khác nhau.
7
2.1.2. Phân tầng xã hội nghề nghiệp Tác giả xây dựng khái niệm PTXH nghề nghiệp trong nghiên cứu của Luận án có nội hàm như sau: PTXH nghề nghiệp là sự phân hóa xã hội thành các nhóm xã hội nghề nghiệp khác nhau, mỗi nhóm xã hội nghề nghiệp là một tập hợp người lao động tương đối giống nhau về vị thế kinh tế, vị thế quyền lực và vị thế xã hội; từ đó mà họ có được thứ bậc nhất định trong cấu trúc xã hội; và có được những cơ hội hưởng thụ và thăng tiến khác nhau.
2.1.3. Biến đổi phân tầng xã hội nghề nghiệp Biến đổi PTXH nghề nghiệp là khái niệm chỉ sự thay đổi về mặt cấu trúc phân tầng và quy mô, mức độ phân tầng của các nhóm xã hội nghề nghiệp trong một khoảng thời gian xác định. Vì biến đổi PTXH nghề nghiệp là một quá trình kinh tế - xã hội nên để xác định nó, mỗi phép đo đều cần ít nhất hai thời điểm khác nhau. Điểm mốc mà luận án lựa chọn để so sánh, làm sáng tỏ sự biến đổi PTXH nghề nghiệp ở Đà Nẵng là từ năm 2002 đến 2010, khoảng thời gian thành phố đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH, ĐTH.
2.2. Cơ sở lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu phân tầng xã hội
nghề nghiệp
2.2.1. Quan điểm của Karl Marx và Max Weber về phân tầng xã hội Tổng hợp quan điểm về phân tầng của Karl Marx và Max Weber thực sự là lý luận nền tảng cho mọi nghiên cứu về phân tầng bởi suy cho cùng, sự PTXH trên phương diện tiếp cận nào cũng đều dựa trên 3 loại vị thế quyền lực, vị thế kinh tế và vị thế xã hội. Lý thuyết của 2 ông là cơ sở nền tảng để Luận án vận dụng trong suốt quá trình phân tích, lý giải sự biến đổi PTXH nghề nghiệp ở Đà Nẵng.
2.2.2. Những phát triển của lý thuyết xã hội học hiện đại về phân tầng
xã hội
- Quan niệm về PTXH của Kingsley Davis và Wilbert Moore Hai tác giả cho rằng PTXH, bất bình đẳng xã hội là do có sự khác nhau về giá trị của các địa vị xã hội. Thiết nghĩ, nghề nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng xác lập địa vị xã hội của cá nhân và nhóm người trong xã hội. Thực tế ở nước ta nói chung và Đà Nẵng nói riêng đang cho thấy, càng đi dần vào xã hội hiện đại thì phân công lao động càng phát triển và sự PTXH nghề nghiệp đang diễn ra theo chiều hướng gay gắt. Mỗi nhóm xã hội nghề nghiệp gắn với vị thế kinh tế - xã hội khác nhau cũng như những lợi thế về cơ may đời sống khác nhau.
- Lý thuyết về PTXH nghề nghiệp của Erick Olin Wright Theo Erick Olin Wright, trong nền sản xuất tư bản hiện đại, có ba sự kiểm soát các nguồn lực kinh tế: Sự kiểm soát về đầu tư hay vốn tiền tệ; sự kiểm soát
8
các phương tiện vật chất của nền sản xuất (ruộng đất hay công xưởng và công sở văn phòng); và sự kiểm soát đối với sức lao động. Dựa vào ba sự kiểm soát đó, có thể xác định được các giai tầng trong xã hội. Ngoài các giai tầng chính (tư sản và vô sản), lý thuyết của Wright còn chỉ ra sự tồn tại của các tầng lớp trung gian, họ được xác định dựa trên tiêu chí nghề nghiệp. Vì vậy, quan điểm nêu trên góp phần định hướng cho Luận án đi sâu nghiên cứu sự biến đổi vị thế kinh tế, quyền lực và uy tín của các nhóm xã hội nghề nghiệp.
- Lý thuyết của Ralf Dahrendorf Theo ông, tổ chức của một xã hội, suy cho cùng là sự sắp xếp, bố trí quyền lực theo trật tự từ cao xuống thấp, từ nhóm có quyền đến nhóm không có quyền. Như vậy, ta thấy rằng cơ sở tạo ra sự PTXH là quyền lực bắt nguồn từ vị thế của họ có được trong chính cấu trúc quyền lực của xã hội.
- Quan điểm của Pỉerre Bourdieu Theo Bourdieu thì để đánh giá vị thế giai cấp của cá nhân không chỉ dựa vào các chỉ báo về kinh tế (thu nhập, chi tiêu, tài sản...) và nghề nghiệp mà còn phải chú ý đến yếu tố “vốn văn hóa”, “vốn xã hội”. Cũng có nghĩa rằng, sự biến đổi PTXH nghề nghiệp và tính di động của các nhóm xã hội nghề nghiệp sẽ phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố “vốn văn hóa” và “vốn xã hội”. Trong đó, trình độ học vấn và quan hệ xã hội là những biến số có sức tác động rất mạnh.
Tóm lại, các lý thuyết về PTXH phần lớn đều được dựa trên nền tảng tiếp cận nghiên cứu của Karl Marx và Max Weber, từ đó các tác giả phát triển thành các trường phái riêng nhằm phân tích và lý giải những hiện tượng PTXH trong các xã hội hiện đại.
2.2.3. Những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu phân tầng xã hội nghề
nghiệp ở nước ta hiện nay
Sự biến đổi PTXH ở nước ta đang chịu tác động bởi nhiều yếu tố: Sở hữu tư liệu sản xuất, lợi thế nghề nghiệp, trình độ giáo dục v.v... Vì thế, để nghiên cứu lý giải PTXH nghề nghiệp hiện nay không thể duy kinh tế (chỉ dựa trên yếu tố sở hữu tư liệu sản xuất) mà phải tiếp cận đa chiều cạnh, tức là phải xem xét từ nhiều yếu tố.
Bên cạnh yếu tố quyền sở hữu tư liệu sản xuất, thì lợi thế nghề nghiệp, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực lãnh đạo quản lý và đặc biệt là quyền lực chính trị là những yếu tố cốt yếu cần phải được chú ý khi nghiên cứu về PTXH nghề nghiệp ở nước ta hiện nay.
Vận dụng kết hợp quan điểm về PTXH của Karl Marx và Max Weber và kế thừa sự phát triển mới trong các lý thuyết XHH hiện đại vào nghiên cứu PTXH nghề nghiệp hiện nay là một cách làm có ý nghĩa cao về mặt lý luận và thực tiễn.
9
2.3. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phân
tầng xã hội và điều chỉnh phân tầng xã hội
Càng đi sâu vào KTTT thì PTXH có xu hướng diễn ra gay gắt. Thực tế đó đặt ra cho Đảng và Nhà nước Việt Nam nhiệm vụ xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách xã hội đồng bộ nhằm điều chỉnh PTXH, đảm bảo sự công bằng xã hội, hướng tới giá trị nhân văn cao cả, phát triển toàn diện con người.
Vấn đề đặt ra là điều chỉnh PTXH bằng cách nào? Theo quan điểm và định hướng nào là điều cần xác định. Điều chỉnh PTXH và phân hoá giàu nghèo không có nghĩa là bằng mọi cách nâng mức sống của người nghèo lên bằng người giàu và hạ mức sống của người giàu xuống bằng người nghèo, càng không phải là “lấy của người giàu chia cho người nghèo” theo kiểu “cào bằng”, “Trung bình chủ nghĩa” đối với các giai tầng xã hội.
Quan điểm và chính sách xuyên suốt của Đảng và Nhà nước là tạo cơ hội và điều kiện bình đẳng cho mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện ngày càng tốt hơn công bằng xã hội. Công bằng xã hội là thông qua cơ chế chính sách để tạo lập điều kiện, môi trường thuận lợi cho mọi người dân phát huy khả năng, lợi thế để tự vươn lên, tôn trọng và khuyến khích tài năng phát triển, chấp nhận có PTXH nhưng hợp lý, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
Chương 3 NHẬN DIỆN BIẾN ĐỔI PHÂN TẦNG XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2002 ĐẾN NĂM 2010
3.1. Khái quát đặc điểm địa lý - hành chính, kinh tế - xã hội thành phố
Đà Nẵng
3.1.1. Đặc điểm địa lý - hành chính Đà Nẵng là thành phố biển lớn nhất miền Trung, ở 15055’ đến 16014’ vĩ Bắc, 107018’ đến 108020’kinh Đông, phía bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía nam và tây giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp Biển Đông.
Thành phố Đà Nẵng hiện nay có diện tích đất tự nhiên: 1255,0 km2; dân số hơn 900.000 người (năm 2010); thành phố có 6 quận nội thành (Sơn Trà, Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu, Cẩm Lệ, Ngũ Hành Sơn) và hai huyện (huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa).
3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội Từ khi trở thành đơn vị hành chính trực thuộc trung ương (năm 1997), Đà Nẵng đã tạo lập vị thế mới, được nhiều người biết đến là một thành phố năng động, phát triển nhanh tiến trình CNH, HĐH và ĐTH. Nếu thời điểm năm 2000,
10
tỷ trọng lao động trong nông, lâm, thủy sản gần tương đương với khu vực công nghiệp, xây dựng và tỷ trọng lao động trong các ngành dịch vụ không có sự cách biệt quá lớn thì đến năm 2010 đã có sự dịch chuyển lớn. Tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm, thủy sản từ 28,23% giảm còn 9,54%; lao động trong khu vực dịch vụ đã tăng từ 39,94% lên 57,38%.
Như vậy, xét về cơ cấu lao động theo nghề nghiệp cũng như tỷ lệ đóng góp trong GDP đều cho thấy, ở Đà Nẵng đang diễn ra sự thay đổi theo hướng ngày càng giảm nhanh nhóm nghề nông, lâm, thủy sản, tăng nhanh ngành dịch vụ. Đây là cơ sở cho sự biến đổi PTXH nghề nghiệp hướng đến xã hội hiện đại.
3.2. Biến đổi phân tầng xã hội về vị thế quyền lực 3.2.1. Nguồn dữ liệu và hướng tiếp cận quyền lực nghề nghiệp Để phân tích yếu tố quyền lực nghề nghiệp, Luận án sử dụng nguồn dữ liệu
từ file gốc kết quả khảo sát MSHGĐ do Tổng cục Thống kê thực hiện.
Trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển KTTT, xã hội Việt Nam đang chuyển dần sang xã hội công nghiệp hiện đại, vị thế quyền lực nghề nghiệp được phân tầng theo thứ tự từ cao xuống thấp gồm: Lãnh đạo, quản lý - doanh nhân - chuyên môn cao, đây được coi là những nhóm tinh hoa; tiếp theo là những nhóm xã hội nghề nghiệp mang tính chất của xã hội hiện đại: Nhân viên - công nhân - buôn bán, dịch vụ; những nhóm có vị thế đến thấp nhất là: Tiểu thủ công - lao động giản đơn - nông dân, đây là những nhóm xã hội nghề nghiệp gắn với đặc trưng của nền sản xuất nông nghiệp truyền thống.
Thứ bậc quyền lực nghề nghiệp được xác lập theo trật tự phân tầng như vậy, song việc đánh giá quyền lực các nhóm xã hội nghề nghiệp còn được căn cứ vào nhiều yếu tố khác nữa, đặc biệt là khả năng di động nghề nghiệp từ thứ bậc này sang thứ bậc khác, từ nhóm nghề nghiệp này sang nhóm nghề nghiệp khác cũng là những dấu hiệu quan trọng để đánh giá sức hấp dẫn hay vị thế quyền lực của các nghề nghiệp.
Như vậy, về thứ bậc vị thế quyền lực của 9 nhóm xã hội nghề nghiệp đến nay đã được các nghiên cứu trong nước và thế giới xác định, vì vậy, trong Luận án này, tác giả chỉ tập trung xem xét khía cạnh di dộng nghề nghiệp thông qua cấu trúc mô hình tháp phân tầng nghề nghiệp của lao động lấy làm tiêu chí để đánh giá mức độ quyền lực của các nhóm xã hội nghề nghiệp.
3.2.2. Thực trạng biến đổi vị thế quyền lực nghề nghiệp thông qua sự di
động nghề nghiệp trong mô hình tháp phân tầng xã hội nghề nghiệp
3.2.2.1. Sự di động nghề nghiệp trong mô hình phân tầng xã hội nghề nghiệp
của cả nước
Phân tích số liệu khảo sát năm 2002 và 2010 của cả nước cho thấy, cấu trúc dân số lao động đang có sự thay đổi theo chiều hướng đến xã hội hiện đại, mặc dù
11
diễn tiến còn khá chậm. Các nhóm xã hội nghề nghiệp mang đặc trưng xã hội truyền thống đang có chiều hướng giảm dần. Những nhóm xã hội nghề nghiệp gắn với xã hội công nghiệp hiện đại (thuộc tầng trung và đỉnh của tháp phân tầng nghề nghiệp) đều có sự chuyển động tăng dần. Tỷ lệ các nhóm xã hội nghề nghiệp này đều tăng lên khá nhanh, trong đó có các tầng lớp nghề nghiệp như doanh nhân, chuyên môn cao, công nhân có mức tăng trên 2 lần trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2010. Tuy nhiên, do quy mô các nhóm xã hội nghề nghiệp đại diện cho xã hội hiện đại còn rất nhỏ bé (chẳng hạn đến năm 2010, nhóm doanh nhân chỉ chiểm 0,4%, chuyên môn cao: 3,9%, công nhân: 4,4%...) nên dù có sự tăng nhanh nhưng đến năm 2010, mô hình tháp phân tầng nghề nghiệp ở nước ta vẫn là hình kim tự tháp
3.2.2.2. Sự di động nghề nghiệp trong mô hình phân tầng xã hội nghề
nghiệp của thành phố Đà Nẵng
Ở cả 2 thời điểm 2002 và 2010, mô hình tháp phân tầng nghề nghiệp của Đà Nẵng theo hình con quay (mô phỏng đồ vật trong trò chơi dân gian). Những nhóm xã hội nghề nghiệp ở khoảng giữa phình to, những nhóm tầng đáy (nông dân và lao động giản đơn) chiếm tỷ lệ nhỏ.
Biểu đồ 3.1: Mô hình tháp phân tầng nghề nghiệp của lao động đang có việc làm ở TP Đà Nẵng năm 2002 và năm 2010
Trong khi 3 nhóm nghề mang đặc trưng xã hội nông nghiệp của cả nước giảm chậm thì ở Đà Nẵng, 3 nhóm là nông dân, lao động giản đơn và tiểu thủ công lại giảm rất nhanh từ 44,3% (năm 2002) xuống còn 32,9% (năm 2010). Đặc biệt là
12
nhóm nghề nông dân đến năm 2010, chỉ còn 7,5% (trong khi cả nước còn 52,1%). Các nhóm tầng đáy thu hẹp thì tất yếu các nhóm tầng trên của tháp phình to ra. Các nhóm xã hội nghề nghiệp đại diện cho xã hội hiện đại đều theo chiều hướng tăng lên như doanh nhân tăng từ 1,1% lên 3,0%, chuyên môn cao tăng từ 7,1% lên 15,3%, công nhân tăng từ 7,2% lên 11,6%.
Như vậy, cấu trúc các nhóm xã hội nghề nghiệp ở Đà Nẵng đang có sự biến
đổi hướng đến xã hội hiện đại trong thập niên đầu của thế kỷ XXI.
3.2.2.3. So sánh sự di động nghề nghiệp trong mô hình phân tầng xã hội
nghề nghiệp ở Đà Nẵng với các thành phố trực thuộc Trung ương
Đối chiếu mô hình tháp phân tầng dựa trên tỷ lệ lao động của các nhóm xã hội nghề nghiệp ở Đà Nẵng với các thành phố trực thuộc Trung ương khác cho thấy quy mô, mức độ và xu hướng di động nghề nghiệp diễn ra khác nhau trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2010.
Với thành phố Cần Thơ, 3 nhóm xã hội nghề nghiệp mang đặc trưng xã hội truyền thống, mặc dù giảm 14,7 điểm phần trăm (từ 76,9% xuống còn 62,2%) song mô hình tháp phân tầng nghề nghiệp của thành phố này vẫn là hình kim tự tháp - mô hình phân tầng của xã hội nông thôn thuần túy.
Mô hình tháp phân tầng nghề nghiệp của Hà Nội và Hải Phòng có nét tương đồng, ở tầng đáy của mô hình tháp - nhóm xã hội nông dân còn chiếm tỷ lệ khá cao. Trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2010, mặc dù nhóm xã hội nông dân ở Hải Phòng có tốc độ giảm nhanh (17,5 điểm phần trăm) nhưng đến năm 2010 vẫn còn 26,2%; còn ở Hà Nội thì tăng từ 19,5% lên 23,5%, có diễn tiến này là do việc sát nhập tỉnh Hà Tây vào thủ đô Hà Nội.
Mô hình tháp phân tầng nghề nghiệp của Đà Nẵng có nhiều nét tương đồng với TP Hồ Chí Minh khi các nhóm xã hội nghề nghiệp mang đặc trưng xã hội truyền thống theo xu hướng giảm mạnh, còn các nhóm xã hội nghề nghiệp của xã hội hiện đại tăng nhanh, trong đó tăng nhanh nhất là các nhóm buôn bán - dịch vụ, chuyên môn cao, doanh nhân và công nhân.
3.3. Biến đổi phân tầng xã hội nghề nghiệp về kinh tế 3.3.1. Tình hình phân tầng xã hội về thu nhập trong dân cư Đà Nẵng Vào năm 2002, mức chênh lệch giữa nhóm có thu nhập cao nhất (nhóm 5) với nhóm thấp nhất (nhóm 1) của dân cư TP Đà Nẵng là 5,4 lần. Đến năm 2010, mức chênh lệch giữa nhóm 5 và nhóm 1 là 6,6 lần. Nếu so với toàn quốc thì mức chênh lệch giữa các nhóm thu nhập của Đà Nẵng hiện còn thấp hơn rất nhiều so với mức chênh lệch chung của cả nước (mức chênh lệch nhóm 5 với nhóm 1 của cả nước năm 2002 là 8,1 lần, và năm 2010 là 9,2 lần).
Như vậy, mức độ chênh lệch (bất bình đẳng) giữa các nhóm dân cư chia theo 5 nhóm thu nhập (nhóm1 có TNBQ đầu người thấp nhất và nhóm 5 có
13
TNBQ đầu người cao nhất) ở TP Đà Nẵng qua các thời điểm từ năm 2002 đến năm 2010 đều thấp hơn rất nhiều so với mức chênh lệch chung của cả nước.
3.3.2. Biến đổi phân tầng xã hội về thu nhập theo nhóm xã hội nghề nghiệp - Kết quả phân tích từ nguồn dữ liệu Khảo sát MSHGĐ Chênh lệch TNBQ lao động/ tháng vào thời điểm năm 2002 của nhóm nghề doanh nhân có vị thế kinh tế cao nhất (tầng 9) so với nhóm nghề nông dân có vị thế kinh tế thấp nhất (tầng 1) là 4,5 lần (cả nước là 6,4 lần), nhưng đến thời điểm năm 2010 thì khoảng cách này tăng lên 6,5 lần (cả nước là 4,1 lần).
Năm 2002, nhóm xã hội nghề nghiệp có mức TNBQ cao nhất (doanh nhân) cao hơn mức trung bình chung của 9 nhóm nghề nghiệp là 208%, đến năm 2010 là 228%; ngược lại thì nhóm nghề nghiệp có mức TNBQ thấp nhất, năm 2002 chỉ bằng 46,3% và năm 2010 tụt xuống còn 35,3% so với mức trung bình chung. Số liệu trên cho thấy xu hướng phân tầng thu nhập giữa các nhóm xã hội nghề nghiệp ở Đà Nẵng ngày càng doãng ra với tốc độ khá nhanh.
- Kết quả phân tích từ nguồn dữ liệu điều tra chọn mẫu do tác giả luận án thực hiện. Luận án đã tiến hành điều tra chọn mẫu 451 trường hợp đại diện cho 9 nhóm xã hội nghề nghiệp trên địa bàn Đà Nẵng với kết quả thu được như sau. Bảng 3.1:TNBQ từ nghề chính của người lao động/tháng và vị thế phân
Năm 2002
Năm 2010
Nhóm xã hội nghề nghiệp
Vị thế phân tầng
Vị thế phân tầng
TNBQ đầu người / tháng (1000đ)
8 9 7 5 4 6 3 2 1
7 9 8 5 3 6 2 4 1
Lãnh đạo, quản lý Doanh nhân Chuyên môn cao Nhân viên Công nhân Buôn bán-dịch vụ Tiểu thủ công Lao động giản đơn Nông dân Trung bình chung
1915 2250 1133 851 783 929 628 594 512 952
TNBQ đầu người / tháng (1000đ) 4465 10010 5489 2850 2811 3701 2238 2864 2232 4143
tầng thu nhập theo 9 nhóm xã hội nghề nghiệp
Chênh lệch TNBQ lao động/ tháng vào thời điểm năm 2002 của nhóm xã hội nghề nghiệp có vị thế kinh tế cao nhất (tầng 9) so với nhóm nghề có vị thế kinh tế thấp nhất (tầng 1) là 4,38 lần, đến thời điểm năm 2010, khoảng cách này là 4,48 lần.
14
Số liệu trên cũng cho thấy xu hướng phân tầng thu nhập giữa các nhóm xã hội nghề nghiệp ở Đà Nẵng ngày càng doãng ra trong khi cả nước lại theo chiều thu hẹp lại.
Căn cứ vào điểm số phân tầng về kinh tế của mỗi nhóm xã hội nghề nghiệp thì ở thời điểm năm 2002, ba nhóm có vị thế phân tầng cao nhất (các tầng 9, 8 và 7) thuộc về: Lãnh đạo quản lý, doanh nhân và chuyên môn cao; thứ tự thấp dần xếp tiếp theo là các nhóm nghề buôn bán - dịch vụ (tầng 6), nhân viên (5) và công nhân (4); ba nhóm xã hội còn lại thứ tự đến thấp nhất là: Tiểu thủ công (3), lao động giản đơn (2) và nông dân (1); Đến thời điểm năm 2010, ba nhóm có vị thế phân tầng cao nhất (các tầng 9, 8 và 7) thuộc về: Doanh nhân, lãnh đạo quản lý và chuyên môn cao; thứ tự thấp dần xếp tiếp theo là các nhóm nghề buôn bán - dịch vụ (tầng 6), nhân viên (5) và công nhân (4); ba nhóm xã hội còn lại thứ tự đến thấp nhất là: Tiểu thủ công (3), lao động giản đơn (2) và nông dân (1).
Như vậy, trong bối cảnh đẩy mạnh tiến trình CNH, HĐH, ĐTH và phát triển KTTT, mỗi loại nghề nghiệp có những điều kiện và lợi thế kinh tế khác nhau nên đã và đang có cơ hội thăng tiến khác nhau trong cấu trúc phân tầng về thu nhập.
3.4. Biến đổi phân tầng xã hội nghề nghiệp về vị thế xã hội 3.4.1. Cơ sở dữ liệu và hướng tiếp cận vị thế xã hội Để có cơ sở nhận diện sự biến đổi PTXH nghề nghiệp về phương diện vị thế xã hội, Luận án tiến hành trưng cầu ý kiến đánh giá chủ quan từ người dân qua cuộc điều tra chọn mẫu trên địa bàn Đà Nẵng.
Vị thế xã hội là một trong ba căn cứ cơ bản để phân chia xã hội thành các tầng lớp khác nhau. Cũng như hai loại vị thế quyền lực và vị thế kinh tế, vị thế xã hội là khái niệm nói đến vị trí, thứ bậc của các nhân hay nhóm xã hội được sắp xếp trong một cấu trúc hội nhất định; điểm khác biệt ở chỗ, hai loại vị thế kể được căn cứ vào quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế, còn vị thế xã hội lại thiên về mặt uy tín, mức độ tôn trọng xã hội. Xuất phát từ cách tiếp cận đó, trong cuộc điều tra chọn mẫu tại Đà Nẵng, câu hỏi nêu ra là yêu cầu người trả lời dựa trên sự cảm nhận về uy tín hay sự ngưỡng mộ của mình để xếp thứ hạng 9 nhóm xã hội nghề nghiệp.
3.4.2. Phân tích sự biến đổi vị thế xã hội qua kết quả điều tra chọn mẫu Đối với nhóm nghề lãnh đạo, quản lý, ý kiến đánh giá vị thế uy tín năm 2010 vẫn ở tầng cao nhất (tầng 9) nhưng điểm số đánh giá vị thế xã hội đã giảm từ 8.47 (năm 2002), xuống còn 7.89 điểm (năm 2010).
Nhóm nghề doanh nhân có điểm số đánh giá vị thế xã hội đã tăng từ 7.36,
lên 7.79 điểm.
15
Nhóm nghề chuyên môn cao cũng đang ngày càng được nhiều ý kiến đánh giá họ ở thứ hạng vị thế cao hơn. Điểm số đánh giá vị thế xã hội của nhóm này đã tăng nhanh từ 7.14 lên 7.54 điểm.
Nhóm nghề nhân viên, từ thời điểm năm 2002 đến năm 2010, thứ hạng vị thế xã hội giảm sút từ tầng 6 xuống tầng 5. Điểm số đánh giá vị thế xã hội của nhóm này đã giảm từ 5.57 xuống còn 5.33 điểm.
Nhóm nghề công nhân cũng biến đổi theo chiều hướng giảm sút uy tín xã hội, từ vị thế ở tầng 5 (năm 2002) xuống tầng 4 (vào thời điểm năm 2010). Điểm số đánh giá vị thế xã hội của nhóm này đã giảm từ 4.74 xuống còn 4.43 điểm
Nhóm nghề buôn bán - dịch vụ ở thời điểm năm 2002, có tỷ lệ ý kiến nhiều nhất đánh giá thứ hạng uy tín ở tầng 4 thì ở thời điểm năm 2010, tỷ lệ ý kiến cao nhất xếp vị thế xã hội của nhóm nghề nghiệp này lên tầng 6. Đây là nhóm xã hội nghề nghiệp có mức biến đổi tầng bậc vị thế uy tín xã hội mạnh nhất. Điểm số đánh giá vị thế xã hội của nhóm này đã tăng nhanh từ 4.31 lên 4.79 điểm
Ba nhóm xã hội nghề nghiệp còn lại (tiểu thủ công, lao động giản đơn, nông dân) có vị thế xã hội lần lượt ở các tầng 3, 2, 1 và thứ hạng này không có sự biến đổi đáng kể trong thập niên đầu của thế kỷ XXI. Kết quả khảo sát ý kiến người dân thông qua phỏng vấn cho thấy lợi thế về tiền và quyền đang là những yếu tố chính yếu quyết định uy tín của nhóm xã hội nghề nghiệp. Các nhóm xã hội nghề nghiệp nằm ở “tầng” đáy (nông dân, lao động giản đơn và tiểu thủ công) có vị thế xã hội thấp nhất bởi lẽ 2 loại vị thế kinh tế và quyền lực nghề nghiệp luôn có điểm số phân tầng thấp nhất.
Tóm lại, những phân tích trên đã bước đầu đem đến cái nhìn bao quát về sự biến đổi vị thế kinh tế - xã hội của các nhóm xã hội nghề nghiệp trên địa bàn Đà Nẵng trong bối cảnh thành phố này đẩy mạnh tiến trình CNH, HĐH và ĐTH. Trước hết, từ tiếp cận quyền lực nghề nghiệp thông qua việc xem xét khía cạnh di động nghề nghiệp của lao động trong cấu trúc tháp phân tầng cho ta hình dung tháp phân tầng nghề nghiệp của Đà Nẵng có hình dạng con quay - nhỏ ở hai đầu và phình to ở giữa. Nếu căn cứ vào điểm số PTXH nghề nghiệp (là điểm bình quân được xác lập trên cơ sở tổng hợp điểm thứ hạng phân tầng về vị thế thu nhập bình quân của lao động, lợi thế về thu nhập của các nhóm nghề nghiệp và vị thế xã hội qua ý kiến đánh giá của người dân, điểm số phân tầng càng cao càng chứng tỏ vị thế kinh tế - xã hội của nhóm xã hội nghề nghiệp đó càng ở gần với “tầng đỉnh” của tháp phân tầng), có thể hình dung tháp PTXH nghề nghiệp của Đà Nẵng với phần đỉnh tháp gồm các nhóm xã hội thứ tự từ cao xuống thấp lần lượt là: Lãnh đạo quản lý, doanh nhân, chuyên môn cao ở thời điểm năm 2002 và doanh nhân, lãnh đạo quản lý, chuyên môn cao đến thời điểm năm 2010. Đây là những nhóm xã hội vừa có vị thế quyền lực nghề nghiệp cao, vừa có những ưu thế về thu nhập và vị thế xã hội cao nhất.
16
Các nhóm xã hội nghề nghiệp có thứ tự tiếp theo gồm nhóm buôn bán - dịch vụ, nhân viên, công nhân nằm ở khoảng giữa tháp phân tầng. Trong các nhóm xã hội nghề nghiệp này, nếu căn cứ vào điểm số PTXH nghề nghiệp thì nhóm nghề buôn bán - dịch vụ đang ngày càng có vị thế nổi trội do vị thế xã hội ngày càng được nâng lên, thu nhập có tốc độ tăng trưởng cao; nhóm nghề nhân viên tương đối ổn định; nhóm nghề công nhân theo chiều sa sút cả về vị thế xã hội và vị thế kinh tế. Đây là công nhân làm trong các khu công nghiệp tiền lương, tiền công được trả thấp, đời sống gặp rất nhiều khó khăn, nhất là từ khi chịu ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 2008 đến nay.
Nằm ở phần dưới tháp phân tầng hình con quay này là các nhóm xã hội nghề nghiệp mang đặc trưng nền nông nghiệp truyền thống gồm tiểu thủ công, lao động giản đơn và nông dân, trong đó nông dân đang có vị thế kinh tế - xã hội thấp nhất (từ vị thế quyền lực nghề nghiệp cho đến mức thu nhập, uy tín nghề nghiệp... đều bất lợi hơn so với các nhóm xã hội nghề nghiệp khác).
Chương 4 NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN BIẾN ĐỔI PHÂN TẦNG XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2002 -2010
4.1. Tác động của hệ thống chính sách đến sự biến đổi phân tầng xã hội
nghề nghiệp
4.1.1. Chính sách đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, đô thị hóa Đây là mảng chính sách có vai trò tác động rất mạnh đến quá trình chuyển đổi nghề nghiệp của người dân. Với loại chính sách giải tỏa, tái định cư để chỉnh trang đô thị thì có đến 88.6% ý kiến đánh giá tác động từ mức trung bình đến rất mạnh (trong đó mức rất mạnh có tỷ lệ ý kiến cao nhất 32.2%); còn với loại chính sách thu hút đâu tư, xây dựng và phát triển các khu công nghiệp cũng có tới 84.9% ý kiến đánh giá mức tác động từ trung bình đến mạnh.
4.1.2. Chính sách ưu tiên phát triển giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực Với một chiến lược phát triển chất lượng nguồn nhân lực dựa trên cơ sở khoa học và nhu cầu thực tiễn địa phương, cùng với những cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng hợp lý, chu toàn nên trong một khoảng thời gian ngắn, Đà Nẵng đã có được tỷ lệ lao động qua đào tạo khá cao. Vào năm 2000, số người đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên có trình độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên là 21,4% thì đến năm 2010, tỷ lệ này được nâng lên 31,8% (trong đó số người có trình độ CĐ-ĐH trở lên chiếm tỷ lệ 56,6%).
Nguồn lao động được đào tạo với số lượng và chất lượng cao chính là điều kiện, tiền đề thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội, tạo ra sự chuyển đổi
17
mạnh mẽ trong cơ cấu nghề nghiệp, là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển nhanh đến xã hội công nghiệp hiện đại.
4.1.3. Chính sách thu hút và trọng dụng nhân tài Song song với chính sách đào tạo, Đà Nẵng đã ban hành chính sách thu hút nguồn nhân lực trình độ cao về công tác tại địa phương. Nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật được bổ sung từ nhiều nguồn, đây là cơ sở giúp cho Đà Nẵng phát triển những ngành nghề mang đặc trưng xã hội hiện đại.
Theo kết quả ý kiến đánh giá của người dân thì chính sách thu hút nhân tài không được đánh giá cao trong việc tác động đến chuyển đổi nghề nghiệp của người dân, phần đông ý kiến đánh giá từ mức trung bình trở xuống đến rất yếu; chỉ có 19.4% ý kiến đanh giá ở mức mạnh và không hề có ý kiến nào đánh giá ở mức rất mạnh. Có lẽ do chính sách này có sự tác động đến vấn đề biến đổi nghề nghiệp của người dân một cách gián tiếp và lâu dài mà không phải ai cũng dễ dàng nhận thức được. Với chính sách trọng dụng nhân tài lại được người dân đánh giá có tác động cao hơn, kết quả mức yếu là 22.9%, mức trung bình là 38.8% và mức mạnh là 38.4%.
4.1.4. Chiến lược phát triển cơ cấu nền kinh tế hướng đến hiện đại Sau khi Đà Nẵng trực thuộc Trung ương, Đảng bộ và chính quyền thành phố xác định đúng đắn cơ cấu kinh tế của thành phố phát triển theo hướng: Công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp; và từ năm 2010, nền kinh tế của thành phố lại được điều chỉnh theo cơ cấu: “Dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp” với tỷ trọng dịch vụ chiểm khoảng 60% GDP vào năm 2020.
Chủ trương này của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã tác động mạnh mẽ đến sự chuyển dịch tỷ trọng lao động trong các ngành kinh tế. Kết quả khảo sát ý kiến đánh giá của các tầng lớp nhân dân đã cho thấy, chỉ có 13.9% ý kiến đánh giá tác động ở mức yếu và rất yếu, có 86.1% ý kiến đánh giá ở mức trung bình trở lên, trong dó có 23.3% mức mạnh và 28.7% ở mức rất mạnh.
Tóm lại, những chính sách kể trên là những nhân tố cơ bản tác động đến sự biến đổi PTXH nghề nghiệp trên địa bàn Đà Nẵng những năm đầu của thể kỷ XXI.
4.2. Các yếu tố thuộc về đặc trưng cá nhân người lao động 4.2.1. Yếu tố giới tính Kết quả nghiên cứu đều cho thấy lao động nam vẫn có lợi thế hơn trong những nhóm nghề nghiệp có vị thế kinh tế - xã hội ở tầng cao. Chẳng hạn, từ kết quả điều tra chọn mẫu, ở thời điểm năm 2002, tỷ lệ nam làm trong 3 nhóm nghề có vị thế kinh tế - xã hội cao nhất (lãnh đạo quản lý, doanh nhân và chuyên môn cao) lần lượt là 8.5% - 4.3% - 19.6%, trong khi đó tỷ lệ lao động nữ tương ứng là
18
6.7% - 4.0% - 8.0; Tương tự như vậy, đến thời điểm năm 2010, tỷ lệ lao động nam là 25% - 12.2% - 18.5% và tỷ lệ lao động nữ lần lượt là 12.% - 3.3% - 9.8%.
Phân tích số liệu từ Khảo sát MSHGĐ còn cho thấy rõ nét hơn sự khác biệt giới trong các nhóm xã hội nghề nghiệp ở Đà Nẵng. Ba nhóm xã hội nghề nghiệp nằm ở tầng đỉnh luôn có vị thế kinh tế - xã hội cao nhất thì ở cả hai thời điểm năm 2002 và 2010, tỷ lệ lao động nam chiếm đa số, nữ giới rất ít. Hai nhóm nghề nằm ở tầng đáy của tháp phân tầng nghề nghiệp là nhóm nông dân và lao động giản đơn đang có xu hướng thu hút lao động nữ nhiều hơn nam. Như vậy, bất bình đẳng giới đang là vật cản tiến trình chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp hướng đến xã hội hiện đại.
Mặt khác, khi xem xét mức thu nhập chia theo 5 nhóm từ thấp đến cao (từ nghèo đến giàu) - chỉ báo rất quan trọng quy định vị thế kinh tế, thuộc về các nhóm thu nhập thấp nhất, nữ giới bao giờ cũng chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới rất nhiều, còn ở chiều có thu nhập cao nhất thì ngược lại, tỷ lệ nam giới chiếm đa số so với nữ.
Như vậy, dù xem xét ở chiều cạnh nào cũng thấy giới tính là yếu tố có tác
động đến sự PTXH nghề nghiệp. 4.2.2. Yếu tố độ tuổi Khả năng di động nghề nghiệp từ các nhóm nghề nông dân, lao động giản đơn, tiểu thủ công lên các tầng lớp trên của tháp phân tầng diễn ra nhanh trong giai đoạn từ năm 2002 - 2010 có một thuận lợi cơ bản là phần lớn họ thuộc nhóm tuổi trẻ. Tuổi trẻ thì dễ có cơ hội tham gia các chương trình đào tạo, đào tạo lại để có kiến thức và kỹ năng thích ứng với những công việc mới, nghề nghiệp mới so với khi đã lớn tuổi. Trong khoảng thời gian từ 2002 - 2010 là giai đoạn chính quyền TP Đà Nẵng tiến hành quy hoạch, chỉnh trang đô thị mạnh nhất, khoảng 1/3 số hộ và dân số của thành phố trong diện di dời, giải tỏa trong khoảng thời gian này. Sau tái định cư, những người vốn bao đời nay là nông dân, lao động giản đơn, tiểu thủ công phải nhanh chóng chuyển đổi nghề nghiệp để thích ứng với hoàn cảnh mới với tư cách là thị dân của đô thị loại 1.
Nếu xem xét mối tương quan với mức thu nhập cao thì chúng ta lại thấy ưu thế của các nhóm tuổi 41-50 và 51-60. Ngược lại, ở chiều có mức thu nhập thấp nhất, các nhóm tuổi dưới 30 và nhóm trên 60 tuổi lại chiếm tỷ lệ cao. Như vậy, những lao động trong độ tuổi trẻ thì có lợi thế trong di động nghề nghiệp, còn những lao động trong các nhóm tuổi cao (giới hạn trong tuổi lao động) thì lại càng có ưu thế vươn lên những nhóm thu nhập cao.
4.2.3. Yếu tố địa bàn cư trú Kết quả khảo sát ở cả hai thời điểm năm 2002 và 2010, ba nhóm xã hội nghề nghiệp nằm ở phần trên của tháp phân tầng (tầng đỉnh) đều có tỷ lệ người cư trú ở
19
địa bàn thành thị cao nhất. Ngược lại, trong ba nhóm xã hội nghề nghiệp có vị thế kinh tế - xã hội lần lượt đến thấp nhất đều có tỷ lệ cư trú ở địa bàn nông thôn cao nhất. Xâu chuổi các phân tích dữ liệu cho thấy, một vấn đề mang tính quy luật là, do cư trú ở nông thôn nên người lao động thường làm những nghề truyền thống như trồng trọt, chăn nuôi, tiểu thủ công. Họ thường có mức sống không cao. Điều kiện chăm sóc y tế, giáo dục và các dịch vụ khác thường không đảm bảo...Tất cả dẫn đến những khó khăn cho khả năng di động sang những nhóm xã hội nghề nghiệp mới trong xã hội hiện đại ở Đà Nẵng.
4.2.4. Yếu tố học vấn Trình độ học vấn không chỉ ảnh hưởng đến việc lựa chọn nghề nghiệp của mỗi cá nhân mà còn là yếu tố quan trọng quyết định vị thế của mỗi người cũng như của từng nhóm xã hội nghề nghiệp. Mối quan hệ giữa trình độ học vấn với nghề nghiệp, việc làm, thu nhập...của các nhóm xã hội nghề nghiệp trong mẫu khảo sát ở Đà Nẵng vào năm 2002 và 2010 cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Kết quả khảo sát cho thấy, phần lớn người lao động trong ba nhóm xã hội nghề nghiệp có vị thế kinh tế - xã hội cao nhất trong tháp phân tầng nghề nghiệp (là nhóm doanh nhân, chuyên môn cao và lãnh đạo, quản lý) đều có trình độ học vấn cao hơn so với các nhóm xã hội nghề nghiệp còn lại. Năm 2002, nhóm chuyên môn cao có 98.3% người có trình độ CĐ-ĐH trở lên, trong đó có 58.6% sau đại học; nhóm lãnh đạo quản lý có 96.7% có trình độ CĐ-ĐH; nhóm doanh nhân có 62,6% trình độ CĐ-ĐH trở lên. Đến năm 2010, nhóm chuyên môn cao vẫn có trình độ học vấn vượt trội nhất khi có tỷ lệ 100% trình độ CĐ-ĐH trở lên, trong đó có 66.2% số người trên đại học; kế tiếp là nhóm lãnh đạo, quản lý với 98.3% từ CĐ-ĐH trở lên, trong đó có 20% số người có trình độ trên đại học; nhóm doanh nhân có 78.4% từ CĐ-ĐH trở lên, trong đó có 18.9% số người trên đại học.
Xuyên suốt cả 2 thời điểm năm 2002 và 2010, nhóm nghề nhân viên cũng có trình độ học vấn khá cao; năm 2002, nhóm này có 65.8% số người tốt nghiệp THCN trở lên, trong đó 52.4% có trình độ CĐ-ĐH; đến năm 2010, tỷ lệ tương ứng là 76.6% và 58.4%.
Những nhóm xã hội nghề nghiệp còn lại không có trình độ trên đại học, trình độ CĐ-ĐH có tỷ lệ thấp, chủ yếu người lao động có trình độ từ CNKT- THCN trở xuống, đặc biệt trong đó các nhóm nghề tiểu thủ công, nông dân vẫn còn có người lao động mù chữ. Đây đều là những nhóm xã hội nghề nghiệp có vị thế kinh tế - xã hội nằm ở nửa dưới tháp phân tầng mà với thực trạng trình độ học vấn như trên thì rất khó trong việc di động lên những nhóm xã hội nghề nghiệp có vị thế kinh tế - xã hội cao hơn.
Kết quả khảo sát còn cho thấy, những người có trình độ học vấn thấp (mù chữ, tiểu học, THCS) phần đông thuộc các nhóm có thu nhập thấp nhất; còn
20
những người có trình độ học vấn càng cao (nhất là từ ĐH trở lên) có tỷ lệ rất cao thuộc nhóm giàu có. Như vậy có thể suy luận 1 cách có căn cứ rằng, trình độ học vấn là yếu tố có ý nghĩa cực kỳ quan trọng tác động đến sự biến đổi PTXH nghề nghiệp. Rõ ràng vị thế kinh tế - xã hội của các nhóm xã hội nghề nghiệp là hệ quả từ nhiều nguyên nhân nhưng trong đó trình độ học vấn được coi là yếu tố có ảnh hưởng vừa trực tiếp vừa quan trọng nhất.
4.2.5. Yếu tố vốn xã hội Vốn xã hội là hệ thống các mối liên hệ, quan hệ xã hội mà con người thiết lập và sử dụng để làm gia tăng giá trị của hành vi, hoạt động của họ trong đời sống xã hội.
Kết quả nghiên cứu bước đầu đã cho thấy yếu tố vốn xã hội (bao gồm: mối quan hệ xã hội; lòng tin xã hội và các giá trị, chuẩn mực xã hội) cũng có sự tác động đến biển đổi PTXH nghề nghiệp.
4.2.6. Mô hình hồi quy các yếu tố tác động đến biến đổi phân tầng xã hội
nghề nghiệp về thu nhập ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2002 đến năm 2010
Phân tích đa biến sẽ kiểm tra được những ảnh hưởng đồng thời nhiều biến số kết hợp cùng nhau, cho phép chúng ta đo lường sự tác động của từng biến số riêng rẽ với điều kiện giữ nguyên những ảnh hưởng của các biến khác ở mức không đổi.
Do bị hạn chế nhất định về mặt dữ liệu nghiên cứu nên tác giả chỉ lựa chọn xây dựng hàm hồi quy đa biến về mặt biến đổi PTXH nghề nghiệp về thu nhập trên file số liệu do tác giả luận án tiến hành điều tra chọn mẫu trên địa bàn TP Đà Nẵng.
Biến phụ thuộc là sự biến đổi PTXH nghề nghiệp về thu nhập được phân chia thành 5 khoảng theo thứ tự từ nghèo đến giàu. Các biến độc lập được giả thuyết là có tác động mạnh đến biến đổi PTXH nghề nghiệp về thu nhập bao gồm giới tính (nữ là biến tham chiếu), địa bàn cư trú (nông thôn là biến tham chiếu), tuổi ( 30 tuổi là biến tham chiếu), học vấn (tiểu học là biến tham chiếu).
Kết quả từ mô hình hồi quy đã cho thấy, ở thời điểm năm 2002, chỉ có biến số: Các nhóm có trình độ học vấn từ tốt nghiệp THCS trở lên là có ảnh hưởng mạnh đến quá trình biến đổi PTXH nghề nghiệp về thu nhập trên địa bàn Đà Nẵng. Đến thời điểm năm 2010, sự biến đổi PTXH nghề nghiệp về thu nhập lại do sự tác động từ các biến số: Giới tính nam, cư trú thành thị và những nhóm có trình độ học vấn THPT (tác động ở mức thấp) và nhóm từ CĐ-ĐH trở lên (tác động rất mạnh).
21
Chương 5 XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐIỀU CHỈNH PHÂN TẦNG XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG SAU NĂM 2010
5.1. Dự báo xu hướng biến đổi phân tâng xã hội nghề nghiệp ở Đà Nẵng 5.1.1. Xu hướng biến đổi về quy mô, mức độ phân tầng xã hội nghề nghiệp Sự biến đổi PTXH nghề nghiệp ở TP Đà Nẵng là sản phẩm tất yếu của tiến trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa và phát triển KTTT. Nó gắn liền với sự đa dạng hóa sở hữu và quá trình phân công lao động đang diễn ra mạnh mẽ trong thời gian vừa qua.
Trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2010, PTXH nghề nghiệp trên địa bàn TP Đà Nẵng đã diễn ra với tốc độ khá nhanh so với diễn tiến chung của cả nước. Những năm sau 2010, tốc độ di động xã hội nghề nghiệp hướng đến cơ cấu xã hội hiện đại sẽ ở mức chậm hơn. Cơ sở để khẳng định điều này là do: i) Tiến trình đô thị hóa trên địa bàn Đà Nẵng sau năm 2010 được kiểm soát và thực hiện từng bước chậm hơn (chứ không tiến hành ồ ạt như giai đoạn trước năm 2010); ii) Sau năm 2010, cơ cấu độ tuổi người lao động trong các nhóm xã hội nghề nghiệp đang già hóa, nhất là trong các nhóm nghề nông dân, nhóm những người lao động giản đơn làm cho khả năng di động nghề nghiệp của người lao động trở nên khó khăn. 5.1.2. Xu hướng phân cực mức sống giữa các nhóm xã hội nghề nghiệp Biến đổi PTXH nghề nghiệp ở Đà Nẵng đang diễn ra với hệ số bất bình đẳng giữa các nhóm xã hội nghề nghiệp ngày càng dãn cách xa trên nhiều phương diện: Trình độ học vấn, thu nhập, uy tín xã hội... song do xuất phát điểm bất bình đẳng của Đà Nẵng còn ở mức thấp, mặt khác, cấp ủy và chính quyền thành phố rất chú trọng việc đề ra và thực hiện các chính sách xã hội nên trong những năm tới, mức độ bất bình đẳng chưa lớn.
5.1.3. Xu hướng biến đổi vị thế kinh tế - xã hội của các nhóm xã hội
nghề nghiệp
- Khoảng cách chênh lệch mức sống giữa các nhóm xã hội nghề nghiệp sẽ gia tăng như một lẽ tất yếu, song không đến mức gay gắt như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh hay Hải phòng bởi Đà Nẵng đã thiết lập được một hệ thống thiết chế xã hội chính thức và phi chính thức khá vững chắc và hữu hiệu, cho phép kiểm soát được các vấn đề xã hội bất ổn để hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
- Các nhóm nghề lao động giản đơn, tiểu thủ công, nhất là các thợ tay nghề thấp sẽ bị suy giảm dần cả về mặt tỷ trọng trong dân số cũng như trong cơ cấu nghề nghiệp chung khi quá trình chỉnh trang đô thị của Đà Nẵng đã đi dần vào ổn định.
22
- Đà Nẵng đang thực hiện “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2020”. Điều nay sẽ góp phần làm biến đổi rất nhanh cấu trúc phân tầng nghề nghiệp sang xã hội hiện đại.
5.1.4. Xu hướng tác động của biến đổi phân tầng xã hội nghề nghiệp đến
tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của Đà Nẵng trong những năm tới
Đối với thành phố Đà Nẵng thì sự biến đổi PTXH nghề nghiệp có những tác động tích cực chủ yếu sau đây. Một là, quá trình chuyển đổi từ PTXH nghề nghiệp truyền thống sang PTXH nghề nghiệp hiện đại là tiền đề để giải phóng người dân khỏi những hạn chế của những thiết chế thời bao cấp khiến họ trở nên năng động và sáng tạo hơn trong bối cảnh kinh tế thị trường. Hai là, biến đổi PTXH nghề nghiệp đã và đang góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế hướng đến hiện đại. Ba là, những biến đổi trong PTXH đang là nhân tố thúc đẩy quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội.
Bên cạnh những tác động tích cực trên, sự biến đổi PTXH nghề nghiệp ở TP Đà Nẵng cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, tiêu cực. Một là, khoảng cách giàu - nghèo giữa hai cực của xã hội hiện nay ngày một gia tăng. Hai là, quá trình PTXH nghề nghiệp ở Đà Nẵng không chỉ dẫn đến sự phân hóa giàu - nghèo, mà còn dẫn tới sự thay đổi về văn hóa, lối sống, hệ giá trị cuộc sống ở các tầng lớp dân cư. Đó là nguồn gốc dẫn tới những hiện tượng phức tạp trong quan hệ xã hội, phát sinh những tệ nạn, hiện tượng tiêu cực, phá vỡ những truyền thống tốt đẹp, phá vỡ sự cố kết vốn có của cộng đồng truyền thống.
5.2. Một số giải pháp điều chỉnh phân tầng xã hội nghề nghiệp, phát
triển xã hội bền vững
5.2.1. Tạo cơ hội bình đẳng cho các tầng lớp nhân dân trên các lĩnh vực việc
làm, sản xuất, kinh doanh.
5.2.2. Hoàn thiện môi trường pháp lý và thể chế, làm trong sạch bộ máy lãnh
đạo, quản lý các cấp, các ngành nhằm ngăn ngừa việc làm giàu phi pháp
5.2.3. Tổ chức thực hiện các chính sách xã hội cơ bản có hiệu quả thiết thực 5.2.4. Thực hiện bình đẳng giới trên các lĩnh vực nghề nghiệp. 5.2.5. Điều chỉnh kế hoạch đô thị hóa phù hợp với điều kiện, trình độ và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng để quá trình biến đổi PTXH nghề nghiệp diễn ra đúng thực chất, hợp quy luật.
5.2.6. Thông qua chương trình xây dựng nông thôn mới, cần đầu tư để tạo ra sự thay đổi căn bản về điều kiện sống, mức sống cho các nhóm xã hội nghề nghiệp ở nông thôn, thu hẹp chênh lệch với khu vực thành thị.
5.2.7. Tiếp tục phát triển giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
23
KẾT LUẬN
Sau hơn một thập niên đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH và ĐTH, đến năm 2010, kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng đã có sự thay đổi căn bản, toàn diện. Một trong những thành quả to lớn của thành phố trong những năm qua là việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, điều này đã làm thay đổi bộ mặt thành phố, thu hút các nhà đầu tư, tác động tích cực đến quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội của địa phương này, đặc biệt là sự biến đổi PTXH nghề nghiệp. Dòng di chuyển lao động từ các tầng/nhóm xã hội nghề nghiệp gắn với đặc trưng xã hội nông nghiệp lên các tầng/nhóm xã hội nghề nghiệp mang tính chất của xã hội hiện đại ở Đà Nẵng vừa khẳng định xu hướng vận động tất yếu, vừa là thước đo trình độ phát triển từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp. Có thể khẳng định rằng, sự biến đổi PTXH nghề nghiệp ở Đà Nẵng trong những năm qua vừa là sản phẩm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, vừa là tác nhân chính yếu tác động đến quá trình phát triển đó.
Nghiên cứu về biến đổi phân tầng xã hội nghề nghiệp ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2002 đến năm 2010 là một vấn đề mới. Luận án đã vận dụng các lý thuyết của Karl Marx, Max Weber và của các nhà xã hội học hiện đại trên thế giới và Việt Nam để luận giải sự biển đổi PTXH nghề nghiệp trên ba yếu tố cơ bản: vị thế quyền lực, vị thế kinh tế và vị thế xã hội của các nhóm xã hội nghề nghiệp. Kết quả nghiên cứu của luận án đã làm rõ một số nội dung quan trọng về lý luận như: Hệ thống hóa và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về PTXH và biến đổi PTXH nghề nghiệp, nhất là việc xây dựng khái niệm và hệ thống tiêu chí đánh giá để nghiên cứu về biến đổi PTXH nghề nghiệp ở thành phố Đà Nẵng. Từ cơ sở lý luận đó, tác giả đã phân tích, xử lý thông tin để nhận diện thực trạng biến đổi PTXH nghề nghiệp, chỉ ra hai nhóm biến số tác động mạnh đến quá trình biến đổi phân tầng xã hội nghề nghiệp ở Đà Nẵng những năm từ 2002 - 2010, đó là nhóm biến số thuộc về đặc trưng cá nhân người lao động, gồm yếu tố trình độ học vấn, địa bàn sinh sống, giới tính, độ tuổi; và nhóm biến số thuộc về hệ thống chính sách, gồm chính sách đẩy mạnh tiến trình CNH, HĐH, ĐTH; chính sách ưu tiên phát triển giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực; thu hút nhân tài; và chiến lược xây dựng cơ cấu nền kinh tế hiện đại của cấp ủy và chính quyền thành phố Đà Nẵng.
Kết quả khảo sát và phân tích số liệu đã nhận diện được mô hình tháp phân tầng nghề nghiệp của Đà Nẵng đang có sự biến đổi hướng đến cấu trúc xã hội hiện đại. Những nhóm xã hội nghề nghiệp gắn với nền nông nghiệp truyền thống (nông dân, lao động giản đơn, tiểu thủ công) không chỉ ngày càng giảm sút số lượng và tỷ trọng trong cấu trúc lao động xã hội mà vị thế kinh tế - xã hội của họ cũng ở các tầng thấp nhất trong thang giá trị nghề nghiệp hiện nay. Những nhóm xã hội nghề nghiệp gắn với nền công nghiệp hiện đại (lãnh đạo quản lý, doanh nhân, chuyên môn cao) thì có tỷ trọng ngày càng tăng lên và luôn có vị thế kinh tế - xã hội ở các
24
tầng cao nhất. Các tầng trung gian của tháp phân tầng (gồm các nhóm nghề nhân viên, công nhân, buôn bán - dịch vụ) có sự gia tăng nhanh vể mặt số lượng do quá trình đô thị hóa nhanh, song vị thế kinh tế - xã hội được xác lập chưa thật sự vững chắc vì có những trường hợp người lao động gia nhập các nhóm xã hội nghề nghiệp này một cách bất đắc dĩ do áp lực của việc thực hiện quá trình đô thị hóa quá nhanh, nông dân mất hết tư liệu sản xuất nên buộc phải chuyển đổi nghề để sinh tồn.
Trong tiến trình CNH, HĐH và ĐTH để đi đến xã hội hiện đại, nông dân vẫn là nhóm xã hội bị xáo trộn nghề nghiệp và điều kiện sống nhiều nhất và cũng gặp khó khăn nhất trong quá trình thích ứng với môi trường sống mới. Sự biến đổi nghề nghiệp của nhóm xã hội này là xu hướng tất yếu và cần thiết, song từ thực tế ở Đà Nẵng cũng gợi mở bài học trong quản lý xã hội và trong việc giải quyết các vấn đề xã hội đối với những nông dân nghèo, thất học, lớn tuổi, không đủ khả năng và nghị lực để thực hiện sự thay đổi lớn lao về nghề nghiệp và đời sống. Người dân phải tự phấn đấu nổ lực tới đâu và chính quyền có trách nhiệm như thế nào trong quá trình hậu tái định cư trong các dự án phát triển kinh tế hay đô thị hóa là bài toán cần được tiên liệu và có lời giải chính xác.
Biến đổi PTXH nghề nghiệp là xu hướng vận động tất yếu mang tính quy luật của sự phát triển từ xã hội truyền thống đến hiện đại. Nó vừa có những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đó là khiến người lao động trở nên năng động, tích cực và sáng tạo hơn trong bối cảnh kinh tế thị trường; góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế hướng đến hiện đại; là nhân tố thúc đẩy quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội. Mặt khác, nó vừa có những tác động tiêu cực, đó là làm cho khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm xã hội nghề nghiệp gắn với xã hội hiện đại với các nhóm xã hội nghề nghiệp gắn với xã hội nông nghiệp sẽ doãng ra; là nguồn gốc dẫn tới những hiện tượng phức tạp trong quan hệ xã hội, phát sinh những tệ nạn, hiện tượng tiêu cực, phá vỡ những truyền thống tốt đẹp, phá vỡ sự cố kết vốn có của cộng đồng truyền thống.
Như vậy, kết quả tổng hợp của toàn bộ nghiên cứu về sự biến đổi PTXH nghề nghiệp ở Đà Nẵng đã kiểm định đúng giả thuyết được nêu ra. Thành phố Đà Nẵng có lợi thế về cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội được tạo lập khá tốt, tất yếu sẽ tạo đà cho quá trình di động nghề nghiệp hướng đến xã hội hiện đại. Tuy nhiên, để điều chỉnh PTXH nghề nghiệp phát triển hướng đến giá trị tích cực, nhân văn thì cần chú ý thực hiện các giải pháp nêu trên một cách đồng bộ và hệ thống với sự tham gia tích cực, chủ động của cả cộng đồng. Tất nhiên cũng rất cần có thêm những nghiên cứu khoa học chuyên sâu để tiếp tục có những kiến giải, những đề xuất xác đảng hơn nữa để phục vụ tốt cho công tác hoạch định sách phát triển kinh tế - xã hội.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Trần Văn Thạch (2010), “Quá trình nhận thức và thực hiện chính sách xã hội
ở Việt Nam”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (6).
2. Trần Văn Thạch (2011), “Biến đổi phân tầng xã hội về mức sống ở miền
Trung trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị
trường từ năm 2002 đến nay”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (4), tr. 80-84.
3. Trần Văn Thạch (2011), “Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng”, Tạp chí Lý luận chính trị, (1), tr. 60-65.
4. Trần Văn Thạch (chủ nhiệm), (2011), Biến đổi phân tầng xã hội ở vùng
Duyên hải Nam Trung Bộ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển kinh tế thị trường hiện nay, đề tài khoa học cấp cơ sở.
5. Trần Văn Thạch (2012), “Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm
điều chỉnh phân tầng xã hội trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”,
Tạp chí Khoa học chính trị, (5), tr.35-38.
6. Trần Văn Thạch (2012), “Giải quyết vấn đề nhà ở cho hộ thu nhập thấp ở
một số nước và kinh nghiệm đối với Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị,
(12), tr. 93-99.
7. Trần Văn Thạch, (2013), Xây dựng chính sách nhà ở cho hộ thu nhập thấp
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, PGS,TS Lê Văn Đính - TS Hồ Kỳ Minh
(đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Trần Văn Thạch (2013), “Quan điểm của Karl Marx và Max Weber về phân
tầng xã hội và vấn đề đặt ra trong việc nghiên cứu cơ cấu xã hội, phân tầng
xã hội ở nước ta hiện nay”, Tap chí Sinh hoạt lý luận, (4), tr. 3- 6.
9. Trần Văn Thạch (2014), “Phân tầng xã hội nghề nghiệp về thu nhập, chi tiêu
và ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội (qua khảo sát ở Đà Nẵng)”,
Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.41-46.
10. Trần Văn Thạch (2014), “Chênh lệch về mức sống giữa các vùng miền, các
dân tộc ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (6).