BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI ********

BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA (HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI, 2016

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI ******** BÙI THỊ DUNG

BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA (HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH) Chuyên ngành: Văn hóa học

Mã số: 62310640

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Xuân Đính

HÀ NỘI, 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tác giả.

Các kết quả nghiên cứu và các kết luận trong Luận án này là trung thực,

không sao chép từ bất kỳ một nguồn nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Việc

tham khảo các nguồn tài liệu đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu

tham khảo theo đúng quy định.

Hà Nội, ngày 26 tháng 02 năm 2016

Tác giả luận án

Bùi Thị Dung

1

MỤC LỤC

Trang DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

2

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

3

DANH MỤC CÁC HỘP

4

MỞ ĐẦU

5

19

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ TỔNG QUAN VỀ LÀNG DỆT PHƢƠNG LA

1.1. Những vấn đề lý luận chung 19

1.2. Tổng quan về làng dệt Phương La 31

Tiểu kết 51

53 Chƣơng 2: NGHỀ DỆT VÀ VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA LÀNG PHƢƠNG LA HIỆN NAY

2.1. Nghề dệt của làng Phương La hiện nay 53

2.2. Văn hóa vật chất của làng dệt Phương La hiện nay 70

Tiểu kết 78

80 Chƣơng 3: VĂN HÓA XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA TINH THẦN CỦA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA HIỆN NAY

3.1. Văn hóa xã hội của làng dệt Phương La hiện nay 80

3.2. Văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La hiện nay 100

Tiểu kết 118

120

Chƣơng 4: NHỮNG VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA

4.1. Những tác động của sự biến đổi văn hóa làng dệt Phương La đến kinh tế - xã hội và văn hóa của làng

4.2. Dự báo xu hướng văn hóa làng dệt Phương La trong thời gian tới

120

4.3. Đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa làng dệt Phương La

126

Tiểu kết

130

143

KẾT LUẬN

144

TÀI LIỆU THAM KHẢO

147

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

157

PHỤ LỤC

158

2

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNH - HĐH: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

HTX: Hợp tác xã

TNHH: Trách nhiệm hữu hạn

TTCN: Tiểu thủ công nghiệp

UBND: Ủy ban nhân dân

VHTT: Văn hóa thông tin

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

NCS: Nghiên cứu sinh

ĐSVHCS: Đời sống văn hóa cơ sở

3

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Trang

1 Bảng 1.1: Các loại đất đai của làng Phương La năm 2012 31

2 Bảng 1.2: Số hộ, số khẩu của làng Phương La năm 2012 32

3 Bảng 1.3: Các lễ tiết chính trong năm của làng Phương La xưa 50

4 Bảng 2.1: Các giai đoạn biến đổi của nghề dệt làng Phương La 54

5 Mô hình 2.2: Mô hình sản xuất theo hộ gia đình 59

6 Mô hình 2.3: Mô hình sản xuất theo công ty, xí nghiệp 61

7 Bảng 2.4: Nhóm đối tượng được gia đình truyền nghề 69

8 Bảng 2.5: Đánh giá về một số khía cạnh của làng nghề hiện nay 70

so với trước năm 1996

9 Bảng 2.6: Đánh giá về mức độ sạch đẹp của cảnh quan làng 71

nghề hiện nay so với trước 1996

10 Bảng 2.7: Đánh giá về hạ tầng làng nghề hiện nay so với trước 72

năm 1996

11 Bảng 2.8: Sơ đồ các cửa hàng dịch vụ trên một đoạn trục 73

đường chính gần chợ Mẹo

12 Bảng 3.1: Đánh giá việc duy trì hoạt động dòng họ 94

13 Bảng 3.2: Số người đến dệt thuê ở Phương La, theo các năm 99

14 Bảng 3.3: Đánh giá mức độ coi trọng vấn đề tâm linh của người 103

dân hiện nay so với trước năm 1996

15 Bảng 3.4: Việc thực hành các tiết chính trong tang ma của 114

người Phương La

16 Bảng 3.5: Đánh giá việc tham gia lễ hội của người Phương La 116

hiện nay so với trước năm 1996

17 Bảng 4.1: Những tác động của sự biến đổi 121

văn hóa làng Phương La

18 Bảng 4.2: Đánh giá về tình trạng ô nhiễm môi trường ở Phương 123

La

4

DANH MỤC CÁC HỘP

Trang

Hộp 2.1: Ý kiến về nguyên liệu đầu vào của công ty, doanh 55 1

nghiệp

2 Hộp 2.2: Ý kiến về nguyên liệu đầu vào của các hộ sản xuất nhỏ 56

3 Hộp 3.1: Sự hình thành chủ doanh nghiệp ở Phương La 80

Hộp 3.2: Đóng góp của các doanh nghiệp xây dựng các công trình 88 4

phúc lợi

5 Hộp 3.3: Quan hệ giữa chủ - thợ 91

6 Hộp 3.4: Nhận thức về vị trí, trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp 98

7 Hộp 3.5: Biểu hiện tính cần cù, kiên nhẫn của người Phương La 104

8 Hộp 3.6: Vấn đề ăn uống trong đám tang 113

9 Hộp 3.7: Việc tham gia lễ hội Đình Đông của người Phương La 117

5

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Vùng châu thổ Bắc Bộ từ xưa đã hình thành nhiều loại hình làng, tùy thuộc

vào cách phân chia dựa vào các tiêu chí về điều kiện tự nhiên, kinh tế, lịch sử lập làng

v.v. Nếu phân theo cơ sở kinh tế (hay nghề nghiệp), bên cạnh số đông các làng nông

nghiệp, còn có làng nghề, làng buôn bán v.v. Trên khuôn mẫu chung của làng nông

nghiệp, mỗi loại hình làng lại có sắc thái riêng do đặc thù nghề nghiệp quy định. Đối

với làng nghề, nét khác biệt rõ nhất thể hiện ở việc người thợ thủ công tuy chưa hoàn

toàn tách khỏi sản xuất nông nghiệp, song đã có những tố chất “làm nền” cho việc

hình thành người công nhân công nghiệp, các chủ doanh nghiệp sau này.

Làng nghề tạo ra giá trị kinh tế lớn và ổn định hơn so với các loại hình làng

khác, bảo đảm công ăn việc làm cho dân làng, thu hút nhiều lao động dư thừa từ các

làng quê khác. Đây là một trong những nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, hình

thành các thị tứ, góp phần đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa nông thôn. Thu nhập của

người làng nghề cao nên có điều kiện để xây dựng, tu bổ các công trình thờ cúng

(đình, chùa, đền, miếu...) và tổ chức các hoạt động tín ngưỡng, lễ hội. Sản phẩm của

làng nghề làm ra mang tâm hồn, cốt cách, sự khéo léo của đôi bàn tay người thợ, nên

mỗi sản phẩm là một tác phẩm riêng, độc đáo. Người làng nghề có bí quyết, công

thức nghề riêng, vì vậy, việc giữ bí quyết nghề hết sức nghiêm ngặt. Quan hệ xã hội

của người làng nghề cũng mở rộng hơn do người thợ đi khắp nơi làm ăn và cũng có

nhiều người từ nơi khác đến làm thuê, trao đổi nguyên vật liệu và sản phẩm; tạo ra

những khác biệt về nếp nghĩ, tầm nhìn, quan niệm về các giá trị của làng xã. Đặc

điềm nghề nghiệp cũng quy định cường độ và nhịp độ lao động, nhịp sống của cư dân

làng nghề, có nhiều khác biệt so với làng nông nghiệp.

Tất cả các khía cạnh trên hợp thành một “văn hóa làng nghề” với những nét

khác biệt dễ nhận thấy, trong khung chung của “văn hóa làng”. Nghiên cứu văn hoá

làng nghề không chỉ góp phần vào việc nghiên cứu làng Việt, đặc điểm kinh tế - xã

hội truyền thống mà còn tìm ra những dáng nét văn hoá khác biệt của người Việt thể

hiện qua các mặt đời sống, của nghề.

Công cuộc Đổi mới, đặc biệt là việc đẩy mạnh sự nghiệp CNH- HĐH tạo cho

các làng nghề những cơ hội để phát triển, văn hóa làng nghề cũng có những thay đổi

sâu sắc. Song, làng nghề và văn hóa làng nghề cũng phải đối mặt với những thử thách

khắc nghiệt của kinh tế thị trường, ảnh hưởng đến tổ chức làm nghề, tiêu thụ sản phẩm;

với vấn đề môi trường; cơ cấu dân cư, sự phân tầng xã hội, các quan hệ xã hội trong và

ngoài làng, nhịp sống, nếp sống, phong tục tập quán và tôn giáo tín ngưỡng. Đến lượt

chúng, các yếu tố trên lại tác động đến sự phát triển của nghề và làng nghề.

Những biến đổi văn hóa làng nghề diễn ra khác nhau ở từng làng, phụ thuộc

vào nhiều yếu tố. Ngoài các yếu tố chung là sự phát triển kinh tế- xã hội dưới tác

động của các chủ trương, chính sách của Nhà nước, còn có yếu tố riêng, như đặc

điểm nghề, sự năng động của cộng đồng cư dân, hay truyền thống lịch sử văn hóa

của địa phương… cần được nghiên cứu.

Thái Bình nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, có nhiều nghề thủ công hình

thành và phát triển ở tất cả các huyện; trong đó, Hưng Hà là điển hình của một

huyện đa nghề, với những làng nghề nổi tiếng bởi các sản phẩm đặc trưng, được

“dân biết mặt, nước biết tên”, như làng dệt chiếu Hới, làng dệt vải Phương La v.v.

Các làng này được giới thiệu trong một số công trình chủ yếu, nêu những nét lớn về

lịch sử làng nghề trong quá khứ, ít nghiên cứu về phương diện Văn hóa học, nhất là

không đề cập đến sự biến đổi văn hóa truyền thống trong điều kiện kinh tế - xã hội

hiện nay; khi coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, hay văn

hóa là một trong bốn trục của phát triển bền vững (ba trục khác là tăng trưởng kinh

tế, ổn định chính trị - xã hội và giữ gìn tài nguyên - môi trường).

Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về làng nghề, văn hóa làng

nghề và biến đổi văn hóa làng nghề ở nhiều chiều cạnh khác nhau, nhưng chưa có

công trình nào nghiên cứu về Biến đổi văn hóa làng dệt Phương La (huyện Hưng

Hà, tỉnh Thái Bình). Vì vậy, việc nghiên cứu, giải quyết đề tài này sẽ góp phần tìm

hiểu về thực trạng biến đổi văn hóa làng nghề, xu hướng văn hóa làng nghề Phương

La trong thời gian tới và từ đó đưa ra giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa

làng Phương La trong giai đoạn CNH - HĐH đất nước.

6

7

2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

2.1. Những công trình nghiên cứu về làng nghề, văn hóa làng nghề của

ngƣời Việt ở Bắc Bộ

- Các nghiên cứu chung về làng nghề, văn hoá làng nghề ở Bắc Bộ trong

nghiên cứu chung về làng xã người Việt

Điểm nổi bật của việc nghiên cứu nghề thủ công và làng nghề từ trước đến

nay là được đặt trong khung cảnh nghiên cứu về làng Việt nói chung, dưới nhiều

góc độ khác nhau; do nghề thủ công là bộ phận gắn chặt với nông nghiệp, các làng

nghề có mối quan hệ chặt chẽ với các làng nông nghiệp. Đến nay, đã có một khối

lượng lớn các công trình được công bố. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu.

Người nông dân châu thổ Bắc kỳ của Nhà Địa lý học Pháp Pièrre Gourou, từ

cách tiếp cận địa lý nhân văn chỉ ra những nét chung về các mặt đời sống của người

nông dân Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tác

giả đã khảo tả rất chi tiết địa hình châu thổ Bắc Kỳ, về dân cư trong sự vận động,

dịch chuyển và quần tụ - đặc điểm điển hình tạo nên làng của vùng châu thổ Bắc

Bộ. Tác giả nghiên cứu sâu về văn hóa mưu sinh của các làng và luôn đặt các vấn

đề nghiên cứu trong sự vận động biến đổi và linh hoạt. Trong Chương 2, P. Gourou

đưa ra con số 108 nghề thủ công (phân theo nhóm nghề) được gọi là “ công

nghiệp làng xã”, gồm các nghề dệt, đan lát, gỗ và các nghề khác. Công nghiệp dệt

gồm dệt bông, tơ tằm, những ngành lụa thô, tơ đũi, the, đan lưới, võng.., có 242

làng nghề [39].

Công trình Sơ khảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam của tác giả

Phan Gia Bền [11] được coi là chuyên khảo lớn nhất về nghề thủ công. Thông qua

cuốn sách, tác giả đã giới thiệu sơ lược lịch sử phát triển của thủ công nghiệp Việt

Nam, tìm hiểu những nét lớn về tình hình phát triển của nghề thủ công qua các thời

kỳ, tìm hiểu về mầm mống tư bản chủ nghĩa trong thủ công nghiệp Việt Nam, tác

dụng của chủ nghĩa tư bản phát triển đối với thủ công nghiệp Việt Nam. Tác giả còn

đúc kết 6 đặc điểm của thủ công nghiệp Việt Nam và tình hình phát triển của một số

nghề thủ công tiêu biểu. Tác giả đã đưa ra những định nghĩa về thủ công nghiệp, về

thợ thủ công ... mà cho đến bây giờ những định nghĩa ấy vẫn được các nhà nghiên

cứu sử dụng, làm tiền đề cho các nghiên cứu của mình.

Bộ sách hai tập Nông thôn Việt Nam trong lịch sử [115], trong tập đầu xuất

bản năm 1977 đã có hai bài viết về nghề thủ công và làng nghề. Mặc dù đây mới chỉ

là khảo sát tổng quát về sự phân bố các nghề và làng nghề của Việt Nam trong quá

trình lịch sử, tuy chưa khảo sát chi tiết nhưng tác phẩm đã rất quan tâm đề cập tới

nghề và làng nghề thủ công. Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại [116] do

Viện Sử học biên soạn. Các bài viết của Phạm Văn Kính, Nguyễn Khắc Tụng và

Bùi Xuân Đính phân tích những nét cơ bản về thủ công nghiệp trong đời sống kinh

tế của người nông dân thời phong kiến và thời Pháp thuộc.

Làng Việt Nam, mấy vấn đề kinh tế - xã hội và văn hóa của Phan Đại Doãn

[25] là công trình nghiên cứu tổng thể về làng Việt dưới góc độ Sử học. Tác giả chỉ rõ

một số đặc điểm cơ bản của nền kinh tế, sản xuất tiểu nông, thủ công nghiệp kết hợp

chặt chẽ với nông nghiệp, các nghề thủ công tồn tại và phát triển phụ thuộc chặt vào

kinh tế hộ gia đình người nông dân. Tác phẩm còn chỉ rõ vấn đề ruộng công, ruộng tư

và mối quan hệ giữa nông thôn với thành thị giúp NCS hiểu rõ hơn về sự tác động

qua lại giữa nông thôn và thành thị giai đoạn những năm cuối của thế kỷ XX.

Ngoài ra, còn nhiều công trình khảo sát những nét tiêu biểu về nghề thủ công

truyền thống, như: Văn hóa truyền thống làng Đồng Kỵ do Lê Hồng Lý chủ biên,

nghiên cứu làng Đồng Kỵ (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) [79]; Ninh Hiệp truyền

thống và phát triển của nhóm tác giả do Tô Duy Hợp chủ biên nghiên cứu về làng-

xã Ninh Hiệp (huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội) [55]…

- Các nghiên cứu về làng nghề, văn hóa làng nghề của người Việt ở Bắc Bộ

Thứ nhất, ngoài những ghi chép trong các bộ chính sử, nghề và làng nghề

được đề cập đến đầu tiên trong các cuốn địa chí, thông qua mục ghi “sản vật”, như

Dư địa chí của Nguyễn Trãi [107] là tác phẩm ghi chép sớm nhất về các nghề thủ

công ở Việt Nam, ở tác phẩm này Nguyến Trãi đã đề cập tới nghề dệt lụa ở Hà

8

Đông. Công trình Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn [87] hay

các cuốn địa phương chí là nguồn tài liệu ghi chép về các nghề thủ công và làng

nghề khá phong phú, song chủ yếu nêu sản vật của các nghề thủ công gắn với làng

nghề ở mỗi địa phương, không miêu tả quy trình làm nghề.

Thứ hai là các công trình nghiên cứu về lịch sử các ngành nghề, chủ yếu đề

cập đến nguồn gốc nghề thông qua các vị tổ nghề, tiêu biểu là các cuốn sách Nghề

thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề của Trần Quốc Vượng [121],

Truyện các ngành nghề của nhóm tác giả Tạ Phong Châu [16] v.v. Nghề cổ đất Việt

(khảo cứu) của Vũ Từ Trang [106] điểm tới 21 nghề cổ truyền như: nghề gốm,

nghề rèn, đúc đồng, chạm vàn bạc, làm cày bừa, làm nón, dệt chiếu, nghề trồng dâu,

nuôi tằm ...

Thứ ba là các công trình khảo tả về nghề gắn với làng nghề và vùng nghề

khác nhau, tiêu biểu là Nghề cổ truyền của Tăng Bá Hoành [52], Quê gốm Bát

Tràng của Đỗ Thị Hảo [43], Gốm Bát Tràng thế kỷ XV- XIX do Phan Huy Lê chủ

biên [71], Làng tranh Đông Hồ của Nguyễn Thái Lai [70]. Các cuốn sách này dùng

phương pháp miêu tả Dân tộc học để đưa ra các tư liệu, từ đó nêu những nét lớn của

một nghề, từ nguồn gốc nghề (tổ nghề), nguồn nguyên liệu, công cụ làm nghề, quy

trình kỹ thuật làm nghề, tổ chức sản xuất đến các loại hình và đặc trưng sản phẩm,

phương thức tiêu thụ sản phẩm, thu nhập của người làm nghề và tâm lý làng nghề.

Viện Nghiên cứu Văn hóa đã tập hợp các công trình viết về nghề và làng nghề

thành bộ Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam (gồm 6 tập). Công

trình đồ sộ này đã tổng tập các công trình viết về nghề và làng nghề; gồm giới thiệu

làng nghề (nguồn gốc, tổ nghề, lịch sử hình thành và phát triển, thực trạng sản xuất

...), khảo sát và nghiên cứu về nghề (kỹ thuật, kỹ xảo, quy trình công nghệ, dụng cụ

hành nghề, bí quyết nghề ...), sản phẩm nghề (kiểu cách, mẫu mã, nghệ thuật tạo

hình và trang trí ...), hoạt động sản xuất (phương thức hành nghề, truyền nghề, thị

trường, kinh tế làng nghề, du lịch làng nghề và văn hóa nghề nghiệp...). Tập một,

nhóm tác giả đề cập về nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam bao gồm những

vấn đề lý luận chung về nghề và làng nghề truyền thống, giới thiệu tổ nghề và nghệ

9

nhân dân gian, các vùng nghề, địa danh và địa chí làng nghề. Đặc biệt, nhóm tác giả

dành hẳn chương 5 để bàn về sự biến đổi làng nghề trong bối cảnh hiện nay. Tóm

lại, bộ Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam giúp chúng ta có một cái

nhìn tương đối tổng quan về các công trình nghiên cứu về nghề và làng nghề truyền

thống Việt Nam của các tác giả trong và ngoài nước. Thông qua Tuyển tập, chúng

ta có cái nhìn khái quát về nghề, làng nghề; những vấn đề lý luận chung đến nguồn

gốc hình thành nghề, tổ nghề, quy trình sản xuất, sự biến đổi của nghề, làng nghề

trong giai đôạn hiện nay...

Nghề và làng nghề cũng là đề tài hấp dẫn cho nhiều luận án tiến sĩ của các

chuyên ngành Dân tộc học, Văn hóa dân gian và Văn hóa học trong khoảng hơn 20

năm trở lại đây, như Biến đổi làng nghề thủ công truyền thống Triều Khúc, xã Tân

Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội [125], Làng nghề sơn quang Cát Đằng

[60], Sự biến đổi văn hóa làng nghề ở châu thổ sông Hồng từ năm 1986 đến nay

[108], hay các luận văn thạc sĩ như Làng thêu Quất Động [88]; Gốm sành nâu ở

Phù Lãng [41]; Làng Cọi Khê: Truyền thống và đổi mới [51] v.v. Các luận án, luận

văn này khảo tả tương đối kỹ lưỡng các nội dung liên quan đến nghề, chỉ ra được

những đặc điểm của làng nghề về các mặt: cấu trúc làng xóm, di tích thờ cúng, các

phong tục, tín ngưỡng, hội hè...

Bên cạnh đó, còn có một khối lượng lớn các bài đăng trên tạp chí, giới thiệu

tổng thể hay từng mặt một nghề, hoặc làng nghề của các địa phương.

Nhìn chung, các tác phẩm nói trên đã phản ánh nhiều khía cạnh về nghề, làng

nghề như sản vật của các nghề thủ công, lịch sử ngành nghề, khảo tả nghề, những

đặc điểm của làng nghề về cấu trúc làng xóm, di tích thờ cúng. Tuy nhiên, các tác

phẩm này đề cập đến khía cạnh văn hóa làng nghề còn ít, chưa nghiên cứu tổng thể

các thành tố góp phần tạo nên văn hóa làng nghề.

10

2.2. Những công trình nghiên cứu về biến đổi làng nghề, văn hoá làng nghề

Công trình Làng nghề, phố nghề, Thăng Long - Hà Nội của Trần Quốc

Vượng và Đỗ Thị Hảo [123] là công trình đầu tiên bàn về biến đổi làng nghề, văn

hóa làng nghề. Sau khi đưa ra định nghĩa về làng thủ công, đặt vị trí làng nghề trong

diễn trình lịch sử văn hóa Việt Nam, các tác giả nêu một số quan điểm phát triển

làng nghề: Mô hình sản xuất hộ gia đình vẫn hiệu quả nhất vì nó không bị phụ thuộc

vào vốn. Tuy nhiên theo các tác giả, trong nền kinh tế thị trường, nghề và làng nghề

đang đứng trước những khó khăn thách thức. Vấn đề đầu ra của sản phẩm nghề thủ

công, vấn đề môi trường ... phải được quan tâm. Các tác giả cũng cho rằng, để nghề

và làng nghề phát triển cần có hệ thống chính sách, cơ chế phù hợp và là vấn đề cấp

bách cần phải làm ngay.

Công trình “Làng nghề phố nghề Thăng Long - Hà Nội trên đường phát

triển” của nhóm tác giả Vũ Quốc Tuấn [104], sau khi đưa ra phác thảo về làng nghề

phố nghề trong lịch sử, đề cập đến thực trạng của làng nghề phố nghề hiện nay;

đồng thời, nhóm tác giả đã chỉ ra hướng phát triển và các giải pháp để phát triển

làng nghề.

Ngoài ra, công trình Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá [53]; Làng nghề truyền thống trong quá trình công

nghiệp hoá và hiện đại hoá [124]; Làng nghề Việt Nam và môi trường phản ánh về

các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển các làng nghề, tiềm năng và sự vận động

của nó trong nền kinh tế thị trường, hướng bảo tồn và phát triển làng nghề truyền

thống [18].

Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ bảo vệ trong 20 năm trở lại đây và các

bài báo (đã nêu ở trên), sau phần giới thiệu về đặc điểm của nghề truyền thống đã

đưa ra một số tư liệu cùng nhận xét về sự thay đổi của nghề dưới tác động của các

điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại.

Dưới góc độ Dân tộc học/Nhân học, trong vài năm qua, nhiều công trình bàn

sâu về biến đổi của làng nghề truyền thống từ sau hòa bình lập lại đến nay, nhất là

dưới tác động của quá trình CNH – HĐH.

- Sự phát triển của làng nghề La Phù do Tạ Long chủ biên, nghiên cứu

trường hợp về sự thay đổi của một làng nghề qua các thời kỳ trước đây và hiện nay,

11

nổi bật là việc hình thành các công ty và những đóng góp của làng nghề này vào

ngân sách Nhà nước, nghề phát triển có liên quan đến các tổ chức quan phương (hệ

thống chính trị, chính sách) và phi quan phương (xóm, ngõ, dòng họ); đồng thời,

các tác giả cũng đã đưa ra những khó khăn cần phải giải quyết của làng nghề La phù

trong giai đoạn hiện nay [76].

- Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội) - truyền thống và biến đổi

do Bùi Xuân Đính chủ biên, nghiên cứu về biến đổi của nghề, làng nghề thủ công

huyện Thanh Oai. Công trình đề cập đến những đặc điểm của làng nghề (không

gian kiến trúc, cơ cấu tổ chức làng xã, di tích lịch sử văn hóa…). Các tác giả dành

Chương 3 để bàn hướng đi lên của làng nghề thủ công của huyện trong bối cảnh

CNH- HĐH [31].

Trong suốt thời gian qua, đã có một khối lượng lớn các công trình nghiên

cứu về nghề, làng nghề thủ công; sự biến đổi kinh tế - xã hội, biến đổi văn hóa và

cuộc sống của người nông dân ở ở các làng quê Việt Nam nói chung với nhiều cách

tiếp cận khác nhau. Các tác giả đã đều đồng thuận chỉ ra rằng sự biến đổi ở các khu

vực nông thôn, nông nghiệp là một tất yếu hiện nay. Trong quá trình biến đổi đó,

những đặc trưng cơ bản của làng cũng như những đặc tính nổi bật của người nông

dân được thể hiện vẫn rất đậm nét. Trong quá trình biến đổi ấy chính là cầu nối giữa

nông thôn và đô thị, làng vẫn giữ tính tự trị tương đối của nó nhưng đã rất cởi mở

và linh hoạt, ở đó có những sự tái cấu trúc từ không gian, cảnh quan làng cho đến

kinh tế, văn hóa và xã hội. Người nông dân ở các làng không thụ động và phụ thuộc

như trước kia mà họ thực dụng hơn, có khả năng làm xoay chuyển tình huống theo

hướng có lợi. Và như vậy, cuộc sống của người dân ổn định và phát triển hơn.

Nghiên cứu sự biến đổi làng nghề, văn hóa làng nghề nói riêng đã có nhiều tác

giả đề cập tới. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu tiếp cận dưới góc độ Sử học

(nghiên cứu về lịch sử nghề và làng nghề), Văn hóa Dân gian, Dân tộc học/ Nhân học

(đi sâu nghiên cứu quy trình sản xuất, các loại hình sản phẩm). Các công trình nghiên

cứu dưới góc độ Văn hóa học, xem xét các yếu tố văn hóa, các giá trị văn hóa của sản

12

phẩm nghề, của nghề và làng nghề; những biến đổi về các giá trị truyền thống trong

bối cảnh hiện nay chưa nhiều. Các công trình đó còn nặng về nghiên cứu truyền

thống, ít nghiên cứu những vấn đề của nghề, làng nghề và văn hóa làng nghề trong

cuộc sống đương đại. Còn ít các nghiên cứu điểm (case stady) để thấy được tính đa

dạng, điểm chung và nét riêng của văn hóa làng nghề và biến đổi của làng nghề.

13

2.3. Tổng quan các nghiên cứu về làng nghề Phƣơng La

Có thể chia các nghiên cứu về làng nghề Phương La từ trước đến nay thành

các nhóm sau:

- Nhóm công trình nghiên cứu về lịch sử - văn hóa Thái Bình, trong đó có đề

cập đến làng Phương La

Các tác phẩm Chú thích về tỉnh Thái Bình [65]; Nhận diện văn hóa làng ở

Thái Bình [97]; Lễ hội truyền thống ở Thái Bình [98]; Địa danh Thái Bình trong

lịch sử [99]; Tên làng xã Thái Bình [103]… đề cập giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể

một số làng ở Thái Bình, trong đó có làng Phương La.

Tác phẩm Ngàn năm đất và người Thái Bình đề cập đến làng nghề Phương

La ở khía cạnh nghề, vai trò của nghề trong phát triển kinh tế [89].

Trong công trình Địa chí Thái Bình nói về các làng nghề ở Thái Bình, về sản

phẩm của làng nghề, nêu rõ nghề dệt vải lụa, số lượng thợ thủ công, số khung cửi

dùng để dệt, giá sản phẩm: “… Thái Bình có khoảng 750 thợ dệt các loại: sồi, đũi,

lụa, là, nái, sa… tập trung ở các làng Bộ La (Vũ Thư), Nam Lỗ (Tiên Hưng), Vân

Tràng (Thụy Anh), Phương La (Hưng Nhân); Quận Hành, Động Trung, Đông Nhuế,

Niên Hạ (Kiến Xương)… " [100].

- Nhóm công trình nghiên cứu về nghề thủ công ở Thái Bình, trong đó có

nghề dệt làng Phương La

Sách Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí và Đại Nam nhất thống chí nói về

nghề thủ công ở Thái Bình, trong đó ghi chép huyện Vũ Tiên có làng Bộ La dệt lụa,

ở làng Mẹo phủ Tiên Hưng có nghề dệt lụa, nái..." [35, 87].

Sách Tiên Hưng phủ chí ghi chép về phủ Tiên Hưng viết năm 1928 của Đốc

học phủ Tiên Hưng Phạm Nguyên Hợp (lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu

A.3167) ở phần “công nghệ” (nghề thủ công) có ghi: “Dân các xã Phương La, Trác

Dương (xã Thái Phương), Yên Nghiệp (Minh Tân) huyện Hưng Nhân (Hưng Hà)

thường đi mua kén tằm đem về kéo thành sợi, chia ra làm mấy loại. Loại sợi tơ mảnh

đem dệt thành lụa gọi là lục sồi, loại sợi tơ hơi thô dệt ra thành lụa nái, rồi đem đi bán

ở chợ các nơi" [58]. Sách Tiên Hưng phủ chí còn cho biết: “Người xã Nguyên Xá,

huyện Thần Khê kéo kén thành tơ phiếu (ngâm, phơi khô để tơ mất đi màu vàng, ngả

sang màu trắng lụa), cho tơ trắng ra, cuộn vào guồng xe cho săn sợi rồi mới dệt. Lụa

dệt ra màu trắng có hoa văn rất đẹp. Nghề này có từ thời Lê Cảnh Hưng”.

Tài liệu Chú thích về tỉnh Thái Bình (“Notice sur la Province de Thái Bình”),

ký hiệu M.10372 (Thư viện Quốc gia) cho biết, các huyện trong tỉnh Thái Bình có

trồng dâu (trước năm 1945) “Dâu, tằm: theo thống kê toàn bộ về các bãi dâu tiến

hành năm 1931 - 1932, diện tích trồng dâu tằm lên tới 1.830 mẫu (dâu trồng ở vườn

và dâu trồng ở các bãi cát). Diện tích trồng dâu phân bổ ở 10 phủ, huyện trong tỉnh,

diện tích trồng dâu ở Duyên Hà (286 mẫu) và Hưng Nhân (50 mẫu), hai huyện nay

nhập thành Hưng Hà, có diện tích trồng lớn nhất tỉnh” [65].

Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Hưng Hà, đầu thế kỷ XX thợ dệt Phương La và

làng Tống Lạp rất nổi tiếng. Thợ ở hai làng dệt này từng có sản phẩm bày bán tại

Hội chợ triển lãm kinh tế Pháp - Việt ở nhà Đấu Xảo - Hà Nội [7].

- Nhóm đề tài, bài báo bàn luận, nghiên cứu trực tiếp về Phương La

+ Đầu tiên, phải kể đến Kỷ yếu hội thảo khoa học Hoằng Nghị Đại Vương và

việc bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử - văn hóa Phương La do UBND tỉnh Thái Bình

và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức, viết về làng Phương La dưới góc độ Sử học

nhằm phục vụ mục đích chính là làm sáng rõ thân thế, sự nghiệp của Hoằng Nghị Đại

Vương, khẳng định vai trò của dòng họ Trần ở Phương La. Do vậy, tập Kỷ yếu này

chưa đề cập tới làng nghề một cách toàn diện, chưa quan tâm tới văn hóa truyền thống,

biến đổi văn hóa làng nghề trong giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH [111].

14

+ Đề tài cấp ngành Một số giá trị văn hóa của các nghề thủ công truyền

thống ở Thái Bình của tác giả Nguyễn Ngọc Phát, tại chương II, giới thiệu sơ bộ về

quy trình sản xuất, sản phẩm, một số giá trị di tích của làng Phương La, chưa đề cập

tới văn hóa truyền thống của làng nghề một cách đầy đủ, không bàn đến sự biến đổi

văn hóa trong điều kiện CNH - HĐH đất nước [91].

+ Ngoài ra còn có một số bài báo nói về nghề, làng nghề Phương La dưới các

góc độ khác nhau.

Nhìn chung, các tác phẩm nói trên chỉ đề cập đến một khía cạnh cụ thể của

nghề, làng nghề Phương La: nguồn gốc làng xã, các dòng họ, kinh tế, giá trị các văn

bia, di tích, một phần về nghề (quy trình sản xuất, sản phẩm) mà chưa nghiên cứu

về văn hóa làng nghề; những vấn đề nổi bật của văn hóa làng nghề một cách hệ

thống, đặc biệt dưới tác động của CNH - HĐH. Tuy vậy, các nghiên trên là cơ sở,

sự gợi mở cho hướng tiếp cận của tác giả khi nghiên cứu về biến đổi văn hóa làng

Phương La.

15

3. MỤC ĐÍCH, VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

3.1. Mục đích nghiên cứu của Luận án

Thông qua việc khảo sát, phân tích thực trạng biến đổi văn hóa làng nghề dệt

Phương La; Luận án dự báo xu hướng văn hóa làng nghề dệt Phương La thời gian

tới, từ đó đưa ra những giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa làng nghề dệt

Phương La trong điều kiện CNH - HĐH, giúp làng Phương La và các làng nghề ở

Thái Bình phát triển bền vững.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận án sẽ phải giải quyết

những nhiệm vụ sau:

- Hệ thống hóa lý luận về biến đổi văn hóa, biến đổi văn hóa làng nghề và

một số khái niệm cơ bản có liên quan đến luận án, làm cơ sở lý luận chung cho toàn

bộ đề tài;

- Giới thiệu tổng quan về làng dệt Phương La, nghề dệt và văn hóa làng

Phương La trong xã hội truyền thống ;

- Khảo sát, phân tích thực trạng biến đổi văn hóa làng dệt Phương La;

- Dự báo xu hướng của văn hóa làng nghề dệt Phương La những năm tiếp

theo, đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của làng nghề dệt Phương

La trong điều kiện CNH - HĐH.

16

4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu của Luận án

Đối tượng nghiên cứu của Luận án là các khía cạnh liên quan đến biến đổi

văn hóa làng nghề dệt Phương La (thực trạng và xu hướng biến đổi, nguyên nhân

biến đổi …).

4.2. Phạm vi nghiên cứu của Luận án

- Về không gian, địa bàn nghiên cứu chính của Luận án là làng Phương La

(xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình); đồng thời, Luận án có nghiên

cứu mở rộng sang xã nghề dệt đũi Nam Cao (huyện Kiến Xương) và dệt khăn Minh

Tân (huyện Hưng Hà) tỉnh Thái Bình.

- Về thời gian, Luận án nghiên cứu biến đổi văn hóa làng Phương La khi

nghề dệt phát triển, nhất là giai đoạn CNH - HĐH đất nước (từ Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VIII, tháng 6/1996 đến nay).

5. HƢỚNG TIẾP CẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

5.1. Hƣớng tiếp cận

- Tiếp cận Văn hóa học: là hướng tiếp cận chính yếu của Luận án. Luận án

chú trọng xem xét, nghiên cứu các thành tố văn hóa trong xã hội truyền thống của

làng nghề Phương La; xác định thực trạng biến đổi, nguyên nhân và xu hướng văn

hóa trong điều kiện CNH - HĐH và hội nhập quốc tế.

- Ngoài ra, Luận án còn sử dụng các cách tiếp cận khác để bổ trợ, như: tiếp cận

Nhân học/Dân tộc học để xem xét các mối quan hệ của con người trong các yếu tố văn

hóa; tiếp cận lịch sử để xem xét các yếu tố văn hóa hiện nay của làng Phương La; tiếp

cận hệ thống để đặt sự hình thành, tồn tại và phát triển của các yếu tố văn hóa làng

nghề dệt Phương La trong mối liên hệ với các yếu tố địa lý tự nhiên, cơ sở kinh tế…

17

5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp điền dã Dân tộc học là phương pháp chính được Đề tài sử

dụng để thu thập tư liệu. Ngoài việc thu thập các số liệu thống kê, các báo cáo trên

thực địa, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể là: Nghiên cứu tham dự các hoạt

động làm nghề, các sinh hoạt văn hóa xã hội, tín ngưỡng của dân làng. Phỏng vấn

thợ thủ công, chủ doanh nghiệp, các bậc cao niên trên địa bàn nghiên cứu... Các thao

tác phụ trợ: chụp ảnh, ghi âm, ghi hình.

- Phương pháp điều tra Xã hội học, sử dụng phương pháp điều tra Xã hội

học để điều tra về các vấn đề văn hóa, xã hội... theo nội dung các Chương 2,3,4 của

Luận án. Trên cơ sở kế thừa, tham khảo mẫu phiếu điều tra của những người nghiên

cứu trước, NCS đã hoàn chỉnh bộ mẫu phiếu điều tra xã hội học với bốn nội dung

điều tra chính yếu: điều tra về cảnh quan môi trường làng dệt Phương La; về truyền

nghề và mối quan hệ của người làng nghề; về biến đổi nghề dệt; về tín ngưỡng, lễ

hội, phong tục tập quán.

NCS đã điều tra 224 người về truyền nghề, mối quan hệ của người làng nghề;

về biến đổi nghề dệt (trong đó, có 69.23% số người là thợ thủ công; 23.08% số người

là buôn bán, dịch vụ 20.8%; 7.69% là nội trợ); 208 người về cảnh quan môi trường

làng nghề và về tín ngưỡng, lễ hội, phong tục tập quán (trong đó, có 69.23% số người

là thợ thủ công; có 7.69 % số người là cán bộ, viên chức; 15.38% số người là cán bộ

hưu trí; 7.6% là các đối tượng khác).

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành, sử dụng các phương pháp nghiên cứu

của Văn hóa học, Nhân học/ Dân tộc học, Sử học, Xã hội học,… để xem xét, lý giải

các yếu tố văn hóa của làng dệt Phương La.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu, phương pháp phân tích sử dụng

để đánh giá, phân loại các tài liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu, tìm ra

đặc trưng văn hóa truyền thống của làng dệt Phương La. Phương pháp tổng hợp sử

dụng vào mục tiêu tổng hợp các tài liệu thứ cấp, giúp NCS nâng cao hiệu quả sử

dụng các nguồn tài.

- Phương pháp thống kê, phương pháp này giúp NCS thu thập số liệu thống

kê phục vụ cho việc đưa ra các kết luận khách quan về văn hóa làng Phương La.

- Phương pháp so sánh, NCS sử dụng phương pháp này nhằm so sánh một số

khía cạnh của làng dệt Phương La với xã nghề dệt đũi Nam Cao, xã nghề dệt khăn

Minh Tân để thấy được những khác biệt, những vấn đề nổi bật của văn hóa làng

Phương La trong điều kiện đẩy mạnh CNH - HĐH và hội nhập quốc tế.

18

6. KẾT QUẢ VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc

độ Văn hóa học về biến đổi của văn hoá làng dệt Phương La; tìm ra những điểm nổi

bật của văn hóa làng dệt Phương La hiện nay dưới tác động của nghề, nhất là trong

giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH;

- Luận án đưa ra luận cứ khoa học, đề ra các giải pháp bảo tồn, phát huy các

giá trị văn hóa của làng dệt Phương La trong điều kiện CNH - HĐH, giúp làng

Phương La và các làng nghề ở Thái Bình phát triển bền vững.

- Luận án góp phần vào việc nghiên cứu văn hoá truyền thống làng Việt nói

chung và làng nghề nói riêng.

7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN

Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án được chia làm

04 chương:

Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung và tổng quan về làng dệt Phương La

Chƣơng 2: Nghề dệt và văn hóa vật chất của làng Phương La hiện nay

Chƣơng 3: Văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La

hiện nay

Chƣơng 4: Những vấn đề rút ra từ việc nghiên cứu biến đổi văn hóa làng

dệt Phương La.

19

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

VÀ TỔNG QUAN VỀ LÀNG DỆT PHƢƠNG LA

1.1. Những vấn đề lý luận chung

1.1.1. Một số khái niệm dùng trong Luận án

1.1.1.1. Làng nghề, làng nghề truyền thống, làng nghề thủ công hiện đại

- Làng nghề: từ xưa đến nay, khi nói đến làng nghề, thông thường ai cũng

hiểu là làng làm các nghề tiểu - thủ công. Tuy nhiên, một số công trình nghiên cứu

đã đưa ra những quan niệm về làng nghề, làng nghề thủ công truyền thống nhưng

chưa có sự thống nhất.

Tác giả Lưu Thị Tuyết Vân, trong bài viết “Một số vấn đề về làng nghề ở

nước ta hiện nay” đưa ra định nghĩa: “Làng nghề là một làng có nghề tiểu - thủ công

đã từng tồn tại trong lịch sử hoặc một thời gian nhất định, có sản phẩm hàng hóa nổi

tiếng hoặc có khối lượng hàng hóa lớn có vai trò nhất định đối với thị trường trong

nước và quốc tế, có số đông người trong làng cùng làm một hoặc nhiều nghề, dân

làng sống chủ yếu bằng các nghề đó”[114, tr. 64].

Trong Tổng quan về nghề và làng nghề truyền thống ở Việt Nam, nhóm tác

giả mà chủ biên là Trương Minh Hằng cũng đã thống nhất và đưa ra định nghĩa về

làng nghề, theo đó định nghĩa được trình bày như sau: “Theo cách định nghĩa trong

dân gian, một nghề có “thâm niên” và tỉ lệ người làm nghề (ở trong làng) cao, thu

nhập từ nghề là nguồn thu chính, tên làng dần dần gắn với tên nghề... thì được gọi là

làng nghề” [42, tr. 18]. Định nghĩa trên nhấn mạnh nghề tồn tại từ rất lâu, tạo ra sản

phẩm có tên tuổi. Trong làng, có nhiều người tham gia làm nghề và sống chủ yếu

dựa vào nguồn thu nhập từ nghề. Nhiều làng nghề, người dân đã quen với cách gọi

tên nghề thay cho tên làng.

Như vậy, các tác giả cùng các công trình nghiên cứu đều khẳng định làng

nghề phải là làng sản xuất tiểu - thủ công, có số đông người trong làng cùng làm

nghề, có nguồn thu nhập chính từ làm nghề. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chưa đề

cập tới khả năng các làng đó có thể chỉ tiến hành thực hiện một công đoạn của nghề.

Chắt lọc những điểm chung và riêng từ các định nghĩa trên, chúng tôi cho

rằng: Làng nghề là làng có phần đông cư dân sống bằng một nghề hoặc nhiều nghề

thủ công (có khi chỉ là một công đoạn của nghề) tạo ra các sản phẩm mang tính

cách riêng, thời gian làm nghề và thu nhập của nghề chiếm tỷ lệ lớn nhất so với các

hoạt động kinh tế khác; hoạt động làm nghề có ảnh hưởng lớn đến các mặt khác

của làng (kiến trúc làng xóm, nhà cửa, nhịp sống, thiết chế tổ chức và các quan hệ

xã hội, tâm lý tính cách, phong tục tập quán...).

Bên cạnh các đặc điểm chung của làng Việt (với đại đa số là làng nông

nghiệp), các làng nghề có những nét khác biệt: hoạt động làm nghề là chính, do vậy,

thu nhập từ nghề là chủ đạo và cao hơn, ổn định hơn so với cư dân các làng nông

nghiệp; nhịp độ lao động, nhịp sống trong các làng nghề sôi động hơn, tính theo số

ngày trong năm và số giờ trong ngày; kết cấu hạ tầng, nhà cửa, hệ thống đình, chùa,

đền miếu, nếp sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, lễ hội nhìn chung bề thế và quy củ

hơn, do dân làng có điều kiện kinh tế để đóng góp xây dựng; quan hệ, giao lưu, giao

tiếp của người các làng nghề được mở rộng, do hoạt động nghề nghiệp; người các

làng nghề truyền thống sớm hình thành một số đức tính tốt đẹp, như tính kiên nhẫn,

tính toán, tiết kiệm, tính trung thực trong làm ăn, giao tiếp, chú trọng chữ tín, nhằm

bảo đảm nguồn lợi thường xuyên, ổn định và lâu dài, niềm tự hào với nghề nghiệp,

với quê hương, tạo ra lòng yêu nghề, yêu quê và gắn bó với quê hương của người thợ

thủ công.

- Làng nghề truyền thống: cũng theo tác giả Lưu Thị Tuyết Vân: “Các làng

nghề truyền thống trước hết phải là một làng nghề nhưng đã có lịch sử tồn tại lâu

đời, đến nay vẫn sản xuất một hoặc nhiều mặt hàng truyền thống có giá trị trên thị

trường trong nước và quốc tế.” [42, tr. 64].

Tác giả Dương Bá Phượng dựa vào tính chất và số lượng nghề để phân loại

làng nghề, tác giả chia làng một nghề, làng nhiều nghề, làng nghề truyền thống...

20

Theo tác giả: “làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong

lịch sử và còn tồn tại cho đến ngày nay, là những làng nghề đã tồn tại hàng trăm

năm, thậm chí hàng nghìn năm” [85, tr. 10-15].

Các cách định nghĩa trên cơ bản đã đưa ra vấn đề cốt lõi của làng nghề

truyền thống, trước tiên phải là làng nghề và nhấn mạnh làng nghề đó tồn tại đã từ

rất lâu, sản phẩm có thương hiệu, uy tín trên thị trường.

Trên cơ sở nhận thức định nghĩa về làng nghề truyền thống của các tác giả

trên, chúng tôi quan niệm, làng nghề truyền thống là làng có nghề thủ công hình

thành từ lâu đời, đến nay nghề còn duy trì hoặc rất phát triển, vẫn sản xuất một

hoặc nhiều mặt hàng truyền thống.

Khái niệm “Làng nghề truyền thống” trong Luận án, xét trên phương diện

kinh tế là nghề có kỹ thuật thủ công; xét trên phương diện xã hội và văn hóa, gắn

với cơ cấu tổ chức xã hội và các giá trị văn hóa của làng Việt được hình thành và tồn

tại trong xã hội truyền thống. Ngày nay, nhiều làng nghề truyền thống vẫn tồn tại,

song nghề đã có những thay đổi về kỹ thuật, tổ chức sản xuất, loại hình sản phẩm...

Sự thay đổi này của nghề đã tác động đến nhiều mặt của làng.

- Làng nghề thủ công hiện đại là làng có các nghề mới được nhân cấy. Theo

quy định của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, trong Thông tư số

116/2006/TT-BNN, ngày 18/12/2006, cả hai loại hình làng nghề truyền thống và

làng nghề hiện đại ngày nay có chung các đặc điểm sau: có tối thiểu 30% tổng số hộ

trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn; hoạt động sản xuất kinh

doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; chấp hành tốt

chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nghề được công nhận là nghề truyền thống

phải đạt ba tiêu chí sau:

1/ Nghề xuất hiện tại địa phương trên 50 năm tính đến thời điểm được

công nhận;

2/ Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc;

21

3/ Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của

làng nghề.

Tại tỉnh Thái Bình, ngày 31 tháng 3 năm 2006, UBND tỉnh ra Quyết định số

29/ 2006/ QĐ- UBND "Quyết định V/v Ban hành Quy định tiêu chuẩn làng

nghề"[110, tr. 3], làng nghề có các tiêu chí sau:

1. Chấp hành tốt các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước, các quy định của tỉnh và địa phương.

2. Trong làng, số lao động quy đổi làm nghề công nghiệp - thủ công nghiệp,

thương mại, dịch vụ đạt từ 50% trở lên hoặc 30% số hộ.

3. Giá trị sản xuất làng nghề chiếm tỷ trọng từ 50% trở lên so với tổng giá trị

sản xuất của làng.

4. Có hình thức tổ chức phù hợp, chịu sự quản lý Nhà nước của chính quyền

địa phương, gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.

Đảm bảo vệ sinh môi trường sinh thái theo quy định hiện hành.

“Làng nghề truyền thống phải đạt các tiêu chuẩn như Điều 3 và phải là làng

nghề sản xuất lâu đời có ít nhất từ 50 hộ trở lên hoặc 1/3 (một phần ba) tổng số hộ

cùng làm một nghề truyền thống, có thu nhập ổn định”.

1.1.1.2. Văn hóa làng nghề

Đến nay, có một quan niệm phổ biến cho rằng, văn hóa làng nghề gồm hai

yếu tố “Văn hóa làng” và “Văn hóa nghề”. Văn hóa làng có trước, gồm các yếu tố

văn hóa vật thể (diện mạo và cấu trúc vật chất làng xã, các di tích thờ cúng…) và

văn hóa phi vật thể (cơ cấu tổ chức làng xã, các ứng xử xã hội, lễ hội, phong tục tập

quán, tín ngưỡng…). Văn hóa nghề là các yếu tố liên quan đến nghề (kỹ thuật làm

nghề, đặc trưng sản phẩm nghề, tâm lý và tính cách người làm nghề,…). Văn hóa

làng nghề là các yếu tố tiêu biểu nhất về vật thể và phi vật thể của một làng được

hình thành dưới ảnh hưởng của nghề; gắn với việc sản xuất, sinh sống bằng một hay

một số nghề [108, tr. 35- 36].

22

Tác giả Đinh Thị Vân Chi cũng có quan điểm gần như quan niệm trên khi cho

rằng, văn hóa làng nghề là một dạng đặc thù của văn hóa làng nói chung. Ngoài các

yếu tố chung của văn hóa làng Việt, văn hóa làng nghề có một số yếu tố đặc thù, như

kiến thức nghề, trình độ tay nghề, đạo đức nghề, thái độ hành nghề,...[19, tr. 39].

Tác giả Vũ Quốc Tuấn xác định văn hóa làng nghề có ba bộ phận chính là

văn hóa tổ chức (hay cơ cấu tổ chức), văn hóa vật thể (các sản phẩm nghề, các thiết

chế thờ cúng, các thiết chế văn hóa) và văn hóa phi vật thể (các phong tục, lễ hội,

việc dạy nghề, truyền nghề…) [104, tr. 95- 96]. Định nghĩa đã chỉ ra được yếu tố

quan trọng nhất là nghề trong văn hóa, hay tác động của việc làm nghề tới các khía

cạnh của làng và của văn hóa.

Tác giả Lâm Bá Nam trong bài viết gần đây trên Tạp chí Dân tộc học, tuy

không đưa ra một khái niệm về làng nghề, song, xuyên suốt toàn bộ bài viết, tác giả

Lâm Bá Nam đã giúp cho chúng ta hiểu khía cạnh khác của văn hóa làng nghề, đó

là những đặc điểm của yếu tố nghề trong văn hóa tạo nên diện mạo làng.

Như vậy, các tác giả đều đã đưa ra được định nghĩa về văn hóa làng nghề, đó

là một kiểu loại văn hóa làng, có những đặc trưng của yếu tố nghề, chịu tác động

của nghề. Mỗi cách định nghĩa đều khai thác được những khía cạnh mang tính đặc

trưng của làng nghề.

Chúng tôi quan niệm: Văn hóa làng nghề là một dạng đặc thù, là một phức thể

các yếu tố văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần ở các làng nghề,

giữa nghề và làng, giữa con người và các yếu tố ngoài con người, có quan hệ mật

thiết với nhau, ràng buộc và phụ thuộc, tác động vào nhau, trong đó nghề giữ vị trí

trung tâm. Ngoài các yếu tố chung của văn hóa làng, văn hóa làng nghề có một số

yếu tố đặc thù, như nhịp sống làng nghề, tâm lý và tính cách của người làng nghề…

* Cơ cấu văn hóa làng nghề: Cũng như văn hóa làng, văn hóa làng nghề

được cấu thành bởi các thành tố:

Văn hóa vật chất: không gian, cảnh quan làng; di tích thờ cúng...

Văn hóa xã hội: các thiết chế, tổ chức làng xã; các giai tầng xã hội...

23

Văn hóa tinh thần: phong tục, tập quán, lễ tiết, hội làng...

Có điểm khác là nghề phát triển, chi phối các mặt đời sống xã hội của làng,

vì vậy, khi nghiên cứu văn hóa làng nghề không thể thiếu yếu tố nghề.

24

1.1.2. Cơ sở lý thuyết

1.1.2.1. Biến đổi văn hóa

- Luận điểm về biến đổi xã hội

Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động và biến đổi không ngừng. Sự biến đổi

đó bao gồm cả biến đổi do nội tại của bản thân sự vật, hiện tượng và sự vận động,

biến đổi do các tác nhân bên ngoài. Hiện tượng văn hóa cũng không nằm ngoài quy

luật ấy.

Từ trước đến nay, đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về sự biến đổi xã hội

- văn hóa. Theo các nhà xã hội học, nói tới biến đổi là đồng nghĩa với sự biến đổi

của xã hội, biến đổi của công nghệ… và họ coi biến đổi xã hội chính là sự thay đổi

đáng kể trong cấu trúc hành vi văn hóa: “Hệ thống văn hóa (đạo đức, tinh thần) quy

định sự phát triển của hệ thống xã hội, cơ cấu xã hội” [40, tr. 52].

Có tác giả đã gắn liền sự biến đổi kinh tế - xã hội với quá trình sản xuất vật

chất. M. Weber thì cho rằng: “ Nguồn động lực có sự tác động mạnh mẽ nhất đến

các hình thức tổ chức sản xuất và quan hệ xã hội, để cuối cùng làm thay đổi xã hội

không phải cái gì khác lại chính là văn hóa phi vật chất (như tư tưởng, niềm tin, kỷ

luật lao động và tư duy hợp lý, v.v…) [40, tr. 94]. Như vậy, theo M. Weber, biến

đổi xã hội xuất phát từ sự thay đổi về văn hóa và chính văn hóa là động lực để xã

hội thay đổi. Ông cũng khẳng định, quá trình biến đổi luôn diễn ra với đầy những

khó khăn, phức tạp, không đơn giản thuận lợi: “Việc biến đổi từ giai đoạn này sang

giai đoạn khác không “trôi chảy, nhẹ nhàng”, mà thường trải qua thời kỳ bất ổn

định, mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới” [40, tr. 52].

Karl Max, với tư cách là nhà xã hội học Đức lại cho rằng “theo quy luật lịch

sử, xã hội phát triển từ cơ cấu xã hội đơn giản đến phức tạp”, “Lịch sử phát triển

của xã hội trên toàn thế giới là lịch sử thay thế kế tiếp các hình thái kinh tế xã hội

mà thực chất là các phương thức sản xuất” [40, tr. 57, 60].

Nhìn chung, các nhà xã hội học đều có chung quan điểm: xã hội biến đổi và

sự biến đổi đó thường được nhìn nhận từ một số chiều cạnh hoặc cách tiếp cận: cấu

trúc - hành vi, vĩ mô - vi mô hoặc kết hợp các cách tiếp cận này; được triển khai

trên hai trục chính là những biến đổi của cơ cấu xã hội và những biển đổi trong các

khuôn mẫu hành vi và lối sống của các nhóm xã hội. Biến đổi vĩ mô là những thay

đổi diễn ra và xuất hiện trên phạm vi rộng lớn và trong khoảng thời gian dài. Biến

đổi vi mô là những biến đổi nhỏ, diễn ra trong thời gian ngắn, được tạo ra từ một lĩnh

vực nào đó của đời sống.

Một số công trình nghiên cứu của khoa học xã hội trong thập niên 1990, đã

mở đầu cho hướng nghiên cứu về biến đổi xã hội ở Việt Nam. Các nghiên cứu đã

đưa ra nhận định chung là kinh tế thị trường càng phát triển tuy tạo ra nhiều cơ may,

vận hội cho các cá nhân, các nhóm xã hội, song sự phân hóa giàu nghèo cũng như

mức độ phân tầng xã hội càng diễn ra mạnh mẽ. Cá nhân, nhóm nào nắm bắt, tận

dụng được cơ hội sẽ vượt lên thành các nhóm giàu có, khá giả, ngược lại, cá nhân,

nhóm xã hội nào không nắm bắt được các cơ hội sẽ chỉ đạt mức sống trung bình, thậm

chí bị sút giảm và rơi vào nhóm có mức sống nghèo đói. Những cá nhân, nhóm xã hội

„„mạnh‟‟tạo nên sức mạnh kinh tế làm thay đổi đáng kể điều kiện sống của bản thân và

góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Có thể gọi là những nhóm xã hội

vượt trội mà sự giàu có lên của họ có thể làm doãng rộng khoảng cách giàu nghèo,

nhưng cũng góp phần tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội [77, tr. 29-30].

Chúng tôi vận dụng những luận điểm này để nghiên cứu về sự biến đổi xã hội - yếu tố

có liên quan mật thiết với biến đổi văn hóa ở làng Phương La trong điều kiện hiện nay.

- Luận điểm về biến đổi văn hóa

Cũng như biến đổi xã hội, biến đổi văn hóa là chủ đề được rất nhiều ngành

khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu. Biến đổi văn hóa được các học giả đề cập

từ khá sớm và họ đều có điểm chung thống nhất cho rằng không có nền văn hóa nào

đứng yên một chỗ, cũng như không có nền văn hóa nào không có sự thay đổi gì so

25

với thời kỳ khai nguyên của nó. Chúng ta có thể điểm lại một vài quan điểm về sự

biến đổi văn hóa của các nhà nghiên cứu, để từ đó có cái nhìn tổng quan về biến đổi

văn hóa.

+ Cuối thế kỷ XIX, thuyết Tiến hóa luận của E. Taylor, Morgan ra đời. Các

học giả cho rằng sự phát triển của các nền văn hóa là xu hướng chính của lịch sử

loài người, điều này là tất yếu, các dữ kiện của nó có thể sắp xếp vào một trật tự xác

định, mà không thể làm khác được.

Không tán thành với thuyết tiến hóa về văn hóa ở cuối thế kỷ XIX, thuyết

chức năng - cấu trúc được khởi xướng từ G. Spence r và E. Durkheim ra đời.

Thuyết này nhấn mạnh đến sự thống nhất của giống người và sự đồng nhất trong

phát triển văn hóa “Đó là sự phát triển qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp

và mang tính chất bắt buộc đối với mọi xã hội”, “Coi văn hóa và xã hội như một cơ

thể sống” [40, tr.72]. Thuyết chức năng coi trọng sự khác biệt về văn hóa, theo các

học giả, chính nhờ sự khác biệt mà các bộ phận của xã hội cũng như các xã hội có

thể nương tựa và bổ sung cho nhau để vận hành trong thế cân bằng và ổn định. Học

thuyết cũng chủ trương cần nghiên cứu văn hóa - xã hội của mỗi dân tộc như là một

thể thống nhất (hay như một chỉnh thể), cần chia tách thành các bộ phận và vạch ra

các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng.

Phát triển học thuyết trên, Radcliffe Brown đi đến kết luận “Cần phải nghiên

cứu văn hóa từ bên trong, cần tôn trọng giá trị của các nền văn hóa khác nhau và

không nhất thiết mọi nền văn hóa đều phải trải qua các giai đoạn giống như nền năn

minh châu Âu” [49, tr. 76].

Thuyết xung đột gắn liền với tác phẩm của những người có khuynh

hướng chống lại sự bành trướng của thuyết chức năng - cấu trúc. Dựa trên cơ sở

lý luận của M. Weber và C. Mác, người ta cho rằng các mâu thuẫn và xung đột

không chỉ là đặc trưng, còn giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội

và coi xã hội là sự kết nối không ngừng các va chạm của những lực lượng xã hội

khác nhau, không có hoàn cảnh nào không có xung đột. “Mâu thuẫn là nguồn

gốc của mọi sự vận động, biến đổi và là động lực của sự phát triển. Mà mâu

26

thuẫn, xung đột lại hình thành và phát triển trên cơ sở của sự khác biệt, kể cả sự

khác biệt về văn hóa” [40, tr. 82].

Trong công trình nghiên cứu Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiên nay, tác

giả Nguyễn Thị Phương Châm đã dành cả một chương để bàn về các lý thuyết biến

đổi văn hóa và tác giả xác định biến đổi văn hóa là quá trình vận động của tất cả các

xã hội và cho rằng biến đổi văn hóa là xu hướng tất yếu trong quá trình toàn cầu

hóa. Tác giả khẳng định:

“Biến đổi văn hóa trong xã hội hiện đại là những quá trình đa chiều, đa dạng

phụ thuộc vào sự lựa chọn của từng xã hội cụ thể với sự chi phối của bối cảnh văn

hóa truyền thống. Quá trình biến đổi văn hóa trong hiện đại hóa hiện nay được nhìn

nhận là ngày càng xa với thuyết Mỹ hóa và Tây hóa, tức là không chỉ lấy Mỹ hay

phương Tây làm mô hình và chuẩn mực cho sự phát triển” [17, tr. 22, 23].

Từ trước đến nay, HĐH được hiểu là quá trình chuyển biến từ những xã hội

nông nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp hiện đại, dẫn đến biến đổi văn

hóa, diễn ra theo một đường thẳng đơn tuyến, trong đó những giá trị truyền thống sẽ

bị xóa bỏ và đưa tới sự hội tụ của những “giá trị hiện đại”.

Các nhà Nhân học hiện đại, tuy đồng ý quan điểm kinh tế phát triển thúc đẩy

sự biến đổi về xã hội, văn hoá; nhưng không tán thành luận điểm về sự biến đổi văn

hoá từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại dẫn đến hội tụ những giá trị hiện đại

chung cho mọi xã hội.

Các nhà Văn hóa học Mỹ chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa chính trị - kinh

tế và văn hoá, họ đánh giá cao vai trò quan trọng của văn hóa trong phát triển kinh tế

- xã hội… Trên cơ sở đó, một lý thuyết mới về hiện đại hóa được đề xuất với nội

dung chính sau đây:

+ Phát triển kinh tế dẫn đến biến đổi về xã hội và văn hoá từ xã hội truyền

thống sang xã hội hiện đại. Quá trình này đi theo những đường song song, phụ

thuộc vào văn hoá truyền thống của mỗi nước; chứ không phải diễn ra theo một

đường thẳng; không dẫn đến hội tụ những “giá trị hiện đại” chung cho mọi quốc

27

gia. Trong quá trình đó, các giá trị truyền thống không biến mất mà tiếp tục ảnh

hưởng đến quá trình biến đổi.

+ Nội hàm của biến đổi xã hội, văn hoá là: tăng trưởng kinh tế, chuyên môn

hoá nghề nghiệp, tăng trình độ học vấn, thay đổi vai trò giới (nhất là của nữ giới),

các quan hệ cộng đồng suy giảm, tự do cá nhân và sự tự thể hiện mình (của cộng

đồng, cá nhân) được đề cao…

+ Biến đổi văn hoá không đồng nghĩa với “Mỹ hoá”, “Âu hoá”. Sự phát triển

vượt bậc của những nước châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…) và châu

Phi trong những năm gần đây đã chứng minh điều đó.

Như vậy, biến đổi văn hóa được các học giả đề cập từ khá sớm và họ đều có

điểm chung thống nhất cho rằng không có nền văn hóa nào đứng yên một chỗ, cũng

như không có nền văn hóa nào không có sự thay đổi gì so với thời kỳ khai nguyên

của nó. Biến đổi văn hóa mang tính tất yếu, là hiện tượng phổ biến. Biến đổi văn

hóa cũng tuân theo quy luật, biến đổi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.

Biến đổi này không diễn ra theo một đường thẳng đơn tuyến mà cũng có những giai

đoạn chững lại, thậm chí là thụt lùi, là bước tiến bộ trong sự phát triển, được bắt đầu

từ quá trình thay đổi phương thức sản xuất, kỹ thuật sản xuất, dẫn đến thay đổi về

quan niệm, lối sống,… Song, biến đổi văn hóa lại cũng chính là động lực thúc đẩy

xã hội biến đổi. Nhờ mối quan hệ biện chứng đó mà văn hóa và xã hội ngày một

phát triển. Sự biến đổi này được hiểu theo nghĩa rộng, là quá trình vận động của tất

cả xã hội [40, tr.9]. Theo nghĩa hẹp, biến đổi văn hóa là những thay đổi của các di

tích thờ cúng, tôn giáo…ở những làng quê được chuyển thành phường do tác động

của ĐTH. Mà biến đổi xã hội do tác động của CNH - HĐH là sự thay đổi trong tất cả

các lĩnh vực của đời sống xã hội và cá nhân, trong đó có các quan hệ xã hội các mô hình

hành vi và ứng xử tương ứng với các điều kiện CNH - HĐH và ĐTH [47, tr.80].

Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng “… sự phát triển của xã hội trên toàn thế

giới là lịch sử kế tiếp các hình thái kinh tế xã hội mà thực chất là các phương thức

sản xuất” [22, tr.60], “… ở mọi xã hội, ý thức xã hội (hệ tư tưởng, chính trị, luật

28

pháp, đạo đức, văn hóa, tôn giáo…) bị quy định bởi tồn tại xã hội” [22, tr. 59, 60].

Cùng với sự khẳng định về tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, lý luận mácxít

cũng đồng thời khẳng định tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, khẳng định sự

tác động ngược trở lại của ý thức xã hội với tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội

đặc biệt là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và nhận thức của con

người, những quan điểm về chính trị, đạo đức, văn học, nghệ thuật… sớm muộn

cũng biến đổi theo. Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường

xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người mà trước tiên là do

sự biến đổi của lực lượng sản xuất xã hội.

Như vậy, về mặt nhận thức, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội nhưng còn

trong đời sống xã hội hiện thực, tất cả các yếu tố đều làm tiền đề và tác động thúc đẩy

lẫn nhau. Đây là cơ sở lý luận để NCS dựa vào trong suốt quá trình nghiên cứu.

1.1.2.2. Biến đổi văn hóa làng nghề

Thực tế cho thấy, quá trình hội nhập thế giới và việc đẩy mạnh CNH - HĐH

đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến các làng Việt nói chung, làng nghề nói riêng, dẫn

đến biến đổi văn hóa của các làng. Nguyên nhân của sự biến đổi này chính là do lực

lượng sản xuất rất phát triển, phương thức sản xuất được đổi mới, kinh tế hàng hóa

thâm nhập sâu, rộng vào mọi mặt đời sống xã hội của người dân.

CNH - HĐH đã mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức đối

với làng nghề, với người thợ thủ công. Chính vì điều này mà nhiều làng nghề đã

không còn tồn tại bởi sản phẩm không có chỗ đứng trên thị trường, hoặc có những

làng nghề còn tồn tại nhưng là để duy trì nghề, sản phẩm làm ra có rất ít người tiêu

thụ bởi không phù hợp với yêu cầu của cuộc sống hiện đại. Chính vì vậy, để làng

nghề tồn tại và phát triển, người làng nghề không còn cách nào khác là phải thay đổi

cách nghĩ, từ đó đổi mới mặt hàng sản xuất, công nghệ sản xuất... nhằm đáp ứng

nhu cầu thị trường. Do đó, văn hóa của các làng nghề cũng biến đổi theo. Tuy

nhiên, tùy điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi làng mà sự biến đổi văn hóa có

qui mô, tốc độ khác nhau.

29

Do làng nghề áp dụng máy móc, công nghệ hiện đại vào sản xuất nên sản

phẩm làm ra nhiều, năng suất lao động tăng, thu nhập của người dân cao và ổn định.

Chính điều này đã giúp người làng nghề có điều kiện nâng cao đời sống tinh thần,

quan tâm tới các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng tâm linh... Tuy nhiên, sự biến đổi

này cũng không theo một đường thẳng đơn tuyến mà nó hội tụ cả những mặt trái,

những yếu tố chưa tích cực cản trở sự phát triển của các làng nghề.

Trên cơ sở những luận điểm về biến đổi văn hóa, về làng nghề, văn hóa làng

nghề, chúng tôi xác định nghiên cứu biến đổi văn hóa làng nghề chính là nghiên

cứu sự biến đổi các thành tố cấu thành văn hóa làng nghề dưới tác động của các

yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội. Sự biến đổi này bao hàm cả biến đổi về số lượng

và chất lượng, trạng thái. Biến đổi giữa cái cũ và cái mới; từ cái chưa hoàn thiện

đến cái hoàn thiện. Tuy nhiên, sự biến đổi ấy bao hàm cả những yếu tố tích cực và

chưa tích cực; sự biến đổi đã có chọn lọc và cả những biến đổi chỉ mang tính trào

lưu chưa phù hợp. Sự biến đổi này cũng hoàn toàn tất yếu, khách quan trong điều

kiện CNH-HĐH và hội nhập quốc tế.

Nghiên cứu biến đổi văn hóa làng dệt Phương La là nghiên cứu sự biến đổi

của các thành tố Văn hóa vật chất, Văn hóa xã hội và Văn hoá tinh thần của làng.

Có điểm khác là, với làng nghề Phương La, việc làm nghề mang lại nguồn thu lớn

và chủ yếu cho cư dân, làm cho kinh tế phát triển, cuộc sống sung túc nên ảnh

hưởng chi phối đến mọi mặt đời sống văn hóa, tinh thần của người dân. Vì vậy,

Luận án sẽ phải tập trung nghiên cứu về biến đổi nghề dệt truyền thống.

Do điều kiện thời gian nên không phải mọi yếu tố của văn hóa làng nghề được

xem xét, nghiên cứu mà Luận án chỉ trình bày khái quát các thành tố văn hóa làng nghề

Phương La trong xã hội truyền thống và một số yếu tố văn hóa hiện nay nổi bật nhất,

hình thành và diễn biến dưới tác động của CNH - HĐH được rút ra từ quá trình điều tra

thực tế: 1/Nghề dệt và văn hóa vật chất (không gian, cảnh quan; di tích tôn giáo, tín

ngưỡng); 2/Văn hóa xã hội, đó là sự hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp; việc tách

họ, dựng nhà thờ mới và vấn đề an ninh - xã hội của làng; 3/Văn hóa tinh thần, những

vấn đề nổi bật là sự thay đổi lối sống; phong tục cưới xin, tang ma, hội làng.

30

31

1.2. Tổng quan về làng dệt Phƣơng La

1.2.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư và lịch sử hình thành làng

1.2.1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên

Làng Phương La (tên Nôm là làng Mẹo) thuộc xã Thái Phương, huyện Hưng

Hà, tỉnh Thái Bình. Làng tiếp giáp các làng Trác Dương, Xuân La (xã Thái Phương)

về phía Bắc; làng Hà (xã Hồng An) về phía Nam; làng Giác (xã Kim Chung) về

phía Đông; làng Dương Xá (xã Thái Hưng) về phía Tây.

Phương La nằm trong khu vực đồng bằng Thái Bình, địa hình bằng phẳng, không

có núi đồi, đất đai hoàn toàn do phù sa bồi đắp mà thành; thuận lợi để trồng lúa và các

loại cây lương thực, cây công nghiệp (dâu, bông), là cơ sở để nghề dệt hình thành. Làng

có vị trí giao thông thuận lợi cả về đường bộ và đường thủy, có bốn đường bộ vào

ra, lại cách bến Thanh Nga (làng Nga, thuộc xã Minh Tân nằm sát làng Phương La)

03 km, tiện lợi để vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy sông Hồng. Hình thù làng

giống như một cái vó bè, cả bốn góc đều có các đường dẫn vào làng: từ làng Trác

Dương (phía Bắc) sang, từ làng Xuân La (phía Tây Bắc) vào; làng Gạo (phía Tây)

sang; làng Kiều Trai (phía Nam) tới. Thế đất này được dân làng quan niệm là nơi

“tụ hội”, trở thành “đất đãi ngoại”: con gái, con trai các làng khác đến làm dâu làm

rể đều phát đạt. Vì thế, như một “định đề tự nhiên” từ xưa: con gái ở các nơi phải là

những cô xinh xắn mới “lọt” vào mắt các trai làng Mẹo, cũng như con trai các nơi

phải đẹp trai, khỏe mạnh mới lấy được gái Phương La.

Theo số liệu thống kê năm 2012, làng có diện tích tự nhiên là 242,768 ha.

Diện tích các loại đất được chia ra như sau (Bảng 1.1).

Bảng 1.1: Các loại đất đai của làng Phƣơng La năm 2012

Loại đất

TT 1 Đất nông nghiệp 2 Đất công nghiệp

Diện tích (ha) 94,140 61,236

Tỷ lệ % 39,1 25,4

3 Đất thổ cư 4 Đất chuyên dùng

77,652 7,740

32,3 3,2

Tổng

240,768

100

[Nguồn: Bộ phận Địa chính, UBND xã Thái Phương].

1.2.1.2. Dân cư

Phương La là vùng đất cổ, nơi hội tụ của dân di cư từ nhiều nơi khác đến.

Đặc biệt, vùng này còn là nơi các triều đình phong kiến đưa tù binh Chiêm Thành,

Tống, Nguyên về sinh sống (theo gia phả dòng họ Trần Hữu, xã Hồng An, huyện

Hưng Hà). Tới vùng đất mới, bên cạnh việc mang theo tập tục sinh hoạt, văn hóa,

nhiều người mang theo nghề thủ công: nghề mộc, nghề ngõa (xây), nghề rèn, trồng

dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa.

Người Phương La vốn bôn ba, bươn chải, di cư qua nhiều vùng để mưu sinh

nên họ rất chăm chỉ, sáng tạo; thích ứng với điều kiện sống…

Theo thống kê của nhà nghiên cứu Ngô Vi Liễn, vào năm 1927, làng có

1528 dân; trong khi bình quân của một làng châu thổ Bắc Bộ là 910. Ngày nay,

dân số của làng đã tăng lên nhiều lần. Làng được chia thành bốn thôn (Phương La

1, 2, 3, 4) trên cơ sở bốn xóm cũ. Số hộ và số khẩu năm 2014 của các thôn thể

hiện ở Bảng 1.2.

Bảng 1.2 : Số hộ, khẩu của làng Phƣơng La năm 2014

TT

Thôn

Số hộ

Số khẩu

Số lượng

Tỷ lệ %

Số lượng

Tỷ lệ %

so cả làng

so cả làng

1

Phương La 1

377

29,5

1278

30,0

2

Phương La 2

283

22,2

967

22,0

3

Phương La 3

332

26,0

1225

28,0

4

Phương La 4

285

22,3

908

20,0

Cả làng

1.277

100

4.378

100

[Nguồn: UBND xã Thái Phương].

1.2.1.3. Vài nét về lịch sử hình thành làng

Theo lưu truyền dân gian, Phương La hình thành cuối triều Lý (cuối thế kỷ

XII, đầu thế kỷ XIII), thuộc phủ Long Hưng, một trong 24 phủ thời Trần.

Lưu truyền dân gian gắn sự hình thành làng Phương La với công lao mở

mang của Hoằng Nghị Đại Vương, tên thật Trần Hoằng Nghị, là thân sinh của Thái

32

sư Trần Thủ Độ. Ông tổ chức cho dân chúng khai canh lập ấp, lập nên khu Bến

Trấn (tức làng Mẹo sau này) trù mật vào cuối thời Lý. Bến Trấn xưa gồm các vùng

đất Phương La, Xuân La và Trác Dương thuộc xã Thái Phương ngày nay, toàn bộ

vùng này rộng khoảng chừng vài km2. Cũng theo các bậc cao niên trong làng, hai

làng Xuân La và Phương La xưa kia cùng cư trú trong một khoảnh. Về sau, không

rõ từ bao giờ, một bộ phận cư dân chuyển sang khai phá và sinh sống tại các xóm

của làng Phương La hiện nay; sau đó, tách thành làng riêng biệt.

Quá trình khai hoang lập làng Phương La gắn với sự đoàn kết, chung lưng

đấu cật của 10 dòng họ: Trần, Nguyễn, Đào, Phạm, Lê, Vũ, Đặng, Đỗ, Đoàn, Đinh.

33

1.2.2. Nghề dệt làng Phương La trong xã hội truyền thống

1.2.2.1. Nguồn gốc nghề dệt ở Phương La

Địa hình của làng Phương La bằng phẳng, song ở thế thấp so với các làng

xung quanh, mỗi khi có mưa lớn, nước từ các làng Hà Nguyên, Xuân La dồn về

đồng làng, theo con ngòi chảy qua làng Trấn Cách để ra sông Hồng, nên việc tiêu

thoát nước được dễ dàng. Tuy nhiên, trước đây, hệ thống thủy lợi chưa được xây

dựng, đồng ruộng chỉ cấy được một vụ lúa mùa với năng suất thấp và bấp bênh

không thể đảm bảo lương thực cho mỗi gia đình. Trong khi đó, cuộc sống của người

dân cần nhiều thứ chi tiêu khác: may mặc, thực phẩm, chi tiêu cho công cụ sản xuất,

vật dụng gia đình, sửa nhà cửa..., lại còn lo chi những lệ tục tang ma, cưới xin và

đặc biệt, thời phong kiến, còn có gánh nặng sưu thuế... ; cần những khoản tiền lớn

mà nông nghiệp không thể đáp ứng, đảm bảo nhu cầu cuộc sống. Do vậy, người

nông dân phải tìm kiếm thêm các nguồn thu khác, bằng hình thức đi buôn, làm thuê

hoặc làm thêm nghề phụ. Chọn công việc kiếm thêm nguồn thu nào tùy thuộc vào

điều kiện của từng địa phương và sự lựa chọn của người nông dân. Như vậy, làm

thêm nghề phụ cũng là xu thế tất yếu của người nông dân, trong đó có người

Phương La.

Phương La có vị trí giao thông thuận lợi, lại nằm trong vùng lõi của nghề dệt

truyền thống, sát cạnh xã Minh Tân với nghề dệt lụa, tơ tằm; gần làng Hới có nghề

dệt chiếu nổi tiếng từ rất lâu đời; giáp với huyện Vũ Thư trồng dâu chăn tằm, ươm

tơ dệt vải. Cách làng Phương La sáu cây số là làng Quan Nhân, tỉnh Hà Nam trồng

dâu chăn tằm, kéo tơ. Đặc biệt, người Phương La năng động, sáng tạo và cần cù

chịu khó, lại biết tính toán, chi tiêu tiết kiệm nên nghề tồn tại và phát triển; đây

cũng là yếu tố đảm bảo để thúc đẩy nông nghiệp tồn tại và phát triển theo.

Về nguồn gốc nghề dệt ở Phương La, sách Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí

và Đại Nam nhất thống chí đều chép huyện Vũ Tiên có làng Bộ La dệt lụa, ở làng

Mẹo phủ Tiên Hưng có nghề dệt lụa, nái..." [35, 87]. Sách Tiên Hưng phủ chí của

Phạm Nguyên Hợp nói rõ các nơi trong bản phủ “Tiên Hưng” đều có khung dệt vải,

trong đó có các xã Phương La, Trác Dương. Tài liệu còn cho biết: “Nghề này có từ

thời Lê Cảnh Hưng. Ông nghè hội nguyên Nguyễn Bá Dương đi sứ Bắc Quốc học

được cách dệt thứ lụa ấy, trở về dạy cho dân làng thành nghề. Đến nay, dân bản xã

còn nhắc nhở”... Tuy nhiên, tài liệu cũng chỉ cho biết nghề dệt của làng Phương La

hình thành vào khoảng niên hiệu Cảnh Hưng (thế kỷ XVIII) và từ nơi khác chuyển

đến, không xác định được tổ nghề.

Về tổ nghề dệt, hiện nay, trong hồ sơ di tích Đình Phương La có ghi: “Ngôi

đình này thờ vọng 6 vị thần, theo truyền thuyết là thành hoàng có công phát triển

nghề dệt của làng Phương La”. Tuy nhiên, quá trình điền dã tại các làng trong xã

Thái Phương và các xã lân cận, chúng tôi không thu được tài liệu nào khẳng định về

vị tổ nghề dệt của làng Phương La. Những vị thành hoàng làng được thờ vọng tại

đình Phương La cũng không đủ cơ sở để xác định họ là nhân thần và trong số họ có

vị là tổ nghề thực sự của làng, mà chỉ là những thiên thần. Các bậc cao niên cùng

các nghệ nhân làng Phương La và các làng xã lân cận thì cho rằng nghề dệt ở

Phương La đã có từ khoảng 300 - 400 năm, nhưng cũng không ai biết cụ tổ nghề là ai

và sinh vào thời nào.

Theo ông Trần Hữu Huỳnh, người xã Hồng An (giáp với làng Phương La)

cho biết, Thế phả dòng họ của ông có nói, vào thời Vua Lê Thánh Tông (1460-

1497), Nhà Vua đi đánh Chiêm Thành, bắt được tù binh đem về. Lấy ruộng công

của nơi xa, cấp cho người Chiêm cày cấy… Người Chiêm tụ họp lại dựng nhà lập

34

ấp, ngày khẩn hoang cấy lúa, trồng dâu chăn tằm, đêm đánh cá, dệt vải” [Nguồn:

Kết quả phỏng vấn của NCS và cộng tác viên].

Như vậy, nghề dệt ở Phương La có từ bao giờ và tổ nghề dệt là ai, đến nay, vẫn

còn là dấu hỏi. Mọi người cũng chỉ biết rằng, từ thời Trần, dân làng Phương La đã

phát triển nghề dệt. Tương truyền Trần Hoằng Nghị cùng bốn vị phu nhân đã giúp

dân mở nghiệp, mở chợ để dân trao đổi hàng hóa và những sản phẩm tơ lụa ở nơi

đây đã đến với Kinh đô Thăng Long. Các bậc cao niên trong làng giải thích, có một

thời, tên làng là “Hương La”, nghĩa là lụa thơm. Loại lụa này nổi tiếng dùng để tiến

vua, đối ngoại với các nước láng giềng. Sự tồn tại lâu đời của nghề dệt, gắn với

trồng dâu nuôi tằm ở các làng thuộc Hưng Hà đã được dân gian đúc kết thành các

câu ngạn ngữ "Chiếu Hới, vải Bơn, lụa Mẹo". Ở Phương La còn lưu truyền câu ca

dao nói về nghề dệt: “Càng rộng đường go, càng to vốn sợi”, hoặc “Khéo quay tơ,

lơ dệt cửi”, “Con gái dệt nái, tay trái đếm tiền”…

1.2.2.2. Nguyên liệu dệt

Nguyên liệu để dệt được những tấm vải tơ lụa mềm mại, óng ả nuột nà là tơ

tằm. Tài liệu Chú thích về tỉnh Thái Bình (Notice sur la province de Thái Bình), ký hiệu

M.10372 cho biết, các huyện trong tỉnh Thái Bình có trồng dâu (trước năm 1945):

“Dâu, tằm: theo thống kê toàn bộ về các bãi dâu tiến hành năm 1931 - 1932, diện tích

trồng dâu tằm lên tới 1.830 mẫu (dâu trồng ở vườn và dâu trồng ở các bãi cát)”. Đặc

biệt, tài liệu cũng khẳng định diện tích trồng dâu ở hai huyện Duyên Hà (286 mẫu) và

Hưng Nhân (50 mẫu) … Tuy nhiên, trước đây làng Phương La chỉ có khoảng mươi hộ

nuôi tằm, ươm tơ. Đại đa số các nhà dệt chủ yếu đi bộ để mua nguyên liệu của người

làng Đìa, xã Hồng An (huyện Hưng Nhân); Thuận Vi (huyện Thư Trì); làng Quan

Nhân (huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Nguyên liệu của địa phương xa hơn được dân

các nơi mang đến chợ Nga (làng Nga xã Minh Tân) bán, trao đổi.

Khi nghề dệt của làng phát triển mạnh, các chủ lái tơ từ các làng Bách Thuận, Bách

Tính (huyện Thư Trì); tỉnh Nam Định, Hưng Yên cũng tìm tới bán tơ, hoặc đổi lấy vải. Tơ

thường cuộn nhỏ bằng chiếc chén hoa hồng, mỗi noi tơ nặng khoảng 50 gam. Ba bốn chục

35

noi gọi là một lá, một dúm. Người mua tơ chỉ cần nhấc lên lắc lắc, nếu tơ khô thì có tiếng kêu

giòn tan, nếu tơ còn ẩm chỉ tiếng kêu đục. Trong làng dệt Phương La, có người chỉ ngửi qua

cũng biết được tơ mới, tơ cũ, hay tơ còn ẩm.

1.2.2.3. Công cụ dệt

Bộ công cụ của nghề dệt bao gồm khung cửi, dụng cụ đánh sa, đánh suốt để tạo

nên những con thoi; bàn mắc, bàn tráng, tạo nên những hoa cửi. Khung cửi cổ xưa của

làng Mẹo được gọi là khung con phượng (khung con cò), gồm nhiều bộ phận cấu

thành: phần khung, ông lão, go, bia, con cò và phần chân dận... Đây là loại khung dệt

chân đạp, tay nâng, có con thoi đưa qua đưa lại. Khung dài khoảng gần 3m, rộng từ

80cm-1m. Chiều cao (giường cửi cao nhất) khoảng 80cm. Khung dệt ở trên; go, sổ

dùng để đập sợi phía dưới (sợi được luồn trước). Những năm trước đây, cả làng chỉ có

khoảng 200 khung dệt cổ để dệt lụa, sau đó chuyển sang dệt vải, dệt màn...

1.2.2.4. Tổ chức sản xuất và phân công lao động

Xưa, việc tổ chức sản xuất của làng Phương La đều theo quy mô hộ gia đình,

tự sản, tự tiêu… Mỗi hộ gia đình là một cơ sở dệt, chủ động hoàn toàn mọi khâu từ

mua nguyên liệu, dệt đến tiêu thụ sản phẩm, tận dụng tối đa sức lao động, thời gian

rỗi của mọi người trong gia đình.

Trong các công đoạn, người nam giới chủ hộ, lo nguyên liệu, tiêu thụ sản

phẩm và chỉ đạo sản xuất. Dệt do người vợ đảm nhiệm. Bà già, con trẻ làm việc lặt

vặt: chuẩn bị sợi, đánh sa, tỉa tót phần dư thừa của sản phẩm.

Năm 1957-1958, người Phương La tổ chức sản xuất theo mô hình HTX tiểu thủ

công nghiệp. Từ năm 1960, các tổ hợp sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp ra đời. Năm

1980, làng nghề Phương La đã thành lập được ba tổ hợp sản xuất hàng dệt: dệt - nhuộm

Tân Phương của ông Trần Văn Sen, tổ hợp Sinh Lực của ông Đinh Hồng Quân và tổ

hợp thương bệnh binh của ông Đoàn Văn Hoàng và một số tổ hợp dệt nhỏ lẻ khác. Các

hộ gia đình làm nghề vẫn đóng vai trò là cơ sở sản xuất. Sau đó không lâu, xí nghiệp

dệt Rạng Đông nay là Công ty dệt nhuộm Bình Minh cùng hàng chục doanh nghiệp

khác đồng loạt ra đời. Hàng dệt của làng có mặt ở thị trường trong nước và ngoài nước.

36

1.2.2.5. Sản phẩm dệt

Trong xã hội truyền thống, làng Phương La chuyên sản xuất lụa tơ tằm và

vải khổ hẹp bằng khung cửi con cò. Sản phẩm của làng Mẹo xưa chủ yếu là lụa, vải

vuông, đũi, nái đen và các sản phẩm từ tơ tằm, sợi bông. Mặc dù số lượng dệt ra

không nhiều nhưng lụa của người làng Mẹo màu mỡ gà vàng óng, mát mượt, mịn

màng đẹp như ráng trời vàng mềm mại, đạt trình độ mỹ thuật và thẩm mỹ cao đã

hút hồn biết bao người. Những năm khó khăn 1959, 1960; người thợ đành phải

chuyển sang làm ruột bấc đèn dầu các loại, dệt thắt lưng, bện giải rút quần… để duy

trì nghề. Năm 1980, khi hình thành các tổ hợp sản xuất, sản phẩm dệt là các loại vải

thổ cẩm có hoa văn, vải bò, vải dệt khổ vuông đê-cô và lụa satanh bằng tơ hóa học, dệt

gia công theo đơn đặt hàng của nhà máy dệt Nam Định.

Mặc dù sản phẩm đã đạt trình độ thẩm mỹ cao nhưng người Phương La vẫn tiếp

tục phát triển nghề dệt bằng cách vừa làm nghề, vừa học nghề của thiên hạ. Tới những

năm 80 của thế kỷ XX, người làng vẫn đi Vạn Phúc Hà Đông, sang Hà Nam, Nam

Định để tìm hiểu và học kỹ thuật đóng khung cải tiến, cách dệt lụa của họ, làm cho sản

phẩm tinh xảo và đẹp hơn.

1.2.2.6. Việc tiêu thụ và thu nhập

Theo lưu truyền dân gian, trước đây, làng Mẹo không có chợ, dân làng muốn

mua bán phải sang chợ Then (làng Trác Dương) do làng này có nghề làm gốm phát

triển, nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa cao. Trần Hoằng Nghị muốn lập chợ trên

chính làng quê mình vừa để dân được thuận tiện mua bán, vừa để phát triển kinh tế.

Muốn có chợ phải "cướp" được chợ Then về, nhưng việc “cướp” chợ rất khó khăn

vì chợ Then tuy có quy mô nhỏ nhưng được đặt trên một vị trí thuận lợi, dân trong

vùng đã quen với việc đi chợ này. Tương truyền, để “cướp” được chợ, Trần Hoằng

Nghị đã nhận lời thách đố của dân làng Then, chỉ với một gánh trên vai mà phải

gánh được cả chợ (gồm lều chõng, mọi mặt hàng, từ rau, thịt, cá, gạo đến nồi niêu,

vải vóc…) về đặt tại làng Mẹo thì làng Then chịu mất chợ. Chẳng hiểu làm thế nào

mà Trần Hoằng Nghị đã chuyển tất cả những thứ đó từ chợ Then về làng mình chỉ

bằng một gánh. Thế là từ đấy làng Then không còn chợ, và làng Mẹo thì có chợ như

37

ngày nay. Thực ra, câu chuyện dân gian này ẩn đằng sau một thực tế: làng Mẹo có

kinh tế khá hơn nên đã thu hút được nhiều người đến mua bán, trao đổi dẫn đến việc

hình thành chợ. Có chợ, sản xuất nông nghiệp và nghề dệt lại càng phát triển, khu

Bến Trấn trở thành khu vực kinh tế phồn thịnh.

Xưa, chợ Mẹo họp tại đình làng, năm ngày một phiên, vào các ngày 5 và

9; chủ yếu bán các sản phẩm nông nghiệp, các đồ dùng phục vụ sinh hoạt, nghề

nông. Ngoài ra, loại sản phẩm không thể thiếu được của chợ đó là lụa, lụa bày

bán rất nhiều. Người dân nơi đây dùng khớp cột đình để đo độ rộng hẹp của lụa,

không chỉ thuần túy đo tỷ lệ mà còn có ý nghĩa về mặt tâm linh: là sự chứng

giám của thần linh trong việc mang sản phẩm ra bán, nếu làm thiếu, làm “điêu”

về chất lượng, sẽ bị thần trách phạt. Sản phẩm dệt của làng đã có mặt ở thị

trường nước ngoài vào những năm 1937 do ông Trần Văn Tuân thiết lập mối trao

đổi với thương gia người Nhật.

Ngoài buôn bán ở chợ làng, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, để trao

đổi được mặt hàng dệt, Phương La còn có nhiều người buôn bán đường dài, nổi

tiếng, như các ông Trần Văn Nghinh, Lê Văn Chính, Đỗ Văn Tỉnh, Đinh Bá

Nhân…. Những nhà buôn này hoạt động ở nhiều thương trường khác nhau: Hà Nội,

Nam Định… Nhiều người buôn bán phát đạt, trở nên giàu có, về tậu trâu, mua

ruộng đất, mua gỗ lim làm nhà; có người tranh được chức lý trưởng.

Để sinh tồn với nghề dệt đã vất vả nhưng khi buôn bán sản phẩm do mình

làm ra còn vất vả và nguy hiểm hơn, thậm chí nhiều khi công việc tiêu thụ sản phẩm

từ nơi này đến nơi khác, nhất là trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc, có người đã phải

đổ máu, thiệt mạng khi mang hàng dệt đến các tỉnh xa để tiêu thụ. Nhiều cụ già làng

Phương La còn nhớ mãi chuyện tiêu thụ hàng đầy nguy hiểm và khó khăn của

người làng trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Năm 1948, sau khi giặc Pháp

chiếm Thái Bình, khung cửi được người làng tháo ra, cho xuống ao giấu vì sợ bị

cháy khi bom đạn bắn vào làng, thời kỳ này có nhiều gia đình trong làng Phương La

tản cư vào vùng tự do ở Thanh Hóa. Họ tụ nhau lại, sống ở khu làng Vực, Đông

San, Hậu Hiền, Nam Ngạn v.v.. bên bờ sông Mã. Thấy trong vùng có nhiều người

38

bán tơ, sợi bông; người Phương La cùng nhau đóng khung, mua tơ dệt vải đem bán

ở các chợ Cầu Bố, chợ Thông, chợ Đông Sơn… Thấy hàng chạy, họ thông tin về

quê hương, người dân lại vớt khung cửi lên, mua tơ, sợi về dệt vải lụa. Đồn bốt giặc

giăng khắp nơi, nhưng người Phương La vốn thông minh, khôn khéo, không chịu bó

tay, khuất phục, họ len lỏi tìm đường tắt để vào Thanh Hóa. Lụa tơ tằm, vải đũi lại

được đóng thành từng bó, ban đêm người Phương La mang hàng vượt sông Hồng,

qua vùng đồng nước chiêm trũng Hà Nam Ninh, Cống Guờ, chợ Chanh huyện Lý

Nhân tỉnh Hà Nam. Đêm khuya, vượt đường 21 sang đất Gia Viễn, Nho Quan xuôi

vào Thanh Hóa. Đã có không ít người khi vượt đường chẳng may bị giặc phục kích

bắn bị thương. Có người bị giặc bắn chết, khi gục xuống hai tay vẫn còn ôm chặt bó

lụa vào lòng [Nguồn: Phỏng vấn của NCS, năm 2013].

Trước 1945, người ta đã định giá cho từng mặt hàng được sản xuất từ tơ tằm,

sợi bông của nghề dệt tỉnh Thái Bình nói chung và làng Phương La nói riêng: lụa

dệt từ tơ sống rộng 0,38m (quần phụ nữ) 50 vuông giá 4,7đ - 7,5đ; lụa dâu bốn (bốn

sợi) rộng 0,36m, 50 vuông, 3,7đ (dùng để dệt quần phụ nữ), lụa dâu sáu (loại lụa

sáu sợi) rộng 0,39m, 50 vuông, 6,70đ. Ngoài ra, người ta còn định giá các loại lụa

dệt từ thứ phẩm của kén vải tơ, đũi với nhiều mức khác nhau.

Đến khi vải làng Mẹo trở nên nổi tiếng, thương lái ở các nơi tìm về mua mang

đi và bán lại các sợi tơ, sợi bông cho làng. Phương thức này được duy trì cho tới tận

những năm 50 của thế kỷ XX.

Giai đoạn sau hòa bình, trong thời bao cấp, người làng nghề mỗi khi đem

hàng đi bán ở các chợ trong huyện, trong tỉnh hoặc ra tỉnh ngoài đều phải lén lút,

lẩn tránh thuế vụ, tài chính, nếu không may gặp họ thì không những bị tịch thu hàng

mà người bán còn bị phạt vì tội buôn gian, bán lận….

1.2.2.7. Truyền nghề và học nghề

Như bao làng nghề khác ở Việt Nam, do phải giữ bí quyết nghề nghiệp nên

qua nhiều thế kỷ, các nghề vẫn chỉ tồn tại ở một số làng nhất định mà không thể tỏa

sang các làng khác. Làng Mẹo cũng không phải ngoại lệ. Người làng Mẹo luôn tôn

39

trọng truyền thống giữ bí quyết nghề nghiệp và không tiết lộ trong bất cứ hoàn cảnh

nào, cho bất cứ đối tượng nào. Anh em cũng không tiết lộ cho nhau, vợ chồng cũng

không chia sẻ. Tổ tiên, cha mẹ không bao giờ truyền hết nghề cho một người con, mà

truyền cho mỗi người một công đoạn. Vì vậy, trong một gia đình người Phương La

xưa, anh cả chỉ biết nghề dệt, em trai chỉ biết phân sợi, có người chỉ biết đánh ống,

tẩy, nhuộm… Chính vì cách truyền nghề này mà người ngoài làng, ngoài họ không

thể học lén được nghề. Chi tiết minh chứng cho sự giữ gìn bí quyết nghề thể hiện,

nhiều lần đi tham quan hệ thống máy dệt, ông trưởng phòng Công thương của huyện

Hưng Hà từng chứng kiến, chỉ cần một thao tác nhỏ của người thợ dệt là cả hệ thống

máy dừng hoạt động mà ông cũng không thể phát hiện. Ngay cả một số làng sát cạnh

làng Phương La như Xuân La, cùng thờ chung thành hoàng là Trang Nghị Đại vương

mà cũng không có nghề dệt. Các làng trong vùng cũng chỉ biết chăn tằm, kéo tơ, đem

đến thuê người làng Phương La dệt vải, dệt lụa hoặc bán tơ cho họ. Đến sau ngày hòa

bình lập lại (1954), việc truyền nghề vẫn đóng khung trong phạm vi gia đình. Điều

này được thể hiện trong bản tục lệ xã Phương La, đó là khuyến khích con gái lấy

chồng người làng, con gái lấy chồng làng khác thu thêm một quan tiền cheo. Như

vậy, nghề dệt làng Phương La truyền nghề theo kiểu “cha truyền con nối”, truyền

nghề trực tiếp trên khung dệt, cầm tay chỉ việc, bắt chước lẫn nhau nên người thợ chỉ

biết làm theo thói quen, làm từng công đoạn…, tạo nên tính thụ động. Đa số, chỉ

truyền nghề cho con trai, chủ yếu là để giữ nghề, duy trì, phát triển nghề truyền

thống, giữ bí quyết nghề còn có mục đích chi phối quan hệ nội tộc.

40

1.2.3. Văn hóa làng Phương La trong xã hội truyền thống

1.2.3.1. Văn hóa vật chất

Không gian, cảnh quan làng

Làng cổ truyền người Việt xưa có cấu trúc rất đặc biệt và đa dạng, bao chứa

trong đó là những tổ chức nhỏ như dòng họ, phe giáp… Trong cộng đồng làng đó có

sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong làng. Vì vậy, làng là một cộng đồng bền

chặt, tự trị, khép kín, được bao bọc bởi lũy tre làng.

Làng Phương La cũng nằm trong cái chung ấy. Người Phương La sống,

dựng nhà quây quần, tụ cư bên nhau theo địa vực. Tuy nhiên, mỗi gia đình ở một

ngôi nhà riêng, trên khoảnh đất riêng rộng rãi, xung quanh cũng được bao bọc bởi

bờ tre hoặc hàng rào. Anh em, họ hàng thường chọn ở cạnh nhau còn “tối lửa, tắt

đèn có nhau”. Làm nhà là một trong ba việc trọng đại của đời người (tậu trâu, cưới

vợ, làm nhà), nên việc chọn đất, chọn hướng để làm nhà được người Phương La

rất quan tâm. Vị trí nhà thường phụ thuộc vào địa vị xã hội, dòng họ và phụ thuộc

vào khả năng kinh tế của mỗi gia đình theo. Tuy nhiên, hướng nhà được người

Phương La chọn làm là hướng đông nam, tây nam và nam “Lấy vợ đàn bà, làm

nhà hướng nam”. Hầu hết những người chính cư đều chọn vị trí trung tâm của

làng để làm nhà, nơi thuận lợi cho việc gặp gỡ, trao đổi. Kiến trúc chung của các

gia đình bao giờ cũng có cổng dậu, đường vào nhà, trước cửa có giàn hoa và sân

nhà, đằng sau là vườn trồng rau và cây ăn quả. Nhiều nhà có ao thả bèo phục vụ

chăn nuôi. Chuồng lợn, chuồng gà, khu vệ sinh làm ở phía sau nhà hoặc phía trái

nhà, khuất sau đống rạ, đống rơm. Nhà thường được làm quay về hướng Nam, bếp

được dựng riêng không liền nhà. Nhiều gia đình còn có giếng nước đặt tại vị trí

khoảng cách giao nhau giữa nhà và bếp. Người Thái Bình nói chung, người làng

Phương La nói riêng làm nhà mái chảy. Nhà nghèo thì làm nhà tranh vách đất, nhà

khá giả được làm bằng gỗ, mái lợp ngói, xây bằng gạch… Nhà lớn thì năm gian,

thông thường là ba gian, nhà nào cũng có buồng ở bên cạnh để dành cho đàn bà,

phụ nữ ngủ hoặc để chứa đồ dùng, vật dụng quý,… Nhìn chung, nhà được thiết kế

đơn giản, vật liệu chủ yếu tre, nứa, gỗ, đất.

Xưa, để vào được làng Phương La phải qua con đường dài mấy cây số, hai bên

là cánh đồng lúa bát ngát. Làng hiện lên thấp thoáng trong những lùm cây um tùm.

Không gian của làng thoáng đãng với hệ thống đường làng, ngõ xóm dài ngoằn

ngoèo; vườn cây, ao chuôm rộng rãi, xanh mướt um tùm. Môi trường sống trong

lành, tạo cảm giác thư thái, thanh bình. Với lối kiến trúc cùng với điều kiện kinh tế và

sự nhận thức của người Phương La nên làng khép kín, có phần “biệt lập” với “thế

giới” bên ngoài.

41

42

Các di tích tín ngưỡng, tôn giáo

Làng Phương La có đủ cả đình, chùa, miếu, nhà thờ họ… và trong các di tích

tín ngưỡng, tôn giáo còn nhiều cổ vật quý. Nổi bật trong các di tích ấy của làng là

Đình Đông, chùa Ứng Mão, các nhà thờ dòng họ Lê, họ Trần…

- Đình Đông thờ vọng Lục vị thành hoàng: Đồng Loan, Đông Cương, Thiên

Quan, Lôi Công, Sơn Du, Thiên Quân là những người có công phát triển đồng điền,

nghề dệt ở Phương La xưa; có công giúp nhà Trần dẹp loạn, lập nên vương triều

mới. Đình được xây dựng đã từ xa xưa và được trùng tu vào năm Thành Thái thứ 2

(1890), trên một khuôn viên rộng thoáng. Đây là ngôi đình lớn của làng Phương La,

có quần thể tắc môn (bình phong) đẹp, tòa bái Đình 5 gian, 2 tòa tả vu, hữu vu (mỗi

tòa 3 gian), tòa hậu cung 3 gian. Trong đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật như

câu đối, hoành phi, cuốn thư, sắc phong là những tư liệu quý liên quan đến đời sống

tâm linh của dân làng. Bên trái đình có bia “Truy tự bi ký” được tạo dựng năm Tự

Đức thứ 15 (1862).

- Các đền, miếu: các vị thành hoàng được thờ chính ở các miếu nằm rải rác

trong làng. Đó là các miếu Sơn Du tôn thần, Thiên Quan tôn thần, Thiên Quan trấn

độ tôn thần, Đông Cương tôn thần, Lôi Công tôn thần và Đồng Loan tôn thần. Các

miếu này cũng đã có từ rất lâu và đến nay không còn nữa, bị phá hủy từ những năm

kháng chiến chống Pháp.

Miếu Gốc Đa, Ngoài các miếu, đền thờ thành hoàng còn có Miếu Gốc Đa

hay còn gọi là đền Nhà Ông - tương truyền đây là phần mộ của Trần Hoằng Nghị.

Trong miếu hiện còn bài vị có nội dung “Phụng đại vương thượng đẳng phúc thần

Trần Hoằng Nghị đồng tứ vị phu nhân”.

- Chùa Ứng Mão có tên Nôm là chùa Mẹo, ở giữa làng; nay thuộc thôn

Phương La 4. Chùa có cấu trúc chữ “Nhất”, gồm 5 gian 2 dĩ, hướng Tây. Phía ngoài

là nhà tổ và nhà mẫu có hướng đối diện với Phật điện.

Trong chùa có một quả chuông cổ Tân tạo hồng chung Ứng Mão tự ký (ghi

chép về việc đúc mới quả chuông lớn của chùa Ứng Mão, đúc xong vào ngày Tốt,

tháng Giêng, năm Chính Hòa thứ chín - tháng 2/ 1688). Bài Minh cho biết, ngày 16

tháng Chạp năm Bính Dần niên hiệu Chính Hòa (29- 01 - 1687), dân làng đồng

thanh đúc mới quả chuông. Chuông ghi rõ số tiền công đức của dân làng cùng

khách thập phương, tổng là 37 quan.

Phía trước gác chuông của chùa còn có tấm bia “Thạch kiều bi ký” được làm

bằng đá xanh, có chiều cao 110cm, rộng 58cm, dày 10cm.

- Các nhà thờ dòng họ

+ Nhà thờ dòng họ Trần gồm một ngôi nhà tổ (từ đường) và một căn nhà lưu

niệm. Từ đường là một gian nhà cổ. Mặt trước của từ đường là cửa chính có bốn

cánh cửa gỗ - vốn đây là “chuôi vồ” của đền thờ tổ chuyển về. Mái từ đường có

hình tháp 3 tầng, trên nóc là đôi rồng chầu mặt nguyệt, phía dưới có ba chữ Hán

dịch nghĩa “Phúc khánh Đường”.

+ Từ đường họ Lê được xây dựng cách đây khoảng 400 năm.

+ Họ Đinh có một nhà thờ cổ thờ Bà Cô. Tương truyền, “bà” chết lúc mới

lên tám tuổi. Về sau, có một người thuộc hàng cháu trong họ đi buôn tơ tằm ở Nam

Định. Trong một lần đi buôn, người cháu khấn Bà Cô “nếu Bà giúp cháu làm ăn

phát đạt sẽ về xây nhà thờ Bà”. Ngay sau đó, khi nhận tơ từ chủ buôn, ông kiểm lại,

thấy người chủ đã phát thừa cho ông một xe tơ. Với tính thật thà, ông mang số tơ

thừa trả cho chủ buôn. Cảm động trước tấm lòng của ông, người chủ hết lòng giúp

đỡ ông và công việc làm ăn của ông dần phát đạt. Nhớ đến lời cầu Bà Cô khi trước,

ông trở về quê, xây nhà thờ Bà Cô tổ (gọi là đền Bà Cô). Nhờ có kinh tế, ông ra

tranh chức chánh tổng - và ông chính là cụ Đinh Bá Lục, vào khoảng năm 1925,

1926, là người giàu nhất làng Mẹo, ruộng có hàng chục mẫu.

1.2.3.2. Văn hóa xã hội của làng Phương La

43

Cơ cấu tổ chức

Cơ cấu tổ chức của làng Phương La trước Cách mạng tháng Tám 1945 về cơ

bản đều theo mô hình của làng Việt vùng châu thổ Bắc Bộ, gồm một hệ thống các

thỉết chế dựa theo các hình thức tập hợp người - như phân định của Nhà Dân học

Trần Từ trong cuốn sách “Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ”: dòng

họ; xóm ngõ; giáp; kỳ mục và chức dịch, phường hội.

- Dòng họ: trước 1994, làng Phương La có 10 dòng họ là Trần, Nguyễn, Đào,

Phạm, Lê, Vũ, Đặng, Đỗ, Đoàn, Đinh. Về sau, có thêm dòng họ Ninh tới sinh sống.

Theo các bậc cao niên, họ Trần về lập ấp ở Phương La sớm nhất và là dòng

họ có nhiều chi, số đinh đông nhất, chiếm tới 33% dân số trong làng. Đây cũng là

dòng họ có công khai khẩn vùng đất này. Họ Trần sống rải rác ở cả bốn xóm nhưng

tập trung nhiều nhất ở xóm Vượt và xóm Đống. Dòng họ Trần, họ Nguyễn, họ Lê là

những dòng họ lớn và có điều kiện kinh tế khá giả hơn các dòng họ khác ở Phương

La. Đặc biệt họ Trần rất có thế lực về kinh tế cũng như vị thế đối với làng xã, thể

hiện ở nhiều khía cạnh: sự quyên góp, tâm đức vào tu bổ các di tích đình, đền, chùa

miếu kể cả về số lượng vật chất cũng như số đinh tham gia; hoạt động xã hội, từ

thiện của các dòng họ này lớn, mạnh hơn hẳn các dòng họ khác, được làng xã ghi

nhận. Trong việc cúng tiến để đúc chuông chùa Mẹo, số người họ Trần chiếm tới

32% trong tổng số người của cả bốn thôn, tương ứng với 10 lần số người họ Đinh,

họ Vũ và gấp nhiều lần số thành viên của các dòng họ còn lại cộng lại.

- Xóm, làng Phương La có bốn xóm, xóm Vượt là xóm có đình, có chợ, ở

trung tâm làng; xóm Đống; xóm Điếm và xóm Cầu Tiên. Xóm là nơi cư trú của các

gia đình thuộc các dòng họ khác nhau. Tuy nhiên, nhiều trường hợp, một số dòng

họ tập trung đông đúc tại một xóm, như họ Trần, họ Vũ tập trung ở xóm Vượt và

xóm Đống; họ Đinh tập trung ở xóm Điếm và xóm Đống; họ Đỗ tập trung ở xóm

Cầu Tiên. Trừ xóm Đống, các xóm còn lại mỗi xóm có một điếm thờ thần linh bản thổ

và là nơi tuần phiên tập hợp đi tuần phòng vào buổi tối.

Trong cải cách ruộng đất, các xóm được đổi tên mang tính chất cách mạng, xóm

Vượt được đổi thành “Cộng Hòa”, xóm Đống đổi thành “Thống Nhất”; xóm Điếm đổi

thành “Dân Chủ”; xóm Cầu Tiên đổi thành “Quang Trung”.

Thời kỳ hợp tác hóa, các xóm là cơ sở để thành lập các HTX nông nghiệp

bậc thấp. Đến khi thành lập HTX toàn xã, các xóm trở thành các đội sản xuất. Khi

44

HTX suy giảm vai trò trong tổ chức sản xuất, các đội sản xuất chuyển thành thôn,

theo Quyết định của UBND tỉnh Thái Bình. Các thôn Cộng Hòa, Thống Nhất, Dân

Chủ, Quang Trung lần lượt được gọi thành thôn Phương La 1, 2, 3 và Phương La 4.

Mỗi thôn có chi bộ, trưởng thôn, phó thôn kiêm công an viên, ban công tác mặt trận

và các chi hội đoàn thể quần chúng.

- Giáp là thiết chế giữ vai trò quan trọng nhất đối với mọi mặt đời sống của làng,

là mắt xích quan trọng nhất trong cơ cấu tổ chức làng xã Việt Nam xưa.

Tuy nhiên, một điều khó khăn đối với chúng tôi khi nghiên cứu về giáp ở

làng Phương La là các bậc cao niên am hiểu về thiết chế này không còn, một số cụ

chúng tôi có dịp tiếp xúc chỉ đưa ra một vài thông tin sơ bộ; trong khi đó, các văn

bia, chuông khánh không để lại tư liệu nào đáng kể. Chỉ có cuốn thư tại đình

Phương La đã có cách đây khoảng 100 năm, trên cuốn thư có đề cập tới việc cuốn

thư này do bốn giáp của làng cúng tiến. Và cũng theo cuốn thư ở nhà thờ từ đường

họ Trần thì giáp ở Phương La là tập hợp các thành viên thuộc dòng họ vì trên cuốn

thư có ghi rõ: “Giáp Trần đình Đông bái tiến” vào năm Ất Sửu (1926). Trong đình

Đông có tấm biển gỗ khắc một bài tán do các vị ở giáp Vũ, Nguyễn, Trần, Đào cùng

tiến cúng năm Giáp Dần (1914). Theo các bậc cao niên thì xưa kia, bốn thôn của

làng gồm có tám giáp. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định giáp của làng Phương

La được tập hợp theo dòng họ, nhưng cũng có thể còn phụ thuộc vào cả số đinh

trong giáp cùng với địa vực sống của các họ (nếu dòng họ nào đông đinh thì có thể

sẽ chia thành nhiều giáp theo khu vực sinh sống) vì thế mới có“Giáp Trần đình Đông”

(theo cụ Lê Quang Hoa, sinh năm 1929, riêng họ Trần đã có bốn giáp).

Cũng như ở các làng quê Việt vùng châu thổ Bắc Bộ, giáp của làng Phương

La cũng được vận hành theo nguyên tắc các lớp tuổi. Theo tuổi tác, mỗi trai đinh

phải lần lượt gánh vác các nghĩa vụ với giáp, với làng mà quan trọng nhất là làm

lềnh (những người đã qua tuổi tráng đinh nhưng chưa đến tuổi lên lão). Nếu giáp

đông trai đinh, tuổi đến lượt gánh lềnh sẽ nặng và cả đời người thường chỉ một lần

gánh; ngược lại nếu giáp ít đinh, tuổi còn trẻ đã phải đảm nhận nghĩa vụ này, có

45

trường hợp một đời người phải hai lần làm lềnh. Người đến tuổi lềnh phải nuôi

(cũng có thể mua ở chợ) một con lợn to (còn gọi là ông ỷ). Lợn lềnh được đo vòng

cổ bằng thép, con nào có số đo lớn nhất được nhận giải thưởng của làng. Các cụ kể

lại, có một năm, cụ Trần Đình Đoái mua con lợn lềnh to đến mức, con lợn đứng,

người ngồi bên đây không nhìn thấy bên kia và cái răng nanh của lợn cũng rất dài.

Răng ấy được cắm vào đầu gậy để đi mời làng và còn được giữ làm kỷ niệm mãi

đến sau này. Lợn đem ra tế ở đình phải được mổ, lấy lá mỡ phủ lên toàn thân lợn tới

tận gáy rồi mới rước ra đình trong cảnh tưng bừng trống khua, chèo mở. Tế lễ

xong, lợn được xả ra, chia cho dân làng, sỏ để lại bổ ra chia cho những người có

chức sắc. Ông trùm được phần tai, mũi; Hương trưởng, Phần thu được cẳng giò;

còn lại cho Xã bán [Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2013)].

- Hội đồng kỳ mục là cơ quan quản lý làng, quyết định công việc của làng,

như: chia và đấu thầu ruộng đất công, bán ngôi thứ… Cơ cấu thành viên của hội

đồng này ở Phương La theo mô hình chung của làng Việt ở Bắc Bộ.

Một thời gian dài, làng Phương La là một khối thống nhất. Về sau, do mâu

thuẫn trong sinh hoạt đình trung, làng phân thành hai khu, lấy đình Đông làm trung

tâm: phía Đông Đình và phía Tây Đình. Mỗi khu là một “thôn”, có bộ máy điều

hành như một hội đồng kỳ mục với các chức danh của nó. Đây là hiện tượng chia

tách làng không phổ biến trên vùng châu thổ Bắc Bộ.

- Bộ máy chức dịch: trước Cách mạng Tháng Tám 1945, làng Phương La

cũng là một xã, có một bộ máy chức dịch thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, thu

thuế, điều động binh dịch cho nhà nước phong kiến. Những người được gọi là lý

dịch gồm lý trưởng, dưới là một phó lý. Ngoài ra, còn có các chức danh giúp việc

là: hương trưởng, hương lão, hộ lại, chưởng bạ,...

- Phường hội: xưa, Phương La cũng có các tổ chức phường hội: hội Tư văn

của những người có học, có chức; hội Tư võ của những người đi lính; hội Lão nhiêu

của những người 60 tuổi trở lên v.v; ngoài ra, còn có các phường nghề, phường tiền

nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn.

46

47

Hệ thống ngôi thứ trong đình

Hệ thống ngôi thứ đình làng là một trong những khía cạnh nổi bật nhất của

quan hệ xã hội ở làng xã thời phong kiến. Xã Hương La xưa (Phương La nay) cũng

quy định các thứ hạng để căn cứ vào thứ hạng mà hưởng bổng lộc và thực hiện chức

trách. Các thứ hạng nhất, nhì, ba, tư…phụ thuộc vào bằng cấp (học vị), phẩm hàm,

chức tước và tuổi tác. Theo các bậc cao niên, đình trung thứ hạng của làng xưa, cơ

bản như các làng Việt Bắc Bộ.

Ngoài ngôi thứ dành cho những người có tiêu chuẩn về bằng cấp (học vị),

phẩm hàm, chức tước và tuổi tác, làng Mẹo còn có các ngôi thứ dành cho những

người bỏ tiền ra mua như lý trưởng, phó lý, chùm, giám sự… Những người bỏ tiền

mua chức nhằm mục đích để cố được cái danh trước dân làng và không phải đi phu

phen, tạp dịch, tuần phong. Những chức mua này, ra làng cũng được chia các phần biếu:

Trùm được chia đầu gà (hoặc má lợn); Lý trưởng được cẳng giò, phẩm oản; Giám sự

được chia miếng bụng (miếng nây) lợn.

1.2.3.3. Văn hóa tinh thần của làng Phương La

Việc cưới và việc tang

- Việc cưới: ngày trước, con cái trong nhà đến tuổi lấy vợ, lấy chồng đều do

bố mẹ sắp đặt. Các bậc cha mẹ, ngay sau khi sinh con đã có ý định con cái mình sau

này lớn lên sẽ lấy ai, rồi tự lượng sức mình, sắp đặt, thường thì cho con lấy ngay

người trong làng: "Trâu ta ăn cỏ đồng ta", "con bá con dì tù tì lấy nhau" với kiểu

kết hợp "gái hơn hai, trai hơn một"; hoặc bạn bè hứa gả cho nhau. Xưa, việc cưới

quy định lệ nộp cheo và quy định rõ con gái lấy chồng nộp tiền cheo, rượu, trầu cau;

con cả bao nhiêu; con thứ bao nhiêu. Người con gái của làng Phương La không

được đi lấy chồng nơi khác vì sợ truyền nghề cho dân làng đó, chỉ có con trai được

lấy người ngoài làng. Con rể chưa cưới phải sêu Tết bố mẹ vợ tương lai vào mùng

năm tháng Năm, gồm một con ngỗng cùng năm cân đỗ xanh; dạm ngõ phải có một

gà trống và năm đấu gạo nếp (mỗi đấu tương ứng tám lạng).

Lễ xin cưới: gồm một xâu thịt từ 01 đến 02kg, nhà trai nói chuyện xin cưới

và đề nghị nhà gái thách cưới. Việc thách cưới của nhà gái còn tuỳ xem nhà trai có

lo được mới thách. Nếu nhà trai nghèo thì tùy lo thế nào cũng được, có khi thách

cưới chỉ đủ để nộp 7 đồng tiền cheo cho làng. Có đám thách cao quá, nhà trai bỏ

cuộc, nhà gái nhận lễ rồi mà bỏ thì phải trả lại lễ.

Dẫn lễ: trước hôm cưới một vài ngày, nhà trai đội lễ đến nhà gái gọi là dẫn

lễ. Thông qua việc dẫn lễ, mới rõ vai vế giàu nghèo trong làng; nhà giàu dẫn lễ bằng

quần áo, vòng xuyến, hoa tai, nhẫn, rượu 10 chai, tiền 3 chục, cau hàng nghìn quả.

Nhà nghèo chỉ tính lễ rồi cấn bằng tiền. Có đám nhà trai chưa nộp đủ lễ thách cưới,

nhà gái chỉ mời xơi nước rồi bỏ xuống bếp chứ không phá lễ. Mà lễ chưa phá là việc

chưa được chấp nhận thì không thể cưới được. Vì vậy, nhà trai phải về chạy cho đủ, có khi

phải gá ruộng và bán các thứ mới đủ dẫn lễ.

Lễ cưới: Nhà trai tổ chức cưới cho con, họ hàng đến mừng rượu, chè... Nhà

gái gả chồng cho con, họ hàng không mừng vật chất mà đưa dâu đến nhà trai để ăn

cỗ. Lệ xưa, ở Phương La, nhà giàu cưới con, tổ chức ăn uống linh đình. Nhà gái dù

nghèo nhưng vẫn thách cưới, yêu cầu nhà trai phải chuẩn bị 09 lễ. Lễ từ đường phải

là thủ lợn, các lễ khác được căn cứ theo đời mà chuẩn bị: “nhị đời thì to, tam đời thì

nhỏ hơn…” - “gần thì kết tràng hoa; xa thì chân giò, cẳng lợn; gần nữa thì cỗ

soạn”. Nhà gái nghèo không lo được cỗ thì xin nhà trai năm mâm cỗ soạn để mời

họ hàng, năm mâm cỗ này được nhà trai đội đến nhà gái vào ban đêm và nhà gái

cũng phải tổ chức ăn đêm. Cỗ soạn gồm hai đĩa thịt luộc, hai đĩa thịt xào, một đĩa

lòng, một bát su hào nấu với xương băm. Thông thường, lễ rước dâu được tổ chức

ban ngày; nếu nhà trai nghèo thì lễ rước lại phải tổ chức vào ban đêm. Ngày trước

thường cưới đêm, nhà gái đưa dâu xong về đến nhà, trời vẫn chưa sáng. Lễ cưới của

người dân làng Phương La vô cùng rườm rà, phức tạp, đủ mọi nghi thức, từ lễ xe

duyên, lễ mai mối, lễ dạm ngõ, lễ cưới, lại mặt, nộp cheo, thách cưới…

- Việc tang (việc hiếu): các phong tục tập quán của làng Phương La được ghi

chép trong bản “Tục lệ xã Phương La” lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Văn

48

bản được lập vào ngày 22 tháng Năm năm Tự Đức thứ 34 (1881), gồm 19 Điều,

trong đó có 13 Điều liên quan đến việc hiếu:

Việc hiếu quy định từ việc báo tang, làm nhà tạm đến việc bắc rạp, hộ tang

của họ tộc, của giáp, lệ biếu giáp và mời đãi những người hộ tang, lễ tế thổ thần; tế

yên vị; các tiết 100 ngày, rằm tháng bảy, giỗ đầu và giỗ mãn tang.

Theo các bậc cao niên, đám tang nhà bình dân; bố mẹ hoặc người nhà chết

phải có lễ đòn song trình hàng giáp đến khiêng. Nếu gia chủ túng thiếu quá thì được

nợ lại đến mùa mới phải trả. Nhà giàu thường tổ chức ăn uống linh đình ba ngày.

Những đô tùy phải qua một lần thử thách: để một chồng tiền xu trên nắp quan tài,

hoặc để chén nước trên đồng tiền, nếu đi không đổ sẽ được tham gia khiêng cữu và

được thưởng tiền. Linh cữu của người mất được đặt dọc gian nhà. Đưa người mất ra

đồng vào buổi sáng, những nhà bình dân thì không chọn giờ đưa. Người mất có thông

gia thì thông gia đến viếng, lễ là một cơi trầu, nắm hương hoặc đối trướng. Trước

đây, khi đào huyệt thì có thầy đi cắm hướng đất, rồi gia chủ mới cho người đào.

Các lễ tiết và hội làng

49

- Các lễ tiết trong năm của làng Phương La xưa, về cơ bản vẫn giống như ở

bao làng quê khác vùng châu thổ Bắc Bộ, gồm:

+ Lễ tiết lớn nhất trong năm là Tết Nguyên Đán, còn gọi là Tết Cả;

+ Lễ tế vào ngày 4 tháng Tư tại đình làng - là ngày hóa của các vị thần;

+ Lễ hợp kỵ: Trong nội dung của văn bia Truy tự bi ký tại đình Phương La

đề cập tới việc dân làng tổ chức lễ hợp kỵ, nghĩa là tiến hành tế lễ làm giỗ các vị

hậu có công đức giúp làng vào cùng một ngày [111, tr.175];

+ Lễ Thượng nguyên (Rằm tháng Giêng) diễn ra ở đình, chùa làng;

+ Lễ Khai hạ - mồng 1 tháng Tư (lễ cầu phúc trừ dịch bệnh);

+ Lễ rước: xưa kia tổ chức lễ rước các vị thần vào ngày 30 Tết;

+ Ngày Tết thanh minh: dân làng Phương La còn gọi là ngày dọn họ;

+ Tết Đoan Ngọ (mồng 5 tháng Năm);

+ Rằm tháng Bảy, còn gọi là “xá tội vong nhân”;

+ Rằm tháng Tám, Tết Trung thu có tục đón trăng phá cỗ…

+ Tết ông Công hay ngày tiễn đưa Táo quân về trời 23 tháng Chạp.

Bảng 1.3: Các lễ tiết chính trong năm của làng Phƣơng La xƣa

TT Lễ tiết

Ngày, tháng Nơi tổ chức

1 Tết Nguyên Đán

1,2, 3/Giêng Đình làng (đình Đông)

2 Rằm tháng Giêng

15/Giêng

Đình, chùa và các gia đình

3 Lễ tế

4/Giêng

Đình

4 Ngày thượng điền

1/ Hai

Đình

5 Lễ Khai hạ hay

1/Tư

Đình

6 Ngày hạ điền

4/Năm

Đình

7 Hội làng

20-25/Mười Đình

8 Lễ rước

30 Tết

Đình

[Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS].

- Hội làng, hội tại đình làng Phương La xưa kia được tổ chức từ ngày 20 đến

ngày 25 tháng mười. Lễ hội với nhiều diễn xướng dân gian, trong đó có mô thức mô

phỏng tục truyền nghề ươm tơ dệt lụa.

+ Phần lễ là các nghi thức thiêng liêng gồm: tế - lễ - rước, bày tỏ sự tôn vinh,

thành kính của cộng đồng với các vị thần thánh được thờ. Ngoài ra, phần lễ còn mô

tả công đức của các vị thần thánh. Hoạt động tế gồm: đọc văn tế, dâng hương hoa,

dâng rượu, múa kiếm, hát văn có dàn nhạc bát âm - kim tiền hòa theo người hát.

Phần lễ nghiêm trang, thành kính hướng tâm linh con người về cõi siêu nhiên để ghi

lòng tạc dạ công đức của người xưa nhằm giữ trọn đạo nghĩa. Theo các tài liệu thu

thập được ở làng Phương La, lễ tế trong hội làng vào ngày 20 đến ngày 23 tháng 10

hằng năm và được tổ chức rất long trọng. Một đoàn tế gồm 20 đến 25 người, khi

vào làm lễ chính thức chỉ có 12 người. Chủ tế đi hài, mặc quần trắng, áo xanh, đội

mũ xanh, có hai bồi tế đứng hai bên chủ tế. Trong bồi tế có một người là họa xướng,

một người là thông xướng. Hai vị này phối hợp chỉ huy việc hành lễ.

50

+ Phần hội là phần vui chơi, giải trí đua tài của những người tham gia lễ hội.

Thông qua các trò chơi dân gian mô phỏng lại những công việc của người dân trồng

lúa nước, việc đánh bắt cá, truyền nghề, đánh giặc và thi thố tài năng trên các lĩnh

vực của đời sống. Trong lễ hội còn tổ chức thi chọi gà, thi đấu gậy. Tại đình

Phương La, thi tài quay tơ, dệt vải.

51

Tiểu kết

Trên cơ sở kế thừa lý luận của các học giả đi trước, Luận án đã phân tích và

làm rõ thêm các khái niệm làng nghề, văn hóa làng nghề và biến đổi văn hóa làng

nghề. Luận án xác định, làng nghề là các làng có phần đông cư dân sống bằng một

nghề hoặc nhiều nghề thủ công, có khi chỉ là một công đoạn của nghề, tạo ra các

sản phẩm mang những nét riêng, thời gian làm nghề và thu nhập của nghề chiếm tỷ

lệ lớn nhất so với các hoạt động kinh tế khác; hoạt động làm nghề có ảnh hưởng lớn

đến các mặt khác của làng (kiến trúc làng xóm, nhà cửa, nhịp sống, phong tục tập

quán...). Văn hóa làng nghề mà Luận án đề cập, không đơn thuần là số cộng giữa

văn hóa làng và văn hóa nghề, mà là một dạng đặc thù, là một phức thể các yếu tố

văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng nghề, giữa nghề và

làng, giữa con người và các yếu tố ngoài con người, có quan hệ mật thiết, ràng buộc

và tác động vào nhau..

Văn hóa làng nghề cũng như văn hóa làng, được cấu thành bởi văn hóa vật

chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng; các yếu tố đó có quan hệ mật

thiết, ràng buộc và phụ thuộc nhau, trong đó nghề giữ vị trí trung tâm. Ngoài các

yếu tố chung của văn hóa làng, văn hóa làng nghề có một số yếu tố đặc thù, như

nhịp sống làng nghề, tâm lý và tính cách của người làng nghề… Song, văn hóa làng

nghề là một chỉnh thể thống nhất, không thể phân chia. Việc phân chia một cách cơ

học các thành tố trên nhằm giúp chúng tôi nghiên cứu sâu hơn về sự vận động, biến

đổi của văn hóa làng nghề.

Phương La là một làng cổ được hình thành và phát triển vào cuối triều Lý,

gắn với công lao khai ấp, mở làng, truyền cho dân nghề dệt của Trần Hoằng Nghị.

Ngoài họ Trần, còn các dòng họ Nguyễn, Đào, Phạm, Lê, Vũ, Đặng, Đỗ, Đoàn,

Đinh cùng chung lưng đấu cật để gây dựng và phát triển làng. Về sau, có thêm họ

Bùi và họ Ninh.

Xưa, Phương La nổi tiếng là vùng đất trù mật, với sản xuất nông nghiệp và

nghề thủ công rất phát triển. Sản phẩm lụa của làng nổi tiếng khắp vùng, là sản

phẩm tiến vua và đối ngoại khi bang giao với các nước làng giềng. Chợ và nghề dệt

của làng Mẹo trong quá khứ là điểm khởi nguồn cho sự phát triển kinh tế của làng

Phương La ngày nay. Người Phương La dựng nhà đơn giản, vật liệu chủ yếu là tre,

nứa, gỗ. Họ sống tụ cư bên nhau, với lối sống thư thái, thanh bình, không bon chen.

Phương La là một làng cổ mà ở đó còn lưu giữ được cả một quần thể di tích, công

trình lịch sử văn hóa như Đình Đông, chùa Ứng Mão… Hội làng Phương La xưa có

nhiều hoạt động phong phú, nơi tái hiện các nghi thức của cư dân lúa nước… Tóm

lại, có một văn hóa làng nghề Phương La trên nền cảnh chung của văn hóa làng Việt

ở châu thổ Bắc Bộ.

52

53

Chƣơng 2

NGHỀ DỆT VÀ VĂN HÓA VẬT CHẤT

CỦA LÀNG PHƢƠNG LA HIỆN NAY

2.1. Nghề dệt của làng Phƣơng La hiện nay

Đối với các làng nghề, văn hóa mưu sinh thể hiện rõ nhất ở các khía cạnh

liên quan đến làm nghề. Trong quá trình làm nghề, bên cạnh việc đầu tư kỹ thuật,

người làng nghề luôn tính toán để làm sao đầu tư cho sản xuất ít mà lại thu lợi

nhuận cao nhất, trong đó, việc tìm ra một sản phẩm còn bị thị trường “bỏ ngỏ” là rất

quan trọng.

Người Phương La cũng vậy. Quá trình làm nghề hàng mấy trăm năm đã

khiến người Phương La tốn biết bao công sức, trăn trở, tìm tòi và suy ngẫm, cải

tiến, nâng cấp công cụ, tổ chức lại sản xuất, tìm ra các sản phẩm “đứng được”

với thị trường. Có những lúc tưởng chừng đã “đổ bể”, song với lòng quyết tâm,

người thợ Phương La lại gượng dậy, vượt lên. Chỉ tính từ sau hòa bình lập lại

đến nay, trước tác động của các chính sách, của cơ chế quản lý kinh tế - xã hội,

người Phương La đã sáu lần cải tiến công cụ, thay đổi nguyên vật liệu, đổi mới

tổ chức sản xuất, thay đổi loại hình và mẫu mã sản phẩm, để cuối cùng phát hiện

một sản phẩm lại là mặt hàng phổ thông (khăn tắm, khăn mặt, khăn ăn, khăn

lau), hầu như ai cũng có nhu cầu sử dụng; Nhà nước lại chưa quan tâm đến… Từ

giữa những năm 90, sản phẩm khăn “đứng được” trên các loại thị trường, dệt

khăn làng Phương La ngày càng được mở rộng, mang lại nguồn thu lớn cho

người dân nơi đây. Người Phương La là điển hình cho sự nhanh nhạy với thị

trường. Đây cũng là biểu hiện cho sự thích ứng nhanh nhạy và hợp lý với sự

chuyển biến của thời cuộc, tìm ra những cơ hội để mưu sinh trong làm nghề của

người Phương La. Những thăng trầm, biến đổi của nghề dệt ở Phương La được

khái quát ở Bảng 2.1.

Bảng 2.1: Các giai đoạn biến đổi của nghề dệt làng Phƣơng La

Những biến đổi chính của nghề dệt

Công cụ

Nguyên liệu

Sản phẩm

Tiêu thụ

Tổ chức sản xuất

Thời điểm thay đổi 1957- 1972

Sợi bông, tơ tằm

Hộ gia đình

Khung con phượng, tay giữ 3 tầng

Thị trường tự do - chủ yếu là chợ làng

1973- 1975

Sợi bông, sợi cói

Hộ gia đình

Thị trường tự do

Tơ hóa học Hộ

1976- 1985

Vải diềm bâu, màn muỗi, lụa tơ tằm, vải khổ hẹp Các loại vải sợi tiết kiệm; dệt chiếu Vải màn, màn chống muỗi

gia đình, Tổ hợp

Khung con phượng thủ công Máy dệt đạp chân (khung con phượng cải tiến)

1986- 1989

Máy dệt đạp chân

Sợi bông, tơ tằm

Theo đơn đặt hàng của Nhà máy dệt Nam Định và thị trườngtựdo Theo đơn đặt hàng và thị trường tự do

Hộ gia đình, Tổ hợp

1990- 1995

Thị trường tự do

Máy dệt đạp chân, khung dệt cải tiến lắp mô tơ điện

Sợi bông tự nhiên, sợi bông nhân tạo

1996- 2014

Sợi bông tự nhiên, bông nhân tạo

Vải vuông đê- cô lụa tơ tằm, satanh, diềm bâu,vải màn, vải thổ cẩm, khăn mặt trơn Khăn mặt trơn và khăn mặt có cải hoa văn Khăn mặt, khăn ăn, khăn tắm các loại

Thị trường trong nước và quốc tế

Khung dệt cải tiến, bán hiệnđại; máy dệtcôngnghiệp; máy hiện đại

Hộ gia đình, Tổ hợp Công ty, Xí nghiệp Hộ gia đình, Tổ hợp Công ty, xí nghiệp

[Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS (năm 2013)].

54

2.1.1. Việc sử dụng và thu mua nguyên liệu dệt

Ngay từ xưa, người Phương La đã biết tạo ra nghề phụ để có thêm thu nhập

lúc nông nhàn, trang trải cho cuộc sống. Do sản xuất chưa phát triển, nhu cầu

nguyên liệu chưa nhiều nên các hộ sản xuất tự lo, tự đi tìm; chưa hình thành thị

trường cung cấp nguyên liệu đầu vào, nguyên liệu bấp bênh, giá thành lúc cao, khi

lại thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến nghề; đồng thời, làm cho người thợ thụ động, phụ

thuộc “có thì làm, không có thì chơi‟‟.

Ngày nay, với sự năng động, sáng tạo, tư duy kinh tế nhanh, người Phương

La đã đổi mới nguyên liệu sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường. Nguyên liệu nay rất

phong phú và đa dạng, không chỉ là tơ tằm mà chủ yếu lại là sợi bông rất thông dụng,

có thể được mua từ Nam Định, Hải Phòng, các tỉnh phía Nam hoặc nhập khẩu từ Trung

Quốc. Bông được lấy từ quả của những cây bông tự nhiên nhưng cũng có thể là

bông nhân tạo- nguyên liệu này nhẹ, xốp.

Nguyên liệu còn nhập tại các nhà máy sợi Đại Cường, Nam Long, Đam San,

Đông Phong… đều ở khu công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh, thành phố Thái Bình. Các

loại sợi này bao gồm sợi pha ni lông và sợi côtông. Sử dụng sợi pha ni lông hay sợi

côtông phụ thuộc vào nhiều yếu tố, có thể do yêu cầu của nơi đặt hàng, cũng có thể

do giá thành sản phẩm quy định. Sợi côttông mát vào mùa hè, ấm áp vào mùa đông

nên giá thường cao hơn.

Kinh tế thị trường nên các chủ công ty, xí nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc

chọn mua nguyên liệu đầu cho cơ sở sản xuất của mình.

Hộp 2.1.: Ý kiến về nguyên liệu đầu vào của công ty, doanh nghiệp

Ông Trần Văn Dũng - Giám đốc công ty TNHH Thảo nguyên: “Bây giờ

sướng lắm, nguyên liệu tha hồ mà chọn lựa, cơ sở nào làm ăn nghiêm túc là chúng

tôi lấy, mà hầu hết đã là bạn hàng thì họ đều làm ăn nghiêm túc cả. Có tiền thì thanh

toán ngay, nếu không trả sau cũng được. Còn nguyên liệu cân đong đo đếm thì khỏi

phải lo, chúng tôi làm trực tiếp với giám đốc công ty mà, hợp đồng lấy lâu dài”.

[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].

Các hộ sản xuất nhỏ, đa phần mua lại sợi từ những người buôn, là đại lý bán sợi

tại làng nên rất thuận lợi, không phải lo đi chạy nguyên liệu như ngày xưa. Như vậy,

xuất hiện dịch vụ nguyên liệu đáp ứng cho những hộ gia đình sản xuất ít nằm tại làng.

55

Thực tế tại hai xã nghề Minh Tân, Nam Cao, chúng tôi được biết, ở đây vẫn

chưa có thị trường nguyên liệu tại làng, xã; hầu hết các hộ chủ yếu dệt thuê cho vài

doanh nghiệp và các doanh nghiệp đa số đi lấy sợi về chứ ít khi hợp đồng với các

nhà máy sợi để họ mang về vì số lượng lấy không nhiều.

Hộp 2.2: Ý kiến về nguyên liệu đầu vào của các hộ sản xuất nhỏ

Ông Nguyễn Văn Thắng, hộ gia đình dệt gia công: “Ngoài mấy chục công ty,

doanh nghiệp, còn lại đa phần là các gia đình dệt gia công cho các công ty để họ xuất

khẩu ra nước ngoài (Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật…) nên nguyên liệu do chủ cung cấp.

Cả làng bây giờ chỉ còn khoảng 20 hộ, trong đó có gia đình tôi là tự nhập nguyên

liệu, tự dệt và tiêu thụ sản phẩm. Nguyên liệu chúng tôi mua ngay tại đại lý ở làng,

thuận lợi lắm, loại nào cũng có”.

[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].

Như vậy, đã hình thành một thị trường nguyên liệu cung cấp sợi cho Phương

La không chỉ ở ngay tại làng mà còn tồn tại ở các địa phương khác, vùng khác theo

các hợp đồng có tính pháp lý, ổn định, bền vững. Người Phương La giờ đây không

phải lo nguyên liệu đầu vào, giá thành nguyên liệu, mà họ có quyền chọn lựa

nguyên liệu, giá thành, chủ cung cấp uy tín để mua.

56

2.1.2. Về công cụ dệt

Do quan niệm là nghề phụ, làm thêm lúc nông nhàn nên công cụ dệt của làng Mẹo

xưa rất đơn giản, người thợ phải sử dụng sức mạnh của cơ bắp, năng suất lao động

lại thấp. Hầu như người dân ít quan tâm đến việc cải tiến công cụ, bao nhiêu năm

dụng cụ dệt vẫn là khung con phượng (còn gọi là khung con cò).

Ngày nay, quan niệm nghề dệt là nghề chính mang lại nguồn thu nhập cao,

nên người Phương La quan tâm đổi mới, cải tiến công cụ dệt. Họ đi các nơi Vạn

Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà Nội), Nam Định... học tập để về cải tiến công

cụ dệt của làng mình. Vì vậy, dụng cụ dệt của làng Phương La, qua các giai đoạn

đều được cải tiến, từ khung thủ công con phượng sang loại khung dệt cải tiến, rồi

khung dệt bán hiện đại (máy dệt bán tự động), sau đó là máy dệt công nghiệp và cao

hơn là máy dệt hiện đại.

Nhờ vậy, người thợ dệt đã giải phóng được sức lao động, không phải đạp

chân, đưa thoi như trước mà năng suất dệt tăng gấp nhiều lần. Máy dệt cải tiến chạy

điện có thể chạy 2 - 3 ca mỗi ngày, sản phẩm làm ra đẹp hơn và dệt được cả hoa

văn trên khăn mặt, khăn tắm… theo yêu cầu của khách hàng.

Với máy dệt, người thợ chỉ còn công việc chủ yếu là nối sợi khi bị đứt. Việc

nối sợi lúc máy đang chạy đòi hỏi phải nhanh, chính xác, dứt khoát. Phát hiện ra sợi

đứt, nối nhanh hay chậm là yếu tố quyết định tới năng suất, chất lượng sản phẩm. Vì

thế, người công nhân càng phải có tác phong công nghiệp.

Máy dệt công nghiệp, quá trình dệt hoàn toàn tự động sau khi người thợ mắc

quả sợi bông lên giá của máy, khởi động máy. Máy tự động rút sợi và dệt thành

khăn. Máy công nghiệp cho năng suất lao động cao hơn rất nhiều lần so với máy thủ

công trước đây và máy bán tự động hiện nay. Sản phẩm làm ra đẹp, mịn, phẳng, đáp

ứng nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Bình quân, một máy dệt công nghiệp cho giá

trị thu nhập từ 12 - 15 triệu đồng một tháng; máy dệt cải tiến cho thu nhập bình quân từ

4 -5 triệu đồng một tháng (đó là người chủ sở hữu máy của cá nhân mình và nhận hàng

về làm). Để đóng một máy cải tiến, trung bình mất 20 triệu đồng. Guồng mắc sợi cải

tiến có giá từ 15 - 20 triệu đồng. Một máy dệt công nghiệp có giá 220 triệu đồng trở

lên. Cuối năm 2014, một doanh nghiệp của làng đã nhập 30 máy dệt hiện đại, mỗi

máy giá 3 tỷ đồng” [Nguồn: Kết quả phỏng vấn của NCS].

Không chỉ phát triển nghề dệt ở làng Phương La, các doanh nghiệp còn chủ

động vận động hàng nghìn hộ dân ở các thôn, xã trong huyện tổ chức đóng khung

dệt gia công cho doanh nghiệp, tổ hợp của mình; đồng thời, xây dựng các xí nghiệp,

công ty dệt ở các địa phương trong tỉnh và thành phố Thái Bình. Tính đến năm

2013, toàn huyện Hưng Hà có 5376 khung dệt cải tiến và máy dệt công nghiệp,

ngay tại xã Thái Phương đã có tới 2842 máy dệt cải tiến và 42 máy dệt công nghiệp.

Riêng làng Phương La đã có 2069 máy dệt được loại khăn có khổ rộng từ 80cm -

1,2m để xuất khẩu [Nguồn: UBND xã Thái Phương]. Trong khi đó, cả xã nghề dệt

khăn Minh Tân cũng chỉ có trên 1.000 máy dệt.

57

Như vậy, nhờ sự sáng tạo, liên tục cải tiến công cụ sản xuất mà người Phương La

chuyển từ lao động chân tay, cơ bắp là chính sang lao động công nghiệp, chủ yếu do máy

móc, giải phóng được cơ bắp. Tuy nhiên, máy dệt công nghiệp đòi hỏi người lao động

phải nhanh, kịp thời, tập trung cao độ để xử lý, giải quyết các vấn đề diễn ra (nối sợi khi

bị đứt, vận hành để máy móc làm việc liên tục…). Điều đó giúp người thợ cũng được

chuyển biến từ tư duy, tác phong “đủng đỉnh, chậm chạp, mùa vụ” sang tư duy “chủ

động, kịp thời, công nghiệp”.

58

2.1.3. Về tổ chức sản xuất

Ngày xưa, do quan niệm "tự cung, tự cấp", làm ra sản phẩm thủ công chủ

yếu để tiêu dùng trong gia đình, thừa mới mang đi trao đổi. Sản phẩm làm ra ít, có

mang bán thì lãi cũng rất thấp. Vì vậy, việc tổ chức sản xuất của người làng Mẹo

đều theo quy mô hộ gia đình. Mỗi hộ là một cơ sở dệt, chủ động hoàn toàn mọi

khâu từ mua nguyên liệu, dệt, đến tiêu thụ sản phẩm; huy động tối đa sức lao động,

thời gian nhàn rỗi của các thành viên trong gia đình.

Từ năm 1986, cơ chế thị trường đã hình thành các hình thức sở hữu, phương

thức quản lý mới để thích ứng với quá trình hội nhập và phát triển. Đặc biệt, nhờ sự

thích ứng, năng động, dám nghĩ… của người Phương La nên họ đã nhanh chóng đổi

mới hình thức tổ chức sản xuất. Với quan niệm, hình thức sản xuất hộ gia đình khó

có thể giúp họ vươn lên làm giàu, muốn trở thành các ông chủ, ngoài đổi mới công

cụ sản xuất phải đổi mới cả trong tổ chức sản xuất để góp phần nâng cao năng xuất

lao động, giảm giá thành sản phẩm, thu lại lợi nhận cao. Vì thế, các hình thức sản

xuất mới nhanh chóng ra đời ở làng nghề Phương La. Cho đến nay, hình thức tổ

chức sản xuất của làng bao gồm:

1/Sản xuất theo hộ gia đình;

2/Sản xuất theo tổ hợp;

3/Sản xuất theo công ty, xí nghiệp và đã hình thành các khu công nghiệp

tập trung.

- Tổ chức sản xuất hộ gia đình: hình thức tổ chức sản xuất hộ gia đình trước kia

quy mô nhỏ không còn phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, bộc lộ không ít những

nhược điểm, do vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh ít, lực lượng lao động nhỏ lẻ,

không đảm bảo được với những đơn đặt hàng lớn; việc cải tiến kỹ thuật không kịp thời,

khó đáp ứng kỹ thuật cao. Mặc dầu vậy, hình thức sản xuất theo hộ gia đình vẫn có những

ưu điểm như chủ động về nhân công, thời gian làm nghề, về vốn, mặt bằng sản xuất…. Vì

vậy, sản xuất theo hộ gia đình vẫn vận hành tốt và phát triển song hành cùng các hình thức

tổ chức sản xuất khác.

Mô hình sản xuất này khép kín từ khâu nhập nguyên liệu đến dệt sản phẩm

và tự tiêu thụ sản phẩm, không lệ thuộc vào bất cứ một tổ chức sản xuất nào; chủ

yếu các hộ gia đình dệt vệ tinh cho các công ty, các cơ sở sản xuất; cách thức sản

xuất này được thể hiện bằng Mô hình 2.2:

Mô hình 2.2: Mô hình sản xuất theo hộ gia đình

Hộ gia đình tự sản xuất, tiêu thụ

Lao động gia đình

Lao động làm thuê

[Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS (năm 2013)].

Theo khảo sát của chúng tôi, xã Minh Tân nằm sát làng Phương La được

công nhận là xã nghề năm 2002, tổ chức sản xuất hiện nay chủ yếu theo hình thức

sản xuất hộ gia đình (hầu hết các hộ dân ở đây đều dệt vệ tinh cho các cơ sở của

làng Phương La). Gia đình nhiều có 5-6 máy dệt, gia đình ít thì một máy.

Mặc dù năng suất lao động thấp, thu nhập không cao nhưng mô hình sản xuất

hộ gia đình vẫn sẽ còn tồn tại lâu dài bởi những ưu thế của nó. Chính mô hình này

giữ lại cho làng nghề ít nhiều nhịp sống mùa vụ truyền thống, lối ứng xử “nặng về cái

59

tình‟‟, mái nhà đa thế hệ, những bữa cơm đông đủ gia đình... đó là những nét văn hóa

đậm tính truyền thống góp phần tạo nên sự đa dạng văn hóa của các làng nghề đang

trên đường đổi mới dưới tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa.

- Hình thức sản xuất theo tổ hợp: để nghề tồn tại và phát triển, từ tổ hợp dệt

trong những năm đầu hòa bình (1954 - 1955) chủ yếu là những người yêu nghề,

quyết giữ nghề truyền thống, đến năm 1976, HTX thủ công nghiệp của làng Phương

La được thành lập dựa trên cơ sở tập thể hóa tư liệu sản xuất, mỗi người thợ dệt là một

xã viên. HTX thực chất là hình thức phân phối theo lao động, không động viên được người

lao động, kìm hãm sức lao động, sáng tạo của người thợ thủ công, nên ngày công không

cao, thu nhập thấp. Chính vì vậy, năm 1980, hình thức tổ hợp sản xuất ở Phương La ra

đời, đầu tiên là tổ hợp dệt nhuộm Tân Phương được thành lập. Theo số liệu của phòng

Công thương huyện Hưng Hà, năm 1980, Phương La đã có ba tổ hợp sản xuất được

thành lập, nhiều hộ sản xuất cá thể. Đây là sự liên kết hỗ trợ nhau giữa các hộ gia đình

về vốn, kỹ thuật, nguyên liệu, quá trình sản xuất. Không lâu, xí nghiệp dệt Rạng Đông

cùng hàng chục doanh nghiệp dệt của làng Phương La đồng loạt ra đời.

Hình thức sản xuất theo tổ hợp đã tạo sự gắn bó, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa

những người cùng làm nghề trong làng xã; duy trì mối đoàn kết, tính cộng đồng bền

chặt - một trong những truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt.

Theo khảo sát của chúng tôi, hiện nay, hình thức sản xuất theo tổ hợp không tồn

tại ở hai xã nghề dệt đũi Nam Cao và dệt khăn Minh Tân, đa số, ở đây sản xuất theo hộ

gia đình.

- Sản xuất theo công ty, xí nghiệp: do nhu cầu sản xuất phát triển, lượng sản

phẩm tiêu thụ lớn, mô hình sản xuất theo tổ hợp đến lúc không còn đáp ứng nên mô

hình sản xuất công ty, xí nghiệp ra đời. Hình thức này thu hút nhiều lao động, sản

phẩm làm ra kịp thời đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, mang lại nguồn lợi lớn cho các

chủ công ty, xí nghiệp. Vì thế, các công ty, xí nghiệp ở Phương La nhanh chóng

hình thành. Đến nay, làng có 50 doanh nghiệp đang hoạt động, vốn điều lệ của mỗi

doanh nghiệp trên dưới 10 tỷ đồng và chủ yếu sản xuất mặt hàng khăn mặt xuất

khẩu sang các nước như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ… doanh thu hằng năm

hàng trăm tỷ đồng. Có 25 doanh nghiệp nằm tập trung trong cụm công nghiệp tại

60

làng, 20 doanh nghiệp nằm trong cụm công nghiệp Phúc Khánh (thị trấn Hưng Hà)

và khoảng chục doanh nghiệp ở thành phố Thái Bình, hàng chục doanh nghiệp nằm

ở khắp cả nước, còn nhiều doanh nghiệp nhỏ vẫn đang sản xuất sôi động tại làng.

Làm việc với Bí thư Đảng ủy xã nghề Minh Tân, chúng tôi được biết, nghề

dệt ở đây tồn tại từ lâu, tuy nhiên, cả xã giờ cũng mới chỉ có ba doanh nghiệp nhỏ,

còn lại chủ yếu là dệt thuê cho Phương La.

Các công ty, xí nghiệp thuê nhân công là người các làng kề cận Phương La

hoặc các làng xã khác trong huyện. Công nhân làm việc 10 giờ/ngày và theo hình

thức khoán sản phẩm. Các công ty giao nguyên liệu cho trưởng nhóm, số nguyên

liệu này sẽ được quy đổi thành sản phẩm, trưởng nhóm giao lại cho từng hộ gia đình

hay cá nhân. Mô hình này giúp các chủ doanh nghiệp vươn lên làm chủ bản thân

trong mọi điều kiện, buộc họ phải lao vào thị trường nghiên cứu các quy luật kinh

tế, nâng cao trình độ... Đây là điểm mấu chốt để làng Phương La có nhiều người

thuộc giới “tinh hoa‟‟ mà chúng tôi sẽ trình bày ở Chương 3 của Luận án.

Mô hình 2.3: Mô hình tổ chức sản xuất theo công ty, xí nghiệp

Công ty

Gia đình dệt vệ tinh (trong và ngoài xã)

Lao động làm thuê (lực lượng chính)

Lao động gia đình (lao động thêm)

[Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS (năm 2013)].

- Sự hình thành các khu công nghiệp tập trung

Nguyên liệu để dệt ở Phương La chủ yếu là sợi bông, vải rất cồng kềnh, chiếm

nhiều diện tích và dễ gây cháy, việc tẩy nhuộm gây ô nhiễm môi trường …

61

Chính vì vậy, nhu cầu cấp thiết phải có khu công nghiệp tập trung tạo điều kiện cho

các hộ gia đình và các cơ sở sản xuất yên tâm, ổn định sản xuất. Khu công nghiệp tập

trung của Phương La ra đời đáp ứng nhu cầu đó của người dân.

Ban đầu, do một số cơ sở quá “bí‟‟ về chỗ đặt máy móc, nơi tập kết nguyên liệu,

sản phẩm nên đã tự phát di chuyển ra vùng đất sản xuất nông nghiệp của gia đình hay

người nhà; cứ như vậy, số người làm tiếp theo tăng lên. Bên cạnh đó, nhiều cơ sở sản xuất

đã cùng nhau đề nghị chính quyền địa phương tạo điều kiện để họ mở rộng cơ sở sản xuất,

tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân.

Trước điều kiện nghề dệt ngày một phát triển mạnh, số các công ty, doanh nghiệp

ngày một tăng, đòi hỏi về quy mô sản xuất ngày một lớn, các cấp chính quyền ở huyện

Hưng Hà và xã Thái Phương đã quyết định xây dựng cụm công nghiệp tập trung tại

Phương La và một số địa điểm khác của huyện Hưng Hà, như cụm công nghiệp Phúc

Khánh, cụm công nghiệp Đồng Tu...

Các cấp chính chính quyền khuyến khích các cơ sở sản xuất vào khu công nghiệp

vì có rất nhiều cái lợi: giúp người dân đỡ phải sống trong môi trường ngột ngạt, ô nhiễm;

đường làng, ngõ xóm đỡ ách tắc.... ; các cơ quan chức trách dễ quản lý, điều hành và phát

hiện, xử lý các sai phạm trong quá trình sản xuất.

Tuy nhiên, không phải cơ sở sản xuất nào cũng “vào” được cụm công nghiệp, bởi

phải có lượng vốn nhất định, phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của khu công nghiệp,

thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về tài chính, cơ sở vật chất như đóng thuế, phí bảo vệ môi

trường, quy định về an toàn lao động... Đặc biệt, việc phải phân chia lực lượng lao động

vừa ở cơ sở tại nhà, vừa ở khu công nghiệp cũng gây khó khăn cho công tác quản lý của

các chủ sản xuất. Nếu sản xuất ở khuôn viên tại gia đình, chủ cơ sở và người nhà còn tranh

thủ vừa quản lý, đôn đốc công nhân vẫn làm được các công việc khác của gia đình như

chăm con, nhắc nhở việc học hành, tranh thủ tiếp khách, không phải đi lại, rất tiện lợi...

Hơn nữa, ra khu tập trung, công việc giao dịch, mua bán đôi khi khó tránh khỏi sự nhòm

ngó, tò mò của hàng xóm, sợ lộ bí mật trong các công đoạn sản xuất của cơ sở mình.

Nghề dệt ở Phương La phát triển đã lấn át nghề nông. Đến nay, chỉ còn 7 - 8% số

lao động ở làng không làm nghề dệt. Đó là những người không có sức lao động, hoặc là

62

cán bộ xã; một số người kinh doanh hay làm dịch vụ. Vào những năm trước 2000, còn

một số gia đình làm nông nghiệp và nhận lại ruộng của các gia đình khác để làm rồi nộp

thuế. Sau năm 2000, nghề dệt phát triển mạnh không còn ai ở làng nhận thêm ruộng để

trồng cấy, ruộng của làng chủ yếu thuê người làng khác đến cấy và thường bị cấy sau các

làng khác vì cấy xong làng mình, họ mới đi cấy thuê cho Phương La. Hiện nay, ruộng ở

Phương La hầu như người dân cho các làng phụ cận cấy trồng thuê hoặc bỏ hoang. Ông

Bùi Văn Hà - Phó Chủ tịch UBND xã Thái Phương cho biết, “dân bỏ hoang ruộng

nhiều lắm, chúng tôi chưa có cách nào để giải quyết hiệu quả vấn đề này’’. Đồng ruộng

bây giờ không còn quan trọng với người dân nữa vì nó không mang lại thu nhập cao.

Khác với các xã nghề Minh Tân và Nam Cao, thu nhập từ nghề chưa nhiều nên hai xã

này, người dân vẫn sản xuất nông nghiệp, ruộng không bị bỏ hoang và thu nhập từ nông

nghiệp vẫn duy trì được phần cơ bản đời sống của người dân.

Có thể nói, nghề dệt phát triển, đã tạo ra bước thay đổi quan trọng và căn bản

đối với cơ cấu kinh tế của làng Phương La theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và

dịch vụ. Sản xuất công nghiệp, dịch vụ chiếm ưu thế; nông nghiệp không còn giữ vai

trò chủ đạo nữa (theo báo cáo của UBND xã Thái Phương, năm 2013, tổng giá trị

thu nhập công nghiệp và xây dựng của làng Phương La đạt 179,443 tỷ đồng, tăng

12% so với năm 2012). Đây là điểm khác biệt căn bản so với kết cấu kinh tế truyền

thống. Nền công nghiệp truyền thống trong các làng xã được P. Gourou nhận xét nền

công nghiệp rất vừa tầm với họ, một nền công nghiệp nhỏ bé, lãng phí nhân công và

không có máy móc, với những phương tiện vô cùng đơn giản và đôi khi có một kỹ

thuật rất tinh tế; một nền công nghiệp không hợp lý và phân bố không lô gíc, nhưng

trung thành với truyền thống; một nền công nghiệp trong đó hiện lại chủ nghĩa biệt lập

của làng xã; một nền công nghiệp ít có lãi, chỉ có thể giúp người nông dân đủ nuôi sống

họ khỏi chết đói mà thôi. Tóm lại, đó là một nền công nghiệp nông dân, mang hai tính

chất cơ bản là nhân công gia đình và công nghiệp nhân công, vì tất cả những người thợ

thủ công trước hết và trên hết đều là nông dân, họ sẽ chỉ canh tác nông nghiệp nếu

ruộng đất của họ có đủ; nông dân còn ở chỗ, nó chỉ được tiến hành trong làng xã, ở

ngay trong gia đình [39, tr. 406].

63

Sự ra đời của các công ty, doanh nhiệp, đội ngũ giám đốc, các chủ cơ sở sản

xuất cùng với việc hình thành cụm công nghiệp tập trung, trang bị máy móc hiện

đại, đã tạo đà để các lao động thủ công thoát ly khỏi sản xuất nông nghiệp, gắn với

sản xuất công nghiệp. Đặc biệt, từ sau Đại hội VI (năm 1986), chủ trương của Đảng

và Nhà nước ta là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã

là động lực để các công ty, xí nghiệp vươn lên đi tắt, đón đầu khoa học công nghệ,

chuyên môn hóa quá trình sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, đem lại thu nhập

cao cho người nông dân. Nó đã phá vỡ nền sản xuất nhỏ, manh mún, truyền thống;

hình thành nền sản xuất hàng hóa, có sự cạnh tranh quyết liệt.

Sự hình thành cụm công nghiệp tập trung tại làng đã góp phần bảo đảm công ăn

việc làm trực tiếp, tức thì cho một bộ phận lớn cư dân nông nghiệp hiện nay đang

chịu sức ép rất lớn của sự mất đất nông nghiệp (đất bị thu hồi vào quy họach đô thị,

giao thông) và sự gia tăng dân số góp phần ổn định chính trị ở nông thôn, ngăn

ngừa tệ nạn xã hội. Mỗi ngày một làng nghề có thể giải quyết việc cho hàng ngàn

lao động. Một số nông dân làm thuê đã được học nghề để trực tiếp làm ra sản phẩm.

Một số khác làm phần ruộng của các hộ trong làng hoặc các việc khác như vận

chuyển, nội trợ và tạp vụ tạo tiền đề cho lực lượng công nhân công nghiệp trong

giai đoạn mới. Nó còn góp phần đào tạo ra một đội ngũ thợ thủ công - công nhân

tiền công nghiệp, bổ sung cho lao động công nghiệp sau này.

Cụm công nghiệp tập trung ở Phương La góp phần giúp các cơ sở sản xuất

tăng cường các thiết bị máy móc hiện đại, tạo ra được một lượng sản phẩm đáp ứng

nhu cầu tiêu dùng trong nước, thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài; tạo ra cơ

sở kinh tế dồi dào để bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống của các làng nghề; từ

đó góp phần vào bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa làng nói chung, văn hoá làng

nghề nói riêng làm cho văn hoá trở thành mục tiêu, động lực của công cuộc xây

dựng xã hội mới. Làng dệt Phương La, xã nghề Thái Phương xác định nghề là một

mục tiêu trọng yếu của chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Nghề,

hộ nghề ở đây đã trở thành nguồn sống chính của người dân. Theo ông Bùi Văn Hà:

“Việc xuất khẩu sản phẩm của làng Phương La đã đem lại thu nhập mỗi năm hàng

64

tỷ đồng cho các doanh nghiệp, các gia đình có máy dệt thu nhập không dưới

5.000.000đồng/máy/tháng/, công nhân dệt thuê mỗi tháng cũng thu nhập không

dưới 3.000.000 đồng”. Số điện tiêu thụ trong làng dệt Phương La và khu công

nghiệp của làng năm 2013 là 780.000 KWh, với số tiền nộp cho Công ty Điện lực là

108 tỷ đồng đã nói lên năng lực sản xuất của khu công nghiệp làng nghề Phương La

[Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS (2013)].

Đời sống nhân dân trong xã nói chung, các hộ làm nghề dệt không ngừng

được nâng cao. Sản phẩm làm ra được xuất khẩu mở rộng sang cả thị trường các

nước Nhật, Hàn Quốc, Đức,… Hiện tại, số lao động tham gia nghề dệt (bao gồm cả

may viền khăn, đóng gói,…), công nhân các doanh nghiệp, xí nghiệp và tổ hợp của

nghề dệt đã lên tới 78.000 người.

Tốc độ tăng trưởng của các cụm công nghiệp năm sau cao hơn năm trước, đã

phát huy được nội lực, thế mạnh của làng, xã, khơi nguồn thu hút nhân tài, vật lực,

áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, đổi mới trang thiết bị sản xuất,

thúc đẩy làng nghề phát triển mạnh.

Việc phát triển các cụm công nghiệp, phát triển nghề không chỉ làm kinh tế của

người dân giàu có lên mà thông qua đó, tư duy kinh tế của người Phương La thay đổi

từ tư duy “trọng nông”, lấy lương thực làm đầu, an toàn lương thực “thóc đầy bồ”,

cuộc sống “tự cung, tự cấp”, “an phận” sang tư duy “kinh tế hàng hóa, thị trường”,

phấn đấu trở thành “ông chủ”, đời sống “thượng lưu”. Đây chính là những yếu tố góp

phần tạo nên sự biến đổi của văn hóa; lối sống, nét tính cách của người Phương La.

Quy trình sản xuất mới với công nghệ hiện đại, năng suất, chất lượng cao đã mang

lại cho người dân đời sống sung túc; đồng thời góp phần giải phóng sức lao động của

người thợ, chuyển từ lao động cơ bắp sang lao động trí tuệ ; từ tư duy lao động chậm chạp,

đủng đỉnh sang lao động phải nhanh nhẹn, hoạt bát để kịp thời ứng xử với guồng dệt của

máy móc. Quy trình sản xuất biến đổi nhưng các công đoạn dệt thành phẩm vẫn đòi hỏi

kinh nghiệm, sự tỷ mỉ, cần cù, sáng tạo trong công việc của đội ngũ những người thợ tài

hoa. Vì vậy, con người làm nghề vẫn có đức tính cẩn thận, tỉ mẩn, cần cù và kiên nhẫn

nhưng lại phải nhanh nhẹn, hoạt bát hơn.

65

66

2.1.4. Về sản phẩm

Ngay từ năm 1990, người Phương La đã chuyển hướng chủ yếu dệt khăn các

loại cho thị trường trong nước và quốc tế. Đây là hướng đi rất đúng đắn, vì thế đã

giúp nghề và làng nghề Phương La ngày một phát triển vững mạnh. Sản phẩm của

làng Mẹo chủ yếu xuất sang các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… cũng như trên toàn lãnh

thổ Việt Nam, đâu cũng có sản phẩm của người làng Mẹo. Mặt hàng đặc trưng chủ yếu

nhất của làng Phương La là khăn mặt, khăn tắm, khăn ăn…với các kích cỡ khác

nhau: loại 60cm x 1,2m (loại lớn nhất), 40cm x 20cm, 4cm x 25cm, khăn vuông

30cm x 30cm. Có loại được in hoa văn, để trắng, tùy thuộc vào yêu cầu của nơi tiêu

thụ sản phẩm.

Tìm hiểu sản phẩm dệt của xã nghề Nam Cao, chúng tôi được biết, từ nhiều

năm nay, Nam Cao vẫn duy trì một mặt hàng truyền thống là vải đũi. Xã nghề Minh

Tân chủ yếu là dệt thuê cho làng Phương La nên sản phẩm phụ thuộc theo đơn đặt

hàng của các cơ sở sản xuất ở Phương La; vì vậy, sản phẩm dệt ở đây cũng chính là

khăn bông các loại.

Sản phẩm khăn của làng Phương La còn có những hoa văn trang trí khác

nhau, có loại được in hai chữ “hạnh phúc”, “song hỷ”, hoặc có loại chỉ làm hoa văn

viền xung quanh…, thể hiện sự đa dạng về mẫu mã sản phẩm. Chất liệu để dệt khăn

cũng có nhiều loại, mỗi loại có những ưu điểm khác nhau. Sản phẩm dệt từ sợi

côttông hay bông dễ hút nước, xốp, nhẹ, êm và mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Có

loại dệt sợi pha nilon, có ưu điểm nhanh khô, dễ giặt sạch, ít bị mốc… với kích cỡ

to nhỏ khác nhau tạo ra sự phong phú về chủng loại. Ngoài ra, kỹ thuật dệt, đường

nét, hoa văn, màu sắc… được chú trọng về tính thầm mỹ, do vậy sản phẩm ngày

càng đẹp hơn, tinh xảo hơn.

Mặc dù là sản xuất trên dây chuyền hiện đại, song mỗi sản phẩm làm ra đều

kết tinh trí tuệ, sự sáng tạo của người thợ nên nó mang tâm hồn, cốt cách riêng. Sản

phẩm chính là một giá trị văn hóa vật thể của làng nghề, dấu ấn văn hóa vẫn mang

đượm màu sắc văn hóa Việt.

Phương La được người dân trong nước và thế giới biết đến nhiều hơn nhờ

sản phẩm dệt của làng, như vậy kinh tế đã góp phần quảng bá giới thiệu các giá trị

về văn hóa làng nghề và ngược lại, các giá trị văn hóa đó góp phần thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, phát triển địa phương một cách bền vững.

67

2.1.5. Về hình thức tiêu thụ sản phẩm

Kinh tế thị trường mở ra, người sản xuất được tự do sản xuất, kinh doanh,

tiêu thụ... vì thế, sản phẩm của làng dệt Phương La không còn phải tiêu thụ nhỏ lẻ,

giấu diếm, lo chạy trốn thuế vụ như những năm trước đổi mới 1986. Những năm

80 - đầu 90 của thế kỷ XX, hàng vải các loại của làng dệt Phương La đã được

công ty mỹ nghệ xuất khẩu của tỉnh Thái Bình nhập để xuất sang Nga và các nước

Đông Âu.

Trải qua bao thăng trầm lịch sử, nghề dệt làng Phương La đã có nhiều

thay đổi, đổi mới công cụ sản xuất hiện đại, các loại hình sản phẩm cũng đa dạng

hơn. Các ông chủ của thời kỳ đổi mới phát huy trí tuệ, đẩy mạnh sản xuất, ký kết

hợp đồng với các tỉnh trong nước và các công ty nước ngoài để xuất khẩu hàng

khăn các loại - một mặt hàng đặc trưng hiện nay của làng nghề dệt Phương La.

Họ đã chủ động tự tìm đối tác nước ngoài để tiêu thụ sản phẩm với số lượng lớn.

Trước đây, nghề dệt trong nước xuất khẩu rất hạn chế, nhưng ngày nay với sự

nhanh nhạy, thông minh, các doanh nghiệp làng nghề Phương La đã có thể xuất

khẩu sang hàng chục nước ở châu Âu và châu Á. Khác với làng nghề Phương La,

việc tiêu thụ sản phẩm của xã nghề Nam Cao đa số tiêu thụ trong nước và xuất

khẩu số lượng không lớn sang thị trường các nước chưa phát triển như Lào,

Campuchia nên lợi nhuận không cao, thu nhập của người làm nghề thấp. Xã

nghề Minh Tân, chỉ có ba doanh nghiệp, còn lại các hộ chủ yếu dệt thuê cho

Phương La nên lại không phải lo đầu ra cho sản phẩm. Do vậy, thu nhập của

người dân cũng ổn định nhưng không cao.

Điểm khác biệt trong thu nhập của người thợ dệt thuê ở các doanh nghiệp

của làng nghề Phương La là cứ ba tháng người thợ mới nhận lương một lần. Tức là,

mỗi quý người công nhân mới nhận lương một lần, giúp người thợ tích lũy được

tiền để trang trải, lo toan những công việc lớn mà lại giảm được thời gian đi nhận

lương. Theo báo cáo của UBND xã Thái Phương, bình quân thu nhập tính theo đầu

người của làng dệt Phương La từ 26 triệu đồng/1người/năm vào năm 2014 (thực tế,

thu nhập của người làng Phương La cao hơn gấp nhiều lần).

Biến đổi về tiêu thụ sản phẩm và thu nhập của người Phương La giúp đời

sống nhân dân của làng, các hộ làm nghề dệt không ngừng được nâng cao. Sản

phẩm xuất khẩu mở rộng sang cả thị trường các nước Nhật, Hàn Quốc, Đức, Đài

Loan… Được tự do phát triển nghề, người Phương La không còn phải lo

bán ”chui‟‟, họ tăng cường quảng bá sản phẩm, mở rộng mối quan hệ giao lưu...

Điều này giúp người Phương La thông thạo, am hiểu thị trường, quyết đoán, giỏi

quan hệ,... Có điều kiện kinh tế, họ càng tăng cường được các mối quan hệ, khẳng

định mình, dễ giao dịch, tạo được niềm tin trong làm ăn “mạnh vì gạo, bạo vì tiền‟‟.

Bên cạnh đó, họ có điều kiện để quan tâm, tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện,

chăm lo đời sống tinh thần. Điều này, góp phần hình thành văn hóa tinh thần, lối

sống của người Phương La.

68

2.1.6. Về cách thức truyền nghề và học nghề

Xưa, việc giữ gìn bí quyết nghề và truyền nghề chủ yếu được bảo lưu trong

gia đình thì hiện nay phương thức truyền nghề đã “mở” hơn rất nhiều. Những bí

quyết nghề nghiệp của riêng từng hộ gia đình vẫn được giữ gìn để cạnh tranh lành

mạnh trên thương trường nhưng không còn quá khắt khe nữa. Trong gia đình, ai

muốn học nghề đều được truyền dạy không phân biệt nam, nữ, dâu rể để thạo việc

còn hướng dẫn, chỉ đạo thợ dệt thuê. Người đến dệt thuê, có lòng yêu nghề, tính cẩn

thận cũng được truyền dạy tận tình, chu đáo. Người Phương La truyền nghề để cạnh

tranh thợ có tay nghề cao để phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu sản phẩm đã ký

kết với các nơi tiêu thụ. Tuy nhiên, người Phương La truyền nghề chủ yếu cho

người đã ở tuổi trung niên, vì đây là lực lượng chính trong sản xuất và thực hiện các

công đoạn của nghề dệt. Đây cũng là đối tượng có đủ kinh nghiệm trong nghề, lại

có trách nhiệm với công việc; thể hiện bằng kết quả xử lý phiếu điều tra ở Bảng 2.4.

Bảng 2.4: Nhóm đối tƣợng đƣợc gia đình truyền nghề

Đơn vị tính: %

69

Nhóm đối tƣợng

Hiện nay

Trƣớc năm 1996

Lao động trẻ, thanh niên

5,7

18,6

Lao động là trung niên

58,7

35,5

Lao động là người già

0

2,2

[Nguồn: Kết quả xử lý số liệu phiếu điều tra (Phụ lục 7)].

Người làng nghề Phương La cũng như nhiều làng nghề cổ khác của Việt

Nam, ở thời phong kiến là sự giấu nghề, không truyền nghề cho người làng khác

hoặc có những bí quyết chỉ truyền trong gia đình chứ không truyền cho người trong

họ, trong làng. Chính vì vậy, hạn hẹp trong cách suy nghĩ với tâm lý sợ mất nghề đã

ảnh hưởng tới chất lượng và sự phát triển của nghề, của sản phẩm. Việc mua bán

tùy theo sự thỏa thuận đôi bên cũng hạn chế không ít tới sự phát triển của nghề dệt

và tính cạnh tranh trong làng nghề, nó kìm hãm không nhỏ tới giá trị thẩm mỹ, chất

lượng của mặt hàng dệt được làm ra.

Thời kỳ đổi mới, để tạo được mặt hàng khăn xuất khẩu với giá thành hợp lý,

mặt hàng đảm bảo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và ký được hợp đồng với khách hàng,

các doanh nghiệp của làng nghề có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhưng lành mạnh, bao

gồm cả cạnh tranh về lao động. Do vậy, các “ông chủ‟‟ còn tăng cường truyền dạy

nghề cho người lao động làm thuê.

Đối với người lao động, nếu cùng mặt hàng sản xuất mà được thanh toán tiền

lương sòng phẳng, trả công cao, việc làm luôn đảm bảo, họ sẵn sàng làm cho doanh

nghiệp, công ty đó hết tháng này sang tháng khác; nếu không, họ sẽ chuyển sang

làm chỗ khác. Đây chính là sự chuyển biến tâm lý và ý thức cơ bản của người lao

động ở làng nghề Phương La trong thời kỳ cơ chế kinh tế mới phát triển. Do ý thức

được về năng lực sản xuất, về trình độ tay nghề, về hiệu quả chất lượng mặt hàng

làm ra nên người lao động có quyền và tự do lựa chọn những công ty, doanh

nghiệp, tổ hợp nào đem lại nhiều lợi ích cho họ mà không bị ràng buộc và phụ

thuộc nhiều vào ông chủ.

70

2.2. Văn hóa vật chất của làng dệt Phƣơng La hiện nay

2.2.1. Không gian, cảnh quan làng

Sự phát triển của nghề dệt dẫn theo sự phát triển về kinh tế ở làng nghề

Phương La. Đây là làng nghề sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp khép kín tại các hộ

gia đình. Các doanh nghiệp, tổ hợp sản xuất lần lượt ra đời để phát triển nghề.

Người trong làng đã không ngần ngại lấp ao, san vườn làm nhà xưởng sản xuất. Các

công ty doanh nghiệp, tổ hợp thì tập trung tại cụm công nghiệp dệt của làng với

10,2 ha ruộng, ao, hồ được san lấp. Mặt bằng các nhà xưởng sản xuất tăng lên đã

làm cho lượng cây xanh trong làng và ngoài đường làng ít đi, không gian công cộng

cũng bị thu hẹp (thể hiện ở Bảng 2.5).

Bảng 2.5: Đánh giá về một số khía cạnh của làng nghề hiện nay so với trƣớc 1996

Đơn vị tính: %

Khía cạnh đánh giá

Mức độ

Về cây xanh

Nhiều hơn

Tỷ lệ 0,0

Không thay đổi

15,8

Ít hơn

84,62

Khó đánh giá

0,0

Về không gian công cộng

Nhiều hơn

0,0

Không thay đổi

92,31

Ít hơn

7,69

Khó đánh giá

0,0

[Nguồn: Tổng hợp kết quả phiếu điều tra (Phụ lục 7)].

Nhìn vào bảng trên, chúng ta thấy có tới 84.62 % số người trả lời lượng cây

xanh ở làng nghề hiện nay ít đi so với trước 1996. Về không gian công cộng, số

người trả lời không thay đổi là 92.31%, tuy nhiên có 7.69% số người trả lời là ít đi

so với trước năm 1996.

Hệ thống cống rãnh được khai mở nhiều hơn để thoát nước sinh hoạt hoặc

nước mưa cũng là nhằm thay thế cho các ao hồ trước đây là nơi chứa nước mưa,

nước thải, nay đã bị san lấp làm sơ sở sản xuất. Trước kia, khung cảnh làng xóm chỉ

đông đúc, náo nhiệt vào những dịp mùa vụ căng thẳng với cảnh người, trâu bò đổ

dồn ra đồng, còn những ngày tháng nông nhàn, xóm làng, đồng ruộng “trầm lắng”

hẳn. Ngày thường, đường làng ngõ xóm phong quang, thấp thoáng các đống rạ,

đống rơm trong vườn hay sân nhà dành để làm chất đốt sử dụng từ vụ này đến tận

vụ mùa sau, giờ cũng không còn nữa. Giờ đây, bất kể mùa nào, cứ 7 h sáng (mùa

đông muộn hơn chút ít), từng đoàn công nhân với đủ các sắc màu quần áo, từ trong

các ngõ xóm, trong làng, từ làng bên dồn về các cơ sở sản xuất. Buổi chiều, 5 giờ

(mùa đông sớm hơn 30 phút), người từ các cơ sở sản xuất lại ùa ra, hối hả trở về

nhà sau một ngày làm việc. Khu vực đầu làng dù đã được mở rộng vẫn chật chội.

Vào thời điểm trước khi làm việc, trục đường chính dẫn vào làng người đông tấp

nập, thậm chí tắc đường do đường xưa chỉ phù hợp với quy mô của một làng có trên

1000 dân, điều kiện sản xuất, sinh hoạt còn nhỏ lẻ, manh mún. Lượng dân số ngày

nay đã tăng nhiều lần; cộng thêm các loại phương tiện cơ giới: xe trọng tải lớn, xe

bán tải, xe vận chuyển mới được hình thành (“xe lôi”, “xe chó”), càng tăng thêm sự

khẩn trương, hối hả, tấp nập cho làng nghề. Người Phương La từ nhiều năm nay đã

phải quen với tình trạng tắc đường vào các giờ cao điểm và khái niệm “giờ cao

điểm” đã thật sự hình thành và ăn sâu trong suy nghĩ, cách ứng phó của mỗi người

thuộc các lớp tuổi, nghề nghiệp khác nhau; từ đó hình thành một thế ứng xử chung:

phải tính toán để tránh giờ cao điểm mỗi khi phải đi ra hoặc về làng. Khi hỏi về

cảnh quan chung của làng nghề, chúng tôi thu được kết quả như Bảng 2.6.

71

Bảng 2.6: Đánh giá về mức độ sạch đẹp của cảnh quan làng nghề so với trƣớc năm 1996

Đơn vị tính: %

Ý kiến đánh giá về cảnh quan làng

Rất sạch đẹp Sạch đẹp Chưa sạch đẹp Không sạch đẹp Khó trả lời

Hiện nay 15,38 84,62 0,0 0,0 0,0

Trước 1996 0,0 15,38 84,62 0,0 0,0

[Nguồn: Kết quả tổng hợp phiếu điều tra (Phụ lục 7)]

Bảng trên cho thấy, cảnh quan làng nghề hiện nay được người dân đánh giá

là sạch đẹp hơn so với trước năm 1996; chưa sạch đẹp đã không còn. Như vậy, về

cơ bản, người dân đều nhận thấy sự thay đổi về cảnh quan của làng đã theo chiều

hướng tích cực hơn. Người dân được hưởng thụ thành quả đó, góp phần đáp ứng nhu

cầu sinh hoạt, sản xuất của người làng nghề. Do kinh tế phát triển, thu nhập của các hộ

gia đình trong làng không ngừng tăng vì thế đường làng, ngõ xóm được đầu tư nâng

cấp khang trang, bền đẹp, cũng là để tiện cho việc vận chuyển nguyên vật liệu và chở

hàng thành phẩm của người trong xóm, trong làng tới các doanh nghiệp. Vì thế,

Phương La nhà cửa san sát nhau, đường ngang ngõ dọc không khác thành phố là mấy.

Bờ rào, bờ dậu, vườn ao đã được thay thế bằng nhà xưởng, sân nền bê tông. Nhà nào

cũng kín cổng, cao tường, có chăng thì có một mảnh sân lớn để giao dịch, vận chuyển

hàng hóa, sản phẩm dệt. Điều này, thể hiện sự riêng tư, độc lập của các gia đình, không

còn cảnh chung dậu, chung ao, cổng bỏ ngỏ như xưa nữa. Đây chính là biểu hiện lối

sống đô thị độc lập, đề cao sở hữu cá nhân và sự riêng tư của không gian sinh sống ở

mỗi gia đình. Qua tìm hiểu các gia đình và doanh nghiệp, chúng tôi thấy mỗi gia đình

đều có không gian khép kín, riêng biệt, chỉ có bạn hàng ra vào chứ hầu như không thấy

hàng xóm sang nhà nhau chơi. Đặc biệt, một số người trả lời rằng, ở đây cũng chả khác

gì thành phố, "nhà nào biết nhà nấy thôi". Bảng 2.7 cho biết việc đánh giá về hạ tầng

cơ sở làng nghề cùa người dân Phương La hiện nay so với trước năm 1996.

Bảng 2.7: Đánh giá về hạ tầng làng nghề hiện nay so với trƣớc năm 1996

Đường giao thông

Mức độ đánh giá

Đường giao thông

Điện sinh hoạt, sản xuất

Nước sinh hoạt

Tốt hơn nhiều Tốt hơn Không thay đổi Kém hơn Tốt hơn nhiều Tốt hơn Không thay đổi Kém hơn Tốt hơn nhiều Tốt hơn Không thay đổi Kém hơn

Đơn vị tính: % Tỷ lệ 23,08 69,23 7,69 0,0 23,08 76,92 0,0 0,0 23,08 76,92 0,0 0,0

[Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra (Phụ lục 7)].

72

Chúng tôi tìm hiểu và được biết, hàng hóa không chỉ bán ở chợ mà còn được

bày bán ở dọc đường trục chính cạnh chợ và nhiều địa điểm ngã ba, ngã tư khác

trong làng; các cửa hàng bán đồ ăn sẵn tương đối nhiều, đáp ứng tốt cho nhịp sống

của người làng nghề thời hiện đại. Ngoài chợ, các hoạt động thương nghiệp, dịch vụ

của làng Mẹo cũng phong phú, hàng hóa nhiều. Bước chân tới đầu làng, các cửa

hàng, cửa hiệu hiện ra với đầy đủ các loại mặt hàng, người mua bán đông vui, điều

này được thể hiện ở Bảng 2.8.

Bảng 2.8: Sơ đồ các của hàng dịch vụ trên một đoạn trục đƣờng chính gần chợ Mẹo

1a

2a

3a

4a

5a

6a

7a

8a

9a

10a 11a 12a 13a 14a

1b

2b

3b

4b

5b

6b

7b

8b

9b

10b 11b 12b 13b 14b

Chú thích:

1a: Khu đền thờ họ Trần

1b: Đài tưởng niệm, biểu tượng làng

2a: Quán sửa xe

2b: Cửa hàng bán tạp hóa

3a: Cửa hàng bán tạp hóa

3b: Quỹ tín dụng xã Thái Phương

4a: Cửa hàng bán tạp hóa

4b: Đại lý bia, rượu

5a: Cửa hàng bán thuốc Tây

5b: Cửa hàng bán tạp hóa

6a: Cửa hàng bán tạp hóa

6b: Cửa hàng văn phòng phẩm

7a: Cửa hàng bán tạp hóa

7b: Cửa hàng bán tạp hóa

8a: Cửa hàng bán tạp hóa

8b: Cửa hàng bán giầy dép

9a: Tiệm hớt tóc

9b: Cửa hàng bán thuốc Tây

10a: Tiệm hớt tóc

10b: Cửa hàng bán mỹ phẩm

11a: Cửa hàng đồ điện, sửa chữa điện tử

11b: Cửa hàng may

12a: Dịch vụ váy cưới, trang điểm cô dâu

13a: Cửa hàng điện dân dụng

12b: Cửa hàng tổng hợp

14a: Cửa hàng tạp hóa

13b: Cửa hàng ăn đơn giản

14b: Cửa hàng cắt tóc.

73

[Nguồn: Kết quả thực địa của NCS (năm 2014)].

Hàng hóa bán tràn khắp mọi đường làng, bán ở tất cả những chỗ có người đi

qua lại hay gần nơi có nhiều công nhân làm…

Như vậy, thông qua kết quả điều tra ở Bảng 2.6, 2.7, 2.8 chúng tôi có kết

luận: mặc dù môi trường cảnh quan của làng nghề tuy có khang trang, sạch đẹp hơn;

cơ sở hạ tầng thuận tiện, tốt hơn đáp ứng nhu cầu của người dân song thực tế môi

trường vẫn bị ô nhiễm trầm trọng bởi rác thải công nghiệp, nước tẩy nhuộm của các

doanh nghiệp, bụi của bông vải, sợi… Khi vào làng Phương La, khách rất ngột ngạt

bởi sự ô nhiễm này. Người dân mới chỉ nhìn thấy sự hiện đại, sạch đẹp hơn của

đường làng ngõ xóm mà chưa chú trọng đến chiều sâu, những yếu tố gây nguy hiểm

đến sức khỏe của họ, đó là nguồn nước thải đem ngòm vẫn hàng ngày chảy ra làm ô

nhiễm khắp làng; thường xuyên phải hít thở bụi của bông vải, sợi…

2.2.2. Việc phục dựng, tu bổ các di tích

Trong Chương 1, Luận án đã chỉ rõ làng dệt Phương La có một hệ thống các di

tích tôn giáo, tín ngưỡng, gồm đình Đông, chùa Ứng Mão, sáu ngôi đền thờ các vị

thần. Đó là kết quả của quá trình các thế hệ dân làng chung sức, đóng góp xây dựng, tu

bổ và bảo vệ. Tuy nhiên, từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, do nhiều nguyên nhân,

các di tích trên không được quan tâm tu bổ, nên có di tích (đình Đoài) đã không còn,

nay không thể phục hồi vì khuôn viên của nó đã bị biến thành khu nhà ở. Các di tích

khác bị xuống cấp, hoặc bị hủy hoại, song may mắn còn giữ được khuôn viên.

Quan niệm của người dân vùng châu thổ Bắc Bộ nói chung, người Phương

La nói riêng, di tích là phần hồn - phần văn hóa tâm linh đặc biệt quan trọng. Đó

chính là không gian linh thiêng nhưng cũng rất riêng của làng “chuông làng nào

làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Di tích là nơi tôn thờ những người có

công với làng, với nước,… để con cháu đời đời ghi nhớ công ơn. Đặc biệt, với làng

nghề, đó còn là nơi thờ cúng các tổ nghề, các phong tục, lễ nghi, hội hè liên quan

đến nghề thủ công truyền thống. Việc tôn thờ gợi lại những công tích của các vị

được thờ trong quá khứ, là sự liên kết của quá khứ với hiện tại, biểu dương những

điểm mạnh của quá khứ. Chính vì vậy, khi cầu nguyện các vị thần thánh sẽ phù hộ

cho. Người Phương La coi di tích cũng là trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh

74

chung của làng, nơi cố kết cộng đồng, tôn vinh những giá trị của đời sống tâm linh,

giá trị văn hóa.

Nhờ kinh tế phát triển cùng sự đổi mới nhận thức của Đảng ta về vai trò của

văn hóa, nhất là văn hóa truyền thống, vì vậy đã tạo điều kiện cho làng Phương La

phục hồi, giữ gìn các di tích văn hóa truyền thống đứng trước nguy cơ mai một.

Một trong những nguyên nhân sâu xa để các di tích luôn được tu bổ đó là, cư dân

nơi đây giàu có, rất có điều kiện để công đức tu bổ các di tích; họ cũng muốn khẳng định

mình, vai trò của mình với dòng họ, với làng xã. Trong công đức, các doanh nghiệp

người làng đóng góp thường xuyên, lớn nhất và quan trọng. Có doanh nghiệp góp tới cả

nhiều trăm triệu, thậm chí nhiều chục tỉ đồng để tu bổ, phục dựng di tích.

Chính vì vậy, việc tu bổ các di tích ở Phương La rất thuận lợi, các di tích

thường xuyên được tôn tạo, tu bổ nên khang trang và bề thế. Sự thay đổi này diễn ra

mạnh mẽ trong khoảng mười năm trở lại đây.

Việc tu bổ, tôn tạo di tích được tiến hành theo quy trình sau: Chính quyền

cấp xã chỉ đạo thành lập Ban Khánh tiết để tiến hành xây dựng, tôn tạo di tích và

Ban Khánh tiết chuyển thành Ban quản lý khi di tích xây dựng, tôn tạo xong. Ban

quản lý di tích làng Phương La chủ yếu là người cao tuổi (cả cụ ông, cụ bà) và đại

diện cấp uỷ, Ban quản lý của 4 thôn; gồm 10 người, trưởng Ban hiện nay là cụ Trần

Văn Quyền, sinh năm 1926, thôn Phương La 2.

Ban Khánh tiết (Ban Tu bổ di tích) họp bàn bạc công khai với đại diện các tổ

chức đoàn thể, các dòng họ để thống nhất về qui mô, hình thức tu sửa, thống nhất về

huy động nguồn kinh phí. Ban Tu bổ di tích lập tờ trình, dự toán thiết kế gửi các cơ

quan chức năng thẩm định, phê duyệt. Sau khi được chấp nhận, Ban Tu bổ di tích

ấn định ngày khởi công và thông báo rộng rãi tới toàn thể nhân dân. Tiếp đến, tiểu

ban vận động quyên góp tổ chức triển khai hoạt động, gửi thư kêu gọi tài trợ và vận

động nhân dân tham gia đóng góp.

Kinh phí để tu bổ di tích dựa trên cơ sở xã hội hóa, từ dân làng, tài trợ của

các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp của người địa phương đóng trên địa

75

bàn, người làng xa quê hương, tiền công đức hàng năm, kinh phí từ thu hoa lợi trên

đất di tích.

Trong quá trình tôn tạo di tích, tiểu ban giám sát cùng đại diện các tổ chức,

các Hội của thôn giám sát hoạt động tu bổ. Với tinh thần Nhà nước và nhân dân

cùng làm và để khuyến khích dân đóng góp tu bổ di tích, Ban quản lý di tích các

thôn lập danh sách công đức.

- Đình Đông, được tu sửa vào năm 1994 với tổng kinh phí lên tới một tỷ đồng;

năm 2012, dân làng quyên góp 800 triệu đồng để tiếp tục tu sửa. Qua nhiều lần tu sửa,

đình Đông trông bề thế, khang trang; cổng và đình đều được quét sơn lại rất mới.

- Chùa Ứng Mão (chùa Mẹo): từ năm 1994 đến 2009, với sự đóng góp của

các dòng họ, các doanh nghiệp trong làng, chùa lần lượt được tu bổ chỉnh sửa nhiều

lần. Năm 1996, dân làng quyên góp 300 triệu đồng; năm 1998 là 400 triệu đồng và

năm 2001 là 200 triệu đồng để tu bổ chùa. Hai doanh nghiệp của làng còn bỏ tiền ra mua thêm 354 m2 đất để mở rộng sân chùa và vườn chùa. Các cá nhân, tập thể đã

góp hàng chục cây vàng tu bổ Phật điện, Nhà tổ, Nhà mẫu. Phật Điện, nhà tổ, nhà

mẫu được trùng tu tôn tạo, khiến cho cảnh chùa trở lên sáng đẹp. Danh sách các tập

thể, cá nhân công đức tu bổ chùa Mẹo năm 1995 - 1996 được thể hiện ở Bảng 5.2

(Phụ lục 5). Đền Mẫu được tu bổ vào năm 2011, số tiền công đức của các cá nhân,

doanh nghiệp tu bổ được thể hiện ở Bảng 5.3 (Phụ lục 5).

- Đền Trung Quân thờ thần Thiên Quân, được xây dựng mới vào năm 1989;

năm 2009, đền được khôi phục lại theo kiến trúc hiện đại, tường gạch, mái ngói với

tổng kinh phí khoảng 200 triệu.

- Đền Sơn Du thờ thần Sơn Du là người thứ tư trong số sáu anh em họ Trần,

được xây dựng vào năm 1995 và cũng được tu sửa lại vào năm 2009 với kinh phí

khoảng 200 triệu đồng. Danh sách các doanh nghiệp, cá nhân công đức tu bổ đền Sơn

Du năm 2009 - 2013 được thể hiện ở Bảng 5.1 (Phụ lục 5).

- Miếu Đống Lựa thờ Thần Đông Cương, nằm trên một gò đất cao ở giữa

cánh đồng. Miếu cổ đã không còn nữa. Năm 2001, cụ Lê Văn Mặc người thôn

Phương La 3 bỏ tiền, bỏ công vượt thổ, mua vật liệu để xây dựng lại.

76

- Đền Thiên Quan thờ Thần Thiên Quan - vị thần út thứ sáu có nhiều công

lao nhất trong số sáu vị thần. Đền tọa lạc trên địa phận thôn Phương La 4. Đền được

xây dựng mới vào năm 2002, cũng theo kiểu hiện đại với tổng kinh phí đầu tư

khoảng 200 triệu đồng.

- Miếu Đông Cương Tôn Thần, được xây dựng mới và khánh thành vào ngày

27 tháng 9 năm 2012. Kiến trúc miếu cũng theo lối hiện đại. Đại gia đình, anh em

con cháu ông bà Lê Minh Quang cung tiến trên 100 triệu đồng. Gia đình ông bà

Trần Hương Sen cung tiến toàn bộ gạch ngói xây đền và trên 18 triệu đồng tiền hiện

vật. Gia đình ông bà Lê Minh Hiệu tài trợ toàn bộ cửa ngõa đằng trước và sơn trang

trí toàn bộ cửa ngõa và một số đồ tế khí. Tổng số tiền để xây đền và đồ tế khí cúng

tiến của các gia đình cũng lên tới trên 400 triệu đồng.

Các di tích đều được quan tâm, đầu tư nên nhìn vào chúng ta thấy có sự biến

đổi mạnh mẽ theo xu hướng được tu bổ, phục dựng và xây mới từ 1994 trở lại đây.

Cùng với trùng tu, tôn tạo, người Phương La còn quan tâm sưu tầm và dịch lại các

tư liệu, thần tích, sắc phong có liên quan đến di tích, đến các vị thần được thờ như

các Sắc phong thần tại Đình Đông…

Việc quan tâm phục hồi các di tích góp phần giữ gìn, bảo lưu và phát huy

giá trị văn hóa truyền thống của địa phương; khơi dậy lòng tự hào, tinh thần cố kết

cộng đồng, nhớ về cội nguồn của người dân. Các di tích Phương La đẹp, đồng thời

được bổ sung thêm tư liệu quý, hiện vật quý làm cho các di tích thêm linh thiêng.

Dân làng càng thêm tôn kính các vị thần, từ đó chủ động thực hành lễ nghi chu

đáo hơn ở các khía cạnh tham dự và tham gia công đức. Đình Phương La, không

chỉ có ngày hội dân làng mới đến lễ mà họ đến lễ thường xuyên hơn, cả khi vui,

lúc buồn, nhất là mồng một hay ngày rằm. Tuy nhiên, việc tu bổ, tôn tạo các di

tích còn nhiều bất cập:

Các di tích được đầu tư tu bổ nên khang trang, bề thế; phong quang, sạch

đẹp. Tuy nhiên, việc xây mới hay tu bổ không giữ được nguyên trạng, khiến các di

tích có phần thiếu đồng nhất. Đền miếu ở Phương La hầu như được xây dựng mới

77

theo kiểu hiện đại, không phù hợp với lối kiến trúc cổ xưa. Việc làm mới đồ tế khí

cũng như thu nhận các đồ tế khí chưa có sự chọn lọc kỹ nên hình thức không phù

hợp với nơi thờ tự, với tín ngưỡng…

Huy động công đức cùng việc ghi nhận tấm lòng công đức bộc lộ sự bất cập:

xu hướng “vàng hóa”, “đô la" hóa trong vinh danh công đức với số lượng vàng lớn,

từ vài chỉ trở lên. Chẳng hạn, Bia công đức tu bổ đình năm 1994 ghi: “Quê hương

ghi công đức cúng tiến tiền của cao nhất về việc tu tạo đình làng Phương La năm

1994”: ông Trần Văn Sen 50 chỉ vàng, ông Đinh Hồng Quân 44 chỉ, ông Lê Minh

Quang 20 chỉ (là người công đức đầu tiên), ông Vũ Quang Huy và ông Lê Minh

Hiệu 24 chỉ. Ngoài lời văn lủng củng, trùng lặp từ, tấm bia còn thể hiện điều trái với

truyền thống làng xã trong việc ghi danh công đức là chỉ ghi tên những người “cung

tiến tiền của cao nhất”, vì thế “bỏ qua” những người công đức khác. Việc làm trên

vô hình dung là sự đề cao quá mức người giàu, coi thường người nghèo.

Mặc dù vậy, những giá trị cũ trong nghi lễ tôn giáo, trong các hoạt động tâm

linh vẫn là những điểm tựa cho việc khẳng định sức sống lâu bền của văn hóa

truyền thống trước sự thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.

78

Tiểu kết

Từ sau hòa bình lập lại đến nay, nghề dệt thủ công ở Phương La và các làng

nghề ở Hưng Hà chịu nhiều tác động của các chính sách phát triển kinh tế của Đảng

và Nhà nước, những thay đổi nhiều về điều kiện sống nên nghề dệt của làng biến

đổi và ngày càng phát triển, mang lại nguồn thu lợi rất lớn cho người dân nơi đây.

Đặc biệt, công cụ sản xuất được người Phương La luôn cải tiến, đổi mới, đáp ứng

nhu cầu khách hàng về sản phẩm.

Ngày nay, nghề dệt khăn của làng Phương La phát triển mạnh mẽ, thành

lập được nhiều công ty, xí nghiệp... với tài sản lớn, doanh thu hằng năm từ hàng

chục đến hàng ngàn tỷ đồng. Sản phẩm của làng dệt có mặt không chỉ trên thị

trường trong nước mà cả trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Canađa và

một số nước ở châu Âu. Làng có số lượng tỷ phú lớn thuộc bậc nhất trong nước

(gần 100 tỷ phú), được mệnh danh là làng tỷ phú. Làng không còn hộ nghèo, hộ

giàu chiếm tới trên 60%.

Nghề dệt phát triển, đời sống nhân dân trong xã nói chung, các hộ làm nghề

dệt không ngừng được nâng cao đã tạo cho Phương La một diện mạo mới. Không

gian cảnh quan làng biến đổi, nhiều biệt thự, vila, nhà cao tầng, các nhà thờ dòng họ,

công trình công cộng khác mọc lên, đường làng, ngõ xóm không khác gì thành phố; ao

hồ, vườn cây xanh đã bị biến mất, thay vào đó là các nhà xưởng sản xuất, khu chứa

nguyên liệu… làm cho không khí luôn ngột ngạt. Các di tích được đầu tư, chăm chút

nên khang trang, bề thế, tuy nhiên, việc xây mới hay tu bổ không giữ được nguyên

trạng, khiến các di tích có phần thiếu đồng nhất, thu nhận các đồ tế khí chưa có sự

chọn lọc kỹ nên hình thức không phù hợp với nơi thờ tự, với tín ngưỡng… xu

hướng “vàng hóa”, “đô la hóa” trong việc công đức ở các di tích… Trên đây là một

trong những yếu tố tác động góp phần tạo nên những vấn đề nổi bật về văn hóa xã

hội và văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La mà chúng tôi đề cập trong Chương

3 của luận án.

79

80

Chƣơng 3

VĂN HÓA XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA TINH THẦN

CỦA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA HIỆN NAY

3.1. Văn hóa xã hội của làng dệt Phƣơng La hiện nay

3.1.1. Sự hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp

3.1.1.1. Sự hình thành các chủ doanh nghiệp và vai trò của họ đối với kinh

tế- xã hội và văn hóa của làng

A. Sự hình thành các chủ doanh nghiệp

Trong làng nghề truyền thống, dù sản xuất còn nhỏ lẻ cũng đã hình thành các

tiểu chủ là người có vốn liếng, nhạy bén trong nắm bắt thị trường, quan hệ rộng nên

đứng ra tổ chức sản xuất vừa tạo công ăn việc làm cho người nông dân vừa đảm bảo

lợi nhuận cho mình. Dần dần, họ đứng ra thu mua và tiêu thụ sản phẩm của những

người thợ, các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ khác. Tuy nhiên, tính chất sản xuất nhỏ lẻ của

làng nghề truyền thống không cho phép những người chủ này phát triển thành các

chủ lớn, mà chỉ là các tiểu chủ “nhỉnh” hơn chút ít so với những người làm ăn nhỏ

lẻ bình thường; không thật sự nổi trội về cơ sở sản xuất, thu nhập, tài sản cố định,

do vậy, trước các tác động xấu về kinh tế - xã hội, họ cũng dễ “chao đảo”, thậm chí

phá sản, trở lại thân phận của người thợ bình thường. Chính vì thế, làng nghề trong

xã hội truyền thống ít có những ông chủ lớn.

Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, quy mô sản xuất cũng như thị trường

tiêu thụ ngày càng được mở rộng, đòi hỏi và tạo điều kiện để hình thành các cơ sở

sản xuất lớn. Cùng với sự hình thành khu sản xuất tập trung là sự ra đời của các

doanh nghiệp, ban đầu với cái tên “Tổ hợp sản xuất”, sau là “Xí nghiệp”. Các cơ sở

sản xuất lớn thực sự nổi trội hơn so với các cơ sở sản xuất bình thường trên tất cả

các phương diện: cơ sở sản xuất, tài sản cố định, thu nhập, quan hệ, uy tín trong xã hội.

Làng dệt Phương La cũng đi theo con đường trên đây, tổ hợp sản xuất đầu

tiên ra đời là tổ hợp Tân Phương do ông Trần Văn Sen đứng đầu, sau đó tổ hợp

chuyển vị trí lên thị trấn Hưng Hà phát triển thành Xí nghiệp dệt nhuộm in hoa

Hương Sen vào năm 1988 - xí nghiệp tư nhân đầu tiên của tỉnh Thái Bình. Bốn năm

sau, xí nghiệp phát triển và chuyển địa điểm về thị xã Thái Bình mang tên Công ty

trách nhiệm hữu hạn dệt nhuộm in hoa xuất khẩu Hương Sen. Từ đầu những năm

2000, do sản xuất phát triển, đã dần dần hình thành các công ty trách nhiệm hữu hạn

(TNHH), các doanh nghiệp với vai trò của các ông chủ, được gắn với các chức danh

“giám đốc”, “tổng giám đốc”, “chủ tịch hội đồng quản trị”…. Theo số liệu của

UBND xã Thái Phương, đến cuối năm 2014, làng Phương La có 50 công ty, doanh

nghiệp, trong đó tuyệt đại đa số các công ty, doanh nghiệp gắn với nghề dệt, chỉ có

một số công ty gắn với các nghề khác, song vẫn tập trung phục vụ nghề dệt. Một

làng quê chưa đầy 5000 nhân khẩu mà đã có 50 chủ doanh nghiệp đang hoạt động

tại làng đã làm cho Phương La trở thành một trong những làng có nhiều doanh

nghiệp, nhiều tỷ phú bậc nhất trong cả nước. Nếu so sánh với các làng dệt đũi thuộc

xã nghề Nam Cao, huyện Kiến Xương và xã nghề dệt khăn Minh Tân, huyện Hưng

Hà thì số công ty, doanh nghiệp của riêng làng Phương La đã lớn hơn gấp nhiều lần

của cả hai xã Nam Cao và xã Minh Tân cộng lại (xã Minh Tân có ba doanh nghiêp,

xã Nam Cao có 4 doanh nghiệp).

Sự ra đời của các công ty, doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu của các cơ sở sản

xuất, nhằm tuân thủ đúng các quy định về tài chính; đồng thời, giúp các doanh

nghiệp chủ động trong các công đoạn của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh

thu. Công ty, doanh nghiệp ra đời và lớn mạnh, cùng đó là sự hình thành và trưởng

thành của đội ngũ giám đốc, các chủ cơ sở sản xuất. Các chủ doanh nghiệp ở

Phương La đi lên "từ mặt đất", từ hai bàn tay trắng nhưng họ lại có cái nghề được

ông cha trao truyền. Các chủ doanh nghiệp này rất đa dạng về nguồn gốc xuất thân.

Song phần lớn các chủ doanh nghiệp ở Phương La hầu như không qua một trường

lớp nào cả, chỉ buôn bán và từ quá trình mưu sinh bằng đủ thứ nghề, đặc biệt, với

cái nghề dệt truyền thống được cha ông trao truyền mà phát huy được lợi thế của

nghề. Cũng có một số ít chủ doanh nghiệp trưởng thành từ người thợ. Những người

này, lúc đầu, mở xưởng chỉ với mong muốn không phải đi làm thuê hoặc phải nay

81

đây mai đó vì buôn bán. Có những người đã từng là công nhân viên chức Nhà nước

nhưng lương thấp, xin về phát triển nghề, lập nghiệp tại làng. Trong số đó, điển

hình là ông Trần Văn Dũng, hiện là Giám đốc công ty TNHH Thảo Nguyên; về làm

nghề từ năm 26 tuổi, đến nay đã được 24 năm, đó là cả một hành trình mò mẫm,

học hỏi, sống chết, lăn lộn với nghề.

Hộp 3.1: Sự hình thành chủ doanh nghiệp ở Phƣơng La

Ông Trần Văn Dũng - Giám đốc công ty TNHH Thảo Nguyên: “Gốc, tôi làm

bưu điện, sau thấy thu nhập thấp bỏ nghề năm 1990 (năm 26 tuổi) về quê làm nghề

truyền thống. Tôi lập nghiệp từ hai bàn tay trắng, nhưng được cái bố mẹ tôi xưa là

tiểu thương (mẹ tôi bán lụa tơ tằm, áo the ở phố hàng Ngang, hàng Đào, Hà Nội từ

những năm 1960) nên tôi cũng biết ít về thương mại. Chính môi trường làng nghề

đã tạo đà để tôi phát triển”.

[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2013)].

Cũng theo ông Dũng, các doanh nghiệp ở Phương La vẫn đứng vững trong

những giai đoạn khó khăn nhất vì "lưng vốn” không nhiều, nhưng là vốn tự tạo ra

bằng lao động, bằng “tích cóp”, không phải vay mượn, cầm cố. Ông nói: "mưa dầm,

ngấm lâu", vốn được tích lũy, tích tiểu thành đại. Đến nay, doanh nghiệp của ông có

200 máy dệt, cứ mỗi máy gắn với hai nhân công đứng máy, một nhân công máy

may, còn chưa kể đến số công nhân đóng gói, vận chuyển và nhặt khăn... Công ty

Phúc Cường do ông Nguyễn Văn Sướng làm giám đốc, ông Sướng cũng tự thân lập

nghiệp, nay đã tạo công ăn việc làm cho 80 công nhân làm việc tại công ty và trên

300 công nhân dệt vệ tinh nằm rải rác ở các thôn làng trong và ngoài xã.

Nghệ nhân Trần Văn Sen sinh ra và lớn lên tại Phương La, ngay từ thời còn

trẻ, ông đã cùng gia đình không ngừng tìm tòi, nghiên cứu sản xuất các mặt hàng vải,

khăn mặt, màn để phục vụ kháng chiến. Năm 1954, hòa bình lập lại, nghề dệt làng

Mẹo phục hồi. Trong khi nhiều người rời quê di cư thì gia đình ông Trần Văn Sen ở

lại và quyết tâm phát triển nghề dệt. Ông chủ động bỏ tiền đi học hỏi kinh nghiệm

nghề dệt lụa ở Vạn Phúc (Hà Nội), dệt lụa ở Nam Định... Trải qua nhiều khó khăn

82

gian khổ, đến nay, nghệ nhân Trần Văn Sen đã mở rộng sản xuất, kinh doanh ở nhiều

lĩnh vực, giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động; năm 2014, doanh

nghiệp của ông đóng góp vào ngân sách địa phương với gần 800 tỷ đồng.

Ông Vũ Quang Huy - người làng Phương La cũng là một trong những “đại

gia” đi lên từ nghề dệt của làng, từ hai bàn tay trắng, ông đã vượt khó vươn lên để

làm giàu tại làng. Ông Huy có may mắn là được thừa hưởng chút kiến thức về kinh

doanh từ bố mẹ vì bố mẹ ông xưa từng là những nhà buôn bán nhỏ. Tổ hợp Bình

Minh của làng dệt Phương La xưa do ông Huy làm giám đốc nay đã đổi tên thành

Công ty cổ phần Bitexco Nam Long, kinh doanh đa lĩnh vực như xây dựng, bất động

sản, giao thông,… với một số công trình nổi tiếng là tòa tháp đôi Bitexco tại Mỹ

Đình, Từ Liêm, Hà Nội và tòa tháp Bitexco cao nhất tại thành phố Hồ Chí Minh…

Nhờ có các công ty cùng các cơ sở sản xuất khác, việc làm và thu nhập của

người lao động tương đối ổn định nên ai cũng yên tâm lao động, sản xuất. Như vậy,

người nông dân được sống và làm nghề ngay trên mảnh đất của làng mình, không

phải ly hương, không phải ra đô thị kiếm sống, tránh được sự thiếu thốn tình cảm và

tránh được các tệ nạn xã hội ở đô thị. Hơn nữa, họ được sống với gia đình nên chi

sẻ, giúp đỡ được nhau khi khó khăn…

Với việc thành lập các công ty, tính chất sản xuất truyền thống theo quy mô

gia đình hay là nền “công nghiệp gia đình” mà Pièrre Gourou nhận xét đã bị phá vỡ.

Trước kia, một cơ sở sản xuất thường chỉ bó hẹp trong từng gia đình, chủ nhà cũng

là chủ xưởng và đồng thời là thợ cả (thợ chính) điều hành việc sản xuất, chỉ đạo kỹ

thuật; vài thợ giúp việc có thể là người trong họ hoặc người làng. Ngày nay, mỗi

công ty ở Phương La tập hợp ít nhất vài chục công nhân, nhiều nhất hàng nghìn

người, không chỉ người khác làng mà còn có nhiều người ở các tỉnh xa. Tuy nhiên,

vì bảo đảm sự kiểm soát về lợi nhuận nên tính chất gia đình trong các công ty,

xưởng sản xuất vẫn còn đậm nét. Các chức danh giám đốc (hoặc phó giám đốc), kế

toán trưởng đều là những người trong gia đình hay quan hệ quen biết thân thích.

Giám đốc công ty là ông chủ nhà, người vợ thường là kế toán trưởng, kiêm thư ký

cho chồng, do căn cơ, nắm chắc hơn, nhớ các tình tiết công việc hơn; các cụ xưa

83

thường ví “chồng như giỏ, vợ như hom”; những người khác chỉ đảm đương các

công việc thuần túy ít liên quan đến tài chính, kinh tế, đó là các việc phục vụ hoặc

những việc trông coi khác… hay làm thợ. Các ông chủ là người quyết định chính

trong các công đoạn của sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; tuy nhiên người vợ lại là

người thúc đẩy các quyết định đó của các ông chủ trong gia đình.

Con đường đi lên từ khi hình thành và phát triển của hầu hết các doanh

nghiệp của làng Phương La là “đi lên từ mặt đất”, “tích tiểu thành đại”. Ban đầu,

doanh nghiệp nào cũng từ các xưởng sản xuất nhỏ, sau đó qua quá trình tích lũy về

vốn, kinh nghiệm quản lý, mở rộng quy mô diện tích mặt bằng, số lượng nhân

công… rồi mới thành lập các công ty.

Ông Bùi Văn Hà - Phó Chủ tịch UBND xã Thái Phương cho biết: làng

Phương La có 50 giám đốc, đa phần trong độ tuổi từ 40 - 60 tuổi, rất ít người có

bằng đại học, cao đẳng; đều xuất phát từ nông dân, trình độ chưa hết phổ thông

trung học [Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2013)].

Các chủ doanh nghiệp ở Phương La có cái nghề được cha ông trao truyền

nhưng để có được sự thành công như ngày nay là cả một quá trình vượt qua bao khó

khăn vất vả và phải khẳng định họ là những người thực sự có tài năng, ham học hỏi,

luôn có khát vọng vươn lên làm giàu... Đã có không ít người tự bỏ tiền túi để đi học

mót công nghệ dệt ở làng Vạn Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà Nội), tự theo học

những lớp bồi dưỡng để nâng cao khả năng quản lý điều hành công việc của chính

mình. Mỗi ông chủ doanh nghiệp ở Phương La luôn là một tấm gương sáng về sự

lao động, trí tuệ, để cho con cháu trong làng học tập. Họ không chỉ giỏi về sản xuất,

kinh doanh mà họ còn có đầu óc tính toán tiết kiệm, tích cực tham gia xây dựng các

công trình phúc lợi, các di tích tôn giáo, tâm linh... Đặc biệt, cho đến thời điểm này,

chưa có bất cứ ông chủ nào ở Phương La sa vào con đường tệ nạn, không có người

nghiện cờ bạc, lô đề..., không có ai bị phá sản.

Vậy điều gì để giúp các chủ doanh nghiệp ở Phương La có được uy tín, vị thế

và làm ăn phát đạt? Vấn đề cần bàn đến là tại sao nhiều làng có nghề truyền thống

84

nhưng không phát triển được nghề, trong khi Phương La có thể phát triển thành một

làng giàu có bậc nhất trong cả nước với hàng trăm tỷ phú? Phải chăng làng Phương

La có tập hợp được một lớp người mà các nhà Dân tộc học và Văn hóa học bàn đến là

sự hình thành “giới tinh hoa” trong xã hội nói chung và trong làng Việt nói riêng.

Giới tinh hoa đã được nghiên cứu trong các ngành khoa học xã hội ở nhiều

nước trên thế giới và ở Việt Nam và được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau: chính

trị - xã hội, kinh tế, văn hóa, sinh học. Theo quan niệm chung, giới tinh hoa là một

nhóm ít người có những đặc điểm nổi bật về năng lực ở một khía cạnh nào đó, từ đó

họ thành đạt và có ảnh hưởng lớn đến cộng đồng trên khía cạnh đó. Khía cạnh phổ

biến nhất của giới tinh hoa là chính trị. Những người thuộc giới này có năng khiếu

chính trị, nắm được quyền lực và sức ảnh hưởng trọng yếu đến cộng đồng và những

quyết định chính trị. Quyền lực này được dựa trên quyền sở hữu và kiểm soát nhiều

nguồn lực, trong đó bao gồm nguồn lực kinh tế, sự tổ chức, hỗ trợ về mặt chính trị,

ý nghĩa biểu tượng và ưu điểm cá nhân. Nói cách khác, giới tinh hoa là những người

nắm giữ những vị trí hay vai trò có nhiều ảnh hưởng nhất trong những lĩnh vực

quan trọng của đời sống xã hội.

Xét trên khía cạnh kinh tế, giới tinh hoa là những người có năng khiếu sản

xuất, kinh doanh, biết nắm bắt thời cơ để sản xuất và kinh doanh, nhờ đó thành đạt,

có nguồn tài sản lớn, có sức chi phối lớn đến đời sống xã hội.

Xét trên khía cạnh văn hóa, họ là những người có trí tuệ cao, có năng khiếu

trong các hoạt động sáng tạo về văn học, nghệ thuật,... và thành đạt trên các hoạt

động đó, có ảnh hưởng lớn đối với đời sống tinh thần trong xã hội.

Thành phần của giới tinh hoa biểu hiện khác nhau ở mỗi cộng đồng cư dân,

tộc người, quốc gia, tùy thuộc mỗi thời kỳ lịch sử, đặc điểm kinh tế - xã hội và văn

hóa; song nhìn chung, có “tinh hoa” trong tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn

hóa, văn học nghệ thuật, khoa học…

Đối với Việt Nam, giới tinh hoa ở nông thôn thể hiện ở nhiều phương diện

khác nhau của đời sống, ở mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi thể chế xã hội.

85

Xã hội phong kiến Việt Nam dựa trên nền tảng của kinh tế tự cấp tự túc, trong

đó nông nghiệp là chủ đạo; công nghiệp hầu như không có gì nổi bật, thủ công nghiệp

là bộ phận gắn chặt với nông nghiệp; ngoại thương do nhà nước độc quyền, nên chỉ

có nội thương (buôn bán nhỏ trong nước). Về xã hội, Việt Nam vận dụng theo mô

hình của Trung Hoa, coi trọng kẻ sĩ, người làm quan và đường làm quan nên chỉ hình

thành tầng lớp tinh hoa về mặt chính trị- xã hội (và gắn với văn học, văn hóa). Còn ở

nông thôn, giới tinh hoa là các chức sắc, kỳ mục, - những người nắm giữ quyền lực

chính trị trong làng và thường là người của một hai dòng họ có thế lực. Về phương

diện kinh tế, có thể coi tầng lớp địa chủ là “tinh hoa”; còn những người làm nghề thủ

công và buôn bán có vị trí thấp trong “tứ dân - sĩ, nông, công, thương". Có thể nói,

thời phong kiến, xã hội nông thôn không tạo điều kiện, tiền đề để hình thành tầng lớp

tinh hoa về kinh tế, không hình thành đội ngũ ông chủ.

Thời cận đại (1884- 1945), chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp

vô hình dung đã tạo các tiền đề để tầng lớp doanh nhân Việt Nam hình thành và phát

triển. Nhiều người kinh doanh thành đạt, trở thành tư sản yêu nước, như Bạch Thái

Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, góp phần phát triển nền

kinh tế dân tộc và thức tỉnh tinh thần dân tộc trong hoạt động kinh tế, từ đó nâng cao

tinh thần yêu nước cho dân chúng... Tầng lớp doanh nhân - giới tinh hoa về kinh tế

này chỉ hình thành ở các đô thị; còn ở nông thôn, do kết cấu kinh tế phong kiến không

hề thay đổi nên sản xuất vẫn như cũ; không hình thành doanh nhân.

Ở miền Bắc từ sau 1954 (miền Nam từ sau 1975) đến năm 1986, là cơ chế

quan liêu bao cấp. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là chủ đạo, kinh tế tư nhân không

được tôn trọng.

Công cuộc Đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường trả lại cho kinh tế tư

nhân vị trí của nó, tạo đà cho thành phần kinh tế này phát triển, ai cũng được tạo

điều kiện để làm giàu, làm chủ. Hàng loạt các công ty, doanh nghiệp ra đời. Vì thế,

Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân ban hành năm 1990 đã mở đường cho

các doanh nghiệp tư nhân ra đời và cùng với đó là sự hồi sinh, phát triển của tầng

lớp doanh nhân Việt Nam. Doanh nhân được công nhận là một tầng lớp xã hội và

86

được đề cao. Năm 2004, Chính phủ đã quyết định lấy ngày 13 tháng 10 là “Ngày

doanh nhân Việt Nam”.

Tuy nhiên, công cuộc Đổi mới tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế - xã

hội mới chỉ là những điều kiện cần cho sự hình thành tầng lớp doanh nhân, còn việc

hình thành tầng lớp này ở từng làng quê, tức điều kiện đủ lại tùy thuộc vào các nhân

tố về địa lý, lịch sử cư dân của từng làng và sự năng động của những người trong

cuộc. Sự ra đời của các chủ doanh nghiệp ở Phương La - đại diện cho giới “tinh

hoa” của làng xã trong thời kỳ đổi mới là còn do làng có vị trí giao thương thuận

tiện, có truyền thống làm nghề từ lâu, người Phương La gắn bó với nghề, mạo hiểm,

có khát vọng vươn lên làm giàu…

B. Vai trò của các chủ doanh nghiệp ở Phương La đối với kinh tế - xã hội và

văn hóa của làng

Trong đời sống kinh tế, các chủ doanh nghiệp ở Phương La đã tạo công ăn

việc làm cho nhiều nghìn lao động. Theo số liệu thống kê của phòng Công thương

huyện Hưng Hà, lao động làm nghề dệt vải của các xã trong huyện, các nhà máy, xí

nghiệp lên tới 78.000 người. Nghề may khăn, tẩy nhuộm, kiểm hóa, đóng gói cũng

cần sử dụng từ 7.000 - 8.000 lao động. Các lao động phục vụ cho nghề dệt cũng lên

tới trên 15.000 người.

Nghề phát triển, kéo theo một loạt các hoạt động thương nghiệp, dịch vụ của

làng cũng phong phú và phát triển, dịch vụ về nguyên liệu phục vụ sản xuất, dịch vụ

về tiêu dùng khi đời sống dân làng đã khấm khá.

Nghề dệt phát triển tạo điều kiện giải quyết tốt việc thu nhập thêm cho người

lao động khi công việc nông nhàn, người dân ở các xã trong huyện, trong tỉnh lại trở

thành các vệ tinh đến xin nhận hàng về gia công tại gia đình (có thể là dệt, may viền

hoặc “nhặt” khăn…) và sau đó nộp sản phẩm cho các công ty, doanh nghiệp, của

làng Phương La.

Các doanh nghiệp có công trong ủng hộ tiền bạc và công sức để xây dựng

trường học, cầu cống, đường sá và các công trình phúc lợi của làng xã.

87

Hộp 3.2: Đóng góp của doanh nghiệp xây dựng công trình phúc lợi

Ông Bùi Văn Hà - Phó Chủ tịch UBND xã Thái Phương: “Tổng số tiền của

các chủ doanh nghiệp đầu tư xây dựng trạm y tế, các công trình công cộng khác

trong khoảng 10 năm vừa qua lên tới 34 tỷ đồng. Tiêu biểu là gia đình ông Trần

Văn Sen đã ủng hộ 1,2 tỷ đồng xây dựng Đài tưởng niệm của làng, xây dựng đường

làng ngõ xóm 510 triệu đồng. Gia đình ông Trần Quang Huy đầu tư 7 tỷ đồng xây

trường Mầm non của xã, 3 tỷ đồng xây nhà văn hóa thôn Phương La 3 và nhà văn

hóa thôn Phương La 4”.

[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].

Các chủ doanh nghiệp ở Phương La còn rất coi trọng việc ủng hộ các quỹ

nhân đạo từ thiện; là nhân tố chính hỗ trợ phục hồi, trùng tu, xây mới các di tích. Ông

Trần Văn Quyền - Trưởng Ban quản lý di tích đình Đông cho biết, người dân Phương

La quan niệm về việc đóng góp kinh phí để phục hồi, trùng tu, xây mới các di tích là

việc tâm linh, ai cũng có tâm đức đóng góp tùy theo khả năng "người giàu một bó,

người khó một nén": song nếu không có những “một bó” thì không thể thành khoản

lớn, đủ sức để phục dựng hay tu bổ một di tích hoặc làm một việc gì đó cho “ra tấm,

ra món”. Ở đây, khẳng định vai trò quyết định về phương diện tiền bạc của các chủ

doanh nghiệp đối với việc trùng tu, tôn tạo, xây mới di tích. Các chủ doanh nghiệp

còn tích cực tài trợ cho các đoàn thể, các hội,... để có kinh phí hoạt động.

Mặt tích cực của tầng lớp chủ doanh nghiệp đã được khẳng định, là động lực

quan trọng để duy trì và thúc đẩy làng nghề phát triển. Họ thể hiện vai trò với làng

xã ở nhiều phương diện khác nhau của đời sống, có thể đứng ra lãnh đạo, giải

quyết các mối quan hệ, mâu thuẫn giữa làng của mình và những làng xung

quanh. Họ là những người tổ chức các hoạt động chung của làng như hội làng,

các nghi lễ và xây dựng các công trình chung. Họ cũng là những người có vai trò

giải quyết các xung đột nội bộ của làng; đóng góp ý kiến, xây dựng các chủ

trương, chính sách của các cấp chính quyền ở địa phương. Vì vậy, giữa các chủ

doanh nghiệp ở Phương La và làng xã có mối quan hệ gắn bó, tác động thúc đẩy

lẫn nhau.

88

Tầng lớp chủ doanh nghiệp ra đời phản ánh sự gia tăng sự phân hóa giàu

nghèo, hình thành các giai tầng xã hội khác nhau, dẫn đến hình thành lối sống riêng,

khác biệt với lối sống chung của cộng đồng; tạo ra nhu cầu hưởng thụ văn hóa khác

nhau, cũng như đánh giá các giá trị văn hóa truyền thống và giá trị, hiện tượng văn

hóa mới cũng khác nhau... dễ dẫn đến sự pha tạp, biến dạng của văn hóa tâm linh.

Trong hoạt động dòng họ, đã xuất hiện những rạn nứt, mâu thuẫn dẫn đến tách họ

xuất phát từ một số chủ doanh nghiệp sẽ được chúng tôi trình bày ở phần sau.

3.1.1.2. Các mối quan hệ xã hội mới xuất hiện trong quá trình làm nghề

Quan hệ trước đây của những người dân trong làng là mối quan hệ dòng họ,

huyết thống và quan hệ cộng đồng làng xóm. Nghề được nhân rộng và hình thành

các khu công nghiệp tập trung làm cho làng Phương La hình thành những mối quan

hệ xã hội mới mà trước đây chưa xuất hiện.

- Mối quan hệ giữa các chủ doanh nghiệp

Kinh tế thị trường, tính cạnh tranh rất quyết liệt; vì thế, quan hệ giữa các

chủ doanh nghiệp là quan hệ cạnh tranh “mạnh ai nấy thắng”. Tính cạnh tranh

thể hiện rõ nét trong việc tìm nguồn nguyên liệu rẻ hơn, tìm nơi tiêu thụ tốt hơn

và đặc biệt là lôi kéo công nhân, nhất là các thợ có tay nghề cao, làm ăn nghiêm

chỉnh về cơ sở sản xuất của mình. Tuy nhiên ở Phương La, các chủ doanh nghiệp

đều là người cùng làng, nhiều người có quan hệ họ hàng, thông gia... nên tính

cạnh tranh giảm tính quyết liệt rất nhiều, thể hiện: hiện tượng công nhân rời bỏ

doanh nghiệp này chuyển sang làm cho doanh nghiệp khác trả giá cao hơn diễn

ra tương đối phổ biến nhưng không có sự tranh chấp hay giành giật giữa các chủ

doanh nghiệp. Ở Phương La, những người thợ được coi là “nhân công chung,

nhân công của làng nghề”- tức là họ có thể sẵn sàng nay làm cho doanh nghiệp

này, tháng sau làm cho doanh nghiệp khác. Thậm chí, các chủ doanh nghiệp ở

đây luôn hỗ trợ, giúp đỡ nhau khi cần thiết để tổ chức tốt quá trình sản xuất, san

sẻ thợ làm khi nhận được đơn hàng lớn, tạo điều kiện để doanh nghiệp bạn kịp

có sản phẩm đáp ứng nơi nhận hàng.

89

Các chủ doanh nghiệp ở Phương La có một thỏa thuận “ngầm” là tôn trọng

quyền tự chủ của mỗi công ty, không “can thiệp” vào quá trình sản xuất, nơi tiêu

thụ sản phẩm của nhau. Họ đã cùng bàn bạc, hỗ trợ, phối hợp trong sản xuất cũng

như cùng đồng thuận kiến nghị lên các cấp chính quyền sớm giải quyết mặt bằng

sản xuất, bàn bạc về phương hướng và cách thức làm ăn, cùng nhau xây dựng thương

hiệu sản phẩm, về tổ chức nhân sự, quản lý, điều hành doanh nghiệp hướng đến tính

chuyên nghiệp, hiệu quả…

Như vậy dù là cơ chế thị trường đã ảnh hưởng , chi phối sâu vào làng nghề

nhưng tinh thần giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong quá trình sản xuất vẫn được các ông chủ

ở Phương La coi trọng, vẫn thể hiện tình làng nghĩa xóm, coi trọng huyết thống,

tính cố kết cộng đồng…

- Mối quan hệ chủ - thợ

Quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, kéo theo lượng người đến làm thuê ở

Phương La không còn bó hẹp ở các làng lân cận mà ở nhiều xã trong huyện, trong

tỉnh. Ngoài ra, còn lượng lớn người dệt vệ tinh, may khăn, “nhặt” khăn cho các

doanh nghiệp ở nhiều nơi khác nhau. Điều này giúp người Phương La nói chung,

các chủ doanh nghiệp nói riêng mở rộng giao lưu, sự cởi mở trong giao tiếp.

Công nhân ở đây làm công nhật hoặc khoán sản phẩm tùy theo cơ sở sản

xuất và tính chất công việc… Những công nhân này có thể là người cùng trong

dòng tộc, làng xã hoặc người thân quen nên họ đã có sẵn mối quan hệ với nhau; lại

được chính các chủ sản xuất nhận vào làm việc nên giữa chủ và thợ không có sự

ngăn cách quá lớn. Doanh nghiệp muốn phát triển ổn định thì phải quan tâm tới đời

sống vật chất và tinh thần của công nhân, quan tâm tới cả đời sống gia đình của

công nhân. Mối quan hệ ấy vẫn thể hiện gắn bó, chia sẻ lẫn nhau. Nhiều doanh

nghiệp tổ chức cho thợ ăn trưa để động viên và cũng là nhằm nâng cao năng suất

lao động; ngày lễ, Tết đều có quà thưởng cho công nhân... Ở Phương La, hiện tượng

đuổi việc hay xích mích giữa chủ và người làm ít xảy ra. Chưa có việc chậm trả

lương hoặc có bất hòa giữa chủ và thợ xảy ra ở đây.

90

Hộp 3.3: Quan hệ giữa chủ - thợ

Ông Trần Văn Dũng - Giám đốc công ty TNHH Thảo Nguyên: “Điều quan

trọng là mình hiểu tâm tư, nguyện vọng của công nhân, chia sẻ với họ và quan

trọng hơn là tạo công ăn việc làm ổn định, thu nhập tương đối thì họ sẽ gắn bó với

mình, làm việc cho mình. Ngày Tết, lễ cũng chuẩn bị cho họ chút quà: gói bánh, cân

đường… gọi là để động viên, khích lệ. ”.

[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].

Xuất phát từ cách đối xử “có nghĩa, có tình” giữa các chủ doanh nghiệp với

công nhân nên mối quan hệ của chủ với người làm lại càng gắn bó, công nhân tôn

trọng và biết ơn chủ, làm việc với tinh thần tự giác, ý thức cao. Những người thợ

giỏi rất được các ông chủ quan tâm, tạo điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần, thậm

chí còn có thể gọi là “chiều chuộng”. Vì thế, công nhân cơ bản rất gắn bó với doanh

nghiệp, quan hệ tốt với doanh nghiệp.

- Quan hệ giữa những người thợ

Như đã trình bày ở trên, công nhân ở Phương La có thể là người cùng làng,

người các làng lân cận hay trong huyện, trong tỉnh. Nhưng đã đến đây phải giữ gìn

để được có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định nên họ luôn tôn trọng lẫn nhau,

quan hệ gắn bó, đoàn kết. Địa bàn Thái Bình đất không rộng, đại bộ phận công nhân

hết giờ làm việc, về gia đình sinh hoạt, bình thường ai vào việc nấy, mải làm, do đó

ít có sự va chạm.

Đã cùng làm với nhau trong một công ty, cùng một doanh nghiệp, họ không

phân biệt người trong làng hay ngoài làng, đều xác định là đồng nghiệp nên còn

giúp đỡ, động viên nhau khi gia đình có việc vui, việc buồn…

Nhìn chung, mối quan hệ của những người làm thợ dù là người trong hay

ngoài làng đều rất gần gũi, gắn bó và chia sẻ.

- Quan hệ chủ sản xuất - chủ tiêu thụ sản phẩm

Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì đầu ra của sản phẩm phải

được tiêu thụ tốt. Các doanh nghiệp ở Phương La, tiêu thụ sản phẩm của mình cả trong

91

và ngoài nước. Hàng xuất trong nước phải qua hệ thống đại lý phân phối khắp các tỉnh

thành. Hàng xuất đi nước ngoài như Nhật, các nước châu Âu… thì yêu cầu rất khắt khe

về chất lượng, do vậy, các doanh nghiệp phải rất quan tâm tiếp thị, mở rộng các đại lý

tiêu thụ sản phẩm và lắng nghe những ý kiến đóng góp về sản phẩm từ phía chủ đại lý.

Người Phương La rất giỏi về tiếp thị, mỗi doanh nghiệp có những cách thức khác nhau

để tạo sự gắn kết giữa chủ doanh nghiệp và chủ đại lý, những đối tác tiêu thụ sản phẩm.

Hàng năm, vào dịp Tết, các doanh nghiệp có thiếp chúc Tết các cửa hàng, đại lý

tiêu thụ sản phẩm kèm theo quà, có tiền mừng tuổi tạo sự quan tâm, gắn bó để giữ mối

làm ăn. Mối quan hệ này được người Phương La giữ gìn tốt, đây cũng là mấu chốt

giúp người Phương La phát triển sản xuất.

92

3.1.2. Hiện tượng tách họ, dựng nhà thờ mới

3.1.2.1. Nguyên nhân tách họ

Dòng họ của người Việt là tập hợp của những người có cùng một huyết thống,

hay có chung một ông tổ, từ lâu đã không còn là đơn vị kinh tế, một đơn vị sở hữu (vì

đã chia thành nhiều gia đình nhỏ - gia đình hạt nhân, với thân phận kinh tế - xã hội

riêng). Tuy nhiên, với sức cố kết rất lớn về tâm lý và tình cảm, nhờ ý thức chung về cội

nguồn (có chung ông tổ), được củng cố bởi mộ tổ, gia phả (tộc phả), nhà thờ họ (hay

chi họ), ngày giỗ tổ, dòng họ đã tạo ra tâm lý gắn kết dòng họ (“Họ chín đời hơn người

dưng”, “Cửu đại hơn ngoại nhân”…). Ý thức, tâm lý cố kết này mang nhiều ý nghĩa

tích cực, giúp cho người trong họ giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn, có công to

việc lớn (ma chay, cưới xin...), trong tổ chức khai hoang, phát triển sản xuất, khuyến

học, đánh giặc, cả trong xây dựng cơ sở cách mạng và phong trào cách mạng sau này.

Song ý thức, tâm lý cố kết trên cũng đem lại nhiều tác động tiêu cực như tâm lý cục bộ

dòng họ, sự đố kỵ và mâu thuẫn giữa các cặp dòng họ trong làng (họ đa đinh - ít đinh;

họ chính cư - ngụ cư; họ đến trước - đến sau, họ quyền thế - bạch đinh). Nhiều trường

hợp, các dòng họ lớn chèn ép các họ nhỏ; hoặc giữa các họ lớn diễn ra tình trạng “kình

địch” với nhau kéo dài nhiều đời, thậm chí cả tuyệt giao quan hệ hôn nhân với nhau.

Ngay nội bộ dòng họ ở nhiều nơi đã xảy ra những mâu thuẫn, tranh chấp giữa các chi,

cành nên có hiện tượng “Đi việc làng bênh việc họ, đi việc họ bênh việc anh em”.

Từ năm 1960 đến 1986, công cuộc hợp tác hóa, xây dựng các hợp tác xã

nông nghiệp trong nông thôn làm cho gia đình không còn là đơn vị kinh tế tự chủ,

ruộng bị thu lại để chia cho nông dân (từ năm 1955), sau đó bị công hữu hóa. Cơ sở

kinh tế của dòng họ không còn. Kinh tế gia đình phụ thuộc chặt vào kinh tế hợp tác

xã. Đời sống rất khó khăn. Tổ chức dòng họ cùng các hoạt động thờ cúng của nó vì

thế bị suy giảm đáng kể. Nhiều nhà thờ dòng họ bị xuống cấp hoặc không còn vì

những lý do khác nhau.

Công cuộc Đổi mới cùng sự phát triển của kinh tế đã tạo điều kiện cho việc

phục hưng dòng họ. Phong trào “trở về nguồn, tìm về cội nguồn” xuất hiện ở phần

lớn các địa phương, các dòng họ, thông qua việc lập lại Hội đồng gia tộc (hoặc Ban

liên lạc, Ban khánh tiết dòng họ), sưu tầm tư liệu để dịch lại, lập lại và bổ sung gia

phả, tộc phả hoặc phả đồ; dựng lại hoặc tu bổ nhà thờ họ, sửa sang mộ tổ, tổ chức

lại các nghi thức tế lễ… Dòng họ vẫn có ảnh hưởng lớn về tâm lý, tình cảm với các

thành viên, vẫn có tác dụng tích cực nhất định trong quản lý xã hội, góp phần phát

triển kinh tế ở các làng quê. Tuy nhiên, các ảnh hưởng tiêu cực của dòng họ vẫn còn

rất đậm nét, thể hiện qua hiện tượng “chi bộ dòng họ”, “chính quyền dòng họ” xảy

ra ở nhiều địa phương. Qua thời gian, ở nhiều địa phương, một số dòng họ đã xảy ra

tranh chấp về thế thứ do không còn lưu giữ được gia phả; dẫn đến mâu thuẫn,

không cùng tổ chức các sinh hoạt chung của dòng họ, thậm chí có nơi từ tranh chấp

thế thứ và “đoạn tuyệt” quan hệ này dẫn đến tranh chấp nhà thờ họ, khiến chính

quyền phải giải quyết.

Trong bối cảnh chung của các làng quê đồng bằng Bắc Bộ, các dòng họ ở

Phương La cũng có những đặc điểm, những biểu hiện tích cực, “tiêu cực” trên đây.

Tuy nhiên, do Phương La là làng nghề, kinh tế phát triển, xuất hiện đội ngũ doanh

nhân giàu có, trong số họ, có một số người có tính thích phô trương, “thích thể

hiện” nên những đặc điểm tiêu cực trên đây của dòng họ dẫn đến tình trạng cực

đoan. Nếu ở các làng nông nghiệp, mâu thuẫn và sự “phân ly” trong nội bộ dòng họ

chỉ dẫn đến không tổ chức thờ cúng chung, mà tổ chức ở nhà của những người “đầu

trò”, do không đủ điều kiện xây nhà thờ riêng thì ở Phương La, một cơ sở kinh tế

93

mạnh hay “trên tiền” giúp cho một số chủ doanh nghiệp bỏ tiền ra dựng nhà thờ

riêng, giúp cho việc tách họ nhanh chóng được “hoàn thiện”.

3.1.2.2. Thực trạng hiện tượng tách họ, dựng nhà thờ mới ở làng dệt Phương La

Từ đường dòng họ là nơi diễn ra hoạt động thờ cúng tổ tiên của dòng họ, nơi

diễn ra các sinh hoạt chung của họ. Hoạt động quan trọng và lớn nhất diễn ra tại đây là

giỗ họ, còn gọi là lễ giỗ tổ. Việc giỗ tổ nhằm tưởng nhớ đến những vị thủy tổ sáng lập

ra dòng họ, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của con cháu. Thông

thường, các dòng họ tổ chức giỗ họ mỗi năm một lần, những dòng họ có gia phả ghi

chép đầy đủ cả ngày mất của thủy tổ ông và thủy tổ bà thì giỗ một năm hai lần. Ngoài

ra, các hoạt động hội họp bàn việc họ; tuyên dương, báo công kết quả học tập của con

cháu trong họ,… cũng đều diễn ra tại đây. Nhà thờ họ có ý nghĩa vô cùng quan trọng

trong đời sống tâm linh đối với từng dòng họ. Mỗi khi có việc lớn, các gia đình đều

biện lễ vào từ đường để cầu xin mọi điều tốt lành. Đánh giá về mức độ quan trọng của

việc duy trì hoạt động dòng họ ở Phương La so với trước năm 2000, qua xử lý các

phiếu điều tra, chúng tôi có kết quả được thể hiện ở Bảng 3.1.

Bảng 3.1: Đánh giá việc duy trì hoạt động dòng họ hiện nay

Đơn vị tính: %

Tầm quan trọng của dòng họ

Hiện nay

Trước năm 1996

Quan trọng

66,96

66,07

Bình thường

33,04

33,48

Không quan trọng

0,0

0,45

Khó đánh giá

0,0

0,0

[Nguồn: Kết quả xử lý số liệu điều tra (Phụ lục 7].

Theo kết quả trên, có tới 66.96% số người dân ngày càng rất coi trọng vai

trò, hoạt động của dòng họ; lớn hơn so với trước 1996 (66.07%). Vì vậy, mọi thành

viên các gia đình trong họ luôn hướng về dòng họ, về nơi thờ tự. Chính vì thế, nhà

thờ họ cũng được con cháu chăm lo tu bổ, xây mới khang trang, lộng lẫy và tốn kém

hơn các di tích tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng làng. Một số dòng họ đã có nhà

thờ, so ra lại “kém” hơn họ khác nên đầu tư kinh phí để xây lại cốt to hơn, lớn hơn

94

của người. Ngoài ra, hoạt động dịch, viết mới gia phả cũng rất được các dòng họ

chú trọng...

Các hoạt động trên, về mặt tích cực đã giáo dục con cháu hướng về cội

nguồn, có hiếu lễ với ông bà, tổ tiên, thêm tình cảm gắn bó với gia đình, quê hương,

đất nước, phát huy truyền thống của dòng họ… Mặt khác, do tác động của cơ chế

thị trường với tâm lý “phú quý sinh lễ nghĩa”, đặc biệt, do người Phương La giàu có

nên biểu hiện trên càng đậm nét. Khảo sát tại làng, chúng tôi thấy hiện tượng tách

họ, dựng nhà thờ mới đang diễn ra rất phổ biến và ngày càng có chiều hướng xây

dựng nhà thờ to lớn hơn, quy mô hơn.

- Trường hợp họ Trần, dòng họ lớn nhất ở Phương La, có 15 chi, chi ông Trần

Văn Sen đứng đầu có 120 hộ. Đây là chi cả và xác định Hoằng Nghị Đại Vương là tổ

họ nhưng một số chi trong họ không công nhận. Từ đường cũ của họ Trần ở Phương

La do gia đình ông Trần Văn Sen phụng thờ, là toà nhà cổ kính gồm một ngôi nhà tổ và

một căn nhà lưu liệm. Nhà lưu niệm được xây dựng lại vào năm 1984 - 1985. Hầu hết

các di vật ở nhà lưu niệm đều mới được phục chế. Hiện nay, họ Trần còn xây dựng một

từ đường mới sát chợ Mẹo, rộng nhiều ha đất, kiểu cổ, cao năm tầng và còn chồng

thêm bảy tầng mái; nổi lên giữa làng Phương La càng tôn thêm vẻ giàu có trù phú của

làng nghề. Nhà thờ được xây dựng lên rất “hoành tráng”, nhưng người của nhiều chi tự

tổ chức tại gia đình mà không đến đây sinh hoạt dòng họ.

- Nhà thờ họ Lê được xây dựng cách đây khoảng 400 năm, tháng 8/2006

được dựng lại với kinh phí trên 3 tỷ đồng, gồm tầng hầm là nơi ăn uống; tầng trên là

nơi thờ tự vào dịp giỗ họ (tháng hai hằng năm). Song khi nhà thờ vừa dựng xong,

trưởng họ, đang sống tại Ninh Bình, có tiền mang về làng, tự xây nhà thờ riêng. Xây

xong nhà thờ mới, mâu thuẫn cũng xuất hiện; hai chủ doanh nghiệp khác đã xây nhà

thờ riêng, tách ra khỏi họ. Đến nay, họ Lê Văn đã tách thành năm chi, trong đó có

hai chi chưa xây được nhà thờ họ vì chưa có tiền hoặc đã có tiền nhưng còn nhiều lý

do mà chưa muốn xây.

- Họ Đinh có hai chi, do mất đoàn kết, một chi tách thành hai nên họ Đinh

hiện có ba chi, trong đó, chi trưởng, không có ai là chủ doanh nghiệp nên chưa xây

95

được nhà thờ. Hai chi còn lại do hai chủ doanh nghiệp giàu có, tuy không phải là

trưởng nhưng đã dựng nhà thờ riêng, kinh phí trên 500 triệu đồng.

- Họ Đỗ, do sự phân định thế thứ không chuẩn, phả đồ chưa được lập lại,

cũng tách họ. Từ một họ thống nhất, tách thành hai họ, nơi thờ tự riêng.

- Họ Vũ có ba chi nhưng chỉ có chi Vũ Quang xây nhà thờ mới vào năm 2010,

với số tiền một tỷ đồng, do con cháu dòng họ đóng góp. Đây là một trong những ngôi

từ đường đẹp nhất ở làng Phương La. Còn các chi khác chưa có nhà thờ nhưng vẫn

cúng lễ riêng. Mỗi năm, các gia đình thay nhau "dọn họ" một lần "cơm lần, cháo lượt";

bắc rạp, lo cúng lễ và mời con cháu trong họ đến sinh hoạt.

Cũng có trường hợp, không phải do kinh tế mà bởi sự ngang ngược của một

vài người (hàng con cháu) trong dòng họ nên cũng có sự tách nhỏ họ. Điển hình là họ

Đào, tuy nghèo nhưng vẫn tách thành hai chi vì bất hòa.

Qua khảo sát tại hai xã nghề Nam Cao và Minh Tân, hiện tượng bất hòa

trong các dòng họ đôi khi vẫn xảy ra; việc tu bổ, xây dựng từ đường mới có nhưng

hiện tượng tách họ, xây thêm từ đường hầu như không xảy ra.

Như vậy, nghề dệt phát triển, kinh tế giàu có, đời sống vật chất của người dân

nâng cao, song cũng vì thế mà nảy sinh bất hòa, mâu thuẫn trong các mối quan hệ

ruột thịt, họ hàng, điển hình là sự mâu thuẫn trong các dòng họ, dẫn đến hiện tượng

tách họ, dựng nhà thờ mới, tổ chức cúng lễ riêng, sinh hoạt họ cũng bị chia tách…

Vậy, kinh tế là một trong những nguyên nhân chính khiến việc tách họ, xây nhà thờ

mới ở làng Phương La nhanh chóng được thực hiện và sớm hoàn thiện. Trên đây

cũng là biểu hiện của sự rạn nứt tính cố kết cộng đồng dòng họ, làng xã trong điều

kiện CNH - HĐH đất nước.

96

3.1.3. Vấn đề an ninh - xã hội

Phương La là làng giàu có, phát triển đi lên từ nghề dệt. Mặc dù là làng giàu,

có tới cả trăm tỷ phú và hàng vài ngàn lao động đến làm thuê mỗi ngày nhưng lại là

làng rất trật tự về an ninh - xã hội. Hầu như làng không có trộm cắp, không có tệ

nạn xã hội. Qua thông tin thu thập, phỏng vấn, hiện tượng về tệ nạn xã hội ở

Phương La rất ít, số lượng có chiều hướng giảm đi:

Về tệ trộm cắp: tìm hiểu qua người dân, chúng tôi được biết, từ lâu, hiện

tượng trộm cắp tài sản ở Phương La đã không xảy ra. Mọi người ở đây, ai cũng có

công ăn việc làm, thu nhập ổn định, mải chăm chút vào công việc. Những người đến

làm thuê, luôn có ý thức giữ gìn danh dự vì nếu họ trộm cắp, người dân Phương La

phát hiện sẽ lên án, bị mất việc và ảnh hưởng về tận làng nơi sinh sống. Một số

người dân và các doanh nghiệp cho biết, ban đêm, nhiều khi quên không khóa cổng

cũng không mất mát gì.

Hiện tượng cờ bạc ăn tiền: thông thường, nghề và làng nghề phát triển thì tệ

nạn xã hội cũng có chiều hướng gia tăng. Cờ bạc ăn tiền ở mức độ nhỏ là tật của

người Việt trong các đám cưới, các cuộc vui. Họ không ngần ngại ngả bàn chơi cho

vui, rồi để giết thời gian... dẫn đến sát phạt nhau. Nhưng ở Phương La lại khác, mọi

người trong làng ai cũng tham việc, không còn thời gian sa đà vào các tệ nạn xã hội,

cờ bạc, lô đề... Đặc biệt, các chủ doanh nghiệp cũng chưa từng có ai bị phá sản, bị

sa ngã vào cờ bạc, cá độ bóng đá châu Âu. Điều này khác hẳn với làng nghề Triều

Khúc (huyện Thanh Trì, Hà Nội). Nơi đó, số lượng doanh nghiệp, các ông chủ ít

hơn nhiều so với làng Phương La nhưng lại có nhiều người bị phá sản do cờ bạc, cá

độ bóng đá... đến mức người dân còn có câu nói: "người Triều Khúc nhưng tệ nạn

châu Âu". Đa số các ông chủ tham gia cá độ bóng đá là những người chưa trở thành

chủ doanh nghiệp, công ty hoặc chỉ là doanh nghiệp nhỏ nên việc nhận thức, ý thức

về vị trí, trách nhiệm, của họ đối với công nhân, người làm thuê…, chưa thật sự đầy

đủ. Hơn nữa, Triều Khúc gần đô thị lớn, chịu ảnh hưởng sâu sắc của quá trình công

nghiệp hóa, đô thị hóa [124, tr.103]. Làng Phương La xa đô thị hơn, đặc biệt, các

ông chủ doanh nghiệp đi lên "từ mặt đất", họ đều là những doanh nghiệp lớn, ý thức

được những việc mình làm. Họ đã thành công và trân trọng giữ gìn thành quả đó.

Mặt khác, quản lý số công nhân lớn, có doanh nghiệp tới hàng mấy trăm người, các

chủ doanh nghiệp ở Phương La càng ý thức đầy đủ hơn về vai trò, trách nhiệm của

mình: lo cho sự nghiệp của doanh nghiệp, lo công ăn việc làm, đời sống công

97

nhân... Tuy nhiên các chủ doanh nghiệp ở đây cũng không thể chủ quan, vì ranh

giới giữa cái lành mạnh, cái tốt với cái chưa lành mạnh, cái xấu là rất mỏng manh.

Giải thích về việc làng Phương La không có hiện tượng các chủ cơ sở sản

xuất sa vào cờ bạc, cá độ, giám đốc một công ty TNHH nêu ý kiến :

Hộp 3.4: Nhận thức về vị trí, trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp

Ông Đào Duy Tứ - Giám đốc Công ty TNHH Minh Thu: “Chúng tôi là giám đốc

doanh nghiệp, hoàn toàn khác với chủ cơ sở sản xuất. Là giám đốc doanh nghiệp,

cầm con dấu, có tài khoản phải ý thức cao về con dấu và tài khoản của mình, làm gì

cũng phải lo tài khoản không bị thất thoát, không vướng vào lao lý để bị thu con

dấu. Khi đó, không chỉ mất tài sản, sự nghiệp, mà còn mất cả thanh danh của bản

thân và gia đình”.

[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].

Về ma túy: làng dệt Phương La vào năm 2007, 2008; theo điều tra của

chúng tôi, có trên 10 người vừa mắc nghiện vừa buôn ma tuý; ở tù là 5 trường hợp,

án ma tuý là 4 trường hợp và Phương La cũng có một đôi vợ chồng từng là thợ dệt

song vì lợi trước mắt, buôn ma tuý, cả hai vợ chồng đều phải vào tù. Thanh niên

nghiện ma tuý ở Phương La chủ yếu là do đua đòi, đám thanh niên đua đòi này phần

nào cũng làm ảnh hưởng tới số công nhân làm thuê cho Phương La. Còn hiện nay,

theo báo cáo của UBND xã Thái Phương, Phương La hầu như không có người

nghiện ma túy vì làng nghề ổn định sản xuất, các gia đình có điều kiện chú trọng

đầu tư cho con em ăn học.

Làng Phương La đến thời điểm này, an ninh tốt, ít tệ nạn vì kinh tế ổn định,

đời sống người dân sung túc, mọi người ai cũng có công ăn việc làm. Tuy nhiên,

nghề phát triển, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa cùng với sự xuất hiện của

những người lao động làm thuê đã khiến cho vấn đề an ninh - xã hội của Phương La

luôn tiềm ẩn những phức tạp, gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý của các cấp

chính quyền. Điều này, đặt ra cho các cấp chính quyền cần quan tâm, để có hướng

giải quyết.

98

Bảng 3.2: Số ngƣời đến dệt thuê ở Phƣơng La, theo các năm

Thôn T

Số người đến dệt thuê theo các năm

TT

2010

2011

2012

2013

2014

1 2 3 4

Phương La 1 Phương La 2 Phương La 3 Phương La 4

650 415 396 414

672 465 416 507

681 500 516 605

700 618 681 701

814 701 697 801

[Nguồn: UBND xã Thái Phương]. Làng dệt Phương La thu hút một lượng lớn lao động người ngoài làng vào

làng nghề, tạo được mặt tích cực đó là sự giao lưu văn hoá - xã hội nhưng đồng thời

nó cũng gây khó khăn cho công tác quản lý xã hội và quản lý văn hoá. Làng dệt

Phương La dễ tiếp cận lối sống đô thị nên cũng dễ bị tác động văn hóa không lành

mạnh của lối sống đô thị vào trong làng. Người làng nghề có mối quan hệ làm ăn

rộng rãi với nhiều nơi nên cũng dễ du nhập yếu tố văn hoá không phù hợp ở nơi khác

vào. Sự xâm nhập lối sống của xã hội thượng lưu phương Tây, xa lạ với truyền thống

dân tộc đang có xu hướng lan rộng. Do tiếp xúc với thị trường, buộc con người ta

phải năng động, thích ứng đồng thời họ càng phải nắm bắt, am hiểu các quy luật thị

trường, am hiểu pháp luật. Tuy nhiên, chính việc này dễ dẫn đến mối quan hệ giữa

con người với con người trong các làng nghề chủ yếu là mối quan hệ kinh tế, quan hệ

luật pháp, nặng về lý. Điều này không chỉ diễn ra giữa các hộ làm ăn kinh tế với nhau

hay giữa các chủ với nhau, mà nó còn biểu hiện ngay cả trong mối quan hệ giữa các

thành viên trong gia đình. Tình cảm, trách nhiệm của con cháu với tổ tiên, ông bà cha

mẹ được nhìn nhận thông qua sự đầu tư về kinh tế. Thước đo tình cảm giữa người

trong làng cũng là bằng tiền. Tiền mừng đám cưới càng lớn càng chứng tỏ sự quan

tâm gần gũi của người mừng. Trong làng nghề, con người cần sự rành mạch, cần cái

lý, cái luật để giải quyết công việc dẫn đến cứng nhắc trong ứng xử, giao tiếp.

Bên cạnh đó, lối tư duy mang tính tiểu nông, đó là sự khoe khoang, đề cao

mình, tâm lý sùng ngoại; sự ganh đua đố kỵ giữa các dòng họ, quyền thế hay không

quyền thế; kiểu làm ăn buôn bán mang tính ăn sổi, chỉ thấy lợi trước mắt vẫn diễn ra

ở làng nghề Phương La - ví dụ đưa công nghệ tẩy vào trong làng thì thu nhập tăng

lên, nhưng không thấy được tác hại của nước thải, chịu sự ảnh hưởng của độc hại

99

cho mọi người xung quanh mình…Tư tưởng trọng nam vẫn còn tồn tại ở một bộ

phận lớn những người thợ thủ công, dẫn đến việc tạo lập tương lai cho con cháu ở

làng nghề cũng thiếu sự bình đẳng. Đó là quan tâm tới sự thành đạt của nam nhiều

hơn, nhiều em trai được đi du học nước ngoài. Dòng họ Lê ở làng dệt Phương La có

tới 10 người đi du học ở nước ngoài, nhưng học xong thì nam giới có trở về quê

phát triển nghề truyền thống hay chuyển sang những lĩnh vực hoàn toàn mới? Nếu

vậy làng nghề có còn được mở mang và phát triển? Nhìn chung các làng nghề có

thu nhập khá thì tỷ lệ sinh con thứ ba rất nhiều, chiếm 13% đến 19%. Xã Thái

Phương, trong năm 2007 có tới 34 gia đình có con thứ ba, cá biệt còn có gia đình

sinh con thứ tư, riêng làng Phương La tỷ lệ sinh con thứ ba là 19% điều này ảnh

hưởng trực tiếp tới xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá.

Mặc dù theo báo cáo của UBND xã, làng Phương La hiện không có trường

hợp nào mắc nghiện nhưng các cộng tác viên cho chúng tôi biết, làng không có

người nghiện hút dặt dẹo, lang thang, nhưng tiềm ẩn trong một vài gia đình đã có

con bị nghiện, do có kinh tế, họ có tiền cho con đủ hút nên vẫn làm việc và kiểm

soát được. Vì danh dự gia đình, họ không để lộ ra ngoài và chưa để con cái làm ảnh

hưởng đến làng xã. Các loại phương tiện vận chuyển, xe cơ giới, xe thô sơ… tăng

chóng mặt, giao thông có thời điểm bị ách tắc… Làng quá tải về nhiều mặt: mật độ

dân số, sử dụng dịch vụ, hạ tầng cơ sở.

Chính những đặc điểm trên đây gây khó khăn và áp lực đối với công tác an

ninh, trật tự của Làng.

100

3.2. Văn hóa tinh thần của làng dệt Phƣơng La hiện nay

3.2.1. Lối sống, tâm lý của người Phương La

3.2.1.1. Sự hình thành nhịp sống và tác phong, lối sống công nghiệp

Nền sản xuất nông nghiệp lúa nước của người Việt có đặc điểm nổi bật là diễn

ra theo “mùa vụ. Yếu tố “thì” (thời vụ) giữ vai trò trọng yếu, quyết định đến được mùa

hay mất mùa. Chính phương thức canh tác này dẫn đến một đặc điểm cơ bản trong lối

sống của người nông dân Việt là giờ giấc làm việc và nghỉ ngơi không ổn định, vào lúc

mùa vụ (thời điểm có các công đoạn trồng cấy và thu hoạch) rất bận rộn, căng thẳng,

phải tập trung mọi nhân lực gia đình, sức lực và thời gian cá nhân để cày cấy và gặt

hái; song khi thời gian “tháng công, đồng vụ” qua đi, tức thời kỳ nông nhàn, lại nhàn

rỗi. Đặc điểm này ảnh hưởng đến nét nổi bật trong sinh hoạt của người nông dân là giờ

giấc không thật chuẩn xác, cho các công việc, cho nghỉ ngơi của từng ngày.

Trong khi đó, để bảo đảm sản xuất, người làm công nghiệp có nhịp sống ổn

định, theo giờ giấc vì tính chất công việc của họ bị phụ thuộc vào các quy định của

cơ sở sản xuất (nhà máy, xí nghiệp hay phân xưởng). Mỗi người là một mắt xích

trong dây chuyền sản xuất, có quan hệ chặt chẽ với công việc của người khác… nên

buộc phải theo một quy trình nghiêm ngặt. Một người đi làm muộn, làm với tốc độ

chậm sẽ ảnh hưởng tời phần việc của người khác. Do vậy, tác phong khẩn trương và

chính xác giờ giấc là đặc điểm nổi bật của lối sống của cư dân công nghiệp.

Người làng Phương La xưa, khi còn làm ruộng và còn lối dệt truyền thống, nhịp

điệu sống vẫn mang tính mùa vụ. Nghề dệt chiếm ưu thế và chuyển sang sản xuất công

nghiệp, người Phương La đã từng bước thay đổi lối sống truyền thống, chuyển thành

công nhân, thích ứng với tác phong công nghiệp, đó là giờ giấc làm việc phải chính xác,

tiết kiệm thời gian. Từ nhịp sống mùa vụ, nông nghiệp sang nhịp sống công nghiệp chưa

đầy đủ, vẫn có sự pha trộn, đan xen, chưa hẳn là nhịp sống đô thị nhưng khẩn trương,

gấp gáp và năng động, đặc biệt phải đúng giờ theo quy định của cơ sở sản xuất.

Thông thường, các cơ sở sản xuất ở Phương La qui định cụ thể về thời gian

làm việc, vào mùa đông, buổi sáng làm việc từ 7 giờ 30 phút đến 11 giờ 30 phút,

buổi chiều từ 13 giờ; mùa hè, sáng làm việc sớm hơn nửa tiếng, buổi chiều muộn

hơn nửa tiếng. Thời gian cao điểm, công nhân còn làm tăng ca. Công nhân buộc

phải đi làm đúng giờ để không bị nhắc nhở, ghi tên, trừ lương, trừ thưởng; ngoài ra,

họ phải đi làm đúng giờ nhằm đảm bảo số lượng và chất lượng sản phẩm để có

nguồn thu. Điều này, đã góp phần tạo nên tác phong công nghiệp cho cư dân.

Tuy nhiên, do các chủ cơ sở và phần đông công nhân là người cùng xóm, cùng

làng, thậm chí nhiều trường hợp là người cùng dòng họ, nên việc công nhân xin nghỉ

sớm, đến muộn vẫn diễn ra, các chủ doanh nghiệp dù muốn hay không vẫn phải chấp

nhận. Tình cảm xóm làng, họ hàng của xã hội nông nghiệp nhiều khi vẫn “át” những

nguyên tắc lẽ ra phải được tuân thủ nghiêm ngặt của cuộc sống công nghiệp.

101

Các hộ gia đình dệt vệ tinh, mùa hè, bắt đầu công việc từ 6 giờ sáng (mùa

đông là 7 giờ); nghỉ trưa hơn 01 giờ; sau đó dệt đến 6 - 7 h tối, nghỉ ăn cơm, có khi

dệt đến 9 - 10 giờ đêm.

Việc hình thành các khu công nghiệp, mở rộng sản xuất của các hộ gia đình,

các công ty, doanh nghiệp đã khiến diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. Làng “mở”

hơn, người Phương La vốn năng động, nhanh thích ứng với điều kiện mới; khi cuộc

sống có nhiều thay đổi, mối quan hệ xã hội cũng đổi thay, họ càng trở nên năng động

hơn để đạt được mục tiêu trong cuộc sống. Vì vậy, họ luôn bận rộn với công việc,

quan hệ với đối tác, thường xuyên đi giao dịch, maketing sản phẩm… nên thời gian

để các thành viên trong gia đình quan tâm trò chuyện với nhau, các bữa ăn đông đủ

cũng thưa dần và trở nên phổ biến. Trong giao tiếp cũng thường bàn đến công việc, ít

có điều kiện nói chuyện phiếm. Như vậy, việc tập trung gia đình để bàn bạc các công

việc chung cũng cần phải bố trí, tính toán mới có thể thực hiện được.

Nghề dệt phát triển tạo điều kiện cho các hoạt động dịch vụ được mở mang.

Trên 90% số hộ trong làng không còn làm nông nghiệp mà đã chuyển hẳn sang làm

nghề, làm dịch vụ, kinh doanh hoặc làm thuê. Điều này làm cho nhịp sống của từng

gia đình cũng như của cả làng đã khác xưa, luôn tất bật, hối hả, khẩn trương. Họ

bận rộn trong mọi hoạt động, ở mọi thời điểm, từ sáng sớm tinh mơ đến tận 9, 10

giờ đêm, gần như không có thời gian rỗi. Bước chân tới đầu làng Phương La, du

khách chỉ nghe thấy âm thanh của máy dệt, thoi đưa; không thấy cảnh thanh niên,

những người trong độ tuổi lao động, thậm chí cả người già “la cà” trên đường làng,

trong các quán xá. Tuy nhiên, một bộ phận người làng Phương La đã ổn định sản

xuất, ổn định nơi tiêu thụ sản phẩm…tỏ ra khá bình thản, thong dong tạo ra dáng

dấp của những ông chủ có tiền, khẳng định mình.

Lối sống công nghiệp được biểu hiện rõ nét trong từng gia đình ở Phương

La. Các gia đình chủ công ty, việc thực hiện giờ giấc hết sức nghiêm ngặt, đúng giờ

bởi ông chủ phải đến trước kiểm tra, chuẩn bị một số công việc phải triển khai…,

đến trước công nhân để quan sát, quản lý và đôn đốc họ làm việc. Bà vợ cũng phải

đến rất đúng giờ còn chỉ huy nhập, xuất nguyên liệu, sản phẩm và giải quyết các

102

công việc khác. Còn việc nội trợ, nhà cửa… đã có người giúp việc chăm lo. Các gia

đình dệt vệ tinh cũng khẩn trương không kém; bà vợ, sáng dậy sớm, lo ăn sáng cho

cả gia đình; đến giờ, các lao động chính ngồi vào máy dệt không ngừng nghỉ để

nâng cao năng suất lao động, tăng nguồn thu cho gia đình. Những người dệt thuê

cho các công ty, xí nghiệp để không sợ mất việc, lo trừ tiền lương…buộc cũng phải

khẩn trương, đi làm đúng giờ, làm tăng ca, tăng thêm thu nhập, có tiền thưởng... Cứ

vậy, ở Phương La, ai cũng khẩn trương, tất bật, hối hả, tạo nên lối sống, tác phong

công nghiệp. Sản xuất theo quy mô công nghiệp, tự động hóa, hợp đồng ký kết đòi

hỏi đúng tiến độ… tạo cho các hộ lao động làng Phương La tác phong lao động công

nghiệp, đúng giờ giấc, khác hẳn với lề lối làm việc xưa, coi làm nghề chỉ là làm

thêm lúc nông nhàn, vì vậy: thích thì làm, không thích thì nghỉ. Đây là nét mới, tác

phong mới trong lao động của người làng nghề thời kỳ đổi mới.

Nhịp sống của người Phương La có sự biến đổi nhưng không vì thế mà họ

xem nhẹ các lễ tiết trong năm, các lễ tiết vẫn được bảo lưu và thể hiện theo đúng mô

thức, nhịp điệu của đời sống nông nghiệp mùa vụ nhưng được coi trọng, đầu tư và

tiến hành trang trọng hơn. Như vậy lối sống đô thị, công nghiệp đã và đang hình

thành và tồn tại đan xen với lối sống nông nghiệp tình nghĩa làng quê trong làng dệt

Phương La. Đánh giá về mức độ coi trọng vấn đề tâm linh của dân làng nghề hiện

nay so với trước 1996, chúng tôi thu được kết quả ở Bảng 3.3.

Bảng 3.3: Đánh giá mức độ coi trọng vấn đề tâm linh

103

của ngƣời dân hiện nay so với trƣớc năm 1996

Vấn đề tâm linh

Mức độ coi trọng

Hiện nay

Trước 1996

Quan trọng

21,43

14,29

Bình thường

78,57

85,71

Không quan trọng

0,0

0,0

[Nguồn: Tổng hợp phiếu điều (Phụ lục 7)].

Như vậy, số người coi trọng vấn đề tâm linh hiện nay đã tăng lên nhiều so

với trước năm 1996, điều này thể hiện các yếu tố văn hóa truyền thống vẫn được

người dân bảo lưu và coi trọng.

3.2.1.2. Tính cách người làm nghề

Với người làng dệt Phương La khởi nguồn là nông dân, kinh tế nông nghiệp giữ vai

trò chủ đạo, nên có chung thuộc tính của người nông dân Thái Bình, nông dân Việt Nam.

Tuy nhiên, do lịch sử hình thành đất đai, dân cư… nên tính đa dạng về văn hóa rất cao.

Làng nghề dệt truyền thống Phương La phát triển, kéo theo nhiều thay đổi,

nhiều biến đổi của văn hóa làng nghề. Những biến đổi này cũng là thuận theo quy

luật của sự phát triển. Một trong những biến đổi đó chính là tạo ra lối sống và tâm

lý, tính cách người làng nghề:

- Tính cần cù, kiên nhẫn: Người làng dệt Phương La có đặc tính rất cần cù, chịu

khó và tỉ mẩn khó có nơi nào sánh được. Hầu hết các doanh nghiệp thành đạt cũ và mới

trên địa bàn đều trải qua những năm tháng khó khăn gian khổ. Họ đều cố gắng tìm cách

đứng vững, không chùn bước và quyết tâm đạt được mục tiêu đề ra. Khởi nguồn, đại đa

số, các chủ doanh nghiệp ở Phương La cũng hầu như từ hai bàn tay trắng. Họ có thể bỏ

ra rất nhiều thời gian, kiên nhẫn học hỏi, trau dồi kiến thức thực tế từ các làng nghề ở các

địa phương khác. Họ không ngần ngại giả làm người buôn đồng nát để nén học được

nghề. Đặc biệt, người phụ nữ ở Phương La rất chịu thương chịu khó, lo toan mọi công

việc từ bếp núc, gia đình, chồng con, lại còn lo cho công việc của công ty, doanh nghiệp.

Hộp 3.5: Biểu hiện tính cần cù, kiên nhẫn của ngƣời Phƣơng La

Chị Lê Thị Hằng (vợ một chủ doanh nghiệp): "Chúng tôi chịu nhiều áp lực

lắm, áp lực gia đình nuôi dạy con cái (nhà có ba con gái nhưng vẫn phải có con

trai nên tôi phải đẻ thêm đứa thứ tư, may mà là con trai), lo nội trợ để cân đối chi

tiêu gia đình; đồng thời, lại phải lo hoàn thành công việc doanh nghiệp (quản lý

các khâu nhất là quản lý sản xuất) còn chồng tôi lo nguyên liệu đầu vào, tiêu thụ

sản phẩm. Nhiều lúc cũng oải lắm, cũng cần phải tính toán để có người kế cận vì

công việc làng nghề lắt nhắt, tỉ mẩn. Có những lúc gia đình tôi không nhận hàng

nữa vì mệt, nhưng cũng không tiếc lắm, phải biết lượng sức mình, xác định biết

mình là ai, đang đứng ở chỗ nào. Mặc dù vậy, việc nào vẫn ra việc ấy, tôi vẫn chịu

khó với công việc nhà, kiên trì kèm cặp con cái học hành, dạy dỗ chúng".

[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].

104

Ban đầu, người Phương La không có kỹ thuật nhuộm, họ đi học và mua thuốc

nhuộm của đồng bào dân tộc, sau đó học thêm kỹ thuật nhuộm của người Hà Đông và

đến giờ, kỹ thuật nhuộm họ nắm chắc trong tay. Đến khi đã thành đạt, người Phương

La không tự thỏa mãn mà vẫn quyết tâm làm giàu bằng khả năng, trí óc của mình.

Minh chứng đó là, các doanh nghiệp ở Phương La ngày càng lớn mạnh và không có

bất cứ doanh nghiệp nào bị phá sản, ít nhất là tính tới thời điểm hiện nay.

105

- Tính nhanh nhạy, sáng tạo, quyết tâm và khát vọng làm giàu: Dù ở bất cứ

hoàn cảnh nào, người làng Mẹo cũng đề cao lòng quyết tâm với sáu chữ vàng “khát

vọng lớn” và “biết ganh đua”. Nhiều năm trước, người làng Mẹo phải sống cảnh

nay đây mai đó đi buôn bán sản phẩm nên va chạm, hiểu biết xã hội, nắm được nhu

cầu thị trường, vì vậy, thời mở cửa họ biết cách tận dụng cơ hội một cách triệt để.

Họ rất năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, luôn có khát vọng làm giàu, không

cam chịu đói nghèo. Người làng Mẹo cũng rất liều lĩnh trong công việc, thể hiện ý

chí quyết tâm làm giàu của từng người dân nơi đây, họ tâm niệm: “Được ăn cả, ngã

về không”. Những câu chuyện về các đại gia của làng Mẹo đều là kho hồi ký phi

thường về nghị lực và quyết tâm làm giàu. Mong muốn làm giàu đã ngấm vào mỗi

con người nơi đây, người người làm giàu, nhà nhà làm giàu. Từ thời bao cấp,

Phương La đã có hai hợp tác xã nông nghiệp và thủ công nghiệp sản xuất các mặt

hàng gia công. Họ bứt phá, đi khắp nơi làm giàu, dù có lúc thành lúc bại.

Người làng Mẹo vốn đoàn kết, luôn hỗ trợ nhau khi khó khăn, hoạn nạn. Họ

giỏi kinh doanh từ ngay trong trứng nước, biết tính toán, nhìn xa trông rộng, khả năng

tiếp thị tốt. Trông bề ngoài, nhiều chủ doanh nghiệp Phương La rất “nông dân”, trình

độ ngoại ngữ không hề qua trường lớp nhưng thường xuyên ra nước ngoài làm việc,

khoa học và bài bản.

- Tính mưu mẹo, tính toán và tiết kiệm: Xưa, người làng Mẹo còn được gọi là

người “làng cân” bởi sự khôn ngoan, chặt chẽ và tính toán của họ. Người làng Mẹo

thường có câu “nhìn nhau để học nhau mà làm”. Điều này thật đúng với họ, bởi

khởi nguyên, họ là những người đi học nghề, sau, nơi khác lại về chính làng Mẹo để

học. Người làng Mẹo vốn nhiều mưu kế trong kinh doanh. Để học được bí quyết

nhuộm của người Vạn Phúc, có hai anh em người làng Mẹo góp tiền lên làng Vạn

Phúc (Hà Đông) xin làm thuê ở một xưởng nhuộm, chủ xưởng không nhận người

ngoài, sợ lộ bí quyết nghề. Không chịu đầu hàng, hai anh em giả người buôn đồng

nát, hàng ngày qua lại, tìm hiểu nghề nhuộm và đã thành công.

Sự mưu kế của người Mẹo vẫn tồn tại cho tới bây giờ và có lẽ sẽ còn tiếp tục

trong tương lai. Minh chứng cho mưu kế của người Mẹo, đó là, hiện nay, một số cơ

sở sản xuất ở Phương La vẫn thường thuê chính người ở Cục thuế huyện giúp các

công ty, doanh nghiệp làm phần thuế để nộp cho Nhà nước. Do am hiểu về Luật

thuế, các kẽ hở của Luật mà cán bộ ở Cục thuế đã giúp các công ty, doanh nghiệp ở

Phương La giảm tối đa mức thuế phải đóng cho Nhà nước. Sự tính toán của người

Mẹo còn được thể hiện ở việc các công ty, doanh nghiệp chủ yếu sử dụng lao động

vệ tinh ở các làng xã lân cận nên họ đỡ lo mặt bằng sản xuất, quản lý nhân công…

giảm giá thành sản phẩm.

Cho đến giờ, hỏi về tài kinh doanh, ngoại giao của người làng Mẹo, chúng

tôi đều nhận được câu trả lời: “Người Mẹo giỏi kinh doanh, ngoại giao nhưng mặc

cả giá thì từ mặt đất trở nên”, họ rất chặt chẽ, tính toán và kiệm.

Người làng Mẹo có phong cách rất tư bản, chi tiêu khoản gì cũng tính toán,

chặt chẽ, thận trọng và hiệu quả: “ dù một đồng nhưng nếu không cần, họ dứt khoát

không chi”; nhưng lại thường ủng hộ địa phương làm các công trình phúc lợi, gây quỹ

từ thiện, quỹ khuyến học với số tiền lớn…

- Tính cố kết cộng đồng: Lối sống đô thị, nhịp sống công nghiệp đã được

biểu hiện rõ trong làng Phương La, song sự cố kết cộng đồng lại được thể hiện

không chỉ còn là trong dòng họ, xóm giềng, mà nó còn được thể hiện trong mối

quan hệ giữa các chủ doanh nghiệp trong làm ăn, giữa các gia đình trong tổ hợp,

giữa ông chủ và người làm thuê (có thể là con cháu, người cùng dòng tộc…), giữa

các dòng họ, các tổ chức, các đoàn thể xã hội khác với nhau; giữa các bạn hàng…

Mỗi người là thành viên của nhiều tổ chức, hội, phường khác nhau, có những vị trí,

những vai khác nhau trong từng tổ chức nên mối quan hệ giữa những người trong

làng không thuần túy chỉ còn là quan hệ huyết thống, quan hệ xóm giềng, bạn hàng

106

mà còn nhiều mối quan hệ ràng buộc khác. Chính vì vậy, sự cố kết cộng đồng ở

làng dệt Phương La vẫn bền chặt. Điều này được thể hiện, mặc dù công việc bận

rộn, thì giờ đối với người làng dệt là vàng ngọc nhưng khi có người mất, hoặc có

cưới xin, các gia đình không ngần ngại đều cắt cử thành viên của gia đình bỏ công

việc đi thăm viếng, chia vui, sẻ buồn. Họ luôn thể hiện sự tôn ti, trật tự, coi trọng

thứ bậc trong dòng tộc, với người làng.

Khi làm ăn, sinh sống ở các nơi khác, gặp người làng, hoặc nghe thông tin về

người làng, người Phương La tìm cách liên lạc, chia sẻ, giúp đỡ, thậm chí “bảo vệ

nhau” khi cần thiết.

Các doanh nghiệp rất có sự cạnh tranh trong tìm nơi tiêu thụ sản phẩm, thu

mua nguyên liệu đầu vào... nhưng khi doanh nghiệp nào đó cần có sự hỗ trợ của các

công ty, doanh nghiệp khác, họ lại sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ. Hoặc, doanh nghiệp

nào đó, nhận được đơn hàng lớn thì các công ty, doanh nghiệp khác sẵn sàng tạo

điều kiện về công nhân, các phương tiện hỗ trợ khác để doanh nghiệp hoàn thành

sản phẩm, kịp thời bàn giao cho nơi đặt hàng. Chính vì vậy, chỉ ở Phương La mới

có “công nhân làng nghề” chung, “máy dệt làng nghề” chung.

- Tính cách cư dân thành thị bước đầu hình thành: Biểu hiện tính cách của

người thành thị đang dần hình thành trong tính cách người Phương La. Do có kinh

tế vững vàng, lại giao thiệp với nhiều loại bạn hàng, nên tính đố kỵ trong con người

tiểu nông ở người Phương La đã suy giảm rõ rệt. Họ không nhòm ngó, để ý đến

công việc của người khác; luôn coi trọng những người giỏi làm giàu.

Đặc biệt, để tạo được mặt hàng khăn xuất khẩu với giá thành hợp lý, mặt

hàng đảm bảo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, bền đẹp và ký được hợp đồng với khách

hàng ở trong và ngoài nước, các doanh nghiệp của làng nghề xuất hiện sự cạnh

tranh mạnh mẽ, về giá thành, chất lượng hàng, tuyển chọn những lao động có tay

nghề cao, song không mang tính sát phạt, gièm pha nhau.

Đối với người lao động, nếu cùng mặt hàng sản xuất mà doanh nghiệp, công ty

thanh toán tiền lương sòng phẳng, nhanh gọn, trả công cao, việc làm luôn đảm bảo, họ

sẵn sàng làm cho doanh nghiệp, công ty đó hết tháng này sang tháng khác. Nếu không,

107

họ chuyển sang làm cho công ty, doanh nghiệp, tổ hợp khác. Đây chính là sự chuyển

biến tâm lý và ý thức cơ bản của người lao động ở làng nghề Phương La trong thời kỳ

cơ chế kinh tế mới phát triển. Do ý thức được về năng lực sản xuất, về trình độ tay

nghề, về hiệu quả chất lượng mặt hàng làm ra nên người lao động có quyền tự do lựa

chọn những công ty, doanh nghiệp, tổ hợp nào đem lại nhiều lợi ích cho họ.

Trong nền kinh tế - xã hội truyền thống, để bảo đảm lợi nhuận, người làm

nghề và làng nghề thường có tâm lý giấu nghề, chỉ truyền cho con cháu trong gia

đình, họ tộc. Từ thời kỳ đổi mới tới nay, nhất là khi các công ty, tổ hợp của làng được

thành lập, tư tưởng đưa nghề ra thiên hạ chuyện không hiếm thấy ở làng Phương La

ngày nay; phá vỡ tâm lý sợ mất nghề mà tục lệ xưa của làng đã quy định. Đây là nét

mới rất quan trọng trong phát triển sản xuất góp phần nâng cao đời sống nhân dân

không chỉ ở một làng, một xã mà tạo điều kiện cho các xã khác trong huyện Hưng Hà

cùng phát triển, làm giàu bằng sức lao động và khả năng trí tuệ của mình.

Tuy nhiên, dù đang chuyển mình mạnh mẽ từ người nông dân sang công nhân

công nghiệp, từ làng nông nghiệp sang làng công nghiệp nhờ phát triển nghề thì người

Phương La vẫn chưa tách khỏi và “thoát khỏi” tâm lý và lối sống truyền thống.

108

3.2.2. Phong tục cưới xin, tang ma

3.2.2.1. Việc cưới xin

Việc cưới xin của người Phương La nay rất khác xưa, các hủ tục thách cưới,

“cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”… đã được xóa bỏ.

Việc mời cưới cũng rất mới. Hai gia đình lập danh sách khách mời, đặt mua

thiệp cưới đẹp, ghi rõ ngày cưới, giờ ăn cỗ rồi đem đến các gia đình và chỉ phải mời

một lần; không phải mời miệng, mời nhiều lần mất công như xưa. Do đã quen với

cuộc sống công nghiệp, người Phương La cũng chia sẻ và không còn yêu cầu những

nghi thức rườm rà, để tập trung thời giờ cho việc làm nghề và các công việc khác.

Nhiều gia đình ở Phương La giàu, lại có nhiều mối quan hệ làm ăn nên việc

mời cưới rất rộng. Những ông chủ doanh nghiệp, giám đốc công ty có tổ chức cưới

con mời mở rộng hơn, mời hết làng, đối tượng khách còn có cả những người cung

cấp vật tư, công nhân, các cơ sơ tiêu thụ sản phẩm nên số người đến dự rất đông, có

đám lên tới vài trăm mâm cỗ, việc ăn uống diễn ra trong vài ngày. Một mặt cũng là

để mời anh em, con cháu họ hàng gần xa; bà con hàng xóm tạo sự gần gũi, đoàn kết,

gắn bó; tỏ lòng tri ân tới các bạn hàng, đồng nghiệp, mở rộng mối quan hệ làm ăn.

Mặt khác, thể hiện vị thế của gia đình, dòng họ với mọi người, nhất là đối với các

đối tác làm ăn. Có điểm mới là, không chỉ thuần túy đến dự cưới, nhiều người đến

đây cũng còn mục đích giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, giải quyết công

việc. Các chủ doanh nghiệp nếu gặp cũng tranh thủ bàn bạc về hướng làm ăn thời

gian tới; thông tin nhanh về các vấn đề liên quan đến khâu tổ chức, sản xuất.

Về cỗ cưới, ngày xưa, cỗ cưới do con cháu trong họ, cả người làng thân thiết

đến làm giúp, bây giờ đều chủ yếu được đặt, có nhóm người chuyên làm cỗ của

làng hoặc thuê nơi khác đến. Vì vậy, con cháu cũng không phải đến trước lo làm cỗ,

còn dân làng chỉ đến chơi mừng có thể vào buổi chiều tối hôm trước, hoặc vào sáng

ngày hôm sau (hôm cưới).

Cỗ cưới của các gia đình giàu có, gồm nhiều món ăn đắt tiền, sang trọng,

không khác gì cỗ cưới ở thành phố. Mỗi mâm cỗ trị giá tới gần hai triệu đồng.

Những gia đình kinh tế ở mức khá thì mọi khâu có giảm hơn, số người mời chủ yếu

tập trung là họ hàng, làng xóm, bạn bè. Cỗ cưới của các gia đình này, thường trị giá

khoảng tám trăm nghìn đồng một mâm cho sáu người.

Địa điểm tổ chức đám cưới của người Phương La chủ yếu vẫn được tổ chức

tại gia đình, ít có đám cưới tại nhà hàng, khách sạn hay nơi công cộng của làng.

Chính vì vậy, đám cưới thường diễn ra ít nhất trong hai ngày.

Quà mừng cưới ở Phương La giờ cũng khác, không còn mừng hiện vật, đa số

người đi dự đều mừng bằng tiền. Giá trị của tiền mừng tùy thuộc vào quan hệ của

người được mời với gia chủ. Thông thường, mức mừng cưới (có đi ăn cỗ) giữa những

người dân khoảng hai trăm ngàn; thanh niên, công nhân với nhau mừng cao hơn. Các

đối tác làm ăn mức mừng còn phụ thuộc vào từng mối quan hệ với gia chủ, người có

mối quan lâu dài để làm ăn lại quý mến nhau, mừng tới một vài triệu đồng.

109

Về rước dâu, đám cưới của làng Phương La xưa, chủ yếu là đi bộ (nếu người

trong cùng xã), xa hơn là đi bằng xe đạp, xe máy. Ngày nay, hầu hết các gia đình tổ

chức cưới cho con đều sử dụng xe ô tô đi đón dâu. Các chủ doanh nghiệp cưới con,

huy động tới hàng chục xe con đưa đón dâu. Còn những gia đình kinh tế trung bình

cũng phải có ít nhất một vài xe, có thể huy động xe của gia đình, họ hàng, nếu

không có thì phải thuê.

Về thời gian ăn cỗ cưới, do ảnh hưởng của nghề, để tiết kiệm được thời gian

tập trung cho sản xuất, người Phương La tổ chức ăn cưới vào 8 giờ sáng, thường là

người vợ ở nhà dệt để chồng đi. Đôi khi, có gia đình do phụ nữ ngồi dệt ở nhà nhiều

lại đi ăn cưới cho chồng để nhân đó mà nghỉ ngơi, giao lưu...

Như vậy, việc cưới ở làng Phương La cơ bản vẫn giữ được những lễ nghi phù

hợp với truyền thống, góp phần giáo dục con cháu biết giữ gìn hạnh phúc, sống nhân

văn hơn… Tuy nhiên, việc cưới của người Phương La còn những bất cập: hiện tượng

đón dâu hai lần diễn ra khá phổ biến. Nhà trai mang theo lễ xin cưới lần một và đón

cô dâu về ngủ một đêm ở nhà chú rể, hôm sau, cô dâu “trốn” về nhà mình. Đến ngày

cưới chính thức lại có lễ xin dâu và đón dâu lần hai. Người Phương La quan niệm,

làm như vậy để tránh sự tan vỡ cho con cháu sau này. Vì thế, các gia đình, cặp đôi

đều thi nhau cưới hai lần, gây tốn kém, lãng phí và mất thời gian, công sức. Tổ chức

cưới cho con, cho cháu; vẫn có biểu hiện ganh đua, các gia đình có tiền càng tổ chức

đám cưới to “ít nhất là bằng bạn, bằng bè” “để người khác trông vào”...

Theo ông Bùi Văn Hà - Phó Chủ tịch UBND xã: “Việc ăn uống, tổ chức lễ

cưới, đưa đón dâu lại là vấn đề mà lãnh đạo xã đang vận động nhân dân hạn chế vì

quá tốn kém”. Ông cũng cho biết: “Nhưng được cái, đám cưới ở làng dù to hay

nhỏ, cô dâu chú rể đều chọn ngày lành, giờ tốt đến UBND xã làm thủ tục đăng ký

kết hôn” [Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].

3.2.2.2. Việc tang

Lễ tang là việc hệ trọng nhất trong cuộc đời mỗi con người. Đây cũng là biểu

hiện văn hóa chỉ có ở loài người. Thực chất, con người chết đi là sự chuyển hóa từ

110

dạng vật chất này sang dạng vật chất khác. Con người sẽ vĩnh viễn không còn tồn tại

trên cõi đời này nữa; đồng nghĩa, con cháu, anh em, bạn bè, người thân sẽ vĩnh viễn

không bao giờ được gặp lại người thân yêu của mình. Đây là quy luật hà khắc nhất

của tự nhiên mà không ai trên đời này có thể cưỡng lại được. Chính vì thế, người ta

quan niệm "nghĩa tử là nghĩa tận", dù lúc còn sống, người đó có nhiều lỗi lầm, sai

phạm thì đến lúc mất đi đều được tha thứ. Minh chứng là, trước khi đưa thi hài người

mất đến nơi an nghỉ cuối cùng, có đại diện chính quyền địa phương đọc điếu văn nêu

lại những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp, nhấn mạnh công trạng,

những nét tốt của người đã mất, tỏ lòng tiếc thương, lưu luyến không muốn xa lìa..

Mỗi người chết đi đều để lại cho người sống bài học về sự nhân văn, giáo

dục con người ta sống tốt hơn vì rồi "ai cũng đều chết cả"... Cho nên, việc tổ chức

tang lễ vô cùng quan trọng, thể hiện tấm lòng của người còn sống đối với người đã

khuất. Ngoài ý nghĩa đó ra, mọi thủ tục được thực hiện đầy đủ, nghiêm ngặt để

tránh điều xấu, điều bất hạnh về sau cho người sống.

Từ quan niệm trên cộng với điều kiện kinh tế khá giả nên hầu hết các gia

đình ở Phương La đều rất coi trọng và thận trọng trong tổ chức tang ma cho người

thân. Khi người nhà nằm xuống, họ mời thầy xem ngày, giờ tốt để tiến hành các

nghi thức cho đám tang: từ khâm liệm, nhập quan, chuyển cữu, hạ huyệt, tìm đất

mai táng... Trong lễ tang dứt khoát phải có tang nhạc - tang nhạc là nghi thức không

thể thiếu trong đám tang dù nhà giàu hay nghèo “sống dầu đèn, chết kèn trống”.

Địa điểm tổ chức tang lễ: mặc dù rất chật chội vì thiếu không gian nhưng việc

tổ chức tang lễ ở Phương La vẫn diễn ra tại gia đình tang chủ. Ngày thường sân nhà

là nơi tập kết nguyên vật liệu, giao sản phẩm, chỗ đặt máy dệt nhưng nay có tang ma

thì nơi đó biến thành khu vực tổ chức tang lễ. Mọi người trong làng, ngoài xã đều

chia sẻ, đồng cảm. Nếu quá chật chội, có thể sử dụng thêm một đoạn đường hay đoạn

ngõ của khu dân cư. Vì thế, đám tang của người Phương La chìm sâu trong các dãy

nhà cao tầng san sát nhau nhưng cũng rất trang trọng và nền nếp. Trường hợp, nếu

người đó mất ở ngoài làng, hoặc ở các bệnh viện vẫn đưa về nhà để làm tang.

111

Việc phúng viếng: tuy rất bận mải với công việc, nghỉ lúc nào là mất tiền lúc

đó nhưng không phải vì thế mà người Phương La bỏ qua các nghĩa vụ, các mối

quan hệ, ứng xử với người làng. Một người nằm xuống là tin lan truyền khắp làng

trên, xóm dưới. Ngay khi hay tin có người làng mất là gia đình đã cắt cử thành viên

có ý thức sang giúp đỡ gia đình tang chủ thể hiện tình làng nghĩa xóm. Do đặc thù

là làng nghề, mọi người còn bận mải với nghề nên việc phúng viếng của dân làng

cũng rất tập trung, thường họ tranh thủ đến viếng và chia buồn với tang chủ vào

buổi tối, cho nên, buổi tối nhà đám rất đông. Thông thường việc tang lễ chỉ diễn ra

trong hai ngày, một đêm, đến ngày thứ ba là đã hoàn tất hết mọi công việc và người

Phương La mời thầy cúng ba ngày cho người mất và đi đắp mộ.

Lễ viếng: xưa, khi có người mất, người mang chai rượu, người mang nón chè

hoặc thúng gạo sang chia buồn, tục này giờ không còn. Ngày nay, người dân ở đây

chỉ viếng bằng tiền, số tiền có nhiều hơn các làng khác. Tùy mối quan hệ thân sơ

mà người viếng có những mức khác nhau, thông thường, người làng viếng mỗi xuất

là năm mươi nghìn đồng. Người thân hơn với người mất hay người nhà người mất

thì có thể viếng một trăm hay vài trăm. Gia đình tang chủ đã chuẩn bị sẵn khoảng

dăm bảy lễ để các đoàn đến viếng được chủ động. Mỗi lễ thường bao gồm: nải quả,

đĩa hoa, thẻ hương. Có gia đình tang chủ còn chuẩn bị sẵn vòng hoa để các đoàn, cá

nhân chỉ mang dải băng ghi tên đoàn mình và đặt phong bì rồi vào viếng. Có điểm

khác ở làng nghề Phương La là, trước đây, người đến viếng chỉ có họ hàng, thông

gia, anh em, bạn bè, làng xóm của người mất. Bây giờ, người đến viếng còn có

thêm công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp, hoặc đối tác làm ăn có quan hệ

với người mất hay tứ thân, phụ mẫu, con cái của người mất.

Việc đưa tang: hầu hết các làng ở Hưng Hà đưa tiễn người chết về nơi an

nghỉ cuối cùng vào ban chiều, nhưng làng Phương La lại đưa tang vào buổi sáng,

như vậy đám tang có nhiều người tiễn đưa người chết mà lại tiết kiệm được thời

gian dành cho sản xuất. Mặt khác, nếu là mùa hè, thời tiết buổi sáng đỡ nắng nóng,

đảm bảo sức khỏe sẽ thuận lợi hơn cho tất cả mọi người.

Về việc ăn uống trong đám tang: xưa kia, khi người chết nằm xuống; đồng

thời, lợn cũng được “ngả” ra làm cỗ. Mỗi đám ít cũng vài chục mâm, gia đình có

112

quan hệ rộng và họ hàng đông thì có thể lên đến gần trăm mâm. Ngay sau lời điếu

văn, đại diện tang chủ đã có lời mời những ngượi dự lễ tang, khi đưa tiễn người chết

xong về gia đình “dùng bữa”. Đám tang chưa xong, gia đình đã phải phân công

người ra đầu làng đón và mời người đến chia buồn về nhà; vừa gây phiền phức cho

người đi đưa tang, vừa tốn kém, lãng phí cho gia chủ. Đã đau buồn lại lo cỗ bàn,

quả thật là mệt mỏi, tốn kém; nhiều gia đình phải chạy vạy, vay mượn.

Từ khi nghề dệt phát triển, vì tính chất nghề nghiệp, bận mải, tập trung cho

việc dệt cộng với sự vận động của chính quyền địa phương nên việc ăn uống trong

đám tang đã giảm hẳn, chỉ còn dành cho những người “mang tang”, tức là con cháu

trong gia đình, họ hàng. Vấn đề ăn uống trong đám tang ở Phương La hiện nay

được thể hiện trong Hộp 3.6.

Hộp 3.6: Vấn đề ăn uống trong đám tang

Cụ Trần Văn Quyền, thôn Phương La 2: “Ăn uống trong nhà đám giờ đã

giảm nhiều lắm rồi. Ngày xưa, cứ người chết nằm xuống là lợn cũng “ngả” theo,

bất kể giàu có hay nghèo khó. Mỗi đám cũng vài chục mâm chứ chẳng ít: con cháu,

người bắc rạp, người đào huyệt, dân làng đi đưa tang… Nhưng nay thì khác, cơm

nước giờ chỉ dành cho người “mang tang”, người làng không ai ở lại ăn nữa”.

[Nguồn: Phỏng vấn của NCS ( năm 2014)].

Việc tang lễ hoàn tất, thông thường, gia đình họp và thống nhất về sử dụng

tiền phúng viếng, tiền viếng liên quan đến người nào trong gia đình, người đó quản

lý sau lo đáp lễ; tiền viếng chung (thường là của dân làng, họ hàng, thông gia...) sẽ

được góp lại, con cả giữ để sau lo đáp lễ. Nếu thiếu, các con trong gia đình thỏa

thuận có thể chia đều hoặc người có điều kiện hơn thì góp nhiều. Các gia đình giàu

có, là chủ doanh nghiệp, việc lo hậu sự cho cha mẹ, do một mình họ đứng lên lo về

tài chính, anh em khác không phải lo.

Các hủ tục dần bị xóa bỏ để phù hợp với điều kiện, nhịp sống của làng nghề,

không còn tục đội mũ rơm, lăn đường như trước nữa. Phát huy tình làng nghĩa xóm,

coi nghĩa tử là nghĩa tận nên mọi người dân cùng nhau vào chia buồn, hỗ trợ về mọi

113

mặt để chia sẻ với gia chủ, việc cỗ bàn khi người chết nằm xuống đã được khắc

phục, không còn tình trạng gia chủ phải lo mổ lợn thết đãi mời mọi người.

Làng Phương La có 4 thôn đều được công nhận là “Làng văn hóa”, có những

tác động tích cực tới đời sống của dân làng. Đối với việc tang ma cho người mất, về

cơ bản các thủ tục vẫn được duy trì, ít có sự biến đổi ở Phương La; những tiết chính

vẫn diễn ra theo đúng trình tự xưa, điều này được thể hiện ở Bảng 3.4.

Bảng 3.4: Việc thực hành các tiết chính trong tang ma

114

của ngƣời Phƣơng La hiện nay so với trƣớc năm 1996 Đơn vị tính: %

Lễ thức hay công việc

Hiện nay

Trước 1996

Mời thầy

100

0,00

0,00

100

Chọn giờ phát tang

100

0,00

0,00

100

Che mặt cho người mất

100

0,00

100

0,00

Sử dụng nhạc hiếu

100

0,00

0,00

100

Khâm liệm

100

0,00

100

0,00

Đặt hướng mộ

72,59

0,00

100

0,00

Chọn nơi chôn cất

78,84

0,00

100

0,00

Chọn giờ hạ huyệt

100

0,00

100

0,00

Đắp mộ

100

0,00

0,00

100

Yểm bùa

100

0,00

0,00

100

Cúng ba ngày

100

0,00

100

0,00

Cúng tuần

23,08

76,92

23,09

76,91

Cúng 49 ngày

100

0,00

100

0,00

Cúng 100 ngày

100

0,00

100

0,00

Giỗ đầu

100

0,00

100

0,00

Việc để tang

100

0,00

85,09

14,91

[Nguồn: Xử lý số liệu điều tra (Phụ lục 7].

Bảng 3.4 cho thấy, các tiết chính trong tang ma xưa cơ bản vẫn được người

làng nghề giữ gìn, trong đó một số tiết rườm rà đã có xu hướng được giảm đi như

việc cúng tuần được coi là quan trọng đã giảm 0.01% (hiện nay chỉ có 23.08%,

trước đây là 23.09%).

Tuy nhiên, người Phương La vẫn chưa quen việc hỏa táng - nét văn minh của

xã hội hiện đại. Nhiều gia đình giàu có ở Phương La, khi bố mẹ mất đi, coi trọng

việc mời thầy địa lý về xem đất để đặt mộ mong ước được đất “phát” để con cháu

làm ăn phát đạt. Đây cũng không phải là hành động chưa tốt nhưng nếu ai cũng chọn

đất đẹp, vậy còn chỗ không đẹp thì sao, vả lại quy hoạch chung nghĩa trang cũng sẽ bị

phá vỡ. Hiện tượng bỏ tiền ra mua đất xí phần, khoanh riêng khu an táng của dòng

họ đã xuất hiện ở làng Phương La. Đa số những dòng họ này có người là chủ doanh

nghiệp, giàu có, bỏ tiền ra mua đất là chính. Việc phúng viếng linh đình, không còn

cảnh mang thúng gạo, nón chè hay vò rượu v.v sang phúng viếng. Giờ đây, tất cả đồ

phúng viếng được quy ra bằng tiền mặt, không kể gì người giàu, kẻ nghèo, cũng dần

thành tục khó xoá bỏ, gây lãng phí, tốn kém. Không chỉ dừng lại ở đó, sự thể hiện

“bằng hữu”, “thân sơ” cũng được đo đếm bằng tiền, điều này có còn phù hợp với

“nghĩa tử là nghĩa tận”? Việc tổ chức lễ 49, 100 ngày và nhất là giỗ đầu, nhiều gia

đình mời thầy pháp sư về cúng lễ cả mấy ngày; việc ăn uống cũng quá linh đình, tốn

kém và lãng phí.

Như vậy, những việc làm của người còn sống đã tạo ra sự tranh giành địa điểm

cho người đã chết, vậy “nghĩa tử” có còn là “nghĩa tận”? Cũng từ đó, ảnh hưởng đến

tình cảm làng xóm, và rồi những họ không có tiền, liệu có còn đất để chôn cất người

mất?. Việc này cũng dẫn đến quy hoạch chung nghĩa trang của làng bị phá vỡ, ảnh

hưởng đến việc xây dựng đời sống văn hóa mới của làng nghề. Như vậy, văn hóa

truyền thống của làng nghề đã đang dần biến đổi, trong đó có những yếu tố tích cực và

còn có cả những yếu tố chưa tích cực.

115

3.2.3. Hội làng

Xưa kia, lễ hội diễn ra theo đúng mô thức của đời sống nông nghiệp mùa vụ,

đến với hội làng là người dân trở về với cội nguồn, trở về với không gian thiêng,

thời điểm thiêng để nhớ về công lao to lớn của những người có công với làng với

nước và cầu mong sức khỏe, sự an lành, bốn mùa tốt tươi, mưa thuận gió hòa...

Chính vì thế, họ mang tấm lòng thành kính hướng về cội nguồn, cùng sẻ chia những

niềm vui, nỗi buồn với mọi người; giải tỏa những căng thẳng mệt nhọc, tâm hồn

thêm thăng hoa, làm cho đời sống tinh thần được nâng lên, con người sống với nhau

nhân văn, tốt đẹp hơn.

Hội đình làng Phương La hiện nay vẫn diễn ra tại đình Đông từ ngày 20

đến ngày 25 tháng 10 âm lịch. Ban tổ chức lễ hội cũng là Ban quản lý di tích

nên việc điều hành, quản lý lễ hội rất thuận lợi, mọi hoạt động được triển khai

bài bản, công phu. Các dòng họ tham gia đóng góp và có nghĩa vụ góp công, góp

của cho lễ hội. Sau hoạt động tế lễ chung của Ban tế chính, các dòng họ ở làng

đều tham gia vào tế lễ ở đình, công việc chuẩn bị cho tế lễ đươc chuẩn bị chu

đáo từ nhiều ngày trước. Lễ hội làng tổ chức cũng là dịp để con cháu 12 dòng họ

ở khắp các địa phương trong nước về thắp hương tưởng nhớ tới công lao khai

hoang lập ấp dựng xóm, dựng làng của tổ tiên mình trước đây. Người trảy hội

đình Đông cũng tăng lên rất nhiều, hầu hết các gia đình trong làng nghề đều có

người đại diện đến tham gia lễ hội.

Bảng 3.5: Đánh giá việc tham gia lễ hội của ngƣời Phƣơng La hiện nay

116

so với trƣớc năm 1996

Đơn vị tính: %

Số lượng người tham gia lễ hội

Mức độ

Tỷ lệ

Tăng lên

100

Vẫn thế

0,0

Giảm đi

0,0

[Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra (Phụ lục 7)].

Kết quả Bảng 3.5 cho thấy, 100% số người được hỏi đều trả lời số người

tham gia lễ hội tăng lên trong những năm gần đây, điều này khẳng định văn hóa

truyền thống được người dân rất coi trọng.

Ngoài những yếu tố về tâm linh; ngày nay, việc tham gia lễ hội như một nhu

cầu của người dân, họ đến lễ hội để thư giãn, hưởng không khí náo nhiệt của hội,

giao lưu... không chỉ có người già, những người có vấn đề khúc mắc trong cuộc

sống mới về với lễ hội. Thanh niên nam nữ, dù bận mải mấy cũng tụ họp, vào hội,

thắp nén tâm nhang rồi sau đó muốn làm gì thì làm.

Hộp 3.7: Việc tham gia lễ hội đình Đông của ngƣời Phƣơng La

Anh Trần Văn Hà - người làng Phương La: "Đến dịp lễ hội thì vui lắm cơ, ở làng ai

cũng náo nức muốn dự, không tham gia được từ đầu đến cuối thì cũng phải ghé

vào tận hưởng không khí lễ hội, có nén nhang cầu mong mọi sự tốt lành. Nhà em,

không bố thì mẹ năm nào cũng có mặt. Còn thanh niên chúng em, dù bận mải mấy

cũng ới nhau tụ họp đảo qua hội làng rồi sau đó muốn làm gì thì làm. Bây giờ, hầu

như dòng họ nào cũng vào lễ đình. Đủ thành phần, đủ lứa tuổi tham gia từ già, trẻ,

trai gái, giám đốc doanh nghiệp, công nhân làm thuê… Cả năm hội chỉ diễn ra có

hai ngày thôi, không tham gia cũng phí".

[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2013)].

Không chỉ tăng lên về số người tham dự lễ hội mà thành phần tham gia lễ hội

cũng phong phú hơn, gồm cả người ngoài làng, khác xã, cả các doanh nhân, công

nhân... khác với xưa, tham gia lễ hội làng chỉ có người làng mà thội. Số lượt vào cúng

lễ ở đình cũng tăng lên, không chỉ có lễ hội việc cũng lễ mới diễn ra mà bây giờ cứ có

việc lớn, các nhà đều sắm lễ vào đình để báo cáo và xin cho mọi việc suôn sẻ.

Ngoài phần lễ và một số trò diễn dân gian truyền thống, lễ hội đình Phương

La đã phục hưng được một số trò hội vốn đã bị mai một, đồng thời, từng bước đưa

các sinh hoạt văn hoá thể thao hiện đại vào nội dung hoạt động làm cho lễ hội ngày

một phong phú, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Sau mỗi lần tổ chức lễ hội,

Ban tổ chức phải họp rút kinh nghiệm để lễ hội năm sau, lần sau tốt hơn. Các hoạt

động tín ngưỡng trong các đình chùa, đền, miếu được UBND xã định hướng, quản

lý và kiểm tra chặt chẽ. Chủ tịch xã chịu trách nhiệm trước huyện về các hoạt động

tín ngưỡng trong lễ hội thuộc phạm vi quản lý của xã.

Tuy nhiên, việc tổ chức lễ hội đôi khi không theo đúng nghĩa của lễ hội

truyền thống. Những hoạt động, những trò chơi dân gian bị mai một dần, một số

hoạt động đã không còn duy trì nữa, như thi dệt vải, thi đấu gậy… mà các trò chơi

mới đã thay thế, lấn lướt… Những vấn đề này có thể sẽ trở thành mầm mống nảy

sinh sự ganh ghét, đố kỵ, sự cạnh tranh giữa các dòng họ. Vấn đề đặt ra ở đây là làm

117

sao duy trì được hội thi tay nghề giữa các dòng họ. Hội thi phải thật sự trở thành

ngày hội chung của làng nghề, của tất cả mọi người làm nghề, qua đó cũng góp phần

thúc đẩy sự sáng tạo của người thợ, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng đáp ứng nhu cầu

thị trường, nâng cao thu nhập cho họ và phát triển kinh tế của địa phương.

Đặc biệt, việc biện lễ vào hội đình làng khác rất nhiều, xưa cả làng chỉ chuẩn

bị một lễ duy nhất vào đình thì nay mỗi dòng họ, thậm chí nhiều gia đình cũng biện

lễ vào dâng. Các dòng họ, gia đình khá giả thì biện lễ càng lớn. Trước đây, chỉ có

một đội tế chung cho cả làng, bây giờ mỗi dòng họ lại có một đoàn tế riêng nên rất

cầu kỳ, tốn kém và gây phiền toái.

Ở Phương La, hội làng cũng là ngày giỗ của các vị lập làng, có công với

làng, do đó tất cả các dòng họ trong làng đều có nguyện vọng tế lễ. Đây cũng là nét

đẹp văn hoá, là truyền thống của dân tộc ta thể hiện “uống nước nhớ nguồn”, “ăn

quả nhớ kẻ trồng cây”. Song, nếu chúng ta không chú ý thì việc này vô hình dung

cũng sẽ góp phần làm biến dạng hoạt động mang tính tâm linh, thay vào đó là sự thể

hiện thế mạnh về kinh tế và các thế mạnh khác của dòng họ. Mỗi dòng họ có cách

thể hiện khác nhau, từ số lượng người tham gia tế lễ, lễ vật... chúng ta làm sao phải

giúp các dòng họ hiểu rằng đây là sự thể hiện cái tâm, cái đức chứ không phải là sự thể

hiện giàu nghèo, mạnh yếu.

Điểm nữa là mọi người đến với lễ hội để lễ bái, là cầu may, cầu những điều tốt

lành cho bản thân, gia đình, cầu làm ăn phát đạt… chứ chưa hẳn là trở về với cội

nguồn, với cộng đồng làng xã để nhân lên tinh thần đoàn kết tương trợ lẫn nhau, như

vậy tình làng nghĩa xóm có còn trọn vẹn, tinh thần cấu kết cộng đồng liệu có bền

chặt?, tính ích kỷ, vụ lợi đã chen vào làm mất đi vẻ tâm linh cội nguồn của lễ hội.

118

Tiểu kết

Từ 1986, với đường lối đổi mới của Đảng, hộ gia đình trở lại vai trò là

đơn vị kinh tế tự chủ. Đặc biệt, từ khoảng 1990, nền kinh tế phát triển theo cơ

chế thị trường tạo điều kiện cho sự ra đời các công ty, doanh nghiệp; làm cho

nghề, làng nghề Phương La ngày càng giàu có, nhiều tỷ phú nổi lên; dẫn tới hình

thành tầng lớp chủ doanh nghiệp và xuất hiện các mối quan hệ mới trong làng

nghề. Các ông chủ doanh nghiệp là những người chủ động tìm nguồn nguyên

liệu rẻ, đảm bảo chất lượng; và cũng chính họ là thành viên tích cực, quyết định

để hình thành hệ thống tổ chức, đảm bảo việc tiêu thụ sản phẩm... Các yếu tố đó

kích thích sản xuất, kích thích người lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển. Vì

vậy, các chủ doanh nghiệp là những người có uy tín, vị thế với làng xã và người

dân. Sự hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp cũng dẫn đến sự phân hóa giàu

nghèo, phân tầng xã hội, làm doãng rộng khoảng cách giàu nghèo ở Phương La.

Quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa, nhất là kinh tế phát triển đã tác động

đến đời sống văn hóa - xã hội của làng. Vốn là làng cổ, các dòng họ về sinh sống đã

được nhiều đời, ngày một đông, cộng thêm sự tác động của các yếu tố kinh tế,

những ông chủ doanh nghiệp nhiều tiền muốn khẳng định mình... đã dẫn đến việc

tách họ, xây nhà thờ mới. Điều này làm chi phối tới tính cố kết trong cộng đồng,

dòng họ; ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý và tình cảm của những người có cùng cội

nguồn… Nghề phát triển, quá trình CNH, đô thị hóa cùng với sự xuất hiện của

những người lao động làm thuê, mỗi năm lại một tăng, khiến cho vấn đề an ninh -

xã hội của Phương La tiềm ẩn những phức tạp.

Khi nghề dệt của làng Phương La chiếm ưu thế và chuyển sang sản xuất công

nghiệp, người dân từng bước thay đổi lối sống truyền thống dần chuyển thành người

công nhân, buộc họ phải thích ứng với tác phong công nghiệp. Từ nhịp sống mùa vụ,

nông nghiệp sang một nhịp sống công nghiệp chưa đầy đủ, vẫn có sự pha trộn, đan xen.

Chưa hẳn là nhịp sống đô thị nhưng cuộc sống đã khẩn trương, gấp gáp và năng động

hơn. Lối sống đô thị, nhịp sống công nghiệp đã được biểu hiện rõ nét trong làng

Phương La, song sự cố kết cộng đồng vẫn được duy trì. Nhịp sống có sự biến đổi

nhưng các lễ tiết trong năm, phong tục tang ma, cưới hỏi, vẫn được bảo lưu, coi trọng

và thể hiện theo mô thức, nhịp điệu của đời sống nông nghiệp mùa vụ nhưng được đầu

tư và tiến hành trang trọng hơn… Tuy nhiên, trong thực hành lễ nghi có những biểu

hiện chưa đúng với truyền thống, một số giá trị văn hóa truyền thống trong lễ hội chưa

được quan tâm đúng mức nên bị mờ nhạt hoặc không còn nữa. Trong tổ chức tang ma,

cưới hỏi vẫn có biểu hiện ganh đua làm mất đi nét đẹp của truyền thống …

119

120

Chƣơng 4

NHỮNG VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU

BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA

4.1. Những tác động của sự biến đổi văn hóa làng dệt Phƣơng La đến kinh tế -

xã hội và văn hóa của làng

Phương La xưa, sản xuất nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo, vì thế, lối

sống truyền thống mùa vụ đủng đỉnh vẫn cơ bản, tư duy người Phương La chưa có

sự thay đổi.

Khi nghề dệt chiếm ưu thế và trở thành nghề chính, với sự năng động

thích nghi cao, người Phương La đã không ngừng cải tiến, đổi mới các khâu của

quá trình sản xuất, nên sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, thu nhập của người

dân tăng cao. Kinh tế phát triển, xã hội biến đổi dẫn đến văn hóa làng Phương La

cũng biến đổi. Nhiều công ty, doanh nghiệp lớn mạnh; đồng thời là sự trưởng

thành đội ngũ giám đốc, các doanh nhân… Nhờ có kinh tế nên các ông chủ tích

cực tham gia các hoạt động nhân đạo, từ thiện, các hoạt động chung của làng xã,

giúp đỡ nhau xóa đói, giảm nghèo… Cũng do kinh tế phát triển mà người

Phương La có điều kiện để quan tâm chú ý đến đời sống tinh thần hơn, các di

tích thờ cúng được tôn tạo, sửa sang rất bề thế; các lễ tiết, nghi lễ truyền thống

được giữ gìn, chú trọng. Nhà thờ họ được dựng lên nhiều, làm cho làng nghề trở

lên trù phú. Việc sưu tầm và ghi chép lại gia phả dòng họ, các hoạt động hướng

về cội nguồn, nhớ về công lao ông, bà tổ tiên góp phần giáo dục con cháu trở

thành người có ích cho xã hội. Nhiều hoạt động văn hóa tinh thần khác được

phục dựng, quan tâm, chăm chút…

Tuy nhiên, quá trình biến đổi văn hóa làng Phương La vẫn có những biến đổi

mang tính trào lưu, còn nhiều hạn chế chưa phù hợp với truyền thống ảnh hưởng đến

mọi mặt đời sống của làng, điều này được khái quát ở Bảng 4.1.

Bảng 4.1: Những tác động của sự biến đổi văn hóa làng dệt Phƣơng La

Lĩnh vực

Những ưu điểm

Những hạn chế

tác động

Kinh tế

Sao nhãng hoạt động nông nghiệp

Duy trì, phát triển nghề truyền thống

Kinh tế phát triển, đời sống người dân được nâng cao

Văn hóa

Du nhập lối sống mới, làm mai một một số giá trị văn hóa truyền thống

xã hội

Tạo cơ hội để khôi phục, giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống

Nâng cao trình độ của cộng đồng dân cư

Suy giảm tính cộng đồng, biểu hiện sự ganh đua trong đời sống xã hội

Phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội

Việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước của người dân ở một số nội dung chưa cao

Tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho người dân

Vấn đề an ninh - xã hội tiềm ẩn nhiều phức tạp, tệ nạn xã hội đã xuất hiện trong một số gia đình

Môi trường làng nghề ô nhiễm trầm trọng

Hạ tầng

Hạ tầng cơ sở vật chất, kỹ thuật của làng được nâng lên

Giao thông ách tách, hạ tầng cơ sở chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của làng nghề

cơ sở

Kiến trúc

cảnh quan

Kiến trúc, cảnh quan làng khang trang, bề thế, nhiều công trình kiến trúc hiện đại được xây dựng

Các công trình kiến trúc truyền thống bị mất giá trị do hoạt động bảo tồn, tôn tạo thiếu đồng nhất và quy hoạch tổng thể

[Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS (năm 2014)].

121

Như vậy, thông qua bảng trên, có thể thấy rằng, các vấn đề có tác động ảnh

hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của làng nghề Phương La trong thời gian

qua, bao gồm:

122

- Ô nhiễm môi trường trầm trọng

Làng nghề dệt Phương La phát triển, kéo theo ô nhiễm môi trường đang là

những vấn đề nổi bật. Sự phát triển của làng nghề đã mang lại nguồn thu lợi vô

cùng lớn, đời sống người dân giàu có, sung túc nhưng môi trường thì bị ô nhiễm

trầm trọng ở mức báo động. Có tới gần 100% hộ gia đình làm nghề, lại sản xuất

theo quy mô hộ gia đình nhiều, cơ sở sản xuất nằm xen kẽ trong khu dân cư,

nhiều công đoạn sản xuất thủ công… nên rác thải, bụi bặm bay khắp nơi trên

diện rộng không được khống chế. Hệ thống cấp thoát nước sản xuất chưa đảm

bảo. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, mỗi năm làng nghề Phương La

sử dụng gần 10 tấn ôxy già, khoảng 100 tấn nhớt thủy tinh, hàng chục tấn xà

phòng để nhuộm và tẩy. Sản phẩm làm ra tăng, lượng hóa chất thải ra môi trường

càng lớn. Đa số, các công đoạn này đều được làm bằng công nghệ thủ công nên

rất độc hại, gây ô nhiễm môi trường. Mùa nóng và sau mỗi trận mưa, mùi ô

nhiễm bốc lên khó chịu. Làng nghề Phương La tạo ra ô nhiễm môi trường, nguồn

nước, tiếng ồn, bụi của bông, tơ, sợi đay, cói bay khắp nơi… làm ngột ngạt bầu

không khí, dễ gây các bệnh nan y.

Ô nhiễm trầm trọng nhất ở Phương La hiện nay là nguồn nước. Nguồn

nước bị ô nhiễm do chất thải từ công nghệ tẩy nhuộm của các công ty, hộ gia

đình làm cho nước của các con sông đen ngòm, có mùi hôi thối. Nhiều gia đình

đào giếng nhiều lần vẫn không sử dụng được vì nước có màu vàng đục. Các cơ

sở tẩy nhuộm xả nước thải trực tiếp chưa qua xử lý ra môi trường, gây ảnh

hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của nhân dân. Khảo sát thực tế nhiều lần ở

làng Phương La, đứng gần sông Cầu Du, màu nước đen ngòm, mùi hôi thối bốc

lên, chúng tôi thấy rất khó chịu.

Bảng 4.2: Đánh giá về tình trạng ô nhiễm môi trƣờng ở Phƣơng La

Đơn vị tính: %

Nguồn ô nhiễm

Mức độ ô nhiễm

Tỷ lệ

Nước

Ô nhiễm nặng nề

0,00

Ô nhiễm ít

30,72

Không ô nhiễm

69,23

Khó đánh giá

0,00

Rác thải

Ô nhiễm nặng nề

0,00

Ô nhiễm ít

76,92

Không ô nhiễm

23,08

Khó đánh giá

0,00

Đất

Ô nhiễm nặng nề

0,00

Ô nhiễm ít

76,92

Không ô nhiễm

23,08

Khó đánh giá

0,00

0,00

Tiếng ồn, không khí

Ô nhiễm nặng nề

Ô nhiễm ít

61,54

Không ô nhiễm

38,46

Khó đánh giá

0,00

[Nguồn: Xử lý kết quả phiếu điều tra (Phụ lục 7)].

Bảng 4.2 cho thấy không chỉ nguồn nước bị ô nhiễm mà nguồn đất, không

khí ở Phương La hiện nay cũng đang ở mức báo động. Bụi của bông, vải, sợi bay

khắp nơi, càng tăng thêm sự ngột ngạt đến ngộp thở. Nếu không quen, khách đến,

khó có thể cư trú tại làng. Hầu như mọi người dân, mọi cơ sở sản xuất đều chưa đáp

ứng đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường, không khí. Môi trường làng nghề bị

ô nhiễm nghiêm trọng: tiếng ồn, bụi, nguồn nước, rác thải, ảnh hưởng xấu đến sức

khỏe người dân, điều kiện lao động của người làm nghề; đe dọa sự tồn tại của nghề

trong tương lai.

Mặc dù vậy, một số người dân làng nghề vẫn nhận thức rằng, làng nghề

không bị ô nhiễm nên họ còn thờ ơ với việc gìn giữ, bảo vệ môi trường.

123

124

- Không gian cảnh quan làng

Các cơ sở sản xuất mở rộng, nhu cầu về mặt bằng sản xuất rất cao, do không

có mặt bằng sản xuất nên các cơ sở sản xuất, các hộ gia đình tận dụng mọi chỗ, mọi

nơi để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Nơi ăn, chốn nghỉ sẵn sàng trở thành chỗ chứa

nguyên liệu, sản phẩm để làm nghề. Vườn cây của từng gia đình đã thiếu vắng, thay

vào đó là nhà xưởng sản xuất, kho chứa hàng. Các ao trong làng cũng đã bị san lấp,

diện tích được quy hoạch để xây dựng khu công nghiệp của làng. Một số ao chuôm,

sông tù đọng trở thành nơi chứa chất thải sản xuất gây ô nhiễm. Không gian công

cộng của làng dần bị thu hẹp, nhà cửa cao tầng mọc lên… cũng nhằm phục vụ sản

xuất, kinh doanh, cộng với bụi của bông vải, sợi dẫn đến ngột ngạt, ô nhiễm không

khí nặng. Cũng vì thế nên nơi vui chơi, thư giãn của người già, trẻ em đã hết.

Không gian chung của làng còn lại giờ đây chỉ là những nơi gắn liền với yếu tố tâm

linh bất khả xâm phạm như khu đình Phương La, chùa Mẹo… và một chút không gian

gần đình Phương La là nơi giành cho người cao tuổi tập thể dục, diện tích chừng vài

trăm mét vuông. Hầu như mọi người đều tất bật với việc sản xuất, ngồi bên máy dệt, ít

đi ra ngoài; do vậy, họ cũng không quá chú ý đến cảnh quan làng.

Những vấn đề trên ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của người dân và người

lao động. Bên cạnh đó, việc kiến trúc thiếu đồng bộ, dẫn đến không gian làng không

còn thoáng đãng như xưa, thiếu cây xanh, ít khu vui chơi giải trí công cộng.

- Vấn đề an ninh và các tệ nạn xã hội

Như đã trình bày ở Chương 3, mặc dù hiện nay, an ninh trật tự của làng đang

tốt, nhưng quá trình CNH - HĐH đã giúp nghề và làng nghề Phương La phát triển,

thu nhận hàng vài ngàn lao động đến làm thuê mỗi ngày, dẫn đến vấn đề an ninh -

xã hội của làng luôn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp. Người tứ xứ đến làm thuê gây

khó khăn cho công tác quản lý, du nhập nhiều thứ "văn hóa" chưa hẳn đã phù hợp

với truyền thống, lối sống của người làng nghề. Lượng người đến làng đông mà hạ

tầng cơ sở lại chưa đáp ứng kịp, do vậy luôn gây tắc đường vào giờ cao điểm,... Có

điều kiện về kinh tế, lại lo mải làm ra tiền, các gia đình không nâng cao cảnh giác,

nuôi dạy, quản lý con cái tốt cũng dễ làm cho con cái hư hỏng, mắc tệ nạn xã hội...

125

- Việc chấp hành chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước của

người dân chưa cao

Mặc dù, các cấp chính quyền địa phương và ngành văn hóa đã có quy định

về thực hiện nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang và lễ hội, nhưng các gia

đình ở Phương La vẫn vi phạm: xây cất mổ mả không theo quy định về chiều cao

và chiều rộng, tổ chức phúng viếng linh đình trong đám tang; ...

Có điều kiện về kinh tế, hơn nữa khi bị phạt thì số bỏ ra nộp phạt không

thấm vào đâu đối với các gia đình chủ doanh nghiệp, các hộ làm nghề vì vậy tỉ lệ

sinh con thứ 3, thứ 4 có xu hướng gia tăng, ảnh hưởng đến tỉ lệ dân số. Bên cạnh đó,

tư tưởng "trọng nam khinh nữ" vẫn còn tồn tại trong làng nghề , nên có những gia

đình đã đủ hai con nhưng vẫn cố gắng đẻ thêm để được cậu con trai nối dõi tông

đường, thừa kế tài sản, đi giao dịch mua bán có con trai đi cùng (học theo mô hình

của các thương gia, doanh nhân nước ngoài).

Khi chính quyền thôn, xã có công việc họp bàn cần có ý kiến đóng góp của

người dân, nhưng việc triệu tập họp rất khó khăn, vì thế nhiều hộ làm nghề ít nắm

đầy đủ chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

- Một số quan hệ cộng đồng có biểu hiện suy giảm và sự ganh đua trong

các mặt đời sống xã hội

Các quan hệ kinh tế - xã hội đa dạng đã tác động mạnh mẽ đến các quan hệ

cộng đồng của truyền thống. Một mặt, người Phương La vẫn tích cực giữ gìn những

giá trị văn hóa của mình, thể hiện ở giữ gìn các quan hệ dòng họ, quan hệ cộng đồng

làng xã thông qua các phong tục tập quán; song vẫn diễn ra quá trình suy giảm tính

cộng đồng. Xu hướng tách họ, hay tuy không tách họ nhưng lập nhà thờ mới, tổ chức

sinh hoạt riêng; hoặc xu hướng một bộ phận cư dân (chủ yếu là những người giàu) có

quan hệ kinh tế - xã hội rộng rãi với người ngoài làng sẽ ít tham gia các hoạt động

chung của làng tiếp tục diễn ra. Sự ganh đua còn biểu hiện ở nhiều khía cạnh của đời

sống, trong tang ma cho cha mẹ, xây cất mồ mả, cưới xin cho con cái ít nhất cũng phải

“bằng anh, bằng em”; … Điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp tới các mối quan hệ dòng

tộc, họ hàng, làng xóm “người ta có tiền, mình không theo được”.

126

4.2. Dự báo xu hƣớng văn hóa làng dệt Phƣơng La trong thời gian tới

4.2.1. Xu hướng chú trọng, đề cao các giá trị văn hóa truyền thống

Sự thay đổi về kinh tế, nâng cao đời sống vật chất là nguyên nhân quan trọng

để người dân có điều kiện quan tâm nâng cao đời sống tinh thần. Các di tích được

người dân quan tâm tu bổ, hay dựng mới rất mạnh mẽ. Không chỉ vậy, việc sưu

tầm, biên soạn gia phả, tộc phả, sắc phong... cũng được người dân chú trọng. “Phú

quý sinh lễ nghĩa”, vì thế, các lễ nghi được tăng cường, khôi phục, các lễ nghi mới

được cập nhật và sáng tạo. Người Phương La đến lễ đình Đông không chỉ còn vào

dịp lễ hội mà họ đến lễ ở đình Đông bất cứ khi nào nếu gia đình có công việc lớn.

Việc huy động công đức để tôn tạo, tu bổ di tích thể hiện trách nhiệm, quyền

lợi của dân làng trong ứng xử với những người có công với làng với nước; việc ủng

hộ xây dựng các công trình phúc lợi của làng xã, tham gia ủng hộ các quỹ nhân đạo

từ thiện... đã góp phần quy tụ, phát huy sự tương thân tương ái “lá lành đùm lá

rách”, tình làng nghĩa xóm “tối lửa, tắt đèn có nhau”.

Sự thay đổi này kéo theo những sự thay đổi lớn trong cộng đồng làng: mâu

thuẫn giữa các thế hệ, sức ép cộng đồng và cả những quy định của chính sách đối

với lễ nghi… Người dân Phương La rất quan tâm đến đời sống tâm linh vì thế các

di tích được trùng tu, tôn tạo và việc thờ cúng tổ tiên, dòng họ… vô cùng quan

trọng với họ. Nhà có điều kiện làm càng lớn, sắm lễ càng nhiều tiền. Họ tham gia

công đức không chỉ thuần túy là cái tâm mà còn thể hiện sức mạnh của gia đình,

dòng họ. Điều này cũng dễ dẫn đến sự pha tạp, biến dạng của văn hóa tâm linh,

cách ứng xử với những người có công với làng với nước…Mặc dù vậy, những

truyền thống cũ trong nghi lễ tôn giáo, những biểu tượng văn hóa, những truyền

thuyết vẫn là những điểm tựa cho việc khẳng định sức sống lâu bền của văn hóa

truyền thống, trước sự thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.

4.2.2. Xu hướng đa dạng văn hóa

Mọi con người, tuy có nguồn gốc khác nhau, sống trong môi trường tự nhiên,

xã hội khác nhau nhưng đều có chung bản chất - bản chất người, luôn có tính sáng

tạo trong cuộc sống, hoàn thiện bản thân, thoả mãn các nhu cầu người theo các chuẩn

mực chân - thiện - mỹ - ích; có tính xã hội cao, tính cộng đồng mở, có nhu cầu tương

giao, tương tác, gắn kết, liên kết với nhau. Mỗi con người đều có nhu cầu giao lưu,

trao đổi kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu sống của con người xã hội là cơ sở của giao

lưu văn hóa. Ngoài ra, con người còn có các nhu cầu giao lưu khác trong các lĩnh vực

của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, mỗi cộng đồng người dù lớn hay nhỏ, cho dù đã

phát triển hay còn lạc hậu đều đã có một truyền thống lịch sử lâu đời, có một vốn tri

thức nhất định và thể hiện thông qua văn hóa của mình. Tuy nhiên, để làm giàu vốn

tri thức và phong phú thêm văn hóa đó, con người của cộng đồng cần phải được giao

lưu, tiếp xúc. Chỉ có thông qua giao lưu tiếp xúc, văn hóa của mỗi cộng đồng mới

được phát huy và phong phú thêm. Giao lưu văn hóa chính là quy luật chung của sự

phát triển văn hóa. Giao lưu văn hóa hết sức sống động, nó là một động lực thúc đẩy

sự phát triển văn hóa và nói rộng hơn là sự phát triển xã hội.

Nghề dệt làng Phương La phát triển tạo nhiều công ăn việc làm cho người

dân nơi đây; đồng thời, còn thu hút nhiều lao động từ nơi khác đến, do vậy, giao lưu

văn hóa cởi mở và mở rộng. Những người đến làm thuê đã mang theo tập tục,

những nét văn hóa riêng góp phần làm phong phú thêm văn hóa của làng Phương

La: từ âm ngữ, giọng nói, nét sinh hoạt, phong tục tập quán… Trong Chương 1,

Luận án chỉ ra: “theo ông Trần Hữu Huỳnh, người xã Hồng An (giáp với làng

Phương La) cho biết, Thế phả dòng họ của ông có nói, vào thời Vua Lê Thánh Tông

(1460-1497), Nhà Vua đi đánh Chiêm Thành, bắt được tù binh đem về. Lấy ruộng

công của nơi xa, cấp cho người Chiêm cày cấy… Người Chiêm tụ họp lại dựng nhà

lập ấp, ngày khẩn hoang cấy lúa, trồng dâu chăn tằm, đêm đánh cá, dệt vải”. Vì vậy,

dân làng Phương La có thêm nghề dệt. Điều này càng khẳng định sự giao lưu đã

làm phong phú văn hóa cho dân làng Phương La ngay từi thời xa xưa. Vào làng

Phương La ngày nay, chúng ta được chứng kiến sự phong phú về âm sắc, giọng nói

của người dân do công nhân ở nhiều làng quê khác đến làm thuê. Đặc biệt, do được

đi giao lưu, tiếp xúc để trao đổi mua bán nguyên liệu, sản phẩm nên giọng nói của

người Phương La ngày nay nghe đã nhẹ, trong và hay hơn rất nhiều. Người Phương

La cũng được tiếp thu cả cách thức ăn uống, chế biến món ăn của các làng xã khác

từ những người làm thuê.

127

128

4.2.3. Xu hướng phân hóa trong đời sống văn hóa

Làng Phương La giầu có, nhiều doanh nghiệp, công ty thành lập, đồng thời

đội ngũ giám đốc, chủ cơ sở sản xuất xuất hiện. Tầng lớp chủ doanh nghiệp ngày

càng đông đảo, là động lực quan trọng để duy trì và thúc đẩy làng nghề phát triển.

Các quan hệ làm ăn kinh tế, trong đó bao gồm cả người nhà ruột thịt, người trong

họ, ngoài làng, bạn hàng từ nơi khác đến…tạo lên cho người Phương La càng có

thêm nhiều mối quan hệ, nhiều vai khác nhau trong làng, xã. Vì vậy tính cộng đồng

vẫn còn bền chặt, bó bện. Tuy nhiên, tính cố kết cộng đồng sẽ dẫn đến tự trị cục bộ,

tiểu nông, kinh nghiệm và bảo thủ; cản trở quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa,

ảnh hưởng, chi phối tới đời sống văn hóa của các thế hệ sau.

Nghề, làng nghề phát triển, kinh tế thị trường càng phát triển tuy tạo ra nhiều

cơ may, vận hội cho các các thành viên làng nghề; song sự phân hóa giàu nghèo

cũng như mức độ phân tầng xã hội càng diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc. Những người

giàu có càng có nhiều cơ hội để cho con cháu học hành, nâng cao trình độ. Những

người làm thuê, khó khăn hơn nhiều về kinh tế, càng ít có điều kiện để cho con cái học

cao. Chính điều này làm cho sự phân hóa về trình độ học vấn, khả năng nhận thức của

người dân trong làng nghề càng rõ nét. Những dòng họ có kinh tế mạnh, nhiều con em

được đi du học ở nước ngoài, học đại học… Sự chênh lệch về kinh tế, về mức sống dẫn

đến quan niệm về văn hóa ứng xử, nhu cầu hưởng thụ, thị hiếu văn hóa của người dân

trong một làng nghề cũng rất khác nhau. Người nhiều tiền quan niệm, ứng xử đẹp phải

là người ứng xử như “mạnh thường quân”… Những người có điều kiện về kinh tế càng

có nhiều cơ hội làm giàu thêm, do đó, dễ dẫn đến chi phối hoạt động của làng xã, thậm

chí họ còn chi phối cả những chính sách của địa phương phục vụ chính lợi ích của họ.

Đây là điểm mà các nhà quản lý cần nắm bắt và có giải pháp để hạn chế.

Làng xã xưa được xem là một không gian khép kín và tự trị, một cộng đồng đa

chức năng, văn hóa truyền thống chi phối hầu hết các yếu tố từ kinh tế - xã hội, cơ

cấu tổ chức làng xã. Nhưng Phương La giờ đây có không gian làng rất „„mở‟‟. Sự thu

hẹp của đất nông nghiệp, thay đổi cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp,

người dân thoát hẳn nghèo, trở lên giàu có. Sự tăng nhanh mức sống và các dịch vụ

đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân Phương La, sinh hoạt của các gia đình khác

nhau, dẫn đến sự phân hóa trong đời sống văn hóa của cư dân, từ quan niệm về văn

hóa, thực hành các lễ thức thờ cúng, sự ứng xử giữa người với người… khác nhau.

129

4.2.4. Xu hướng đề cao vai trò cá nhân, thích thể hiện mình

Hướng phát triển của các làng nghề cũng sẽ phụ thuộc vào không gian làng nghề,

không gian làng nghề cũng có thể được bảo tồn hoặc phá vỡ. Nó bảo tồn được là hướng

CNH phù hợp với điều kiện phát triển của làng nghề hoặc CNH được dựa trên cơ sở của

làng nghề. Xu hướng đô thị hoá không diễn ra một cách ào ạt thì khi đó các yếu tố văn

hoá bên trong (đình, chùa, đền, miếu, cảnh quan,..) vẫn giữ được; nhịp sống, nếp sống

và các giá trị văn hoá của con người làng nghề ít bị xáo trộn. Ngược lại nếu CNH, đô thị

hoá mà không quan tâm tới quyền lợi của các làng nghề, không dựa trên các điều kiện

của làng nghề thì lúc đó không gian làng nghề sẽ bị phá vỡ, các di tích làng nghề sẽ bị

xâm lấn và nhịp sống, nếp sống làng nghề nhanh chóng bị xáo trộn.

Cho dù CNH - HĐH diễn ra đúng hướng hay không đúng hướng thì trong xu

hướng phát triển của tương lai, chắc chắn có sự cạnh tranh gay gắt giữa chủ cơ sở sản

xuất trong từng làng nghề, cũng như giữa các làng nghề và khi đó những mặt hạn chế,

tiêu cực cuả con người làng nghề có xuất phát điểm từ hạn chế, tiêu cực của người tiểu

nông sẽ có dịp bộc lộ, đó là sự đề cao, thích thể hiện mình ở ngoài xã hội, trong làng

xã và ngay cả trong dòng họ. Luôn thích mình là người đứng đầu, là mạnh thường

quân, giàu có,…; là người sành điệu từ trong suy nghĩ, biểu hiện là tâm lý sùng ngoại:

nhà thờ thiết kế “theo kiểu Mỹ”, khi đi quan hệ làm ăn “phải có con trai đi theo như

người nước ngoài”… đến những hành động, việc làm cụ thể như xây dựng nhà cửa,

phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt phải nhất; trong ủng hộ xây dựng các công trình

phúc lợi, tu bổ du tích cũng luôn muốn mình là nhất… Cũng chính vì vậy, dẫn đến tư

tưởng “trọng nam, khinh nữ”, việc sinh con thứ ba, thứ tư có chiều hướng gia tăng…

Mặt khác, có điều kiện kinh tế, một số ông chủ trong các dòng họ chủ động tổ

chức các hoạt động của dòng họ mình, như: gây quỹ của dòng họ phục vụ các mục

đích khuyến học, thăm hỏi, giúp đỡ người trong dòng họ vượt khó, tổ chức các hoạt

động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao…. Đây là những việc làm rất có ích, phát

huy vai trò dòng họ - một nguồn lực góp phần phát triển kinh tế - xã hội của làng xã.

Tuy nhiên, việc làm này không cẩn thận sẽ dễ tạo ra sự ganh đua không lành mạnh

giữa các dòng họ có thế mạnh về kinh tế. Bên cạnh đó, các hoạt động văn hóa, các

hoạt động chung khác của làng xã liệu có còn được mọi người quan tâm?.

130

4.3. Đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa làng dệt Phƣơng La

Từ những kết luận về hạn chế, bất cập của sự biến đổi văn hóa làng Phương

La thời gian qua, cùng với dự báo xu thế biến đổi văn hóa làng Phương La thời gian

tới, Luận án đưa ra một số giải pháp góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa

làng Phương La giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH.

4.3.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng ĐSVHCS ở

làng nghề

4.3.1.1. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho người dân

Phát triển nghề nhằm tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống; đồng thời, cần chú

trọng xây đời sống văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ

năm (khóa VIII) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ chín (khóa XI) đề ra.

Hai Nghị quyết đó nhấn mạnh, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục

tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết cũng chỉ ra

rằng: chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội, thiếu nền

tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa

phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì cũng không thể có được sự phát

triển kinh tế - xã hội bền vững. Việc xây dựng, phát triển kinh tế cũng phải nhằm

mục tiêu văn hóa, đảm bảo tiến tới xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển

một cách toàn diện. Văn hóa chính là kết quả của kinh tế, nhưng đồng thời cũng lại

là động lực cho sự phát triển kinh tế.

Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở có nhiều nội dung, nhưng với các làng nghề

rất cần quan tâm xây dựng con người Việt Nam mới (yêu nước, tự cường dân tộc,

phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước

thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu…). Ngoài những phẩm chất trên, xây dựng con người

ở làng nghề cần chú trọng các tiêu chí: có lối sống lành mạnh, văn minh, trung thực,

nhân nghĩa; lao động cần cù với lương tâm nghề nghiệp, có trách nhiệm cao với cộng

đồng; có ý thức bảo vệ môi trường sinh thái… Xã hội càng hiện đại, con người càng

phải sống, làm việc tuân thủ theo pháp luật. Với người làng nghề, có mối quan hệ

giao lưu rộng, lại làm ăn, buôn bán nên càng cần phải hiểu biết toàn diện về pháp

luật, nhất là Luật doanh nghiệp, Luật thuế, Luật bảo vệ môi trường… và nghiêm túc,

tự giác thực hiện pháp luật, quy định của địa phương, thực hiện hương ước của thôn,

làng. Để khi thành lập, triển khai các hoạt động của doanh nghiệp đúng với quy định

của Nhà nước, thực hiện nghĩa vụ thuế đầy đủ…

Muốn giúp người làm nghề có hiểu biết về pháp luật và có lối sống lành mạnh;

các cấp ủy, chính quyền cần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức về

các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho mọi tầng lớp nhân

dân, để nhân dân hiểu và chấp hành. Quá trình đó cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các

cấp, các ngành, đây là một việc làm hết sức cần thiết, sự kết hợp đó có mối quan hệ

mật thiết với nhau, như: Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân... Các tổ chức

đoàn thể, tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình, quy tụ, giáo dục, động viên nhân

dân tích cực hưởng ứng các cuộc vận động do cấp trên đề ra: việc chấp hành chủ

trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; xoá đói, giảm nghèo, giữ gìn môi trường,

y tế giáo dục, kế hoạch hoá gia đình…

Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm

tra việc chấp hành pháp luật của mọi người dân; kịp thời khen thưởng, động viên

những người tích cực, những người thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách

pháp luật của Nhà nước; đồng thời, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm để

nhằm răn đe, giáo dục những người dân khác.

4.3.1.2. Cần phải có biện pháp mạnh để ngăn chặn, phòng ngừa sự gia tăng

của các tệ nạn xã hội

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nhiều điều kiện để

chúng ta mở rộng giao lưu hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, kinh

131

tế phát triển, sản xuất cũng tăng trưởng, đồng thời với cơ chế thị trường thì mặt trái

của nó cũng có tác động nhất định tới đời sống xã hội. Một bộ phận cán bộ, đảng

viên có lối sống buông thả, hưởng thụ…

Đặc biệt, ở các làng nghề vốn đã manh nha tiểm ẩn các quan hệ kinh tế, sự trao

đổi mua bán cùng các hợp đồng kinh tế, con người vốn phải nhanh nhạy, năng động;

lại chịu tác động của cơ chế thị trường, họ càng thích ứng rất nhanh, vươn lên chiếm

lĩnh thị trường, bạn hàng… Tuy nhiên, do “mải” làm ăn kinh tế, say sưa với công việc

nên cũng có phần nào sao nhãng bổn phận, thờ ơ với vấn đề làng xã. Họ chỉ có kinh tế

để công đức, để ủng hộ… và thậm chí không hiểu ngọn nguồn việc làm của mình, ý

nghĩa của nó là gì, chỉ biết có tiền đóng góp và tên họ được coi trọng nhất, nhân dân

ngưỡng mộ. Nhưng rồi nếu cứ như vậy thì việc giáo dục thế hệ trẻ sau này thế nào?

Con em học được gì ở họ. Hơn nữa nếu buông lỏng sự giáo dục của họ đối với con cái

thì sẽ góp phần gia tăng tệ nạn xã hội ở làng quê. Thứ hai, nếu bố mẹ vì chỉ mải làm,

thậm chí đi làm ăn nơi xa đem theo cả gia đình, sau nhiều năm trở về mang theo cả

điều hay điều dở, … những điều này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường văn

hoá làng nghề, đe doạ trực tiếp cuộc sống bình yên của gia đình, làng xã. Vì vậy chúng

ta phải phòng ngừa và đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả với các tệ nạn xã hội, thậm chí

cần phải có biện pháp xử lí nghiêm minh, triệt để đối với các loại đối tượng này. Song

song với nó là phải phát huy vai trò của giáo dục gia đình, dòng họ trong dạy dỗ,

hướng nghiệp cho con, tạo ra sự thi đua đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau để thu hút sự quan

tâm chú ý của các em. Phải đưa các em tham gia vào các tổ chức đoàn thể, giao nhiệm

vụ, phân công công việc để các em có tính phấn đấu, có môi trường hoạt động trong

thời gian nhàn rỗi. Ban tự quản của thôn làng thường xuyên, kịp thời phát hiện những

biểu hiện lệch chuẩn trong đạo đức để uốn nắn động viên các em, tuyên truyền tác hại

của tệ nạn xã hội giúp cho người dân nâng cao nhận thức, cảnh giác với các loại tội

phạm góp phần phát hiện, giải quyết tốt các vấn đề xã hội.

Công tác phòng chống tệ nạn xã hội là việc làm cấp bách không của riêng ai.

Tất cả mọi người phải tự ý thức và tự bảo vệ mình trước sự cám dỗ của vật chất, tệ

nạn xã hội; gia đình phải kết hợp cùng nhà trường, địa phương quản lý tốt hoạt động

132

của các em. Các tổ chức đoàn thể vào cuộc, cần phải để tâm lưu ý đến đối tượng này,

tuyên truyền, động viên các em tham gia các hoạt động văn hoá nhằm hạn chế thấp

nhất sự sa ngã của các em. Mặt khác, khi đã phát hiện đối tượng tệ nạn xã hội chúng

ta cần giải quyết một cách kịp thời, dứt điểm bằng những biện pháp mạnh để làm

gương cho các đối tượng khác.

Phải xác định công tác phòng chống ma tuý, tệ nạn xã hội là việc làm của các

cấp, các ngành, của mỗi người dân để tạo ra sự đồng thuận, đồng bộ có như vậy hiệu

quả hoạt động xây dựng đời sống văn hoá cơ sở mới tốt.

4.3.1.3. Tăng cường các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao

Một sự khác biệt giữa các làng nghề với các làng thuần nông, đó là nhịp sống

lao động. Thời gian lao động của người dân làng nghề bận mải hơn, họ say làm ra

sảm phẩm để làm giàu, nghỉ một ngày công là tương ứng với việc mất vài trăm nghìn

đồng. Vì vậy, việc tham gia các hoạt động xã hội thường xuyên ngưng trệ, thậm chí

họ không còn thời gian, tâm trí để quan tâm.

Muốn cho họ tham gia các hoạt động xã hội, các hoạt động của thôn làng, phải

thành lập các đội văn nghệ, thể thao của các dòng họ, sử dụng ngay chính các từ

đường dòng họ (nếu có đủ điều kiện) để biểu diễn, thi đấu. Hoặc sử dụng các thiết

chế văn hoá của thôn làng, như đình, chùa… tổ chức giao lưu hoặc thi biểu diễn,

chọn lọc những tiết mục văn nghệ hay, kết quả thể thao cao để trao thưởng động

viên. Thu hút mọi đối tượng, già trẻ, nam nữ, tạo môi trường văn hoá lành mạnh,

tránh sự căng thẳng sau những giờ lao động vất vả.

Mỗi con người đều có hai nhu cầu cơ bản: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh

thần, nhu cầu vật chất đã đáp ứng được thì nhu cầu tinh thần càng phải cao mới đạt.

Chính vì vậy, bất cứ ai làm gì trong môi trường nào đều cần phải có nhu cầu tinh

thần. Một trong những hoạt động đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người đó là hoạt

động văn hoá nghệ thuật, nó giúp con người tái tạo lại sức lao động, giúp con người

sảng khoái, dẫn đến hiệu quả lao dộng cao. Hơn nữa, thông qua các hoạt động thể

dục - thể thao chúng ta dễ dàng lồng ghép việc tuyên truyền chủ chương, đường lối

chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước tới quần chúng nhân dân.

133

Vùng đất Hưng Hà - cái nôi nghệ thuật chèo với chiếu chèo làng Hới, làng Hà

Xá… làng nào cũng có đội văn nghệ, các đội múa hát chèo. Ở Phương La cũng có

những đội văn nghệ của hội khuyến học, các đội thể thao… Vì vậy, cần phát huy triệt

để loại hình nghệ thuật truyền thống này, phải mở rộng giao lưu nghệ thuật giữa các

đơn vị, giữa các làng xã trên địa bàn Huyện với các địa phương khác.

Tăng cường các hoạt động thể dục - thể thao để thu hút nhiều nhất các đối

tượng, các tầng lớp, các lứa tuổi, giới tính tham gia. Tổ chức nhiều buổi giao hữu

giữa các làng, các dòng họ để kích thích sự tích cực tham gia của các cá nhân, dòng

họ nhằm góp phần tạo không khí sôi nổi, vui tươi, đoàn kết, gắn bó tình cảm giữa các

cá nhân, gia đình, dòng họ trong các làng nghề.

Qua hoạt động này, người dân thấy được vai trò của các hoạt động văn hoá,

thấy được ý nghĩa to lớn, thiết thực của việc xây dựng đời sống văn hoá trong các

làng nghề, tự giác thực hiện các quy định, quyết định của Trung ương, của địa

phương về xây dựng gia đình, dòng họ, làng xã, cơ quan, đơn vị văn hóa; về thực

hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội…

134

4.3.2. Nhóm giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống

4.3.2.1. Bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống

Làng nghề tạo ra một giá trị kinh tế lớn và ổn định hơn so với làng nông

nghiệp, góp phần nâng cao đời sống vật chất của người dân ở địa phương. Sản

phẩm của làng nghề là sự kết tinh của sức lao động, cái tâm, cái hồn và sự khéo léo

của đôi bàn tay người thợ. Đặc biệt, mỗi làng nghề lại có những truyền thuyết khác

nhau, sự phụng thờ khác nhau về những vị tổ nghề; cách thức thi tay nghề cũng rất

khác nhau… nên làng nghề chứa đựng nhiều yếu tố văn hoá truyền thống của dân tộc.

, các yếu tố văn hóa dân

gian… có sức sống lâu bền.

Như đã phân tích ở trên, do có điều kiện kinh tế khá giả hơn người làng thuần

nông, nên các hoạt động về tín ngưỡng, tâm linh của người làng nghề rất được coi

trọng. Mà trong cơ chế thị trường hiện nay, các yếu tố văn hoá truyền thống đã bị ảnh

hưởng không nhỏ, nét văn hoá đã bị mai một, các hoạt động tế, lễ thiếu sự khuôn

mẫu; một số hoạt động dân gian mờ nhạt, thậm chí đã bị lãng quên. Thay vào đó là

sự phô trương, hình thức, đôi khi trở thành sự ganh đua của các dòng họ... Để bảo

tồn giá trị văn hóa truyền thống trong các làng nghề chúng ta cần:

1. Bảo tồn, tôn tạo các di tích thờ cúng. Việc phục hồi, tôn tạo hay xây mới di

tích phải chú ý đến yếu tố cổ truyền, tính đồng nhất trong kiến trúc, đặt di tích đó trong

cảnh quan chung của cả quần thể di tích, sự hài hòa với môi trường xung quanh.

2. Bảo tồn các lễ thức thờ cúng, hội làng theo đúng khuôn mẫu của các cụ ta

xưa. Không nên vì nhu cầu mục đích kinh tế, sự ganh đua, thích thể hiện mình của

một số cá nhân mà làm cho các lễ thức bị biến dạng, méo mó.

3. Tuyên truyền, vận động người dân tích cực sưu tầm, tìm hiểu và biên soạn

các giá trị văn hóa truyền thống của làng để bảo lưu, truyền bá giúp làm cho mọi

người hiểu đầy đủ, đúng đắn về các giá trị văn hóa đó.

4. Giữ gìn những nét đẹp của các phong tục truyền thống (quan hệ chia sẻ,

giúp đỡ). Trên cơ sở yếu tố văn hoá riêng biệt của làng nghề chi phối tới đời sống

tinh thần của người dân như quan hệ ứng xử giữa người với người trong mối quan hệ

làm ăn, quan hệ kinh tế chịu sự chi phối của luật, của lý. Do đó, cần củng cố, duy trì

tốt mối quan hệ huyết thống, tình làng nghĩa xóm; đoàn kết giúp đỡ nhau cùng phát

triển. Để giữ gìn các nét đẹp trong phong tục tập quán, cần điều chỉnh các tiêu chí

xây dựng gia đình, dòng họ văn hoá… phù hợp với thực tiễn của các làng nghề.

4.3.2.2. Phát triển làng nghề kết hợp với phát huy các giá trị văn hóa truyền

thống để phát triển du lịch

Làng nghề là hạt nhân để hình thành thị tứ, thị trấn ở các vùng nông thôn, có

điều kiện để xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo sự giao lưu, quan hệ giao tiếp mở rộng…

giúp cho người dân dễ tiếp thu lối sống đô thị hơn làng thuần nông rất nhiều. Nghề,

làng nghề phát triển tạo ra cơ sở kinh tế để bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống

của các làng nghề, từ đó góp phần vào bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa làng nói

chung, văn hoá làng nghề nói riêng làm cho văn hoá trở thành mục tiêu, động lực

của công cuộc xây dựng xã hội mới.

135

Để bảo tồn, phát huy giá trị các di tích, lễ hội nhằm phát triển du lịch ở làng

Phương La, cần thiết phải đánh giá được giá trị của các di tích, lễ hội và các giá trị

văn hóa khác như sản phẩm nghề, các truyền thuyết… Hiện nay, công tác bảo tồn

các di tích và lễ hội ở Phương La đã được người dân quan tâm và chú trọng. Tuy

nhiên, mới chỉ tập trung vào việc tu sửa mà chưa quan tâm phát huy vai trò và

quảng bá về di tích. Việc tổ chức lễ hội cũng thu hút được người dân ở một số làng

xã lân cận tham gia nhưng cũng chưa đủ súc trở thành lễ hội vùng.

Sản phẩm văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần do con người sáng tạo ra để phục

vụ chính cuộc sống con người, thỏa mãn những mục đích và nhu cầu khác nhau của

các cá nhân, cộng đồng. Sản phẩm văn hóa luôn chứa đựng bản sắc văn hóa riêng,

mang dấu ấn cá nhân, dấu ấn cộng đồng nên luôn phản ánh và biểu hiện các yếu tố

mang sắc thái địa phương, vùng miền… Các sản phẩm văn hóa đã có sức hấp dẫn

đối với du khách, song muốn trở thành sản phẩm du lịch phải được tham gia vào các

hoạt động kinh doanh du lịch. Mỗi làng nghề có những nét văn hoá dân gian đặc

sắc, điển hình, được biểu hiện qua hai loại hình văn hóa: văn hóa vật thể và văn hóa

phi vật thể.

Văn hóa vật thể tiêu biểu với các thiết chế tín ngưỡng tôn giáo, tâm linh quý

hiếm. Sản phẩm người làng nghề làm ra còn mang tâm hồn, cốt cách, sự khéo léo

của đôi bàn tay người thợ nên mỗi sản phẩm là một tác phẩm riêng, độc đáo. Cùng

sản xuất một loại sản phẩm nhưng có khi mỗi gia đình lại có những công cụ, dụng

cụ riêng, khác biệt…

Văn hóa phi vật thể của các làng nghề được thể hiện đậm nét qua các lễ hội.

Lễ hội làng nghề bề thế, lắng đọng trong đó những lớp văn hóa, những trò diễn gợi

lại được các nghi thức nông nghiệp. Ngoài ra, còn có nghi thức tế lễ tổ nghề; tục

trình nghề của các phường nghề. Gắn với mỗi nghề lại có những truyền thuyết hấp

dẫn, huyền bí (về tổ nghề, về các vị thần được thờ). Người làng nghề có bí quyết,

công thức nghề riêng, việc giữ bí quyết nghề cũng hết sức nghiêm ngặt. Người làng

nghề thường đi quảng bá, trao đổi sản phẩm nên tư duy cởi mở, năng động, dễ gần

và có nhiều điểm khác trong ứng xử, trong các sinh hoạt cộng đồng so với người

136

a vật thể, phi vật thể của làng nghề có sức

sống lâu bền, là điểm khác biệt với các làng nông nghiệp, chính sức sống lâu bền

này của văn hóa làng nghề đã thúc đẩy mọi mặt đời sống xã hội phát triển.

Phương La là một làng cổ cũng nằm trong cái chung của các làng Việt Bắc

Bộ, làng có đủ cả đình, chùa, miếu, nhà thờ họ… và còn nhiều cổ vật quý. Các di

tích là phần văn hóa tâm linh vô cùng quan trọng của làng. Nổi bật trong các di tích

ấy của làng Phương La là Đình Đông, chùa Ứng Mão, các nhà thờ dòng họ Lê, họ

Trần…và lễ hội đình Đông của làng; đây là những điểm thu hút khách du lịch. Lễ

hội làng Phương La xưa có nhiều trò diễn đặc sắc, đặc biệt tục thi tay nghề giữa các

dòng họ xưa được người dân tham gia, hưởng ứng rất đông (tục này giờ đã không

còn). Về với Phương La, chúng ta còn được chiêm ngưỡng và mua các sản phẩm

khăn dệt máy hoặc dệt thủ công đặc sắc về dùng hoặc biếu, tặng.

Để hội làng Phương La có sức hút hơn với du khách, ngoài công tác tuyên

truyền quảng bá, địa phương cần phải xây dựng Ban quản lý di tích, tổ chức lễ hội

đủ tầm, triển khai bài bản các khâu đúng quy định của pháp luật mà phù hợp điều

kiện của địa phương. Bên cạnh đó, người dân và chính quyền địa phương cần khôi

phục một số trò diễn dân gian, tục thi tay nghề của các dòng họ tạo sự hấp dẫn, cuốn

hút nhân dân. Như vậy chúng ta vừa phát triển được kinh tế lại vừa bảo lưu, phát

huy các giá trị truyền thống; đồng thời, môi trường cảnh quan được bảo vệ, giữ gìn

xanh - sạch - đẹp, phục vụ cuộc sống của con người.

Làng nghề thủ công truyền thống tồn tại và phát triển bởi chính các sản phẩm

làng nghề làm ra hình thành một bản sắc riêng về giá trị sản phẩm của nghề, làng

nghề mình, tạo được một uy tín về chất lượng sản phẩm, nét độc đáo riêng biệt trong

sản phẩm của làng nghề. Mỗi sản phẩm là sự kết tinh của sức lao động, cái tâm, cái

hồn và sự khéo léo của đôi bàn tay người thợ… Từ những cái đó đã tạo nên bản sắc

văn hóa riêng của mỗi nghề và làng nghề - di sản văn hóa phi vật thể; đồng thời làng

nghề cũng chính là nơi lưu giữ bảo quản tốt nhất các truyền thống văn hóa lâu đời,

lưu truyền bí quyết nghề. Tại đây mang đậm nét những phong tục cổ truyền, những

nét văn hóa đặc trưng. Do đó, làng nghề lại còn chứa đựng tiềm năng to lớn về quảng

137

bá truyền thống văn hóa Việt Nam, sản phẩm hàng thủ công Việt Nam. Người ta đến

với làng có khi cũng chỉ là mua sản phẩm, chiêm ngưỡng sản phẩm, tìm hiểu bí

quyết của nghề, hiểu văn hoá của làng nghề. Chính vì vậy chúng ta cần phải có định

hướng góp phần tăng thêm giá trị, khẳng định thương hiệu của làng nghề, giúp làng

nghề phát triển tốt hơn. Muốn phát huy giá trị văn hoá làng, hơn bao giờ hết cần phát

huy vai trò của các nghệ nhân - sự truyền nghề, mở rộng quy mô đào tạo nghề, mở

rộng quy mô làng nghề và cần có chính sách đãi ngộ, tôn vinh các nghệ nhân để họ

không ngừng cống hiến trí tuệ cho con cháu.

Sản phẩm của làng nghề thu hút sự quan tâm chú ý của khách thập phương, hơn

nữa làng nghề là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hoá đặc trưng bản sắc văn hoá Việt Nam.

Ở đâu làng nghề càng phát triển thì ở đó các cổ vật, các di sản văn hoá càng đầy đặn

càng cổ xưa,vì vậy chúng ta cần khai thác thế mạnh của làng nghề như một địa danh

du lịch - du lịch làng nghề. Đến với làng nghề không những được chứng kiến hoạt

động sản xuất sản phẩm thủ công truyền thống, được tham quan các di tích lịch sử, các

giá trị văn hoá của người dân làng nghề, đồng thời có thể tự lựa chọn mua cho mình

những sản phẩm ưa thích. Đây là mục tiêu mà các làng nghề cần vươn tới. Để thực

hiện được mục tiêu, các cấp uỷ Đảng, chính quyền cần quy hoạch không gian kiến

trúc, cảnh quan môi trường, tạo điểm vui chơi, dịch vụ nhà nghỉ, khách sạn…

Như vậy, phát triển du lịch làng nghề không chỉ tạo được môi trường văn hóa

mà còn tạo ra thị trường trao đổi hàng hoá sản phẩm, quảng bá thương hiệu sản phẩm

cho các làng nghề ấy, đồng thời giải quyết tốt được nhiều vấn đề môi trường sinh

thái, sự phát triển nghề, làng nghề, môi trường văn hoá tốt.

Du lịch làng nghề sẽ góp phần làm cho nhân dân địa phương nhận thức được

giá trị của các di sản văn hoá, từ đó có ý thức giữ gìn, bảo vệ. Tự họ có những hành

động, những việc làm phù hợp; đồng thời, còn có ý thức tuyên truyền vận động con,

cháu, mọi người cùng tham gia bảo vệ. Không chỉ vậy họ còn góp công, góp của để

tôn tạo, bảo vệ các di sản, sưu tầm vốn truyền thống, những cổ vật của địa phương và

như vậy văn hoá truyền thống của địa phương ngày càng phong phú đa dạng càng

thu hút nhiều khách du lịch.

138

Muốn làm được điều này các cấp, các ngành ở địa phương cần phải có quy hoạch

tổng thể không gian kiến trúc của các làng nghề. Trong quy hoạch cần tính tới mặt bằng

sản xuất, nơi trưng bày, quảng bá sản phẩm làng nghề, quy hoạch khu xây dựng các thiết

chế văn hoá, nơi diễn ra các hoạt động văn hoá truyền thống và các hoạt động văn hoá

mới, đặc biệt cần tạo ra những khu vực sinh thái hấp dẫn vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng

của người dân làng nghề vừa đáp ứng nhu cầu khách du lịch. Như vậy chúng ta vừa phát

triển được kinh tế lại vừa bảo lưu, phát triển các giá trị truyền thống đồng thời môi trường

cảnh quan được bảo vệ, giữ gìn, phục vụ đắc lực cuộc sống con người.

139

4.3.3. Nhóm giải pháp về phát triển nghề

4.3.3.1. Quy hoạch làng nghề, tạo điều kiện mở rộng mặt bằng sản xuất

Trong điều kiện hiện nay, làng nghề bảo đảm công ăn việc làm trực tiếp, tức

thì cho một bộ phận lớn cư dân nông nghiệp đang chịu sức ép rất lớn của sự mất đất

nông nghiệp và sự gia tăng dân số, góp phần ổn định chính trị chính trị ở nông thôn,

ngăn ngừa tệ nạn xã hội. Mỗi ngày một làng nghề có thể giải quyết việc cho hàng

trăm, hàng ngàn lao động. Một số nông dân làm thuê đã được học nghề để trực tiếp

làm ra sản phẩm. Một số khác làm phần ruộng của các hộ trong làng hoặc các việc

khác như vận chuyển, nội trợ và tạp vụ tạo tiền đề cho lực lượng công nhân công

nghiệp trong giai đoạn mới. Làng nghề góp phần đào tạo ra một đội ngũ thợ thủ công

- công nhân tiền công ghiệp, bổ sung cho lao động công nghiệp sau này.

Ngày nay làng nghề càng ngày càng khẳng định vai trò to lớn của nó trong

phát triển kinh tế và xã hội. Hiện nay, nghề dệt vẫn là trụ cột, chỗ dựa kinh tế vững

chắc cho người làng Phương La và trong vùng bởi những lý do:

- Giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập tương đối cao và ổn định hơn so

với sản xuất nông nghiệp, khi cuộc sống dựa nông nghiệp đang gặp khó khăn vì

bình quân ruộng đát thấp, manh mún, giá cả nông sản thực phẩm không tương

xứng, chịu nhiều bất lợi so với giá các sản phẩm công nghiệp.

- Giải quyết công ăn việc làm cho cư dân các làng không có nghề ở bên cạnh,

cũng đang chịu sức ép rất lớn, rất bất lợi của việc mất đất sản xuất, trong khi điều

kiện chuyển đổi sang nghề mới rất khó khăn.

- Tạo ra một lượng sản phẩm hàng thủ công đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng

trong nước; nguyên liệu cho các cơ sở công nghiệp thuộc nhiều ngành nghề khác

nhau. Làng nghề tạo ra giá trị kinh tế cao trong cơ cấu kinh tế nói chung và so với

giá trị công nghiệp nói riêng, đáp ứng nhu cầu lớn về hàng hóa tiêu dùng trong nước

và xuất khẩu, đời sống cư dân luôn đảm bảo hơn các làng thuần nông. Nhiều xã,

huyện đã đặt vị trí của làng nghề, xã nghề như một mục tiêu trọng yếu của chương

trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Nhiều nơi nghề, hộ nghề đã trở thành

nguồn sống chủ yếu của người dân.

Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy, nhưng hiện nay, mặt bằng của các cơ

sở sản xuất ở Phương La vẫn gặp nhiều khó khăn, cho dù đã được giải quyết bằng

lao động vệ tinh. Một cơ sở sản xuất mang tính chất gia đình cần trung bình từ 1.500m2 trở lên để làm nhà xưởng, nhưng trên thực tế diện tích khuôn viên của hầu hết gia đình này từ chỗ 2 - 3 sào (720 - 1.000m2), nay bị thu hẹp do phải chia đất

cho các con khi các con ở riêng. Việc mở rộng nhà xưởng rất khó vì giá đất rất cao

so với khả năng vốn của các cơ sở sản xuất; hơn nữa, cho dù có đủ vốn để mua

thêm đất đai thì cũng không dễ mua được đất đai liền kề với cơ sở sản xuất đang có.

Chính vì những lý do trên, các cấp chính quyền cần quan tâm tạo mọi điều kiện

giải quyết vấn đề mặt bằng sản xuất giúp các cơ sở mở rộng quy mô sản xuất. Làng

Phương La hiện nay, người dân không còn nhu cầu làm nông nghiệp vì thu nhập thấp nên

ruộng bị bỏ hoang, hoặc ruộng cho người làng khác đến cấy thuê. Do vậy, nên chăng, các

cấp chính quyền tạo điều kiện để các chủ cơ sở sản xuất được thuê lại ruộng đất đó mở

rộng nhà xưởng đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất, thu thuế đất theo quy định của Nhà

nước, lấy kinh phí đó đầu tư xây dựng hạ tầng, các công trình phúc lợi của làng xã. Làm

như vậy, vừa có lợi cho người làm nghề, lại không để phí đất nông nghiệp.

4.3.3.2. Hoàn thiện hệ thống giao thông; cung cấp điện, nước; giải quyết

triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường

- Cần hoàn thiện hệ thống giao thông, hệ thống giao thông không chỉ có ý

nghĩa cho phát triển kinh tế du lịch của làng mà còn có ý nghĩa về mặt dân sinh, góp

140

phần phát triển nghề. Để hoàn thiện hệ thống giao thông ở làng Phương La, các cấp

chính quyền cần giữ nguyên cấu trúc đường hiện có, nâng cấp, khôi phục và mở rộng

những con đường có thể để giao thông thuận lợi, tránh tắc nghẽn; cần có một số biển

báo, chỉ dẫn đường giao thông trên hệ thống đường liên xã và cả đường nội làng; cần

xây dựng khu tập kết nguyên liệu và khu giao nhận sản phẩm xuất đi chung cho từng

thôn; tạo không gian thoáng cho người tham quan du lịch.

- Hệ thống điện ổn định và nước sạch là hai yếu tố vô cùng quan trọng đối với

đời sống của người dân. Điện, nước ổn định không những đảm bảo cho sinh hoạt còn

đảm bảo cung cấp nguồn điện ổn định để sản xuất góp phần phát triển kinh tế - xã

hội. Các cơ quan chức năng cần khẩn trương vào cuộc, kiểm tra, rà soát và cho nâng

cấp hệ thống điện, đảm bảo để cung cấp điện ổn định giúp người dân yên tâm sản

xuất. Các cấp chính quyền sớm triển khai, đưa hệ thống nước máy đảm bảo vệ sinh

vào phục vụ sinh hoạt của người dân.

- Cần có biện pháp khống chế, đẩy lùi tình trạng ô nhiễm môi trường làng

nghề. Đồng thời với việc phát triển kinh tế thì nạn ô nhiễm môi trường sống của các

làng nghề hiện nay đang là vấn đề rất bức xúc, là cản trở lớn nhất đối với các làng

nghề ở Thái Bình. Xét một cách tổng quát thì việc tổ chức sản xuất kinh doanh trong

các làng nghề chủ yếu là hộ gia đình do vậy tổ chức sản xuất phân bố ở khắp mọi nơi

trong làng không có khu tập trung. Như vậy ô nhiễm môi trường cùng trải rộng khắp

địa bàn dân cư ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống sinh hoạt, sức khoẻ của người

dân. Khi về với làng nghề Phương La, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh

sầm uất như phố phường, vila, nhà cao tầng mọc lên san sát. Cụm công nghiệp với

các công ty, xí nghiệp được xây dựng, đầu tư hiện đại. Tuy nhiên, về với Phương La,

ai cũng không khỏi băn khoăn bởi khí bụi của bông vải, mùi nồng nặc của hoá chất

tẩy nhuộm, dòng sông nước đen ngòm chảy qua làng song vì quá tham việc, thờ ơ

với vấn để liên quan tới cuộc sống của mình, thậm chí ý thức còn kém trong các vấn

đề xã hội. Do vậy, để giải quyết những bất cập trên, các cấp chính quyền địa phương

cần phải quy hoạch tổng thể cho làng nghề. Việc quy hoạch phải phù hợp với điều

kiện thực tiễn của làng, để người dân dễ chấp hành và thực hiện trong sản xuất, sinh

141

hoạt. Cần đầu tư quy hoạch, xây dựng các khu, cụm xử lý rác thải, nước thải và áp

dụng khoa học công nghệ để cải thiện môi trường. Xử ký nghiêm minh những trường

hợp vi phạm về môi trường… có như vậy, môi trường làng nghề mới được cải thiện.

4.3.3.3. Xây dựng đội ngũ doanh nhân - yếu tố giữ vai trò quyết định việc

duy trì và phát triển nghề

Các ông chủ doanh nghiệp có vai trò ký kết hợp đồng sản xuất do họ có đủ

điều kiện: về trình độ, kinh nghiệm, có vốn và dám nghĩ, dám làm; chủ động tìm

nguồn nguyên liệu rẻ; là thành viên tích cực, quyết định để hình thành hệ thống tổ

chức, sản xuất đảm bảo chất lượng, đảm bảo việc tiêu thụ sản phẩm. Ba yếu tố trên

kích thích sản xuất, kích thích người lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển. Nhờ

vậy, nghề và làng nghề phát triển, đời sống người dân sung túc. Bên cạnh đó, các

ông chủ doanh nghiệp cũng tạo cho người công nhân thoát ly nông nghiệp, một nền

sản xuất nhỏ, bấp bênh, thu nhập thấp; thay thế vào đó là sản xuất hàng thủ công có

thu nhập cao hơn, ổn định (một người thợ dệt, thu nhập gần 200.000/ngày; người

thợ may thu nhập khoảng 150.000/ngày, người nhặt khăn được 12.000đồng/tiếng);

đồng thời, tạo cho người nông dân nếp sản xuất, lối sống, tác phong công nghiệp.

Đội ngũ doanh nhân có sức ảnh hưởng, chi phối đến nhiều mặt đời sống của

làng nghề. Họ phải là những người có năng lực cạnh tranh và cạnh tranh lành mạnh,

tâm huyết với nghề (sống - chết, giàu - nghèo, vinh - nhục vì nghề); không ngừng

học hỏi, tìm ra những giải pháp sản xuất kinh doanh hiệu quả để đưa cơ sở sản xuất

của minh ngày càng phát triển, đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước

và cho các hoạt động chung của làng.

Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ doanh nhân có đủ điều kiện về phẩm chất,

năng lực cạnh tranh thời hội nhập vô cùng quan trọng trong giữ gìn và phát triển

nghề, làng nghề. Mở các lớp tập huấn ngắn hạn, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp

vụ quản lý, tiếp thị thị trường, kiến thức về ngoại ngữ, tin học… giúp các doanh

nhân nâng cao kiến thức, kỹ năng mọi mặt. Thành lập các hiệp hội, câu lạc bộ

doanh nghiệp để các chủ doanh nghiệp có cơ hội giao lưu, tiếp xúc học hỏi kinh

142

nghiệm lẫn nhau. Bên cạnh đó, cần chú trọng đào tạo đội ngũ thợ có tay nghề cao,

tâm huyết với nghề; phát huy những đức tính và những truyền thống tốt đẹp của cha

ông, khắc phục những hạn chế tiêu cực của người làm nghề trong chế độ cũ…;

143

Tiểu kết

Làng nghề có vị trí vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

của địa phương, đất nước. Công cuộc đổi mới cùng với quá trình CNH - HĐH đất nước

đã mang lại cho làng nghề nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những khó khăn, thách

thức. Nghề phát triển, kinh tế đời sống người dân được nâng cao, đây chính là một

trong những nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi văn hóa làng nghề. Sự biến đổi văn hóa

mang tính trào lưu nên có những biến đổi tích cực và cả những biến đổi chưa phù hợp

với truyền thống. Các tác động đó ảnh hưởng trực tiếp đến mọi mặt đời sống xã hội của

làng. Những tác động chưa tích cực, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của làng

nghề được xác định là: vấn đề ô nhiễm môi trường; không gian cảnh quan làng thiếu sự

quy hoạch tổng thể; vấn đề an ninh trật tự và các tệ nạn xã hội xuất hiện; việc thực hiện

chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước của người dân chưa cao; biểu hiện ganh đua,

sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội đã xuất hiện…

Sự biến đổi văn hóa sẽ còn diễn ra liên tục, lâu dài, và dự báo xu hướng biến

đổi của văn hóa làng nghề Phương La trong thời gian tới là: phục hồi các giá trị

truyền thống; đa dạng văn hóa; sự phân hóa trong đời sống văn hóa; đề cao vai trò

cá nhân;…

Từ những nhận định, đánh giá trên, Luận án đề xuất ba nhóm giải pháp nhằm

bảo tồn, phát triển văn hóa làng nghề trong giai đoạn đẩy mạnh CNH – HĐH gồm:

nhóm giải pháp về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; nhóm giải pháp

về nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động xây dựng ĐSVH ở cơ sở, nhấn mạnh việc chấp

hành chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước của người dân, cần có biện pháp mạnh

để ngăn ngừa các tệ nạn xã hội; nhóm giải pháp về phát triển nghề, quan tâm giải quyết

về mặt bằng sản xuất, cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ cho đội ngũ doanh nhân; đặc

biệt giải quyết triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề.

144

1. Trên cơ sở kế thừa lý luận của các học giả đi trước, Luận án đã sử dụng các

lý thuyết về biến đổi văn hóa và xã hội của các nhà Văn hóa học Đức, Mỹ và Việt

Nam; từ đó, góp phần phân tích và làm rõ các khái niệm làng nghề, văn hóa làng

nghề và biến đổi văn hóa làng nghề. Dựa vào các lý thuyết và những khái niệm trên

để Luận án giải quyết các vấn đề được đặt ra.

Làng nghề là các làng có phần đông cư dân sống bằng một nghề hoặc nhiều nghề

thủ công, có khi chỉ là một công đoạn của nghề, tạo ra các sản phẩm mang tính cách

riêng, thời gian làm nghề và thu nhập của nghề chiếm tỷ lệ lớn nhất so với các hoạt động

kinh tế khác; hoạt động làm nghề có ảnh hưởng lớn đến các mặt khác của làng (kiến trúc

làng xóm, nhà cửa, nhịp sống, thiết chế tổ chức và các quan hệ xã hội, tâm lý tính cách,

phong tục tập quán...).

Văn hóa làng nghề mà Luận án đề cập, không đơn thuần là số cộng giữa văn

hóa làng và văn hóa nghề, mà là một dạng đặc thù, là một phức thể các yếu tố văn

hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng nghề, giữa nghề và làng,

giữa con người và các yếu tố ngoài con người, có quan hệ mật thiết với nhau, ràng

buộc và phụ thuộc, tác động vào nhau.. Ngoài các yếu tố chung của văn hóa làng

Việt, văn hóa làng nghề có một số yếu tố đặc thù, như nhịp sống làng nghề, tâm lý và

tính cách của người làng nghề…

Căn cứ các yếu tố trên, Đề tài nghiên cứu Biến đổi văn hóa làng dệt Phương

La (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) đã phân tích, lý giải các vấn đề sau: 1/Tổng

quan làng dệt Phương La; 2/ Nghề dệt và văn hóa vật chất làng Phương La hiện nay;

3/Văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La hiện nay; 4/ Những

vấn đề rút ra từ việc nghiên cứu biến đổi văn hóa làng dệt Phương La.

2. Từ 1986, với đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước; các hộ gia đình trở lại

vai trò là đơn vị kinh tế tự chủ. Sự thay đổi này cùng với sự biến đổi tự thân của cuộc

sống đã tác động sâu sắc đến các nghề thủ công của làng. Đặc biệt, công cụ sản xuất

được người Phương La cải tiến, đổi mới, đáp ứng nhu cầu khách hàng về sản phẩm.

Vì thế, sản phẩm của làng dệt Phương La đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thành trong

KẾT LUẬN

nước và ở nhiều nước khác trên thế giới. Từ khoảng 1990, làng nghề Phương La có

nhiều bước phát triển mới. Đặc biệt, với sự năng động, dám nghĩ, dám làm cùng quyết

tâm nuôi khát vọng làm giàu của người Phương La; các công ty, doanh nghiệp xuất

hiện ngày một nhiều, làm cho nghề, làng nghề Phương La càng giàu có. Không đơn

giản vì đời sống kinh tế khá giả mà ở làng dệt Phương La không còn hộ nghèo, hộ giàu

chiếm tới 70%, nhiều tỷ phú nổi lên. Nơi đây đã hình thành nhiều ông chủ các công ty,

doanh nghiệp; tạo công ăn việc làm, mang lại nguồn thu nhập cao cho người dân và

đóng góp không nhỏ vào ngân sách địa phương.

3. Quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa, nhất là kinh tế phát triển đã tác động

đến đời sống văn hóa - xã hội của làng, đặt ra hàng loạt những thách thức cho sự phát

triển văn hóa của làng nghề. Môi trường cảnh quan biến đổi, một số vấn đề văn hóa

truyền thống bị mai một. Sự ra đời các công ty, doanh nghiệp đã hình thành tầng lớp

chủ doanh nghiệp ở Phương La với nhiều các mối quan hệ mới. Vốn là làng cổ, các

dòng họ về sinh sống đã được nhiều đời, ngày một đông, cộng thêm sự tác động của

các yếu tố kinh tế, những ông chủ doanh nghiệp nhiều tiền muốn khẳng định mình...

đã dẫn đến việc tách họ, xây nhà thờ mới. Đời sống người dân no ấm, công ăn việc

làm ổn định cũng giúp giảm thiểu các tệ nạn xã hội; tuy nhiên, lượng người đến làm

thuê ở làng mỗi năm một tăng, cộng với sự quá tải về vận chuyển hàng hóa, lưu

thông... cũng sẽ gây những khó khăn, phức tạp về an ninh trật tự cho làng. Có tiền,

các di tích luôn được người dân quan tâm tu bổ, tôn tạo; các chủ doanh nghiệp đóng

góp công đức rất lớn. Công đức được quy ra bằng vàng. Nhờ vậy, các di tích ở

Phương La đều rất quy củ và đẹp đẽ. Nhưng việc công đức với số tiền lớn, quy bằng

vàng và ghi danh không theo thứ tự người tâm đức trước ghi trước mà thường là

những người có nhiều tiền, vàng mới được ghi. Điều này, không đúng với truyền

thống của cha ông ta. Làm nghề, phải đáp ứng nhu cầu khách hàng, nơi tiêu thụ sản

phẩm; đã tạo cho người dân nơi đây có tác phong công nghiệp, lối sống gần với

người thành thị. Tuy nhiên, nó cũng làm cho con người ít có thời gian, điều kiện để

tham gia các hoạt động xã hội, quan tâm tới các điều kiện sống liên quan trực tiếp tới

họ. Mặc dù có nhiều thay đổi từ môi trường, không gian sống, mức sống, xã hội, văn

hóa tinh thần song tính cố kết cộng đồng ở Phương La vẫn bền chặt, trật tự của dòng

145

họ, làng xã vẫn được giữ vững… Từ những vấn đề đã trình bày ở trên, Luận án đưa

ra một số giải pháp, bước đi thích hợp giúp các làng nghề phát triển bền vững trong

điều kiện Công nghiệp hóa - hiện đại hóa và đô thị hóa: cần thấy rõ những tác động

tiêu cực của biến đổi văn hóa làng dệt Phương La thời gian qua; dự báo xu hướng

biến đổi văn hóa làng dệt Phương La những năm tiếp theo; các nhóm giải pháp để

bảo vệ, phát huy giá trị văn hóa làng dệt Phương La, bao gồm: nhóm giải pháp nâng

cao hiệu quả hoạt động xây dựng ĐSVH ở cơ sở (nâng cao ý thức chấp hành pháp

luật cho người dân; cần phải có biện pháp mạnh để ngăn chặn, phòng ngừa sự gia

tăng của các tệ nạn xã hội; tăng cường các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao),

nhóm giải pháp phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của làng nghề (bảo tồn các

giá trị văn hóa truyền thống; phát triển làng nghề kết hợp với phát huy các giá trị

văn hóa truyền thống để phát triển du lịch) và nhóm giải pháp về phát triển nghề

(quy hoạch làng nghề, tạo điều kiện mở rộng mặt bằng sản xuất; hoàn thiện hệ thống

giao thông, cung cấp điện, nước, giải quyết triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường; xây

dựng đội ngũ doanh nhân - yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển nghề).

4. Những kết luận trên được rút ra từ thực tế nghiên cứu, tìm hiểu và phân

tích về biến đổi văn hóa làng dệt Phương La. Luận án đã chỉ ra biến đổi của nghề

dệt truyền thống, những vấn đề nổi bật về văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của

làng dệt Phương La hiện nay. Chắc chắn, văn hóa và sự biến đổi văn hóa của làng

dệt Phương La còn biểu hiện ở nhiều chiều cạnh khác nữa dưới tác động của quá

trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế, văn hóa với thế giới… tác giả luận án sẽ tiếp

tục tìm hiểu và nghiên cứu trong thời gian tới.

Trong điều kiện hiện nay, các làng nghề nói chung, làng nghề Phương La nói

riêng đang từng bước hội nhập - đổi mới - chuyển mình “từ làng lên phố”, có nhiều

thuận lợi song cũng không ít những khó khăn, thách thức. Vì vậy các cấp chính

quyền, mỗi chúng ta cần góp phần tìm hiểu, nghiên cứu có những định hướng phù

hợp để các làng nghề vừa phát triển kinh tế nhanh mạnh, vừa gìn giữ, phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc, làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc và giúp người dân có đời sống tinh

thần tương xứng với đời sống kinh tế ngày một cao.

146

147

1. A.A. RADUGHIN (Chủ biên, 2004), Văn hóa học - Những bài giảng, bản dịch

của Vũ Đình Phòng, Viện Văn hóa thông tin, Hà Nội.

2. Đặng Nguyên Anh (1999), “Di dân và quản lý di dân trong giai đoạn phát triển mới:

một số suy nghĩ từ góc độ nghiên cứu”, Tạp chí Xã hội học số 3 và số 4.

3. Đặng Nguyên Anh, Cecilia Tacoli, Hoàng Xuân Thành (2004), Ly hương, bất ly

nông, làm thủ công nghiệp tại làng, Nxb Thế giới, Hà Nội.

4. Toan Ánh (1992), Nếp cũ làng xóm Việt Nam, tái bản, Tp. Hồ Chí Minh.

5. F. Ăng - ghen (1995), Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà

nước, C.Mác và Ph.Ăng - ghen toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình

(1927 - !954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

7. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hưng Hà (2002), Lịch sử Đảng bộ huyện Hưng

Hà (1927 - !954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hưng Hà (2006), Lịch sử Đảng bộ huyện Hưng

Hà (1930 - 2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Thái Phương (2002), Lịch sử Đảng bộ xã Thái Phương

(1927 - !954), Bản đánh máy, lưu tại văn phòng UBND xã Thái Phương.

10. Nguyễn Duy Bắc (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong xây dựng nền

kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ điển Bách Khoa và Viện

Văn hóa, Hà Nội.

11. Phan Gia Bền (1957), Sơ khảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam,

Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.

12. Nguyễn Văn Bính (2003), Giao tiếp và ứng xử với tư cách là thành tố của văn

hóa trong hoạt động kinh doanh thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa

đất nước, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện Văn hóa thông tin, Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

13. Phan Kế Bính (2003), Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

14. Trần Văn Bính (Chủ biên, 1998), Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta

hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Nguyễn Thị Phương Châm (2009), Biến đổi văn hoá ở các làng quê hiện nay,

Nxb Văn hoá thông tin, Viện Văn hoá.

16. Phong Châu, Nguyễn Quang Vinh, Nghiêm Đa Văn (1977), Truyện các ngành

nghề, Nxb Lao động, Hà Nội.

17. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn

hóa - Thông tin, Hà Nội.

18. Đinh Thị Vân Chi (2012), Văn hóa kinh tế làng nghề: thách thức và giải pháp

trong bối cảnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Báo cáo Đề tài cấp bộ,

Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.

20. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

21. Chrstophe Gironde (2002), Kinh tế hộ gia đình: 10 năm thay đổi ngành nghề tại

các xã nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế lần

thứ nhất, Hà Nội - 1998, tập III, Nxb Thế giới, Hà Nội.

22. Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng (Chủ biên, 1997), Xã hội học, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

23. Bùi Thị Dung (2012), "Văn hóa làng nghề Thái Bình trong tiến trình xây dựng

nông thôn mới", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (339), tr. 68-70.

24. Phan Đại Doãn (1996), Quản lý xã hội nông thôn Việt Nam hiện nay, một số

vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

25. Phan Đại Doãn (2000), Làng xã Việt Nam, một số vấn đề kinh tế - xã hội - văn

hoá, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

26. Phan Đại Doãn (2006), Làng Việt Nam Đa nguyên và Chặt, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

148

27. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hoá đến văn hoá học, Viện Văn hóa và Nxb

Văn hóa - thông tin, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghi lần thứ Năm Ban Chấp

hành trung ương Khóa VIII, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện hội nghi lần thứ Chín Ban Chấp

hành trung ương Khóa XI, Hà Nội.

30. Bùi Xuân Đính (2005), “Một số ý kiến về văn hóa làng nghề tỉnh Bắc Giang”, trong

Di sản văn hóa Bắc Giang, Bảo tàng Bắc Giang xuất bản, tr. 264- 282.

31. Bùi Xuân Đính (Chủ biên, 2009), Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà

Nội) - truyền thống và biến đổi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

32. Bùi Xuân Đính (2012), Các tộc người ở Việt Nam, Nxb Thời đại, Hà Nội.

33. Bùi Xuân Đính (Chủ biên, 2013), Bát Tràng - làng nghề, làng văn, Nxb Hà Nội.

34. Bùi Xuân Đính, Bài giảng về văn hóa nông thôn cho học viên cao học Trường

Đại học Văn hóa Hà Nội.

35. Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí, Thư viện Khoa học tổng hợp tỉnh Thái Bình.

36. Lê Quý Đức (2005), Vai trò của văn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa -

hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb

Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.

37. Phạm Duy Đức (1998), Thực trạng văn hoá trong quá trình đô thị hóa ở Việt

Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

38. Ngô Văn Giá (Chủ biên, 2007), Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền thống

ở các làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

39. Piérre Gourou (2003), Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, bản dịch, Hội khoa

học Lịch sử Việt Nam, Trường Viễn Đông Bắc cổ, Nxb Trẻ thành phố

Hồ Chí Minh.

149

40. Mai Văn Hai (Chủ biên, 2005), Xã hội học văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

41. Trương Minh Hằng (2006), Gốm sành nâu ở Phù Lãng, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

42. Trương Minh Hằng (Chủ biên, 2012), Tổng quan về nghề và làng nghề truyền

thống ở Việt Nam, Tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

43. Đỗ Thị Hảo (1989), Quê gốm Bát Tràng, Nxb Hà Nội.

44. Đỗ Thị Hảo (1991), Làng Vó và nghề đúc đồng truyền thống, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội

45. Diệp Đình Hoa (Chủ biên, 2000), Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

46. Diệp Đình Hoa (2003), Những con đường khám phá, Bảo tàng Việt Nam xuất bản.

47. Lê Như Hoa (Chủ biên, 1996), Xã hội hóa và sự nghiệp phát triển văn hóa, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

48. Lê Như Hoa (Chủ biên, 1997), Bản lĩnh văn hoá Việt Nam một hướng tiếp cận,

Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

49. Lê Như Hoa (2000), Quản lý văn hóa đô thị trong điều kiện đô thị hóa, hiện đại

hóa đất nước, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

50. Lê Như Hoa (2003), Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong lôi sống hiện đại,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

51. Nguyễn Thị Tô Hoài (2009), Làng Cọi Khê: Truyền thống và đổi mới, Luận văn

Thạc sĩ Việt Nam học, trường Đại học quốc gia Hà Nội.

52. Tăng Bá Hoành (1984, 1987), Nghề cổ truyền, Sở Văn hoá Thông tin Hải Hưng

và Ban Thông sử Hải Hưng, 2 tập.

53. Mai Thế Hởn (Chủ biên, 2003), Phát triển làng nghề truyền thống trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

54. Tô Duy Hợp (1997), Xã hội học nông thôn - tài liệu tham khảo nước ngoài, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

150

55. Tô Duy Hợp (1997), Ninh Hiệp truyền thống và phát triển, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

56. Tô Duy Hợp (2000), Phát triển cộng đồng - lý thuyết và vận dụng, Nxb Văn hoá

thông tin, Hà Nội.

57. Tô Duy Hợp (chủ biên, 2003), Định hướng phát triển làng - xã đồng bằng sông

Hồng ngày nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

58. Phạm Nguyên Hợp (1928), Tiên Hưng Phủ chí, bản dịch, Văn bản ký hiệu

A.3167, hiện lưu giữ tại Viện Văn hóa, Hà Nội.

59. Hội folklore châu Á (2006), Giá trị và tính đa dạng của folklore châu Á trong

quá trình hội nhập, Nxb Thế giới, Hà Nội.

60. Nguyễn Lan Hương (2009), Nghề sơn quang Cát Đằng (truyền thống và biến

đổi), Luận án Tiến sĩ, Viện Nghiên cứu văn hoá.

61. Nguyễn Thanh Hương (2011), „„Những biến đổi ở làng nghề Sơn Đồng, Hoài

Đức, Hà Nội‟‟, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (7),tr.56-58.

62. Trần Đình Hượu (1994), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa, Tái bản có

bổ sung, Hà Nội.

63. Đinh Gia Khánh - Lê Hữu Tầng (Chủ biên, 1994), Lễ hội truyền thống trong đời

sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

64. Vũ Ngọc Khánh (1991), Lược truyện thần tổ các ngành nghề, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

65. Nguyễn Đình Khang (biên dịch), Chú thích về tỉnh Thái Bình (“Notice sur la -

Province de Thái Bình”), ký hiệu M.10372, lưu tại Thư viện quốc gia,

Hà Nội.

66. Lam Khê, Khánh Minh (sưu tầm) (2010), 36 làng nghề Thăng Long, Nxb Thanh

niên, Hà Nội.

67. Khoa Nhân học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí

Minh (2008), Nhân học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia tp. Hồ Chí Minh.

151

68. Vũ Văn Khiên (1997), Bài giảng. Một số vấn đề điều tra chọn mẫu, Nxb Đại

học Thống kê, Hà Nội.

69. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người, Môi trường và Văn hóa, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

70. Nguyễn Thái Lai (2002), Làng tranh Đông Hồ, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

71. Phan Huy Lê (Chủ biên, 1995), Gốm Bát Tràng thế kỷ XV- XIX, Nxb Thế giới,

Hà Nội.

72. Phan Huy Lê (1997), Địa bạ Thái Bình, Nxb Thế giới, Hà Nội.

73. Thanh Lê (1999), Văn hóa và lối sống hành trang vào thế kỷ 21, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

74. Ngô Vi Liễn (1999), Tên làng xã và địa danh các tỉnh Bắc Kỳ, Nxb Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội

75. Phạm Ngọc Liên (Chủ biên, 2000), Từ điển phổ thông ngành nghề truyền thống,

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

76. Tạ Long (Chủ biên, 2008), Sự phát triển của làng nghề La Phù, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

77. Trịnh Duy Luân (2005), Xã hội học đô thị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

78. Trịnh Duy Luân (Chủ biên, 2006), Biến đổi xã hội ở Việt nam trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa (qua nghiên cứu nhóm doanh

nhân), Đề tài khoa học của Viện Xã hội học.

79. Lê Hồng Lý (Chủ biên, 2000), Văn hóa truyền thống làng Đồng Kỵ, Nxb Thống

kê, Hà Nội.

80. Trần Ngọc Ngoạn (2008), Phát triển nông thôn bền vững: những vấn đề lý luận

và kinh nghiệm thế giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

81. Nguyễn Quang Ngọc (1998), Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển của lịch

sử Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

152

82. Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

83. Hoàng Trọng Phu (1932), Các nghề thủ công ở Hà Đông, tài liệu đánh máy, lưu

tại Thư viện Viện Dân tộc học.

84. Vũ Huy Phúc (1996), Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam (1858 – 1945), Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội

85. Dương Bá Phượng (2001), Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

86. Lương Hồng Quang (Chủ biên, 2011), Câu chuyện làng Giang (các khuynh

hướng, giá trị và khuôn mẫu trong một xã hội đang biến đổi), Nxb Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

87. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, Nxb

Thuận Hoá, Huế, tập 3.

88. Nguyễn Thị Sáu (2002), Làng thêu Quất Động, Luận văn Thạc sĩ Văn hoá học,

Trường Đại học Văn hoá Hà Nội.

89. Sở Văn hoá -Thông tin Thái Bình (1989), Ngàn năm đất và người Thái Bình, xuất

bản tại Thái Bình.

91. Sở Văn hoá - Thông tin Thái Bình (2006), Nghiên cứu nhằm bảo tồn và phát

huy giá trị văn hoá trong một số nghề thủ công truyền thống tiêu biểu ở

Thái Bình, Báo cáo đề tài khoa học cấp ngành.

92. Đặng Kim Sơn (Chủ biên, 2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam -

hôm nay và mai sau, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

93. Đặng Kim Sơn (2008), Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông

dân trong quá trình công nghiệp hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

94. Nguyễn Văn Sửu (2010), “Khung sinh kế bền vững: một cách phân tích toàn diện

về phát triển và giảm nghèo”, Tạp chí Dân tộc học, số 2.

153

95. N.N Tsebốcxarốp và IL. N.N Tsebốcxarôva (1975), “Văn hóa là gì”, Tạp chí

Dân tộc học, số 01, (tr. 89 - 90).

96. Hùng Thắng, Thanh Hương, Bàng Cẩm (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Thanh

Niên, Hà Nội.

97. Nguyễn Thanh (1998), Nhận diện văn hoá làng Thái Bình, Sở Văn hóa Thông

tin - Thể thao Thái Bình xuất bản.

98. Nguyễn Thanh (2000), Lễ hội truyền thống ở Thái Bình, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

99. Nguyễn Thanh, Phạm Minh Đức, Bùi Duy Lan (2005), Địa danh Thái Bình trong

lịch sử, Sở Văn hóa Thông tin - Thể thao Thái Bình xuất bản.

100. Nguyễn Thanh, Nguyễn Quang Ân (Chủ biên), Tài liệu địa chí Thái Bình tập

1(2006), tập 2,3 (2007),tập 4 (2008), Trung tâm UNESCO thông tin tư

liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam xuất bản, Hà Nội.

101. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh.

102. Lê Đức Tiết (1998), Về hương ước lệ làng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

103. Bùi Thọ Ty, Nguyễn Đình Giốc (1990), Tên làng xã ở Thái Bình, Sở Văn hóa

Thông tin - Thể thao Thái Bình xuất bản.

104. Vũ Quốc Tuấn (Chủ biên, 2010), Làng nghề phố nghề Thăng Long - Hà Nội

trên đường phát phát triển, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

105. Vũ Quốc Tuấn (2011), Làng nghề trong công cuộc phát triển đất nước, Nxb

Tri Thức, Hà Nội.

106. Vũ Từ Trang (2007), Nghề cổ đất Việt, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

107. Nguyễn Trãi (1975), Toàn tập, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

108. Vũ Diệu Trung (2013), Sự biến đổi văn hóa làng nghề ở châu thổ sông Hồng

từ năm 1986 đến nay, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, lưu tại Viện Văn hóa

nghệ thuật Việt Nam.

154

109. UBND tỉnh Thái Bình (2004), Báo cáo sơ kết 2 năm tiếp tục thực hiện nghị

quyết 01 của BTV tỉnh uỷ về phát triển nghề và làng nghề (2002-2003),

ngày 15 tháng 9 năm 2004, lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Thái Bình.

110. UBND tỉnh Thái Bình (2006), Quyết định số 29/2006/QĐ-UBND, ngày 31

tháng 3 năm 2006 "Quyết định V/v Ban hành Quy định tiêu chuẩn làng

nghề", lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Thái Bình.

111. UBND tỉnh Thái Bình - Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2006), Hoằng Nghị

đại vương và việc bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử - văn hoá Phương

La, Kỷ yếu hội thảo.

112. UBND huyện Hưng Hà (2007), Đề án xây dựng cụm CN - TM - DV xã, thị trấn

2006 - 2010, bản đánh máy, lưu tại Văn phòng UBND huyện Hưng Hà.

113. UBND huyện Hưng Hà (2007), Đề án tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, công

nghiệp - tiểu thủ công nghiệp huyện Hưng Hà giai đoạn 2006 - 2010, bản

đánh máy, lưu tại Văn phòng UBND huyện Hưng Hà.

114. Lưu Thị Tuyết Vân (1995), "Một số vấn đề về làng nghề ở nước ta hiện nay",

Tạp chí Nghiên cứu lịch sử , (5), tr. 63-71.

115. Viện Sử học (1977), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội, tập 1.

116. Viện Sử học (1990), Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại, Nxb Khoa

học xã hội, Hà nội.

117. Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên, 1998), Một số vấn đề lý luận văn hóa trong thời

kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

118. Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên, 1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng

văn hóa ở nước ta, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

119. Hoàng Vinh (Chủ biên, 1999), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng

văn hóa ở nước ta hiện nay, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

155

120. Bùi Văn Vượng (1998), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, Nxb Văn

hoá dân tộc, Hà Nội.

121. Trần Quốc Vượng (Chủ biên, 1996), Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và

các vị tổ nghề, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

122. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn

hoá dân tộc, Hà Nội.

123. Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2000), Làng nghề, phố nghề Thăng Long- Hà

Nội, Bộ VHTT và Trung tâm triển lãm văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Hà

Nội.

124. Trần Minh Yến (2004), Làng nghề truyền thống trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

125. Đỗ Ngọc Yến (2015), Biến đổi làng nghề thủ công truyền thống Triều Khúc,

xã Tân Triều, huyện Thanh trì, thành phố Hà Nội, Luận án tiến sĩ Nhân học,

Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

156

157

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

1. Bùi Thị Dung (2012), “Phát triển làng nghề gắn với du lịch”, Tạp chí Tiêu chuẩn

đo lường chất lượng, (11+12), tr.36.

2. Bùi Thị Dung (2012), “Văn hóa làng nghề Thái Bình trong tiến trình xây dựng

nông thôn mới”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (339), tr. 68-70.

3. Bùi Thị Dung (2015), “Về tầng lớp chủ doanh nghiệp ở Phương La”, Tạp chí

Văn hóa nghệ thuật, (371), tr.39-44.

4. Bùi Thị Dung (2015), “Nét tính cách của người làng dệt Phương La”, Tạp chí

Văn hóa nghệ thuật, (372), tr.104-107.

CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

158

TT

Nguồn

Trang

Nội dung

Tác giả luận án

159

1 Phụ lục 1: Các phường hội của làng Phương La

ngày nay

Tác giả sưu tầm

163

2 Phụ lục 2: Phong tục liên quan đến sinh nở của

người làng Phương La xưa

Tác giả sưu tầm

165

3 Phụ lục 3: Quy trình sản xuất khăn mặt

UBND xã

166

4 Phụ lục 4: Danh sách các công ty, doanh nghiệp lớn ở

Phương La

Thái Phương

UBND xã

168

5 Phụ lục 5: Danh sách các doanh nghiệp, cá nhân

công đức tu bổ các di tích ở Phương La

Thái Phương

Tác giả luận án

173

6 Phụ lục 6: Danh sách những người cung cấp thông

tin

Tác giả tham

174

7 Phụ lục 7: Mẫu phiếu điều tra xã hội học và kết quả

xử lý phiếu điều tra

khảo mẫu phiếu

điều tra

Tác giả luận án

258

8 Phụ lục 8: Một số ảnh tư liệu

chụp năm 2014

MỤC LỤC CỦA PHỤ LỤC

159

Phụ lục 1

CÁC PHƢỜNG HỘI CỦA LÀNG PHƢƠNG LA NGÀY NAY

Xưa, làng Phương La cũng có các tổ chức phường hội như hội tư văn của

những người có học, có chức; hội tư võ của những người đi lính, hội lão nhiêu của

những người 60 tuổi trở lên… Ngoài ra, còn có các phường nghề, phường tiền.

Những phường này lập ra nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống.

Hiện nay, Phương La có rất nhiều các hội. Một trong những hội được xếp

vào bậc đầu của làng là hội sinh vật cảnh. Cả bốn thôn đều có Hội sinh vật cảnh.

Theo ông Nguyễn Văn Xã (sinh năm 1960), hiện đang là thành viên Ban chấp hành

Hội cho biết, tổng số hội viên hiện nay khoảng trên 90 người. Nguyên tắc kết nạp

vào Hội rất đơn giản, người muốn vào Hội làm đơn, đóng quỹ một lần 200.000

đồng. Điều quan trọng là, đã xin vào hội thì bản thân người đó phải có một số cây

cảnh nhất định và thực hiện quy định của Hội về tham gia các hoạt động trưng bầy,

hội họp… Các hội viên chủ yếu là những người có điều kiện kinh tế khá giả, ham

mê, có thú chơi cây cảnh ở mọi tầng lớp, mọi thành phần từ doanh nghiệp, chủ công

ty, người dân làm nghề… Nhiều cây cảnh của hội viên có giá trị lên tới hàng tỷ

đồng. Thông thường, mỗi năm Hội tổ chức trưng bày cây cảnh một lần vào tháng

Giêng, đây là tháng mà các hội viên ít bận mải công việc, làm ăn. Như dịp Tháng

giêng năm 2014, cây cảnh được bầy chỉ là những cây có trị giá từ 200 triệu đồng trở

xuống, không phải không có cây giá trị hơn mà hội viên chỉ trưng bày những cây

tầm tiền vậy, ai có nhu cầu ngắm cây giá trị hơn thì về cơ sở của hội viên. Hoạt

động của hội không chỉ thuần túy là thưởng ngoạn, trao đổi, mua bán cây cảnh mà

qua đó, các doanh nghiệp, người làng nghề có điều kiện giới thiệu, quảng bá về

công ty, xí nghiệp, cơ sở sản xuất và sản phẩm của mình.

Hội thứ hai cần được nói đến là Hội khuyến học ở Phương La rất phát triển,

bao gồm Hội khuyến học của Làng, của bốn thôn (Phương La 1, 2, 3, 4) và Hội

khuyến học của các dòng họ. Mỗi dòng họ có một hội khuyến học với số kinh phí

rất lớn. Hội khuyến học của dòng họ một năm tổ chức ít nhất hai lần vào dịp Trung

thu và đầu năm học mới, nhằm tuyên dương, khuyến khích các cháu trong dòng họ học

tập đạt kết quả cao nhất. Ngoài ra, hội còn tổ chức khen thưởng đột xuất cho con em

trong dòng họ học tập, công tác đỗ đạt. Đặc biệt, riêng làng Phương La còn có khuyến

học tại gia. Nhiều gia đình, tự mở quỹ khuyến học để chủ động khen thưởng, động viên

con cháu trong gia đình, dòng họ học tập, đỗ đạt cao.

Hội người cao tuổi do cụ Trần Văn Nguyệt (sinh năm 1930) đang sống tại

thôn Phương La 2 là chủ tịch Hội, có 420 hội viên. Mỗi thôn là một chi hội. Tiêu

chí kết nạp hội viên thực hiện theo quy định điều lệ chung của Hội cấp xã. Những

người từ 60 tuổi trở lên, tự nguyện làm đơn sẽ được kết nạp vào Hội. Cả bốn chi hội

có tổng quỹ khoảng 60 triệu. Hằng năm, theo điều lệ Hội, ba tháng tổ chức sinh

hoạt một lần; các ngày: 01/10, 6/6, 19/5 các hội tổ chức sinh hoạt và tham gia các

hoạt động của xã, của địa phương. Đặc biệt nhất là ngày mùng bốn tháng Giêng

thực sự là ngày hội của người cao tuổi, ngày hội xuân và mừng thọ các cụ. Đường

làng, ngõ xóm tấp nập, con cháu các gia đình có người được mừng thọ tổ chức lễ

mừng thọ cho ông bà, bố mẹ linh đình, thậm chí có nhà ăn cỗ đến hàng vài chục

mâm. Hội người cao tuổi của làng đã đóng góp tích cực vào cùng với chính quyền

địa phương tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của

Nhà nước, các cụ gương mẫu, nuôi dạy con cháu thảo hiền.

Câu lạc bộ dưỡng sinh Kinh lạc của làng Phương La do cụ Đoàn Thúy Tình

- thôn Phương La 2 (sinh năm 1937) là chủ nhiệm Câu lạc bộ cũng rất phát triển,

tổng số có trên dưới 70 người. Câu lạc bộ được thành lập khoảng ba năm trở lại đây.

Việc kết nạp hội viên rất đơn giản, chủ yếu là những người yêu thích câu lạc bộ, có

tinh thần luyện tập sẽ được nhập hội, không phân biệt tuổi tác, giới tính... Thời kỳ

đầu, có hội viên của đoàn dưỡng sinh công ty Dưỡng sinh kinh lạc về hướng dẫn

hội viên tập luyện, sau đó, hội tự duy trì và phát triển đến bây giờ. Hàng ngày, các

cụ tập luyện đều đặn tại sân cạnh đình Đông, trời ấm các cụ tập buổi sáng, rét, tập

vào buổi chiều, mỗi buổi tập khoảng 40 phút. Cứ đến ngày 1/10 hằng năm, xã tổ

chức cho các câu lạc bộ dưỡng sinh tham gia biểu diễn. Câu lạc bộ của làng Phương

La trong bộ đồng phục trắng, trông ai cũng mạnh khỏe, yêu đời và luôn dược đánh

160

giá cao trong các kỳ hội diễn. Những người chăm chỉ luyện tập được xã, Hội tuyên

dương, nhân ngày Hội người cao tuổi thì được xã biếu suất quà trị giá vài chục

nghìn đồng. Tuy giá trị vật chất không lớn nhưng đã động viên về tinh thần hội viên

rất cao.

Câu lạc bộ văn nghệ của làng hoạt động rất mạnh, chủ yếu tập trung biểu

diễn hát, múa chèo và hát mới. Câu lạc bộ này có sự tham gia của nhiều tầng lớp,

lứa tuổi khác nhau. Tiêu chí chủ yếu đặt ra là những người đam mê, có chút khả

năng hát múa. Câu lạc bộ thường xuyên tập luyện và biểu diễn phục vụ hoạt động

của làng xã, cho các dòng họ…

Làng Phương La có bốn chi Hội cựu chiến binh của bốn thôn. Thôn Phương

La 1, do ông Trần Xuân Dương làm chủ tịch và có 36 hội viên. Hội của Phương La

2, do ông Đào Hồng Quân là chủ tịch, có 35 hội viên. Phương La 3, do ông Nguyễn

Văn Xá làm chủ tịch và có 15 hội viên. Ông Đào Văn Tuấn là Chủ tịch Hội cựu

chiến binh của Phương La 4, có 26 hội viên. Những người được kết nạp vào Hội

phải có đủ tiêu chuẩn và được trên 50% hội viên nhất trí (bầu bằng hình thức bỏ

phiếu kín). Các chi hội đều thực hiện theo quy chế của Hội cựu chiến binh xã: tiền

hội phí, mỗi người đóng 2.000 đồng/tháng, sinh hoạt mỗi quý một lần; Ban chấp

hành hội, sinh hoạt tháng một lần. Theo điều tra của chúng tôi, hiện nay bình quân

chia đầu người thì mỗi hội viên của Phương La có 600.000 đồng trong quỹ Hội,

ngoài ra, Hội còn có một số khoản kinh phí khác. Số tiền này, các chi hội tạo điều

kiện cho những hội viên có hoàn cảnh khó khăn, có nhu cầu vay phát triển kinh tế

gia đình. Tiền lãi đó lại được nhập vào quỹ dùng để thăm hỏi, chia vui sẻ buồn cho

các hội viên.

Tại Phương La hiện có một Hội nạn nhân chất độc da cam, trên dưới mười

người. Hội thành lập nhằm động viên tinh thần, giúp đỡ các hội viên vươn lên trong

cuộc sống.

Làng có một câu lạc bộ võ thuật, tập hợp các thanh niên trong làng, có sức

khỏe, ham mê võ thuật. Câu lạc bộ phối hợp với Trung tâm Giáo dục Thanh thiếu

161

niên của Tỉnh thường xuyên mời những người có khả năng võ thuật về để hướng

dẫn, luyện tập cho hội viên. Có sự tài trợ của các doanh nghiệp hảo tâm, tháng hai

vừa qua, câu lạc bộ đã được tham gia biểu diễn, thi thố tài năng tại Trung tâm

thương mại của Tập đoàn Hương sen ở làng Phương La.

Tất cả các hội của làng Phương La đều có quy chế hoạt động, có tiêu chí kết

nạp hội viên, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Thật sự các hội này đã

góp phần tạo thêm mối đoàn kết, gắn bó, yêu thương, tương trợ lẫn nhau trong cộng

đồng làng xã.

Ngoài các hội nói trên, ở làng Phương La còn hình thành một loại hình tổ

chức “tổ hợp”- một công đoạn trong tổ chức sản xuất. Mặc dù kinh tế của làng nghề

Phương La, xã nghề Thái Phương phát triển mạnh, đời sống nhân dân không ngừng

được nâng cao. Nhưng việc phát triển của xã nghề cũng không ảnh hưởng hoặc tác

động mạnh tới cơ cấu tổ chức của làng Phương La. Tuy nhiên làng nghề Phương La

(xã, nghề Thái Phương) trong sản xuất kinh doanh hàng tiểu thủ công nghiệp tiêu

biểu là nghề dệt đã ít nhiều có sự thay đổi đối với các hộ làm nghề dệt. Đó là việc

hình thành các tổ hợp để giao nguyên liệu và sản xuất hàng dệt cho các công ty,

doanh nghiệp hoặc tự bản thân ông chủ tổ hợp ký hợp đồng xuất khẩu. Không chỉ

có người từ địa phương khác tới nhận hàng tại các tổ hợp ở làng Phương La mà

ngay tại 21 xã có các hộ nhận hàng dệt về sản xuất cũng xuất hiện nhiều tổ hợp lao

động gia công hàng dệt, may cắt xén tẩy nhuộm hàng dệt khăn xuất khẩu cho các

ông chủ ở làng Phương La. Việc hình thành các tổ hợp sản xuất trong làng, trong xã

đã tạo thêm sự đoàn kết gắn bó giữa các thành viên trong tổ hợp với nhau. Việc các

hộ thành viên, hộ gia đình tập trung vào sản xuất hàng dệt đã góp phần không nhỏ

tới việc giảm bớt các tai tệ nạn xã hội ở xã Thái Phương, trật tự xã hội ở các làng xã

làm vệ tinh dệt hàng cho người làng Phương La. Mặt khác, thu nhập từ nghề dệt đã

giúp cho người dân Phương La và những người lao động làm thuê ngày một tăng rõ

rệt, góp phần ổn định, nâng cao đời sống nhân dân trong làng, trong xã và trong

huyện Hưng Hà.

162

163

Phụ lục 2

PHONG TỤC LIÊN QUAN ĐẾN SINH NỞ

CỦA NGƢỜI LÀNG PHƢƠNG LA XƢA

xã Phương La” được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Văn bản được lập vào

ngày 22 tháng Năm năm Tự Đức thứ 34 (1881), gồm 19 điều, trong đó có 13 điều

liên quan đến việc tang (việc hiếu). Những phong tục, tập quán trên được dân làng

Phương La quy định và thực hành chặt chẽ như bao làng quê khác.

Xưa kia, ở Phương La, đứa trẻ sinh ra, nếu là con trai thì gia đình phải sửa lễ

ra đình trình hàng giáp, các cụ phụ trách sổ đinh của làng nhận lễ vật trình thánh rồi

ghi tên đứa trẻ vào sổ đinh của làng, giáp. Đứa trẻ được tính suất đinh, là một thành

viên trong cộng đồng làng và mọi quyền lợi, nghĩa vụ của xuất đinh đó được tính

ngay từ thời điểm này. Ngày nay, người dân ở đây hầu hết là theo đạo Phật (có tới

trên 300 người là phật tử), khi đứa trẻ được sinh ra, dù trai hay gái thì các gia đình

đều tổ chức cúng mụ cho đứa trẻ.

Xưa kia, trong cảnh nghèo nàn, lạc hậu, người phụ nữ nông dân Thái Bình,

trong đó có người làng Phương La nuôi con bằng rất nhiều kinh nghiệm, bằng các

tập tục và cả những điều mê tín dị đoan. Những điều kiêng kị cho người mang thai,

chủ yếu chỉ kiêng ăn, kiêng ăn hoa chuối để tránh đẻ ngược; không kiêng làm "Đẻ

con so làm cho láng giềng". Làng Phương La, kiêng bà chửa đi đám cưới, vì sợ trẻ

bị sài đẹn. Làng Phương La cũng có vài bà già quen đỡ đẻ. Bà đỡ đẻ thường dùng

nứa hoặc liềm, hái cắt rốn cho hài nhi. Người Phương La xưa quan niệm, tính tình

đứa bé phụ thuộc rất nhiều vào tính tình người cắt rốn, chôn nhau cho nó. Mới lọt

lòng mẹ, trẻ phải được mặc hoặc quấn bằng đồ cũ đã dùng rồi. Nhận trẻ từ tay bà đỡ

cũng phải là người khoẻ mạnh, phàm ăn, tốt tính. Khi tắm cho trẻ thường dùng nước

chè tươi để nguội để da trẻ săn, ít mụn nhọt, hoặc dùng lá hòe, lá khế để tắm cho trẻ

đỡ mọc rôm. Gia đình có con sinh đôi một trai một gái, phải làm lễ cưới cho hai đứa

trẻ thành vợ chồng để mong trẻ sống lâu, khỏe mạnh. Bà đẻ phải kiêng khem rất

Các phong tục tập quán của làng Phương La được ghi chép trong bản “Tục lệ

chặt chẽ, ở trong buồng kín gió, có gai mây, cành dâu để kị ma tà, vía độc; không

nhanh mồm hỏi trước người đến thăm, tránh sau này nói nhịu.

Đứa trẻ sinh phải giờ xấu, khó nuôi thì phải bán vào cửa chùa làm con Phật,

con Thánh đến mười hai tuổi mới làm lễ chuộc về làm con mình. Khi đặt tên cho

trẻ, thường đặt tên xấu để trẻ dễ nuôi. Nhiều gia đình, đẻ con năm nào thì lấy tên

năm đó đặt cho con như Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi,... Trẻ 6 tuổi trở lên là

đến tuổi đi học. Ngay từ những năm hai mươi của thế kỷ XX, hầu hết các hương

ước của làng xã Thái Bình đã có tinh thần khuyến học, quy định trẻ từ 6 tuổi thì cha

mẹ phải cho con đến trường. Phải cho con gái đi học để mở mang trí tuệ, hiểu biết

lễ nghi để làm tròn bổn phận làm dâu khi xuất giá. Nhưng trong điều kiện sống vô

cùng khó khăn, đa số trẻ em làng Mẹo thời đó vẫn thất học, phải làm lụng vất vả

như người lớn để kiếm ăn và lấy vợ, lập gia đình từ trước tuổi thành niên. Ngày

nay, trẻ em được phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ. Ở Phương La, việc kiêng

kỵ trong ba tháng cữ vẫn được được người dân duy trì, tuy nhiên đã được giản

lược hơn. Bà đẻ, không nhất thiết cứ phải ngồi trong màn, trong nhà tối; hầu như

không còn cảnh gài cành dâu, gai mây quanh nhà; không phải kiêng khem ăn uống

nghặt nghèo như xưa; bà đẻ ăn và thực hành các công việc vệ sinh… theo sự

hướng dẫn của nhân viên y tế, kết hợp một số kinh nghiệm hay, phù hợp của

những người cao tuổi.

164

165

Phụ lục 3

QUY TRÌNH SẢN XUẤT KHĂN MẶT

cả một quy trình với nhiều công đoạn khác nhau:

- Công đoạn đầu tiên cũng là quan trọng nhất chính là chọn sợi để dệt. Trên thị

trường có rất nhiều loại sợi dùng để dệt khăn và giá thành cũng khác nhau. Cơ sở sản xuất

có thể chọn mua sợi của công ty Nam Long, sợi Đam San hoặc sợi của công ty Đông

Phong… Hầu hết những loại sợi này đều phải mua từ các tình Nam Định, Hà Tây, Hà

Nam, Miều Nam… Tùy nhu cầu khách hàng, các công ty, chủ cơ sở dệt chọn nhập loại sợi

để đáp ứng.

- Tiếp theo là phải đem những quả sợi tròn đi mắc cửi, muốn mắc được cửu phải

dùng “guồng mắc”. Công đoạn này mất bình quân 3-4 tiếng mới xong một hoa cửu. Ở

làng Mẹo hiện nay có khoảng gần 1.000 “guồng mắc”, mắc liên tục không ngừng nghỉ.

- Tiếp đến là “vê cửu”, trước đó đã phải dàn máy để có thể dệt theo mẫu mà mình

muốn dệt. Đây là công đoạn cần sự tỷ mỉ và cần mẫn của những người thợ giỏi, có trình độ

về kỹ thuật máy móc mới có thể làm ra được. Sản phẩm tạo ra sau khi dệt xong gọi là khăn

mộc với nhiều mẫu như khăn lì, khăn ô, khăn tem, thể thao

- Sau khi dệt xong, khăn được đưa đi tẩy trắng, tẩy màu ở Hà Tây, Nam Định, Hà

Nam…, hoặc tẩy tại làng. Đây là công đoạn quan trọng, sản phẩm sẽ có màu sắc phù hợp

với từng loại khăn mà mình mong muốn.

- Công đoạn tiếp là đưa những khăn đã tẩy đi may viền, đính tem mác cho sản

phẩm và cũng là công đoạn cuối cùng để làm ra một chiếc khăn mặt. Tuy nhiên, trên đây

chỉ là những công đoạn chính, còn nhiều những công đoạn lặt vặt, chi tiết đòi hỏi kinh

nghiệm, sự tỷ mỉ, cần cù, sáng tạo trong công việc của đội ngũ những người thờ tài hoa.

Quy trình sản xuất ra chiếc khăn mặt cũng không hề đơn giản, nó tương đối vất vả,

166

Phụ lục 4

DANH SÁCH CÁC CÔNG TY, DOANH NGHIỆP LỚN Ở PHƢƠNG LA

TT

Tên công ty, xí nghiệp

Giám đốc,chủ cơ sở Ghi chú

Công ty TNHH Hoàn Hợp

Nguyễn Văn Châm

1

2

Công ty TNHH Tân Phương

Đỗ Văn Tân

3

Công ty TNHH Toàn Thắng

Trần Văn Vực

4

Công ty TNHH CBA

Đinh Công Ba

5

Công ty TNHH Yến Đạt

Trần Văn Nhâm

6

Công ty TNHH Phương Tiến

Trần Sỹ Nhã

7

Công ty Dệt may Vũ Hai

Vũ Văn Hai

8

Xí nghiệp Dệt may Nam Thành

Đinh Đức Cải

9

Trung tâm Thương mại Hương Sen

Trần Văn Sen

10

Công ty TNHH Tiến Đạt

Trần VănTrong

11

Công ty TNHH Xuân Lộc

Đinh Đức Hoán

12

Công ty TNHH Thảo Nguyên

Trần Văn Dũng

13

Công ty TNHH Minh Tâm

Trần Văn Tuấn

14

Công ty TNHH Hồng Phúc

Đinh Xuân Chiến

15

Công ty TNHH Thành Công

Trần Xuân Ứng

16

Công ty TNHH Thăng Long

Trần Văn Hương

17

Công ty TNHH Phúc Cường

Nguyễn Văn Cường

18

Công ty TNHH Hưng Thịnh

Trần Văn Dân

19

Công ty TNHH Thanh Chất

Bùi Thanh Chất

20

Công ty TNHH Châu Minh

Nguyễn Văn Mão

21

Công ty TNHH Minh Ánh

Bùi Văn Tụy

22

Công ty TNHH Tuấn Lộc

Trần Văn Quân

23

Công ty TNHH Tuấn Minh

Đinh Văn Toàn

24

Công ty TNHH Việt Nghĩa

Đinh Quyết Tiến

25

Công ty TNHH Lộc Phát

Trần Văn Thuấn

26

Công ty TNHH Tân Cường

Vũ Văn Tân

27

Công ty TNHH Việt Cường

Trần Văn Mậu

28

Công ty TNHH Thành Tân

Trần Văn Theo

29

Công ty TNHH Phúc Anh

Vũ Văn Hương

30

Công ty TNHH Đăng Dương

Lê Văn Doanh

31

Công ty TNHH Hồng Nhung

Đinh Thị Mít

32

Công ty TNHH Minh Thu

Đào Duy Tứ

33

Công ty TNHH Lương Ngọc

Trần Văn Bẩy

34

Công ty TNHH Nam Dương

Trần Quý Dương

35

Công ty TNHH Thủy Chung

Nguyễn Văn Toàn

36

Công ty TNHH Thành Bắc

Đào Đình Viễn

37

Công ty TNHH Ngọc Hải

Nguyễn Văn Tinh

38

Công ty TNHH Hoàng Thái

Đào Văn Thịnh

39

Tổ hộ sản xuất gia đình

Đinh VănTuynh

40

Tổ hộ sản xuất gia đình

Trần Văn Tuấn

Nguồn: UBND xã Thái Phương

167

168

Phụ lục 5

DANH SÁCH CÁC DOANH NGHIỆP, CÁ NHÂN CÔNG ĐỨC TU BỔ

CÁC DI TÍCH Ở PHƢƠNG LA

Bảng 5.1 : DANH SÁCH CÁC DOANH NGHIỆP, CÁ NHÂN CÔNG ĐỨC

TU BỔ ĐỀN SƠN DU NĂM 2009 - 2013

Số tiền công đức

STT

Họ và tên

Địa chỉ

(quy ra bằng chỉ vàng)

1 Cán bộ và nhân dân Phương La Phương La 1,2,3,4

16.7

2 Hội đồng hương Phương La

T.P Hồ Chí Minh

3.4

3 Hội đồng hương Phương La

T.P Thái Bình

14

4 Vũ Quang Huy

Phương La 2

9.5

5

Trần Văn Sen

T.P Thái Bình

8.6

6 Đỗ Văn Tân

Phương La 2

5.0

7

Lê Minh Quang

Hải Phòng

5.0

8

Trần Xuân Ứng

Phương La 1

2.5

9

Lê Minh Hiệu

T.P Thái Bình

2.5

10 Trần Đức Vĩnh

Hà Nội

2.5

11 Trần Văn Toàn

Phương La 1

2.5

12 Đinh Xuân Đàm

Phương La 1

2.0

13 Trần Văn Tâm

Phương La 1

1.7

14

Nguyễn Thị Nghị

Phương La 1

1.5

15 Trần Văn Liễu

Phương La 1

1.5

16 Nguyễn Văn Sướng

Phương La 3

1.5

169

Số tiền công đức

STT

Họ và tên

Địa chỉ

(quy ra bằng chỉ vàng)

Phương La 1

17 Trần Văn Mậu

1.2

Phương La 1

18 Vũ Văn Vương

1.0

Phương La 1

19 Trần Văn Mười

1.0

Phương La 2

20 Đinh Đức Cải

1.0

Phố Lẻ

21 Đinh Đức Tiến

1.0

Hải Phòng

22 Đỗ Văn Tươi

1.0

23 Trần Sỹ Nhã

Phương La 1

1.0

24 Trần Văn Hương

Phương La 1

1.0

25 Trần văn Dần

Đồng Tu

1.0

26 Trần Văn Mạnh

Phương La 1

0.8

27 Nguyễn Minh Quốc

Phương La 1

0.8

Phương La 1

28 Đặng Thị Nga

0.7

Phương La 1

29 Trần Văn Trong

0.7

Phương La 1

30 Bùi Thanh Chất

0.7

31 Nguyễn Thị Quyển

Phương La 1

0.5

32 Trần Văn Nguyệt

Phương La 2

0.5

Phương La 1

33 Trần Văn Quyền

0.5

Phương La 1

34 Trần Văn Thiện

0.5

Phương La 1

35 Trần Văn Theo

0.5

Phương La 2

36 Trần Văn Vực

0.5

Phương La 2

37 Trần Văn Nhâm

0.5

170

Số tiền công đức

STT

Họ và tên

Địa chỉ

(quy ra bằng chỉ vàng)

38 Trần Văn Nhị

Phương La 1

0.5

39 Trần Văn Nghị

Phương La 1

0.5

40 Đinh Đức Phó

Phương La 1

0.5

41 Trần Văn Trần

Phương La 1

0.5

42 Trần Văn Mức

Phương La 1

0.5

43 Bùi Văn Tuy

Phương La 1

0.5

44 Vũ Văn Đoàn

Phương La 1

0.5

171

Bảng 5.2 : DANH SÁCH CÁC DOANH NGHIỆP, CÁ NHÂN CÔNG ĐỨC TU BỔ CHÙA MẸO NĂM 1995-1996

Số tiền ủng hộ

TT

Họ và tên

Nơi ở

(quy ra bằng chỉ vàng)

1 Hội tín đồ

Phương La

7.0

2

Trần Hương Sen

Thái Bình

4.0

3 Đinh Hồng Quân

Thái Bình

4.0

4 Vũ Quang Huy

Phương La

13

5

Lê Minh Hiệu

Phương La

2.0

6 Đinh Thị Sáu

Phương La

1.2

7

Lê Thanh Chiến

Phương La

1.0

8

Trần văn Ứng

Phương La

1.0

9

Trần Văn Hương

Phương La

1.0

10 Lê Thị Hà

Miền Nam

1.0

11 Đỗ văn Khuê

Phương La

Bộ ngũ sự

12 Đinh Văn Đài

Phương La

13 Trần Văn Tân

Hà Nội

Bộ tam sự

172

Bảng 5.3: DANH SÁCH CÁC DOANH NGHIỆP, CÁ NHÂN CÔNG ĐỨC

TU BỔ ĐỀN MẪU NĂM 2001

Số tiềng ủng hộ

TT

Danh sách

Địa chỉ

(quy ra bằng chỉ vàng)

1 Cán bộ và nhân dân

Phương La

4.5

2 Hội tín đồ

Phương La

3.0

3 Hội đồng hương Phương La

T.P Hồ Chí Minh

6.5

4 Hội đồng hương Phương La

Hà Nội

4.0

5 Hội đồng hương Phương La

Hải Phòng

2.0

6 Hội đồng hương Phương La

T.P Thái Bình

1.5

7 Vũ Quang Huy

Phương La

2.0

8 Trần Văn Sen

Thái Bình

2.0

9 Trần Đức Vinh

Hà Nội

2.0

10 Trần Văn Ứng

Phương La

2.0

11 Trần Văn Hương

Phương La

2.0

12 Trần Thị Ngành

Hải Phòng

1.0

13 Vũ Văn Đồng

1.0

14 Đỗ Thị Sáu

Phương La

1.0

15 Trần Văn Thoan

1.0

16 Lê Minh Quang

Hải Phòng

1.0

17 Lê Thị Hà

T.P Hồ Chí Minh

1.0

18 Trần Văn Khoa

1.0

19 Lê Minh Hiệu

Phương La

1.0

20 Đinh Thị Huệ

Canađa

1.0

21 Vũ Quang Hội

Hà Nội

1.0

22 Đinh Thị Cúc

1.0

23 Hội con hương Phương La

Phương La

3.0

24 Nguyễn Quốc Tuấn

1.0

173

Phụ lục 6

DANH SÁCH NHỮNG NGƢỜI CUNG CẤP THÔNG TIN

Năm

TT

Họ và tên

Nghề nghiệp hay chức vị xã hội

sinh

1 Trần Văn Dũng

1966 Giám đốc Công ty TNHH Thảo Nguyên

2 Trần Văn Đón

1964 Chủ nhiệm Hợp tác xã Nông nghiệp Thái Phương

3 Đặng Hùng

1958 Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình

1985 Công chức Văn hóa xã Thái Phương

1965 Phó Chủ tịch UBND xã Thái Phương

4 Trần Văn Hà

1929 Nhân dân thôn Phương La 2

5 Nguyễn Văn Hà

1969 Giám đốc quỹ tín dụng xã Thái Phương

6 Lê Quang Hoa

1970 P. Giám đốc Công ty dệt may Tiến Mạnh

7 Đinh Văn Hậu

1929 Chủ tịch Hội người cao tuổi làng Phương La

8 Bùi thị Mơ

1968 Công chức văn hóa – xã Bình Lăng

9 Trần Văn Nguyệt

1934 Trưởng Ban quản lý di tích làng Phương La

10 NguyễnVăn Quang

1970 Chủ hộ dệt vệ tinh

11 Trần Văn Quyền

1958 Chủ hộ làm nghề dệt

12 Trần Văn Thành

1964 Hộ dệt vệ tinh

13 Trần Đức Thắng

1960 Công nhân, công ty Nam Long

14 Trần Thị Thiều

1959 Giám đốc Công ty TNHH Phúc Cường

15 Đào Duy Tứ

1959 Hội trưởng Hội sinh vật cảnh

16 NguyễnVăn Sướng

17 Nguyễn Văn Xã

174

Phụ lục 7

MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC VÀ KẾT QUẢ XỬ LÝ PHIẾU ĐIỀU TRA

VỀ LÀNG PHƢƠNG LA

Kính thưa ông/bà!

Trong điều kiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vấn đề

bảo tồn, phát triển làng nghề, văn hóa làng nghề là một trong những vấn đề cần

được quan tâm, giải quyết. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu văn hóa

làng nghề truyền thống ở Thái Bình hiện nay (qua khảo sát trường hợp làng Phương

La) nhằm tìm hiểu các khía cạnh về đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội ở làng

Phương La (xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Kết quả điều tra

giúp cung cấp thông tin để chúng tôi xây dựng một nghiên cứu về biến đổi văn hoá -

xã hội của làng Phương La trong điều kiện Công nghiệp hóa - hiện đại hóa và đô thị

hóa. Để nghiên cứu đạt mục tiêu, xin kính mong ông (bà) bớt chút thời gian chia sẻ

sự hiểu biết, quan điểm, sự đánh giá và trải nghiệm của mình về những vấn đề liên

quan đến văn hóa làng Phương La. Thông tin ông (bà) cung cấp hoàn toàn phục vụ

mục đích nghiên cứu và đảm bảo tính khuyết danh.

Giới thiệu

THÔNG TIN CHUNG

c. Học vấn

e. Tôn giáo

d. Tình trạng hôn nhân

Câu 1: Xin ông/bà cho biết một số thông tin về cá nhân ? b. Giới tính a. Năm sinh/chủ hộ 19…………..

1. Dưới tiểu học

1. Nam

1. Chưa kết hôn

1. Theo tôn

1. Là chủ hộ

2. Nữ

2. Tiểu học

2. Có vợ/chồng

giáo

2. Không là chủ

3. THCS

3. Ly thân/ly dị

2. Không

hộ

4. THPT

4. Góa

tôn giáo

5.TC/ Cao đẳng

6. Đại học

7. Sau đại học

f. Khu vực sinh

g. Nghề nghiệp

h. Tự nhận xét về

mức sống

sống

Ph.La1

1. Thủ công

7. Học viên/sinh viên

1. Giàu có

Ph.La 2

2. Nông dân

8. Cán bộ hưu trí

2. Khá giả

Ph.La 3

3. Công nhân

9. Thất nghiệp

3.Trung bình

Ph.La 4

4. Công chức/viên

10. Nội trợ

4. Nghèo

chức

11. Khác

6. Khó trả lời

5. Công an/bộ đội

6. Buôn bán/dịch

vụ

175

Câu 2. Xin ông/bà cho biết về số lao động của hộ gia đình ?

1. Tổng số thành viên trong gia đình:……………………………………

2. Số lao động của hộ gia đình (trong độ tuổi lao động):………………..

3. Số nữ trong gia đình:………………………………………………….

4. Số trẻ em trong gia đình:……………………………………………...

5. Số người có việc làm:…………………………………………………

Câu 3: Xin ông/bà cho biết về hoạt động kinh tế của ông/bà và gia đình hiện nay?

a. Nguồn thu nhập của ông/bà ?

b. Nguồn thu nhập chính của gia đình ?

(có thể chọn nhiều phương án)

(chỉ chọn 1 phương an)

1. Nghề thủ công

1. Nghề thủ công

2. Trồng trọt

2. Trồng trọt

3. Chăn nuôi

3. Chăn nuôi

4. Hoạt động kinh doanh của gia đình

4. Hoạt động kinh doanh của gia đình

5. Làm thuê

5. Làm thuê

6. Lương

6. Lương

7. Thừa kế

7. Thừa kế

8. Trúng số

8. Trúng số

9. Khác (ghi rõ)

9. Khác (ghi rõ)

176

NỘI DUNG TRAO ĐỔI I

Biến đổi cảnh quan, môi trƣờng làng nghề truyền thống

Câu 4: Xin ông/bà cho biết cảnh quan, môi trường của làng nghề hiện nay và từ năm

1996 trở về trước?

a. Cảnh quan làng nghề hiện nay

b. Cảnh quan làng nghề trước năm 1996

1. Rất sạch đẹp

1. Rất sạch đẹp

2. Sạch đẹp

2. Sạch đẹp

3. Chưa sạch đẹp

3. Chưa sạch đẹp

4. Rất không sạch đẹp

4. Rất không sạch đẹp

5. Khó đánh giá

5. Khó đánh giá

Câu 5: Xin ông/bà đánh giá về tình trạng ô nhiễm môi trường ở làng nghề hiện nay?

a. Ô nhiễm nước

b. Rác thải

c. Đất

d. Tiếng ồn/không khí

1. Ô nhiễm nặng nề

1. Ô nhiễm nặng nề

1. Ô nhiễm nặng nề

1. Ô nhiễm nặng nề

2. Ô nhiễm bình

2. Ô nhiễm bình

2. Ô nhiễm bình

2. Ô nhiễm bình

thường

thường

thường

thường

3. Không bị ô nhiễm

3. Không bị ô nhiễm

3. Không bị ô nhiễm

3. Không bị ô nhiễm

4. Khó đánh giá

4. Khó đánh giá

4. Khó đánh giá

4. Khó đánh giá

Câu 6: Xin ông/bà đánh giá các khía cạnh của hệ thống hạ tầng làng nghề hiện nay so

với thời điểm trước năm 1996?

a. Đường giao

b. Điện sản xuất/s.hoạt

c. Nước sinh hoạt

d. Thoát nước thải

thông

1. Tốt hơn nhiều

1. Tốt hơn nhiều

1. Tốt hơn nhiều

1. Tốt hơn nhiều

2. Tốt hơn

2. Tốt hơn

2. Tốt hơn

2. Tốt hơn

3. Không thay đổi

3. Không thay đổi

3. Không thay đổi

3. Không thay đổi

4. kém hơn

4. kém hơn

4. kém hơn

4. kém hơn

5. Khó đánh giá

5. Khó đánh giá

5. Khó đánh giá

5. Khó đánh giá

177

Câu 7: Xin ông/bà đánh giá về một số vấn đề liên quan đến cảnh quan môi trường của

làng nghề hiện nay so với trước năm 1996?

a. Về cây xanh

b. Về không gian công cộng

1. Nhiều hơn

1. Nhiều hơn

2. Không thay đổi

2. Không thay đổi

3. Ít hơn

3. Ít hơn

4. Khó đánh giá

4. Khó đánh giá

Câu 8: Theo ông/bà thì những nhân tố nào sau đây ảnh hưởng quyết định đến việc thay

đổi cảnh quan môi trường của làng nghề (chỉ lựa chọn 01 phương án)?

1. Do phát triển sản xuất nghề thủ công

2. Do vai trò quản lý của chính quyền địa phương

3. Do sự hỗ trợ của nhà nước/tổ chức quốc tế.

4. Do ý thức và hành vi bảo vệ môi trường của người dân

5. Do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa.

178

NỘI DUNG TRAO ĐỔI II

Biến đổi phƣơng thức truyền nghề và giữ gìn bí quyết nghề nghiệp.

Câu 1: Xin ông/bà cho biết hiện nay và trước năm 1996 việc truyền nghề chủ yếu được

tiến hành vào những đối tượng nào sau đây? (có thể lựa chọn nhiều phương án).

a. Thời điểm hiện nay

b. Từ năm 1996 trở về trước

1. Truyền nghề cho mọi người trong gia

1. Truyền nghề cho mọi người trong gia

đình

đình

2. Chỉ truyền nghề cho con trai/dâu

2. Chỉ truyền nghề cho con trai/dâu

3. Không truyền nghề cho người ngoài

3. Không truyền nghề cho người ngoài

4. Truyền nghề cho mọi người học việc

4. Truyền nghề cho mọi người học việc

5. Chỉ truyền một phần kinh nghiệm

5. Chỉ truyền một phần kinh nghiệm

6. Truyền hết mọi kinh nghiệm

6. Truyền hết mọi kinh nghiệm

Câu 2: Xin ông/bà cho biết nhóm đối tượng chủ yếu được gia đình đào tạo nghề hiện

nay và trước năm 1996?

a. Thời điểm hiện nay

b. Từ năm 1996 trở về trước

1. Lao động trẻ, thanh niên

1. Lao động trẻ, thanh niên

2. Lao động là nam thanh niên

2. Lao động là nam thanh niên

3. Lao động là nữ thanh niên

3. Lao động là nữ thanh niên

4. Lao động là trung niên

4. Lao động là trung niên

5. Lao động là người già

5. Lao động là người già

Câu 3: Xin ông/bà cho biết các lý do duy trì nghề truyền thống của hộ gia đình hiện nay

và vào thời điểm trước năm 1996?

a. Thời điểm hiện nay

b. Từ năm 1996 trở về trước

1. Phát triển kinh tế của gia đình

1. Phát triển kinh tế của gia đình

2. Tạo việc làm cho nhiều người

2. Tạo việc làm cho nhiều người

3. Duy trì phát triển văn hóa truyền thống

3. Duy trì phát triển văn hóa truyền thống

4. Duy trì nghề của cha ông để lại

4. Duy trì nghề của cha ông để lại

5. Đây là lựa chọn công việc tốt nhất của

5. Đây là lựa chọn công việc tốt nhất của gia

gia đình

đình

6. Đáp ứng nhu cầu của xã hội

6. Đáp ứng nhu cầu của xã hội

7. Khác (ghi cụ thể)

7. Khác (ghi cụ thể)

179

Câu 4: Theo ông/bà hoạt động truyền nghề, giữa bí quyết nghề sản xuất thủ công đang

bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nào sau dây?

1. Tôn vinh nghề thủ công/tôn vinh nghệ nhân

2. Yếu tố kinh tế/thu nhập

3. Tính chất bí quyết nghề.

4. Mức độ tài hoa cua bàn tay khối óc, tâm hồn của từng cá nhân

5. Quy luật kinh tế thị trường

6. Mức độ áp dụng kỹ thuật, công nghệ vào quy trình sản xuất.

7. Sự thay đổi công năng sử dụng của các sản phẩm thủ công

8. Sự thay đổi mức sống của người dân

9. Nhu cầu lao động việc làm

10. Vấn đề bảo vệ môi trường sống

11. Lịch sử phát triển, thương hiệu của làng nghề

12. Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

13. Tác động của đô thị hóa

14. Nghệ nhân và thợ tay nghề cao của làng nghề

15. Số lượng, chất lượng đào tạo nghề

16. Khả năng nắm bắt kỹ năng, kỹ xảo truyền thống

17. Khả năng nắm được bí quyết tổ nghề.

180

NỘI DUNG TRAO ĐỔI III

Biến đổi một số quan niệm và quan hệ xã hội.

Câu 5: Ông/bà đề cao vấn đề nào sau đây trong quan hệ bạn hàng hiện nay và thời điểm

trước năm 1996

a. Thời điểm hiện nay

b. Từ năm 1996 trở về trước

1. Đảm bảo chữ tín

1. Đảm bảo chữ tín

2. Tiền trao cháo múc

2. Tiền trao cháo múc

3. Thuận mua vừa bán

3. Thuận mua vừa bán

4. Mục đích mua được nguyên liệu rẻ nhất

4. Mục đích mua được nguyên liệu rẻ nhất

5. Mục đích có lợi nhuận cao nhất

5. Mục đích có lợi nhuận cao nhất

6. Khác (ghi cụ thể)

6. Khác (ghi cụ thể)

Câu 6: Ông/bà thường thực hiện những hình thức nào trong quan hệ với bạn hàng vào

thời điểm hiện nay và trước năm 1996

a. Thời điểm hiện nay

b. Từ năm 1996 trở về trước

1. Giao dịch bằng miệng

1. Giao dịch bằng miệng

2. Giao dịch thông qua trung gian

2. Giao dịch thông qua trung gian

3. Giao dịch trực tiếp bằng văn bản

3. Giao dịch trực tiếp bằng văn bản

4. Giao dịch qua điện thoại

4. Giao dịch qua điện thoại

5. Giao dịch qua thư điện tử/chuyển phát

5.Giao dịch qua thư điện tử/chuyển phát

nhanh.

nhanh.

Câu 7: Xin Ông/bà cho biết việc giữa bí quyết truyền nghề có ảnh hưởng đến những

mối quan hệ nào sau dây vào thời điểm hiện nay và trước năm 1996

a. Thời điểm hiện nay

b. Từ năm 1996 trở về trước

1. Nhằm chi phối quan hệ hôn nhân

1. Nhằm chi phối quan hệ hôn nhân

2. Nhằm chi phối quan hệ thầy - trò

2. Nhằm chi phối quan hệ thầy - trò

3. Nhằm chi phối quan hệ nội tộc

3. Nhằm chi phối quan hệ nội tộc

4. Nhằm chi phối quan hệ bất bình đằng

4. Nhằm chi phối quan hệ bất bình đằng

giới

giới

5. Nhằm duy trì sức mạnh của gia đình,

5. Nhằm duy trì sức mạnh của gia đình,

dòng họ

dòng họ

6. Khác (ghi cụ thể)

6. Khác (ghi cụ thể)

181

Câu 8: Xin Ông/bà cho biết mức độ sang nhà hàng xóm chơi của bản thân vào thời

điểm hiện nay và trước năm 1996

a. Thời điểm hiện nay

b. Từ năm 1996 trở về trước

1. Hàng ngày

1. Hàng ngày

2. Hàng tuần

2. Hàng tuần

3. Hàng tháng

3. Hàng tháng

4. Thỉnh thoảng

4. Thỉnh thoảng

5. Rất hiếm khi

5. Rất hiếm khi

6. Không bao giờ

6. Không bao giờ

Câu 9: Xin Ông/bà cho biết định hướng giá trị của bản thân trong các mối quan hệ sau

ở thời điểm hiện nay và trước năm 1996?

a. Các quan

b. Lựa chọn giá trị hiện nay

a. Các quan

b. Lựa chọn giá trị trước

hệ xã hội

hệ xã hội

năm 1996

Tình cảm

Kinh tế

Tình cảm

Kinh tế

1. Gia đình

1. Gia đình

2. Dòng họ

2. Dòng họ

3. Hàng xóm

3. Hàng xóm

4. Bạn bè

4. Bạn bè

5. Bạn

5. Bạn

hàng/bạn

hàng/bạn

nghề

nghề

6. Chủ-thợ

6. Chủ-thợ

7. Thầy-trò

7. Thầy-trò

Câu 10: Xin Ông/bà đánh giá về mối liên hệ, hỗ trợ lẫn nhau trong khâu sản xuất tiêu

thụ hàng thủ công hiện nay so với trước năm 1996?

1. Tích cực hơn rất nhiều

2. Tích cực hơn

3. Không thay đổi

4. Giảm đi

5. Khó đánh giá

182

Câu 11: Ông/bà hãy đánh giá về mối quan hệ của bản thân ở thời điểm hiện nay và

trước năm 1996?

a. Các quan hệ xã hội

a. Các quan hệ xã hội

b. Thời điểm hiện nay Bình Quan thường trọng

b. Trước năm 1996 Quan trọng

Bình thường

Không quan trọng

Không quan trọng

1. Quan hệ gia đình 2. Quan hệ dòng họ 3. Quan hệ hàng xóm 4. Quan hệ bạn hàng 5. Quan hệ bạn bè

6. Quan hệ tâm linh tín ngưỡng

1. Quan hệ gia đình 2. Quan hệ dòng họ 3. Quan hệ hàng xóm 4. Quan hệ bạn hàng 5. Quan hệ bạn bè 6. Quan hệ tâm linh tín ngưỡng

183

Néi dung trao ®æi IV

BiÕn ®æi h×nh thøc tæ chøc s¶n xuÊt, kü thuËt chÕ t¸c vµ s¶n phÈm

C©u 1. Xin «ng/bµ cho biÕt n¬i s¶n xuÊt thñ c«ng cña hé gia ®×nh hiÖn nay vµo thêi

®iÓm tríc n¨m 1996?

a. Thêi ®iÓm hiÖn nay

b. Thêi ®iÓm tríc n¨m 1996

1. Võa lµ n¬i s¶n xuÊt, b¸n hµng vµ ë

1. Võa lµ n¬i s¶n xuÊt, b¸n hµng vµ ë

2. Võa s¶n xuÊt, võa b¸n hµng

2. Võa s¶n xuÊt, võa b¸n hµng

3. S¶n xuÊt vµ b¸n hµng riªng biÖt

3. S¶n xuÊt vµ b¸n hµng riªng biÖt

4. Kh«ng cã, ph¶i ®i thuª mÆt b»ng

4. Kh«ng cã, ph¶i ®i thuª mÆt b»ng

C©u 2. Xin «ng/bµ cho biÕt lùa chän c«ng nghÖ kü thuËt s¶n xuÊt cña lµng nghÒ hiÖn

nµy vµ tríc n¨m 1996 ®èi víi c«ng ®o¹n sau

a. C¸c c«ng ®o¹n

a. C¸c c«ng ®o¹n

b. Lùa chän c«ng nghÖ s¶n xuÊt tríc n¨m 1996

b. Lùa chän c«ng nghÖ s¶n xuÊt hiÖn nay C«ng nghÖ hiÖn ®¹i

Thñ c«ng

C«ng nghÖ hiÖn ®¹i

Thñ c«ng

1. Lùa chän sîi

1. Lùa chän sîi

nguyªn liÖu

nguyªn liÖu

2. Xö lý sîi nguyªn

2. Xö lý sîi nguyªn

liÖu

liÖu

C©u 3. Xin «ng/bµ cho biÕt viÖc ¸p dông c«ng nghÖ thñ c«ng vµ hiÖn ®¹i trong s¶n xuÊt

thñ c«ng vµo thêi ®iÓm n¨m 1996 vµ hiÖn nay cña gia ®×nh

a. C¸c c«ng ®o¹n

a. C¸c c«ng ®o¹n

b. Lùa chän c«ng nghÖ s¶n xuÊt hiÖn nay

Thñ c«ng

b. Lùa chän c«ng nghÖ s¶n xuÊt trước n¨m 1996 Thñ C«ng c«ng nghÖ hiÖn ®¹i

C«ng nghÖ hiÖn ®¹i

1. DÖt

1. DÖt

2. Tẩy

2. Tẩy

3. Nhuém

3. Nhuém

4. In

4. In

5. §ãng gãi

5. §ãng gãi

184

C©u 4. Theo «ng/bµ c¸c s¶n phÈm cña lµng nghÒ vµo thêi ®iÓm hiÖn nay vµ trưíc n¨m

1996 thÓ hiÖn yÕu tè nµo quan träng nhÊt sau ®©y (lùa chọn 2 đến 3 phương ¸n)

a. S¶n phÈm thñ c«ng cña lµng nghÒ hiÖn

b.S¶n phÈm thñ c«ng cña lµng nghÒ trưíc

nay

n¨m 1996

1. Gi¸ trÞ v¨n ho¸ truyÒn thèng

1. Gi¸ trÞ v¨n ho¸ truyÒn thèng

2. Gi¸ trÞ v¨n ho¸ hiÖn ®¹i

2. Gi¸ trÞ v¨n ho¸ hiÖn ®¹i

3. Gi¸ trÞ kinh tÕ

3. Gi¸ trÞ kinh tÕ

4. Gi¸ trÞ sö dông

4. Gi¸ trÞ sö dông

5. §¸p øng nhu cÇu, thÞ hiÕu ngêi tiªu dïng

5. §¸p øng nhu cÇu, thÞ hiÕu ngêi tiªu dïng

6. S¶n xuÊt mang tÝnh chÊt d©y chuyÒn

6. S¶n xuÊt mang tÝnh chÊt d©y chuyÒn

7. S¶n xuÊt mang tÝnh thñ c«ng

7. S¶n xuÊt mang tÝnh thñ c«ng

C©u 5. Xin «ng/bµ cho biÕt h×nh thøc ph©n c«ng lao ®éng trong s¶n xuÊt nghÒ thñ c«ng

cña hé gia ®×nh vµo thêi ®iÓm hiÖn nay vµ tríc n¨m 1996?

a. Thêi ®iÓm hiÖn nay

b. Thêi ®iÓm trưíc n¨m 1996

1. Theo vai trß

1. Theo vai trß

2. Theo thø bËc thÕ hÖ

2. Theo thø bËc thÕ hÖ

3. Theo vai trß chñ hé/ngưêi lµm thuª

3. Theo vai trß chñ hé/ngưêi lµm thuª

4. Theo vai trß chñ/ngưêi lµm thuª

4. Theo vai trß chñ/ngưêi lµm thuª

5. Theo kh¶ n¨ng vÒ søc khoÎ

5. Theo kh¶ n¨ng vÒ søc khoÎ

6. Theo tr×nh ®é th¹o nghÒ

6. Theo tr×nh ®é th¹o nghÒ

C©u 6. Xin «ng/bµ ®¸nh gi¸ møc ®é ph©n c«ng vµ hîp t¸c lao ®éng gi÷a c¸c hé s¶n xuÊt

thñ c«ng hiÖn nay so víi tríc n¨m 1996 ?

a. §¸nh gi¸ vµo thêi ®iÓm hiÖn nay

b. §¸nh gi¸ vµo thêi ®iÓm n¨m 1996

1. RÊt tèt

1. RÊt tèt

2. Tèt

2. Tèt

3. Cha tèt

3. Cha tèt

4. Khã ®¸nh gi¸

4. Khã ®¸nh gi¸

185

C©u 7. Xin «ng bµ ®¸nh gi¸ vÒ møc ®é ph©n c«ng vµ hîp t¸c lao ®éng gi÷a c¸c thµnh

viªn trong hé gia ®×nh s¶n xuÊt thñ c«ng hiÖn nay so víi tríc n¨m 1996 ?

a. §¸nh gi¸ vµo thêi ®iÓm hiÖn nay

b. §¸nh gi¸ vµo thêi ®iÓm n¨m 1996

1. RÊt tèt

1. RÊt tèt

2. Tèt

2. Tèt

3. Cha tèt

3. Cha tèt

4. Khã ®¸nh gi¸

4. Khã ®¸nh gi¸

C©u 8. Xin «ng/bµ cho biÕt hiÖn tr¹ng mét sè vÊn ®Ò liªn quan ®Õn thuª mín lao ®éng

trong s¶n xuÊt thñ c«ng vµo thêi ®iÓm hiÖn nay vµ tríc n¨m 1996 cña hé gia ®×nh ?

a. Thuª mưín lao ®éng hiÖn nay

b. Thuª mưín lao ®éng trưíc n¨m 1996

1. Ngưêi cïng trong gia ®×nh, dßng häc

1. Ngưêi cïng trong gia ®×nh, dßng häc

2. Ngưêi trong lµng, x·

2. Ngưêi trong lµng, x·

3. Ngưêi trong huyÖn, thµnh phè

3. Ngưêi trong huyÖn, thµnh phè

4. Ngưêi ë tØnh/thµnh kh¸c

4. Ngưêi ë tØnh/thµnh kh¸c

C©u 9. Xin «ng/bµ cho biÕt quy m« thuª mín lao ®éng cña hé gia ®×nh trong s¶n xuÊt

thñ c«ng hiÖn nay vµ trưíc n¨m 1996 ?

a. Quy m« thuª mưín lao ®éng hiÖn nay

b. Quy m« thuª mưín lao ®éng trưíc n¨m

1996

1. Thuê dưới 5 lao động

1. Thuª dưới 5 lao ®éng

2. Thuª tõ 6 - 10 lao ®éng

2.Thuª tõ 6 - 10 lao ®éng

3. Thuª trªn 10 lao ®éng

3. Thuª trªn 10 lao ®éng

4. Kh«ng thuª lao ®éng

4. Kh«ng thuª lao ®éng

C©u 10. Xin «ng/bµ cho biÕt c¸ch thøc tr¶ c«ng cho ngưêi lao ®éng s¶n xuÊt thñ c«ng

hiÖn nay so víi trưíc n¨m 1996 ?

a. C¸ch thøc tr¶ c«ng lao ®éng hiÖn nay

b. C¸ch thøc tr¶ c«ng lao ®éng trưíc n¨m

1996

1. Tr¶ lư¬ng theo th¸ng

1. Tr¶ lư¬ng theo th¸ng

2. Tr¶ c«ng theo s¶n phÈm

2. Tr¶ c«ng theo s¶n phÈm

3. Kho¸n c«ng nhËt

3. Kho¸n c«ng nhËt

4. §an xen c¶ ba h×nh thøc trªn

4. §an xen c¶ ba h×nh thøc trªn

186

C©u 11. Xin «ng/bµ cho biÕt c¸ch thøc thÓ hiÖn hîp ®ßng lao ®éng hiÖn nay vµ trước

n¨m 1996 ?

a. C¸ch thøc thÓ hiÖn hîp ®ång lao ®éng hiÖn

b. C¸ch thøc thÓ hiÖn hîp ®ång lao

nay

®éng trước n¨m 1996

1. B»ng v¨n b¶n

1. B»ng v¨n b¶n

2. B»ng miÖng

2. B»ng miÖng

3. Võa b»ng v¨n b¶n, võa b»ng miÖng

3. Võa b»ng v¨n b¶n, võa b»ng miÖng

4. Kh«ng cã

4. Kh«ng cã

C©u 12. ¤ng/bµ thêng lùa chän thuª mín nh÷ng ngêi lao ®éng nµo sau ®©y vµo thêi

®iÓm hiÖn nay vµ trưíc n¨m 1996 ?

a. HiÖn nay ưu tiªn cho ai

b. Trưíc n¨m 1996 ưu tiªn cho ai

1. ¦u tiªn lao ®éng trong gia ®×nh

1. ¦u tiªn lao ®éng trong gia ®×nh

2. ¦u tiªn lao ®éng th©n quen

2. ¦u tiªn lao ®éng th©n quen

3. ¦u tiªn lao ®éng th¹o nghÒ

3. ¦u tiªn lao ®éng th¹o nghÒ

4. ¦u tiªn lao ®éng víi møc tiÒn c«ng thÊp

4. ¦u tiªn lao ®éng víi møc tiÒn c«ng thÊp

5. ¦u tiªn t¹o ra n¨ng suÊt lao ®éng cao

5. ¦u tiªn t¹o ra n¨ng suÊt lao ®éng cao

6. ¦u tiªn lao ®éng cã kh¶ n¨ng ¸p dông

6. ¦u tiªn lao ®éng cã kh¶ n¨ng ¸p dông c«ng

c«ngnghÖ

nghÖ

187

PHẦN NỘI DUNG TRAO ĐỔI V

Biến đổi tín ngƣỡng, lễ hội và phong tục tập quán làng nghề

Câu 1. Xin ông/bà đánh gia tầm quan trọng của những thiết chế văn hóa trong cộng

đồng hiện nay và thời điểm trước năm 1996?

a. Thiết chế

Thời điểm hiện nay

a. Thiết chế

b.Trước năm 1996

văn hóa làng

văn hóa làng

Quan trọng

Không có

Quan trọng

Không có

Không quan trọng

Không quan trọng

1. Nhà thờ tổ

1. Nhà thờ tổ

nghề

nghề

2. Đình làng,

2. Đình làng,

giếng nước,

giếng nước,

gốc đa

gốc đa

3. Chùa

3. Chùa

4. Đền, miếu

4. Đền, miếu

5. Nhà thờ

5. Nhà thờ

6. Nhà thờ họ

6. Nhà thờ họ

7. Nhà văn hóa,

7. Nhà văn

thư viện

hóa, thư viện

8. Đài phát

8. Đài phát

thanh

thanh

9. Câu lạc bộ

9. Câu lạc bộ

10. Sân vận

10. Sân vận

động

động

Câu 2. Xin ông/bà đánh giá về tầm quan trọng việc duy trì các hoạt động tín ngưỡng, lễ

hội truyền thống của làng nghề hiện nay và thời điểm trước năm 1996

a. Thời điểm hiện nay

b. Từ năm 1996 trở về trước

1. Rất quan trọng

1. Rất quan trọng

2. Quan trong

2. Quan trong

3. Bình thường

3. Bình thường

4. Không quan trọng

4. Không quan trọng

5. Khó đánh giá

5. Khó đánh giá

188

Câu 3. Ông/bà có gia phả của dòng họ vào thời điểm hiện nay và trước năm 1996

a. Thời điểm hiện nay

b. Từ năm 1996 trở về trước

1. Có

1. Có

2. Không

2. Không

Câu 4. Xin ông/bà đánh giá việc tham gia tập quán cưới của người sản xuất thủ công

hiện nay và thời điểm trước năm 1996?

a. Các lễ nghi và

b. Hiện nay

a. Các lễ nghi văn

b. Trước năm 1996

hóa

văn hóa

Quan trọng

Không quan trọng

Quan trọng Không quan trọng

1. Lễ dạm ngõ

1. Lễ dạm ngõ

2. Lễ cưới

2. Lễ cưới

3. Lễ lại mặt

3. Lễ lại mặt

4. Nộp cheo

4. Nộp cheo

5. Thách cưới

5. Thách cưới

6. Cho của hồi môn

6. Cho của hồi môn

7. Lễ gia tiên đón

7. Lễ gia tiên đón

dâu

dâu

8. Lễ tơ hồng

8. Lễ tơ hồng

Câu 5. Xin ông/bà đánh giá việc tang của người sản xuất thủ công hiện nay và trước

năm 1996

a. Các lễ nghi và

b. thời điểm hiện nay

a. Các lễ nghi văn

b. Trước năm 1996

văn hóa

hóa

Quan trọng

Quan trọng

Không quan trọng

Không quan trọng

1. Che mặt người

1. Che mặt người

chết

chết

2. Yểm bùa

2. Yểm bùa

3. Nhạc hiếu

3. Nhạc hiếu

4. Thầy pháp sư làm

4. Thầy pháp sư

lễ

làm lễ

5. Xem giờ phát

5. Xem giờ phát

tang

tang

a. Các lễ nghi và

b. thời điểm hiện nay

a. Các lễ nghi văn

b. Trước năm 1996

văn hóa

hóa

Quan trọng

Quan trọng

Không quan trọng

Không quan trọng

6. Xem giờ hạ huyệt

6. Xem giờ hạ

huyệt

7. Tang phục cổ

7. Tang phục cổ

truyền

truyền

8. Cúng 3 ngày

8. Cúng 3 ngày

9. Cúng tuần

9. Cúng tuần

10. Cúng 35 ngày

10. Cúng 35 ngày

11. Cúng 49 ngày

11. Cúng 49 ngày

12. Cúng 100 ngày

12. Cúng 100 ngày

13. Giỗ đầu

13. Giỗ đầu

189

Câu 6. Xin ông/bà đánh giá sự chuyển đổi về hoạt động tín ngưỡng của làng nghề hiện

nay và trước năm 1996?

a. Các lễ nghi và

b. thời điểm hiện nay

a. Các lễ nghi văn

b. Trước năm 1996

văn hóa

hóa

Quan trọng

Quan trọng

Không quan trọng

Không quan trọng

1. Thờ tổ tiên

1. Thờ tổ tiên

2. Thờ phật

2. Thờ phật

3. Thờ thành hoàng

3. Thờ thành hoàng

4. Thờ ông tổ nghề

4. Thờ ông tổ nghề

5.Thờ thần tài

5.Thờ thần tài

Câu 7. Xin ông/bà đánh giá việc tham gia lễ hội hiện nay so với thời điểm trước năm 1996

Các nội dung

a. Tăng lên

b. Vẫn thế

c. Giảm

1. Số lượng lễ hội truyền thống ở địa phương

2. Tham gia của người dân và hoạt động lễ hội

3. Đóng góp của người dân cho hoạt động lễ hội

4. Sự tham gia của gia đình ông/bà vào lễ hội

5. Đóng góp của gia đình ông/bà vào lễ hội

190

Câu 8. Xin ông/bà đánh giá mức độ quan trọng của các chủ thể sau đối với hoạt động

văn hóa, tín ngưỡng ở làng nghề?

Rất

Không

Khá

Quan

Bình

Các chủ thể

quan

quan

đánh

trọng

thường

trọng

trọng

giá

1. Cán bộ, công chức nhà nước

2. Người giàu có/doanh nhân

3. Người làm nghề thủ công

4. Người già cả trong làng

5. Thanh thiếu niên trong làng

6. Khách thập phương

7. Nam giới trong làng

8. Phụ nữ trong làng

Câu 9. Xin ông/bà đánh giá hiện trạng văn hóa làng nghề truyền thống hiện nay và vào

thời gian trước năm 1996 ?

a. Đánh giá hiện trạng văn hóa làng nghề

b. Đánh giá hiện trạng văn hóa làng nghề

truyền thống hiện nay

trước năm 1996

1. Yếu tố đa dạng, phong phú

1. Yếu tố đa dạng, phong phú

2. Yếu tố bản sắc, độc đáo

2. Yếu tố bản sắc, độc đáo

3. Vai trò của văn hóa làng nghề với sự

3. Vai trò của văn hóa làng nghề với sự phát

phát triển

triển

4. Yếu tố tự hào của người dân 5. Đánh giá về

4. Yếu tố tự hào của người dân 5. Đánh giá về

khả năng lan tỏa của văn hóa làng nghề

khả năng lan tỏa của văn hóa làng nghề

6. Đánh giá về sự giao thoa của văn hóa làng

6. Đánh giá về sự giao thoa của văn hóa làng

nghề

nghề

7. Sắc thái văn hóa dân tộc của làng nghề

7. Sắc thái văn hóa dân tộc của làng nghề

191

Câu 10. Xin ông/bà cho biết tầm quan trọng của các quy ước sau đây đối với đời sống

của làng nghề vào thời điểm hiện nay và trước năm 1996?

a. Các quy ước

a. Các quy ước

Quan trọng

Không có

Quan trọng

Không có

Thời điểm hiện nay Không quan trọng

b.Trước năm 1996 Không quan trọng

1. Quy ước lễ

1. Quy ước lễ

hội của làng

hội của làng

nghề

nghề

2. Quy ước về

2. Quy ước về

tín ngưỡng của

tín ngưỡng của

làng nghề

làng nghề

3. Quy ước cảu

3. Quy ước cảu

gia đình trong

gia đình trong

sản xuất thủ

sản xuất thủ

công

công

4. Quy ước của

4. Quy ước của

dòng họ trong

dòng họ trong

sản xuất thủ

sản xuất thủ

công

công

5. Quy ước

5. Quy ước

cộng đồng

cộng đồng trong

trong sản xuất

sản xuất thủ

thủ công

công

Câu 11. Theo ông/bà thì làng nghề truyền thống đang có những vai trò gì sau đây?

1. Làng nghề tạo ra sản phẩm

2. Làng nghề tạo ra linh hồn văn hóa

3. Làng nghề tạo ra các giá trị chuẩn mực ứng xử

4. Làng nghề tạo ra chuẩn mực giao tiếp

5. Làng nghề tạo ra môi trường học tập

6. Góp phần hạn chế di dân tự do

7. Giải quyết các vấn đề di dân tự do

8. Tạo cơ hội giao lưu văn hóa

9. Mang lại những giá trị vật thể và phi vật thể

10. Phản ánh lịch sử, văn hóa, xã hội của địa phương

11. Phản ánh lịch sử, văn hóa, xã hội của địa phương

12. Phản ánh qua các tập tục, tín ngưỡng, lễ hội và nhiều quy định khác

13. Nhu cầu sản phẩm thủ công

14. Nhu cầu khám phá du lịch

15. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

16. Giải quyết việc làm, tăng thu nhập

17. Tăng thu nhập cho người lao động

18. Góp phần xóa đói giảm nghèo

19. Thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông thôn

20. Bảo tổn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc

21. Đa dạng hóa thị hiếu tiêu dùng của thị trường

22. Duy trì tâm thức của người dân với tín ngưỡng thành hoàng làng, ông tổ nghề

23. Phát triển các quan hệ xã hội

24. Phát triển giáo dục cộng đồng

25. Bảo vệ môi trường cảnh quan

192

Câu 12. Ông/bà đồng ý với những giải pháp sau đối với việc phát triển, phát huy vai trò

của văn hóa làng nghề truyền thống?

1. Tăng cường nhận thức vai trò phát triển làng nghề

2. Tăng cường quản lý các hoạt động của làng nghề

3. Hoàn thiện chính sách pháp luật đối với bảo tồn, phát triển làng nghề

4. Tôn vinh các giá trị văn hóa làng nghề

5. Kết hợp yết tố truyền thống và yếu tố hiện đại

6. Đào tạo nghề, bồi dưỡng nhân tài nghệ nhân

7. Sưu tầm tài liệu, hiện vật có giá trị về truyền thống của các làng nghề

8. Khả năng quản lý doanh nghiệp, điều hành sản xuất thủ công

9. Phát triển du lịch làng nghề

10. Phát huy ảnh hưởng tích cực của biến đổi văn hóa làng nghề

11. Đầu tư quy hoạch hệ thống các làng nghề

12. Tôn tạo hạ tầng giao thông, hệ thốn điện, hệ thống dịch vụ, vệ sinh đường làng

13. Tổ chức khai thác các nhà đón tiếp và trưng bày sản phẩm tại các làng nghề

14. Đưa các sản phẩm làng nghề tham gia hội chợ

15. Tiến hành hội thi tay nghề

16. Tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật và nguồn vốn từ các dự án quốc tế

17. Đẩy mạnh cách thức xây dựng và quản lý thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề

18. Đánh giá tầm quan trọng cảu tục cúng tổ nghề với việc tiến hành các tâm linh khác

19. Quy hoạch khu công nghiệp làng nghề

20. Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ thủ công mỹ nghệ có thẩm mỹ

21. Nâng cao kiến thức khoa học, hiểu biết am tường về truyền thống văn hóa làng nghề

22. Cần có sự vào cuộc của các cấp các ngành và toàn xã hội.

193

Xin trân trọng cảm ơn ông/bà!

194

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ CẢNH QUAN MÔI TRƢỜNG LÀNG NGHỀ

Số người Tỷ lệ % Thông tin chung

208 100.00% 1. Năm sinh

1.1. 1940-1955 32 15.38%

1.2. 1956-1970 16 7.69%

1.3. 1971-1985 128 61.54%

1.4. 1996-nay 32 15.38%

2. Chủ hộ 208 100.00%

2.1. Là chủ hộ 112 53.85%

2.2. Không chủ hộ 96 46.15%

3. Giới tính: 208 100.00%

3.1.Nam 96 46.15%

3.2.Nữ 112 53.85%

4. Trình độ học vấn 208 100.00%

4.1 Dưới tiểu học 0 0.00%

4.2. Tiểu học 0 0.00%

4.3. THCS 32 15.38%

4.4. THPT 32 15.38%

4.5. TC/Cao đẳng 112 53.85%

4.6. Đại học 32 15.38%

4.7. Sau đại học 0 0.00%

5. Tình trạng hôn nhân 208 100.00%

5.1. Chưa kết hôn 32 15.38%

5.2. Có vợ. Chồng 176 84.62%

5.3. Ly thân/ly dị 0 0.00%

5.4. Góa 0 0.00%

195

6. Tôn giáo 208 100.00%

6.1. Theo tôn giáo 16 7.69%

6.2. Không tôn giáo 192 92.31%

7. Khu vực sinh sống 208 100.00%

7.1.Ph.La 1 64 30.77%

7.2.Ph.La 2 32 15.38%

7.3.Ph.La 3 64 30.77%

7.4.Ph.La 4 48 23.08%

8. Nghề nghiệp 208 100.00%

8.1. Thủ công 144 69.23%

8.2. Nông dân 0 0.00%

8.3. Công nhân 0 0.00%

8.4. Công chức/viên chức 0 0.00%

8.5. Công an/bộ đội 0 0.00%

8.6. Buôn bán/dịch vụ 48 23.08%

8.7. Học sinh/sinh viên 0 0.00%

8.8. Cán bộ hưu trí 0 0.00%

8.9. Thất nghiệp 0 0.00%

8.10. Nội trợ 16 7.69%

8.11. Khác 0 0.00%

9. Tự nhận xét về mức sống 208 100.00%

9.1. Giàu có 0 0.00%

9.2. Khá giả 112 53.85%

9.3. Trung bình 96 46.15%

9.4. Nghèo 0 0.00%

9.5. Khó trả lời 0 0.00%

196

10. Tổng số thành viên trong gia đình 208 100.00%

10.1. Có 01 0 0.00%

10.2. Có 02 80 38.46%

10.3. Từ 03 trở lên 128 61.54%

11. Số lao động của hộ gia đình (trong độ tuổi 208 lao động) 100.00%

11.1. Có 01 112 53.85%

11.2. Từ 02 96 46.15%

11.3. Từ 03 trở lên 0 0.00%

12. Số nữ trong gia đình 208 100.00%

12.1. Từ 01 112 53.85%

12.2. Từ 02 96 46.15%

12.3. Từ 03 trở lên 0 0.00%

13. Số trẻ em trong gia đình 208 100.00%

13.1. Từ 01 0 0.00%

13.2. Từ 02 80 38.46%

13.3. Từ 03 trở lên 128 61.54%

14. Số người đang có việc làm 208 100.00%

14.1. Từ 01-02 112 53.85%

14.2. Từ 02-03 96 46.15%

14.3. Từ 03 trở lên 0 0.00%

15. Nguồn thu nhập của ông bà? (Có hay

không từ các liệt kê sau)

15.1. Nghề thủ công 208 100.00%

15.1.1.Có 208 100.00%

15.1.2.Không 208 100.00%

197

15.2. Trồng trọt 100.00% 208

15.2.1.Có 100.00% 208

15.2.2.Không 100.00% 208

15.3. Chăn nuôi 100.00% 208

15.3.1.Có 100.00% 208

15.3.2. Không 100.00% 208

15.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 0.00% 0

15.1.1.Có 100.00% 208

15.1.2.Không 100.00% 208

15.5. Làm thuê 15.38% 32

15.1.1.Có 0.00% 0

15.1.2.Không 0.00% 0

15.6. Lương 128 61.54%

15.1.1.Có 0.00% 0

15.1.2. Không 23.08% 48

15.7. Thừa kế 0.00% 0

15.1.1.Có 0.00% 0

15.1.2. Không 0.00% 0

15.8. Trúng số 208 100.00%

15.1.1. Có 30.77% 64

15.1.2. Không 38.46% 80

15.9. Khác (ghi rõ) 15.38% 32

15.1.1. Có 15.38% 32

15.1.2. Không 100.00% 208

16. Nguồn thu nhập chính của gia đình? 100.00% 208

16.1. Nghề thủ công 69.23% 144

198

16.2. Trồng trọt 0.00% 0

16.3. Chăn nuôi 0.00% 0

16.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 23.08% 48

16.5. Làm thuê 0.00% 0

16.6. Lương 7.69% 16

16.7. Thừa kế 0.00% 0

16.8. Trúng số 0.00% 0

16.9. Khác (ghi rõ) 0.00% 0

17. Thu nhập của cả hộ 208 100.00%

17.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 30.77% 64

17.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 38.46% 80

17.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 15.38% 32

17.4. Trên 30 triệu/tháng 15.38% 32

18. Thu nhập của NLT 208 100.00%

18.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 30.77% 64

18.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 38.46% 80

18.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 15.38% 32

18.4. Trên 30 triệu/tháng 15.38% 32

Câu hỏi phần I: Biến đổi cảnh quan, môi trường làng 0 nghề truyền thống 0.00%

19. Đánh giá cảnh quan, môi trường của làng 0 nghề hiện nay và từ năm 1996 trở về trước? 0.00%

19.1. Cảnh quan làng nghề hiện nay 100.00% 208

19.1.1. Rất sạch đẹp 15.38% 32

19.1.2. Sạch đẹp 84.62% 176

19.1.3. Chưa sạch đẹp 0.00% 0

199

19.1.4. Rất không sạch đẹp 0 0.00%

19.1.5. Khó đánh giá 0 0.00%

19.2. Cảnh quan làng nghề trước năm 1996 208 100.00%

19.2.1. Rất sạch đẹp 0 0.00%

19.2.2. Sạch đẹp 32 15.38%

19.2.3. Chưa sạch đẹp 176 84.62%

19.2.4. Rất không sạch đẹp 0 0.00%

19.2.5. Khó đánh giá 0 0.00%

20. Đánh giá về tình trạng ô nhiễm môi trường ở 0 làng nghề hiện nay? 0.00%

20.1.1. Ô nhiễm nặng nề 0 0.00%

20.1.2. Ô nhiễm bình thường 64 30.77%

20.1.3. Không bị ô nhiễm 144 69.23%

20.1.4. Khó đánh giá 0 0.00%

20.2. Rác thải 208 100.00%

20.2.1. Ô nhiễm nặng nề 0 0.00%

20.2.2. Ô nhiễm bình thường 160 76.92%

20.2.3. Không bị ô nhiễm 48 23.08%

20.2.4. Khó đánh giá 0 0.00%

20.3. Đất 208 100.00%

20.3.1. Ô nhiễm nặng nề 0 0.00%

20.3.2. Ô nhiễm bình thường 160 76.92%

20.3.3. Không bị ô nhiễm 48 23.08%

20.3.4. Khó đánh giá 0 0.00%

20.4. Tiếng ồn/ không khí 208 100.00%

20.4.1. Ô nhiễm nặng nề 0 0.00%

200

20.4.2. Ô nhiễm bình thường 128 61.54%

20.4.3. Không bị ô nhiễm 80 38.46%

20.4.4. Khó đánh giá 0 0.00%

21. Đánh giá các khía cạnh của hệ thống hạ tầng làng 0 nghề hiện nay so với thời điểm trước năm 1996 0.00%

21.1. Đường giao thông 208 100.00%

21.1.1. Tốt hơn nhiều 48 23.08%

21.1.2. Tốt hơn 144 69.23%

21.1.3. Không thay đổi 16 7.69%

21.1.4. Kém hơn 0 0.00%

21.1.5. Khó đánh giá 0 0.00%

21.2. Điện sản xuất/s.hoạt 208 100.00%

21.2.1. Tốt hơn nhiều 48 23.08%

21.2.2. Tốt hơn 160 76.92%

21.2.3. Không thay đổi 0 0.00%

21.2.4. Kém hơn 0 0.00%

21.2.5. Khó đánh giá 0 0.00%

21.3. Nước sinh hoạt 208 100.00%

21.3.1. Tốt hơn nhiều 48 23.08%

21.3.2. Tốt hơn 160 76.92%

21.3.3. Không thay đổi 0 0.00%

21.3.4. Kém hơn 0 0.00%

21.3.5. Khó đánh giá 0 0.00%

21.4. Thoát nước thải 208 100.00%

21.4.1. Tốt hơn nhiều 48 23.08%

21.4.2. Tốt hơn 160 76.92%

201

21.4.3. Không thay đổi 0 0.00%

21.4.4. Kém hơn 0 0.00%

21.4.5. Khó đánh giá 0 0.00%

22. Một số vấn đề liên quan đến cảnh quan môi

trường của làng nghề hiện nay so với trước năm 0

1996? 0.00%

22.1. Về cây xanh 208 100.00%

22.1.1. Nhiều hơn 0 0.00%

22.1.2. Không thay đổi 32 15.38%

22.1.3. Ít hơn 176 84.62%

21.1.4. Khó đánh giá 0 0.00%

22.2. Về không gian công cộng 208 100.00%

22.1.1. Nhiều hơn 0 0.00%

22.2.2. Không thay đổi 192 92.31%

22.2.3. Ít hơn 16 7.69%

4. Khó đánh giá 0 0.00%

23.Những nhân tố nào sau đây ảnh hưởng quyết định

đến việc thay đổi cảnh quan môi trường của làng 208

nghề 100.00%

23.1. Do phát triển sản xuất nghề thủ công 0 0.00%

23.2. Do vai trò quản lý của chính quyền địa phương 0 0.00%

23.3. Do sự hỗ trợ của nhà nước/ tổ chức quốc tế 0 0.00%

23.4. Do ý thức và hành vi bảo vệ môi trường của 0 người dân 0.00%

23.5. Do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa. 208 100.00%

202

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ TRUYỀN NGHỀ VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA NGƢỜI LÀNG NGHỀ

Thông tin chung Số người Tỷ lệ %

1. Năm sinh 224 100.00%

1.1. 1940-1955 0 0.00%

1.2. 1956-1970 64 28.57%

1.3. 1971-1985 160 71.43%

1.4. 1996-nay 0 0.00%

2. Chủ hộ 224 100.00%

2.1. Là chủ hộ 224 100.00%

2.2. Không chủ hộ 0 0.00%

3. Giới tính: 224 100.00%

3.1. Nam 224 100.00%

3.2. Nữ 0 0.00%

4. Trình độ học vấn 224 100.00%

4.1 Dưới tiểu học 0 0.00%

4.2. Tiểu học 0 0.00%

4.3. THCS 32 14.29%

4.4. THPT 160 71.43%

4.5. TC/Cao đẳng 32 14.29%

4.6. Đại học 0 0.00%

4.7. Sau đại học 0 0.00%

5. Tình trạng hôn nhân 224 100.00%

5.1. Chưa kết hôn 0 0.00%

5.2. Có vợ. Chồng 224 100.00%

5.3. Ly thân/ly dị 0 0.00%

203

5.4. Góa 0 0.00%

6. Tôn giáo 224 100.00%

6.1. Theo tôn giáo 48 21.43%

6.2. Không tôn giáo 176 78.57%

7. Khu vực sinh sống 224 100.00%

7.1.Ph.La 1 0 0.00%

7.2.Ph.La 2 176 78.57%

7.3.Ph.La 3 48 21.43%

7.4.Ph.La 4 0 0.00%

8. Nghề nghiệp 224 100.00%

8.1. Thủ công 144 69.23%

8.2. Nông dân 0 0.00%

8.3. Công nhân 0 0.00%

8.4. Công chức/viên chức 0 0.00%

8.5. Công an/bộ đội 0 0.00%

8.6. Buôn bán/dịch vụ 48 23.08%

8.7. Học sinh/sinh viên 0 0.00%

8.8. Cán bộ hưu trí 0 0.00%

8.9. Thất nghiệp 0 0.00%

8.10. Nội trợ 16 7.69%

8.11. Khác 0 0.00%

9. Tự nhận xét về mức sống 224 100.00%

9.1. Giàu có 0 0.00%

9.2. Khá giả 80 35.71%

9.3. Trung bình 144 64.29%

9.4. Nghèo 0 0.00%

204

9.5. Khó trả lời 0 0.00%

10. Tổng số thành viên trong gia đình 224 100.00%

10.1. Từ 01 16 7.14%

10.2. Từ 02 112 50.00%

10.3. Từ 03 trở lên 96 42.86%

11. Số lao động của hộ gia đình (trong độ 224 tuổi lao động) 100.00%

11.1. Từ 01 16 7.14%

11.2. Từ 02 48 21.43%

11.3. Từ 03 trở lên 160 71.43%

12. Số nữ trong gia đình 224 100.00%

12.1. Từ 01 48 21.43%

12.2. Từ 02 32 14.29%

12.3. Từ 03 trở lên 144 64.29%

13. Số trẻ em trong gia đình 224 100.00%

13.1. Từ 01 80 35.71%

13.2. Từ 02 64 28.57%

13.3. Từ 03 trở lên 80 35.71%

14. Số người đang có việc làm 224 100.00%

14..1. Từ 01 64 28.57%

14.2. Từ 02 112 50.00%

14.3. Từ 03 trở lên 48 21.43%

15. Nguồn thu nhập của ông bà? (Có thể chọn 224 nhiều phương án) 100.00%

15.1. Nghề thủ công 64 28.57%

15.2. Trồng trọt 16 7.14%

205

15.3. Chăn nuôi 16 7.14%

15.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 128 57.14%

15.5. Làm thuê 0 0.00%

15.6. Lương 16 7.14%

15.7. Thừa kế 0 0.00%

15.8. Trúng số 0 0.00%

15.9. Khác (ghi rõ) 0 0.00%

16. Nguồn thu nhập chính của gia đình? 240 ( Chỉ chọn 1 phương án) 107.14%

96 42.86% 16.1. Nghề thủ công

16.2. Trồng trọt 0 0.00%

16.3. Chăn nuôi 0 0.00%

16.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 144 64.29%

16.5. Làm thuê 0 0.00%

16.6. Lương 0 0.00%

16.7. Thừa kế 0 0.00%

16.8. Trúng số 0 0.00%

16.9. Khác (ghi rõ) 0 0.00%

17. Thu nhập của cả hộ 224 100.00%

17.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 16 7.14%

17.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 112 50.00%

17.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 64 28.57%

17.4. Trên 30 triệu/tháng 32 14.29%

18. Thu nhập của NLT 224 100.00%

18.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 64 28.57%

18.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 96 42.86%

206

18.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 32 14.29%

18.4. Trên 30 triệu/tháng 32 14.29%

Câu hỏi phần II: Biến đổi phương thức truyền nghề 0 và mối quan hệ của người làng nghề

19. Xin ông/bà biết hiện nay và trước năm 1996

việc được truyền nghề chủ yếu được tiến hành vào 0

những đối tượng nào sau đây?

19.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%

19.1.1. Truyền nghề cho người trong gia đình 0 0.00%

19.1.2. Chỉ truyền nghề cho con trai/dâu 0 0.00%

19.1.3. Không truyền nghề cho người ngoài 0 0.00%

19.1.4. Truyền nghề cho mọi người học việc 224 100.00%

19.1.5. Chỉ truyền một phần kinh ngiệm 0 0.00%

19.1.6. Truyền hết mọi kinh nghiệm 0 0.00%

19.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%

19.2.1. Truyền nghề cho người trong gia đình 208 92.86%

19.2.2. Chỉ truyền nghề cho con trai/dâu 16 7.14%

19.2.3. Không truyền nghề cho người ngoài 0 0.00%

19.2.4. Truyền nghề cho mọi người học việc 0 0.00%

19.2.5. Chỉ truyền 1 phần kinh ngiệm 0 0.00%

19.2.6. Truyền hết mọi kinh nghiệm 0 0.00%

20. Nhóm đối tượng chủ yếu được gia đình đào tạo 0 nghề hiện nay và trước năm 1996 0.00%

20.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%

20.1.1. Lao động trẻ, thanh niên 0 0.00%

20.1.2. Lao động là nam thanh niên 0 0.00%

207

0.00% 20.1.3. Lao động là nữ thanh niên 0

224 100.00% 20.1.4. Lao động là trung niên

20.1.5. Lao động là người già 0 0.00%

20.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%

20.2.1. Lao động trẻ, thanh niên 224 100.00%

20.2.2. Lao động là nam thanh niên 0 0.00%

20.2.3. Lao động là nữ thanh niên 0 0.00%

20.2.4. Lao động là trung niên 0 0.00%

20.2.5. Lao động là người già 0 0.00%

21. Các lý do duy trì nghề truyền thống của hộ gia 0 đình hiện nay và vào thời điểm trước năm 1996 0.00%

21.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%

21.1.1. Phát triển kinh tế của gia đình 208 92.86%

21.1.2. Tạo việc làm cho nhiều người 16 7.14%

21.1.3. Duy trì phát triền văn hóa truyền thống 0 0.00%

21.1.4. Duy trì nghề của cha ông để lại 0 0.00%

21.1.5. Đây là lựa chọn công việc tốt nhất của gia 0 đình 0.00%

21.1.6. Đáp ứng nhu cầu của xã hội 0 0.00%

21.1.7. Khác (ghi cụ thể) 0 0.00%

21.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%

21.2.1. Phát triển kinh tế của gia đình 0 0.00%

21.2.2. Tạo việc làm cho nhiều người 0 0.00%

21.2.3. Duy trì phát triền văn hóa truyền thống 224 100.00%

0 0.00% 21.2.4. Duy trì nghề của cha ông để lại

0 0.00% 21.2.5. Đây là lựa chọn công việc tốt nhất của giađình

208

21.2.6. Đáp ứng nhu cầu của xã hội 0 0.00%

21.2.7. Khác (ghi cụ thể) 0 0.00%

22. Hoạt động truyền nghề, giữ bí quyết nghề sản

xuất thủ công đang bị ảnh hưởng bởi yếu tố nào 224

nhất ? 100.00%

22.1. Tôn vinh nghề thủ công/tôn vinh nghệ nhân 0.00% 0

160 71.43% 22.2. Yếu tố kinh tế/thu nhập

22.3. Tính chất bí quyết nghề 0 0.00%

22.4. Mức độ tài hoa của bàn tay khối óc, tâm hồn 0 của từng cá nhân 0.00%

22.5. Quy luật kinh tế thị trường 0 0.00%

22.6. Mức độ áp dụng kỹ thuật, công nghệ vào quy 0 trình sản xuất 0.00%

22.7. Sự thay đổi công năng sử dụng của các sản 0 phẩm thủ công 0.00%

22.8. Sự thay đổi mức sống của người dân 0 0.00%

22.9. Nhu cầu lao động việc làm 0 0.00%

22.10. Vấn đề môi trường sống 32 14.29%

22.11. Lịch sử phát triển, thương hiệu của làng nghề 0 0.00%

22.12. Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa 32 14.29%

22.13. Tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội 0 nhập quốc tế 0.00%

22.14. Nghệ nhân và thợ tay nghề cao của làng 0 nghề 0.00%

22.15. Số lượng, chất lượng đào tạo nghề 0 0.00%

22.16. Khả năng nắm bắt kỹ năng, kỹ năng truyền 0 0.00%

209

thống

22.17. Khả năng nắm được lí quyết tổ nghề 0 0.00%

IV. Biến đổi một số quan niệm và quan hệ xã hội 0 0.00%

23. Ông/bà đề cao vân đề nào sau đây trong quan hệ 0 bạn hàng hiện nay và thời điểm trước năn 1996? 0.00%

23.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%

23.1.1. Đảm bảo chữ tín 48 21.43%

23.1.2. Tiền trao cháo múc 16 7.14%

23.1.3. Thuận mua vừa bán 0 0.00%

23.1.4. Mục đich mua được nguyên liệu rẻ nhất 0 0.00%

23.1.5. Mục đích có lợi nhuận cao nhất 160 71.43%

23.1.6. Khác (ghi cụ thể) 0 0.00%

23.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%

23.2.1. Đảm bảo chữ tín 224 100.00%

23.2.2. Tiền trao cháo múc 0 0.00%

23.2.3. Thuận mua vừa bán 0 0.00%

23.2.4. Mục đich mua được nguyên liệu rẻ nhất 0 0.00%

23.2.5. Mục đích có lợi nhuận cao nhất 0 0.00%

23.2.6. Khác (ghi cụ thể) 0 0.00%

24. Ông/bà thường thực hiện những hình thức nào

trong quan hệ với bạn hàng vào thời điểm hiện nay 0

và trước năn 1996? 0.00%

24.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%

24.1.1. Giao dịch trực tiếp bằng miệng 0 0.00%

24.1.2. Giao dịch thông qua trung gian 0 0.00%

24.1.3. Giao dịch trực tiếp bằng văn bản 0 0.00%

210

24.1.4. Giao dịch qua điện thoại 224 100.00%

24.1.5. Giao dịch qua thư điện tử/chuyển phát 0 nhanh 0.00%

24.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%

24.2.1. Giao dịch trực tiếp bằng miệng 224 100.00%

24.2.2. Giao dịch thông qua trung gian 0 0.00%

24.2.3. Giao dịch trực tiếp bằng văn bản 0 0.00%

24.2.4. Giao dịch qua điện thoại 0 0.00%

24.2.5. Giao dịch qua thư điện tử/chuyển phát 0 nhanh 0.00%

25. Việc giữ bí truyền nghề có ảnh hưởng đến

những mối quan bệ nào sau đây vào thời điểm hiện 0

nay và trước năm 1996? 0.00%

25.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%

25.1.1. Nhằm chi phối quan hệ hôn nhân 0 0.00%

25.1.2. Nhằm chi phối quan hệ thầy - trò 0 0.00%

25.1.3. Nhằm chi phối quan hệ nội tộc 32 14.29%

25.1.5. Nhằm duy trì sức mạnh của gia đình, dòng họ

25.1.4. Nhằm chi phối quan hệ bất bình đẳng giới 0 0.00%

192 85.71%

25.1.6. Khác (ghi cụ thể) 0 0.00%

25.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%

25.2.1. Nhằm chi phối quan hệ hôn nhân 0 0.00%

25.2.2. Nhằm chi phối quan hệ thầy - trò 0 0.00%

25.2.3. Nhằm chi phối quan hệ nội tộc 224 100.00%

25.2.5. Nhằm duy trì sức mạnh của gia đình, dòng họ

25.2.4. Nhằm chi phối quan hệ bất bình đẳng giới 0 0.00%

0 0.00%

211

25.2.6. Khác (ghi cụ thể) 0 0.00%

26. Xin ông.bà cho biết mức độ sang nhà hàng xóm

chơi của bản thân vào thời điểm hiện nay và trước 0

năm 1996? 0.00%

26.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%

26.1.1. Hàng ngày 43 19.20%

26.1.2. Hàng tuần 52 23.20%

26.1.3. Hàng tháng 49 21.88%

26.1.4. Thỉnh thoảng 71 31.70%

26.1.5. Rất hiếm khi 9 4.02%

26.1.6. Không bao giờ 0 0.00%

26.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%

26.2.1. Hàng ngày 52 23.21%

26.2.2. Hàng tuần 55 24.55%

26.2.3. Hàng tháng 22 9.82%

26.3.4. Thỉnh thoảng 92 41.07%

26.4.5. Rất hiếm khi 3 1.35%

26.5.6. Không bao giờ 0 0.00%

27. Xin ông bà cho biết định hướng giá trị của bản

thân trong các mối quan hệ sau ở thời điểm hiện 0

nay và trước năm 1996? 0.00%

27.1. Lựa chọn giá trị hiện nay 0 0.00%

27.1.1. Gia đình 224 100.00%

27.1.1.1. Tình cảm 224 100.00%

27.1.1.2. Kinh tế 0 0.00%

27.1.2. Dòng họ 224 100.00%

212

27.1.2.1. Tình cảm 0 0.00%

27.1.2.2. Kinh tế 224 100.00%

27.1.3. Hàng xóm 224 100.00%

27.1.3.1. Tình cảm 0 0.00%

27.1.3.2. Kinh tế 224 100.00%

27.1.4. Bạn bè 224 100.00%

27.1.4.1. Tình cảm 0 0.00%

27.1.4.2. Kinh tế 224 100.00%

27.1.5. Bạn hàng/bạn nghề 224 100.00%

27.1.5.1. Tình cảm 16 7.14%

27.1.5.2. Kinh tế 208 92.86%

27.1.6. Chủ - thợ 224 100.00%

27.1.6.1. Tình cảm 0 0.00%

27.1.6.2. Kinh tế 224 100.00%

27.1.7. Thầy - trò 224 100.00%

27.1.7.1. Tình cảm 0 0.00%

27.1.7.2. Kinh tế 224 100.00%

0 0.00% 27.2. Lựa chọn giá trị trước năm 1996

27.2.1. Gia đình 224 100.00%

27.2.1.1. Tình cảm 208 92.86%

27.2.1.2. Kinh tế 16 7.14%

27.2.2. Dòng họ 224 100.00%

27.2.2.1. Tình cảm 208 92.86%

27.2.2.2. Kinh tế 16 7.14%

27.2.3. Hàng xóm 224 100.00%

27.2.3.1. Tình cảm 208 92.86%

213

27.2.3.2. Kinh tế 16 7.14%

27.2.4. Bạn bè 224 100.00%

27.2.4.1. Tình cảm 0 0.00%

27.2.4.2. Kinh tế 224 100.00%

27.2.5. Bạn hàng/bạn nghề 224 100.00%

27.2.5.1. Tình cảm 208 92.86%

27.2.5.2. Kinh tế 16 7.14%

27.2.6. Chủ - thợ 224 100.00%

27.2.6.1. Tình cảm 0 0.00%

27.2.6.2. Kinh tế 224 100.00%

27.2.7. Thầy - trò 224 100.00%

27.2.7.1. Tình cảm 0 0.00%

27.2.7.2. Kinh tế 224 100.00%

28. Đánh giá về mối liên hệ, hỗ trợ lẫn nhau trong

khâu sản xuất - tiêu thụ hàng thủ công hiện nay so 224

với trước năm 1996? 100.00%

28.1. Tích cực hơn rất nhiều 0 0.00%

28.2. Tích cực hơn 224 100.00%

28.3. Không thay đổi 0 0.00%

28.4. Giảm đi 0 0.00%

28.5. Khó đánh giá 0 0.00%

29. Ông/bà hãy đánh giá về mối quan hệ của bản 0 thân ở thời điểm hiện nay và trước năm 1996? 0.00%

29.1. Thời điểm hiện nay 0 0.00%

29.1.1. Quan hệ gia đình 224 100.00%

29.1.1.1 Quan trọng 221 98.66%

214

29.1.1.2 Bình thường 0.89% 2

29.1.1.3 Không quan trọng 0.45% 1

29.1.2. Quan hệ dòng họ 100.00% 224

29.1.2.1 Quan trọng 66.96% 150

29.1.2.2 Bình thường 33.04% 74

29.1.2.3 Không quan trọng 0.00% 0

29.1.3. Quan hệ hàng xóm 224 100.00%

29.1.3.1 Quan trọng 0.00% 0

29.1.3.2 Bình thường 35.71% 80

29.1.3.3 Không quan trọng 64.29% 144

29.1.4. Quan hệ bạn hàng 100.00% 224

29.1.4.1 Quan trọng 100.00% 224

29.1.4.2 Bình thường 0.00% 0

29.1.4.3 Không quan trọng 0.00% 0

29.1.5. Quan hệ bạn bè 224 100.00%

29.1.5.1 Quan trọng 28.57% 64

29.1.5.2 Bình thường 35.71% 80

29.1.5.3 Không quan trọng 35.71% 80

29.1.6. Quan hệ tâm linh tín ngưỡng 224 100.00%

29.1.6.1 Quan trọng 0.00% 0

29.1.6.2 Bình thường 21.43% 48

29.1.6.3 Không quan trọng 176 78.57%

29.2. Trước năm 1996 0.00% 0

29.2.1. Quan hệ gia đình 100.00% 224

29.1.2.1 Quan trọng 91.96% 206

29.1.2.2 Bình thường 8.04% 18

215

29.1.2.3 Không quan trọng 0 0.00%

29.2.2. Quan hệ dòng họ 224 100.00%

29.2.2.1 Quan trọng 148 66.07%

29.2.2.2 Bình thường 75 33.48%

29.2.2.3 Không quan trọng 1 0.45%

29.2.3. Quan hệ hàng xóm 224 100.00%

29.2.3.1 Quan trọng 0.00% 0

29.2.3.2 Bình thường 224 100.00%

29.2.3.3 Không quan trọng 0 0.00%

29.2.4. Quan hệ bạn hàng 224 100.00%

29.2.4.1 Quan trọng 224 100.00%

29.2.4.2 Bình thường 0 0.00%

29.2.4.3 Không quan trọng 0 0.00%

29.2.5. Quan hệ bạn bè 224 100.00%

29.2.5.1 Quan trọng 64 28.57%

29.2.5.2 Bình thường 80 35.71%

29.2.5.3 Không quan trọng 80 35.71%

29.2.6. Quan hệ tâm linh tín ngưỡng 224 100.00%

29.2.6.1 Quan trọng 0 0.00%

29.2.6.2 Bình thường 32 14.29%

29.2.6.3 Không quan trọng 192 85.71%

216

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ BIẾN ĐỔI NGHỀ DỆT

Thông tin chung Số người Tỷ lệ %

1. Năm sinh 224 100.00%

1.1. 1940-1955 32 14.29%

1.2. 1956-1970 160 71.43%

1.3. 1971-1985 0 0.00%

1.4. 1996-nay 32 14.29%

2. Chủ hộ 224 100.00%

2.1. Là chủ hộ 192 85.71%

2.2. Không chủ hộ 32 14.29%

3. Giới tính: 224 100.00%

3.1. Nam 192 85.71%

3.2. Nữ 32 14.29%

4. Trình độ học vấn 224 100.00%

4.1 Dưới tiểu học 0 0.00%

4.2. Tiểu học 64 28.57%

4.3. THCS 128 57.14%

4.4. THPT 0 0.00%

4.5. TC/Cao đẳng 32 14.29%

4.6. Đại học 0 0.00%

4.7. Sau đại học 0 0.00%

5. Tình trạng hôn nhân 224 100.00%

5.1. Chưa kết hôn 32 14.29%

5.2. Có vợ. Chồng 192 85.71%

5.3. Ly thân/ly dị 0 0.00%

5.4. Góa 0 0.00%

217

6. Tôn giáo 224 100.00%

6.1. Theo tôn giáo 48 21.43%

6.2. Không tôn giáo 176 78.57%

7. Khu vực sinh sống 224 100.00%

7.1.Ph.La 1 16 7.14%

7.2.Ph.La 2 128 57.14%

7.3.Ph.La 3 48 21.43%

7.4.Ph.La 4 32 14.29%

8. Nghề nghiệp 224 100.00%

8.1. Thủ công 144 69.23%

8.2. Nông dân 0 0.00%

8.3. Công nhân 0 0.00%

8.4. Công chức/viên chức 0 0.00%

8.5. Công an/bộ đội 0 0.00%

8.6. Buôn bán/dịch vụ 48 23.08%

8.7. Học sinh/sinh viên 0 0.00%

8.8. Cán bộ hưu trí 0 0.00%

8.9. Thất nghiệp 0 0.00%

8.10. Nội trợ 16 7.69%

8.11. Khác 0 0.00%

9. Tự nhận xét về mức sống 224 100.00%

9.1. Giàu có 0 0.00%

9.2. Khá giả 64 28.57%

9.3. Trung bình 160 71.43%

9.4. Nghèo 0 0.00%

9.5. Khó trả lời 0 0.00%

218

10. Tổng số thành viên trong gia đình 224 100.00%

10.1. Từ 01 0 0.00%

10.2. Từ 02 112 50.00%

10.3. Từ 03 trở lên 112 50.00%

11. Số lao động của hộ gia đình (trong độ tuổi 224 lao động) 100.00%

11.1. Từ 01 16 7.14%

11.2. Từ 02 48 21.43%

11.3. Từ 03 trở lên 160 71.43%

12. Số nữ trong gia đình 224 100.00%

12.1. Từ 01 48 21.43%

12.2. Từ 02 32 14.29%

12.3. Từ 03 trở lên 144 64.29%

13. Số trẻ em trong gia đình 224 100.00%

13.1. Từ 01 64 28.57%

13.2. Từ 02 32 14.29%

13.3. Từ 03 trở lên 128 57.14%

14. Số người đang có việc làm 224 100.00%

14..1. Từ 01 112 50.00%

14.2. Từ 02 112 50.00%

14.3. Từ 03 trở lên 0 0.00%

15. Nguồn thu nhập của ông bà? (Có thể chọn 224 nhiều phương án) 100.00%

15.1. Nghề thủ công 64 28.57%

15.2. Trồng trọt 16 7.14%

15.3. Chăn nuôi 16 7.14%

219

15.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 128 57.14%

15.5. Làm thuê 0 0.00%

15.6. Lương 48 21.43%

15.7. Thừa kế 0 0.00%

15.8. Trúng số 0 0.00%

15.9. Khác (ghi rõ) 0 0.00%

16. Nguồn thu nhập chính của gia đình? ( Chỉ 224 chọn 1 phương án) 100.00%

16.1. Nghề thủ công 48 21.43%

16.2. Trồng trọt 0 0.00%

16.3. Chăn nuôi 16 7.14%

16.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 96 42.86%

16.5. Làm thuê 16 7.14%

16.6. Lương 48 21.43%

16.7. Thừa kế 0 0.00%

16.8. Trúng số 0 0.00%

16.9. Khác (ghi rõ) 0 0.00%

17. Thu nhập của cả hộ 224 100.00%

17.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 64 28.57%

17.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 96 42.86%

17.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 32 14.29%

17.4. Trên 30 triệu/tháng 32 14.29%

18. Thu nhập của NLT 224 100.00%

18.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 64 28.57%

18.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 96 42.86%

18.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 32 14.29%

220

18.4. Trên 30 triệu/tháng 32 14.29%

Câu hỏi phần III: Biến đổi hình thức tổ chức sản 0 xuất, kỹ thuật chế tác và sản phẩm

19. Nơi sản xuất thủ công của hộ gia đình hiện nay 0 và vào thời điểm trước năm 1996?

19.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%

19.1.1. Vừa là nơi sản xuất, bán hàng và ở 144 64.29%

19.1.2. Vừa sản xuất, vừa bán hàng 64 28.57%

19.1.3. Sản xuất và bán hàng riêng biệt 16 7.14%

19.1.4. Không có, phải đi thuê mặt bằng 0 0.00%

19.2. Thời điểm trước năm 1996 224 100.00%

19.2.1. Vừa là nơi sản xuất, bán hàng và ở 224 100.00%

19.1.2. Vừa sản xuất, vừa bán hàng 0 0.00%

19.2.3. Sản xuất và bán hàng riêng biệt 0 0.00%

19.2.4. Không có, phải đi thuê mặt bằng 0 0.00%

20. Lựa chọn công nghệ kỹ thuật sản xuất của làng 0 nghề hiện nay và trước năm 1996 0.00%

20.1. Lựa chọn công nghệ sản xuất hiện nay 0 0.00%

20.1.1. Lựa chọn sợi nguyên liệu 224 100.00%

20.1.1.1. Công nghệ hiện đại 32 14.29%

20.1.1.2. Thủ công 192 85.71%

20.1.2. Xử lý sợ nguyên liệu 224 100.00%

20.1.2.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%

20.1.2.2. Thủ công 176 78.57%

0 0.00% 20.2. Lựa chọn công nghệ sản xuất trước năm1996

20.2.1. Lựa chọn sợi nguyên liệu 224 100.00%

221

20.2.1.1. Công nghệ hiện đại 0 0.00%

20.2.1.2. Thủ công 224 100.00%

20.2.2. Xử lý sợ nguyên liệu 224 100.00%

20.2.2.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%

20.2.2.2. Thủ công 176 78.57%

21.Việc áp dụng công nghệ thủ công và hiện đại trong

sản xuất thủ công và thời điểm năm 1996 và hiện nay 0

của gia đình 0.00%

21.1. Lựa chọn công nghệ sản xuất hiện nay 0 0.00%

21.1.1. Dệt 224 100.00%

21.1.1.1. Công nghệ hiện đại 224 100.00%

21.1.1.2. Thủ công 0 0.00%

21.1.2. Tẩy 224 100.00%

21.1.2.1. Công nghệ hiện đại 224 100.00%

21.1.2.2. Thủ công 0 0.00%

21.1.3. Nhuộm 224 100.00%

21.1.3.1. Công nghệ hiện đại 224 100.00%

21.1.3.2. Thủ công 0 0.00%

21.1.4. In 224 100.00%

21.1.4.1. Công nghệ hiện đại 224 100.00%

21.1.4.2. Thủ công 0 0.00%

21.1.5. Đóng gói 224 100.00%

21.1.5.1. Công nghệ hiện đại 224 100.00%

21.1.5.2. Thủ công 0 0.00%

0 0.00% 21.2. Lựa chọn công nghệ sản xuất trước năm1996

21.2.1. Dệt 224 100.00%

222

21.2.1.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%

21.2.1.2. Thủ công 176 78.57%

21.2.2. Tẩy 224 100.00%

21.2.2.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%

21.2.2.2. Thủ công 176 78.57%

21.2.3. Nhuộm 224 100.00%

21.2.3.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%

21.2.3.2. Thủ công 176 78.57%

21.2.4. In 224 100.00%

21.2.4.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%

21.2.4.2. Thủ công 176 78.57%

21.2.5. Đóng gói 224 100.00%

21.2.5.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%

21.2.5.2. Thủ công 176 78.57%

22. Các sản phẩm của làng nghề vào thời điểm hiện

nay và trước năm 1996 thể hiện yếu tố nào quan trọng 0

nhất sau đây? 0.00%

22.1. Sản phẩm thủ công của làng nghề hiện nay 224 100.00%

22.1.1. Giá trị văn hóa truyền thống 16 7.14%

22.1.2. Giá trị văn hóa hiện đại 64 28.57%

22.1.3. Giá trị kinh tế 64 28.57%

22.1.4. Giá trị sử dụng 32 14.29%

22.1.5. Đáp ứng nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng 48 21.43%

22.1.6. Sản xuất mang tính dây chuyền 0 0.00%

22.1.7. Sản xuất mang tính thủ công 0 0.00%

22.2. Sản phẩm thủ công của làng nghề trước1996 224 100.00%

223

22.2.1. Giá trị văn hóa truyền thống 28.57% 64

22.2.2. Giá trị văn hóa hiện đại 0.00% 0

22.2.3. Giá trị kinh tế 35.71% 80

22.2.4. Giá trị sử dụng 7.14% 16

22.2.5. Đáp ứng nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng 7.14% 16

22.2.6. Sản xuất mang tính dây chuyền 14.29% 32

22.2.7. Sản xuất mang tính thủ công 7.14% 16

23. Hình thức phân công lao động trong sản xuất nghề

thủ công của hộ gia đình vào thời điểm hiện nay và 0

trước năm 1986 0.00%

23.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%

23.1.1. Theo vai trò 28.57% 64

23.1.2. Theo thứ bậc thế hệ 64.29% 144

23.1.3. Theo vai trò chủ hộ/ người làm thuê 7.14% 16

23.1.4. Theo vai trò chủ/ người làm thuê 0.00% 0

23.1.5. Theo khả năng về sức khỏe 0.00% 0

23.1.6. Theo trình độ thạo nghề 0.00% 0

23.2. Thời điểm trước năm 1996 224 100.00%

23.2.1. Theo vai trò 28.57% 64

23.2.2. Theo thứ bậc thế hệ 0.00% 0

23.2.3. Theo vai trò chủ hộ/ người làm thuê 7.14% 16

23.2.4. Theo vai trò chủ/ người làm thuê 0.00% 0

23.2.5. Theo khả năng về sức khỏe 144 64.29%

0.00% 0 23.3.6. Theo trình độ thạo nghề

24. Mức độ phân công và hợp tác lao động giữa các 0 hộ sản xuất thủ công hiện nay sơ với trước năm 1996 0.00%

224

24.1. Đánh giá vào thời điểm hiện nay 224 100.00%

24.1.1. Rất tốt 160 71.43%

24.1.2. Tốt 64 28.57%

24.1.3. Chưa tốt 0 0.00%

24.1.4. Khó đánh giá 0 0.00%

24.2. Đánh giá vào thời điểm trước năm 1996 224 100.00%

24.2.1. Rất tốt 80 35.71%

24.2.2. Tốt 144 64.29%

24.2.3. Chưa tốt 0 0.00%

24.2.4. Khó đánh giá 0 0.00%

25. Mức độ phân công và hợp tác lao động giữa các

thành viên trong hộ gia đình sản xuất thủ công hiện 0

nay so với trước năm 1986 0.00%

25.1. Đánh giá vào thời điểm hiện nay 224 100.00%

25.1.1. Rất tốt 144 64.29%

25.1.2. Tốt 80 35.71%

25.1.3. Chưa tốt 0 0.00%

25.1.4. Khó đánh giá 0 0.00%

25.2. Đánh giá vào thời điểm trước năm 1996 224 100.00%

25.2.1. Rất tốt 48 21.43%

25.2.2. Tốt 160 71.43%

25.2.3. Chưa tốt 16 7.14%

25.2.4. Khó đánh giá 0 0.00%

26. Hiện trạng một số vấn đề liên quan đến thuê mướn

lao động trong sản xuất thủ công vào thời điểm hiện 0

nay và trước năm 1986 của hộ gia đình? 0.00%

225

26.1. Thuê mướn lao động hiện nay 224 100.00%

26.1.1. Người cùng trong gia đình, dòng họ 0 0.00%

26.1.2. Người trong làng, xã 16 7.14%

26.1.3. Người trong huyện, thành phố 208 92.86%

26.1.4. Người ở tỉnh/thành khác 0 0.00%

26.2. Thuê mướn lao động trước năm 1996 224 100.00%

26.2.1. Người cùng trong gia đình, dòng họ 0 0.00%

26.2.2. Người trong làng, xã 224 100.00%

26.1.3. Người trong huyện, thành phố 0 0.00%

26.2.4. Người ở tỉnh/thành khác 0 0.00%

27. Quy mô thuê mướn lao động của hộ gia đình trong 0 sản xuất thủ công hiện nay và trước năm 1996 0.00%

27.1. Quy mô thuê mướn lao động hiện nay 224 100.00%

27.1.1. Thuê dưới 5 lao động 224 100.00%

27.1.2. Thuê từ 6 - 10 lao động 0 0.00%

27.1.3. Thuê trên 10 lao động 0 0.00%

27.1.4. Không thuê lao động 0 0.00%

27.2. Quy mô thuê mướn lao động trước năm 1996 224 100.00%

27.2.1. Thuê dưới 5 lao động 224 100.00%

27.2.2. Thuê từ 6 - 10 lao động 0 0.00%

27.2.3. Thuê trên 10 lao động 0 0.00%

27.2.4. Không thuê lao động 0 0.00%

28. Cách thức trả công cho người lao động sản xuất 0 thủ công hiện nay so với trước năm 1996 0.00%

28.1. Cách thức trả công lao động hiện nay 224 100.00%

28.1.1. Trả lường theo tháng 0 0.00%

226

28.1.2. Trả công theo sản phẩm 0 0.00%

28.1.3. Khoán công nhật 0 0.00%

28.1.4. Đan xen cả 3 hình thức trên 100.00% 224

28.2. Cách thức trả công lao động trước năm 1996 100.00% 224

28.2.1. Trả lường theo tháng 0 0.00%

28.2.2. Trả công theo sản phẩm 224 100.00%

28.2.3. Khoán công nhật 0 0.00%

28.2.4. Đan xen cả 3 hình thức trên 0 0.00%

29. Cách thức thể hiện hợp đồng lao động hiện nay và 0 trước năm 1996 0.00%

29.1. Cách thức thể hiện hợp đồng lao động hiện nay 224 100.00%

29.1.1. Bằng văn bản 0 0.00%

29.1.2. Bằng miệng 0 0.00%

29.1.3. Vừa bằng văn bản vừa bằng miệng 224 100.00%

29.1.4. Không có 0 0.00%

29.2. Cách thức thể hiện hợp đồng lao động trước 224 năm 1986 100.00%

29.1.1. Bằng văn bản 0 0.00%

29.1.2. Bằng miệng 224 100.00%

0 0.00% 29.1.3. Vừa bằng văn bản vừa bằng miệng

0 0.00% 29.1.4. Không có

30. Ông/bà thường lựa chọn thuê mướn những người

0 lao động nào sau đây vào thời điểm hiện nay và tước

0.00% năm 1996?

240 107.14% 30.1. Hiện nay ưu tiên cho ai?

0 0.00% 30.1.1. Ưu tiên lao động trong gia đình

227

30.1.2. Ưu tiên lao động thân quen 0 0.00%

30.1.3. Ưu tiên lao động thạo nghề 0 0.00%

30.1.4. Ưu tiên lao động với mức tiền công thấp 0 0.00%

30.1.5. Ưu tiên tạo ra năng suất lao động cao 224 100.00%

30.1.6.Ưu tiên lao động có khả năng áp dụng công 16 7.14% nghệ

30.2. Trước năm 1996 ưu tiên cho ai? 240 107.14%

30.2.1. Ưu tiên lao động trong gia đình 0 0.00%

30.2.2. Ưu tiên lao động thân quen 208 92.86%

30.2.3. Ưu tiên lao động thạo nghề 16 7.14%

30.2.4. Ưu tiên lao động với mức tiền công thấp 0 0.00%

30.2.5. Ưu tiên tạo ra năng suất lao động cao 0 0.00%

30.2.6.Ưu tiên lao động có khả năng áp dụng công 16 7.14% nghệ

228

KẾT QỦA ĐIỀU TRA VỀ TÍN NGƢỠNG, LỄ HỘI , PHONG TỤC

Số người Tỷ lệ % Thông tin chung

208 100.00% 1. Năm sinh

1.1. 1940-1955 0 0.00%

1.2. 1956-1970 48 23.08%

1.3. 1971-1985 160 76.92%

1.4. 1996-nay 0 0.00%

2. Chủ hộ 208 100.00%

2.1. Là chủ hộ 208 100.00%

2.2. Không chủ hộ 0 0.00%

3. Giới tính: 208 100.00%

3.1. Nam 96 46.15%

3.2. Nữ 112 53.85%

4. Trình độ học vấn 208 100.00%

4.1 Dưới tiểu học 0 0.00%

4.2. Tiểu học 0 0.00%

4.3. THCS 48 23.08%

4.4. THPT 112 53.85%

4.5. TC/Cao đẳng 48 23.08%

4.6. Đại học 0 0.00%

4.7. Sau đại học 0 0.00%

5. Tình trạng hôn nhân 208 100.00%

5.1. Chưa kết hôn 0 0.00%

5.2. Có vợ. Chồng 208 100.00%

5.3. Ly thân/ly dị 0 0.00%

5.4. Góa 0 0.00%

229

6. Tôn giáo 208 100.00%

6.1. Theo tôn giáo 48 23.08%

6.2. Không tôn giáo 160 76.92%

7. Khu vực sinh sống 224 107.69%

7.1.Ph.La 1 80 38.46%

7.2.Ph.La 2 80 38.46%

7.3.Ph.La 3 48 23.08%

7.4.Ph.La 4 16 7.69%

8. Nghề nghiệp 208 100.00%

8.1. Thủ công 32 15.38%

8.2. Nông dân 0 0.00%

8.3. Công nhân 112 53.85%

8.4. Công chức/viên chức 0 0.00%

8.5. Công an/bộ đội 16 7.69%

8.6. Buôn bán/dịch vụ 0 0.00%

8.7. Học sinh/sinh viên 0 0.00%

8.8. Cán bộ hưu trí 32 15.38%

8.9. Thất nghiệp 0 0.00%

8.10. Nội trợ 0 0.00%

8.11. Khác 16 7.69%

9. Tự nhận xét về mức sống 208 100.00%

9.1. Giàu có 48 23.08%

9.2. Khá giả 144 69.23%

9.3. Trung bình 16 7.69%

9.4. Nghèo 0 0.00%

9.5. Khó trả lời 0 0.00%

230

10. Tổng số thành viên trong gia đình 208 100.00%

10.1. Từ 01 16 7.69%

10.2. Từ 02 112 53.85%

10.3. Từ 03 trở lên 80 38.46%

11. Số lao động của hộ gia đình (trong độ 208 tuổi lao động) 100.00%

11.1. Từ 01- 0 0.00%

11.2. Từ 02 64 30.77%

11.3. Từ 03 trở lên 144 69.23%

12. Số nữ trong gia đình 208 100.00%

12.1. Từ 01 48 23.08%

12.2. Từ 02 32 15.38%

12.3. Từ 03 trở lên 128 61.54%

13. Số trẻ em trong gia đình 208 100.00%

13.1. Từ 01 64 30.77%

13.2. Từ 02 16 7.69%

13.3. Từ 03 trở lên 128 61.54%

14. Số người đang có việc làm 208 100.00%

14.1. Từ 01 48 23.08%

14.2. Từ 02 96 46.15%

14.3. Từ 03 trở lên 64 30.77%

15. Nguồn thu nhập của ông bà? (Có thể 208 chọn nhiều phương án) 100.00%

15.1. Nghề thủ công 32 15.38%

15.2. Trồng trọt 16 7.69%

15.3. Chăn nuôi 0 0.00%

231

15.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 48 23.08%

15.5. Làm thuê 96 46.15%

15.6. Lương 16 7.69%

15.7. Thừa kế 0 0.00%

15.8. Trúng số 0 0.00%

15.9. Khác (ghi rõ) 0 0.00%

16. Nguồn thu nhập chính của gia đình? 208 (Chỉ chọn 1 phương án) 100.00%

16.1. Nghề thủ công 16 7.69%

16.2. Trồng trọt 16 7.69%

16.3. Chăn nuôi 32 15.38%

16.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 80 38.46%

16.5. Làm thuê 64 30.77%

16.6. Lương 0 0.00%

16.7. Thừa kế 0 0.00%

16.8. Trúng số 0 0.00%

16.9. Khác (ghi rõ) 0 0.00%

17. Thu nhập của cả hộ 208 100.00%

17.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 64 30.77%

17.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 80 38.46%

17.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 32 15.38%

17.4. Trên 30 triệu/tháng 32 15.38%

18. Thu nhập của NLT 208 100.00%

18.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 64 30.77%

18.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 80 38.46%

18.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 32 15.38%

232

18.4. Trên 30 triệu/tháng 32 15.38%

Câu hỏi phần IV: Biến đổi tín ngưỡng, lễ hội và 0 phong tục tập quán làng nghề 0.00%

19. Đánh giá tầm quan trọng của những thiết chế

văn hóa trong cộng đồng hiện nay và thời điểm 0

trước năm 1986? 0.00%

19.2. Thời điểm hiện nay 0 0.00%

19.1.1. Nhà thờ tổ nghề 208 100.00%

19.1.1.1. Quan trọng 0 0.00%

19.1.1.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.1.1.3 Không có 208 100.00%

19.1.2. Đình làng, giếng nước, gốc đa 208 100.00%

19.1.2.1. Quan trọng 208 100.00%

19.1.2.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.1.2.3 Không có 0 0.00%

19.1.3. Chùa 208 100.00%

19.1.3.1. Quan trọng 80 38.46%

19.1.3.2. Không quan trọng 128 61.54%

19.1.3.3 Không có 0 0.00%

19.1.4. Đền, miếu 208 100.00%

19.1.4.1. Quan trọng 208 100.00%

19.1.4.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.1.4.3 Không có 0 0.00%

19.1.5. Nhà thờ 208 100.00%

19.1.5.1. Quan trọng 0 0.00%

19.1.5.2. Không quan trọng 0 0.00%

233

19.1.5.3 Không có 208 100.00%

19.1.6. Nhà thờ họ 208 100.00%

19.1.6.1. Quan trọng 0.00% 0

19.1.6.2. Không quan trọng 0.00% 0

19.1.6.3 Không có 208 100.00%

19.1.7. Nhà văn hóa, thư viện 0 0.00%

19.1.7.1. Quan trọng 0 0.00%

19.1.7.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.1.7.3 Không có 0 0.00%

19.1.8. Đài phát thanh 0 0.00%

19.1.8.1. Quan trọng 0 0.00%

19.1.8.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.1.8.3 Không có 0 0.00%

19.1.9. Câu lạc bộ 0 0.00%

19.1.9.1. Quan trọng 0 0.00%

19.1.9.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.1.9.3 Không có 0 0.00%

19.1.10. Sân vận động 0 0.00%

19.1.10.1. Quan trọng 0 0.00%

19.1.10.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.1.10.3 Không có 0 0.00%

19.2. Trước năm 1996 0 0.00%

19.2.1. Nhà thờ tổ nghề 208 100.00%

19.2.1.1. Quan trọng 0 0.00%

19.2.1.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.2.1.3 Không có 208 100.00%

234

19.2.2. Đình làng, giếng nước, gốc đa 208 100.00%

19.2.2.1. Quan trọng 208 100.00%

19.2.2.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.2.2.3 Không có 0 0.00%

19.2.3. Chùa 208 100.00%

19.2.3.1. Quan trọng 0 0.00%

19.2.3.2. Không quan trọng 32 15.38%

19.2.3.3 Không có 176 84.62%

19.2.4. Đền, miếu 208 100.00%

19.2.4.1. Quan trọng 0 0.00%

19.2.4.2. Không quan trọng 208 100.00%

19.2.4.3 Không có 0 0.00%

19.2.5. Nhà thờ 0 0.00%

19.2.5.1. Quan trọng 0 0.00%

19.2.5.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.2.5.3 Không có 0 0.00%

19.2.6. Nhà thờ họ 0 0.00%

19.2.6.1. Quan trọng 0 0.00%

19.2.6.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.2.6.3 Không có 0 0.00%

19.2.7. Nhà văn hóa, thư viện 0 0.00%

19.2.7.1. Quan trọng 0 0.00%

19.2.7.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.2.7.3 Không có 0 0.00%

19.2.8. Đài phát thanh 0 0.00%

19.2.8.1. Quan trọng 0 0.00%

235

19.2.8.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.2.8.3 Không có 0 0.00%

19.2.9. Câu lạc bộ 0 0.00%

19.2.9.1. Quan trọng 0 0.00%

19.2.9.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.2.9.3 Không có 0 0.00%

19.2.10. Sân vận động 0 0.00%

19.2.10.1. Quan trọng 0 0.00%

19.2.10.2. Không quan trọng 0 0.00%

19.2.10.3 Không có 0 0.00%

20. Đánh giá về tầm quan trọng việc duy trì các

hoạt động tín ngưỡng, lễ hội truyền thống của làng 0

nghề hiện nay và thời điểm trước năm 1996? 0.00%

20.1. Thời điểm hiện nay 208 100.00%

20.1.1. Rất quan trọng 104 50.00%

20.1.2. Quan trọng 98 47.11%

20.1.3. Bình thường 6 2.89%

20.1.4. Không quan trọng 0 0.00%

20.1.5. Khó đánh giá 0 0.00%

20.2. Từ năm 1996 trở về trước 208 100.00%

20.2.1. Rất quan trọng 37 17.79%

20.2.2. Quan trọng 106 50.96%

20.2.3. Bình thường 60 28.84%

20.2.4. Không quan trọng 2 0.96%

20.2.5. Khó đánh giá 3 1.45%

236

21. Ông/bà có gia phả của dòng họ vào thời điểm 0 hiện nay và trước năm 1996? 0.00%

21.1. Thời điểm hiện nay 208 100.00%

21.1.1. Có 208 100.00%

21.1.2. Không 0 0.00%

21.2. Từ năm 1996 trở về trước 208 100.00%

21.1.1. Có 48 23.08%

21.1.2. Không 160 76.92%

22. Đánh giá việc tham gia tập quán cưới của

người sản xuất thủ công hiện nay và thời điểm 0

trước năm 1996? 0.00%

22.1. Hiện nay 0 0.00%

22.1.1. Lễ dạm ngõ 208 100.00%

22.1.1.1. Quan trọng 192 92.31%

22.1.1.2. Không quan trọng 16 7.69%

22.1.2. Lễ cưới 208 100.00%

22.1.2.1. Quan trọng 208 100.00%

22.1.2.2. Không quan trọng 0 0.00%

22.1.3. Lễ lại mặt 208 100.00%

22.1.3.1. Quan trọng 160 76.92%

22.1.3.2. Không quan trọng 48 23.08%

22.1.4. Nộp cheo 208 100.00%

22.1.4.1. Quan trọng 0 0.00%

22.1.4.2. Không quan trọng 208 100.00%

22.1.5. Thách cưới 208 100.00%

22.1.5.1. Quan trọng 0 0.00%

237

22.1.5.2. Không quan trọng 208 100.00%

22.1.6. Cho của hồi môn 208 100.00%

22.1.6.1. Quan trọng 0 0.00%

22.1.6.2. Không quan trọng 208 100.00%

22.1.7. Lễ gia tiên đón dâu 208 100.00%

22.1.7.1. Quan trọng 0 0.00%

22.1.7.2. Không quan trọng 208 100.00%

22.1.8. Lễ tơ hồng 208 100.00%

22.1.8.1. Quan trọng 0 0.00%

22.1.8.2. Không quan trọng 208 100.00%

22.2. Trước năm 1996 0 0.00%

22.2.1. Lễ dạm ngõ 208 100.00%

22.2.1.1. Quan trọng 0 0.00%

22.2.1.2. Không quan trọng 208 100.00%

22.2.2. Lễ cưới 208 100.00%

22.2.2.1. Quan trọng 48 23.08%

22.2.2.2. Không quan trọng 160 76.92%

22.2.3. Lễ lại mặt 208 100.00%

22.2.3.1. Quan trọng 48 23.08%

22.2.3.2. Không quan trọng 160 76.92%

22.2.4. Nộp cheo 208 100.00%

22.2.4.1. Quan trọng 0 0.00%

22.2.4.2. Không quan trọng 208 100.00%

22.2.5. Thách cưới 208 100.00%

22.2.5.1. Quan trọng 0 0.00%

22.2.5.2. Không quan trọng 208 100.00%

238

22.2.6. Cho của hồi môn 208 100.00%

22.2.6.1. Quan trọng 208 100.00%

22.2.6.2. Không quan trọng 0 0.00%

22.2.7. Lễ gia tiên đón dâu 208 100.00%

22.2.7.1. Quan trọng 208 100.00%

22.2.7.2. Không quan trọng 0 0.00%

22.2.8. Lễ tơ hồng 208 100.00%

22.2.8.1. Quan trọng 32 15.38%

22.2.8.2. Không quan trọng 176 84.62%

23. Đánh giá việc tang của người sản xuất thủ 0 công hiện nay và thời điểm trước năm 1996? 0.00%

23.1. Thời điểm hiện nay 0 0.00%

23.1.1. Che mặt cho người chết 208 100.00%

23.1.1.1. Quan trọng 208 100.00%

23.1.1.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.1.2. Yểm bùa 208 100.00%

23.1.2.1. Quan trọng 208 100.00%

23.1.2.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.1.3. Nhạc hiếu 208 100.00%

23.1.3.1. Quan trọng 208 100.00%

23.1.3.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.1.4. Thầy pháp sư làm lễ 208 100.00%

23.1.4.1. Quan trọng 208 100.00%

23.1.4.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.1.5. Xem giờ phát tang 208 100.00%

23.1.5.1. Quan trọng 208 100.00%

239

23.1.5.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.1.6. Xem giờ hạ huyệt 208 100.00%

23.1.6.1. Quan trọng 208 100.00%

23.1.6.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.1.7. Việc để tang 208 100.00%

23.1.7.1. Quan trọng 177 85.09%

23.1.7.2. Không quan trọng 31 14.91%

23.1.8. Cúng 3 ngày 208 100.00%

23.1.8.1. Quan trọng 208 100.00%

23.1.8.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.1.9. Cúng tuần 208 100.00%

23.1.9.1. Quan trọng 48 23.08%

23.1.9.2. Không quan trọng 160 76.92%

23.1.10. Đắp mộ 208 100.00%

23.1.10.1. Quan trọng 208 100.00%

23.1.10.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.1.11. Cúng 49 ngày 208 100.00%

23.1.11.1. Quan trọng 208 100.00%

23.1.11.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.1.12. Cúng 100 ngày 208 100.00%

23.1.12.1. Quan trọng 208 100.00%

23.1.12.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.1.13. Giỗ đầu 208 100.00%

23.1.13.1. Quan trọng 208 100.00%

23.1.13.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.1.14. Khâm liệm 208 100.00%

240

23.1.13.1. Quan trọng 208 100.00%

23.1.13.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.1.15. Đặt hướng mộ 208 100.00%

23.1.13.1. Quan trọng 151 72.59%

23.1.13.2. Không quan trọng 57 27.41%

23.1.16. Chọn nơi chôn cất 208 100.00%

23.1.13.1. Quan trọng 164 78.84%

23.1.13.2. Không quan trọng 44 21.16%

23.2. Trước năm 1996 0 0.00%

23.2.1. Che mặt cho người chết 208 100.00%

23.2.1.1. Quan trọng 208 100.00%

23.2.1.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.2.2. Yểm bùa 208 100.00%

23.2.2.1. Quan trọng 208 100.00%

23.2.2.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.2.3. Nhạc hiếu 208 100.00%

23.2.3.1. Quan trọng 0 0.00%

23.2.3.2. Không quan trọng 208 100.00%

23.2.4. Thầy pháp sư làm lễ 208 100.00%

23.2.4.1. Quan trọng 0 0.00%

23.2.4.2. Không quan trọng 208 100.00%

23.2.5. Xem giờ phát tang 208 100.00%

23.2.5.1. Quan trọng 0 0.00%

23.2.5.2. Không quan trọng 208 100.00%

23.2.6. Xem giờ hạ huyệt 208 100.00%

23.2.6.1. Quan trọng 208 100.00%

241

23.2.6.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.2.7. Việc để tang 208 100.00%

23.2.7.1. Quan trọng 208 100.00%

23.2.7.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.2.8. Cúng 3 ngày 208 100.00%

23.2.8.1. Quan trọng 208 100.00%

23.2.8.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.2.9. Cúng tuần 208 100.00%

23.2.9.1. Quan trọng 47 23.09%

23.2.9.2. Không quan trọng 160 76.91%

23.2.10. Đắp mộ 208 100.00%

23.2.10.1. Quan trọng 0 0.00%

23.2.10.2. Không quan trọng 208 100.00%

23.2.11. Cúng 49 ngày 208 100.00%

23.2.11.1. Quan trọng 208 100.00%

23.2.11.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.2.12. Cúng 100 ngày 208 100.00%

23.2.12.1. Quan trọng 208 100.00%

23.2.12.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.2.13. Giỗ đầu 208 100.00%

23.2.13.1. Quan trọng 208 100.00%

23.2.13.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.2.14. Khâm liệm 208 100.00%

23.2.14.1. Quan trọng 208 100.00%

23.2.14.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.2.15. Đặt hướng mộ 208 100.00%

242

23.2.15.1. Quan trọng 208 100.00%

23.2.15.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.2.16. Chọn nơi chôn cất 208 100.00%

23.2.16.1. Quan trọng 208 100.00%

23.2.16.2. Không quan trọng 0 0.00%

23.2.17. Việc cải táng 208 100.00%

23.2.17.1. Quan trọng 198 95.19%

24. Đánh giá sự chuyển đổi về hoạt động tín ngưỡng

23.2.17.2. Không quan trọng 10 4.82%

của làng nghề hiện nay và trước năm 1996?

0 0.00%

24.1. Thời điểm hiện nay 0 0.00%

24.1.1. Thờ tổ tiên 208 100.00%

24.1.1.1. Quan trọng 208 100.00%

24.1.1.2. Không quan trọng 0 0.00%

24.1.2. Thờ phật 208 100.00%

24.1.2.1. Quan trọng 208 100.00%

24.1.2.2. Không quan trọng 0 0.00%

24.1.3. Thờ thành hoàng 208 100.00%

24.1.3.1. Quan trọng 48 23.08%

24.1.3.2. Không quan trọng 160 76.92%

24.1.4. Thờ ông tổ nghề 208 100.00%

24.1.4.1. Quan trọng 0 0.00%

24.1.4.2. Không quan trọng 208 100.00%

24.1.5. Thờ thần tài 208 100.00%

24.1.5.1. Quan trọng 208 100.00%

24.1.5.2. Không quan trọng 0 0.00%

243

24.2. Trước năm 1996 0 0.00%

24.2.1. Thờ tổ tiên 208 100.00%

24.2.1.1. Quan trọng 208 100.00%

24.2.1.2. Không quan trọng 0 0.00%

24.2.2. Thờ phật 208 100.00%

24.2.2.1. Quan trọng 208 100.00%

24.2.2.2. Không quan trọng 0 0.00%

24.2.3. Thờ thành hoàng 208 100.00%

24.2.3.1. Quan trọng 48 23.08%

24.2.3.2. Không quan trọng 160 76.92%

24.2.4. Thờ ông tổ nghề 208 100.00%

24.2.4.1. Quan trọng 48 23.08%

24.2.4.2. Không quan trọng 160 76.92%

24.2.5. Thờ thần tài 208 100.00%

24.2.5.1. Quan trọng 32 15.38%

24.2.5.2. Không quan trọng 176 84.62%

25. Đánh giá việc than gia lễ hội hiện nay so với 0 thời điểm trước năm 1996? 0.00%

25.1. Số lượng lễ hội truyền thống ở địa 272 phương 130.77%

25.1.1. Tăng lên 192 92.31%

25.1.2. Vẫn thế 0 0.00%

25.1.3. Giảm đi 80 38.46%

25.2. Tham gia của người dân vào hoạt động lễ 208 hội 100.00%

25.2.1. Tăng lên 208 100.00%

244

25.2.2. Vẫn thế 0 0.00%

25.2.3. Giảm đi 0 0.00%

25.3. Đóng góp của người dân cho hoạt động lễ 208 hội 100.00%

25.3.1. Tăng lên 208 100.00%

25.3.2. Vẫn thế 0 0.00%

25.3.3. Giảm đi 0 0.00%

25.4. Sự tham gia của gia đình ông/bà vào lễ 208 hội 100.00%

25.4.1. Tăng lên 16 7.69%

25.4.2. Vẫn thế 192 92.31%

25.4.3. Giảm đi 0 0.00%

25.5. Đóng góp của gia đình ông/bà vào lễ hội 208 100.00%

25.5.1. Tăng lên 48 23.08%

25.5.2. Vẫn thế 160 76.92%

25.5.3. Giảm đi 0 0.00%

26. Đánh giá mức độ quan trọng của các chủ thể

sau đối với các hoạt động văn hóa tín ngưỡng ở 0

làng nghề? 0.00%

26.1. Cán bộ, công chức nhà nước 208 100.00%

26.1.1. Rất quan trọng 0 0.00%

26.1.2. Quan trọng 16 7.69%

26.1.3. Bình thường 192 92.31%

26.1.4. Không quan trọng 0 0.00%

26.1.5. Khó đánh giá 0 0.00%

26.2. Người giàu có/doanh nhân 208 100.00%

245

26.2.1. Rất quan trọng 0.00% 0

26.2.2. Quan trọng 208 100.00%

26.2.3. Bình thường 0.00% 0

26.2.4. Không quan trọng 0.00% 0

26.2.5. Khó đánh giá 0.00% 0

26.3. Người làm nghề thủ công 208 100.00%

26.3.1. Rất quan trọng 0.00% 0

26.3.2. Quan trọng 0.00% 0

26.3.3. Bình thường 208 100.00%

26.3.4. Không quan trọng 0.00% 0

26.3.5. Khó đánh giá 0.00% 0

26.4. Người già cả trong làng 208 100.00%

26.4.1. Rất quan trọng 0.00% 0

26.4.2. Quan trọng 0.00% 0

26.4.3. Bình thường 208 100.00%

26.4.4. Không quan trọng 0.00% 0

26.4.5. Khó đánh giá 0.00% 0

26.5. Thanh thiếu niên trong làng 208 100.00%

26.5.1. Rất quan trọng 0.00% 0

26.5.2. Quan trọng 0.00% 0

26.5.3. Bình thường 208 100.00%

26.5.4. Không quan trọng 0.00% 0

26.5.5. Khó đánh giá 0.00% 0

26.6. Khách thập phương 208 100.00%

26.6.1. Rất quan trọng 0.00% 0

26.6.2. Quan trọng 0.00% 0

246

208 100.00% 26.6.3. Bình thường

26.6.4. Không quan trọng 0 0.00%

26.6.5. Khó đánh giá 0 0.00%

26.7. Nam giới trong làng 224 107.69%

26.7.1. Rất quan trọng 0 0.00%

26.7.2. Quan trọng 0 0.00%

26.7.3. Bình thường 208 100.00%

26.7.4. Không quan trọng 0 0.00%

26.7.5. Khó đánh giá 16 7.69%

26.8. Nữ giới trong làng 224 107.69%

26.8.1. Rất quan trọng 0 0.00%

26.8.2. Quan trọng 0 0.00%

26.8.3. Bình thường 208 100.00%

26.8.4. Không quan trọng 0 0.00%

26.8.5. Khó đánh giá 16 7.69%

27. Đánh giá hiện trạng văn hóa làng nghề truyền 0 thống hiện nay và thời gian trước năm 1996? 0.00%

27.1. Đánh giá hiện trạng văn hóa làng nghề 0 truyền thống hiện nay 0.00%

27.1.1. Yếu tố đa dạng, phong phú 208 100.00%

27.1.1.1. Có 192 92.31%

27.1.1.2. Không 16 7.69%

27.1.2. Yếu tố bản sắc, độc đáo 208 100.00%

27.1.2.1. Có 208 100.00%

27.1.2.2. Không 0 0.00%

27.1.3. Vai trò của văn hóa làng nghề với sự 208 phát triển 100.00%

247

27.1.3.1. Có 208 100.00%

27.1.3.2. Không 0 0.00%

27.1.4. Yếu tố tự hào của người dân về văn hóa 208 làng nghề 100.00%

27.1.4.1. Có 0 0.00%

27.1.4.2. Không 208 100.00%

27.1.5. Đánh giá về khả năng lan tỏa của văn 208 hóa làng nghề 100.00%

27.1.5.1. Có 0 0.00%

27.1.5.2. Không 208 100.00%

27.1.6. Đánh giá về sợ giao thoa của văn hóa 208 làng nghề 100.00%

27.1.6.1. Có 176 84.62%

27.1.6.2. Không 32 15.38%

27.1.7. Sắc thái văn hóa dân tộc của làng nghề 208 100.00%

27.1.7.1. Có 0 0.00%

27.1.7.2. Không 208 100.00%

27.2. Đánh giá hiện trạng văn hóa làng nghề 0 trước năm 1996 0.00%

27.2.1. Yếu tố đa dạng, phong phú 208 100.00%

27.2.1.1. Có 0 0.00%

27.2.1.2. Không 208 100.00%

27.2.2. Yếu tố bản sắc, độc đáo 208 100.00%

27.2.2.1. Có 32 15.38%

27.2.2.2. Không 176 84.62%

27.2.3. Vai trò của văn hóa làng nghề với sự 208 phát triển 100.00%

248

27.2.3.1. Có 16 7.69%

27.2.3.2. Không 192 92.31%

27.2.4. Yếu tố tự hào của người dân về văn hóa 208 làng nghề 100.00%

27.2.4.1. Có 208 100.00%

27.2.4.2. Không 0 0.00%

27.2.5. Đánh giá về khả năng lan tỏa của văn 208 hóa làng nghề 100.00%

27.2.5.1. Có 208 100.00%

27.2.5.2. Không 0 0.00%

27.2.6. Đánh giá về sự giao thoa của văn hóa 208 làng nghề 100.00%

27.2.6.1. Có 16 7.69%

27.2.6.2. Không 192 92.31%

27.2.7. Sắc thái văn hóa dân tộc của làng nghề 208 100.00%

27.2.7.1. Có 0 0.00%

27.2.7.2. Không 208 100.00%

28. Tầm quan trọng của các quy ước sau đây đối

với đời sống của làng nghề và thời điểm hiện nay 0

và trước năm 1986? 0.00%

28.1. Thời điểm hiện nay 0 0.00%

28.1.1. Quy ước lễ hội của làng nghề 208 100.00%

208 100.00% 28.1.1.1. Quan trọng

0 0.00% 28.1.1.2. Không quan trọng

0 0.00% 28.1.1.3. Không có

28.1.2. Quy ước về tín ngưỡng của làng nghề 208 100.00%

0 0.00% 28.1.2.1. Quan trọng

28.1.2.2. Không quan trọng 208 100.00%

0 0.00% 28.1.2.3. Không có

249

28.1.3. Quy ước của gia đình trong sản xuất thủ 208 công 100.00%

28.1.3.1. Quan trọng 208 100.00%

28.1.3.2. Không quan trọng 0 0.00%

28.1.3.3. Không có 0 0.00%

28.1.4. Quy ước của dòng họ trong sản xuất thủ 208 công 100.00%

28.1.4.1. Quan trọng 0 0.00%

28.1.4.2. Không quan trọng 208 100.00%

28.1.4.3. Không có 0 0.00%

28.1.5. Quy ước của cộng đồng trong sản xuất 208 thủ công 100.00%

28.1.5.1. Quan trọng 0 0.00%

28.1.5.2. Không quan trọng 208 100.00%

28.1.5.3. Không có 0 0.00%

28.2. Trước năm 1996 0 0.00%

28.2.1. Quy ước lễ hội của làng nghề 208 100.00%

28.2.1.1. Quan trọng 208 100.00%

28.2.1.2. Không quan trọng 0 0.00%

28.2.1.3. Không có 0 0.00%

28.2.2. Quy ước về tín ngưỡng của làng nghề 208 100.00%

28.2.2.1. Quan trọng 208 100.00%

28.2.2.2. Không quan trọng 0 0.00%

28.2.2.3. Không có 0 0.00%

28.2.3. Quy ước của gia đình trong sản xuất thủ 208 công 100.00%

28.2.3.1. Quan trọng 208 100.00%

28.2.3.2. Không quan trọng 0 0.00%

28.2.3.3. Không có 0 0.00%

250

28.2.4. Quy ước của dòng họ trong sản xuất thủ 208 công 100.00%

28.2.4.1. Quan trọng 208 100.00%

28.2.4.2. Không quan trọng 0 0.00%

28.2.4.3. Không có 0 0.00%

28.2.5. Quy ước của cộng đồng trong sản xuất 208 thủ công 100.00%

28.2.5.1. Quan trọng 208 100.00%

28.2.5.2. Không quan trọng 0 0.00%

28.2.5.3. Không có 0 0.00%

29. Theo ông/bà thì làng nghề truyền thống đang 0 có những vai trò gì sau đây? 0.00%

29.1. Làng nghề tạo ra sản phẩm 208 100.00%

29.1.1. Có 208 100.00%

29.1.2. Không 0 0.00%

29.2. Làng nghề tạo ra linh hồn văn hóa 208 100.00%

29.2.1. Có 208 100.00%

29.2.2. Không 0 0.00%

29.3. Làng nghề tạo ra các giá trị chuẩn mực ứng xử 208 100.00%

29.3.1. Có 208 100.00%

29.3.2. Không 0 0.00%

29.4. Làng nghề tạo ra chuẩn mực giao tiếp 208 100.00%

29.4.1. Có 208 100.00%

29.4.2. Không 0 0.00%

29.5. Làng nghề tạo ra môi trường học tập 208 100.00%

29.5.1. Có 208 100.00%

29.5.2. Không 0 0.00%

29.6. Góp phần hạn chế di dân tự do 208 100.00%

29.6.1. Có 208 100.00%

251

29.6.2. Không 0 0.00%

29.7. Giải quyết các vấn đề xã hội tiêu cực 208 100.00%

29.7.1. Có 208 100.00%

29.7.2. Không 0 0.00%

29.8. Tạo cơ hội giao lưu văn hóa 208 100.00%

29.8.1. Có 208 100.00%

29.8.2. Không 0 0.00%

29.9. Mang lại những giá trị vật thể và phi vật thể 208 100.00%

29.9.1. Có 208 100.00%

29.9.2. Không 0 0.00%

29.10. Phản ánh lịch sử, văn hóa, xã hội của địa 208 phương 100.00%

29.10.1. Có 208 100.00%

29.10.2. Không 0 0.00%

29.11. Phản ánh mối quan hệ giữa "nghề' với 208 "nghiệp" 100.00%

29.11.1. Có 208 100.00%

29.11.2. Không 0 0.00%

29.12. Phản ánh qua các tập tục, tín ngưỡng, lễ 208 hội và nhiều quy định khác 100.00%

29.12.1. Có 208 100.00%

29.12.2. Không 0 0.00%

29.13. Nhu cầu sản phẩm thủ công 208 100.00%

29.13.1. Có 208 100.00%

29.13.2. Không 0 0.00%

29.14. Nhu cầu khám phá du lịch 208 100.00%

29.14.1. Có 208 100.00%

29.14.2. Không 0 0.00%

29.15. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 208 100.00%

252

29.15.1. Có 208 100.00%

29.15.2. Không 0 0.00%

29.16. Giải quyết việc làm, tăng thu nhập 208 100.00%

29.16.1. Có 208 100.00%

29.16.2. Không 0 0.00%

29.17. Tăng thu phập cho người lao động 208 100.00%

29.17.1. Có 208 100.00%

29.17.2. Không 0 0.00%

29.18 . Góp phần xóa đói giảm nghêo 208 100.00%

29.18.1. Có 208 100.00%

29.18.2. Không 0 0.00%

29.19. Thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông 208 thôn 100.00%

29.19.1. Có 208 100.00%

29.19.2. Không 0 0.00%

29.20. Bảo tồn và phát huy gái trị văn hóa dân tộc 208 100.00%

29.20.1. Có 208 100.00%

29.20.2. Không 0 0.00%

29.21. Đa dạng hóa thị hiếu tiêu dùng của thị trường 208 100.00%

29.21.1. Có 208 100.00%

29.21.2. Không 0 0.00%

29.22. Duy trì tâm thức của người dân với tín 208 ngưỡng thành hoàng làng, ông tổ nghề 100.00%

29.22.1. Có 208 100.00%

29.22.2. Không 0 0.00%

29.23. Phát triển các quan hệ xã hội 208 100.00%

29.23.1. Có 208 100.00%

29.23.2. Không 0 0.00%

29.24. Phát triển giáo dục cộng đồng 208 100.00%

253

29.24.1. Có 208 100.00%

29.24.2. Không 0 0.00%

29.25. Bảo vệ môi trường cảnh quan 208 100.00%

29.25.1. Có 208 100.00%

29.25.2. Không 0.00% 0

30. Đánh giá về khả năng sản xuất thủ công của

bản thân mình vào thời điểm hiện nay và trước 0

năm 1986 ở các khía cạnh sau? 0.00%

30.1. Thời điểm hiện nay 0.00% 0

30.1.1. Kinh nghiệm sản xuất 208 100.00%

30.1.1.1. Tốt 0.00% 0

30.1.1.2. Bình thường 208 100.00%

30.1.1.3. Không tốt 0.00% 0

30.1.2. Kỹ thuật sản xuất 100.00% 208

30.1.2.1. Tốt 100.00% 208

30.1.2.2. Bình thường 0.00% 0

30.1.2.3. Không tốt 0.00% 0

30.1.3. Bí quyết truyền nghề 0.00% 0

30.1.3.1. Tốt 0.00% 0

30.1.3.2. Bình thường 0.00% 0

30.1.3.3. Không tốt 0.00% 0

30.1.4. Kinh nghiệm sử dụng nguyên vật liệu 208 100.00%

30.1.4.1. Tốt 0.00% 0

30.1.4.2. Bình thường 208 100.00%

30.1.4.3. Không tốt 0.00% 0

30.1.5. Kỹ thuật chế tác của bản thân 208 100.00%

30.1.5.1. Tốt 0.00% 0

30.1.5.2. Bình thường 208 100.00%

30.1.5.3. Không tốt 0.00% 0

254

30.1.6. Khả năng sáng tạo sản phẩm 208 100.00%

30.1.6.1.. Tốt 0 0.00%

208 100.00% 30.1.6.2. Bình thường

30.1.6.3. Không tốt 0 0.00%

30.2. Trước năm 1996 0 0.00%

30.2.1. Kinh nghiệm sản xuất 208 100.00%

30.2.1.1. Tốt 208 100.00%

30.2.1.2. Bình thường 0 0.00%

30.2.1.3. Không tốt 0 0.00%

30.2.2. Kỹ thuật sản xuất 208 100.00%

30.2.2.1. Tốt 208 100.00%

30.2.2.2. Bình thường 0 0.00%

30.2.2.3. Không tốt 0 0.00%

30.2.3. Bí quyết truyền nghề 208 100.00%

30.2.3.1. Tốt 0 0.00%

30.2.3.2. Bình thường 208 100.00%

30.2.3.3. Không tốt 0 0.00%

208 100.00% 30.2.4. Kinh nghiệm sử dụng nguyên vật liệu

30.2.4.1. Tốt 208 100.00%

30.2.4.2. Bình thường 0 0.00%

30.2.4.3. Không tốt 0 0.00%

30.2.5. Kỹ thuật chế tác của bản thân 208 100.00%

30.2.5.1. Tốt 208 100.00%

30.2.5.2. Bình thường 0 0.00%

30.2.5.3. Không tốt 0 0.00%

30.2.6. Khả năng sáng tạo sản phẩm 208 115.38%

30.2.6.1. Tốt 0 0.00%

30.2.6.2. Bình thường 208 100.00%

30.2.6.3. Không tốt 0 0.00%

255

31. Ông/bà đồng ý với những giải pháp sau đối với

việc phát triển, phát huy vai trò của văn hóa làng 0

nghề truyền thống? 0.00%

31.1. Tăng cường nhận thức vai trò phát triển 208 làng nghề 100.00%

31.1.1. Có 208 100.00%

31.1.2. Không 0 0.00%

31.2. Tăng cường quản lý các hoạt động của làng nghề 208 100.00%

31.2.1. Có 208 100.00%

31.2.2. Không 0 0.00%

31.3. Hoàn thiện chính sách pháp luật đối với bảo 208 tồn, phát triển làng nghề 100.00%

31.3.1. Có 208 100.00%

31.3.2. Không 0 0.00%

31.4. Tôn vinh các giá trị văn hóa làng nghề 208 100.00%

31.4.1. Có 208 100.00%

31.4.2. Không 0 0.00%

31.5. Kết hơp yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại 208 100.00%

31.5.1. Có 208 100.00%

31.5.2. Không 0 0.00%

31.6. Đào tạo nghề, bồi dưỡng nhân tài nghệ nhân 208 100.00%

31.6.1. Có 208 100.00%

31.6.2. Không 0 0.00%

31.7. Sưu tầm tài liệu, hiện vật có giá trọ về truyền 208 thồng của các làng nghề 100.00%

31.7.1. Có 208 100.00%

31.7.2. Không 0 0.00%

31.8. Khả năng quản lý doanh nghiệp, điều hành 208 sản xuất thủ công 100.00%

256

31.8.1. Có 208 100.00%

31.8.2. Không 0 0.00%

31.9. Phát triển du lịch làng nghề 208 100.00%

31.9.1. Có 208 100.00%

31.9.2. Không 0 0.00%

31.10. Phát huy ảnh hưởng tích cực của biến đổi 208 văn hóa làng nghề 100.00%

31.10.1. Có 208 100.00%

31.10.2. Không 0 0.00%

31.11. Đầu tư quy hoạch hệ thống các làng nghề 208 100.00%

31.11.1. Có 208 100.00%

31.11.2. Không 0 0.00%

31.12. Tôn tạo hạ tầng giao thông, hệ thống điện, 208 hệ thống dịch vụ, vệ sinh đường làng 100.00%

31.12.1. Có 208 100.00%

31.12.2. Không 0 0.00%

31.13. Tổ chức khai thác các nhà đón tiếp và trưng 208 bày sản phẩm tại các làng nghề 100.00%

31.13.1. Có 208 100.00%

31.14. Đưa các sản phẩm làng nghề tham gia hội chợ

31.13.2. Không 0 0.00%

208 100.00%

31.14.1. Có 208 100.00%

31.14.2. Không 0 0.00%

31.15. Tiến hành hội thi tay nghề 208 100.00%

31.15.1. Có 208 100.00%

31.15.2. Không 0 0.00%

31.16. Tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật và nguồn vốn 208 từ các dự án quốc tế 100.00%

31.16.1. Có 208 100.00%

257

31.16.2. Không 0 0.00%

31.17. Đẩy mạnh cách thức xây dựng và quản lý 208 thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề 100.00%

31.17.1. Có 208 100.00%

31.17.2. Không 0 0.00%

31.18. Đánh giá tầm quan trọng của tục cúng tổ 208 nghề với việc tiến hành các tâm linh khác 100.00%

31.18.1. Có 208 100.00%

31.18.2. Không 0 0.00%

31.19. Quy hoạch khu công nghiệp làng nghề 208 100.00%

31.19.1. Có 208 100.00%

31.19.2. Không 0 0.00%

31.20. Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ thợ 208 thủ công mỹ nghệ có thẩm mỹ 100.00%

31.20.1. Có 208 100.00%

31.20.2. Không 0 0.00%

31.21. Nâng cao kiến thức khoa học, hiểu biết và 208 an tường về truyền thống văn hóa làng nghề 100.00%

31.21.1. Có 208 100.00%

31.21.2. Không 0 0.00%

31.22. Cần có sự vào cuộc của các cấp các ngành 208 và toàn xã hội 100.00%

31.22.1. Có 208 100.00%

31.22.2. Không 0 0.00%

258

Phụ lục 8

MỘT SỐ ẢNH TƢ LIỆU

Ảnh 1.1: Đường vào làng Phương La

CHỦ ĐỀ 1: GIỚI THIỆU LÀNG PHƢƠNG LA

259

Ảnh 1.2: Một đoạn đường làng Phương La

Ảnh 1.3: Biểu tượng làng dệt

260

Ảnh 1.4: Tượng đài liệt sỹ của làng

Ảnh 1.6: Cửa hàng tạp hóa trên trục đường chính làng Phương La

Ảnh 1.5: Một góc đường làng Phương La

261

Ảnh 1.7: Cửa hàng dịch vụ trên trục đường chính của làng

Ảnh 1.8: Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Việt Nam tại làng

262

CHỦ ĐỀ 2: NGHỀ DỆT LÀNG PHƢƠNG LA

Ảnh 2.1: Máy dệt bán công nghiệp khi chưa mắc sợi

Ảnh 2.2: Máy dệt bán công nghiệp khi đã mắc quả sợi

263

Ảnh 2.3: Mặt trước của máy dệt công nghiệp

Ảnh 2.4: Công đoạn in hoa thủ công cho sản phẩm

264

Ảnh 2.5: Kiểm tra, đóng gói sản phẩm

Ảnh 2.6: Kiểm tra, đóng gói sản phẩm

265

Ảnh 2.7: Tập kết thứ phẩm tại vườn

Ảnh 2.8: Tập kết nguyên liệu dệt tại sân

266

Ảnh 2.7: Tập kết sản phẩm dệt tại kho

Ảnh 2.8: Tập kết sản phẩm dệt tại kho

267

Ảnh 2.9: Nơi xuất nguyên liệu tại làng

Ảnh 2.11: Khăn mặt có in màu của sản xuất hộ gia đình

268

Ảnh 2.12: Khăn mặt có in màu của sản xuất công ty

Ảnh 2.13: Vận chuyển sợi bằng xe “lôi”

269

Ảnh 2.14: Vận chuyển sản phẩm đi tiêu thụ

Ảnh 2.15: Xe của công ty gia đình vận chuyển sản phẩm đi tiêu thụ

270

CHỦ ĐỀ 3: MỘT SỐ DOANH NGHIỆP TẠI LÀNG

Ảnh 3.1: Công ty TNHH dệt may xuất khẩu Nam Thành

Ảnh 3.1: Công ty TNHH dệt may xuất khẩu Thảo Nguyên

271

Ảnh 3.3: Công ty TNHH dệt may xuất khẩu Phúc Vĩnh

Ảnh 3.4: Công ty TNHH dệt may xuất khẩu Thành Bắc

272

Ảnh 3.5: Công ty TNHH dệt Tân Phương

Ảnh 3.6: Công ty TNHH dệt may Phương Tiến

273

CHỦ ĐỀ 4: CÁC DI TÍCH THỜ CÚNG

Ảnh 4.1: Đình Phương La (đình Đông)

Ảnh 4.2: Cổng đình Phương La (đình Đông)

274

Ảnh 4.3: Bia đình Phương La

Ảnh 4.4: Đền Sơn Du

275

Ảnh 4.3: Chuông chùa Mẹo

Ảnh 4.4: Bài Minh khắc trên chuông chùa Mẹo

276

Ảnh 4.5: Bia công đức kiến thiết đền Sơn Du

277

Ảnh 4.6: Bia công đức tôn tạo chủa Phương La (chùa Mẹo)

278

Ảnh 4.7: Bia công đức xây dựng Nhà tổ chùa Phương La (chùa Mẹo)

279

Ảnh 4.8: Bia công đức xây dựng Đền mẫu Phương La

280

Ảnh 4.9: Cổng nhà thờ dòng họ Đinh

Ảnh 4.10 : Một góc trái nhà thờ dòng họ Đinh

281

Ảnh 4.11 : Nhà thờ dòng họ Trần ở Phương La (nhìn từ phía chợ vào)

Ảnh 4.12 : Nhà thờ dòng họ Trần ở Phương La (nhìn từ xa)

282

Ảnh 4.13: Cổng nhà thờ họ Lê

Ảnh 4.14 : Nhà thờ họ Đỗ

283

CHỦ ĐỀ 5 : Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG LÀNG NGHỀ

Ảnh 5.1 : Ô nhiễm môi trường nước ở làng dệt Phương La

284

Ảnh 5.2 : Ô nhiễm không khí do bụi của bông, vải, sợi

285

CHỦ ĐỀ 6 : CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁC CỦA NGƢỜI PHƢƠNG LA

Ảnh 6.1. Tranh thủ giờ giải lao, người thợ đi mua sắm

286

Ảnh 6.2: Tranh thủ giờ giải lao, người thợ đi mua sắm

287

Ảnh 6.3: Hoạt động buôn bán tại chợ làng Phương La

288

Ảnh 6.4: Tranh thủ nghỉ giải lao của thợ thủ công