BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI ********
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA (HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI, 2016
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI ******** BÙI THỊ DUNG
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA (HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH) Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62310640
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Xuân Đính
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tác giả.
Các kết quả nghiên cứu và các kết luận trong Luận án này là trung thực,
không sao chép từ bất kỳ một nguồn nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Việc
tham khảo các nguồn tài liệu đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu
tham khảo theo đúng quy định.
Hà Nội, ngày 26 tháng 02 năm 2016
Tác giả luận án
Bùi Thị Dung
1
MỤC LỤC
Trang DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
2
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
3
DANH MỤC CÁC HỘP
4
MỞ ĐẦU
5
19
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ TỔNG QUAN VỀ LÀNG DỆT PHƢƠNG LA
1.1. Những vấn đề lý luận chung 19
1.2. Tổng quan về làng dệt Phương La 31
Tiểu kết 51
53 Chƣơng 2: NGHỀ DỆT VÀ VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA LÀNG PHƢƠNG LA HIỆN NAY
2.1. Nghề dệt của làng Phương La hiện nay 53
2.2. Văn hóa vật chất của làng dệt Phương La hiện nay 70
Tiểu kết 78
80 Chƣơng 3: VĂN HÓA XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA TINH THẦN CỦA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA HIỆN NAY
3.1. Văn hóa xã hội của làng dệt Phương La hiện nay 80
3.2. Văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La hiện nay 100
Tiểu kết 118
120
Chƣơng 4: NHỮNG VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA
4.1. Những tác động của sự biến đổi văn hóa làng dệt Phương La đến kinh tế - xã hội và văn hóa của làng
4.2. Dự báo xu hướng văn hóa làng dệt Phương La trong thời gian tới
120
4.3. Đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa làng dệt Phương La
126
Tiểu kết
130
143
KẾT LUẬN
144
TÀI LIỆU THAM KHẢO
147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
157
PHỤ LỤC
158
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH - HĐH: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
HTX: Hợp tác xã
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TTCN: Tiểu thủ công nghiệp
UBND: Ủy ban nhân dân
VHTT: Văn hóa thông tin
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
NCS: Nghiên cứu sinh
ĐSVHCS: Đời sống văn hóa cơ sở
3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
1 Bảng 1.1: Các loại đất đai của làng Phương La năm 2012 31
2 Bảng 1.2: Số hộ, số khẩu của làng Phương La năm 2012 32
3 Bảng 1.3: Các lễ tiết chính trong năm của làng Phương La xưa 50
4 Bảng 2.1: Các giai đoạn biến đổi của nghề dệt làng Phương La 54
5 Mô hình 2.2: Mô hình sản xuất theo hộ gia đình 59
6 Mô hình 2.3: Mô hình sản xuất theo công ty, xí nghiệp 61
7 Bảng 2.4: Nhóm đối tượng được gia đình truyền nghề 69
8 Bảng 2.5: Đánh giá về một số khía cạnh của làng nghề hiện nay 70
so với trước năm 1996
9 Bảng 2.6: Đánh giá về mức độ sạch đẹp của cảnh quan làng 71
nghề hiện nay so với trước 1996
10 Bảng 2.7: Đánh giá về hạ tầng làng nghề hiện nay so với trước 72
năm 1996
11 Bảng 2.8: Sơ đồ các cửa hàng dịch vụ trên một đoạn trục 73
đường chính gần chợ Mẹo
12 Bảng 3.1: Đánh giá việc duy trì hoạt động dòng họ 94
13 Bảng 3.2: Số người đến dệt thuê ở Phương La, theo các năm 99
14 Bảng 3.3: Đánh giá mức độ coi trọng vấn đề tâm linh của người 103
dân hiện nay so với trước năm 1996
15 Bảng 3.4: Việc thực hành các tiết chính trong tang ma của 114
người Phương La
16 Bảng 3.5: Đánh giá việc tham gia lễ hội của người Phương La 116
hiện nay so với trước năm 1996
17 Bảng 4.1: Những tác động của sự biến đổi 121
văn hóa làng Phương La
18 Bảng 4.2: Đánh giá về tình trạng ô nhiễm môi trường ở Phương 123
La
4
DANH MỤC CÁC HỘP
Trang
Hộp 2.1: Ý kiến về nguyên liệu đầu vào của công ty, doanh 55 1
nghiệp
2 Hộp 2.2: Ý kiến về nguyên liệu đầu vào của các hộ sản xuất nhỏ 56
3 Hộp 3.1: Sự hình thành chủ doanh nghiệp ở Phương La 80
Hộp 3.2: Đóng góp của các doanh nghiệp xây dựng các công trình 88 4
phúc lợi
5 Hộp 3.3: Quan hệ giữa chủ - thợ 91
6 Hộp 3.4: Nhận thức về vị trí, trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp 98
7 Hộp 3.5: Biểu hiện tính cần cù, kiên nhẫn của người Phương La 104
8 Hộp 3.6: Vấn đề ăn uống trong đám tang 113
9 Hộp 3.7: Việc tham gia lễ hội Đình Đông của người Phương La 117
5
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vùng châu thổ Bắc Bộ từ xưa đã hình thành nhiều loại hình làng, tùy thuộc
vào cách phân chia dựa vào các tiêu chí về điều kiện tự nhiên, kinh tế, lịch sử lập làng
v.v. Nếu phân theo cơ sở kinh tế (hay nghề nghiệp), bên cạnh số đông các làng nông
nghiệp, còn có làng nghề, làng buôn bán v.v. Trên khuôn mẫu chung của làng nông
nghiệp, mỗi loại hình làng lại có sắc thái riêng do đặc thù nghề nghiệp quy định. Đối
với làng nghề, nét khác biệt rõ nhất thể hiện ở việc người thợ thủ công tuy chưa hoàn
toàn tách khỏi sản xuất nông nghiệp, song đã có những tố chất “làm nền” cho việc
hình thành người công nhân công nghiệp, các chủ doanh nghiệp sau này.
Làng nghề tạo ra giá trị kinh tế lớn và ổn định hơn so với các loại hình làng
khác, bảo đảm công ăn việc làm cho dân làng, thu hút nhiều lao động dư thừa từ các
làng quê khác. Đây là một trong những nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, hình
thành các thị tứ, góp phần đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa nông thôn. Thu nhập của
người làng nghề cao nên có điều kiện để xây dựng, tu bổ các công trình thờ cúng
(đình, chùa, đền, miếu...) và tổ chức các hoạt động tín ngưỡng, lễ hội. Sản phẩm của
làng nghề làm ra mang tâm hồn, cốt cách, sự khéo léo của đôi bàn tay người thợ, nên
mỗi sản phẩm là một tác phẩm riêng, độc đáo. Người làng nghề có bí quyết, công
thức nghề riêng, vì vậy, việc giữ bí quyết nghề hết sức nghiêm ngặt. Quan hệ xã hội
của người làng nghề cũng mở rộng hơn do người thợ đi khắp nơi làm ăn và cũng có
nhiều người từ nơi khác đến làm thuê, trao đổi nguyên vật liệu và sản phẩm; tạo ra
những khác biệt về nếp nghĩ, tầm nhìn, quan niệm về các giá trị của làng xã. Đặc
điềm nghề nghiệp cũng quy định cường độ và nhịp độ lao động, nhịp sống của cư dân
làng nghề, có nhiều khác biệt so với làng nông nghiệp.
Tất cả các khía cạnh trên hợp thành một “văn hóa làng nghề” với những nét
khác biệt dễ nhận thấy, trong khung chung của “văn hóa làng”. Nghiên cứu văn hoá
làng nghề không chỉ góp phần vào việc nghiên cứu làng Việt, đặc điểm kinh tế - xã
hội truyền thống mà còn tìm ra những dáng nét văn hoá khác biệt của người Việt thể
hiện qua các mặt đời sống, của nghề.
Công cuộc Đổi mới, đặc biệt là việc đẩy mạnh sự nghiệp CNH- HĐH tạo cho
các làng nghề những cơ hội để phát triển, văn hóa làng nghề cũng có những thay đổi
sâu sắc. Song, làng nghề và văn hóa làng nghề cũng phải đối mặt với những thử thách
khắc nghiệt của kinh tế thị trường, ảnh hưởng đến tổ chức làm nghề, tiêu thụ sản phẩm;
với vấn đề môi trường; cơ cấu dân cư, sự phân tầng xã hội, các quan hệ xã hội trong và
ngoài làng, nhịp sống, nếp sống, phong tục tập quán và tôn giáo tín ngưỡng. Đến lượt
chúng, các yếu tố trên lại tác động đến sự phát triển của nghề và làng nghề.
Những biến đổi văn hóa làng nghề diễn ra khác nhau ở từng làng, phụ thuộc
vào nhiều yếu tố. Ngoài các yếu tố chung là sự phát triển kinh tế- xã hội dưới tác
động của các chủ trương, chính sách của Nhà nước, còn có yếu tố riêng, như đặc
điểm nghề, sự năng động của cộng đồng cư dân, hay truyền thống lịch sử văn hóa
của địa phương… cần được nghiên cứu.
Thái Bình nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, có nhiều nghề thủ công hình
thành và phát triển ở tất cả các huyện; trong đó, Hưng Hà là điển hình của một
huyện đa nghề, với những làng nghề nổi tiếng bởi các sản phẩm đặc trưng, được
“dân biết mặt, nước biết tên”, như làng dệt chiếu Hới, làng dệt vải Phương La v.v.
Các làng này được giới thiệu trong một số công trình chủ yếu, nêu những nét lớn về
lịch sử làng nghề trong quá khứ, ít nghiên cứu về phương diện Văn hóa học, nhất là
không đề cập đến sự biến đổi văn hóa truyền thống trong điều kiện kinh tế - xã hội
hiện nay; khi coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, hay văn
hóa là một trong bốn trục của phát triển bền vững (ba trục khác là tăng trưởng kinh
tế, ổn định chính trị - xã hội và giữ gìn tài nguyên - môi trường).
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về làng nghề, văn hóa làng
nghề và biến đổi văn hóa làng nghề ở nhiều chiều cạnh khác nhau, nhưng chưa có
công trình nào nghiên cứu về Biến đổi văn hóa làng dệt Phương La (huyện Hưng
Hà, tỉnh Thái Bình). Vì vậy, việc nghiên cứu, giải quyết đề tài này sẽ góp phần tìm
hiểu về thực trạng biến đổi văn hóa làng nghề, xu hướng văn hóa làng nghề Phương
La trong thời gian tới và từ đó đưa ra giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
làng Phương La trong giai đoạn CNH - HĐH đất nước.
6
7
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1. Những công trình nghiên cứu về làng nghề, văn hóa làng nghề của
ngƣời Việt ở Bắc Bộ
- Các nghiên cứu chung về làng nghề, văn hoá làng nghề ở Bắc Bộ trong
nghiên cứu chung về làng xã người Việt
Điểm nổi bật của việc nghiên cứu nghề thủ công và làng nghề từ trước đến
nay là được đặt trong khung cảnh nghiên cứu về làng Việt nói chung, dưới nhiều
góc độ khác nhau; do nghề thủ công là bộ phận gắn chặt với nông nghiệp, các làng
nghề có mối quan hệ chặt chẽ với các làng nông nghiệp. Đến nay, đã có một khối
lượng lớn các công trình được công bố. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu.
Người nông dân châu thổ Bắc kỳ của Nhà Địa lý học Pháp Pièrre Gourou, từ
cách tiếp cận địa lý nhân văn chỉ ra những nét chung về các mặt đời sống của người
nông dân Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tác
giả đã khảo tả rất chi tiết địa hình châu thổ Bắc Kỳ, về dân cư trong sự vận động,
dịch chuyển và quần tụ - đặc điểm điển hình tạo nên làng của vùng châu thổ Bắc
Bộ. Tác giả nghiên cứu sâu về văn hóa mưu sinh của các làng và luôn đặt các vấn
đề nghiên cứu trong sự vận động biến đổi và linh hoạt. Trong Chương 2, P. Gourou
đưa ra con số 108 nghề thủ công (phân theo nhóm nghề) được gọi là “ công
nghiệp làng xã”, gồm các nghề dệt, đan lát, gỗ và các nghề khác. Công nghiệp dệt
gồm dệt bông, tơ tằm, những ngành lụa thô, tơ đũi, the, đan lưới, võng.., có 242
làng nghề [39].
Công trình Sơ khảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam của tác giả
Phan Gia Bền [11] được coi là chuyên khảo lớn nhất về nghề thủ công. Thông qua
cuốn sách, tác giả đã giới thiệu sơ lược lịch sử phát triển của thủ công nghiệp Việt
Nam, tìm hiểu những nét lớn về tình hình phát triển của nghề thủ công qua các thời
kỳ, tìm hiểu về mầm mống tư bản chủ nghĩa trong thủ công nghiệp Việt Nam, tác
dụng của chủ nghĩa tư bản phát triển đối với thủ công nghiệp Việt Nam. Tác giả còn
đúc kết 6 đặc điểm của thủ công nghiệp Việt Nam và tình hình phát triển của một số
nghề thủ công tiêu biểu. Tác giả đã đưa ra những định nghĩa về thủ công nghiệp, về
thợ thủ công ... mà cho đến bây giờ những định nghĩa ấy vẫn được các nhà nghiên
cứu sử dụng, làm tiền đề cho các nghiên cứu của mình.
Bộ sách hai tập Nông thôn Việt Nam trong lịch sử [115], trong tập đầu xuất
bản năm 1977 đã có hai bài viết về nghề thủ công và làng nghề. Mặc dù đây mới chỉ
là khảo sát tổng quát về sự phân bố các nghề và làng nghề của Việt Nam trong quá
trình lịch sử, tuy chưa khảo sát chi tiết nhưng tác phẩm đã rất quan tâm đề cập tới
nghề và làng nghề thủ công. Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại [116] do
Viện Sử học biên soạn. Các bài viết của Phạm Văn Kính, Nguyễn Khắc Tụng và
Bùi Xuân Đính phân tích những nét cơ bản về thủ công nghiệp trong đời sống kinh
tế của người nông dân thời phong kiến và thời Pháp thuộc.
Làng Việt Nam, mấy vấn đề kinh tế - xã hội và văn hóa của Phan Đại Doãn
[25] là công trình nghiên cứu tổng thể về làng Việt dưới góc độ Sử học. Tác giả chỉ rõ
một số đặc điểm cơ bản của nền kinh tế, sản xuất tiểu nông, thủ công nghiệp kết hợp
chặt chẽ với nông nghiệp, các nghề thủ công tồn tại và phát triển phụ thuộc chặt vào
kinh tế hộ gia đình người nông dân. Tác phẩm còn chỉ rõ vấn đề ruộng công, ruộng tư
và mối quan hệ giữa nông thôn với thành thị giúp NCS hiểu rõ hơn về sự tác động
qua lại giữa nông thôn và thành thị giai đoạn những năm cuối của thế kỷ XX.
Ngoài ra, còn nhiều công trình khảo sát những nét tiêu biểu về nghề thủ công
truyền thống, như: Văn hóa truyền thống làng Đồng Kỵ do Lê Hồng Lý chủ biên,
nghiên cứu làng Đồng Kỵ (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) [79]; Ninh Hiệp truyền
thống và phát triển của nhóm tác giả do Tô Duy Hợp chủ biên nghiên cứu về làng-
xã Ninh Hiệp (huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội) [55]…
- Các nghiên cứu về làng nghề, văn hóa làng nghề của người Việt ở Bắc Bộ
Thứ nhất, ngoài những ghi chép trong các bộ chính sử, nghề và làng nghề
được đề cập đến đầu tiên trong các cuốn địa chí, thông qua mục ghi “sản vật”, như
Dư địa chí của Nguyễn Trãi [107] là tác phẩm ghi chép sớm nhất về các nghề thủ
công ở Việt Nam, ở tác phẩm này Nguyến Trãi đã đề cập tới nghề dệt lụa ở Hà
8
Đông. Công trình Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn [87] hay
các cuốn địa phương chí là nguồn tài liệu ghi chép về các nghề thủ công và làng
nghề khá phong phú, song chủ yếu nêu sản vật của các nghề thủ công gắn với làng
nghề ở mỗi địa phương, không miêu tả quy trình làm nghề.
Thứ hai là các công trình nghiên cứu về lịch sử các ngành nghề, chủ yếu đề
cập đến nguồn gốc nghề thông qua các vị tổ nghề, tiêu biểu là các cuốn sách Nghề
thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề của Trần Quốc Vượng [121],
Truyện các ngành nghề của nhóm tác giả Tạ Phong Châu [16] v.v. Nghề cổ đất Việt
(khảo cứu) của Vũ Từ Trang [106] điểm tới 21 nghề cổ truyền như: nghề gốm,
nghề rèn, đúc đồng, chạm vàn bạc, làm cày bừa, làm nón, dệt chiếu, nghề trồng dâu,
nuôi tằm ...
Thứ ba là các công trình khảo tả về nghề gắn với làng nghề và vùng nghề
khác nhau, tiêu biểu là Nghề cổ truyền của Tăng Bá Hoành [52], Quê gốm Bát
Tràng của Đỗ Thị Hảo [43], Gốm Bát Tràng thế kỷ XV- XIX do Phan Huy Lê chủ
biên [71], Làng tranh Đông Hồ của Nguyễn Thái Lai [70]. Các cuốn sách này dùng
phương pháp miêu tả Dân tộc học để đưa ra các tư liệu, từ đó nêu những nét lớn của
một nghề, từ nguồn gốc nghề (tổ nghề), nguồn nguyên liệu, công cụ làm nghề, quy
trình kỹ thuật làm nghề, tổ chức sản xuất đến các loại hình và đặc trưng sản phẩm,
phương thức tiêu thụ sản phẩm, thu nhập của người làm nghề và tâm lý làng nghề.
Viện Nghiên cứu Văn hóa đã tập hợp các công trình viết về nghề và làng nghề
thành bộ Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam (gồm 6 tập). Công
trình đồ sộ này đã tổng tập các công trình viết về nghề và làng nghề; gồm giới thiệu
làng nghề (nguồn gốc, tổ nghề, lịch sử hình thành và phát triển, thực trạng sản xuất
...), khảo sát và nghiên cứu về nghề (kỹ thuật, kỹ xảo, quy trình công nghệ, dụng cụ
hành nghề, bí quyết nghề ...), sản phẩm nghề (kiểu cách, mẫu mã, nghệ thuật tạo
hình và trang trí ...), hoạt động sản xuất (phương thức hành nghề, truyền nghề, thị
trường, kinh tế làng nghề, du lịch làng nghề và văn hóa nghề nghiệp...). Tập một,
nhóm tác giả đề cập về nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam bao gồm những
vấn đề lý luận chung về nghề và làng nghề truyền thống, giới thiệu tổ nghề và nghệ
9
nhân dân gian, các vùng nghề, địa danh và địa chí làng nghề. Đặc biệt, nhóm tác giả
dành hẳn chương 5 để bàn về sự biến đổi làng nghề trong bối cảnh hiện nay. Tóm
lại, bộ Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam giúp chúng ta có một cái
nhìn tương đối tổng quan về các công trình nghiên cứu về nghề và làng nghề truyền
thống Việt Nam của các tác giả trong và ngoài nước. Thông qua Tuyển tập, chúng
ta có cái nhìn khái quát về nghề, làng nghề; những vấn đề lý luận chung đến nguồn
gốc hình thành nghề, tổ nghề, quy trình sản xuất, sự biến đổi của nghề, làng nghề
trong giai đôạn hiện nay...
Nghề và làng nghề cũng là đề tài hấp dẫn cho nhiều luận án tiến sĩ của các
chuyên ngành Dân tộc học, Văn hóa dân gian và Văn hóa học trong khoảng hơn 20
năm trở lại đây, như Biến đổi làng nghề thủ công truyền thống Triều Khúc, xã Tân
Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội [125], Làng nghề sơn quang Cát Đằng
[60], Sự biến đổi văn hóa làng nghề ở châu thổ sông Hồng từ năm 1986 đến nay
[108], hay các luận văn thạc sĩ như Làng thêu Quất Động [88]; Gốm sành nâu ở
Phù Lãng [41]; Làng Cọi Khê: Truyền thống và đổi mới [51] v.v. Các luận án, luận
văn này khảo tả tương đối kỹ lưỡng các nội dung liên quan đến nghề, chỉ ra được
những đặc điểm của làng nghề về các mặt: cấu trúc làng xóm, di tích thờ cúng, các
phong tục, tín ngưỡng, hội hè...
Bên cạnh đó, còn có một khối lượng lớn các bài đăng trên tạp chí, giới thiệu
tổng thể hay từng mặt một nghề, hoặc làng nghề của các địa phương.
Nhìn chung, các tác phẩm nói trên đã phản ánh nhiều khía cạnh về nghề, làng
nghề như sản vật của các nghề thủ công, lịch sử ngành nghề, khảo tả nghề, những
đặc điểm của làng nghề về cấu trúc làng xóm, di tích thờ cúng. Tuy nhiên, các tác
phẩm này đề cập đến khía cạnh văn hóa làng nghề còn ít, chưa nghiên cứu tổng thể
các thành tố góp phần tạo nên văn hóa làng nghề.
10
2.2. Những công trình nghiên cứu về biến đổi làng nghề, văn hoá làng nghề
Công trình Làng nghề, phố nghề, Thăng Long - Hà Nội của Trần Quốc
Vượng và Đỗ Thị Hảo [123] là công trình đầu tiên bàn về biến đổi làng nghề, văn
hóa làng nghề. Sau khi đưa ra định nghĩa về làng thủ công, đặt vị trí làng nghề trong
diễn trình lịch sử văn hóa Việt Nam, các tác giả nêu một số quan điểm phát triển
làng nghề: Mô hình sản xuất hộ gia đình vẫn hiệu quả nhất vì nó không bị phụ thuộc
vào vốn. Tuy nhiên theo các tác giả, trong nền kinh tế thị trường, nghề và làng nghề
đang đứng trước những khó khăn thách thức. Vấn đề đầu ra của sản phẩm nghề thủ
công, vấn đề môi trường ... phải được quan tâm. Các tác giả cũng cho rằng, để nghề
và làng nghề phát triển cần có hệ thống chính sách, cơ chế phù hợp và là vấn đề cấp
bách cần phải làm ngay.
Công trình “Làng nghề phố nghề Thăng Long - Hà Nội trên đường phát
triển” của nhóm tác giả Vũ Quốc Tuấn [104], sau khi đưa ra phác thảo về làng nghề
phố nghề trong lịch sử, đề cập đến thực trạng của làng nghề phố nghề hiện nay;
đồng thời, nhóm tác giả đã chỉ ra hướng phát triển và các giải pháp để phát triển
làng nghề.
Ngoài ra, công trình Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá [53]; Làng nghề truyền thống trong quá trình công
nghiệp hoá và hiện đại hoá [124]; Làng nghề Việt Nam và môi trường phản ánh về
các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển các làng nghề, tiềm năng và sự vận động
của nó trong nền kinh tế thị trường, hướng bảo tồn và phát triển làng nghề truyền
thống [18].
Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ bảo vệ trong 20 năm trở lại đây và các
bài báo (đã nêu ở trên), sau phần giới thiệu về đặc điểm của nghề truyền thống đã
đưa ra một số tư liệu cùng nhận xét về sự thay đổi của nghề dưới tác động của các
điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại.
Dưới góc độ Dân tộc học/Nhân học, trong vài năm qua, nhiều công trình bàn
sâu về biến đổi của làng nghề truyền thống từ sau hòa bình lập lại đến nay, nhất là
dưới tác động của quá trình CNH – HĐH.
- Sự phát triển của làng nghề La Phù do Tạ Long chủ biên, nghiên cứu
trường hợp về sự thay đổi của một làng nghề qua các thời kỳ trước đây và hiện nay,
11
nổi bật là việc hình thành các công ty và những đóng góp của làng nghề này vào
ngân sách Nhà nước, nghề phát triển có liên quan đến các tổ chức quan phương (hệ
thống chính trị, chính sách) và phi quan phương (xóm, ngõ, dòng họ); đồng thời,
các tác giả cũng đã đưa ra những khó khăn cần phải giải quyết của làng nghề La phù
trong giai đoạn hiện nay [76].
- Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội) - truyền thống và biến đổi
do Bùi Xuân Đính chủ biên, nghiên cứu về biến đổi của nghề, làng nghề thủ công
huyện Thanh Oai. Công trình đề cập đến những đặc điểm của làng nghề (không
gian kiến trúc, cơ cấu tổ chức làng xã, di tích lịch sử văn hóa…). Các tác giả dành
Chương 3 để bàn hướng đi lên của làng nghề thủ công của huyện trong bối cảnh
CNH- HĐH [31].
Trong suốt thời gian qua, đã có một khối lượng lớn các công trình nghiên
cứu về nghề, làng nghề thủ công; sự biến đổi kinh tế - xã hội, biến đổi văn hóa và
cuộc sống của người nông dân ở ở các làng quê Việt Nam nói chung với nhiều cách
tiếp cận khác nhau. Các tác giả đã đều đồng thuận chỉ ra rằng sự biến đổi ở các khu
vực nông thôn, nông nghiệp là một tất yếu hiện nay. Trong quá trình biến đổi đó,
những đặc trưng cơ bản của làng cũng như những đặc tính nổi bật của người nông
dân được thể hiện vẫn rất đậm nét. Trong quá trình biến đổi ấy chính là cầu nối giữa
nông thôn và đô thị, làng vẫn giữ tính tự trị tương đối của nó nhưng đã rất cởi mở
và linh hoạt, ở đó có những sự tái cấu trúc từ không gian, cảnh quan làng cho đến
kinh tế, văn hóa và xã hội. Người nông dân ở các làng không thụ động và phụ thuộc
như trước kia mà họ thực dụng hơn, có khả năng làm xoay chuyển tình huống theo
hướng có lợi. Và như vậy, cuộc sống của người dân ổn định và phát triển hơn.
Nghiên cứu sự biến đổi làng nghề, văn hóa làng nghề nói riêng đã có nhiều tác
giả đề cập tới. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu tiếp cận dưới góc độ Sử học
(nghiên cứu về lịch sử nghề và làng nghề), Văn hóa Dân gian, Dân tộc học/ Nhân học
(đi sâu nghiên cứu quy trình sản xuất, các loại hình sản phẩm). Các công trình nghiên
cứu dưới góc độ Văn hóa học, xem xét các yếu tố văn hóa, các giá trị văn hóa của sản
12
phẩm nghề, của nghề và làng nghề; những biến đổi về các giá trị truyền thống trong
bối cảnh hiện nay chưa nhiều. Các công trình đó còn nặng về nghiên cứu truyền
thống, ít nghiên cứu những vấn đề của nghề, làng nghề và văn hóa làng nghề trong
cuộc sống đương đại. Còn ít các nghiên cứu điểm (case stady) để thấy được tính đa
dạng, điểm chung và nét riêng của văn hóa làng nghề và biến đổi của làng nghề.
13
2.3. Tổng quan các nghiên cứu về làng nghề Phƣơng La
Có thể chia các nghiên cứu về làng nghề Phương La từ trước đến nay thành
các nhóm sau:
- Nhóm công trình nghiên cứu về lịch sử - văn hóa Thái Bình, trong đó có đề
cập đến làng Phương La
Các tác phẩm Chú thích về tỉnh Thái Bình [65]; Nhận diện văn hóa làng ở
Thái Bình [97]; Lễ hội truyền thống ở Thái Bình [98]; Địa danh Thái Bình trong
lịch sử [99]; Tên làng xã Thái Bình [103]… đề cập giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể
một số làng ở Thái Bình, trong đó có làng Phương La.
Tác phẩm Ngàn năm đất và người Thái Bình đề cập đến làng nghề Phương
La ở khía cạnh nghề, vai trò của nghề trong phát triển kinh tế [89].
Trong công trình Địa chí Thái Bình nói về các làng nghề ở Thái Bình, về sản
phẩm của làng nghề, nêu rõ nghề dệt vải lụa, số lượng thợ thủ công, số khung cửi
dùng để dệt, giá sản phẩm: “… Thái Bình có khoảng 750 thợ dệt các loại: sồi, đũi,
lụa, là, nái, sa… tập trung ở các làng Bộ La (Vũ Thư), Nam Lỗ (Tiên Hưng), Vân
Tràng (Thụy Anh), Phương La (Hưng Nhân); Quận Hành, Động Trung, Đông Nhuế,
Niên Hạ (Kiến Xương)… " [100].
- Nhóm công trình nghiên cứu về nghề thủ công ở Thái Bình, trong đó có
nghề dệt làng Phương La
Sách Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí và Đại Nam nhất thống chí nói về
nghề thủ công ở Thái Bình, trong đó ghi chép huyện Vũ Tiên có làng Bộ La dệt lụa,
ở làng Mẹo phủ Tiên Hưng có nghề dệt lụa, nái..." [35, 87].
Sách Tiên Hưng phủ chí ghi chép về phủ Tiên Hưng viết năm 1928 của Đốc
học phủ Tiên Hưng Phạm Nguyên Hợp (lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
A.3167) ở phần “công nghệ” (nghề thủ công) có ghi: “Dân các xã Phương La, Trác
Dương (xã Thái Phương), Yên Nghiệp (Minh Tân) huyện Hưng Nhân (Hưng Hà)
thường đi mua kén tằm đem về kéo thành sợi, chia ra làm mấy loại. Loại sợi tơ mảnh
đem dệt thành lụa gọi là lục sồi, loại sợi tơ hơi thô dệt ra thành lụa nái, rồi đem đi bán
ở chợ các nơi" [58]. Sách Tiên Hưng phủ chí còn cho biết: “Người xã Nguyên Xá,
huyện Thần Khê kéo kén thành tơ phiếu (ngâm, phơi khô để tơ mất đi màu vàng, ngả
sang màu trắng lụa), cho tơ trắng ra, cuộn vào guồng xe cho săn sợi rồi mới dệt. Lụa
dệt ra màu trắng có hoa văn rất đẹp. Nghề này có từ thời Lê Cảnh Hưng”.
Tài liệu Chú thích về tỉnh Thái Bình (“Notice sur la Province de Thái Bình”),
ký hiệu M.10372 (Thư viện Quốc gia) cho biết, các huyện trong tỉnh Thái Bình có
trồng dâu (trước năm 1945) “Dâu, tằm: theo thống kê toàn bộ về các bãi dâu tiến
hành năm 1931 - 1932, diện tích trồng dâu tằm lên tới 1.830 mẫu (dâu trồng ở vườn
và dâu trồng ở các bãi cát). Diện tích trồng dâu phân bổ ở 10 phủ, huyện trong tỉnh,
diện tích trồng dâu ở Duyên Hà (286 mẫu) và Hưng Nhân (50 mẫu), hai huyện nay
nhập thành Hưng Hà, có diện tích trồng lớn nhất tỉnh” [65].
Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Hưng Hà, đầu thế kỷ XX thợ dệt Phương La và
làng Tống Lạp rất nổi tiếng. Thợ ở hai làng dệt này từng có sản phẩm bày bán tại
Hội chợ triển lãm kinh tế Pháp - Việt ở nhà Đấu Xảo - Hà Nội [7].
- Nhóm đề tài, bài báo bàn luận, nghiên cứu trực tiếp về Phương La
+ Đầu tiên, phải kể đến Kỷ yếu hội thảo khoa học Hoằng Nghị Đại Vương và
việc bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử - văn hóa Phương La do UBND tỉnh Thái Bình
và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức, viết về làng Phương La dưới góc độ Sử học
nhằm phục vụ mục đích chính là làm sáng rõ thân thế, sự nghiệp của Hoằng Nghị Đại
Vương, khẳng định vai trò của dòng họ Trần ở Phương La. Do vậy, tập Kỷ yếu này
chưa đề cập tới làng nghề một cách toàn diện, chưa quan tâm tới văn hóa truyền thống,
biến đổi văn hóa làng nghề trong giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH [111].
14
+ Đề tài cấp ngành Một số giá trị văn hóa của các nghề thủ công truyền
thống ở Thái Bình của tác giả Nguyễn Ngọc Phát, tại chương II, giới thiệu sơ bộ về
quy trình sản xuất, sản phẩm, một số giá trị di tích của làng Phương La, chưa đề cập
tới văn hóa truyền thống của làng nghề một cách đầy đủ, không bàn đến sự biến đổi
văn hóa trong điều kiện CNH - HĐH đất nước [91].
+ Ngoài ra còn có một số bài báo nói về nghề, làng nghề Phương La dưới các
góc độ khác nhau.
Nhìn chung, các tác phẩm nói trên chỉ đề cập đến một khía cạnh cụ thể của
nghề, làng nghề Phương La: nguồn gốc làng xã, các dòng họ, kinh tế, giá trị các văn
bia, di tích, một phần về nghề (quy trình sản xuất, sản phẩm) mà chưa nghiên cứu
về văn hóa làng nghề; những vấn đề nổi bật của văn hóa làng nghề một cách hệ
thống, đặc biệt dưới tác động của CNH - HĐH. Tuy vậy, các nghiên trên là cơ sở,
sự gợi mở cho hướng tiếp cận của tác giả khi nghiên cứu về biến đổi văn hóa làng
Phương La.
15
3. MỤC ĐÍCH, VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
3.1. Mục đích nghiên cứu của Luận án
Thông qua việc khảo sát, phân tích thực trạng biến đổi văn hóa làng nghề dệt
Phương La; Luận án dự báo xu hướng văn hóa làng nghề dệt Phương La thời gian
tới, từ đó đưa ra những giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa làng nghề dệt
Phương La trong điều kiện CNH - HĐH, giúp làng Phương La và các làng nghề ở
Thái Bình phát triển bền vững.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận án sẽ phải giải quyết
những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa lý luận về biến đổi văn hóa, biến đổi văn hóa làng nghề và
một số khái niệm cơ bản có liên quan đến luận án, làm cơ sở lý luận chung cho toàn
bộ đề tài;
- Giới thiệu tổng quan về làng dệt Phương La, nghề dệt và văn hóa làng
Phương La trong xã hội truyền thống ;
- Khảo sát, phân tích thực trạng biến đổi văn hóa làng dệt Phương La;
- Dự báo xu hướng của văn hóa làng nghề dệt Phương La những năm tiếp
theo, đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của làng nghề dệt Phương
La trong điều kiện CNH - HĐH.
16
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu của Luận án
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là các khía cạnh liên quan đến biến đổi
văn hóa làng nghề dệt Phương La (thực trạng và xu hướng biến đổi, nguyên nhân
biến đổi …).
4.2. Phạm vi nghiên cứu của Luận án
- Về không gian, địa bàn nghiên cứu chính của Luận án là làng Phương La
(xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình); đồng thời, Luận án có nghiên
cứu mở rộng sang xã nghề dệt đũi Nam Cao (huyện Kiến Xương) và dệt khăn Minh
Tân (huyện Hưng Hà) tỉnh Thái Bình.
- Về thời gian, Luận án nghiên cứu biến đổi văn hóa làng Phương La khi
nghề dệt phát triển, nhất là giai đoạn CNH - HĐH đất nước (từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII, tháng 6/1996 đến nay).
5. HƢỚNG TIẾP CẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
5.1. Hƣớng tiếp cận
- Tiếp cận Văn hóa học: là hướng tiếp cận chính yếu của Luận án. Luận án
chú trọng xem xét, nghiên cứu các thành tố văn hóa trong xã hội truyền thống của
làng nghề Phương La; xác định thực trạng biến đổi, nguyên nhân và xu hướng văn
hóa trong điều kiện CNH - HĐH và hội nhập quốc tế.
- Ngoài ra, Luận án còn sử dụng các cách tiếp cận khác để bổ trợ, như: tiếp cận
Nhân học/Dân tộc học để xem xét các mối quan hệ của con người trong các yếu tố văn
hóa; tiếp cận lịch sử để xem xét các yếu tố văn hóa hiện nay của làng Phương La; tiếp
cận hệ thống để đặt sự hình thành, tồn tại và phát triển của các yếu tố văn hóa làng
nghề dệt Phương La trong mối liên hệ với các yếu tố địa lý tự nhiên, cơ sở kinh tế…
17
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp điền dã Dân tộc học là phương pháp chính được Đề tài sử
dụng để thu thập tư liệu. Ngoài việc thu thập các số liệu thống kê, các báo cáo trên
thực địa, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể là: Nghiên cứu tham dự các hoạt
động làm nghề, các sinh hoạt văn hóa xã hội, tín ngưỡng của dân làng. Phỏng vấn
thợ thủ công, chủ doanh nghiệp, các bậc cao niên trên địa bàn nghiên cứu... Các thao
tác phụ trợ: chụp ảnh, ghi âm, ghi hình.
- Phương pháp điều tra Xã hội học, sử dụng phương pháp điều tra Xã hội
học để điều tra về các vấn đề văn hóa, xã hội... theo nội dung các Chương 2,3,4 của
Luận án. Trên cơ sở kế thừa, tham khảo mẫu phiếu điều tra của những người nghiên
cứu trước, NCS đã hoàn chỉnh bộ mẫu phiếu điều tra xã hội học với bốn nội dung
điều tra chính yếu: điều tra về cảnh quan môi trường làng dệt Phương La; về truyền
nghề và mối quan hệ của người làng nghề; về biến đổi nghề dệt; về tín ngưỡng, lễ
hội, phong tục tập quán.
NCS đã điều tra 224 người về truyền nghề, mối quan hệ của người làng nghề;
về biến đổi nghề dệt (trong đó, có 69.23% số người là thợ thủ công; 23.08% số người
là buôn bán, dịch vụ 20.8%; 7.69% là nội trợ); 208 người về cảnh quan môi trường
làng nghề và về tín ngưỡng, lễ hội, phong tục tập quán (trong đó, có 69.23% số người
là thợ thủ công; có 7.69 % số người là cán bộ, viên chức; 15.38% số người là cán bộ
hưu trí; 7.6% là các đối tượng khác).
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành, sử dụng các phương pháp nghiên cứu
của Văn hóa học, Nhân học/ Dân tộc học, Sử học, Xã hội học,… để xem xét, lý giải
các yếu tố văn hóa của làng dệt Phương La.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu, phương pháp phân tích sử dụng
để đánh giá, phân loại các tài liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu, tìm ra
đặc trưng văn hóa truyền thống của làng dệt Phương La. Phương pháp tổng hợp sử
dụng vào mục tiêu tổng hợp các tài liệu thứ cấp, giúp NCS nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn tài.
- Phương pháp thống kê, phương pháp này giúp NCS thu thập số liệu thống
kê phục vụ cho việc đưa ra các kết luận khách quan về văn hóa làng Phương La.
- Phương pháp so sánh, NCS sử dụng phương pháp này nhằm so sánh một số
khía cạnh của làng dệt Phương La với xã nghề dệt đũi Nam Cao, xã nghề dệt khăn
Minh Tân để thấy được những khác biệt, những vấn đề nổi bật của văn hóa làng
Phương La trong điều kiện đẩy mạnh CNH - HĐH và hội nhập quốc tế.
18
6. KẾT QUẢ VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc
độ Văn hóa học về biến đổi của văn hoá làng dệt Phương La; tìm ra những điểm nổi
bật của văn hóa làng dệt Phương La hiện nay dưới tác động của nghề, nhất là trong
giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH;
- Luận án đưa ra luận cứ khoa học, đề ra các giải pháp bảo tồn, phát huy các
giá trị văn hóa của làng dệt Phương La trong điều kiện CNH - HĐH, giúp làng
Phương La và các làng nghề ở Thái Bình phát triển bền vững.
- Luận án góp phần vào việc nghiên cứu văn hoá truyền thống làng Việt nói
chung và làng nghề nói riêng.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận án được chia làm
04 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung và tổng quan về làng dệt Phương La
Chƣơng 2: Nghề dệt và văn hóa vật chất của làng Phương La hiện nay
Chƣơng 3: Văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La
hiện nay
Chƣơng 4: Những vấn đề rút ra từ việc nghiên cứu biến đổi văn hóa làng
dệt Phương La.
19
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VÀ TỔNG QUAN VỀ LÀNG DỆT PHƢƠNG LA
1.1. Những vấn đề lý luận chung
1.1.1. Một số khái niệm dùng trong Luận án
1.1.1.1. Làng nghề, làng nghề truyền thống, làng nghề thủ công hiện đại
- Làng nghề: từ xưa đến nay, khi nói đến làng nghề, thông thường ai cũng
hiểu là làng làm các nghề tiểu - thủ công. Tuy nhiên, một số công trình nghiên cứu
đã đưa ra những quan niệm về làng nghề, làng nghề thủ công truyền thống nhưng
chưa có sự thống nhất.
Tác giả Lưu Thị Tuyết Vân, trong bài viết “Một số vấn đề về làng nghề ở
nước ta hiện nay” đưa ra định nghĩa: “Làng nghề là một làng có nghề tiểu - thủ công
đã từng tồn tại trong lịch sử hoặc một thời gian nhất định, có sản phẩm hàng hóa nổi
tiếng hoặc có khối lượng hàng hóa lớn có vai trò nhất định đối với thị trường trong
nước và quốc tế, có số đông người trong làng cùng làm một hoặc nhiều nghề, dân
làng sống chủ yếu bằng các nghề đó”[114, tr. 64].
Trong Tổng quan về nghề và làng nghề truyền thống ở Việt Nam, nhóm tác
giả mà chủ biên là Trương Minh Hằng cũng đã thống nhất và đưa ra định nghĩa về
làng nghề, theo đó định nghĩa được trình bày như sau: “Theo cách định nghĩa trong
dân gian, một nghề có “thâm niên” và tỉ lệ người làm nghề (ở trong làng) cao, thu
nhập từ nghề là nguồn thu chính, tên làng dần dần gắn với tên nghề... thì được gọi là
làng nghề” [42, tr. 18]. Định nghĩa trên nhấn mạnh nghề tồn tại từ rất lâu, tạo ra sản
phẩm có tên tuổi. Trong làng, có nhiều người tham gia làm nghề và sống chủ yếu
dựa vào nguồn thu nhập từ nghề. Nhiều làng nghề, người dân đã quen với cách gọi
tên nghề thay cho tên làng.
Như vậy, các tác giả cùng các công trình nghiên cứu đều khẳng định làng
nghề phải là làng sản xuất tiểu - thủ công, có số đông người trong làng cùng làm
nghề, có nguồn thu nhập chính từ làm nghề. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chưa đề
cập tới khả năng các làng đó có thể chỉ tiến hành thực hiện một công đoạn của nghề.
Chắt lọc những điểm chung và riêng từ các định nghĩa trên, chúng tôi cho
rằng: Làng nghề là làng có phần đông cư dân sống bằng một nghề hoặc nhiều nghề
thủ công (có khi chỉ là một công đoạn của nghề) tạo ra các sản phẩm mang tính
cách riêng, thời gian làm nghề và thu nhập của nghề chiếm tỷ lệ lớn nhất so với các
hoạt động kinh tế khác; hoạt động làm nghề có ảnh hưởng lớn đến các mặt khác
của làng (kiến trúc làng xóm, nhà cửa, nhịp sống, thiết chế tổ chức và các quan hệ
xã hội, tâm lý tính cách, phong tục tập quán...).
Bên cạnh các đặc điểm chung của làng Việt (với đại đa số là làng nông
nghiệp), các làng nghề có những nét khác biệt: hoạt động làm nghề là chính, do vậy,
thu nhập từ nghề là chủ đạo và cao hơn, ổn định hơn so với cư dân các làng nông
nghiệp; nhịp độ lao động, nhịp sống trong các làng nghề sôi động hơn, tính theo số
ngày trong năm và số giờ trong ngày; kết cấu hạ tầng, nhà cửa, hệ thống đình, chùa,
đền miếu, nếp sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, lễ hội nhìn chung bề thế và quy củ
hơn, do dân làng có điều kiện kinh tế để đóng góp xây dựng; quan hệ, giao lưu, giao
tiếp của người các làng nghề được mở rộng, do hoạt động nghề nghiệp; người các
làng nghề truyền thống sớm hình thành một số đức tính tốt đẹp, như tính kiên nhẫn,
tính toán, tiết kiệm, tính trung thực trong làm ăn, giao tiếp, chú trọng chữ tín, nhằm
bảo đảm nguồn lợi thường xuyên, ổn định và lâu dài, niềm tự hào với nghề nghiệp,
với quê hương, tạo ra lòng yêu nghề, yêu quê và gắn bó với quê hương của người thợ
thủ công.
- Làng nghề truyền thống: cũng theo tác giả Lưu Thị Tuyết Vân: “Các làng
nghề truyền thống trước hết phải là một làng nghề nhưng đã có lịch sử tồn tại lâu
đời, đến nay vẫn sản xuất một hoặc nhiều mặt hàng truyền thống có giá trị trên thị
trường trong nước và quốc tế.” [42, tr. 64].
Tác giả Dương Bá Phượng dựa vào tính chất và số lượng nghề để phân loại
làng nghề, tác giả chia làng một nghề, làng nhiều nghề, làng nghề truyền thống...
20
Theo tác giả: “làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong
lịch sử và còn tồn tại cho đến ngày nay, là những làng nghề đã tồn tại hàng trăm
năm, thậm chí hàng nghìn năm” [85, tr. 10-15].
Các cách định nghĩa trên cơ bản đã đưa ra vấn đề cốt lõi của làng nghề
truyền thống, trước tiên phải là làng nghề và nhấn mạnh làng nghề đó tồn tại đã từ
rất lâu, sản phẩm có thương hiệu, uy tín trên thị trường.
Trên cơ sở nhận thức định nghĩa về làng nghề truyền thống của các tác giả
trên, chúng tôi quan niệm, làng nghề truyền thống là làng có nghề thủ công hình
thành từ lâu đời, đến nay nghề còn duy trì hoặc rất phát triển, vẫn sản xuất một
hoặc nhiều mặt hàng truyền thống.
Khái niệm “Làng nghề truyền thống” trong Luận án, xét trên phương diện
kinh tế là nghề có kỹ thuật thủ công; xét trên phương diện xã hội và văn hóa, gắn
với cơ cấu tổ chức xã hội và các giá trị văn hóa của làng Việt được hình thành và tồn
tại trong xã hội truyền thống. Ngày nay, nhiều làng nghề truyền thống vẫn tồn tại,
song nghề đã có những thay đổi về kỹ thuật, tổ chức sản xuất, loại hình sản phẩm...
Sự thay đổi này của nghề đã tác động đến nhiều mặt của làng.
- Làng nghề thủ công hiện đại là làng có các nghề mới được nhân cấy. Theo
quy định của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, trong Thông tư số
116/2006/TT-BNN, ngày 18/12/2006, cả hai loại hình làng nghề truyền thống và
làng nghề hiện đại ngày nay có chung các đặc điểm sau: có tối thiểu 30% tổng số hộ
trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn; hoạt động sản xuất kinh
doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; chấp hành tốt
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nghề được công nhận là nghề truyền thống
phải đạt ba tiêu chí sau:
1/ Nghề xuất hiện tại địa phương trên 50 năm tính đến thời điểm được
công nhận;
2/ Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc;
21
3/ Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của
làng nghề.
Tại tỉnh Thái Bình, ngày 31 tháng 3 năm 2006, UBND tỉnh ra Quyết định số
29/ 2006/ QĐ- UBND "Quyết định V/v Ban hành Quy định tiêu chuẩn làng
nghề"[110, tr. 3], làng nghề có các tiêu chí sau:
1. Chấp hành tốt các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, các quy định của tỉnh và địa phương.
2. Trong làng, số lao động quy đổi làm nghề công nghiệp - thủ công nghiệp,
thương mại, dịch vụ đạt từ 50% trở lên hoặc 30% số hộ.
3. Giá trị sản xuất làng nghề chiếm tỷ trọng từ 50% trở lên so với tổng giá trị
sản xuất của làng.
4. Có hình thức tổ chức phù hợp, chịu sự quản lý Nhà nước của chính quyền
địa phương, gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
Đảm bảo vệ sinh môi trường sinh thái theo quy định hiện hành.
“Làng nghề truyền thống phải đạt các tiêu chuẩn như Điều 3 và phải là làng
nghề sản xuất lâu đời có ít nhất từ 50 hộ trở lên hoặc 1/3 (một phần ba) tổng số hộ
cùng làm một nghề truyền thống, có thu nhập ổn định”.
1.1.1.2. Văn hóa làng nghề
Đến nay, có một quan niệm phổ biến cho rằng, văn hóa làng nghề gồm hai
yếu tố “Văn hóa làng” và “Văn hóa nghề”. Văn hóa làng có trước, gồm các yếu tố
văn hóa vật thể (diện mạo và cấu trúc vật chất làng xã, các di tích thờ cúng…) và
văn hóa phi vật thể (cơ cấu tổ chức làng xã, các ứng xử xã hội, lễ hội, phong tục tập
quán, tín ngưỡng…). Văn hóa nghề là các yếu tố liên quan đến nghề (kỹ thuật làm
nghề, đặc trưng sản phẩm nghề, tâm lý và tính cách người làm nghề,…). Văn hóa
làng nghề là các yếu tố tiêu biểu nhất về vật thể và phi vật thể của một làng được
hình thành dưới ảnh hưởng của nghề; gắn với việc sản xuất, sinh sống bằng một hay
một số nghề [108, tr. 35- 36].
22
Tác giả Đinh Thị Vân Chi cũng có quan điểm gần như quan niệm trên khi cho
rằng, văn hóa làng nghề là một dạng đặc thù của văn hóa làng nói chung. Ngoài các
yếu tố chung của văn hóa làng Việt, văn hóa làng nghề có một số yếu tố đặc thù, như
kiến thức nghề, trình độ tay nghề, đạo đức nghề, thái độ hành nghề,...[19, tr. 39].
Tác giả Vũ Quốc Tuấn xác định văn hóa làng nghề có ba bộ phận chính là
văn hóa tổ chức (hay cơ cấu tổ chức), văn hóa vật thể (các sản phẩm nghề, các thiết
chế thờ cúng, các thiết chế văn hóa) và văn hóa phi vật thể (các phong tục, lễ hội,
việc dạy nghề, truyền nghề…) [104, tr. 95- 96]. Định nghĩa đã chỉ ra được yếu tố
quan trọng nhất là nghề trong văn hóa, hay tác động của việc làm nghề tới các khía
cạnh của làng và của văn hóa.
Tác giả Lâm Bá Nam trong bài viết gần đây trên Tạp chí Dân tộc học, tuy
không đưa ra một khái niệm về làng nghề, song, xuyên suốt toàn bộ bài viết, tác giả
Lâm Bá Nam đã giúp cho chúng ta hiểu khía cạnh khác của văn hóa làng nghề, đó
là những đặc điểm của yếu tố nghề trong văn hóa tạo nên diện mạo làng.
Như vậy, các tác giả đều đã đưa ra được định nghĩa về văn hóa làng nghề, đó
là một kiểu loại văn hóa làng, có những đặc trưng của yếu tố nghề, chịu tác động
của nghề. Mỗi cách định nghĩa đều khai thác được những khía cạnh mang tính đặc
trưng của làng nghề.
Chúng tôi quan niệm: Văn hóa làng nghề là một dạng đặc thù, là một phức thể
các yếu tố văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần ở các làng nghề,
giữa nghề và làng, giữa con người và các yếu tố ngoài con người, có quan hệ mật
thiết với nhau, ràng buộc và phụ thuộc, tác động vào nhau, trong đó nghề giữ vị trí
trung tâm. Ngoài các yếu tố chung của văn hóa làng, văn hóa làng nghề có một số
yếu tố đặc thù, như nhịp sống làng nghề, tâm lý và tính cách của người làng nghề…
* Cơ cấu văn hóa làng nghề: Cũng như văn hóa làng, văn hóa làng nghề
được cấu thành bởi các thành tố:
Văn hóa vật chất: không gian, cảnh quan làng; di tích thờ cúng...
Văn hóa xã hội: các thiết chế, tổ chức làng xã; các giai tầng xã hội...
23
Văn hóa tinh thần: phong tục, tập quán, lễ tiết, hội làng...
Có điểm khác là nghề phát triển, chi phối các mặt đời sống xã hội của làng,
vì vậy, khi nghiên cứu văn hóa làng nghề không thể thiếu yếu tố nghề.
24
1.1.2. Cơ sở lý thuyết
1.1.2.1. Biến đổi văn hóa
- Luận điểm về biến đổi xã hội
Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động và biến đổi không ngừng. Sự biến đổi
đó bao gồm cả biến đổi do nội tại của bản thân sự vật, hiện tượng và sự vận động,
biến đổi do các tác nhân bên ngoài. Hiện tượng văn hóa cũng không nằm ngoài quy
luật ấy.
Từ trước đến nay, đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về sự biến đổi xã hội
- văn hóa. Theo các nhà xã hội học, nói tới biến đổi là đồng nghĩa với sự biến đổi
của xã hội, biến đổi của công nghệ… và họ coi biến đổi xã hội chính là sự thay đổi
đáng kể trong cấu trúc hành vi văn hóa: “Hệ thống văn hóa (đạo đức, tinh thần) quy
định sự phát triển của hệ thống xã hội, cơ cấu xã hội” [40, tr. 52].
Có tác giả đã gắn liền sự biến đổi kinh tế - xã hội với quá trình sản xuất vật
chất. M. Weber thì cho rằng: “ Nguồn động lực có sự tác động mạnh mẽ nhất đến
các hình thức tổ chức sản xuất và quan hệ xã hội, để cuối cùng làm thay đổi xã hội
không phải cái gì khác lại chính là văn hóa phi vật chất (như tư tưởng, niềm tin, kỷ
luật lao động và tư duy hợp lý, v.v…) [40, tr. 94]. Như vậy, theo M. Weber, biến
đổi xã hội xuất phát từ sự thay đổi về văn hóa và chính văn hóa là động lực để xã
hội thay đổi. Ông cũng khẳng định, quá trình biến đổi luôn diễn ra với đầy những
khó khăn, phức tạp, không đơn giản thuận lợi: “Việc biến đổi từ giai đoạn này sang
giai đoạn khác không “trôi chảy, nhẹ nhàng”, mà thường trải qua thời kỳ bất ổn
định, mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới” [40, tr. 52].
Karl Max, với tư cách là nhà xã hội học Đức lại cho rằng “theo quy luật lịch
sử, xã hội phát triển từ cơ cấu xã hội đơn giản đến phức tạp”, “Lịch sử phát triển
của xã hội trên toàn thế giới là lịch sử thay thế kế tiếp các hình thái kinh tế xã hội
mà thực chất là các phương thức sản xuất” [40, tr. 57, 60].
Nhìn chung, các nhà xã hội học đều có chung quan điểm: xã hội biến đổi và
sự biến đổi đó thường được nhìn nhận từ một số chiều cạnh hoặc cách tiếp cận: cấu
trúc - hành vi, vĩ mô - vi mô hoặc kết hợp các cách tiếp cận này; được triển khai
trên hai trục chính là những biến đổi của cơ cấu xã hội và những biển đổi trong các
khuôn mẫu hành vi và lối sống của các nhóm xã hội. Biến đổi vĩ mô là những thay
đổi diễn ra và xuất hiện trên phạm vi rộng lớn và trong khoảng thời gian dài. Biến
đổi vi mô là những biến đổi nhỏ, diễn ra trong thời gian ngắn, được tạo ra từ một lĩnh
vực nào đó của đời sống.
Một số công trình nghiên cứu của khoa học xã hội trong thập niên 1990, đã
mở đầu cho hướng nghiên cứu về biến đổi xã hội ở Việt Nam. Các nghiên cứu đã
đưa ra nhận định chung là kinh tế thị trường càng phát triển tuy tạo ra nhiều cơ may,
vận hội cho các cá nhân, các nhóm xã hội, song sự phân hóa giàu nghèo cũng như
mức độ phân tầng xã hội càng diễn ra mạnh mẽ. Cá nhân, nhóm nào nắm bắt, tận
dụng được cơ hội sẽ vượt lên thành các nhóm giàu có, khá giả, ngược lại, cá nhân,
nhóm xã hội nào không nắm bắt được các cơ hội sẽ chỉ đạt mức sống trung bình, thậm
chí bị sút giảm và rơi vào nhóm có mức sống nghèo đói. Những cá nhân, nhóm xã hội
„„mạnh‟‟tạo nên sức mạnh kinh tế làm thay đổi đáng kể điều kiện sống của bản thân và
góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Có thể gọi là những nhóm xã hội
vượt trội mà sự giàu có lên của họ có thể làm doãng rộng khoảng cách giàu nghèo,
nhưng cũng góp phần tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội [77, tr. 29-30].
Chúng tôi vận dụng những luận điểm này để nghiên cứu về sự biến đổi xã hội - yếu tố
có liên quan mật thiết với biến đổi văn hóa ở làng Phương La trong điều kiện hiện nay.
- Luận điểm về biến đổi văn hóa
Cũng như biến đổi xã hội, biến đổi văn hóa là chủ đề được rất nhiều ngành
khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu. Biến đổi văn hóa được các học giả đề cập
từ khá sớm và họ đều có điểm chung thống nhất cho rằng không có nền văn hóa nào
đứng yên một chỗ, cũng như không có nền văn hóa nào không có sự thay đổi gì so
25
với thời kỳ khai nguyên của nó. Chúng ta có thể điểm lại một vài quan điểm về sự
biến đổi văn hóa của các nhà nghiên cứu, để từ đó có cái nhìn tổng quan về biến đổi
văn hóa.
+ Cuối thế kỷ XIX, thuyết Tiến hóa luận của E. Taylor, Morgan ra đời. Các
học giả cho rằng sự phát triển của các nền văn hóa là xu hướng chính của lịch sử
loài người, điều này là tất yếu, các dữ kiện của nó có thể sắp xếp vào một trật tự xác
định, mà không thể làm khác được.
Không tán thành với thuyết tiến hóa về văn hóa ở cuối thế kỷ XIX, thuyết
chức năng - cấu trúc được khởi xướng từ G. Spence r và E. Durkheim ra đời.
Thuyết này nhấn mạnh đến sự thống nhất của giống người và sự đồng nhất trong
phát triển văn hóa “Đó là sự phát triển qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp
và mang tính chất bắt buộc đối với mọi xã hội”, “Coi văn hóa và xã hội như một cơ
thể sống” [40, tr.72]. Thuyết chức năng coi trọng sự khác biệt về văn hóa, theo các
học giả, chính nhờ sự khác biệt mà các bộ phận của xã hội cũng như các xã hội có
thể nương tựa và bổ sung cho nhau để vận hành trong thế cân bằng và ổn định. Học
thuyết cũng chủ trương cần nghiên cứu văn hóa - xã hội của mỗi dân tộc như là một
thể thống nhất (hay như một chỉnh thể), cần chia tách thành các bộ phận và vạch ra
các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng.
Phát triển học thuyết trên, Radcliffe Brown đi đến kết luận “Cần phải nghiên
cứu văn hóa từ bên trong, cần tôn trọng giá trị của các nền văn hóa khác nhau và
không nhất thiết mọi nền văn hóa đều phải trải qua các giai đoạn giống như nền năn
minh châu Âu” [49, tr. 76].
Thuyết xung đột gắn liền với tác phẩm của những người có khuynh
hướng chống lại sự bành trướng của thuyết chức năng - cấu trúc. Dựa trên cơ sở
lý luận của M. Weber và C. Mác, người ta cho rằng các mâu thuẫn và xung đột
không chỉ là đặc trưng, còn giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội
và coi xã hội là sự kết nối không ngừng các va chạm của những lực lượng xã hội
khác nhau, không có hoàn cảnh nào không có xung đột. “Mâu thuẫn là nguồn
gốc của mọi sự vận động, biến đổi và là động lực của sự phát triển. Mà mâu
26
thuẫn, xung đột lại hình thành và phát triển trên cơ sở của sự khác biệt, kể cả sự
khác biệt về văn hóa” [40, tr. 82].
Trong công trình nghiên cứu Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiên nay, tác
giả Nguyễn Thị Phương Châm đã dành cả một chương để bàn về các lý thuyết biến
đổi văn hóa và tác giả xác định biến đổi văn hóa là quá trình vận động của tất cả các
xã hội và cho rằng biến đổi văn hóa là xu hướng tất yếu trong quá trình toàn cầu
hóa. Tác giả khẳng định:
“Biến đổi văn hóa trong xã hội hiện đại là những quá trình đa chiều, đa dạng
phụ thuộc vào sự lựa chọn của từng xã hội cụ thể với sự chi phối của bối cảnh văn
hóa truyền thống. Quá trình biến đổi văn hóa trong hiện đại hóa hiện nay được nhìn
nhận là ngày càng xa với thuyết Mỹ hóa và Tây hóa, tức là không chỉ lấy Mỹ hay
phương Tây làm mô hình và chuẩn mực cho sự phát triển” [17, tr. 22, 23].
Từ trước đến nay, HĐH được hiểu là quá trình chuyển biến từ những xã hội
nông nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp hiện đại, dẫn đến biến đổi văn
hóa, diễn ra theo một đường thẳng đơn tuyến, trong đó những giá trị truyền thống sẽ
bị xóa bỏ và đưa tới sự hội tụ của những “giá trị hiện đại”.
Các nhà Nhân học hiện đại, tuy đồng ý quan điểm kinh tế phát triển thúc đẩy
sự biến đổi về xã hội, văn hoá; nhưng không tán thành luận điểm về sự biến đổi văn
hoá từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại dẫn đến hội tụ những giá trị hiện đại
chung cho mọi xã hội.
Các nhà Văn hóa học Mỹ chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa chính trị - kinh
tế và văn hoá, họ đánh giá cao vai trò quan trọng của văn hóa trong phát triển kinh tế
- xã hội… Trên cơ sở đó, một lý thuyết mới về hiện đại hóa được đề xuất với nội
dung chính sau đây:
+ Phát triển kinh tế dẫn đến biến đổi về xã hội và văn hoá từ xã hội truyền
thống sang xã hội hiện đại. Quá trình này đi theo những đường song song, phụ
thuộc vào văn hoá truyền thống của mỗi nước; chứ không phải diễn ra theo một
đường thẳng; không dẫn đến hội tụ những “giá trị hiện đại” chung cho mọi quốc
27
gia. Trong quá trình đó, các giá trị truyền thống không biến mất mà tiếp tục ảnh
hưởng đến quá trình biến đổi.
+ Nội hàm của biến đổi xã hội, văn hoá là: tăng trưởng kinh tế, chuyên môn
hoá nghề nghiệp, tăng trình độ học vấn, thay đổi vai trò giới (nhất là của nữ giới),
các quan hệ cộng đồng suy giảm, tự do cá nhân và sự tự thể hiện mình (của cộng
đồng, cá nhân) được đề cao…
+ Biến đổi văn hoá không đồng nghĩa với “Mỹ hoá”, “Âu hoá”. Sự phát triển
vượt bậc của những nước châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…) và châu
Phi trong những năm gần đây đã chứng minh điều đó.
Như vậy, biến đổi văn hóa được các học giả đề cập từ khá sớm và họ đều có
điểm chung thống nhất cho rằng không có nền văn hóa nào đứng yên một chỗ, cũng
như không có nền văn hóa nào không có sự thay đổi gì so với thời kỳ khai nguyên
của nó. Biến đổi văn hóa mang tính tất yếu, là hiện tượng phổ biến. Biến đổi văn
hóa cũng tuân theo quy luật, biến đổi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Biến đổi này không diễn ra theo một đường thẳng đơn tuyến mà cũng có những giai
đoạn chững lại, thậm chí là thụt lùi, là bước tiến bộ trong sự phát triển, được bắt đầu
từ quá trình thay đổi phương thức sản xuất, kỹ thuật sản xuất, dẫn đến thay đổi về
quan niệm, lối sống,… Song, biến đổi văn hóa lại cũng chính là động lực thúc đẩy
xã hội biến đổi. Nhờ mối quan hệ biện chứng đó mà văn hóa và xã hội ngày một
phát triển. Sự biến đổi này được hiểu theo nghĩa rộng, là quá trình vận động của tất
cả xã hội [40, tr.9]. Theo nghĩa hẹp, biến đổi văn hóa là những thay đổi của các di
tích thờ cúng, tôn giáo…ở những làng quê được chuyển thành phường do tác động
của ĐTH. Mà biến đổi xã hội do tác động của CNH - HĐH là sự thay đổi trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội và cá nhân, trong đó có các quan hệ xã hội các mô hình
hành vi và ứng xử tương ứng với các điều kiện CNH - HĐH và ĐTH [47, tr.80].
Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng “… sự phát triển của xã hội trên toàn thế
giới là lịch sử kế tiếp các hình thái kinh tế xã hội mà thực chất là các phương thức
sản xuất” [22, tr.60], “… ở mọi xã hội, ý thức xã hội (hệ tư tưởng, chính trị, luật
28
pháp, đạo đức, văn hóa, tôn giáo…) bị quy định bởi tồn tại xã hội” [22, tr. 59, 60].
Cùng với sự khẳng định về tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, lý luận mácxít
cũng đồng thời khẳng định tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, khẳng định sự
tác động ngược trở lại của ý thức xã hội với tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội
đặc biệt là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và nhận thức của con
người, những quan điểm về chính trị, đạo đức, văn học, nghệ thuật… sớm muộn
cũng biến đổi theo. Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường
xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người mà trước tiên là do
sự biến đổi của lực lượng sản xuất xã hội.
Như vậy, về mặt nhận thức, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội nhưng còn
trong đời sống xã hội hiện thực, tất cả các yếu tố đều làm tiền đề và tác động thúc đẩy
lẫn nhau. Đây là cơ sở lý luận để NCS dựa vào trong suốt quá trình nghiên cứu.
1.1.2.2. Biến đổi văn hóa làng nghề
Thực tế cho thấy, quá trình hội nhập thế giới và việc đẩy mạnh CNH - HĐH
đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến các làng Việt nói chung, làng nghề nói riêng, dẫn
đến biến đổi văn hóa của các làng. Nguyên nhân của sự biến đổi này chính là do lực
lượng sản xuất rất phát triển, phương thức sản xuất được đổi mới, kinh tế hàng hóa
thâm nhập sâu, rộng vào mọi mặt đời sống xã hội của người dân.
CNH - HĐH đã mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức đối
với làng nghề, với người thợ thủ công. Chính vì điều này mà nhiều làng nghề đã
không còn tồn tại bởi sản phẩm không có chỗ đứng trên thị trường, hoặc có những
làng nghề còn tồn tại nhưng là để duy trì nghề, sản phẩm làm ra có rất ít người tiêu
thụ bởi không phù hợp với yêu cầu của cuộc sống hiện đại. Chính vì vậy, để làng
nghề tồn tại và phát triển, người làng nghề không còn cách nào khác là phải thay đổi
cách nghĩ, từ đó đổi mới mặt hàng sản xuất, công nghệ sản xuất... nhằm đáp ứng
nhu cầu thị trường. Do đó, văn hóa của các làng nghề cũng biến đổi theo. Tuy
nhiên, tùy điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi làng mà sự biến đổi văn hóa có
qui mô, tốc độ khác nhau.
29
Do làng nghề áp dụng máy móc, công nghệ hiện đại vào sản xuất nên sản
phẩm làm ra nhiều, năng suất lao động tăng, thu nhập của người dân cao và ổn định.
Chính điều này đã giúp người làng nghề có điều kiện nâng cao đời sống tinh thần,
quan tâm tới các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng tâm linh... Tuy nhiên, sự biến đổi
này cũng không theo một đường thẳng đơn tuyến mà nó hội tụ cả những mặt trái,
những yếu tố chưa tích cực cản trở sự phát triển của các làng nghề.
Trên cơ sở những luận điểm về biến đổi văn hóa, về làng nghề, văn hóa làng
nghề, chúng tôi xác định nghiên cứu biến đổi văn hóa làng nghề chính là nghiên
cứu sự biến đổi các thành tố cấu thành văn hóa làng nghề dưới tác động của các
yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội. Sự biến đổi này bao hàm cả biến đổi về số lượng
và chất lượng, trạng thái. Biến đổi giữa cái cũ và cái mới; từ cái chưa hoàn thiện
đến cái hoàn thiện. Tuy nhiên, sự biến đổi ấy bao hàm cả những yếu tố tích cực và
chưa tích cực; sự biến đổi đã có chọn lọc và cả những biến đổi chỉ mang tính trào
lưu chưa phù hợp. Sự biến đổi này cũng hoàn toàn tất yếu, khách quan trong điều
kiện CNH-HĐH và hội nhập quốc tế.
Nghiên cứu biến đổi văn hóa làng dệt Phương La là nghiên cứu sự biến đổi
của các thành tố Văn hóa vật chất, Văn hóa xã hội và Văn hoá tinh thần của làng.
Có điểm khác là, với làng nghề Phương La, việc làm nghề mang lại nguồn thu lớn
và chủ yếu cho cư dân, làm cho kinh tế phát triển, cuộc sống sung túc nên ảnh
hưởng chi phối đến mọi mặt đời sống văn hóa, tinh thần của người dân. Vì vậy,
Luận án sẽ phải tập trung nghiên cứu về biến đổi nghề dệt truyền thống.
Do điều kiện thời gian nên không phải mọi yếu tố của văn hóa làng nghề được
xem xét, nghiên cứu mà Luận án chỉ trình bày khái quát các thành tố văn hóa làng nghề
Phương La trong xã hội truyền thống và một số yếu tố văn hóa hiện nay nổi bật nhất,
hình thành và diễn biến dưới tác động của CNH - HĐH được rút ra từ quá trình điều tra
thực tế: 1/Nghề dệt và văn hóa vật chất (không gian, cảnh quan; di tích tôn giáo, tín
ngưỡng); 2/Văn hóa xã hội, đó là sự hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp; việc tách
họ, dựng nhà thờ mới và vấn đề an ninh - xã hội của làng; 3/Văn hóa tinh thần, những
vấn đề nổi bật là sự thay đổi lối sống; phong tục cưới xin, tang ma, hội làng.
30
31
1.2. Tổng quan về làng dệt Phƣơng La
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư và lịch sử hình thành làng
1.2.1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên
Làng Phương La (tên Nôm là làng Mẹo) thuộc xã Thái Phương, huyện Hưng
Hà, tỉnh Thái Bình. Làng tiếp giáp các làng Trác Dương, Xuân La (xã Thái Phương)
về phía Bắc; làng Hà (xã Hồng An) về phía Nam; làng Giác (xã Kim Chung) về
phía Đông; làng Dương Xá (xã Thái Hưng) về phía Tây.
Phương La nằm trong khu vực đồng bằng Thái Bình, địa hình bằng phẳng, không
có núi đồi, đất đai hoàn toàn do phù sa bồi đắp mà thành; thuận lợi để trồng lúa và các
loại cây lương thực, cây công nghiệp (dâu, bông), là cơ sở để nghề dệt hình thành. Làng
có vị trí giao thông thuận lợi cả về đường bộ và đường thủy, có bốn đường bộ vào
ra, lại cách bến Thanh Nga (làng Nga, thuộc xã Minh Tân nằm sát làng Phương La)
03 km, tiện lợi để vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy sông Hồng. Hình thù làng
giống như một cái vó bè, cả bốn góc đều có các đường dẫn vào làng: từ làng Trác
Dương (phía Bắc) sang, từ làng Xuân La (phía Tây Bắc) vào; làng Gạo (phía Tây)
sang; làng Kiều Trai (phía Nam) tới. Thế đất này được dân làng quan niệm là nơi
“tụ hội”, trở thành “đất đãi ngoại”: con gái, con trai các làng khác đến làm dâu làm
rể đều phát đạt. Vì thế, như một “định đề tự nhiên” từ xưa: con gái ở các nơi phải là
những cô xinh xắn mới “lọt” vào mắt các trai làng Mẹo, cũng như con trai các nơi
phải đẹp trai, khỏe mạnh mới lấy được gái Phương La.
Theo số liệu thống kê năm 2012, làng có diện tích tự nhiên là 242,768 ha.
Diện tích các loại đất được chia ra như sau (Bảng 1.1).
Bảng 1.1: Các loại đất đai của làng Phƣơng La năm 2012
Loại đất
TT 1 Đất nông nghiệp 2 Đất công nghiệp
Diện tích (ha) 94,140 61,236
Tỷ lệ % 39,1 25,4
3 Đất thổ cư 4 Đất chuyên dùng
77,652 7,740
32,3 3,2
Tổng
240,768
100
[Nguồn: Bộ phận Địa chính, UBND xã Thái Phương].
1.2.1.2. Dân cư
Phương La là vùng đất cổ, nơi hội tụ của dân di cư từ nhiều nơi khác đến.
Đặc biệt, vùng này còn là nơi các triều đình phong kiến đưa tù binh Chiêm Thành,
Tống, Nguyên về sinh sống (theo gia phả dòng họ Trần Hữu, xã Hồng An, huyện
Hưng Hà). Tới vùng đất mới, bên cạnh việc mang theo tập tục sinh hoạt, văn hóa,
nhiều người mang theo nghề thủ công: nghề mộc, nghề ngõa (xây), nghề rèn, trồng
dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa.
Người Phương La vốn bôn ba, bươn chải, di cư qua nhiều vùng để mưu sinh
nên họ rất chăm chỉ, sáng tạo; thích ứng với điều kiện sống…
Theo thống kê của nhà nghiên cứu Ngô Vi Liễn, vào năm 1927, làng có
1528 dân; trong khi bình quân của một làng châu thổ Bắc Bộ là 910. Ngày nay,
dân số của làng đã tăng lên nhiều lần. Làng được chia thành bốn thôn (Phương La
1, 2, 3, 4) trên cơ sở bốn xóm cũ. Số hộ và số khẩu năm 2014 của các thôn thể
hiện ở Bảng 1.2.
Bảng 1.2 : Số hộ, khẩu của làng Phƣơng La năm 2014
TT
Thôn
Số hộ
Số khẩu
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
so cả làng
so cả làng
1
Phương La 1
377
29,5
1278
30,0
2
Phương La 2
283
22,2
967
22,0
3
Phương La 3
332
26,0
1225
28,0
4
Phương La 4
285
22,3
908
20,0
Cả làng
1.277
100
4.378
100
[Nguồn: UBND xã Thái Phương].
1.2.1.3. Vài nét về lịch sử hình thành làng
Theo lưu truyền dân gian, Phương La hình thành cuối triều Lý (cuối thế kỷ
XII, đầu thế kỷ XIII), thuộc phủ Long Hưng, một trong 24 phủ thời Trần.
Lưu truyền dân gian gắn sự hình thành làng Phương La với công lao mở
mang của Hoằng Nghị Đại Vương, tên thật Trần Hoằng Nghị, là thân sinh của Thái
32
sư Trần Thủ Độ. Ông tổ chức cho dân chúng khai canh lập ấp, lập nên khu Bến
Trấn (tức làng Mẹo sau này) trù mật vào cuối thời Lý. Bến Trấn xưa gồm các vùng
đất Phương La, Xuân La và Trác Dương thuộc xã Thái Phương ngày nay, toàn bộ
vùng này rộng khoảng chừng vài km2. Cũng theo các bậc cao niên trong làng, hai
làng Xuân La và Phương La xưa kia cùng cư trú trong một khoảnh. Về sau, không
rõ từ bao giờ, một bộ phận cư dân chuyển sang khai phá và sinh sống tại các xóm
của làng Phương La hiện nay; sau đó, tách thành làng riêng biệt.
Quá trình khai hoang lập làng Phương La gắn với sự đoàn kết, chung lưng
đấu cật của 10 dòng họ: Trần, Nguyễn, Đào, Phạm, Lê, Vũ, Đặng, Đỗ, Đoàn, Đinh.
33
1.2.2. Nghề dệt làng Phương La trong xã hội truyền thống
1.2.2.1. Nguồn gốc nghề dệt ở Phương La
Địa hình của làng Phương La bằng phẳng, song ở thế thấp so với các làng
xung quanh, mỗi khi có mưa lớn, nước từ các làng Hà Nguyên, Xuân La dồn về
đồng làng, theo con ngòi chảy qua làng Trấn Cách để ra sông Hồng, nên việc tiêu
thoát nước được dễ dàng. Tuy nhiên, trước đây, hệ thống thủy lợi chưa được xây
dựng, đồng ruộng chỉ cấy được một vụ lúa mùa với năng suất thấp và bấp bênh
không thể đảm bảo lương thực cho mỗi gia đình. Trong khi đó, cuộc sống của người
dân cần nhiều thứ chi tiêu khác: may mặc, thực phẩm, chi tiêu cho công cụ sản xuất,
vật dụng gia đình, sửa nhà cửa..., lại còn lo chi những lệ tục tang ma, cưới xin và
đặc biệt, thời phong kiến, còn có gánh nặng sưu thuế... ; cần những khoản tiền lớn
mà nông nghiệp không thể đáp ứng, đảm bảo nhu cầu cuộc sống. Do vậy, người
nông dân phải tìm kiếm thêm các nguồn thu khác, bằng hình thức đi buôn, làm thuê
hoặc làm thêm nghề phụ. Chọn công việc kiếm thêm nguồn thu nào tùy thuộc vào
điều kiện của từng địa phương và sự lựa chọn của người nông dân. Như vậy, làm
thêm nghề phụ cũng là xu thế tất yếu của người nông dân, trong đó có người
Phương La.
Phương La có vị trí giao thông thuận lợi, lại nằm trong vùng lõi của nghề dệt
truyền thống, sát cạnh xã Minh Tân với nghề dệt lụa, tơ tằm; gần làng Hới có nghề
dệt chiếu nổi tiếng từ rất lâu đời; giáp với huyện Vũ Thư trồng dâu chăn tằm, ươm
tơ dệt vải. Cách làng Phương La sáu cây số là làng Quan Nhân, tỉnh Hà Nam trồng
dâu chăn tằm, kéo tơ. Đặc biệt, người Phương La năng động, sáng tạo và cần cù
chịu khó, lại biết tính toán, chi tiêu tiết kiệm nên nghề tồn tại và phát triển; đây
cũng là yếu tố đảm bảo để thúc đẩy nông nghiệp tồn tại và phát triển theo.
Về nguồn gốc nghề dệt ở Phương La, sách Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí
và Đại Nam nhất thống chí đều chép huyện Vũ Tiên có làng Bộ La dệt lụa, ở làng
Mẹo phủ Tiên Hưng có nghề dệt lụa, nái..." [35, 87]. Sách Tiên Hưng phủ chí của
Phạm Nguyên Hợp nói rõ các nơi trong bản phủ “Tiên Hưng” đều có khung dệt vải,
trong đó có các xã Phương La, Trác Dương. Tài liệu còn cho biết: “Nghề này có từ
thời Lê Cảnh Hưng. Ông nghè hội nguyên Nguyễn Bá Dương đi sứ Bắc Quốc học
được cách dệt thứ lụa ấy, trở về dạy cho dân làng thành nghề. Đến nay, dân bản xã
còn nhắc nhở”... Tuy nhiên, tài liệu cũng chỉ cho biết nghề dệt của làng Phương La
hình thành vào khoảng niên hiệu Cảnh Hưng (thế kỷ XVIII) và từ nơi khác chuyển
đến, không xác định được tổ nghề.
Về tổ nghề dệt, hiện nay, trong hồ sơ di tích Đình Phương La có ghi: “Ngôi
đình này thờ vọng 6 vị thần, theo truyền thuyết là thành hoàng có công phát triển
nghề dệt của làng Phương La”. Tuy nhiên, quá trình điền dã tại các làng trong xã
Thái Phương và các xã lân cận, chúng tôi không thu được tài liệu nào khẳng định về
vị tổ nghề dệt của làng Phương La. Những vị thành hoàng làng được thờ vọng tại
đình Phương La cũng không đủ cơ sở để xác định họ là nhân thần và trong số họ có
vị là tổ nghề thực sự của làng, mà chỉ là những thiên thần. Các bậc cao niên cùng
các nghệ nhân làng Phương La và các làng xã lân cận thì cho rằng nghề dệt ở
Phương La đã có từ khoảng 300 - 400 năm, nhưng cũng không ai biết cụ tổ nghề là ai
và sinh vào thời nào.
Theo ông Trần Hữu Huỳnh, người xã Hồng An (giáp với làng Phương La)
cho biết, Thế phả dòng họ của ông có nói, vào thời Vua Lê Thánh Tông (1460-
1497), Nhà Vua đi đánh Chiêm Thành, bắt được tù binh đem về. Lấy ruộng công
của nơi xa, cấp cho người Chiêm cày cấy… Người Chiêm tụ họp lại dựng nhà lập
34
ấp, ngày khẩn hoang cấy lúa, trồng dâu chăn tằm, đêm đánh cá, dệt vải” [Nguồn:
Kết quả phỏng vấn của NCS và cộng tác viên].
Như vậy, nghề dệt ở Phương La có từ bao giờ và tổ nghề dệt là ai, đến nay, vẫn
còn là dấu hỏi. Mọi người cũng chỉ biết rằng, từ thời Trần, dân làng Phương La đã
phát triển nghề dệt. Tương truyền Trần Hoằng Nghị cùng bốn vị phu nhân đã giúp
dân mở nghiệp, mở chợ để dân trao đổi hàng hóa và những sản phẩm tơ lụa ở nơi
đây đã đến với Kinh đô Thăng Long. Các bậc cao niên trong làng giải thích, có một
thời, tên làng là “Hương La”, nghĩa là lụa thơm. Loại lụa này nổi tiếng dùng để tiến
vua, đối ngoại với các nước láng giềng. Sự tồn tại lâu đời của nghề dệt, gắn với
trồng dâu nuôi tằm ở các làng thuộc Hưng Hà đã được dân gian đúc kết thành các
câu ngạn ngữ "Chiếu Hới, vải Bơn, lụa Mẹo". Ở Phương La còn lưu truyền câu ca
dao nói về nghề dệt: “Càng rộng đường go, càng to vốn sợi”, hoặc “Khéo quay tơ,
lơ dệt cửi”, “Con gái dệt nái, tay trái đếm tiền”…
1.2.2.2. Nguyên liệu dệt
Nguyên liệu để dệt được những tấm vải tơ lụa mềm mại, óng ả nuột nà là tơ
tằm. Tài liệu Chú thích về tỉnh Thái Bình (Notice sur la province de Thái Bình), ký hiệu
M.10372 cho biết, các huyện trong tỉnh Thái Bình có trồng dâu (trước năm 1945):
“Dâu, tằm: theo thống kê toàn bộ về các bãi dâu tiến hành năm 1931 - 1932, diện tích
trồng dâu tằm lên tới 1.830 mẫu (dâu trồng ở vườn và dâu trồng ở các bãi cát)”. Đặc
biệt, tài liệu cũng khẳng định diện tích trồng dâu ở hai huyện Duyên Hà (286 mẫu) và
Hưng Nhân (50 mẫu) … Tuy nhiên, trước đây làng Phương La chỉ có khoảng mươi hộ
nuôi tằm, ươm tơ. Đại đa số các nhà dệt chủ yếu đi bộ để mua nguyên liệu của người
làng Đìa, xã Hồng An (huyện Hưng Nhân); Thuận Vi (huyện Thư Trì); làng Quan
Nhân (huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Nguyên liệu của địa phương xa hơn được dân
các nơi mang đến chợ Nga (làng Nga xã Minh Tân) bán, trao đổi.
Khi nghề dệt của làng phát triển mạnh, các chủ lái tơ từ các làng Bách Thuận, Bách
Tính (huyện Thư Trì); tỉnh Nam Định, Hưng Yên cũng tìm tới bán tơ, hoặc đổi lấy vải. Tơ
thường cuộn nhỏ bằng chiếc chén hoa hồng, mỗi noi tơ nặng khoảng 50 gam. Ba bốn chục
35
noi gọi là một lá, một dúm. Người mua tơ chỉ cần nhấc lên lắc lắc, nếu tơ khô thì có tiếng kêu
giòn tan, nếu tơ còn ẩm chỉ tiếng kêu đục. Trong làng dệt Phương La, có người chỉ ngửi qua
cũng biết được tơ mới, tơ cũ, hay tơ còn ẩm.
1.2.2.3. Công cụ dệt
Bộ công cụ của nghề dệt bao gồm khung cửi, dụng cụ đánh sa, đánh suốt để tạo
nên những con thoi; bàn mắc, bàn tráng, tạo nên những hoa cửi. Khung cửi cổ xưa của
làng Mẹo được gọi là khung con phượng (khung con cò), gồm nhiều bộ phận cấu
thành: phần khung, ông lão, go, bia, con cò và phần chân dận... Đây là loại khung dệt
chân đạp, tay nâng, có con thoi đưa qua đưa lại. Khung dài khoảng gần 3m, rộng từ
80cm-1m. Chiều cao (giường cửi cao nhất) khoảng 80cm. Khung dệt ở trên; go, sổ
dùng để đập sợi phía dưới (sợi được luồn trước). Những năm trước đây, cả làng chỉ có
khoảng 200 khung dệt cổ để dệt lụa, sau đó chuyển sang dệt vải, dệt màn...
1.2.2.4. Tổ chức sản xuất và phân công lao động
Xưa, việc tổ chức sản xuất của làng Phương La đều theo quy mô hộ gia đình,
tự sản, tự tiêu… Mỗi hộ gia đình là một cơ sở dệt, chủ động hoàn toàn mọi khâu từ
mua nguyên liệu, dệt đến tiêu thụ sản phẩm, tận dụng tối đa sức lao động, thời gian
rỗi của mọi người trong gia đình.
Trong các công đoạn, người nam giới chủ hộ, lo nguyên liệu, tiêu thụ sản
phẩm và chỉ đạo sản xuất. Dệt do người vợ đảm nhiệm. Bà già, con trẻ làm việc lặt
vặt: chuẩn bị sợi, đánh sa, tỉa tót phần dư thừa của sản phẩm.
Năm 1957-1958, người Phương La tổ chức sản xuất theo mô hình HTX tiểu thủ
công nghiệp. Từ năm 1960, các tổ hợp sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp ra đời. Năm
1980, làng nghề Phương La đã thành lập được ba tổ hợp sản xuất hàng dệt: dệt - nhuộm
Tân Phương của ông Trần Văn Sen, tổ hợp Sinh Lực của ông Đinh Hồng Quân và tổ
hợp thương bệnh binh của ông Đoàn Văn Hoàng và một số tổ hợp dệt nhỏ lẻ khác. Các
hộ gia đình làm nghề vẫn đóng vai trò là cơ sở sản xuất. Sau đó không lâu, xí nghiệp
dệt Rạng Đông nay là Công ty dệt nhuộm Bình Minh cùng hàng chục doanh nghiệp
khác đồng loạt ra đời. Hàng dệt của làng có mặt ở thị trường trong nước và ngoài nước.
36
1.2.2.5. Sản phẩm dệt
Trong xã hội truyền thống, làng Phương La chuyên sản xuất lụa tơ tằm và
vải khổ hẹp bằng khung cửi con cò. Sản phẩm của làng Mẹo xưa chủ yếu là lụa, vải
vuông, đũi, nái đen và các sản phẩm từ tơ tằm, sợi bông. Mặc dù số lượng dệt ra
không nhiều nhưng lụa của người làng Mẹo màu mỡ gà vàng óng, mát mượt, mịn
màng đẹp như ráng trời vàng mềm mại, đạt trình độ mỹ thuật và thẩm mỹ cao đã
hút hồn biết bao người. Những năm khó khăn 1959, 1960; người thợ đành phải
chuyển sang làm ruột bấc đèn dầu các loại, dệt thắt lưng, bện giải rút quần… để duy
trì nghề. Năm 1980, khi hình thành các tổ hợp sản xuất, sản phẩm dệt là các loại vải
thổ cẩm có hoa văn, vải bò, vải dệt khổ vuông đê-cô và lụa satanh bằng tơ hóa học, dệt
gia công theo đơn đặt hàng của nhà máy dệt Nam Định.
Mặc dù sản phẩm đã đạt trình độ thẩm mỹ cao nhưng người Phương La vẫn tiếp
tục phát triển nghề dệt bằng cách vừa làm nghề, vừa học nghề của thiên hạ. Tới những
năm 80 của thế kỷ XX, người làng vẫn đi Vạn Phúc Hà Đông, sang Hà Nam, Nam
Định để tìm hiểu và học kỹ thuật đóng khung cải tiến, cách dệt lụa của họ, làm cho sản
phẩm tinh xảo và đẹp hơn.
1.2.2.6. Việc tiêu thụ và thu nhập
Theo lưu truyền dân gian, trước đây, làng Mẹo không có chợ, dân làng muốn
mua bán phải sang chợ Then (làng Trác Dương) do làng này có nghề làm gốm phát
triển, nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa cao. Trần Hoằng Nghị muốn lập chợ trên
chính làng quê mình vừa để dân được thuận tiện mua bán, vừa để phát triển kinh tế.
Muốn có chợ phải "cướp" được chợ Then về, nhưng việc “cướp” chợ rất khó khăn
vì chợ Then tuy có quy mô nhỏ nhưng được đặt trên một vị trí thuận lợi, dân trong
vùng đã quen với việc đi chợ này. Tương truyền, để “cướp” được chợ, Trần Hoằng
Nghị đã nhận lời thách đố của dân làng Then, chỉ với một gánh trên vai mà phải
gánh được cả chợ (gồm lều chõng, mọi mặt hàng, từ rau, thịt, cá, gạo đến nồi niêu,
vải vóc…) về đặt tại làng Mẹo thì làng Then chịu mất chợ. Chẳng hiểu làm thế nào
mà Trần Hoằng Nghị đã chuyển tất cả những thứ đó từ chợ Then về làng mình chỉ
bằng một gánh. Thế là từ đấy làng Then không còn chợ, và làng Mẹo thì có chợ như
37
ngày nay. Thực ra, câu chuyện dân gian này ẩn đằng sau một thực tế: làng Mẹo có
kinh tế khá hơn nên đã thu hút được nhiều người đến mua bán, trao đổi dẫn đến việc
hình thành chợ. Có chợ, sản xuất nông nghiệp và nghề dệt lại càng phát triển, khu
Bến Trấn trở thành khu vực kinh tế phồn thịnh.
Xưa, chợ Mẹo họp tại đình làng, năm ngày một phiên, vào các ngày 5 và
9; chủ yếu bán các sản phẩm nông nghiệp, các đồ dùng phục vụ sinh hoạt, nghề
nông. Ngoài ra, loại sản phẩm không thể thiếu được của chợ đó là lụa, lụa bày
bán rất nhiều. Người dân nơi đây dùng khớp cột đình để đo độ rộng hẹp của lụa,
không chỉ thuần túy đo tỷ lệ mà còn có ý nghĩa về mặt tâm linh: là sự chứng
giám của thần linh trong việc mang sản phẩm ra bán, nếu làm thiếu, làm “điêu”
về chất lượng, sẽ bị thần trách phạt. Sản phẩm dệt của làng đã có mặt ở thị
trường nước ngoài vào những năm 1937 do ông Trần Văn Tuân thiết lập mối trao
đổi với thương gia người Nhật.
Ngoài buôn bán ở chợ làng, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, để trao
đổi được mặt hàng dệt, Phương La còn có nhiều người buôn bán đường dài, nổi
tiếng, như các ông Trần Văn Nghinh, Lê Văn Chính, Đỗ Văn Tỉnh, Đinh Bá
Nhân…. Những nhà buôn này hoạt động ở nhiều thương trường khác nhau: Hà Nội,
Nam Định… Nhiều người buôn bán phát đạt, trở nên giàu có, về tậu trâu, mua
ruộng đất, mua gỗ lim làm nhà; có người tranh được chức lý trưởng.
Để sinh tồn với nghề dệt đã vất vả nhưng khi buôn bán sản phẩm do mình
làm ra còn vất vả và nguy hiểm hơn, thậm chí nhiều khi công việc tiêu thụ sản phẩm
từ nơi này đến nơi khác, nhất là trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc, có người đã phải
đổ máu, thiệt mạng khi mang hàng dệt đến các tỉnh xa để tiêu thụ. Nhiều cụ già làng
Phương La còn nhớ mãi chuyện tiêu thụ hàng đầy nguy hiểm và khó khăn của
người làng trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Năm 1948, sau khi giặc Pháp
chiếm Thái Bình, khung cửi được người làng tháo ra, cho xuống ao giấu vì sợ bị
cháy khi bom đạn bắn vào làng, thời kỳ này có nhiều gia đình trong làng Phương La
tản cư vào vùng tự do ở Thanh Hóa. Họ tụ nhau lại, sống ở khu làng Vực, Đông
San, Hậu Hiền, Nam Ngạn v.v.. bên bờ sông Mã. Thấy trong vùng có nhiều người
38
bán tơ, sợi bông; người Phương La cùng nhau đóng khung, mua tơ dệt vải đem bán
ở các chợ Cầu Bố, chợ Thông, chợ Đông Sơn… Thấy hàng chạy, họ thông tin về
quê hương, người dân lại vớt khung cửi lên, mua tơ, sợi về dệt vải lụa. Đồn bốt giặc
giăng khắp nơi, nhưng người Phương La vốn thông minh, khôn khéo, không chịu bó
tay, khuất phục, họ len lỏi tìm đường tắt để vào Thanh Hóa. Lụa tơ tằm, vải đũi lại
được đóng thành từng bó, ban đêm người Phương La mang hàng vượt sông Hồng,
qua vùng đồng nước chiêm trũng Hà Nam Ninh, Cống Guờ, chợ Chanh huyện Lý
Nhân tỉnh Hà Nam. Đêm khuya, vượt đường 21 sang đất Gia Viễn, Nho Quan xuôi
vào Thanh Hóa. Đã có không ít người khi vượt đường chẳng may bị giặc phục kích
bắn bị thương. Có người bị giặc bắn chết, khi gục xuống hai tay vẫn còn ôm chặt bó
lụa vào lòng [Nguồn: Phỏng vấn của NCS, năm 2013].
Trước 1945, người ta đã định giá cho từng mặt hàng được sản xuất từ tơ tằm,
sợi bông của nghề dệt tỉnh Thái Bình nói chung và làng Phương La nói riêng: lụa
dệt từ tơ sống rộng 0,38m (quần phụ nữ) 50 vuông giá 4,7đ - 7,5đ; lụa dâu bốn (bốn
sợi) rộng 0,36m, 50 vuông, 3,7đ (dùng để dệt quần phụ nữ), lụa dâu sáu (loại lụa
sáu sợi) rộng 0,39m, 50 vuông, 6,70đ. Ngoài ra, người ta còn định giá các loại lụa
dệt từ thứ phẩm của kén vải tơ, đũi với nhiều mức khác nhau.
Đến khi vải làng Mẹo trở nên nổi tiếng, thương lái ở các nơi tìm về mua mang
đi và bán lại các sợi tơ, sợi bông cho làng. Phương thức này được duy trì cho tới tận
những năm 50 của thế kỷ XX.
Giai đoạn sau hòa bình, trong thời bao cấp, người làng nghề mỗi khi đem
hàng đi bán ở các chợ trong huyện, trong tỉnh hoặc ra tỉnh ngoài đều phải lén lút,
lẩn tránh thuế vụ, tài chính, nếu không may gặp họ thì không những bị tịch thu hàng
mà người bán còn bị phạt vì tội buôn gian, bán lận….
1.2.2.7. Truyền nghề và học nghề
Như bao làng nghề khác ở Việt Nam, do phải giữ bí quyết nghề nghiệp nên
qua nhiều thế kỷ, các nghề vẫn chỉ tồn tại ở một số làng nhất định mà không thể tỏa
sang các làng khác. Làng Mẹo cũng không phải ngoại lệ. Người làng Mẹo luôn tôn
39
trọng truyền thống giữ bí quyết nghề nghiệp và không tiết lộ trong bất cứ hoàn cảnh
nào, cho bất cứ đối tượng nào. Anh em cũng không tiết lộ cho nhau, vợ chồng cũng
không chia sẻ. Tổ tiên, cha mẹ không bao giờ truyền hết nghề cho một người con, mà
truyền cho mỗi người một công đoạn. Vì vậy, trong một gia đình người Phương La
xưa, anh cả chỉ biết nghề dệt, em trai chỉ biết phân sợi, có người chỉ biết đánh ống,
tẩy, nhuộm… Chính vì cách truyền nghề này mà người ngoài làng, ngoài họ không
thể học lén được nghề. Chi tiết minh chứng cho sự giữ gìn bí quyết nghề thể hiện,
nhiều lần đi tham quan hệ thống máy dệt, ông trưởng phòng Công thương của huyện
Hưng Hà từng chứng kiến, chỉ cần một thao tác nhỏ của người thợ dệt là cả hệ thống
máy dừng hoạt động mà ông cũng không thể phát hiện. Ngay cả một số làng sát cạnh
làng Phương La như Xuân La, cùng thờ chung thành hoàng là Trang Nghị Đại vương
mà cũng không có nghề dệt. Các làng trong vùng cũng chỉ biết chăn tằm, kéo tơ, đem
đến thuê người làng Phương La dệt vải, dệt lụa hoặc bán tơ cho họ. Đến sau ngày hòa
bình lập lại (1954), việc truyền nghề vẫn đóng khung trong phạm vi gia đình. Điều
này được thể hiện trong bản tục lệ xã Phương La, đó là khuyến khích con gái lấy
chồng người làng, con gái lấy chồng làng khác thu thêm một quan tiền cheo. Như
vậy, nghề dệt làng Phương La truyền nghề theo kiểu “cha truyền con nối”, truyền
nghề trực tiếp trên khung dệt, cầm tay chỉ việc, bắt chước lẫn nhau nên người thợ chỉ
biết làm theo thói quen, làm từng công đoạn…, tạo nên tính thụ động. Đa số, chỉ
truyền nghề cho con trai, chủ yếu là để giữ nghề, duy trì, phát triển nghề truyền
thống, giữ bí quyết nghề còn có mục đích chi phối quan hệ nội tộc.
40
1.2.3. Văn hóa làng Phương La trong xã hội truyền thống
1.2.3.1. Văn hóa vật chất
Không gian, cảnh quan làng
Làng cổ truyền người Việt xưa có cấu trúc rất đặc biệt và đa dạng, bao chứa
trong đó là những tổ chức nhỏ như dòng họ, phe giáp… Trong cộng đồng làng đó có
sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong làng. Vì vậy, làng là một cộng đồng bền
chặt, tự trị, khép kín, được bao bọc bởi lũy tre làng.
Làng Phương La cũng nằm trong cái chung ấy. Người Phương La sống,
dựng nhà quây quần, tụ cư bên nhau theo địa vực. Tuy nhiên, mỗi gia đình ở một
ngôi nhà riêng, trên khoảnh đất riêng rộng rãi, xung quanh cũng được bao bọc bởi
bờ tre hoặc hàng rào. Anh em, họ hàng thường chọn ở cạnh nhau còn “tối lửa, tắt
đèn có nhau”. Làm nhà là một trong ba việc trọng đại của đời người (tậu trâu, cưới
vợ, làm nhà), nên việc chọn đất, chọn hướng để làm nhà được người Phương La
rất quan tâm. Vị trí nhà thường phụ thuộc vào địa vị xã hội, dòng họ và phụ thuộc
vào khả năng kinh tế của mỗi gia đình theo. Tuy nhiên, hướng nhà được người
Phương La chọn làm là hướng đông nam, tây nam và nam “Lấy vợ đàn bà, làm
nhà hướng nam”. Hầu hết những người chính cư đều chọn vị trí trung tâm của
làng để làm nhà, nơi thuận lợi cho việc gặp gỡ, trao đổi. Kiến trúc chung của các
gia đình bao giờ cũng có cổng dậu, đường vào nhà, trước cửa có giàn hoa và sân
nhà, đằng sau là vườn trồng rau và cây ăn quả. Nhiều nhà có ao thả bèo phục vụ
chăn nuôi. Chuồng lợn, chuồng gà, khu vệ sinh làm ở phía sau nhà hoặc phía trái
nhà, khuất sau đống rạ, đống rơm. Nhà thường được làm quay về hướng Nam, bếp
được dựng riêng không liền nhà. Nhiều gia đình còn có giếng nước đặt tại vị trí
khoảng cách giao nhau giữa nhà và bếp. Người Thái Bình nói chung, người làng
Phương La nói riêng làm nhà mái chảy. Nhà nghèo thì làm nhà tranh vách đất, nhà
khá giả được làm bằng gỗ, mái lợp ngói, xây bằng gạch… Nhà lớn thì năm gian,
thông thường là ba gian, nhà nào cũng có buồng ở bên cạnh để dành cho đàn bà,
phụ nữ ngủ hoặc để chứa đồ dùng, vật dụng quý,… Nhìn chung, nhà được thiết kế
đơn giản, vật liệu chủ yếu tre, nứa, gỗ, đất.
Xưa, để vào được làng Phương La phải qua con đường dài mấy cây số, hai bên
là cánh đồng lúa bát ngát. Làng hiện lên thấp thoáng trong những lùm cây um tùm.
Không gian của làng thoáng đãng với hệ thống đường làng, ngõ xóm dài ngoằn
ngoèo; vườn cây, ao chuôm rộng rãi, xanh mướt um tùm. Môi trường sống trong
lành, tạo cảm giác thư thái, thanh bình. Với lối kiến trúc cùng với điều kiện kinh tế và
sự nhận thức của người Phương La nên làng khép kín, có phần “biệt lập” với “thế
giới” bên ngoài.
41
42
Các di tích tín ngưỡng, tôn giáo
Làng Phương La có đủ cả đình, chùa, miếu, nhà thờ họ… và trong các di tích
tín ngưỡng, tôn giáo còn nhiều cổ vật quý. Nổi bật trong các di tích ấy của làng là
Đình Đông, chùa Ứng Mão, các nhà thờ dòng họ Lê, họ Trần…
- Đình Đông thờ vọng Lục vị thành hoàng: Đồng Loan, Đông Cương, Thiên
Quan, Lôi Công, Sơn Du, Thiên Quân là những người có công phát triển đồng điền,
nghề dệt ở Phương La xưa; có công giúp nhà Trần dẹp loạn, lập nên vương triều
mới. Đình được xây dựng đã từ xa xưa và được trùng tu vào năm Thành Thái thứ 2
(1890), trên một khuôn viên rộng thoáng. Đây là ngôi đình lớn của làng Phương La,
có quần thể tắc môn (bình phong) đẹp, tòa bái Đình 5 gian, 2 tòa tả vu, hữu vu (mỗi
tòa 3 gian), tòa hậu cung 3 gian. Trong đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật như
câu đối, hoành phi, cuốn thư, sắc phong là những tư liệu quý liên quan đến đời sống
tâm linh của dân làng. Bên trái đình có bia “Truy tự bi ký” được tạo dựng năm Tự
Đức thứ 15 (1862).
- Các đền, miếu: các vị thành hoàng được thờ chính ở các miếu nằm rải rác
trong làng. Đó là các miếu Sơn Du tôn thần, Thiên Quan tôn thần, Thiên Quan trấn
độ tôn thần, Đông Cương tôn thần, Lôi Công tôn thần và Đồng Loan tôn thần. Các
miếu này cũng đã có từ rất lâu và đến nay không còn nữa, bị phá hủy từ những năm
kháng chiến chống Pháp.
Miếu Gốc Đa, Ngoài các miếu, đền thờ thành hoàng còn có Miếu Gốc Đa
hay còn gọi là đền Nhà Ông - tương truyền đây là phần mộ của Trần Hoằng Nghị.
Trong miếu hiện còn bài vị có nội dung “Phụng đại vương thượng đẳng phúc thần
Trần Hoằng Nghị đồng tứ vị phu nhân”.
- Chùa Ứng Mão có tên Nôm là chùa Mẹo, ở giữa làng; nay thuộc thôn
Phương La 4. Chùa có cấu trúc chữ “Nhất”, gồm 5 gian 2 dĩ, hướng Tây. Phía ngoài
là nhà tổ và nhà mẫu có hướng đối diện với Phật điện.
Trong chùa có một quả chuông cổ Tân tạo hồng chung Ứng Mão tự ký (ghi
chép về việc đúc mới quả chuông lớn của chùa Ứng Mão, đúc xong vào ngày Tốt,
tháng Giêng, năm Chính Hòa thứ chín - tháng 2/ 1688). Bài Minh cho biết, ngày 16
tháng Chạp năm Bính Dần niên hiệu Chính Hòa (29- 01 - 1687), dân làng đồng
thanh đúc mới quả chuông. Chuông ghi rõ số tiền công đức của dân làng cùng
khách thập phương, tổng là 37 quan.
Phía trước gác chuông của chùa còn có tấm bia “Thạch kiều bi ký” được làm
bằng đá xanh, có chiều cao 110cm, rộng 58cm, dày 10cm.
- Các nhà thờ dòng họ
+ Nhà thờ dòng họ Trần gồm một ngôi nhà tổ (từ đường) và một căn nhà lưu
niệm. Từ đường là một gian nhà cổ. Mặt trước của từ đường là cửa chính có bốn
cánh cửa gỗ - vốn đây là “chuôi vồ” của đền thờ tổ chuyển về. Mái từ đường có
hình tháp 3 tầng, trên nóc là đôi rồng chầu mặt nguyệt, phía dưới có ba chữ Hán
dịch nghĩa “Phúc khánh Đường”.
+ Từ đường họ Lê được xây dựng cách đây khoảng 400 năm.
+ Họ Đinh có một nhà thờ cổ thờ Bà Cô. Tương truyền, “bà” chết lúc mới
lên tám tuổi. Về sau, có một người thuộc hàng cháu trong họ đi buôn tơ tằm ở Nam
Định. Trong một lần đi buôn, người cháu khấn Bà Cô “nếu Bà giúp cháu làm ăn
phát đạt sẽ về xây nhà thờ Bà”. Ngay sau đó, khi nhận tơ từ chủ buôn, ông kiểm lại,
thấy người chủ đã phát thừa cho ông một xe tơ. Với tính thật thà, ông mang số tơ
thừa trả cho chủ buôn. Cảm động trước tấm lòng của ông, người chủ hết lòng giúp
đỡ ông và công việc làm ăn của ông dần phát đạt. Nhớ đến lời cầu Bà Cô khi trước,
ông trở về quê, xây nhà thờ Bà Cô tổ (gọi là đền Bà Cô). Nhờ có kinh tế, ông ra
tranh chức chánh tổng - và ông chính là cụ Đinh Bá Lục, vào khoảng năm 1925,
1926, là người giàu nhất làng Mẹo, ruộng có hàng chục mẫu.
1.2.3.2. Văn hóa xã hội của làng Phương La
43
Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của làng Phương La trước Cách mạng tháng Tám 1945 về cơ
bản đều theo mô hình của làng Việt vùng châu thổ Bắc Bộ, gồm một hệ thống các
thỉết chế dựa theo các hình thức tập hợp người - như phân định của Nhà Dân học
Trần Từ trong cuốn sách “Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ”: dòng
họ; xóm ngõ; giáp; kỳ mục và chức dịch, phường hội.
- Dòng họ: trước 1994, làng Phương La có 10 dòng họ là Trần, Nguyễn, Đào,
Phạm, Lê, Vũ, Đặng, Đỗ, Đoàn, Đinh. Về sau, có thêm dòng họ Ninh tới sinh sống.
Theo các bậc cao niên, họ Trần về lập ấp ở Phương La sớm nhất và là dòng
họ có nhiều chi, số đinh đông nhất, chiếm tới 33% dân số trong làng. Đây cũng là
dòng họ có công khai khẩn vùng đất này. Họ Trần sống rải rác ở cả bốn xóm nhưng
tập trung nhiều nhất ở xóm Vượt và xóm Đống. Dòng họ Trần, họ Nguyễn, họ Lê là
những dòng họ lớn và có điều kiện kinh tế khá giả hơn các dòng họ khác ở Phương
La. Đặc biệt họ Trần rất có thế lực về kinh tế cũng như vị thế đối với làng xã, thể
hiện ở nhiều khía cạnh: sự quyên góp, tâm đức vào tu bổ các di tích đình, đền, chùa
miếu kể cả về số lượng vật chất cũng như số đinh tham gia; hoạt động xã hội, từ
thiện của các dòng họ này lớn, mạnh hơn hẳn các dòng họ khác, được làng xã ghi
nhận. Trong việc cúng tiến để đúc chuông chùa Mẹo, số người họ Trần chiếm tới
32% trong tổng số người của cả bốn thôn, tương ứng với 10 lần số người họ Đinh,
họ Vũ và gấp nhiều lần số thành viên của các dòng họ còn lại cộng lại.
- Xóm, làng Phương La có bốn xóm, xóm Vượt là xóm có đình, có chợ, ở
trung tâm làng; xóm Đống; xóm Điếm và xóm Cầu Tiên. Xóm là nơi cư trú của các
gia đình thuộc các dòng họ khác nhau. Tuy nhiên, nhiều trường hợp, một số dòng
họ tập trung đông đúc tại một xóm, như họ Trần, họ Vũ tập trung ở xóm Vượt và
xóm Đống; họ Đinh tập trung ở xóm Điếm và xóm Đống; họ Đỗ tập trung ở xóm
Cầu Tiên. Trừ xóm Đống, các xóm còn lại mỗi xóm có một điếm thờ thần linh bản thổ
và là nơi tuần phiên tập hợp đi tuần phòng vào buổi tối.
Trong cải cách ruộng đất, các xóm được đổi tên mang tính chất cách mạng, xóm
Vượt được đổi thành “Cộng Hòa”, xóm Đống đổi thành “Thống Nhất”; xóm Điếm đổi
thành “Dân Chủ”; xóm Cầu Tiên đổi thành “Quang Trung”.
Thời kỳ hợp tác hóa, các xóm là cơ sở để thành lập các HTX nông nghiệp
bậc thấp. Đến khi thành lập HTX toàn xã, các xóm trở thành các đội sản xuất. Khi
44
HTX suy giảm vai trò trong tổ chức sản xuất, các đội sản xuất chuyển thành thôn,
theo Quyết định của UBND tỉnh Thái Bình. Các thôn Cộng Hòa, Thống Nhất, Dân
Chủ, Quang Trung lần lượt được gọi thành thôn Phương La 1, 2, 3 và Phương La 4.
Mỗi thôn có chi bộ, trưởng thôn, phó thôn kiêm công an viên, ban công tác mặt trận
và các chi hội đoàn thể quần chúng.
- Giáp là thiết chế giữ vai trò quan trọng nhất đối với mọi mặt đời sống của làng,
là mắt xích quan trọng nhất trong cơ cấu tổ chức làng xã Việt Nam xưa.
Tuy nhiên, một điều khó khăn đối với chúng tôi khi nghiên cứu về giáp ở
làng Phương La là các bậc cao niên am hiểu về thiết chế này không còn, một số cụ
chúng tôi có dịp tiếp xúc chỉ đưa ra một vài thông tin sơ bộ; trong khi đó, các văn
bia, chuông khánh không để lại tư liệu nào đáng kể. Chỉ có cuốn thư tại đình
Phương La đã có cách đây khoảng 100 năm, trên cuốn thư có đề cập tới việc cuốn
thư này do bốn giáp của làng cúng tiến. Và cũng theo cuốn thư ở nhà thờ từ đường
họ Trần thì giáp ở Phương La là tập hợp các thành viên thuộc dòng họ vì trên cuốn
thư có ghi rõ: “Giáp Trần đình Đông bái tiến” vào năm Ất Sửu (1926). Trong đình
Đông có tấm biển gỗ khắc một bài tán do các vị ở giáp Vũ, Nguyễn, Trần, Đào cùng
tiến cúng năm Giáp Dần (1914). Theo các bậc cao niên thì xưa kia, bốn thôn của
làng gồm có tám giáp. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định giáp của làng Phương
La được tập hợp theo dòng họ, nhưng cũng có thể còn phụ thuộc vào cả số đinh
trong giáp cùng với địa vực sống của các họ (nếu dòng họ nào đông đinh thì có thể
sẽ chia thành nhiều giáp theo khu vực sinh sống) vì thế mới có“Giáp Trần đình Đông”
(theo cụ Lê Quang Hoa, sinh năm 1929, riêng họ Trần đã có bốn giáp).
Cũng như ở các làng quê Việt vùng châu thổ Bắc Bộ, giáp của làng Phương
La cũng được vận hành theo nguyên tắc các lớp tuổi. Theo tuổi tác, mỗi trai đinh
phải lần lượt gánh vác các nghĩa vụ với giáp, với làng mà quan trọng nhất là làm
lềnh (những người đã qua tuổi tráng đinh nhưng chưa đến tuổi lên lão). Nếu giáp
đông trai đinh, tuổi đến lượt gánh lềnh sẽ nặng và cả đời người thường chỉ một lần
gánh; ngược lại nếu giáp ít đinh, tuổi còn trẻ đã phải đảm nhận nghĩa vụ này, có
45
trường hợp một đời người phải hai lần làm lềnh. Người đến tuổi lềnh phải nuôi
(cũng có thể mua ở chợ) một con lợn to (còn gọi là ông ỷ). Lợn lềnh được đo vòng
cổ bằng thép, con nào có số đo lớn nhất được nhận giải thưởng của làng. Các cụ kể
lại, có một năm, cụ Trần Đình Đoái mua con lợn lềnh to đến mức, con lợn đứng,
người ngồi bên đây không nhìn thấy bên kia và cái răng nanh của lợn cũng rất dài.
Răng ấy được cắm vào đầu gậy để đi mời làng và còn được giữ làm kỷ niệm mãi
đến sau này. Lợn đem ra tế ở đình phải được mổ, lấy lá mỡ phủ lên toàn thân lợn tới
tận gáy rồi mới rước ra đình trong cảnh tưng bừng trống khua, chèo mở. Tế lễ
xong, lợn được xả ra, chia cho dân làng, sỏ để lại bổ ra chia cho những người có
chức sắc. Ông trùm được phần tai, mũi; Hương trưởng, Phần thu được cẳng giò;
còn lại cho Xã bán [Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2013)].
- Hội đồng kỳ mục là cơ quan quản lý làng, quyết định công việc của làng,
như: chia và đấu thầu ruộng đất công, bán ngôi thứ… Cơ cấu thành viên của hội
đồng này ở Phương La theo mô hình chung của làng Việt ở Bắc Bộ.
Một thời gian dài, làng Phương La là một khối thống nhất. Về sau, do mâu
thuẫn trong sinh hoạt đình trung, làng phân thành hai khu, lấy đình Đông làm trung
tâm: phía Đông Đình và phía Tây Đình. Mỗi khu là một “thôn”, có bộ máy điều
hành như một hội đồng kỳ mục với các chức danh của nó. Đây là hiện tượng chia
tách làng không phổ biến trên vùng châu thổ Bắc Bộ.
- Bộ máy chức dịch: trước Cách mạng Tháng Tám 1945, làng Phương La
cũng là một xã, có một bộ máy chức dịch thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, thu
thuế, điều động binh dịch cho nhà nước phong kiến. Những người được gọi là lý
dịch gồm lý trưởng, dưới là một phó lý. Ngoài ra, còn có các chức danh giúp việc
là: hương trưởng, hương lão, hộ lại, chưởng bạ,...
- Phường hội: xưa, Phương La cũng có các tổ chức phường hội: hội Tư văn
của những người có học, có chức; hội Tư võ của những người đi lính; hội Lão nhiêu
của những người 60 tuổi trở lên v.v; ngoài ra, còn có các phường nghề, phường tiền
nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn.
46
47
Hệ thống ngôi thứ trong đình
Hệ thống ngôi thứ đình làng là một trong những khía cạnh nổi bật nhất của
quan hệ xã hội ở làng xã thời phong kiến. Xã Hương La xưa (Phương La nay) cũng
quy định các thứ hạng để căn cứ vào thứ hạng mà hưởng bổng lộc và thực hiện chức
trách. Các thứ hạng nhất, nhì, ba, tư…phụ thuộc vào bằng cấp (học vị), phẩm hàm,
chức tước và tuổi tác. Theo các bậc cao niên, đình trung thứ hạng của làng xưa, cơ
bản như các làng Việt Bắc Bộ.
Ngoài ngôi thứ dành cho những người có tiêu chuẩn về bằng cấp (học vị),
phẩm hàm, chức tước và tuổi tác, làng Mẹo còn có các ngôi thứ dành cho những
người bỏ tiền ra mua như lý trưởng, phó lý, chùm, giám sự… Những người bỏ tiền
mua chức nhằm mục đích để cố được cái danh trước dân làng và không phải đi phu
phen, tạp dịch, tuần phong. Những chức mua này, ra làng cũng được chia các phần biếu:
Trùm được chia đầu gà (hoặc má lợn); Lý trưởng được cẳng giò, phẩm oản; Giám sự
được chia miếng bụng (miếng nây) lợn.
1.2.3.3. Văn hóa tinh thần của làng Phương La
Việc cưới và việc tang
- Việc cưới: ngày trước, con cái trong nhà đến tuổi lấy vợ, lấy chồng đều do
bố mẹ sắp đặt. Các bậc cha mẹ, ngay sau khi sinh con đã có ý định con cái mình sau
này lớn lên sẽ lấy ai, rồi tự lượng sức mình, sắp đặt, thường thì cho con lấy ngay
người trong làng: "Trâu ta ăn cỏ đồng ta", "con bá con dì tù tì lấy nhau" với kiểu
kết hợp "gái hơn hai, trai hơn một"; hoặc bạn bè hứa gả cho nhau. Xưa, việc cưới
quy định lệ nộp cheo và quy định rõ con gái lấy chồng nộp tiền cheo, rượu, trầu cau;
con cả bao nhiêu; con thứ bao nhiêu. Người con gái của làng Phương La không
được đi lấy chồng nơi khác vì sợ truyền nghề cho dân làng đó, chỉ có con trai được
lấy người ngoài làng. Con rể chưa cưới phải sêu Tết bố mẹ vợ tương lai vào mùng
năm tháng Năm, gồm một con ngỗng cùng năm cân đỗ xanh; dạm ngõ phải có một
gà trống và năm đấu gạo nếp (mỗi đấu tương ứng tám lạng).
Lễ xin cưới: gồm một xâu thịt từ 01 đến 02kg, nhà trai nói chuyện xin cưới
và đề nghị nhà gái thách cưới. Việc thách cưới của nhà gái còn tuỳ xem nhà trai có
lo được mới thách. Nếu nhà trai nghèo thì tùy lo thế nào cũng được, có khi thách
cưới chỉ đủ để nộp 7 đồng tiền cheo cho làng. Có đám thách cao quá, nhà trai bỏ
cuộc, nhà gái nhận lễ rồi mà bỏ thì phải trả lại lễ.
Dẫn lễ: trước hôm cưới một vài ngày, nhà trai đội lễ đến nhà gái gọi là dẫn
lễ. Thông qua việc dẫn lễ, mới rõ vai vế giàu nghèo trong làng; nhà giàu dẫn lễ bằng
quần áo, vòng xuyến, hoa tai, nhẫn, rượu 10 chai, tiền 3 chục, cau hàng nghìn quả.
Nhà nghèo chỉ tính lễ rồi cấn bằng tiền. Có đám nhà trai chưa nộp đủ lễ thách cưới,
nhà gái chỉ mời xơi nước rồi bỏ xuống bếp chứ không phá lễ. Mà lễ chưa phá là việc
chưa được chấp nhận thì không thể cưới được. Vì vậy, nhà trai phải về chạy cho đủ, có khi
phải gá ruộng và bán các thứ mới đủ dẫn lễ.
Lễ cưới: Nhà trai tổ chức cưới cho con, họ hàng đến mừng rượu, chè... Nhà
gái gả chồng cho con, họ hàng không mừng vật chất mà đưa dâu đến nhà trai để ăn
cỗ. Lệ xưa, ở Phương La, nhà giàu cưới con, tổ chức ăn uống linh đình. Nhà gái dù
nghèo nhưng vẫn thách cưới, yêu cầu nhà trai phải chuẩn bị 09 lễ. Lễ từ đường phải
là thủ lợn, các lễ khác được căn cứ theo đời mà chuẩn bị: “nhị đời thì to, tam đời thì
nhỏ hơn…” - “gần thì kết tràng hoa; xa thì chân giò, cẳng lợn; gần nữa thì cỗ
soạn”. Nhà gái nghèo không lo được cỗ thì xin nhà trai năm mâm cỗ soạn để mời
họ hàng, năm mâm cỗ này được nhà trai đội đến nhà gái vào ban đêm và nhà gái
cũng phải tổ chức ăn đêm. Cỗ soạn gồm hai đĩa thịt luộc, hai đĩa thịt xào, một đĩa
lòng, một bát su hào nấu với xương băm. Thông thường, lễ rước dâu được tổ chức
ban ngày; nếu nhà trai nghèo thì lễ rước lại phải tổ chức vào ban đêm. Ngày trước
thường cưới đêm, nhà gái đưa dâu xong về đến nhà, trời vẫn chưa sáng. Lễ cưới của
người dân làng Phương La vô cùng rườm rà, phức tạp, đủ mọi nghi thức, từ lễ xe
duyên, lễ mai mối, lễ dạm ngõ, lễ cưới, lại mặt, nộp cheo, thách cưới…
- Việc tang (việc hiếu): các phong tục tập quán của làng Phương La được ghi
chép trong bản “Tục lệ xã Phương La” lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Văn
48
bản được lập vào ngày 22 tháng Năm năm Tự Đức thứ 34 (1881), gồm 19 Điều,
trong đó có 13 Điều liên quan đến việc hiếu:
Việc hiếu quy định từ việc báo tang, làm nhà tạm đến việc bắc rạp, hộ tang
của họ tộc, của giáp, lệ biếu giáp và mời đãi những người hộ tang, lễ tế thổ thần; tế
yên vị; các tiết 100 ngày, rằm tháng bảy, giỗ đầu và giỗ mãn tang.
Theo các bậc cao niên, đám tang nhà bình dân; bố mẹ hoặc người nhà chết
phải có lễ đòn song trình hàng giáp đến khiêng. Nếu gia chủ túng thiếu quá thì được
nợ lại đến mùa mới phải trả. Nhà giàu thường tổ chức ăn uống linh đình ba ngày.
Những đô tùy phải qua một lần thử thách: để một chồng tiền xu trên nắp quan tài,
hoặc để chén nước trên đồng tiền, nếu đi không đổ sẽ được tham gia khiêng cữu và
được thưởng tiền. Linh cữu của người mất được đặt dọc gian nhà. Đưa người mất ra
đồng vào buổi sáng, những nhà bình dân thì không chọn giờ đưa. Người mất có thông
gia thì thông gia đến viếng, lễ là một cơi trầu, nắm hương hoặc đối trướng. Trước
đây, khi đào huyệt thì có thầy đi cắm hướng đất, rồi gia chủ mới cho người đào.
Các lễ tiết và hội làng
49
- Các lễ tiết trong năm của làng Phương La xưa, về cơ bản vẫn giống như ở
bao làng quê khác vùng châu thổ Bắc Bộ, gồm:
+ Lễ tiết lớn nhất trong năm là Tết Nguyên Đán, còn gọi là Tết Cả;
+ Lễ tế vào ngày 4 tháng Tư tại đình làng - là ngày hóa của các vị thần;
+ Lễ hợp kỵ: Trong nội dung của văn bia Truy tự bi ký tại đình Phương La
đề cập tới việc dân làng tổ chức lễ hợp kỵ, nghĩa là tiến hành tế lễ làm giỗ các vị
hậu có công đức giúp làng vào cùng một ngày [111, tr.175];
+ Lễ Thượng nguyên (Rằm tháng Giêng) diễn ra ở đình, chùa làng;
+ Lễ Khai hạ - mồng 1 tháng Tư (lễ cầu phúc trừ dịch bệnh);
+ Lễ rước: xưa kia tổ chức lễ rước các vị thần vào ngày 30 Tết;
+ Ngày Tết thanh minh: dân làng Phương La còn gọi là ngày dọn họ;
+ Tết Đoan Ngọ (mồng 5 tháng Năm);
+ Rằm tháng Bảy, còn gọi là “xá tội vong nhân”;
+ Rằm tháng Tám, Tết Trung thu có tục đón trăng phá cỗ…
+ Tết ông Công hay ngày tiễn đưa Táo quân về trời 23 tháng Chạp.
Bảng 1.3: Các lễ tiết chính trong năm của làng Phƣơng La xƣa
TT Lễ tiết
Ngày, tháng Nơi tổ chức
1 Tết Nguyên Đán
1,2, 3/Giêng Đình làng (đình Đông)
2 Rằm tháng Giêng
15/Giêng
Đình, chùa và các gia đình
3 Lễ tế
4/Giêng
Đình
4 Ngày thượng điền
1/ Hai
Đình
5 Lễ Khai hạ hay
1/Tư
Đình
6 Ngày hạ điền
4/Năm
Đình
7 Hội làng
20-25/Mười Đình
8 Lễ rước
30 Tết
Đình
[Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS].
- Hội làng, hội tại đình làng Phương La xưa kia được tổ chức từ ngày 20 đến
ngày 25 tháng mười. Lễ hội với nhiều diễn xướng dân gian, trong đó có mô thức mô
phỏng tục truyền nghề ươm tơ dệt lụa.
+ Phần lễ là các nghi thức thiêng liêng gồm: tế - lễ - rước, bày tỏ sự tôn vinh,
thành kính của cộng đồng với các vị thần thánh được thờ. Ngoài ra, phần lễ còn mô
tả công đức của các vị thần thánh. Hoạt động tế gồm: đọc văn tế, dâng hương hoa,
dâng rượu, múa kiếm, hát văn có dàn nhạc bát âm - kim tiền hòa theo người hát.
Phần lễ nghiêm trang, thành kính hướng tâm linh con người về cõi siêu nhiên để ghi
lòng tạc dạ công đức của người xưa nhằm giữ trọn đạo nghĩa. Theo các tài liệu thu
thập được ở làng Phương La, lễ tế trong hội làng vào ngày 20 đến ngày 23 tháng 10
hằng năm và được tổ chức rất long trọng. Một đoàn tế gồm 20 đến 25 người, khi
vào làm lễ chính thức chỉ có 12 người. Chủ tế đi hài, mặc quần trắng, áo xanh, đội
mũ xanh, có hai bồi tế đứng hai bên chủ tế. Trong bồi tế có một người là họa xướng,
một người là thông xướng. Hai vị này phối hợp chỉ huy việc hành lễ.
50
+ Phần hội là phần vui chơi, giải trí đua tài của những người tham gia lễ hội.
Thông qua các trò chơi dân gian mô phỏng lại những công việc của người dân trồng
lúa nước, việc đánh bắt cá, truyền nghề, đánh giặc và thi thố tài năng trên các lĩnh
vực của đời sống. Trong lễ hội còn tổ chức thi chọi gà, thi đấu gậy. Tại đình
Phương La, thi tài quay tơ, dệt vải.
51
Tiểu kết
Trên cơ sở kế thừa lý luận của các học giả đi trước, Luận án đã phân tích và
làm rõ thêm các khái niệm làng nghề, văn hóa làng nghề và biến đổi văn hóa làng
nghề. Luận án xác định, làng nghề là các làng có phần đông cư dân sống bằng một
nghề hoặc nhiều nghề thủ công, có khi chỉ là một công đoạn của nghề, tạo ra các
sản phẩm mang những nét riêng, thời gian làm nghề và thu nhập của nghề chiếm tỷ
lệ lớn nhất so với các hoạt động kinh tế khác; hoạt động làm nghề có ảnh hưởng lớn
đến các mặt khác của làng (kiến trúc làng xóm, nhà cửa, nhịp sống, phong tục tập
quán...). Văn hóa làng nghề mà Luận án đề cập, không đơn thuần là số cộng giữa
văn hóa làng và văn hóa nghề, mà là một dạng đặc thù, là một phức thể các yếu tố
văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng nghề, giữa nghề và
làng, giữa con người và các yếu tố ngoài con người, có quan hệ mật thiết, ràng buộc
và tác động vào nhau..
Văn hóa làng nghề cũng như văn hóa làng, được cấu thành bởi văn hóa vật
chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng; các yếu tố đó có quan hệ mật
thiết, ràng buộc và phụ thuộc nhau, trong đó nghề giữ vị trí trung tâm. Ngoài các
yếu tố chung của văn hóa làng, văn hóa làng nghề có một số yếu tố đặc thù, như
nhịp sống làng nghề, tâm lý và tính cách của người làng nghề… Song, văn hóa làng
nghề là một chỉnh thể thống nhất, không thể phân chia. Việc phân chia một cách cơ
học các thành tố trên nhằm giúp chúng tôi nghiên cứu sâu hơn về sự vận động, biến
đổi của văn hóa làng nghề.
Phương La là một làng cổ được hình thành và phát triển vào cuối triều Lý,
gắn với công lao khai ấp, mở làng, truyền cho dân nghề dệt của Trần Hoằng Nghị.
Ngoài họ Trần, còn các dòng họ Nguyễn, Đào, Phạm, Lê, Vũ, Đặng, Đỗ, Đoàn,
Đinh cùng chung lưng đấu cật để gây dựng và phát triển làng. Về sau, có thêm họ
Bùi và họ Ninh.
Xưa, Phương La nổi tiếng là vùng đất trù mật, với sản xuất nông nghiệp và
nghề thủ công rất phát triển. Sản phẩm lụa của làng nổi tiếng khắp vùng, là sản
phẩm tiến vua và đối ngoại khi bang giao với các nước làng giềng. Chợ và nghề dệt
của làng Mẹo trong quá khứ là điểm khởi nguồn cho sự phát triển kinh tế của làng
Phương La ngày nay. Người Phương La dựng nhà đơn giản, vật liệu chủ yếu là tre,
nứa, gỗ. Họ sống tụ cư bên nhau, với lối sống thư thái, thanh bình, không bon chen.
Phương La là một làng cổ mà ở đó còn lưu giữ được cả một quần thể di tích, công
trình lịch sử văn hóa như Đình Đông, chùa Ứng Mão… Hội làng Phương La xưa có
nhiều hoạt động phong phú, nơi tái hiện các nghi thức của cư dân lúa nước… Tóm
lại, có một văn hóa làng nghề Phương La trên nền cảnh chung của văn hóa làng Việt
ở châu thổ Bắc Bộ.
52
53
Chƣơng 2
NGHỀ DỆT VÀ VĂN HÓA VẬT CHẤT
CỦA LÀNG PHƢƠNG LA HIỆN NAY
2.1. Nghề dệt của làng Phƣơng La hiện nay
Đối với các làng nghề, văn hóa mưu sinh thể hiện rõ nhất ở các khía cạnh
liên quan đến làm nghề. Trong quá trình làm nghề, bên cạnh việc đầu tư kỹ thuật,
người làng nghề luôn tính toán để làm sao đầu tư cho sản xuất ít mà lại thu lợi
nhuận cao nhất, trong đó, việc tìm ra một sản phẩm còn bị thị trường “bỏ ngỏ” là rất
quan trọng.
Người Phương La cũng vậy. Quá trình làm nghề hàng mấy trăm năm đã
khiến người Phương La tốn biết bao công sức, trăn trở, tìm tòi và suy ngẫm, cải
tiến, nâng cấp công cụ, tổ chức lại sản xuất, tìm ra các sản phẩm “đứng được”
với thị trường. Có những lúc tưởng chừng đã “đổ bể”, song với lòng quyết tâm,
người thợ Phương La lại gượng dậy, vượt lên. Chỉ tính từ sau hòa bình lập lại
đến nay, trước tác động của các chính sách, của cơ chế quản lý kinh tế - xã hội,
người Phương La đã sáu lần cải tiến công cụ, thay đổi nguyên vật liệu, đổi mới
tổ chức sản xuất, thay đổi loại hình và mẫu mã sản phẩm, để cuối cùng phát hiện
một sản phẩm lại là mặt hàng phổ thông (khăn tắm, khăn mặt, khăn ăn, khăn
lau), hầu như ai cũng có nhu cầu sử dụng; Nhà nước lại chưa quan tâm đến… Từ
giữa những năm 90, sản phẩm khăn “đứng được” trên các loại thị trường, dệt
khăn làng Phương La ngày càng được mở rộng, mang lại nguồn thu lớn cho
người dân nơi đây. Người Phương La là điển hình cho sự nhanh nhạy với thị
trường. Đây cũng là biểu hiện cho sự thích ứng nhanh nhạy và hợp lý với sự
chuyển biến của thời cuộc, tìm ra những cơ hội để mưu sinh trong làm nghề của
người Phương La. Những thăng trầm, biến đổi của nghề dệt ở Phương La được
khái quát ở Bảng 2.1.
Bảng 2.1: Các giai đoạn biến đổi của nghề dệt làng Phƣơng La
Những biến đổi chính của nghề dệt
Công cụ
Nguyên liệu
Sản phẩm
Tiêu thụ
Tổ chức sản xuất
Thời điểm thay đổi 1957- 1972
Sợi bông, tơ tằm
Hộ gia đình
Khung con phượng, tay giữ 3 tầng
Thị trường tự do - chủ yếu là chợ làng
1973- 1975
Sợi bông, sợi cói
Hộ gia đình
Thị trường tự do
Tơ hóa học Hộ
1976- 1985
Vải diềm bâu, màn muỗi, lụa tơ tằm, vải khổ hẹp Các loại vải sợi tiết kiệm; dệt chiếu Vải màn, màn chống muỗi
gia đình, Tổ hợp
Khung con phượng thủ công Máy dệt đạp chân (khung con phượng cải tiến)
1986- 1989
Máy dệt đạp chân
Sợi bông, tơ tằm
Theo đơn đặt hàng của Nhà máy dệt Nam Định và thị trườngtựdo Theo đơn đặt hàng và thị trường tự do
Hộ gia đình, Tổ hợp
1990- 1995
Thị trường tự do
Máy dệt đạp chân, khung dệt cải tiến lắp mô tơ điện
Sợi bông tự nhiên, sợi bông nhân tạo
1996- 2014
Sợi bông tự nhiên, bông nhân tạo
Vải vuông đê- cô lụa tơ tằm, satanh, diềm bâu,vải màn, vải thổ cẩm, khăn mặt trơn Khăn mặt trơn và khăn mặt có cải hoa văn Khăn mặt, khăn ăn, khăn tắm các loại
Thị trường trong nước và quốc tế
Khung dệt cải tiến, bán hiệnđại; máy dệtcôngnghiệp; máy hiện đại
Hộ gia đình, Tổ hợp Công ty, Xí nghiệp Hộ gia đình, Tổ hợp Công ty, xí nghiệp
[Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS (năm 2013)].
54
2.1.1. Việc sử dụng và thu mua nguyên liệu dệt
Ngay từ xưa, người Phương La đã biết tạo ra nghề phụ để có thêm thu nhập
lúc nông nhàn, trang trải cho cuộc sống. Do sản xuất chưa phát triển, nhu cầu
nguyên liệu chưa nhiều nên các hộ sản xuất tự lo, tự đi tìm; chưa hình thành thị
trường cung cấp nguyên liệu đầu vào, nguyên liệu bấp bênh, giá thành lúc cao, khi
lại thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến nghề; đồng thời, làm cho người thợ thụ động, phụ
thuộc “có thì làm, không có thì chơi‟‟.
Ngày nay, với sự năng động, sáng tạo, tư duy kinh tế nhanh, người Phương
La đã đổi mới nguyên liệu sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường. Nguyên liệu nay rất
phong phú và đa dạng, không chỉ là tơ tằm mà chủ yếu lại là sợi bông rất thông dụng,
có thể được mua từ Nam Định, Hải Phòng, các tỉnh phía Nam hoặc nhập khẩu từ Trung
Quốc. Bông được lấy từ quả của những cây bông tự nhiên nhưng cũng có thể là
bông nhân tạo- nguyên liệu này nhẹ, xốp.
Nguyên liệu còn nhập tại các nhà máy sợi Đại Cường, Nam Long, Đam San,
Đông Phong… đều ở khu công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh, thành phố Thái Bình. Các
loại sợi này bao gồm sợi pha ni lông và sợi côtông. Sử dụng sợi pha ni lông hay sợi
côtông phụ thuộc vào nhiều yếu tố, có thể do yêu cầu của nơi đặt hàng, cũng có thể
do giá thành sản phẩm quy định. Sợi côttông mát vào mùa hè, ấm áp vào mùa đông
nên giá thường cao hơn.
Kinh tế thị trường nên các chủ công ty, xí nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc
chọn mua nguyên liệu đầu cho cơ sở sản xuất của mình.
Hộp 2.1.: Ý kiến về nguyên liệu đầu vào của công ty, doanh nghiệp
Ông Trần Văn Dũng - Giám đốc công ty TNHH Thảo nguyên: “Bây giờ
sướng lắm, nguyên liệu tha hồ mà chọn lựa, cơ sở nào làm ăn nghiêm túc là chúng
tôi lấy, mà hầu hết đã là bạn hàng thì họ đều làm ăn nghiêm túc cả. Có tiền thì thanh
toán ngay, nếu không trả sau cũng được. Còn nguyên liệu cân đong đo đếm thì khỏi
phải lo, chúng tôi làm trực tiếp với giám đốc công ty mà, hợp đồng lấy lâu dài”.
[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].
Các hộ sản xuất nhỏ, đa phần mua lại sợi từ những người buôn, là đại lý bán sợi
tại làng nên rất thuận lợi, không phải lo đi chạy nguyên liệu như ngày xưa. Như vậy,
xuất hiện dịch vụ nguyên liệu đáp ứng cho những hộ gia đình sản xuất ít nằm tại làng.
55
Thực tế tại hai xã nghề Minh Tân, Nam Cao, chúng tôi được biết, ở đây vẫn
chưa có thị trường nguyên liệu tại làng, xã; hầu hết các hộ chủ yếu dệt thuê cho vài
doanh nghiệp và các doanh nghiệp đa số đi lấy sợi về chứ ít khi hợp đồng với các
nhà máy sợi để họ mang về vì số lượng lấy không nhiều.
Hộp 2.2: Ý kiến về nguyên liệu đầu vào của các hộ sản xuất nhỏ
Ông Nguyễn Văn Thắng, hộ gia đình dệt gia công: “Ngoài mấy chục công ty,
doanh nghiệp, còn lại đa phần là các gia đình dệt gia công cho các công ty để họ xuất
khẩu ra nước ngoài (Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật…) nên nguyên liệu do chủ cung cấp.
Cả làng bây giờ chỉ còn khoảng 20 hộ, trong đó có gia đình tôi là tự nhập nguyên
liệu, tự dệt và tiêu thụ sản phẩm. Nguyên liệu chúng tôi mua ngay tại đại lý ở làng,
thuận lợi lắm, loại nào cũng có”.
[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].
Như vậy, đã hình thành một thị trường nguyên liệu cung cấp sợi cho Phương
La không chỉ ở ngay tại làng mà còn tồn tại ở các địa phương khác, vùng khác theo
các hợp đồng có tính pháp lý, ổn định, bền vững. Người Phương La giờ đây không
phải lo nguyên liệu đầu vào, giá thành nguyên liệu, mà họ có quyền chọn lựa
nguyên liệu, giá thành, chủ cung cấp uy tín để mua.
56
2.1.2. Về công cụ dệt
Do quan niệm là nghề phụ, làm thêm lúc nông nhàn nên công cụ dệt của làng Mẹo
xưa rất đơn giản, người thợ phải sử dụng sức mạnh của cơ bắp, năng suất lao động
lại thấp. Hầu như người dân ít quan tâm đến việc cải tiến công cụ, bao nhiêu năm
dụng cụ dệt vẫn là khung con phượng (còn gọi là khung con cò).
Ngày nay, quan niệm nghề dệt là nghề chính mang lại nguồn thu nhập cao,
nên người Phương La quan tâm đổi mới, cải tiến công cụ dệt. Họ đi các nơi Vạn
Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà Nội), Nam Định... học tập để về cải tiến công
cụ dệt của làng mình. Vì vậy, dụng cụ dệt của làng Phương La, qua các giai đoạn
đều được cải tiến, từ khung thủ công con phượng sang loại khung dệt cải tiến, rồi
khung dệt bán hiện đại (máy dệt bán tự động), sau đó là máy dệt công nghiệp và cao
hơn là máy dệt hiện đại.
Nhờ vậy, người thợ dệt đã giải phóng được sức lao động, không phải đạp
chân, đưa thoi như trước mà năng suất dệt tăng gấp nhiều lần. Máy dệt cải tiến chạy
điện có thể chạy 2 - 3 ca mỗi ngày, sản phẩm làm ra đẹp hơn và dệt được cả hoa
văn trên khăn mặt, khăn tắm… theo yêu cầu của khách hàng.
Với máy dệt, người thợ chỉ còn công việc chủ yếu là nối sợi khi bị đứt. Việc
nối sợi lúc máy đang chạy đòi hỏi phải nhanh, chính xác, dứt khoát. Phát hiện ra sợi
đứt, nối nhanh hay chậm là yếu tố quyết định tới năng suất, chất lượng sản phẩm. Vì
thế, người công nhân càng phải có tác phong công nghiệp.
Máy dệt công nghiệp, quá trình dệt hoàn toàn tự động sau khi người thợ mắc
quả sợi bông lên giá của máy, khởi động máy. Máy tự động rút sợi và dệt thành
khăn. Máy công nghiệp cho năng suất lao động cao hơn rất nhiều lần so với máy thủ
công trước đây và máy bán tự động hiện nay. Sản phẩm làm ra đẹp, mịn, phẳng, đáp
ứng nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Bình quân, một máy dệt công nghiệp cho giá
trị thu nhập từ 12 - 15 triệu đồng một tháng; máy dệt cải tiến cho thu nhập bình quân từ
4 -5 triệu đồng một tháng (đó là người chủ sở hữu máy của cá nhân mình và nhận hàng
về làm). Để đóng một máy cải tiến, trung bình mất 20 triệu đồng. Guồng mắc sợi cải
tiến có giá từ 15 - 20 triệu đồng. Một máy dệt công nghiệp có giá 220 triệu đồng trở
lên. Cuối năm 2014, một doanh nghiệp của làng đã nhập 30 máy dệt hiện đại, mỗi
máy giá 3 tỷ đồng” [Nguồn: Kết quả phỏng vấn của NCS].
Không chỉ phát triển nghề dệt ở làng Phương La, các doanh nghiệp còn chủ
động vận động hàng nghìn hộ dân ở các thôn, xã trong huyện tổ chức đóng khung
dệt gia công cho doanh nghiệp, tổ hợp của mình; đồng thời, xây dựng các xí nghiệp,
công ty dệt ở các địa phương trong tỉnh và thành phố Thái Bình. Tính đến năm
2013, toàn huyện Hưng Hà có 5376 khung dệt cải tiến và máy dệt công nghiệp,
ngay tại xã Thái Phương đã có tới 2842 máy dệt cải tiến và 42 máy dệt công nghiệp.
Riêng làng Phương La đã có 2069 máy dệt được loại khăn có khổ rộng từ 80cm -
1,2m để xuất khẩu [Nguồn: UBND xã Thái Phương]. Trong khi đó, cả xã nghề dệt
khăn Minh Tân cũng chỉ có trên 1.000 máy dệt.
57
Như vậy, nhờ sự sáng tạo, liên tục cải tiến công cụ sản xuất mà người Phương La
chuyển từ lao động chân tay, cơ bắp là chính sang lao động công nghiệp, chủ yếu do máy
móc, giải phóng được cơ bắp. Tuy nhiên, máy dệt công nghiệp đòi hỏi người lao động
phải nhanh, kịp thời, tập trung cao độ để xử lý, giải quyết các vấn đề diễn ra (nối sợi khi
bị đứt, vận hành để máy móc làm việc liên tục…). Điều đó giúp người thợ cũng được
chuyển biến từ tư duy, tác phong “đủng đỉnh, chậm chạp, mùa vụ” sang tư duy “chủ
động, kịp thời, công nghiệp”.
58
2.1.3. Về tổ chức sản xuất
Ngày xưa, do quan niệm "tự cung, tự cấp", làm ra sản phẩm thủ công chủ
yếu để tiêu dùng trong gia đình, thừa mới mang đi trao đổi. Sản phẩm làm ra ít, có
mang bán thì lãi cũng rất thấp. Vì vậy, việc tổ chức sản xuất của người làng Mẹo
đều theo quy mô hộ gia đình. Mỗi hộ là một cơ sở dệt, chủ động hoàn toàn mọi
khâu từ mua nguyên liệu, dệt, đến tiêu thụ sản phẩm; huy động tối đa sức lao động,
thời gian nhàn rỗi của các thành viên trong gia đình.
Từ năm 1986, cơ chế thị trường đã hình thành các hình thức sở hữu, phương
thức quản lý mới để thích ứng với quá trình hội nhập và phát triển. Đặc biệt, nhờ sự
thích ứng, năng động, dám nghĩ… của người Phương La nên họ đã nhanh chóng đổi
mới hình thức tổ chức sản xuất. Với quan niệm, hình thức sản xuất hộ gia đình khó
có thể giúp họ vươn lên làm giàu, muốn trở thành các ông chủ, ngoài đổi mới công
cụ sản xuất phải đổi mới cả trong tổ chức sản xuất để góp phần nâng cao năng xuất
lao động, giảm giá thành sản phẩm, thu lại lợi nhận cao. Vì thế, các hình thức sản
xuất mới nhanh chóng ra đời ở làng nghề Phương La. Cho đến nay, hình thức tổ
chức sản xuất của làng bao gồm:
1/Sản xuất theo hộ gia đình;
2/Sản xuất theo tổ hợp;
3/Sản xuất theo công ty, xí nghiệp và đã hình thành các khu công nghiệp
tập trung.
- Tổ chức sản xuất hộ gia đình: hình thức tổ chức sản xuất hộ gia đình trước kia
quy mô nhỏ không còn phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, bộc lộ không ít những
nhược điểm, do vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh ít, lực lượng lao động nhỏ lẻ,
không đảm bảo được với những đơn đặt hàng lớn; việc cải tiến kỹ thuật không kịp thời,
khó đáp ứng kỹ thuật cao. Mặc dầu vậy, hình thức sản xuất theo hộ gia đình vẫn có những
ưu điểm như chủ động về nhân công, thời gian làm nghề, về vốn, mặt bằng sản xuất…. Vì
vậy, sản xuất theo hộ gia đình vẫn vận hành tốt và phát triển song hành cùng các hình thức
tổ chức sản xuất khác.
Mô hình sản xuất này khép kín từ khâu nhập nguyên liệu đến dệt sản phẩm
và tự tiêu thụ sản phẩm, không lệ thuộc vào bất cứ một tổ chức sản xuất nào; chủ
yếu các hộ gia đình dệt vệ tinh cho các công ty, các cơ sở sản xuất; cách thức sản
xuất này được thể hiện bằng Mô hình 2.2:
Mô hình 2.2: Mô hình sản xuất theo hộ gia đình
Hộ gia đình tự sản xuất, tiêu thụ
Lao động gia đình
Lao động làm thuê
[Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS (năm 2013)].
Theo khảo sát của chúng tôi, xã Minh Tân nằm sát làng Phương La được
công nhận là xã nghề năm 2002, tổ chức sản xuất hiện nay chủ yếu theo hình thức
sản xuất hộ gia đình (hầu hết các hộ dân ở đây đều dệt vệ tinh cho các cơ sở của
làng Phương La). Gia đình nhiều có 5-6 máy dệt, gia đình ít thì một máy.
Mặc dù năng suất lao động thấp, thu nhập không cao nhưng mô hình sản xuất
hộ gia đình vẫn sẽ còn tồn tại lâu dài bởi những ưu thế của nó. Chính mô hình này
giữ lại cho làng nghề ít nhiều nhịp sống mùa vụ truyền thống, lối ứng xử “nặng về cái
59
tình‟‟, mái nhà đa thế hệ, những bữa cơm đông đủ gia đình... đó là những nét văn hóa
đậm tính truyền thống góp phần tạo nên sự đa dạng văn hóa của các làng nghề đang
trên đường đổi mới dưới tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa.
- Hình thức sản xuất theo tổ hợp: để nghề tồn tại và phát triển, từ tổ hợp dệt
trong những năm đầu hòa bình (1954 - 1955) chủ yếu là những người yêu nghề,
quyết giữ nghề truyền thống, đến năm 1976, HTX thủ công nghiệp của làng Phương
La được thành lập dựa trên cơ sở tập thể hóa tư liệu sản xuất, mỗi người thợ dệt là một
xã viên. HTX thực chất là hình thức phân phối theo lao động, không động viên được người
lao động, kìm hãm sức lao động, sáng tạo của người thợ thủ công, nên ngày công không
cao, thu nhập thấp. Chính vì vậy, năm 1980, hình thức tổ hợp sản xuất ở Phương La ra
đời, đầu tiên là tổ hợp dệt nhuộm Tân Phương được thành lập. Theo số liệu của phòng
Công thương huyện Hưng Hà, năm 1980, Phương La đã có ba tổ hợp sản xuất được
thành lập, nhiều hộ sản xuất cá thể. Đây là sự liên kết hỗ trợ nhau giữa các hộ gia đình
về vốn, kỹ thuật, nguyên liệu, quá trình sản xuất. Không lâu, xí nghiệp dệt Rạng Đông
cùng hàng chục doanh nghiệp dệt của làng Phương La đồng loạt ra đời.
Hình thức sản xuất theo tổ hợp đã tạo sự gắn bó, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa
những người cùng làm nghề trong làng xã; duy trì mối đoàn kết, tính cộng đồng bền
chặt - một trong những truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt.
Theo khảo sát của chúng tôi, hiện nay, hình thức sản xuất theo tổ hợp không tồn
tại ở hai xã nghề dệt đũi Nam Cao và dệt khăn Minh Tân, đa số, ở đây sản xuất theo hộ
gia đình.
- Sản xuất theo công ty, xí nghiệp: do nhu cầu sản xuất phát triển, lượng sản
phẩm tiêu thụ lớn, mô hình sản xuất theo tổ hợp đến lúc không còn đáp ứng nên mô
hình sản xuất công ty, xí nghiệp ra đời. Hình thức này thu hút nhiều lao động, sản
phẩm làm ra kịp thời đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, mang lại nguồn lợi lớn cho các
chủ công ty, xí nghiệp. Vì thế, các công ty, xí nghiệp ở Phương La nhanh chóng
hình thành. Đến nay, làng có 50 doanh nghiệp đang hoạt động, vốn điều lệ của mỗi
doanh nghiệp trên dưới 10 tỷ đồng và chủ yếu sản xuất mặt hàng khăn mặt xuất
khẩu sang các nước như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ… doanh thu hằng năm
hàng trăm tỷ đồng. Có 25 doanh nghiệp nằm tập trung trong cụm công nghiệp tại
60
làng, 20 doanh nghiệp nằm trong cụm công nghiệp Phúc Khánh (thị trấn Hưng Hà)
và khoảng chục doanh nghiệp ở thành phố Thái Bình, hàng chục doanh nghiệp nằm
ở khắp cả nước, còn nhiều doanh nghiệp nhỏ vẫn đang sản xuất sôi động tại làng.
Làm việc với Bí thư Đảng ủy xã nghề Minh Tân, chúng tôi được biết, nghề
dệt ở đây tồn tại từ lâu, tuy nhiên, cả xã giờ cũng mới chỉ có ba doanh nghiệp nhỏ,
còn lại chủ yếu là dệt thuê cho Phương La.
Các công ty, xí nghiệp thuê nhân công là người các làng kề cận Phương La
hoặc các làng xã khác trong huyện. Công nhân làm việc 10 giờ/ngày và theo hình
thức khoán sản phẩm. Các công ty giao nguyên liệu cho trưởng nhóm, số nguyên
liệu này sẽ được quy đổi thành sản phẩm, trưởng nhóm giao lại cho từng hộ gia đình
hay cá nhân. Mô hình này giúp các chủ doanh nghiệp vươn lên làm chủ bản thân
trong mọi điều kiện, buộc họ phải lao vào thị trường nghiên cứu các quy luật kinh
tế, nâng cao trình độ... Đây là điểm mấu chốt để làng Phương La có nhiều người
thuộc giới “tinh hoa‟‟ mà chúng tôi sẽ trình bày ở Chương 3 của Luận án.
Mô hình 2.3: Mô hình tổ chức sản xuất theo công ty, xí nghiệp
Công ty
Gia đình dệt vệ tinh (trong và ngoài xã)
Lao động làm thuê (lực lượng chính)
Lao động gia đình (lao động thêm)
[Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS (năm 2013)].
- Sự hình thành các khu công nghiệp tập trung
Nguyên liệu để dệt ở Phương La chủ yếu là sợi bông, vải rất cồng kềnh, chiếm
nhiều diện tích và dễ gây cháy, việc tẩy nhuộm gây ô nhiễm môi trường …
61
Chính vì vậy, nhu cầu cấp thiết phải có khu công nghiệp tập trung tạo điều kiện cho
các hộ gia đình và các cơ sở sản xuất yên tâm, ổn định sản xuất. Khu công nghiệp tập
trung của Phương La ra đời đáp ứng nhu cầu đó của người dân.
Ban đầu, do một số cơ sở quá “bí‟‟ về chỗ đặt máy móc, nơi tập kết nguyên liệu,
sản phẩm nên đã tự phát di chuyển ra vùng đất sản xuất nông nghiệp của gia đình hay
người nhà; cứ như vậy, số người làm tiếp theo tăng lên. Bên cạnh đó, nhiều cơ sở sản xuất
đã cùng nhau đề nghị chính quyền địa phương tạo điều kiện để họ mở rộng cơ sở sản xuất,
tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân.
Trước điều kiện nghề dệt ngày một phát triển mạnh, số các công ty, doanh nghiệp
ngày một tăng, đòi hỏi về quy mô sản xuất ngày một lớn, các cấp chính quyền ở huyện
Hưng Hà và xã Thái Phương đã quyết định xây dựng cụm công nghiệp tập trung tại
Phương La và một số địa điểm khác của huyện Hưng Hà, như cụm công nghiệp Phúc
Khánh, cụm công nghiệp Đồng Tu...
Các cấp chính chính quyền khuyến khích các cơ sở sản xuất vào khu công nghiệp
vì có rất nhiều cái lợi: giúp người dân đỡ phải sống trong môi trường ngột ngạt, ô nhiễm;
đường làng, ngõ xóm đỡ ách tắc.... ; các cơ quan chức trách dễ quản lý, điều hành và phát
hiện, xử lý các sai phạm trong quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, không phải cơ sở sản xuất nào cũng “vào” được cụm công nghiệp, bởi
phải có lượng vốn nhất định, phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của khu công nghiệp,
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về tài chính, cơ sở vật chất như đóng thuế, phí bảo vệ môi
trường, quy định về an toàn lao động... Đặc biệt, việc phải phân chia lực lượng lao động
vừa ở cơ sở tại nhà, vừa ở khu công nghiệp cũng gây khó khăn cho công tác quản lý của
các chủ sản xuất. Nếu sản xuất ở khuôn viên tại gia đình, chủ cơ sở và người nhà còn tranh
thủ vừa quản lý, đôn đốc công nhân vẫn làm được các công việc khác của gia đình như
chăm con, nhắc nhở việc học hành, tranh thủ tiếp khách, không phải đi lại, rất tiện lợi...
Hơn nữa, ra khu tập trung, công việc giao dịch, mua bán đôi khi khó tránh khỏi sự nhòm
ngó, tò mò của hàng xóm, sợ lộ bí mật trong các công đoạn sản xuất của cơ sở mình.
Nghề dệt ở Phương La phát triển đã lấn át nghề nông. Đến nay, chỉ còn 7 - 8% số
lao động ở làng không làm nghề dệt. Đó là những người không có sức lao động, hoặc là
62
cán bộ xã; một số người kinh doanh hay làm dịch vụ. Vào những năm trước 2000, còn
một số gia đình làm nông nghiệp và nhận lại ruộng của các gia đình khác để làm rồi nộp
thuế. Sau năm 2000, nghề dệt phát triển mạnh không còn ai ở làng nhận thêm ruộng để
trồng cấy, ruộng của làng chủ yếu thuê người làng khác đến cấy và thường bị cấy sau các
làng khác vì cấy xong làng mình, họ mới đi cấy thuê cho Phương La. Hiện nay, ruộng ở
Phương La hầu như người dân cho các làng phụ cận cấy trồng thuê hoặc bỏ hoang. Ông
Bùi Văn Hà - Phó Chủ tịch UBND xã Thái Phương cho biết, “dân bỏ hoang ruộng
nhiều lắm, chúng tôi chưa có cách nào để giải quyết hiệu quả vấn đề này’’. Đồng ruộng
bây giờ không còn quan trọng với người dân nữa vì nó không mang lại thu nhập cao.
Khác với các xã nghề Minh Tân và Nam Cao, thu nhập từ nghề chưa nhiều nên hai xã
này, người dân vẫn sản xuất nông nghiệp, ruộng không bị bỏ hoang và thu nhập từ nông
nghiệp vẫn duy trì được phần cơ bản đời sống của người dân.
Có thể nói, nghề dệt phát triển, đã tạo ra bước thay đổi quan trọng và căn bản
đối với cơ cấu kinh tế của làng Phương La theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ. Sản xuất công nghiệp, dịch vụ chiếm ưu thế; nông nghiệp không còn giữ vai
trò chủ đạo nữa (theo báo cáo của UBND xã Thái Phương, năm 2013, tổng giá trị
thu nhập công nghiệp và xây dựng của làng Phương La đạt 179,443 tỷ đồng, tăng
12% so với năm 2012). Đây là điểm khác biệt căn bản so với kết cấu kinh tế truyền
thống. Nền công nghiệp truyền thống trong các làng xã được P. Gourou nhận xét nền
công nghiệp rất vừa tầm với họ, một nền công nghiệp nhỏ bé, lãng phí nhân công và
không có máy móc, với những phương tiện vô cùng đơn giản và đôi khi có một kỹ
thuật rất tinh tế; một nền công nghiệp không hợp lý và phân bố không lô gíc, nhưng
trung thành với truyền thống; một nền công nghiệp trong đó hiện lại chủ nghĩa biệt lập
của làng xã; một nền công nghiệp ít có lãi, chỉ có thể giúp người nông dân đủ nuôi sống
họ khỏi chết đói mà thôi. Tóm lại, đó là một nền công nghiệp nông dân, mang hai tính
chất cơ bản là nhân công gia đình và công nghiệp nhân công, vì tất cả những người thợ
thủ công trước hết và trên hết đều là nông dân, họ sẽ chỉ canh tác nông nghiệp nếu
ruộng đất của họ có đủ; nông dân còn ở chỗ, nó chỉ được tiến hành trong làng xã, ở
ngay trong gia đình [39, tr. 406].
63
Sự ra đời của các công ty, doanh nhiệp, đội ngũ giám đốc, các chủ cơ sở sản
xuất cùng với việc hình thành cụm công nghiệp tập trung, trang bị máy móc hiện
đại, đã tạo đà để các lao động thủ công thoát ly khỏi sản xuất nông nghiệp, gắn với
sản xuất công nghiệp. Đặc biệt, từ sau Đại hội VI (năm 1986), chủ trương của Đảng
và Nhà nước ta là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
là động lực để các công ty, xí nghiệp vươn lên đi tắt, đón đầu khoa học công nghệ,
chuyên môn hóa quá trình sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, đem lại thu nhập
cao cho người nông dân. Nó đã phá vỡ nền sản xuất nhỏ, manh mún, truyền thống;
hình thành nền sản xuất hàng hóa, có sự cạnh tranh quyết liệt.
Sự hình thành cụm công nghiệp tập trung tại làng đã góp phần bảo đảm công ăn
việc làm trực tiếp, tức thì cho một bộ phận lớn cư dân nông nghiệp hiện nay đang
chịu sức ép rất lớn của sự mất đất nông nghiệp (đất bị thu hồi vào quy họach đô thị,
giao thông) và sự gia tăng dân số góp phần ổn định chính trị ở nông thôn, ngăn
ngừa tệ nạn xã hội. Mỗi ngày một làng nghề có thể giải quyết việc cho hàng ngàn
lao động. Một số nông dân làm thuê đã được học nghề để trực tiếp làm ra sản phẩm.
Một số khác làm phần ruộng của các hộ trong làng hoặc các việc khác như vận
chuyển, nội trợ và tạp vụ tạo tiền đề cho lực lượng công nhân công nghiệp trong
giai đoạn mới. Nó còn góp phần đào tạo ra một đội ngũ thợ thủ công - công nhân
tiền công nghiệp, bổ sung cho lao động công nghiệp sau này.
Cụm công nghiệp tập trung ở Phương La góp phần giúp các cơ sở sản xuất
tăng cường các thiết bị máy móc hiện đại, tạo ra được một lượng sản phẩm đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước, thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài; tạo ra cơ
sở kinh tế dồi dào để bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống của các làng nghề; từ
đó góp phần vào bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa làng nói chung, văn hoá làng
nghề nói riêng làm cho văn hoá trở thành mục tiêu, động lực của công cuộc xây
dựng xã hội mới. Làng dệt Phương La, xã nghề Thái Phương xác định nghề là một
mục tiêu trọng yếu của chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Nghề,
hộ nghề ở đây đã trở thành nguồn sống chính của người dân. Theo ông Bùi Văn Hà:
“Việc xuất khẩu sản phẩm của làng Phương La đã đem lại thu nhập mỗi năm hàng
64
tỷ đồng cho các doanh nghiệp, các gia đình có máy dệt thu nhập không dưới
5.000.000đồng/máy/tháng/, công nhân dệt thuê mỗi tháng cũng thu nhập không
dưới 3.000.000 đồng”. Số điện tiêu thụ trong làng dệt Phương La và khu công
nghiệp của làng năm 2013 là 780.000 KWh, với số tiền nộp cho Công ty Điện lực là
108 tỷ đồng đã nói lên năng lực sản xuất của khu công nghiệp làng nghề Phương La
[Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS (2013)].
Đời sống nhân dân trong xã nói chung, các hộ làm nghề dệt không ngừng
được nâng cao. Sản phẩm làm ra được xuất khẩu mở rộng sang cả thị trường các
nước Nhật, Hàn Quốc, Đức,… Hiện tại, số lao động tham gia nghề dệt (bao gồm cả
may viền khăn, đóng gói,…), công nhân các doanh nghiệp, xí nghiệp và tổ hợp của
nghề dệt đã lên tới 78.000 người.
Tốc độ tăng trưởng của các cụm công nghiệp năm sau cao hơn năm trước, đã
phát huy được nội lực, thế mạnh của làng, xã, khơi nguồn thu hút nhân tài, vật lực,
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, đổi mới trang thiết bị sản xuất,
thúc đẩy làng nghề phát triển mạnh.
Việc phát triển các cụm công nghiệp, phát triển nghề không chỉ làm kinh tế của
người dân giàu có lên mà thông qua đó, tư duy kinh tế của người Phương La thay đổi
từ tư duy “trọng nông”, lấy lương thực làm đầu, an toàn lương thực “thóc đầy bồ”,
cuộc sống “tự cung, tự cấp”, “an phận” sang tư duy “kinh tế hàng hóa, thị trường”,
phấn đấu trở thành “ông chủ”, đời sống “thượng lưu”. Đây chính là những yếu tố góp
phần tạo nên sự biến đổi của văn hóa; lối sống, nét tính cách của người Phương La.
Quy trình sản xuất mới với công nghệ hiện đại, năng suất, chất lượng cao đã mang
lại cho người dân đời sống sung túc; đồng thời góp phần giải phóng sức lao động của
người thợ, chuyển từ lao động cơ bắp sang lao động trí tuệ ; từ tư duy lao động chậm chạp,
đủng đỉnh sang lao động phải nhanh nhẹn, hoạt bát để kịp thời ứng xử với guồng dệt của
máy móc. Quy trình sản xuất biến đổi nhưng các công đoạn dệt thành phẩm vẫn đòi hỏi
kinh nghiệm, sự tỷ mỉ, cần cù, sáng tạo trong công việc của đội ngũ những người thợ tài
hoa. Vì vậy, con người làm nghề vẫn có đức tính cẩn thận, tỉ mẩn, cần cù và kiên nhẫn
nhưng lại phải nhanh nhẹn, hoạt bát hơn.
65
66
2.1.4. Về sản phẩm
Ngay từ năm 1990, người Phương La đã chuyển hướng chủ yếu dệt khăn các
loại cho thị trường trong nước và quốc tế. Đây là hướng đi rất đúng đắn, vì thế đã
giúp nghề và làng nghề Phương La ngày một phát triển vững mạnh. Sản phẩm của
làng Mẹo chủ yếu xuất sang các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… cũng như trên toàn lãnh
thổ Việt Nam, đâu cũng có sản phẩm của người làng Mẹo. Mặt hàng đặc trưng chủ yếu
nhất của làng Phương La là khăn mặt, khăn tắm, khăn ăn…với các kích cỡ khác
nhau: loại 60cm x 1,2m (loại lớn nhất), 40cm x 20cm, 4cm x 25cm, khăn vuông
30cm x 30cm. Có loại được in hoa văn, để trắng, tùy thuộc vào yêu cầu của nơi tiêu
thụ sản phẩm.
Tìm hiểu sản phẩm dệt của xã nghề Nam Cao, chúng tôi được biết, từ nhiều
năm nay, Nam Cao vẫn duy trì một mặt hàng truyền thống là vải đũi. Xã nghề Minh
Tân chủ yếu là dệt thuê cho làng Phương La nên sản phẩm phụ thuộc theo đơn đặt
hàng của các cơ sở sản xuất ở Phương La; vì vậy, sản phẩm dệt ở đây cũng chính là
khăn bông các loại.
Sản phẩm khăn của làng Phương La còn có những hoa văn trang trí khác
nhau, có loại được in hai chữ “hạnh phúc”, “song hỷ”, hoặc có loại chỉ làm hoa văn
viền xung quanh…, thể hiện sự đa dạng về mẫu mã sản phẩm. Chất liệu để dệt khăn
cũng có nhiều loại, mỗi loại có những ưu điểm khác nhau. Sản phẩm dệt từ sợi
côttông hay bông dễ hút nước, xốp, nhẹ, êm và mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Có
loại dệt sợi pha nilon, có ưu điểm nhanh khô, dễ giặt sạch, ít bị mốc… với kích cỡ
to nhỏ khác nhau tạo ra sự phong phú về chủng loại. Ngoài ra, kỹ thuật dệt, đường
nét, hoa văn, màu sắc… được chú trọng về tính thầm mỹ, do vậy sản phẩm ngày
càng đẹp hơn, tinh xảo hơn.
Mặc dù là sản xuất trên dây chuyền hiện đại, song mỗi sản phẩm làm ra đều
kết tinh trí tuệ, sự sáng tạo của người thợ nên nó mang tâm hồn, cốt cách riêng. Sản
phẩm chính là một giá trị văn hóa vật thể của làng nghề, dấu ấn văn hóa vẫn mang
đượm màu sắc văn hóa Việt.
Phương La được người dân trong nước và thế giới biết đến nhiều hơn nhờ
sản phẩm dệt của làng, như vậy kinh tế đã góp phần quảng bá giới thiệu các giá trị
về văn hóa làng nghề và ngược lại, các giá trị văn hóa đó góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, phát triển địa phương một cách bền vững.
67
2.1.5. Về hình thức tiêu thụ sản phẩm
Kinh tế thị trường mở ra, người sản xuất được tự do sản xuất, kinh doanh,
tiêu thụ... vì thế, sản phẩm của làng dệt Phương La không còn phải tiêu thụ nhỏ lẻ,
giấu diếm, lo chạy trốn thuế vụ như những năm trước đổi mới 1986. Những năm
80 - đầu 90 của thế kỷ XX, hàng vải các loại của làng dệt Phương La đã được
công ty mỹ nghệ xuất khẩu của tỉnh Thái Bình nhập để xuất sang Nga và các nước
Đông Âu.
Trải qua bao thăng trầm lịch sử, nghề dệt làng Phương La đã có nhiều
thay đổi, đổi mới công cụ sản xuất hiện đại, các loại hình sản phẩm cũng đa dạng
hơn. Các ông chủ của thời kỳ đổi mới phát huy trí tuệ, đẩy mạnh sản xuất, ký kết
hợp đồng với các tỉnh trong nước và các công ty nước ngoài để xuất khẩu hàng
khăn các loại - một mặt hàng đặc trưng hiện nay của làng nghề dệt Phương La.
Họ đã chủ động tự tìm đối tác nước ngoài để tiêu thụ sản phẩm với số lượng lớn.
Trước đây, nghề dệt trong nước xuất khẩu rất hạn chế, nhưng ngày nay với sự
nhanh nhạy, thông minh, các doanh nghiệp làng nghề Phương La đã có thể xuất
khẩu sang hàng chục nước ở châu Âu và châu Á. Khác với làng nghề Phương La,
việc tiêu thụ sản phẩm của xã nghề Nam Cao đa số tiêu thụ trong nước và xuất
khẩu số lượng không lớn sang thị trường các nước chưa phát triển như Lào,
Campuchia nên lợi nhuận không cao, thu nhập của người làm nghề thấp. Xã
nghề Minh Tân, chỉ có ba doanh nghiệp, còn lại các hộ chủ yếu dệt thuê cho
Phương La nên lại không phải lo đầu ra cho sản phẩm. Do vậy, thu nhập của
người dân cũng ổn định nhưng không cao.
Điểm khác biệt trong thu nhập của người thợ dệt thuê ở các doanh nghiệp
của làng nghề Phương La là cứ ba tháng người thợ mới nhận lương một lần. Tức là,
mỗi quý người công nhân mới nhận lương một lần, giúp người thợ tích lũy được
tiền để trang trải, lo toan những công việc lớn mà lại giảm được thời gian đi nhận
lương. Theo báo cáo của UBND xã Thái Phương, bình quân thu nhập tính theo đầu
người của làng dệt Phương La từ 26 triệu đồng/1người/năm vào năm 2014 (thực tế,
thu nhập của người làng Phương La cao hơn gấp nhiều lần).
Biến đổi về tiêu thụ sản phẩm và thu nhập của người Phương La giúp đời
sống nhân dân của làng, các hộ làm nghề dệt không ngừng được nâng cao. Sản
phẩm xuất khẩu mở rộng sang cả thị trường các nước Nhật, Hàn Quốc, Đức, Đài
Loan… Được tự do phát triển nghề, người Phương La không còn phải lo
bán ”chui‟‟, họ tăng cường quảng bá sản phẩm, mở rộng mối quan hệ giao lưu...
Điều này giúp người Phương La thông thạo, am hiểu thị trường, quyết đoán, giỏi
quan hệ,... Có điều kiện kinh tế, họ càng tăng cường được các mối quan hệ, khẳng
định mình, dễ giao dịch, tạo được niềm tin trong làm ăn “mạnh vì gạo, bạo vì tiền‟‟.
Bên cạnh đó, họ có điều kiện để quan tâm, tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện,
chăm lo đời sống tinh thần. Điều này, góp phần hình thành văn hóa tinh thần, lối
sống của người Phương La.
68
2.1.6. Về cách thức truyền nghề và học nghề
Xưa, việc giữ gìn bí quyết nghề và truyền nghề chủ yếu được bảo lưu trong
gia đình thì hiện nay phương thức truyền nghề đã “mở” hơn rất nhiều. Những bí
quyết nghề nghiệp của riêng từng hộ gia đình vẫn được giữ gìn để cạnh tranh lành
mạnh trên thương trường nhưng không còn quá khắt khe nữa. Trong gia đình, ai
muốn học nghề đều được truyền dạy không phân biệt nam, nữ, dâu rể để thạo việc
còn hướng dẫn, chỉ đạo thợ dệt thuê. Người đến dệt thuê, có lòng yêu nghề, tính cẩn
thận cũng được truyền dạy tận tình, chu đáo. Người Phương La truyền nghề để cạnh
tranh thợ có tay nghề cao để phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu sản phẩm đã ký
kết với các nơi tiêu thụ. Tuy nhiên, người Phương La truyền nghề chủ yếu cho
người đã ở tuổi trung niên, vì đây là lực lượng chính trong sản xuất và thực hiện các
công đoạn của nghề dệt. Đây cũng là đối tượng có đủ kinh nghiệm trong nghề, lại
có trách nhiệm với công việc; thể hiện bằng kết quả xử lý phiếu điều tra ở Bảng 2.4.
Bảng 2.4: Nhóm đối tƣợng đƣợc gia đình truyền nghề
Đơn vị tính: %
69
Nhóm đối tƣợng
Hiện nay
Trƣớc năm 1996
Lao động trẻ, thanh niên
5,7
18,6
Lao động là trung niên
58,7
35,5
Lao động là người già
0
2,2
[Nguồn: Kết quả xử lý số liệu phiếu điều tra (Phụ lục 7)].
Người làng nghề Phương La cũng như nhiều làng nghề cổ khác của Việt
Nam, ở thời phong kiến là sự giấu nghề, không truyền nghề cho người làng khác
hoặc có những bí quyết chỉ truyền trong gia đình chứ không truyền cho người trong
họ, trong làng. Chính vì vậy, hạn hẹp trong cách suy nghĩ với tâm lý sợ mất nghề đã
ảnh hưởng tới chất lượng và sự phát triển của nghề, của sản phẩm. Việc mua bán
tùy theo sự thỏa thuận đôi bên cũng hạn chế không ít tới sự phát triển của nghề dệt
và tính cạnh tranh trong làng nghề, nó kìm hãm không nhỏ tới giá trị thẩm mỹ, chất
lượng của mặt hàng dệt được làm ra.
Thời kỳ đổi mới, để tạo được mặt hàng khăn xuất khẩu với giá thành hợp lý,
mặt hàng đảm bảo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và ký được hợp đồng với khách hàng,
các doanh nghiệp của làng nghề có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhưng lành mạnh, bao
gồm cả cạnh tranh về lao động. Do vậy, các “ông chủ‟‟ còn tăng cường truyền dạy
nghề cho người lao động làm thuê.
Đối với người lao động, nếu cùng mặt hàng sản xuất mà được thanh toán tiền
lương sòng phẳng, trả công cao, việc làm luôn đảm bảo, họ sẵn sàng làm cho doanh
nghiệp, công ty đó hết tháng này sang tháng khác; nếu không, họ sẽ chuyển sang
làm chỗ khác. Đây chính là sự chuyển biến tâm lý và ý thức cơ bản của người lao
động ở làng nghề Phương La trong thời kỳ cơ chế kinh tế mới phát triển. Do ý thức
được về năng lực sản xuất, về trình độ tay nghề, về hiệu quả chất lượng mặt hàng
làm ra nên người lao động có quyền và tự do lựa chọn những công ty, doanh
nghiệp, tổ hợp nào đem lại nhiều lợi ích cho họ mà không bị ràng buộc và phụ
thuộc nhiều vào ông chủ.
70
2.2. Văn hóa vật chất của làng dệt Phƣơng La hiện nay
2.2.1. Không gian, cảnh quan làng
Sự phát triển của nghề dệt dẫn theo sự phát triển về kinh tế ở làng nghề
Phương La. Đây là làng nghề sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp khép kín tại các hộ
gia đình. Các doanh nghiệp, tổ hợp sản xuất lần lượt ra đời để phát triển nghề.
Người trong làng đã không ngần ngại lấp ao, san vườn làm nhà xưởng sản xuất. Các
công ty doanh nghiệp, tổ hợp thì tập trung tại cụm công nghiệp dệt của làng với
10,2 ha ruộng, ao, hồ được san lấp. Mặt bằng các nhà xưởng sản xuất tăng lên đã
làm cho lượng cây xanh trong làng và ngoài đường làng ít đi, không gian công cộng
cũng bị thu hẹp (thể hiện ở Bảng 2.5).
Bảng 2.5: Đánh giá về một số khía cạnh của làng nghề hiện nay so với trƣớc 1996
Đơn vị tính: %
Khía cạnh đánh giá
Mức độ
Về cây xanh
Nhiều hơn
Tỷ lệ 0,0
Không thay đổi
15,8
Ít hơn
84,62
Khó đánh giá
0,0
Về không gian công cộng
Nhiều hơn
0,0
Không thay đổi
92,31
Ít hơn
7,69
Khó đánh giá
0,0
[Nguồn: Tổng hợp kết quả phiếu điều tra (Phụ lục 7)].
Nhìn vào bảng trên, chúng ta thấy có tới 84.62 % số người trả lời lượng cây
xanh ở làng nghề hiện nay ít đi so với trước 1996. Về không gian công cộng, số
người trả lời không thay đổi là 92.31%, tuy nhiên có 7.69% số người trả lời là ít đi
so với trước năm 1996.
Hệ thống cống rãnh được khai mở nhiều hơn để thoát nước sinh hoạt hoặc
nước mưa cũng là nhằm thay thế cho các ao hồ trước đây là nơi chứa nước mưa,
nước thải, nay đã bị san lấp làm sơ sở sản xuất. Trước kia, khung cảnh làng xóm chỉ
đông đúc, náo nhiệt vào những dịp mùa vụ căng thẳng với cảnh người, trâu bò đổ
dồn ra đồng, còn những ngày tháng nông nhàn, xóm làng, đồng ruộng “trầm lắng”
hẳn. Ngày thường, đường làng ngõ xóm phong quang, thấp thoáng các đống rạ,
đống rơm trong vườn hay sân nhà dành để làm chất đốt sử dụng từ vụ này đến tận
vụ mùa sau, giờ cũng không còn nữa. Giờ đây, bất kể mùa nào, cứ 7 h sáng (mùa
đông muộn hơn chút ít), từng đoàn công nhân với đủ các sắc màu quần áo, từ trong
các ngõ xóm, trong làng, từ làng bên dồn về các cơ sở sản xuất. Buổi chiều, 5 giờ
(mùa đông sớm hơn 30 phút), người từ các cơ sở sản xuất lại ùa ra, hối hả trở về
nhà sau một ngày làm việc. Khu vực đầu làng dù đã được mở rộng vẫn chật chội.
Vào thời điểm trước khi làm việc, trục đường chính dẫn vào làng người đông tấp
nập, thậm chí tắc đường do đường xưa chỉ phù hợp với quy mô của một làng có trên
1000 dân, điều kiện sản xuất, sinh hoạt còn nhỏ lẻ, manh mún. Lượng dân số ngày
nay đã tăng nhiều lần; cộng thêm các loại phương tiện cơ giới: xe trọng tải lớn, xe
bán tải, xe vận chuyển mới được hình thành (“xe lôi”, “xe chó”), càng tăng thêm sự
khẩn trương, hối hả, tấp nập cho làng nghề. Người Phương La từ nhiều năm nay đã
phải quen với tình trạng tắc đường vào các giờ cao điểm và khái niệm “giờ cao
điểm” đã thật sự hình thành và ăn sâu trong suy nghĩ, cách ứng phó của mỗi người
thuộc các lớp tuổi, nghề nghiệp khác nhau; từ đó hình thành một thế ứng xử chung:
phải tính toán để tránh giờ cao điểm mỗi khi phải đi ra hoặc về làng. Khi hỏi về
cảnh quan chung của làng nghề, chúng tôi thu được kết quả như Bảng 2.6.
71
Bảng 2.6: Đánh giá về mức độ sạch đẹp của cảnh quan làng nghề so với trƣớc năm 1996
Đơn vị tính: %
Ý kiến đánh giá về cảnh quan làng
Rất sạch đẹp Sạch đẹp Chưa sạch đẹp Không sạch đẹp Khó trả lời
Hiện nay 15,38 84,62 0,0 0,0 0,0
Trước 1996 0,0 15,38 84,62 0,0 0,0
[Nguồn: Kết quả tổng hợp phiếu điều tra (Phụ lục 7)]
Bảng trên cho thấy, cảnh quan làng nghề hiện nay được người dân đánh giá
là sạch đẹp hơn so với trước năm 1996; chưa sạch đẹp đã không còn. Như vậy, về
cơ bản, người dân đều nhận thấy sự thay đổi về cảnh quan của làng đã theo chiều
hướng tích cực hơn. Người dân được hưởng thụ thành quả đó, góp phần đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt, sản xuất của người làng nghề. Do kinh tế phát triển, thu nhập của các hộ
gia đình trong làng không ngừng tăng vì thế đường làng, ngõ xóm được đầu tư nâng
cấp khang trang, bền đẹp, cũng là để tiện cho việc vận chuyển nguyên vật liệu và chở
hàng thành phẩm của người trong xóm, trong làng tới các doanh nghiệp. Vì thế,
Phương La nhà cửa san sát nhau, đường ngang ngõ dọc không khác thành phố là mấy.
Bờ rào, bờ dậu, vườn ao đã được thay thế bằng nhà xưởng, sân nền bê tông. Nhà nào
cũng kín cổng, cao tường, có chăng thì có một mảnh sân lớn để giao dịch, vận chuyển
hàng hóa, sản phẩm dệt. Điều này, thể hiện sự riêng tư, độc lập của các gia đình, không
còn cảnh chung dậu, chung ao, cổng bỏ ngỏ như xưa nữa. Đây chính là biểu hiện lối
sống đô thị độc lập, đề cao sở hữu cá nhân và sự riêng tư của không gian sinh sống ở
mỗi gia đình. Qua tìm hiểu các gia đình và doanh nghiệp, chúng tôi thấy mỗi gia đình
đều có không gian khép kín, riêng biệt, chỉ có bạn hàng ra vào chứ hầu như không thấy
hàng xóm sang nhà nhau chơi. Đặc biệt, một số người trả lời rằng, ở đây cũng chả khác
gì thành phố, "nhà nào biết nhà nấy thôi". Bảng 2.7 cho biết việc đánh giá về hạ tầng
cơ sở làng nghề cùa người dân Phương La hiện nay so với trước năm 1996.
Bảng 2.7: Đánh giá về hạ tầng làng nghề hiện nay so với trƣớc năm 1996
Đường giao thông
Mức độ đánh giá
Đường giao thông
Điện sinh hoạt, sản xuất
Nước sinh hoạt
Tốt hơn nhiều Tốt hơn Không thay đổi Kém hơn Tốt hơn nhiều Tốt hơn Không thay đổi Kém hơn Tốt hơn nhiều Tốt hơn Không thay đổi Kém hơn
Đơn vị tính: % Tỷ lệ 23,08 69,23 7,69 0,0 23,08 76,92 0,0 0,0 23,08 76,92 0,0 0,0
[Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra (Phụ lục 7)].
72
Chúng tôi tìm hiểu và được biết, hàng hóa không chỉ bán ở chợ mà còn được
bày bán ở dọc đường trục chính cạnh chợ và nhiều địa điểm ngã ba, ngã tư khác
trong làng; các cửa hàng bán đồ ăn sẵn tương đối nhiều, đáp ứng tốt cho nhịp sống
của người làng nghề thời hiện đại. Ngoài chợ, các hoạt động thương nghiệp, dịch vụ
của làng Mẹo cũng phong phú, hàng hóa nhiều. Bước chân tới đầu làng, các cửa
hàng, cửa hiệu hiện ra với đầy đủ các loại mặt hàng, người mua bán đông vui, điều
này được thể hiện ở Bảng 2.8.
Bảng 2.8: Sơ đồ các của hàng dịch vụ trên một đoạn trục đƣờng chính gần chợ Mẹo
1a
2a
3a
4a
5a
6a
7a
8a
9a
10a 11a 12a 13a 14a
1b
2b
3b
4b
5b
6b
7b
8b
9b
10b 11b 12b 13b 14b
Chú thích:
1a: Khu đền thờ họ Trần
1b: Đài tưởng niệm, biểu tượng làng
2a: Quán sửa xe
2b: Cửa hàng bán tạp hóa
3a: Cửa hàng bán tạp hóa
3b: Quỹ tín dụng xã Thái Phương
4a: Cửa hàng bán tạp hóa
4b: Đại lý bia, rượu
5a: Cửa hàng bán thuốc Tây
5b: Cửa hàng bán tạp hóa
6a: Cửa hàng bán tạp hóa
6b: Cửa hàng văn phòng phẩm
7a: Cửa hàng bán tạp hóa
7b: Cửa hàng bán tạp hóa
8a: Cửa hàng bán tạp hóa
8b: Cửa hàng bán giầy dép
9a: Tiệm hớt tóc
9b: Cửa hàng bán thuốc Tây
10a: Tiệm hớt tóc
10b: Cửa hàng bán mỹ phẩm
11a: Cửa hàng đồ điện, sửa chữa điện tử
11b: Cửa hàng may
12a: Dịch vụ váy cưới, trang điểm cô dâu
13a: Cửa hàng điện dân dụng
12b: Cửa hàng tổng hợp
14a: Cửa hàng tạp hóa
13b: Cửa hàng ăn đơn giản
14b: Cửa hàng cắt tóc.
73
[Nguồn: Kết quả thực địa của NCS (năm 2014)].
Hàng hóa bán tràn khắp mọi đường làng, bán ở tất cả những chỗ có người đi
qua lại hay gần nơi có nhiều công nhân làm…
Như vậy, thông qua kết quả điều tra ở Bảng 2.6, 2.7, 2.8 chúng tôi có kết
luận: mặc dù môi trường cảnh quan của làng nghề tuy có khang trang, sạch đẹp hơn;
cơ sở hạ tầng thuận tiện, tốt hơn đáp ứng nhu cầu của người dân song thực tế môi
trường vẫn bị ô nhiễm trầm trọng bởi rác thải công nghiệp, nước tẩy nhuộm của các
doanh nghiệp, bụi của bông vải, sợi… Khi vào làng Phương La, khách rất ngột ngạt
bởi sự ô nhiễm này. Người dân mới chỉ nhìn thấy sự hiện đại, sạch đẹp hơn của
đường làng ngõ xóm mà chưa chú trọng đến chiều sâu, những yếu tố gây nguy hiểm
đến sức khỏe của họ, đó là nguồn nước thải đem ngòm vẫn hàng ngày chảy ra làm ô
nhiễm khắp làng; thường xuyên phải hít thở bụi của bông vải, sợi…
2.2.2. Việc phục dựng, tu bổ các di tích
Trong Chương 1, Luận án đã chỉ rõ làng dệt Phương La có một hệ thống các di
tích tôn giáo, tín ngưỡng, gồm đình Đông, chùa Ứng Mão, sáu ngôi đền thờ các vị
thần. Đó là kết quả của quá trình các thế hệ dân làng chung sức, đóng góp xây dựng, tu
bổ và bảo vệ. Tuy nhiên, từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, do nhiều nguyên nhân,
các di tích trên không được quan tâm tu bổ, nên có di tích (đình Đoài) đã không còn,
nay không thể phục hồi vì khuôn viên của nó đã bị biến thành khu nhà ở. Các di tích
khác bị xuống cấp, hoặc bị hủy hoại, song may mắn còn giữ được khuôn viên.
Quan niệm của người dân vùng châu thổ Bắc Bộ nói chung, người Phương
La nói riêng, di tích là phần hồn - phần văn hóa tâm linh đặc biệt quan trọng. Đó
chính là không gian linh thiêng nhưng cũng rất riêng của làng “chuông làng nào
làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Di tích là nơi tôn thờ những người có
công với làng, với nước,… để con cháu đời đời ghi nhớ công ơn. Đặc biệt, với làng
nghề, đó còn là nơi thờ cúng các tổ nghề, các phong tục, lễ nghi, hội hè liên quan
đến nghề thủ công truyền thống. Việc tôn thờ gợi lại những công tích của các vị
được thờ trong quá khứ, là sự liên kết của quá khứ với hiện tại, biểu dương những
điểm mạnh của quá khứ. Chính vì vậy, khi cầu nguyện các vị thần thánh sẽ phù hộ
cho. Người Phương La coi di tích cũng là trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh
74
chung của làng, nơi cố kết cộng đồng, tôn vinh những giá trị của đời sống tâm linh,
giá trị văn hóa.
Nhờ kinh tế phát triển cùng sự đổi mới nhận thức của Đảng ta về vai trò của
văn hóa, nhất là văn hóa truyền thống, vì vậy đã tạo điều kiện cho làng Phương La
phục hồi, giữ gìn các di tích văn hóa truyền thống đứng trước nguy cơ mai một.
Một trong những nguyên nhân sâu xa để các di tích luôn được tu bổ đó là, cư dân
nơi đây giàu có, rất có điều kiện để công đức tu bổ các di tích; họ cũng muốn khẳng định
mình, vai trò của mình với dòng họ, với làng xã. Trong công đức, các doanh nghiệp
người làng đóng góp thường xuyên, lớn nhất và quan trọng. Có doanh nghiệp góp tới cả
nhiều trăm triệu, thậm chí nhiều chục tỉ đồng để tu bổ, phục dựng di tích.
Chính vì vậy, việc tu bổ các di tích ở Phương La rất thuận lợi, các di tích
thường xuyên được tôn tạo, tu bổ nên khang trang và bề thế. Sự thay đổi này diễn ra
mạnh mẽ trong khoảng mười năm trở lại đây.
Việc tu bổ, tôn tạo di tích được tiến hành theo quy trình sau: Chính quyền
cấp xã chỉ đạo thành lập Ban Khánh tiết để tiến hành xây dựng, tôn tạo di tích và
Ban Khánh tiết chuyển thành Ban quản lý khi di tích xây dựng, tôn tạo xong. Ban
quản lý di tích làng Phương La chủ yếu là người cao tuổi (cả cụ ông, cụ bà) và đại
diện cấp uỷ, Ban quản lý của 4 thôn; gồm 10 người, trưởng Ban hiện nay là cụ Trần
Văn Quyền, sinh năm 1926, thôn Phương La 2.
Ban Khánh tiết (Ban Tu bổ di tích) họp bàn bạc công khai với đại diện các tổ
chức đoàn thể, các dòng họ để thống nhất về qui mô, hình thức tu sửa, thống nhất về
huy động nguồn kinh phí. Ban Tu bổ di tích lập tờ trình, dự toán thiết kế gửi các cơ
quan chức năng thẩm định, phê duyệt. Sau khi được chấp nhận, Ban Tu bổ di tích
ấn định ngày khởi công và thông báo rộng rãi tới toàn thể nhân dân. Tiếp đến, tiểu
ban vận động quyên góp tổ chức triển khai hoạt động, gửi thư kêu gọi tài trợ và vận
động nhân dân tham gia đóng góp.
Kinh phí để tu bổ di tích dựa trên cơ sở xã hội hóa, từ dân làng, tài trợ của
các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp của người địa phương đóng trên địa
75
bàn, người làng xa quê hương, tiền công đức hàng năm, kinh phí từ thu hoa lợi trên
đất di tích.
Trong quá trình tôn tạo di tích, tiểu ban giám sát cùng đại diện các tổ chức,
các Hội của thôn giám sát hoạt động tu bổ. Với tinh thần Nhà nước và nhân dân
cùng làm và để khuyến khích dân đóng góp tu bổ di tích, Ban quản lý di tích các
thôn lập danh sách công đức.
- Đình Đông, được tu sửa vào năm 1994 với tổng kinh phí lên tới một tỷ đồng;
năm 2012, dân làng quyên góp 800 triệu đồng để tiếp tục tu sửa. Qua nhiều lần tu sửa,
đình Đông trông bề thế, khang trang; cổng và đình đều được quét sơn lại rất mới.
- Chùa Ứng Mão (chùa Mẹo): từ năm 1994 đến 2009, với sự đóng góp của
các dòng họ, các doanh nghiệp trong làng, chùa lần lượt được tu bổ chỉnh sửa nhiều
lần. Năm 1996, dân làng quyên góp 300 triệu đồng; năm 1998 là 400 triệu đồng và
năm 2001 là 200 triệu đồng để tu bổ chùa. Hai doanh nghiệp của làng còn bỏ tiền ra mua thêm 354 m2 đất để mở rộng sân chùa và vườn chùa. Các cá nhân, tập thể đã
góp hàng chục cây vàng tu bổ Phật điện, Nhà tổ, Nhà mẫu. Phật Điện, nhà tổ, nhà
mẫu được trùng tu tôn tạo, khiến cho cảnh chùa trở lên sáng đẹp. Danh sách các tập
thể, cá nhân công đức tu bổ chùa Mẹo năm 1995 - 1996 được thể hiện ở Bảng 5.2
(Phụ lục 5). Đền Mẫu được tu bổ vào năm 2011, số tiền công đức của các cá nhân,
doanh nghiệp tu bổ được thể hiện ở Bảng 5.3 (Phụ lục 5).
- Đền Trung Quân thờ thần Thiên Quân, được xây dựng mới vào năm 1989;
năm 2009, đền được khôi phục lại theo kiến trúc hiện đại, tường gạch, mái ngói với
tổng kinh phí khoảng 200 triệu.
- Đền Sơn Du thờ thần Sơn Du là người thứ tư trong số sáu anh em họ Trần,
được xây dựng vào năm 1995 và cũng được tu sửa lại vào năm 2009 với kinh phí
khoảng 200 triệu đồng. Danh sách các doanh nghiệp, cá nhân công đức tu bổ đền Sơn
Du năm 2009 - 2013 được thể hiện ở Bảng 5.1 (Phụ lục 5).
- Miếu Đống Lựa thờ Thần Đông Cương, nằm trên một gò đất cao ở giữa
cánh đồng. Miếu cổ đã không còn nữa. Năm 2001, cụ Lê Văn Mặc người thôn
Phương La 3 bỏ tiền, bỏ công vượt thổ, mua vật liệu để xây dựng lại.
76
- Đền Thiên Quan thờ Thần Thiên Quan - vị thần út thứ sáu có nhiều công
lao nhất trong số sáu vị thần. Đền tọa lạc trên địa phận thôn Phương La 4. Đền được
xây dựng mới vào năm 2002, cũng theo kiểu hiện đại với tổng kinh phí đầu tư
khoảng 200 triệu đồng.
- Miếu Đông Cương Tôn Thần, được xây dựng mới và khánh thành vào ngày
27 tháng 9 năm 2012. Kiến trúc miếu cũng theo lối hiện đại. Đại gia đình, anh em
con cháu ông bà Lê Minh Quang cung tiến trên 100 triệu đồng. Gia đình ông bà
Trần Hương Sen cung tiến toàn bộ gạch ngói xây đền và trên 18 triệu đồng tiền hiện
vật. Gia đình ông bà Lê Minh Hiệu tài trợ toàn bộ cửa ngõa đằng trước và sơn trang
trí toàn bộ cửa ngõa và một số đồ tế khí. Tổng số tiền để xây đền và đồ tế khí cúng
tiến của các gia đình cũng lên tới trên 400 triệu đồng.
Các di tích đều được quan tâm, đầu tư nên nhìn vào chúng ta thấy có sự biến
đổi mạnh mẽ theo xu hướng được tu bổ, phục dựng và xây mới từ 1994 trở lại đây.
Cùng với trùng tu, tôn tạo, người Phương La còn quan tâm sưu tầm và dịch lại các
tư liệu, thần tích, sắc phong có liên quan đến di tích, đến các vị thần được thờ như
các Sắc phong thần tại Đình Đông…
Việc quan tâm phục hồi các di tích góp phần giữ gìn, bảo lưu và phát huy
giá trị văn hóa truyền thống của địa phương; khơi dậy lòng tự hào, tinh thần cố kết
cộng đồng, nhớ về cội nguồn của người dân. Các di tích Phương La đẹp, đồng thời
được bổ sung thêm tư liệu quý, hiện vật quý làm cho các di tích thêm linh thiêng.
Dân làng càng thêm tôn kính các vị thần, từ đó chủ động thực hành lễ nghi chu
đáo hơn ở các khía cạnh tham dự và tham gia công đức. Đình Phương La, không
chỉ có ngày hội dân làng mới đến lễ mà họ đến lễ thường xuyên hơn, cả khi vui,
lúc buồn, nhất là mồng một hay ngày rằm. Tuy nhiên, việc tu bổ, tôn tạo các di
tích còn nhiều bất cập:
Các di tích được đầu tư tu bổ nên khang trang, bề thế; phong quang, sạch
đẹp. Tuy nhiên, việc xây mới hay tu bổ không giữ được nguyên trạng, khiến các di
tích có phần thiếu đồng nhất. Đền miếu ở Phương La hầu như được xây dựng mới
77
theo kiểu hiện đại, không phù hợp với lối kiến trúc cổ xưa. Việc làm mới đồ tế khí
cũng như thu nhận các đồ tế khí chưa có sự chọn lọc kỹ nên hình thức không phù
hợp với nơi thờ tự, với tín ngưỡng…
Huy động công đức cùng việc ghi nhận tấm lòng công đức bộc lộ sự bất cập:
xu hướng “vàng hóa”, “đô la" hóa trong vinh danh công đức với số lượng vàng lớn,
từ vài chỉ trở lên. Chẳng hạn, Bia công đức tu bổ đình năm 1994 ghi: “Quê hương
ghi công đức cúng tiến tiền của cao nhất về việc tu tạo đình làng Phương La năm
1994”: ông Trần Văn Sen 50 chỉ vàng, ông Đinh Hồng Quân 44 chỉ, ông Lê Minh
Quang 20 chỉ (là người công đức đầu tiên), ông Vũ Quang Huy và ông Lê Minh
Hiệu 24 chỉ. Ngoài lời văn lủng củng, trùng lặp từ, tấm bia còn thể hiện điều trái với
truyền thống làng xã trong việc ghi danh công đức là chỉ ghi tên những người “cung
tiến tiền của cao nhất”, vì thế “bỏ qua” những người công đức khác. Việc làm trên
vô hình dung là sự đề cao quá mức người giàu, coi thường người nghèo.
Mặc dù vậy, những giá trị cũ trong nghi lễ tôn giáo, trong các hoạt động tâm
linh vẫn là những điểm tựa cho việc khẳng định sức sống lâu bền của văn hóa
truyền thống trước sự thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.
78
Tiểu kết
Từ sau hòa bình lập lại đến nay, nghề dệt thủ công ở Phương La và các làng
nghề ở Hưng Hà chịu nhiều tác động của các chính sách phát triển kinh tế của Đảng
và Nhà nước, những thay đổi nhiều về điều kiện sống nên nghề dệt của làng biến
đổi và ngày càng phát triển, mang lại nguồn thu lợi rất lớn cho người dân nơi đây.
Đặc biệt, công cụ sản xuất được người Phương La luôn cải tiến, đổi mới, đáp ứng
nhu cầu khách hàng về sản phẩm.
Ngày nay, nghề dệt khăn của làng Phương La phát triển mạnh mẽ, thành
lập được nhiều công ty, xí nghiệp... với tài sản lớn, doanh thu hằng năm từ hàng
chục đến hàng ngàn tỷ đồng. Sản phẩm của làng dệt có mặt không chỉ trên thị
trường trong nước mà cả trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Canađa và
một số nước ở châu Âu. Làng có số lượng tỷ phú lớn thuộc bậc nhất trong nước
(gần 100 tỷ phú), được mệnh danh là làng tỷ phú. Làng không còn hộ nghèo, hộ
giàu chiếm tới trên 60%.
Nghề dệt phát triển, đời sống nhân dân trong xã nói chung, các hộ làm nghề
dệt không ngừng được nâng cao đã tạo cho Phương La một diện mạo mới. Không
gian cảnh quan làng biến đổi, nhiều biệt thự, vila, nhà cao tầng, các nhà thờ dòng họ,
công trình công cộng khác mọc lên, đường làng, ngõ xóm không khác gì thành phố; ao
hồ, vườn cây xanh đã bị biến mất, thay vào đó là các nhà xưởng sản xuất, khu chứa
nguyên liệu… làm cho không khí luôn ngột ngạt. Các di tích được đầu tư, chăm chút
nên khang trang, bề thế, tuy nhiên, việc xây mới hay tu bổ không giữ được nguyên
trạng, khiến các di tích có phần thiếu đồng nhất, thu nhận các đồ tế khí chưa có sự
chọn lọc kỹ nên hình thức không phù hợp với nơi thờ tự, với tín ngưỡng… xu
hướng “vàng hóa”, “đô la hóa” trong việc công đức ở các di tích… Trên đây là một
trong những yếu tố tác động góp phần tạo nên những vấn đề nổi bật về văn hóa xã
hội và văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La mà chúng tôi đề cập trong Chương
3 của luận án.
79
80
Chƣơng 3
VĂN HÓA XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA TINH THẦN
CỦA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA HIỆN NAY
3.1. Văn hóa xã hội của làng dệt Phƣơng La hiện nay
3.1.1. Sự hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp
3.1.1.1. Sự hình thành các chủ doanh nghiệp và vai trò của họ đối với kinh
tế- xã hội và văn hóa của làng
A. Sự hình thành các chủ doanh nghiệp
Trong làng nghề truyền thống, dù sản xuất còn nhỏ lẻ cũng đã hình thành các
tiểu chủ là người có vốn liếng, nhạy bén trong nắm bắt thị trường, quan hệ rộng nên
đứng ra tổ chức sản xuất vừa tạo công ăn việc làm cho người nông dân vừa đảm bảo
lợi nhuận cho mình. Dần dần, họ đứng ra thu mua và tiêu thụ sản phẩm của những
người thợ, các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ khác. Tuy nhiên, tính chất sản xuất nhỏ lẻ của
làng nghề truyền thống không cho phép những người chủ này phát triển thành các
chủ lớn, mà chỉ là các tiểu chủ “nhỉnh” hơn chút ít so với những người làm ăn nhỏ
lẻ bình thường; không thật sự nổi trội về cơ sở sản xuất, thu nhập, tài sản cố định,
do vậy, trước các tác động xấu về kinh tế - xã hội, họ cũng dễ “chao đảo”, thậm chí
phá sản, trở lại thân phận của người thợ bình thường. Chính vì thế, làng nghề trong
xã hội truyền thống ít có những ông chủ lớn.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, quy mô sản xuất cũng như thị trường
tiêu thụ ngày càng được mở rộng, đòi hỏi và tạo điều kiện để hình thành các cơ sở
sản xuất lớn. Cùng với sự hình thành khu sản xuất tập trung là sự ra đời của các
doanh nghiệp, ban đầu với cái tên “Tổ hợp sản xuất”, sau là “Xí nghiệp”. Các cơ sở
sản xuất lớn thực sự nổi trội hơn so với các cơ sở sản xuất bình thường trên tất cả
các phương diện: cơ sở sản xuất, tài sản cố định, thu nhập, quan hệ, uy tín trong xã hội.
Làng dệt Phương La cũng đi theo con đường trên đây, tổ hợp sản xuất đầu
tiên ra đời là tổ hợp Tân Phương do ông Trần Văn Sen đứng đầu, sau đó tổ hợp
chuyển vị trí lên thị trấn Hưng Hà phát triển thành Xí nghiệp dệt nhuộm in hoa
Hương Sen vào năm 1988 - xí nghiệp tư nhân đầu tiên của tỉnh Thái Bình. Bốn năm
sau, xí nghiệp phát triển và chuyển địa điểm về thị xã Thái Bình mang tên Công ty
trách nhiệm hữu hạn dệt nhuộm in hoa xuất khẩu Hương Sen. Từ đầu những năm
2000, do sản xuất phát triển, đã dần dần hình thành các công ty trách nhiệm hữu hạn
(TNHH), các doanh nghiệp với vai trò của các ông chủ, được gắn với các chức danh
“giám đốc”, “tổng giám đốc”, “chủ tịch hội đồng quản trị”…. Theo số liệu của
UBND xã Thái Phương, đến cuối năm 2014, làng Phương La có 50 công ty, doanh
nghiệp, trong đó tuyệt đại đa số các công ty, doanh nghiệp gắn với nghề dệt, chỉ có
một số công ty gắn với các nghề khác, song vẫn tập trung phục vụ nghề dệt. Một
làng quê chưa đầy 5000 nhân khẩu mà đã có 50 chủ doanh nghiệp đang hoạt động
tại làng đã làm cho Phương La trở thành một trong những làng có nhiều doanh
nghiệp, nhiều tỷ phú bậc nhất trong cả nước. Nếu so sánh với các làng dệt đũi thuộc
xã nghề Nam Cao, huyện Kiến Xương và xã nghề dệt khăn Minh Tân, huyện Hưng
Hà thì số công ty, doanh nghiệp của riêng làng Phương La đã lớn hơn gấp nhiều lần
của cả hai xã Nam Cao và xã Minh Tân cộng lại (xã Minh Tân có ba doanh nghiêp,
xã Nam Cao có 4 doanh nghiệp).
Sự ra đời của các công ty, doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu của các cơ sở sản
xuất, nhằm tuân thủ đúng các quy định về tài chính; đồng thời, giúp các doanh
nghiệp chủ động trong các công đoạn của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh
thu. Công ty, doanh nghiệp ra đời và lớn mạnh, cùng đó là sự hình thành và trưởng
thành của đội ngũ giám đốc, các chủ cơ sở sản xuất. Các chủ doanh nghiệp ở
Phương La đi lên "từ mặt đất", từ hai bàn tay trắng nhưng họ lại có cái nghề được
ông cha trao truyền. Các chủ doanh nghiệp này rất đa dạng về nguồn gốc xuất thân.
Song phần lớn các chủ doanh nghiệp ở Phương La hầu như không qua một trường
lớp nào cả, chỉ buôn bán và từ quá trình mưu sinh bằng đủ thứ nghề, đặc biệt, với
cái nghề dệt truyền thống được cha ông trao truyền mà phát huy được lợi thế của
nghề. Cũng có một số ít chủ doanh nghiệp trưởng thành từ người thợ. Những người
này, lúc đầu, mở xưởng chỉ với mong muốn không phải đi làm thuê hoặc phải nay
81
đây mai đó vì buôn bán. Có những người đã từng là công nhân viên chức Nhà nước
nhưng lương thấp, xin về phát triển nghề, lập nghiệp tại làng. Trong số đó, điển
hình là ông Trần Văn Dũng, hiện là Giám đốc công ty TNHH Thảo Nguyên; về làm
nghề từ năm 26 tuổi, đến nay đã được 24 năm, đó là cả một hành trình mò mẫm,
học hỏi, sống chết, lăn lộn với nghề.
Hộp 3.1: Sự hình thành chủ doanh nghiệp ở Phƣơng La
Ông Trần Văn Dũng - Giám đốc công ty TNHH Thảo Nguyên: “Gốc, tôi làm
bưu điện, sau thấy thu nhập thấp bỏ nghề năm 1990 (năm 26 tuổi) về quê làm nghề
truyền thống. Tôi lập nghiệp từ hai bàn tay trắng, nhưng được cái bố mẹ tôi xưa là
tiểu thương (mẹ tôi bán lụa tơ tằm, áo the ở phố hàng Ngang, hàng Đào, Hà Nội từ
những năm 1960) nên tôi cũng biết ít về thương mại. Chính môi trường làng nghề
đã tạo đà để tôi phát triển”.
[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2013)].
Cũng theo ông Dũng, các doanh nghiệp ở Phương La vẫn đứng vững trong
những giai đoạn khó khăn nhất vì "lưng vốn” không nhiều, nhưng là vốn tự tạo ra
bằng lao động, bằng “tích cóp”, không phải vay mượn, cầm cố. Ông nói: "mưa dầm,
ngấm lâu", vốn được tích lũy, tích tiểu thành đại. Đến nay, doanh nghiệp của ông có
200 máy dệt, cứ mỗi máy gắn với hai nhân công đứng máy, một nhân công máy
may, còn chưa kể đến số công nhân đóng gói, vận chuyển và nhặt khăn... Công ty
Phúc Cường do ông Nguyễn Văn Sướng làm giám đốc, ông Sướng cũng tự thân lập
nghiệp, nay đã tạo công ăn việc làm cho 80 công nhân làm việc tại công ty và trên
300 công nhân dệt vệ tinh nằm rải rác ở các thôn làng trong và ngoài xã.
Nghệ nhân Trần Văn Sen sinh ra và lớn lên tại Phương La, ngay từ thời còn
trẻ, ông đã cùng gia đình không ngừng tìm tòi, nghiên cứu sản xuất các mặt hàng vải,
khăn mặt, màn để phục vụ kháng chiến. Năm 1954, hòa bình lập lại, nghề dệt làng
Mẹo phục hồi. Trong khi nhiều người rời quê di cư thì gia đình ông Trần Văn Sen ở
lại và quyết tâm phát triển nghề dệt. Ông chủ động bỏ tiền đi học hỏi kinh nghiệm
nghề dệt lụa ở Vạn Phúc (Hà Nội), dệt lụa ở Nam Định... Trải qua nhiều khó khăn
82
gian khổ, đến nay, nghệ nhân Trần Văn Sen đã mở rộng sản xuất, kinh doanh ở nhiều
lĩnh vực, giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động; năm 2014, doanh
nghiệp của ông đóng góp vào ngân sách địa phương với gần 800 tỷ đồng.
Ông Vũ Quang Huy - người làng Phương La cũng là một trong những “đại
gia” đi lên từ nghề dệt của làng, từ hai bàn tay trắng, ông đã vượt khó vươn lên để
làm giàu tại làng. Ông Huy có may mắn là được thừa hưởng chút kiến thức về kinh
doanh từ bố mẹ vì bố mẹ ông xưa từng là những nhà buôn bán nhỏ. Tổ hợp Bình
Minh của làng dệt Phương La xưa do ông Huy làm giám đốc nay đã đổi tên thành
Công ty cổ phần Bitexco Nam Long, kinh doanh đa lĩnh vực như xây dựng, bất động
sản, giao thông,… với một số công trình nổi tiếng là tòa tháp đôi Bitexco tại Mỹ
Đình, Từ Liêm, Hà Nội và tòa tháp Bitexco cao nhất tại thành phố Hồ Chí Minh…
Nhờ có các công ty cùng các cơ sở sản xuất khác, việc làm và thu nhập của
người lao động tương đối ổn định nên ai cũng yên tâm lao động, sản xuất. Như vậy,
người nông dân được sống và làm nghề ngay trên mảnh đất của làng mình, không
phải ly hương, không phải ra đô thị kiếm sống, tránh được sự thiếu thốn tình cảm và
tránh được các tệ nạn xã hội ở đô thị. Hơn nữa, họ được sống với gia đình nên chi
sẻ, giúp đỡ được nhau khi khó khăn…
Với việc thành lập các công ty, tính chất sản xuất truyền thống theo quy mô
gia đình hay là nền “công nghiệp gia đình” mà Pièrre Gourou nhận xét đã bị phá vỡ.
Trước kia, một cơ sở sản xuất thường chỉ bó hẹp trong từng gia đình, chủ nhà cũng
là chủ xưởng và đồng thời là thợ cả (thợ chính) điều hành việc sản xuất, chỉ đạo kỹ
thuật; vài thợ giúp việc có thể là người trong họ hoặc người làng. Ngày nay, mỗi
công ty ở Phương La tập hợp ít nhất vài chục công nhân, nhiều nhất hàng nghìn
người, không chỉ người khác làng mà còn có nhiều người ở các tỉnh xa. Tuy nhiên,
vì bảo đảm sự kiểm soát về lợi nhuận nên tính chất gia đình trong các công ty,
xưởng sản xuất vẫn còn đậm nét. Các chức danh giám đốc (hoặc phó giám đốc), kế
toán trưởng đều là những người trong gia đình hay quan hệ quen biết thân thích.
Giám đốc công ty là ông chủ nhà, người vợ thường là kế toán trưởng, kiêm thư ký
cho chồng, do căn cơ, nắm chắc hơn, nhớ các tình tiết công việc hơn; các cụ xưa
83
thường ví “chồng như giỏ, vợ như hom”; những người khác chỉ đảm đương các
công việc thuần túy ít liên quan đến tài chính, kinh tế, đó là các việc phục vụ hoặc
những việc trông coi khác… hay làm thợ. Các ông chủ là người quyết định chính
trong các công đoạn của sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; tuy nhiên người vợ lại là
người thúc đẩy các quyết định đó của các ông chủ trong gia đình.
Con đường đi lên từ khi hình thành và phát triển của hầu hết các doanh
nghiệp của làng Phương La là “đi lên từ mặt đất”, “tích tiểu thành đại”. Ban đầu,
doanh nghiệp nào cũng từ các xưởng sản xuất nhỏ, sau đó qua quá trình tích lũy về
vốn, kinh nghiệm quản lý, mở rộng quy mô diện tích mặt bằng, số lượng nhân
công… rồi mới thành lập các công ty.
Ông Bùi Văn Hà - Phó Chủ tịch UBND xã Thái Phương cho biết: làng
Phương La có 50 giám đốc, đa phần trong độ tuổi từ 40 - 60 tuổi, rất ít người có
bằng đại học, cao đẳng; đều xuất phát từ nông dân, trình độ chưa hết phổ thông
trung học [Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2013)].
Các chủ doanh nghiệp ở Phương La có cái nghề được cha ông trao truyền
nhưng để có được sự thành công như ngày nay là cả một quá trình vượt qua bao khó
khăn vất vả và phải khẳng định họ là những người thực sự có tài năng, ham học hỏi,
luôn có khát vọng vươn lên làm giàu... Đã có không ít người tự bỏ tiền túi để đi học
mót công nghệ dệt ở làng Vạn Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà Nội), tự theo học
những lớp bồi dưỡng để nâng cao khả năng quản lý điều hành công việc của chính
mình. Mỗi ông chủ doanh nghiệp ở Phương La luôn là một tấm gương sáng về sự
lao động, trí tuệ, để cho con cháu trong làng học tập. Họ không chỉ giỏi về sản xuất,
kinh doanh mà họ còn có đầu óc tính toán tiết kiệm, tích cực tham gia xây dựng các
công trình phúc lợi, các di tích tôn giáo, tâm linh... Đặc biệt, cho đến thời điểm này,
chưa có bất cứ ông chủ nào ở Phương La sa vào con đường tệ nạn, không có người
nghiện cờ bạc, lô đề..., không có ai bị phá sản.
Vậy điều gì để giúp các chủ doanh nghiệp ở Phương La có được uy tín, vị thế
và làm ăn phát đạt? Vấn đề cần bàn đến là tại sao nhiều làng có nghề truyền thống
84
nhưng không phát triển được nghề, trong khi Phương La có thể phát triển thành một
làng giàu có bậc nhất trong cả nước với hàng trăm tỷ phú? Phải chăng làng Phương
La có tập hợp được một lớp người mà các nhà Dân tộc học và Văn hóa học bàn đến là
sự hình thành “giới tinh hoa” trong xã hội nói chung và trong làng Việt nói riêng.
Giới tinh hoa đã được nghiên cứu trong các ngành khoa học xã hội ở nhiều
nước trên thế giới và ở Việt Nam và được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau: chính
trị - xã hội, kinh tế, văn hóa, sinh học. Theo quan niệm chung, giới tinh hoa là một
nhóm ít người có những đặc điểm nổi bật về năng lực ở một khía cạnh nào đó, từ đó
họ thành đạt và có ảnh hưởng lớn đến cộng đồng trên khía cạnh đó. Khía cạnh phổ
biến nhất của giới tinh hoa là chính trị. Những người thuộc giới này có năng khiếu
chính trị, nắm được quyền lực và sức ảnh hưởng trọng yếu đến cộng đồng và những
quyết định chính trị. Quyền lực này được dựa trên quyền sở hữu và kiểm soát nhiều
nguồn lực, trong đó bao gồm nguồn lực kinh tế, sự tổ chức, hỗ trợ về mặt chính trị,
ý nghĩa biểu tượng và ưu điểm cá nhân. Nói cách khác, giới tinh hoa là những người
nắm giữ những vị trí hay vai trò có nhiều ảnh hưởng nhất trong những lĩnh vực
quan trọng của đời sống xã hội.
Xét trên khía cạnh kinh tế, giới tinh hoa là những người có năng khiếu sản
xuất, kinh doanh, biết nắm bắt thời cơ để sản xuất và kinh doanh, nhờ đó thành đạt,
có nguồn tài sản lớn, có sức chi phối lớn đến đời sống xã hội.
Xét trên khía cạnh văn hóa, họ là những người có trí tuệ cao, có năng khiếu
trong các hoạt động sáng tạo về văn học, nghệ thuật,... và thành đạt trên các hoạt
động đó, có ảnh hưởng lớn đối với đời sống tinh thần trong xã hội.
Thành phần của giới tinh hoa biểu hiện khác nhau ở mỗi cộng đồng cư dân,
tộc người, quốc gia, tùy thuộc mỗi thời kỳ lịch sử, đặc điểm kinh tế - xã hội và văn
hóa; song nhìn chung, có “tinh hoa” trong tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn
hóa, văn học nghệ thuật, khoa học…
Đối với Việt Nam, giới tinh hoa ở nông thôn thể hiện ở nhiều phương diện
khác nhau của đời sống, ở mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi thể chế xã hội.
85
Xã hội phong kiến Việt Nam dựa trên nền tảng của kinh tế tự cấp tự túc, trong
đó nông nghiệp là chủ đạo; công nghiệp hầu như không có gì nổi bật, thủ công nghiệp
là bộ phận gắn chặt với nông nghiệp; ngoại thương do nhà nước độc quyền, nên chỉ
có nội thương (buôn bán nhỏ trong nước). Về xã hội, Việt Nam vận dụng theo mô
hình của Trung Hoa, coi trọng kẻ sĩ, người làm quan và đường làm quan nên chỉ hình
thành tầng lớp tinh hoa về mặt chính trị- xã hội (và gắn với văn học, văn hóa). Còn ở
nông thôn, giới tinh hoa là các chức sắc, kỳ mục, - những người nắm giữ quyền lực
chính trị trong làng và thường là người của một hai dòng họ có thế lực. Về phương
diện kinh tế, có thể coi tầng lớp địa chủ là “tinh hoa”; còn những người làm nghề thủ
công và buôn bán có vị trí thấp trong “tứ dân - sĩ, nông, công, thương". Có thể nói,
thời phong kiến, xã hội nông thôn không tạo điều kiện, tiền đề để hình thành tầng lớp
tinh hoa về kinh tế, không hình thành đội ngũ ông chủ.
Thời cận đại (1884- 1945), chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
vô hình dung đã tạo các tiền đề để tầng lớp doanh nhân Việt Nam hình thành và phát
triển. Nhiều người kinh doanh thành đạt, trở thành tư sản yêu nước, như Bạch Thái
Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, góp phần phát triển nền
kinh tế dân tộc và thức tỉnh tinh thần dân tộc trong hoạt động kinh tế, từ đó nâng cao
tinh thần yêu nước cho dân chúng... Tầng lớp doanh nhân - giới tinh hoa về kinh tế
này chỉ hình thành ở các đô thị; còn ở nông thôn, do kết cấu kinh tế phong kiến không
hề thay đổi nên sản xuất vẫn như cũ; không hình thành doanh nhân.
Ở miền Bắc từ sau 1954 (miền Nam từ sau 1975) đến năm 1986, là cơ chế
quan liêu bao cấp. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là chủ đạo, kinh tế tư nhân không
được tôn trọng.
Công cuộc Đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường trả lại cho kinh tế tư
nhân vị trí của nó, tạo đà cho thành phần kinh tế này phát triển, ai cũng được tạo
điều kiện để làm giàu, làm chủ. Hàng loạt các công ty, doanh nghiệp ra đời. Vì thế,
Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân ban hành năm 1990 đã mở đường cho
các doanh nghiệp tư nhân ra đời và cùng với đó là sự hồi sinh, phát triển của tầng
lớp doanh nhân Việt Nam. Doanh nhân được công nhận là một tầng lớp xã hội và
86
được đề cao. Năm 2004, Chính phủ đã quyết định lấy ngày 13 tháng 10 là “Ngày
doanh nhân Việt Nam”.
Tuy nhiên, công cuộc Đổi mới tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế - xã
hội mới chỉ là những điều kiện cần cho sự hình thành tầng lớp doanh nhân, còn việc
hình thành tầng lớp này ở từng làng quê, tức điều kiện đủ lại tùy thuộc vào các nhân
tố về địa lý, lịch sử cư dân của từng làng và sự năng động của những người trong
cuộc. Sự ra đời của các chủ doanh nghiệp ở Phương La - đại diện cho giới “tinh
hoa” của làng xã trong thời kỳ đổi mới là còn do làng có vị trí giao thương thuận
tiện, có truyền thống làm nghề từ lâu, người Phương La gắn bó với nghề, mạo hiểm,
có khát vọng vươn lên làm giàu…
B. Vai trò của các chủ doanh nghiệp ở Phương La đối với kinh tế - xã hội và
văn hóa của làng
Trong đời sống kinh tế, các chủ doanh nghiệp ở Phương La đã tạo công ăn
việc làm cho nhiều nghìn lao động. Theo số liệu thống kê của phòng Công thương
huyện Hưng Hà, lao động làm nghề dệt vải của các xã trong huyện, các nhà máy, xí
nghiệp lên tới 78.000 người. Nghề may khăn, tẩy nhuộm, kiểm hóa, đóng gói cũng
cần sử dụng từ 7.000 - 8.000 lao động. Các lao động phục vụ cho nghề dệt cũng lên
tới trên 15.000 người.
Nghề phát triển, kéo theo một loạt các hoạt động thương nghiệp, dịch vụ của
làng cũng phong phú và phát triển, dịch vụ về nguyên liệu phục vụ sản xuất, dịch vụ
về tiêu dùng khi đời sống dân làng đã khấm khá.
Nghề dệt phát triển tạo điều kiện giải quyết tốt việc thu nhập thêm cho người
lao động khi công việc nông nhàn, người dân ở các xã trong huyện, trong tỉnh lại trở
thành các vệ tinh đến xin nhận hàng về gia công tại gia đình (có thể là dệt, may viền
hoặc “nhặt” khăn…) và sau đó nộp sản phẩm cho các công ty, doanh nghiệp, của
làng Phương La.
Các doanh nghiệp có công trong ủng hộ tiền bạc và công sức để xây dựng
trường học, cầu cống, đường sá và các công trình phúc lợi của làng xã.
87
Hộp 3.2: Đóng góp của doanh nghiệp xây dựng công trình phúc lợi
Ông Bùi Văn Hà - Phó Chủ tịch UBND xã Thái Phương: “Tổng số tiền của
các chủ doanh nghiệp đầu tư xây dựng trạm y tế, các công trình công cộng khác
trong khoảng 10 năm vừa qua lên tới 34 tỷ đồng. Tiêu biểu là gia đình ông Trần
Văn Sen đã ủng hộ 1,2 tỷ đồng xây dựng Đài tưởng niệm của làng, xây dựng đường
làng ngõ xóm 510 triệu đồng. Gia đình ông Trần Quang Huy đầu tư 7 tỷ đồng xây
trường Mầm non của xã, 3 tỷ đồng xây nhà văn hóa thôn Phương La 3 và nhà văn
hóa thôn Phương La 4”.
[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].
Các chủ doanh nghiệp ở Phương La còn rất coi trọng việc ủng hộ các quỹ
nhân đạo từ thiện; là nhân tố chính hỗ trợ phục hồi, trùng tu, xây mới các di tích. Ông
Trần Văn Quyền - Trưởng Ban quản lý di tích đình Đông cho biết, người dân Phương
La quan niệm về việc đóng góp kinh phí để phục hồi, trùng tu, xây mới các di tích là
việc tâm linh, ai cũng có tâm đức đóng góp tùy theo khả năng "người giàu một bó,
người khó một nén": song nếu không có những “một bó” thì không thể thành khoản
lớn, đủ sức để phục dựng hay tu bổ một di tích hoặc làm một việc gì đó cho “ra tấm,
ra món”. Ở đây, khẳng định vai trò quyết định về phương diện tiền bạc của các chủ
doanh nghiệp đối với việc trùng tu, tôn tạo, xây mới di tích. Các chủ doanh nghiệp
còn tích cực tài trợ cho các đoàn thể, các hội,... để có kinh phí hoạt động.
Mặt tích cực của tầng lớp chủ doanh nghiệp đã được khẳng định, là động lực
quan trọng để duy trì và thúc đẩy làng nghề phát triển. Họ thể hiện vai trò với làng
xã ở nhiều phương diện khác nhau của đời sống, có thể đứng ra lãnh đạo, giải
quyết các mối quan hệ, mâu thuẫn giữa làng của mình và những làng xung
quanh. Họ là những người tổ chức các hoạt động chung của làng như hội làng,
các nghi lễ và xây dựng các công trình chung. Họ cũng là những người có vai trò
giải quyết các xung đột nội bộ của làng; đóng góp ý kiến, xây dựng các chủ
trương, chính sách của các cấp chính quyền ở địa phương. Vì vậy, giữa các chủ
doanh nghiệp ở Phương La và làng xã có mối quan hệ gắn bó, tác động thúc đẩy
lẫn nhau.
88
Tầng lớp chủ doanh nghiệp ra đời phản ánh sự gia tăng sự phân hóa giàu
nghèo, hình thành các giai tầng xã hội khác nhau, dẫn đến hình thành lối sống riêng,
khác biệt với lối sống chung của cộng đồng; tạo ra nhu cầu hưởng thụ văn hóa khác
nhau, cũng như đánh giá các giá trị văn hóa truyền thống và giá trị, hiện tượng văn
hóa mới cũng khác nhau... dễ dẫn đến sự pha tạp, biến dạng của văn hóa tâm linh.
Trong hoạt động dòng họ, đã xuất hiện những rạn nứt, mâu thuẫn dẫn đến tách họ
xuất phát từ một số chủ doanh nghiệp sẽ được chúng tôi trình bày ở phần sau.
3.1.1.2. Các mối quan hệ xã hội mới xuất hiện trong quá trình làm nghề
Quan hệ trước đây của những người dân trong làng là mối quan hệ dòng họ,
huyết thống và quan hệ cộng đồng làng xóm. Nghề được nhân rộng và hình thành
các khu công nghiệp tập trung làm cho làng Phương La hình thành những mối quan
hệ xã hội mới mà trước đây chưa xuất hiện.
- Mối quan hệ giữa các chủ doanh nghiệp
Kinh tế thị trường, tính cạnh tranh rất quyết liệt; vì thế, quan hệ giữa các
chủ doanh nghiệp là quan hệ cạnh tranh “mạnh ai nấy thắng”. Tính cạnh tranh
thể hiện rõ nét trong việc tìm nguồn nguyên liệu rẻ hơn, tìm nơi tiêu thụ tốt hơn
và đặc biệt là lôi kéo công nhân, nhất là các thợ có tay nghề cao, làm ăn nghiêm
chỉnh về cơ sở sản xuất của mình. Tuy nhiên ở Phương La, các chủ doanh nghiệp
đều là người cùng làng, nhiều người có quan hệ họ hàng, thông gia... nên tính
cạnh tranh giảm tính quyết liệt rất nhiều, thể hiện: hiện tượng công nhân rời bỏ
doanh nghiệp này chuyển sang làm cho doanh nghiệp khác trả giá cao hơn diễn
ra tương đối phổ biến nhưng không có sự tranh chấp hay giành giật giữa các chủ
doanh nghiệp. Ở Phương La, những người thợ được coi là “nhân công chung,
nhân công của làng nghề”- tức là họ có thể sẵn sàng nay làm cho doanh nghiệp
này, tháng sau làm cho doanh nghiệp khác. Thậm chí, các chủ doanh nghiệp ở
đây luôn hỗ trợ, giúp đỡ nhau khi cần thiết để tổ chức tốt quá trình sản xuất, san
sẻ thợ làm khi nhận được đơn hàng lớn, tạo điều kiện để doanh nghiệp bạn kịp
có sản phẩm đáp ứng nơi nhận hàng.
89
Các chủ doanh nghiệp ở Phương La có một thỏa thuận “ngầm” là tôn trọng
quyền tự chủ của mỗi công ty, không “can thiệp” vào quá trình sản xuất, nơi tiêu
thụ sản phẩm của nhau. Họ đã cùng bàn bạc, hỗ trợ, phối hợp trong sản xuất cũng
như cùng đồng thuận kiến nghị lên các cấp chính quyền sớm giải quyết mặt bằng
sản xuất, bàn bạc về phương hướng và cách thức làm ăn, cùng nhau xây dựng thương
hiệu sản phẩm, về tổ chức nhân sự, quản lý, điều hành doanh nghiệp hướng đến tính
chuyên nghiệp, hiệu quả…
Như vậy dù là cơ chế thị trường đã ảnh hưởng , chi phối sâu vào làng nghề
nhưng tinh thần giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong quá trình sản xuất vẫn được các ông chủ
ở Phương La coi trọng, vẫn thể hiện tình làng nghĩa xóm, coi trọng huyết thống,
tính cố kết cộng đồng…
- Mối quan hệ chủ - thợ
Quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, kéo theo lượng người đến làm thuê ở
Phương La không còn bó hẹp ở các làng lân cận mà ở nhiều xã trong huyện, trong
tỉnh. Ngoài ra, còn lượng lớn người dệt vệ tinh, may khăn, “nhặt” khăn cho các
doanh nghiệp ở nhiều nơi khác nhau. Điều này giúp người Phương La nói chung,
các chủ doanh nghiệp nói riêng mở rộng giao lưu, sự cởi mở trong giao tiếp.
Công nhân ở đây làm công nhật hoặc khoán sản phẩm tùy theo cơ sở sản
xuất và tính chất công việc… Những công nhân này có thể là người cùng trong
dòng tộc, làng xã hoặc người thân quen nên họ đã có sẵn mối quan hệ với nhau; lại
được chính các chủ sản xuất nhận vào làm việc nên giữa chủ và thợ không có sự
ngăn cách quá lớn. Doanh nghiệp muốn phát triển ổn định thì phải quan tâm tới đời
sống vật chất và tinh thần của công nhân, quan tâm tới cả đời sống gia đình của
công nhân. Mối quan hệ ấy vẫn thể hiện gắn bó, chia sẻ lẫn nhau. Nhiều doanh
nghiệp tổ chức cho thợ ăn trưa để động viên và cũng là nhằm nâng cao năng suất
lao động; ngày lễ, Tết đều có quà thưởng cho công nhân... Ở Phương La, hiện tượng
đuổi việc hay xích mích giữa chủ và người làm ít xảy ra. Chưa có việc chậm trả
lương hoặc có bất hòa giữa chủ và thợ xảy ra ở đây.
90
Hộp 3.3: Quan hệ giữa chủ - thợ
Ông Trần Văn Dũng - Giám đốc công ty TNHH Thảo Nguyên: “Điều quan
trọng là mình hiểu tâm tư, nguyện vọng của công nhân, chia sẻ với họ và quan
trọng hơn là tạo công ăn việc làm ổn định, thu nhập tương đối thì họ sẽ gắn bó với
mình, làm việc cho mình. Ngày Tết, lễ cũng chuẩn bị cho họ chút quà: gói bánh, cân
đường… gọi là để động viên, khích lệ. ”.
[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].
Xuất phát từ cách đối xử “có nghĩa, có tình” giữa các chủ doanh nghiệp với
công nhân nên mối quan hệ của chủ với người làm lại càng gắn bó, công nhân tôn
trọng và biết ơn chủ, làm việc với tinh thần tự giác, ý thức cao. Những người thợ
giỏi rất được các ông chủ quan tâm, tạo điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần, thậm
chí còn có thể gọi là “chiều chuộng”. Vì thế, công nhân cơ bản rất gắn bó với doanh
nghiệp, quan hệ tốt với doanh nghiệp.
- Quan hệ giữa những người thợ
Như đã trình bày ở trên, công nhân ở Phương La có thể là người cùng làng,
người các làng lân cận hay trong huyện, trong tỉnh. Nhưng đã đến đây phải giữ gìn
để được có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định nên họ luôn tôn trọng lẫn nhau,
quan hệ gắn bó, đoàn kết. Địa bàn Thái Bình đất không rộng, đại bộ phận công nhân
hết giờ làm việc, về gia đình sinh hoạt, bình thường ai vào việc nấy, mải làm, do đó
ít có sự va chạm.
Đã cùng làm với nhau trong một công ty, cùng một doanh nghiệp, họ không
phân biệt người trong làng hay ngoài làng, đều xác định là đồng nghiệp nên còn
giúp đỡ, động viên nhau khi gia đình có việc vui, việc buồn…
Nhìn chung, mối quan hệ của những người làm thợ dù là người trong hay
ngoài làng đều rất gần gũi, gắn bó và chia sẻ.
- Quan hệ chủ sản xuất - chủ tiêu thụ sản phẩm
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì đầu ra của sản phẩm phải
được tiêu thụ tốt. Các doanh nghiệp ở Phương La, tiêu thụ sản phẩm của mình cả trong
91
và ngoài nước. Hàng xuất trong nước phải qua hệ thống đại lý phân phối khắp các tỉnh
thành. Hàng xuất đi nước ngoài như Nhật, các nước châu Âu… thì yêu cầu rất khắt khe
về chất lượng, do vậy, các doanh nghiệp phải rất quan tâm tiếp thị, mở rộng các đại lý
tiêu thụ sản phẩm và lắng nghe những ý kiến đóng góp về sản phẩm từ phía chủ đại lý.
Người Phương La rất giỏi về tiếp thị, mỗi doanh nghiệp có những cách thức khác nhau
để tạo sự gắn kết giữa chủ doanh nghiệp và chủ đại lý, những đối tác tiêu thụ sản phẩm.
Hàng năm, vào dịp Tết, các doanh nghiệp có thiếp chúc Tết các cửa hàng, đại lý
tiêu thụ sản phẩm kèm theo quà, có tiền mừng tuổi tạo sự quan tâm, gắn bó để giữ mối
làm ăn. Mối quan hệ này được người Phương La giữ gìn tốt, đây cũng là mấu chốt
giúp người Phương La phát triển sản xuất.
92
3.1.2. Hiện tượng tách họ, dựng nhà thờ mới
3.1.2.1. Nguyên nhân tách họ
Dòng họ của người Việt là tập hợp của những người có cùng một huyết thống,
hay có chung một ông tổ, từ lâu đã không còn là đơn vị kinh tế, một đơn vị sở hữu (vì
đã chia thành nhiều gia đình nhỏ - gia đình hạt nhân, với thân phận kinh tế - xã hội
riêng). Tuy nhiên, với sức cố kết rất lớn về tâm lý và tình cảm, nhờ ý thức chung về cội
nguồn (có chung ông tổ), được củng cố bởi mộ tổ, gia phả (tộc phả), nhà thờ họ (hay
chi họ), ngày giỗ tổ, dòng họ đã tạo ra tâm lý gắn kết dòng họ (“Họ chín đời hơn người
dưng”, “Cửu đại hơn ngoại nhân”…). Ý thức, tâm lý cố kết này mang nhiều ý nghĩa
tích cực, giúp cho người trong họ giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn, có công to
việc lớn (ma chay, cưới xin...), trong tổ chức khai hoang, phát triển sản xuất, khuyến
học, đánh giặc, cả trong xây dựng cơ sở cách mạng và phong trào cách mạng sau này.
Song ý thức, tâm lý cố kết trên cũng đem lại nhiều tác động tiêu cực như tâm lý cục bộ
dòng họ, sự đố kỵ và mâu thuẫn giữa các cặp dòng họ trong làng (họ đa đinh - ít đinh;
họ chính cư - ngụ cư; họ đến trước - đến sau, họ quyền thế - bạch đinh). Nhiều trường
hợp, các dòng họ lớn chèn ép các họ nhỏ; hoặc giữa các họ lớn diễn ra tình trạng “kình
địch” với nhau kéo dài nhiều đời, thậm chí cả tuyệt giao quan hệ hôn nhân với nhau.
Ngay nội bộ dòng họ ở nhiều nơi đã xảy ra những mâu thuẫn, tranh chấp giữa các chi,
cành nên có hiện tượng “Đi việc làng bênh việc họ, đi việc họ bênh việc anh em”.
Từ năm 1960 đến 1986, công cuộc hợp tác hóa, xây dựng các hợp tác xã
nông nghiệp trong nông thôn làm cho gia đình không còn là đơn vị kinh tế tự chủ,
ruộng bị thu lại để chia cho nông dân (từ năm 1955), sau đó bị công hữu hóa. Cơ sở
kinh tế của dòng họ không còn. Kinh tế gia đình phụ thuộc chặt vào kinh tế hợp tác
xã. Đời sống rất khó khăn. Tổ chức dòng họ cùng các hoạt động thờ cúng của nó vì
thế bị suy giảm đáng kể. Nhiều nhà thờ dòng họ bị xuống cấp hoặc không còn vì
những lý do khác nhau.
Công cuộc Đổi mới cùng sự phát triển của kinh tế đã tạo điều kiện cho việc
phục hưng dòng họ. Phong trào “trở về nguồn, tìm về cội nguồn” xuất hiện ở phần
lớn các địa phương, các dòng họ, thông qua việc lập lại Hội đồng gia tộc (hoặc Ban
liên lạc, Ban khánh tiết dòng họ), sưu tầm tư liệu để dịch lại, lập lại và bổ sung gia
phả, tộc phả hoặc phả đồ; dựng lại hoặc tu bổ nhà thờ họ, sửa sang mộ tổ, tổ chức
lại các nghi thức tế lễ… Dòng họ vẫn có ảnh hưởng lớn về tâm lý, tình cảm với các
thành viên, vẫn có tác dụng tích cực nhất định trong quản lý xã hội, góp phần phát
triển kinh tế ở các làng quê. Tuy nhiên, các ảnh hưởng tiêu cực của dòng họ vẫn còn
rất đậm nét, thể hiện qua hiện tượng “chi bộ dòng họ”, “chính quyền dòng họ” xảy
ra ở nhiều địa phương. Qua thời gian, ở nhiều địa phương, một số dòng họ đã xảy ra
tranh chấp về thế thứ do không còn lưu giữ được gia phả; dẫn đến mâu thuẫn,
không cùng tổ chức các sinh hoạt chung của dòng họ, thậm chí có nơi từ tranh chấp
thế thứ và “đoạn tuyệt” quan hệ này dẫn đến tranh chấp nhà thờ họ, khiến chính
quyền phải giải quyết.
Trong bối cảnh chung của các làng quê đồng bằng Bắc Bộ, các dòng họ ở
Phương La cũng có những đặc điểm, những biểu hiện tích cực, “tiêu cực” trên đây.
Tuy nhiên, do Phương La là làng nghề, kinh tế phát triển, xuất hiện đội ngũ doanh
nhân giàu có, trong số họ, có một số người có tính thích phô trương, “thích thể
hiện” nên những đặc điểm tiêu cực trên đây của dòng họ dẫn đến tình trạng cực
đoan. Nếu ở các làng nông nghiệp, mâu thuẫn và sự “phân ly” trong nội bộ dòng họ
chỉ dẫn đến không tổ chức thờ cúng chung, mà tổ chức ở nhà của những người “đầu
trò”, do không đủ điều kiện xây nhà thờ riêng thì ở Phương La, một cơ sở kinh tế
93
mạnh hay “trên tiền” giúp cho một số chủ doanh nghiệp bỏ tiền ra dựng nhà thờ
riêng, giúp cho việc tách họ nhanh chóng được “hoàn thiện”.
3.1.2.2. Thực trạng hiện tượng tách họ, dựng nhà thờ mới ở làng dệt Phương La
Từ đường dòng họ là nơi diễn ra hoạt động thờ cúng tổ tiên của dòng họ, nơi
diễn ra các sinh hoạt chung của họ. Hoạt động quan trọng và lớn nhất diễn ra tại đây là
giỗ họ, còn gọi là lễ giỗ tổ. Việc giỗ tổ nhằm tưởng nhớ đến những vị thủy tổ sáng lập
ra dòng họ, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của con cháu. Thông
thường, các dòng họ tổ chức giỗ họ mỗi năm một lần, những dòng họ có gia phả ghi
chép đầy đủ cả ngày mất của thủy tổ ông và thủy tổ bà thì giỗ một năm hai lần. Ngoài
ra, các hoạt động hội họp bàn việc họ; tuyên dương, báo công kết quả học tập của con
cháu trong họ,… cũng đều diễn ra tại đây. Nhà thờ họ có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong đời sống tâm linh đối với từng dòng họ. Mỗi khi có việc lớn, các gia đình đều
biện lễ vào từ đường để cầu xin mọi điều tốt lành. Đánh giá về mức độ quan trọng của
việc duy trì hoạt động dòng họ ở Phương La so với trước năm 2000, qua xử lý các
phiếu điều tra, chúng tôi có kết quả được thể hiện ở Bảng 3.1.
Bảng 3.1: Đánh giá việc duy trì hoạt động dòng họ hiện nay
Đơn vị tính: %
Tầm quan trọng của dòng họ
Hiện nay
Trước năm 1996
Quan trọng
66,96
66,07
Bình thường
33,04
33,48
Không quan trọng
0,0
0,45
Khó đánh giá
0,0
0,0
[Nguồn: Kết quả xử lý số liệu điều tra (Phụ lục 7].
Theo kết quả trên, có tới 66.96% số người dân ngày càng rất coi trọng vai
trò, hoạt động của dòng họ; lớn hơn so với trước 1996 (66.07%). Vì vậy, mọi thành
viên các gia đình trong họ luôn hướng về dòng họ, về nơi thờ tự. Chính vì thế, nhà
thờ họ cũng được con cháu chăm lo tu bổ, xây mới khang trang, lộng lẫy và tốn kém
hơn các di tích tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng làng. Một số dòng họ đã có nhà
thờ, so ra lại “kém” hơn họ khác nên đầu tư kinh phí để xây lại cốt to hơn, lớn hơn
94
của người. Ngoài ra, hoạt động dịch, viết mới gia phả cũng rất được các dòng họ
chú trọng...
Các hoạt động trên, về mặt tích cực đã giáo dục con cháu hướng về cội
nguồn, có hiếu lễ với ông bà, tổ tiên, thêm tình cảm gắn bó với gia đình, quê hương,
đất nước, phát huy truyền thống của dòng họ… Mặt khác, do tác động của cơ chế
thị trường với tâm lý “phú quý sinh lễ nghĩa”, đặc biệt, do người Phương La giàu có
nên biểu hiện trên càng đậm nét. Khảo sát tại làng, chúng tôi thấy hiện tượng tách
họ, dựng nhà thờ mới đang diễn ra rất phổ biến và ngày càng có chiều hướng xây
dựng nhà thờ to lớn hơn, quy mô hơn.
- Trường hợp họ Trần, dòng họ lớn nhất ở Phương La, có 15 chi, chi ông Trần
Văn Sen đứng đầu có 120 hộ. Đây là chi cả và xác định Hoằng Nghị Đại Vương là tổ
họ nhưng một số chi trong họ không công nhận. Từ đường cũ của họ Trần ở Phương
La do gia đình ông Trần Văn Sen phụng thờ, là toà nhà cổ kính gồm một ngôi nhà tổ và
một căn nhà lưu liệm. Nhà lưu niệm được xây dựng lại vào năm 1984 - 1985. Hầu hết
các di vật ở nhà lưu niệm đều mới được phục chế. Hiện nay, họ Trần còn xây dựng một
từ đường mới sát chợ Mẹo, rộng nhiều ha đất, kiểu cổ, cao năm tầng và còn chồng
thêm bảy tầng mái; nổi lên giữa làng Phương La càng tôn thêm vẻ giàu có trù phú của
làng nghề. Nhà thờ được xây dựng lên rất “hoành tráng”, nhưng người của nhiều chi tự
tổ chức tại gia đình mà không đến đây sinh hoạt dòng họ.
- Nhà thờ họ Lê được xây dựng cách đây khoảng 400 năm, tháng 8/2006
được dựng lại với kinh phí trên 3 tỷ đồng, gồm tầng hầm là nơi ăn uống; tầng trên là
nơi thờ tự vào dịp giỗ họ (tháng hai hằng năm). Song khi nhà thờ vừa dựng xong,
trưởng họ, đang sống tại Ninh Bình, có tiền mang về làng, tự xây nhà thờ riêng. Xây
xong nhà thờ mới, mâu thuẫn cũng xuất hiện; hai chủ doanh nghiệp khác đã xây nhà
thờ riêng, tách ra khỏi họ. Đến nay, họ Lê Văn đã tách thành năm chi, trong đó có
hai chi chưa xây được nhà thờ họ vì chưa có tiền hoặc đã có tiền nhưng còn nhiều lý
do mà chưa muốn xây.
- Họ Đinh có hai chi, do mất đoàn kết, một chi tách thành hai nên họ Đinh
hiện có ba chi, trong đó, chi trưởng, không có ai là chủ doanh nghiệp nên chưa xây
95
được nhà thờ. Hai chi còn lại do hai chủ doanh nghiệp giàu có, tuy không phải là
trưởng nhưng đã dựng nhà thờ riêng, kinh phí trên 500 triệu đồng.
- Họ Đỗ, do sự phân định thế thứ không chuẩn, phả đồ chưa được lập lại,
cũng tách họ. Từ một họ thống nhất, tách thành hai họ, nơi thờ tự riêng.
- Họ Vũ có ba chi nhưng chỉ có chi Vũ Quang xây nhà thờ mới vào năm 2010,
với số tiền một tỷ đồng, do con cháu dòng họ đóng góp. Đây là một trong những ngôi
từ đường đẹp nhất ở làng Phương La. Còn các chi khác chưa có nhà thờ nhưng vẫn
cúng lễ riêng. Mỗi năm, các gia đình thay nhau "dọn họ" một lần "cơm lần, cháo lượt";
bắc rạp, lo cúng lễ và mời con cháu trong họ đến sinh hoạt.
Cũng có trường hợp, không phải do kinh tế mà bởi sự ngang ngược của một
vài người (hàng con cháu) trong dòng họ nên cũng có sự tách nhỏ họ. Điển hình là họ
Đào, tuy nghèo nhưng vẫn tách thành hai chi vì bất hòa.
Qua khảo sát tại hai xã nghề Nam Cao và Minh Tân, hiện tượng bất hòa
trong các dòng họ đôi khi vẫn xảy ra; việc tu bổ, xây dựng từ đường mới có nhưng
hiện tượng tách họ, xây thêm từ đường hầu như không xảy ra.
Như vậy, nghề dệt phát triển, kinh tế giàu có, đời sống vật chất của người dân
nâng cao, song cũng vì thế mà nảy sinh bất hòa, mâu thuẫn trong các mối quan hệ
ruột thịt, họ hàng, điển hình là sự mâu thuẫn trong các dòng họ, dẫn đến hiện tượng
tách họ, dựng nhà thờ mới, tổ chức cúng lễ riêng, sinh hoạt họ cũng bị chia tách…
Vậy, kinh tế là một trong những nguyên nhân chính khiến việc tách họ, xây nhà thờ
mới ở làng Phương La nhanh chóng được thực hiện và sớm hoàn thiện. Trên đây
cũng là biểu hiện của sự rạn nứt tính cố kết cộng đồng dòng họ, làng xã trong điều
kiện CNH - HĐH đất nước.
96
3.1.3. Vấn đề an ninh - xã hội
Phương La là làng giàu có, phát triển đi lên từ nghề dệt. Mặc dù là làng giàu,
có tới cả trăm tỷ phú và hàng vài ngàn lao động đến làm thuê mỗi ngày nhưng lại là
làng rất trật tự về an ninh - xã hội. Hầu như làng không có trộm cắp, không có tệ
nạn xã hội. Qua thông tin thu thập, phỏng vấn, hiện tượng về tệ nạn xã hội ở
Phương La rất ít, số lượng có chiều hướng giảm đi:
Về tệ trộm cắp: tìm hiểu qua người dân, chúng tôi được biết, từ lâu, hiện
tượng trộm cắp tài sản ở Phương La đã không xảy ra. Mọi người ở đây, ai cũng có
công ăn việc làm, thu nhập ổn định, mải chăm chút vào công việc. Những người đến
làm thuê, luôn có ý thức giữ gìn danh dự vì nếu họ trộm cắp, người dân Phương La
phát hiện sẽ lên án, bị mất việc và ảnh hưởng về tận làng nơi sinh sống. Một số
người dân và các doanh nghiệp cho biết, ban đêm, nhiều khi quên không khóa cổng
cũng không mất mát gì.
Hiện tượng cờ bạc ăn tiền: thông thường, nghề và làng nghề phát triển thì tệ
nạn xã hội cũng có chiều hướng gia tăng. Cờ bạc ăn tiền ở mức độ nhỏ là tật của
người Việt trong các đám cưới, các cuộc vui. Họ không ngần ngại ngả bàn chơi cho
vui, rồi để giết thời gian... dẫn đến sát phạt nhau. Nhưng ở Phương La lại khác, mọi
người trong làng ai cũng tham việc, không còn thời gian sa đà vào các tệ nạn xã hội,
cờ bạc, lô đề... Đặc biệt, các chủ doanh nghiệp cũng chưa từng có ai bị phá sản, bị
sa ngã vào cờ bạc, cá độ bóng đá châu Âu. Điều này khác hẳn với làng nghề Triều
Khúc (huyện Thanh Trì, Hà Nội). Nơi đó, số lượng doanh nghiệp, các ông chủ ít
hơn nhiều so với làng Phương La nhưng lại có nhiều người bị phá sản do cờ bạc, cá
độ bóng đá... đến mức người dân còn có câu nói: "người Triều Khúc nhưng tệ nạn
châu Âu". Đa số các ông chủ tham gia cá độ bóng đá là những người chưa trở thành
chủ doanh nghiệp, công ty hoặc chỉ là doanh nghiệp nhỏ nên việc nhận thức, ý thức
về vị trí, trách nhiệm, của họ đối với công nhân, người làm thuê…, chưa thật sự đầy
đủ. Hơn nữa, Triều Khúc gần đô thị lớn, chịu ảnh hưởng sâu sắc của quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa [124, tr.103]. Làng Phương La xa đô thị hơn, đặc biệt, các
ông chủ doanh nghiệp đi lên "từ mặt đất", họ đều là những doanh nghiệp lớn, ý thức
được những việc mình làm. Họ đã thành công và trân trọng giữ gìn thành quả đó.
Mặt khác, quản lý số công nhân lớn, có doanh nghiệp tới hàng mấy trăm người, các
chủ doanh nghiệp ở Phương La càng ý thức đầy đủ hơn về vai trò, trách nhiệm của
mình: lo cho sự nghiệp của doanh nghiệp, lo công ăn việc làm, đời sống công
97
nhân... Tuy nhiên các chủ doanh nghiệp ở đây cũng không thể chủ quan, vì ranh
giới giữa cái lành mạnh, cái tốt với cái chưa lành mạnh, cái xấu là rất mỏng manh.
Giải thích về việc làng Phương La không có hiện tượng các chủ cơ sở sản
xuất sa vào cờ bạc, cá độ, giám đốc một công ty TNHH nêu ý kiến :
Hộp 3.4: Nhận thức về vị trí, trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp
Ông Đào Duy Tứ - Giám đốc Công ty TNHH Minh Thu: “Chúng tôi là giám đốc
doanh nghiệp, hoàn toàn khác với chủ cơ sở sản xuất. Là giám đốc doanh nghiệp,
cầm con dấu, có tài khoản phải ý thức cao về con dấu và tài khoản của mình, làm gì
cũng phải lo tài khoản không bị thất thoát, không vướng vào lao lý để bị thu con
dấu. Khi đó, không chỉ mất tài sản, sự nghiệp, mà còn mất cả thanh danh của bản
thân và gia đình”.
[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].
Về ma túy: làng dệt Phương La vào năm 2007, 2008; theo điều tra của
chúng tôi, có trên 10 người vừa mắc nghiện vừa buôn ma tuý; ở tù là 5 trường hợp,
án ma tuý là 4 trường hợp và Phương La cũng có một đôi vợ chồng từng là thợ dệt
song vì lợi trước mắt, buôn ma tuý, cả hai vợ chồng đều phải vào tù. Thanh niên
nghiện ma tuý ở Phương La chủ yếu là do đua đòi, đám thanh niên đua đòi này phần
nào cũng làm ảnh hưởng tới số công nhân làm thuê cho Phương La. Còn hiện nay,
theo báo cáo của UBND xã Thái Phương, Phương La hầu như không có người
nghiện ma túy vì làng nghề ổn định sản xuất, các gia đình có điều kiện chú trọng
đầu tư cho con em ăn học.
Làng Phương La đến thời điểm này, an ninh tốt, ít tệ nạn vì kinh tế ổn định,
đời sống người dân sung túc, mọi người ai cũng có công ăn việc làm. Tuy nhiên,
nghề phát triển, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa cùng với sự xuất hiện của
những người lao động làm thuê đã khiến cho vấn đề an ninh - xã hội của Phương La
luôn tiềm ẩn những phức tạp, gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý của các cấp
chính quyền. Điều này, đặt ra cho các cấp chính quyền cần quan tâm, để có hướng
giải quyết.
98
Bảng 3.2: Số ngƣời đến dệt thuê ở Phƣơng La, theo các năm
Thôn T
Số người đến dệt thuê theo các năm
TT
2010
2011
2012
2013
2014
1 2 3 4
Phương La 1 Phương La 2 Phương La 3 Phương La 4
650 415 396 414
672 465 416 507
681 500 516 605
700 618 681 701
814 701 697 801
[Nguồn: UBND xã Thái Phương]. Làng dệt Phương La thu hút một lượng lớn lao động người ngoài làng vào
làng nghề, tạo được mặt tích cực đó là sự giao lưu văn hoá - xã hội nhưng đồng thời
nó cũng gây khó khăn cho công tác quản lý xã hội và quản lý văn hoá. Làng dệt
Phương La dễ tiếp cận lối sống đô thị nên cũng dễ bị tác động văn hóa không lành
mạnh của lối sống đô thị vào trong làng. Người làng nghề có mối quan hệ làm ăn
rộng rãi với nhiều nơi nên cũng dễ du nhập yếu tố văn hoá không phù hợp ở nơi khác
vào. Sự xâm nhập lối sống của xã hội thượng lưu phương Tây, xa lạ với truyền thống
dân tộc đang có xu hướng lan rộng. Do tiếp xúc với thị trường, buộc con người ta
phải năng động, thích ứng đồng thời họ càng phải nắm bắt, am hiểu các quy luật thị
trường, am hiểu pháp luật. Tuy nhiên, chính việc này dễ dẫn đến mối quan hệ giữa
con người với con người trong các làng nghề chủ yếu là mối quan hệ kinh tế, quan hệ
luật pháp, nặng về lý. Điều này không chỉ diễn ra giữa các hộ làm ăn kinh tế với nhau
hay giữa các chủ với nhau, mà nó còn biểu hiện ngay cả trong mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình. Tình cảm, trách nhiệm của con cháu với tổ tiên, ông bà cha
mẹ được nhìn nhận thông qua sự đầu tư về kinh tế. Thước đo tình cảm giữa người
trong làng cũng là bằng tiền. Tiền mừng đám cưới càng lớn càng chứng tỏ sự quan
tâm gần gũi của người mừng. Trong làng nghề, con người cần sự rành mạch, cần cái
lý, cái luật để giải quyết công việc dẫn đến cứng nhắc trong ứng xử, giao tiếp.
Bên cạnh đó, lối tư duy mang tính tiểu nông, đó là sự khoe khoang, đề cao
mình, tâm lý sùng ngoại; sự ganh đua đố kỵ giữa các dòng họ, quyền thế hay không
quyền thế; kiểu làm ăn buôn bán mang tính ăn sổi, chỉ thấy lợi trước mắt vẫn diễn ra
ở làng nghề Phương La - ví dụ đưa công nghệ tẩy vào trong làng thì thu nhập tăng
lên, nhưng không thấy được tác hại của nước thải, chịu sự ảnh hưởng của độc hại
99
cho mọi người xung quanh mình…Tư tưởng trọng nam vẫn còn tồn tại ở một bộ
phận lớn những người thợ thủ công, dẫn đến việc tạo lập tương lai cho con cháu ở
làng nghề cũng thiếu sự bình đẳng. Đó là quan tâm tới sự thành đạt của nam nhiều
hơn, nhiều em trai được đi du học nước ngoài. Dòng họ Lê ở làng dệt Phương La có
tới 10 người đi du học ở nước ngoài, nhưng học xong thì nam giới có trở về quê
phát triển nghề truyền thống hay chuyển sang những lĩnh vực hoàn toàn mới? Nếu
vậy làng nghề có còn được mở mang và phát triển? Nhìn chung các làng nghề có
thu nhập khá thì tỷ lệ sinh con thứ ba rất nhiều, chiếm 13% đến 19%. Xã Thái
Phương, trong năm 2007 có tới 34 gia đình có con thứ ba, cá biệt còn có gia đình
sinh con thứ tư, riêng làng Phương La tỷ lệ sinh con thứ ba là 19% điều này ảnh
hưởng trực tiếp tới xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá.
Mặc dù theo báo cáo của UBND xã, làng Phương La hiện không có trường
hợp nào mắc nghiện nhưng các cộng tác viên cho chúng tôi biết, làng không có
người nghiện hút dặt dẹo, lang thang, nhưng tiềm ẩn trong một vài gia đình đã có
con bị nghiện, do có kinh tế, họ có tiền cho con đủ hút nên vẫn làm việc và kiểm
soát được. Vì danh dự gia đình, họ không để lộ ra ngoài và chưa để con cái làm ảnh
hưởng đến làng xã. Các loại phương tiện vận chuyển, xe cơ giới, xe thô sơ… tăng
chóng mặt, giao thông có thời điểm bị ách tắc… Làng quá tải về nhiều mặt: mật độ
dân số, sử dụng dịch vụ, hạ tầng cơ sở.
Chính những đặc điểm trên đây gây khó khăn và áp lực đối với công tác an
ninh, trật tự của Làng.
100
3.2. Văn hóa tinh thần của làng dệt Phƣơng La hiện nay
3.2.1. Lối sống, tâm lý của người Phương La
3.2.1.1. Sự hình thành nhịp sống và tác phong, lối sống công nghiệp
Nền sản xuất nông nghiệp lúa nước của người Việt có đặc điểm nổi bật là diễn
ra theo “mùa vụ. Yếu tố “thì” (thời vụ) giữ vai trò trọng yếu, quyết định đến được mùa
hay mất mùa. Chính phương thức canh tác này dẫn đến một đặc điểm cơ bản trong lối
sống của người nông dân Việt là giờ giấc làm việc và nghỉ ngơi không ổn định, vào lúc
mùa vụ (thời điểm có các công đoạn trồng cấy và thu hoạch) rất bận rộn, căng thẳng,
phải tập trung mọi nhân lực gia đình, sức lực và thời gian cá nhân để cày cấy và gặt
hái; song khi thời gian “tháng công, đồng vụ” qua đi, tức thời kỳ nông nhàn, lại nhàn
rỗi. Đặc điểm này ảnh hưởng đến nét nổi bật trong sinh hoạt của người nông dân là giờ
giấc không thật chuẩn xác, cho các công việc, cho nghỉ ngơi của từng ngày.
Trong khi đó, để bảo đảm sản xuất, người làm công nghiệp có nhịp sống ổn
định, theo giờ giấc vì tính chất công việc của họ bị phụ thuộc vào các quy định của
cơ sở sản xuất (nhà máy, xí nghiệp hay phân xưởng). Mỗi người là một mắt xích
trong dây chuyền sản xuất, có quan hệ chặt chẽ với công việc của người khác… nên
buộc phải theo một quy trình nghiêm ngặt. Một người đi làm muộn, làm với tốc độ
chậm sẽ ảnh hưởng tời phần việc của người khác. Do vậy, tác phong khẩn trương và
chính xác giờ giấc là đặc điểm nổi bật của lối sống của cư dân công nghiệp.
Người làng Phương La xưa, khi còn làm ruộng và còn lối dệt truyền thống, nhịp
điệu sống vẫn mang tính mùa vụ. Nghề dệt chiếm ưu thế và chuyển sang sản xuất công
nghiệp, người Phương La đã từng bước thay đổi lối sống truyền thống, chuyển thành
công nhân, thích ứng với tác phong công nghiệp, đó là giờ giấc làm việc phải chính xác,
tiết kiệm thời gian. Từ nhịp sống mùa vụ, nông nghiệp sang nhịp sống công nghiệp chưa
đầy đủ, vẫn có sự pha trộn, đan xen, chưa hẳn là nhịp sống đô thị nhưng khẩn trương,
gấp gáp và năng động, đặc biệt phải đúng giờ theo quy định của cơ sở sản xuất.
Thông thường, các cơ sở sản xuất ở Phương La qui định cụ thể về thời gian
làm việc, vào mùa đông, buổi sáng làm việc từ 7 giờ 30 phút đến 11 giờ 30 phút,
buổi chiều từ 13 giờ; mùa hè, sáng làm việc sớm hơn nửa tiếng, buổi chiều muộn
hơn nửa tiếng. Thời gian cao điểm, công nhân còn làm tăng ca. Công nhân buộc
phải đi làm đúng giờ để không bị nhắc nhở, ghi tên, trừ lương, trừ thưởng; ngoài ra,
họ phải đi làm đúng giờ nhằm đảm bảo số lượng và chất lượng sản phẩm để có
nguồn thu. Điều này, đã góp phần tạo nên tác phong công nghiệp cho cư dân.
Tuy nhiên, do các chủ cơ sở và phần đông công nhân là người cùng xóm, cùng
làng, thậm chí nhiều trường hợp là người cùng dòng họ, nên việc công nhân xin nghỉ
sớm, đến muộn vẫn diễn ra, các chủ doanh nghiệp dù muốn hay không vẫn phải chấp
nhận. Tình cảm xóm làng, họ hàng của xã hội nông nghiệp nhiều khi vẫn “át” những
nguyên tắc lẽ ra phải được tuân thủ nghiêm ngặt của cuộc sống công nghiệp.
101
Các hộ gia đình dệt vệ tinh, mùa hè, bắt đầu công việc từ 6 giờ sáng (mùa
đông là 7 giờ); nghỉ trưa hơn 01 giờ; sau đó dệt đến 6 - 7 h tối, nghỉ ăn cơm, có khi
dệt đến 9 - 10 giờ đêm.
Việc hình thành các khu công nghiệp, mở rộng sản xuất của các hộ gia đình,
các công ty, doanh nghiệp đã khiến diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. Làng “mở”
hơn, người Phương La vốn năng động, nhanh thích ứng với điều kiện mới; khi cuộc
sống có nhiều thay đổi, mối quan hệ xã hội cũng đổi thay, họ càng trở nên năng động
hơn để đạt được mục tiêu trong cuộc sống. Vì vậy, họ luôn bận rộn với công việc,
quan hệ với đối tác, thường xuyên đi giao dịch, maketing sản phẩm… nên thời gian
để các thành viên trong gia đình quan tâm trò chuyện với nhau, các bữa ăn đông đủ
cũng thưa dần và trở nên phổ biến. Trong giao tiếp cũng thường bàn đến công việc, ít
có điều kiện nói chuyện phiếm. Như vậy, việc tập trung gia đình để bàn bạc các công
việc chung cũng cần phải bố trí, tính toán mới có thể thực hiện được.
Nghề dệt phát triển tạo điều kiện cho các hoạt động dịch vụ được mở mang.
Trên 90% số hộ trong làng không còn làm nông nghiệp mà đã chuyển hẳn sang làm
nghề, làm dịch vụ, kinh doanh hoặc làm thuê. Điều này làm cho nhịp sống của từng
gia đình cũng như của cả làng đã khác xưa, luôn tất bật, hối hả, khẩn trương. Họ
bận rộn trong mọi hoạt động, ở mọi thời điểm, từ sáng sớm tinh mơ đến tận 9, 10
giờ đêm, gần như không có thời gian rỗi. Bước chân tới đầu làng Phương La, du
khách chỉ nghe thấy âm thanh của máy dệt, thoi đưa; không thấy cảnh thanh niên,
những người trong độ tuổi lao động, thậm chí cả người già “la cà” trên đường làng,
trong các quán xá. Tuy nhiên, một bộ phận người làng Phương La đã ổn định sản
xuất, ổn định nơi tiêu thụ sản phẩm…tỏ ra khá bình thản, thong dong tạo ra dáng
dấp của những ông chủ có tiền, khẳng định mình.
Lối sống công nghiệp được biểu hiện rõ nét trong từng gia đình ở Phương
La. Các gia đình chủ công ty, việc thực hiện giờ giấc hết sức nghiêm ngặt, đúng giờ
bởi ông chủ phải đến trước kiểm tra, chuẩn bị một số công việc phải triển khai…,
đến trước công nhân để quan sát, quản lý và đôn đốc họ làm việc. Bà vợ cũng phải
đến rất đúng giờ còn chỉ huy nhập, xuất nguyên liệu, sản phẩm và giải quyết các
102
công việc khác. Còn việc nội trợ, nhà cửa… đã có người giúp việc chăm lo. Các gia
đình dệt vệ tinh cũng khẩn trương không kém; bà vợ, sáng dậy sớm, lo ăn sáng cho
cả gia đình; đến giờ, các lao động chính ngồi vào máy dệt không ngừng nghỉ để
nâng cao năng suất lao động, tăng nguồn thu cho gia đình. Những người dệt thuê
cho các công ty, xí nghiệp để không sợ mất việc, lo trừ tiền lương…buộc cũng phải
khẩn trương, đi làm đúng giờ, làm tăng ca, tăng thêm thu nhập, có tiền thưởng... Cứ
vậy, ở Phương La, ai cũng khẩn trương, tất bật, hối hả, tạo nên lối sống, tác phong
công nghiệp. Sản xuất theo quy mô công nghiệp, tự động hóa, hợp đồng ký kết đòi
hỏi đúng tiến độ… tạo cho các hộ lao động làng Phương La tác phong lao động công
nghiệp, đúng giờ giấc, khác hẳn với lề lối làm việc xưa, coi làm nghề chỉ là làm
thêm lúc nông nhàn, vì vậy: thích thì làm, không thích thì nghỉ. Đây là nét mới, tác
phong mới trong lao động của người làng nghề thời kỳ đổi mới.
Nhịp sống của người Phương La có sự biến đổi nhưng không vì thế mà họ
xem nhẹ các lễ tiết trong năm, các lễ tiết vẫn được bảo lưu và thể hiện theo đúng mô
thức, nhịp điệu của đời sống nông nghiệp mùa vụ nhưng được coi trọng, đầu tư và
tiến hành trang trọng hơn. Như vậy lối sống đô thị, công nghiệp đã và đang hình
thành và tồn tại đan xen với lối sống nông nghiệp tình nghĩa làng quê trong làng dệt
Phương La. Đánh giá về mức độ coi trọng vấn đề tâm linh của dân làng nghề hiện
nay so với trước 1996, chúng tôi thu được kết quả ở Bảng 3.3.
Bảng 3.3: Đánh giá mức độ coi trọng vấn đề tâm linh
103
của ngƣời dân hiện nay so với trƣớc năm 1996
Vấn đề tâm linh
Mức độ coi trọng
Hiện nay
Trước 1996
Quan trọng
21,43
14,29
Bình thường
78,57
85,71
Không quan trọng
0,0
0,0
[Nguồn: Tổng hợp phiếu điều (Phụ lục 7)].
Như vậy, số người coi trọng vấn đề tâm linh hiện nay đã tăng lên nhiều so
với trước năm 1996, điều này thể hiện các yếu tố văn hóa truyền thống vẫn được
người dân bảo lưu và coi trọng.
3.2.1.2. Tính cách người làm nghề
Với người làng dệt Phương La khởi nguồn là nông dân, kinh tế nông nghiệp giữ vai
trò chủ đạo, nên có chung thuộc tính của người nông dân Thái Bình, nông dân Việt Nam.
Tuy nhiên, do lịch sử hình thành đất đai, dân cư… nên tính đa dạng về văn hóa rất cao.
Làng nghề dệt truyền thống Phương La phát triển, kéo theo nhiều thay đổi,
nhiều biến đổi của văn hóa làng nghề. Những biến đổi này cũng là thuận theo quy
luật của sự phát triển. Một trong những biến đổi đó chính là tạo ra lối sống và tâm
lý, tính cách người làng nghề:
- Tính cần cù, kiên nhẫn: Người làng dệt Phương La có đặc tính rất cần cù, chịu
khó và tỉ mẩn khó có nơi nào sánh được. Hầu hết các doanh nghiệp thành đạt cũ và mới
trên địa bàn đều trải qua những năm tháng khó khăn gian khổ. Họ đều cố gắng tìm cách
đứng vững, không chùn bước và quyết tâm đạt được mục tiêu đề ra. Khởi nguồn, đại đa
số, các chủ doanh nghiệp ở Phương La cũng hầu như từ hai bàn tay trắng. Họ có thể bỏ
ra rất nhiều thời gian, kiên nhẫn học hỏi, trau dồi kiến thức thực tế từ các làng nghề ở các
địa phương khác. Họ không ngần ngại giả làm người buôn đồng nát để nén học được
nghề. Đặc biệt, người phụ nữ ở Phương La rất chịu thương chịu khó, lo toan mọi công
việc từ bếp núc, gia đình, chồng con, lại còn lo cho công việc của công ty, doanh nghiệp.
Hộp 3.5: Biểu hiện tính cần cù, kiên nhẫn của ngƣời Phƣơng La
Chị Lê Thị Hằng (vợ một chủ doanh nghiệp): "Chúng tôi chịu nhiều áp lực
lắm, áp lực gia đình nuôi dạy con cái (nhà có ba con gái nhưng vẫn phải có con
trai nên tôi phải đẻ thêm đứa thứ tư, may mà là con trai), lo nội trợ để cân đối chi
tiêu gia đình; đồng thời, lại phải lo hoàn thành công việc doanh nghiệp (quản lý
các khâu nhất là quản lý sản xuất) còn chồng tôi lo nguyên liệu đầu vào, tiêu thụ
sản phẩm. Nhiều lúc cũng oải lắm, cũng cần phải tính toán để có người kế cận vì
công việc làng nghề lắt nhắt, tỉ mẩn. Có những lúc gia đình tôi không nhận hàng
nữa vì mệt, nhưng cũng không tiếc lắm, phải biết lượng sức mình, xác định biết
mình là ai, đang đứng ở chỗ nào. Mặc dù vậy, việc nào vẫn ra việc ấy, tôi vẫn chịu
khó với công việc nhà, kiên trì kèm cặp con cái học hành, dạy dỗ chúng".
[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].
104
Ban đầu, người Phương La không có kỹ thuật nhuộm, họ đi học và mua thuốc
nhuộm của đồng bào dân tộc, sau đó học thêm kỹ thuật nhuộm của người Hà Đông và
đến giờ, kỹ thuật nhuộm họ nắm chắc trong tay. Đến khi đã thành đạt, người Phương
La không tự thỏa mãn mà vẫn quyết tâm làm giàu bằng khả năng, trí óc của mình.
Minh chứng đó là, các doanh nghiệp ở Phương La ngày càng lớn mạnh và không có
bất cứ doanh nghiệp nào bị phá sản, ít nhất là tính tới thời điểm hiện nay.
105
- Tính nhanh nhạy, sáng tạo, quyết tâm và khát vọng làm giàu: Dù ở bất cứ
hoàn cảnh nào, người làng Mẹo cũng đề cao lòng quyết tâm với sáu chữ vàng “khát
vọng lớn” và “biết ganh đua”. Nhiều năm trước, người làng Mẹo phải sống cảnh
nay đây mai đó đi buôn bán sản phẩm nên va chạm, hiểu biết xã hội, nắm được nhu
cầu thị trường, vì vậy, thời mở cửa họ biết cách tận dụng cơ hội một cách triệt để.
Họ rất năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, luôn có khát vọng làm giàu, không
cam chịu đói nghèo. Người làng Mẹo cũng rất liều lĩnh trong công việc, thể hiện ý
chí quyết tâm làm giàu của từng người dân nơi đây, họ tâm niệm: “Được ăn cả, ngã
về không”. Những câu chuyện về các đại gia của làng Mẹo đều là kho hồi ký phi
thường về nghị lực và quyết tâm làm giàu. Mong muốn làm giàu đã ngấm vào mỗi
con người nơi đây, người người làm giàu, nhà nhà làm giàu. Từ thời bao cấp,
Phương La đã có hai hợp tác xã nông nghiệp và thủ công nghiệp sản xuất các mặt
hàng gia công. Họ bứt phá, đi khắp nơi làm giàu, dù có lúc thành lúc bại.
Người làng Mẹo vốn đoàn kết, luôn hỗ trợ nhau khi khó khăn, hoạn nạn. Họ
giỏi kinh doanh từ ngay trong trứng nước, biết tính toán, nhìn xa trông rộng, khả năng
tiếp thị tốt. Trông bề ngoài, nhiều chủ doanh nghiệp Phương La rất “nông dân”, trình
độ ngoại ngữ không hề qua trường lớp nhưng thường xuyên ra nước ngoài làm việc,
khoa học và bài bản.
- Tính mưu mẹo, tính toán và tiết kiệm: Xưa, người làng Mẹo còn được gọi là
người “làng cân” bởi sự khôn ngoan, chặt chẽ và tính toán của họ. Người làng Mẹo
thường có câu “nhìn nhau để học nhau mà làm”. Điều này thật đúng với họ, bởi
khởi nguyên, họ là những người đi học nghề, sau, nơi khác lại về chính làng Mẹo để
học. Người làng Mẹo vốn nhiều mưu kế trong kinh doanh. Để học được bí quyết
nhuộm của người Vạn Phúc, có hai anh em người làng Mẹo góp tiền lên làng Vạn
Phúc (Hà Đông) xin làm thuê ở một xưởng nhuộm, chủ xưởng không nhận người
ngoài, sợ lộ bí quyết nghề. Không chịu đầu hàng, hai anh em giả người buôn đồng
nát, hàng ngày qua lại, tìm hiểu nghề nhuộm và đã thành công.
Sự mưu kế của người Mẹo vẫn tồn tại cho tới bây giờ và có lẽ sẽ còn tiếp tục
trong tương lai. Minh chứng cho mưu kế của người Mẹo, đó là, hiện nay, một số cơ
sở sản xuất ở Phương La vẫn thường thuê chính người ở Cục thuế huyện giúp các
công ty, doanh nghiệp làm phần thuế để nộp cho Nhà nước. Do am hiểu về Luật
thuế, các kẽ hở của Luật mà cán bộ ở Cục thuế đã giúp các công ty, doanh nghiệp ở
Phương La giảm tối đa mức thuế phải đóng cho Nhà nước. Sự tính toán của người
Mẹo còn được thể hiện ở việc các công ty, doanh nghiệp chủ yếu sử dụng lao động
vệ tinh ở các làng xã lân cận nên họ đỡ lo mặt bằng sản xuất, quản lý nhân công…
giảm giá thành sản phẩm.
Cho đến giờ, hỏi về tài kinh doanh, ngoại giao của người làng Mẹo, chúng
tôi đều nhận được câu trả lời: “Người Mẹo giỏi kinh doanh, ngoại giao nhưng mặc
cả giá thì từ mặt đất trở nên”, họ rất chặt chẽ, tính toán và kiệm.
Người làng Mẹo có phong cách rất tư bản, chi tiêu khoản gì cũng tính toán,
chặt chẽ, thận trọng và hiệu quả: “ dù một đồng nhưng nếu không cần, họ dứt khoát
không chi”; nhưng lại thường ủng hộ địa phương làm các công trình phúc lợi, gây quỹ
từ thiện, quỹ khuyến học với số tiền lớn…
- Tính cố kết cộng đồng: Lối sống đô thị, nhịp sống công nghiệp đã được
biểu hiện rõ trong làng Phương La, song sự cố kết cộng đồng lại được thể hiện
không chỉ còn là trong dòng họ, xóm giềng, mà nó còn được thể hiện trong mối
quan hệ giữa các chủ doanh nghiệp trong làm ăn, giữa các gia đình trong tổ hợp,
giữa ông chủ và người làm thuê (có thể là con cháu, người cùng dòng tộc…), giữa
các dòng họ, các tổ chức, các đoàn thể xã hội khác với nhau; giữa các bạn hàng…
Mỗi người là thành viên của nhiều tổ chức, hội, phường khác nhau, có những vị trí,
những vai khác nhau trong từng tổ chức nên mối quan hệ giữa những người trong
làng không thuần túy chỉ còn là quan hệ huyết thống, quan hệ xóm giềng, bạn hàng
106
mà còn nhiều mối quan hệ ràng buộc khác. Chính vì vậy, sự cố kết cộng đồng ở
làng dệt Phương La vẫn bền chặt. Điều này được thể hiện, mặc dù công việc bận
rộn, thì giờ đối với người làng dệt là vàng ngọc nhưng khi có người mất, hoặc có
cưới xin, các gia đình không ngần ngại đều cắt cử thành viên của gia đình bỏ công
việc đi thăm viếng, chia vui, sẻ buồn. Họ luôn thể hiện sự tôn ti, trật tự, coi trọng
thứ bậc trong dòng tộc, với người làng.
Khi làm ăn, sinh sống ở các nơi khác, gặp người làng, hoặc nghe thông tin về
người làng, người Phương La tìm cách liên lạc, chia sẻ, giúp đỡ, thậm chí “bảo vệ
nhau” khi cần thiết.
Các doanh nghiệp rất có sự cạnh tranh trong tìm nơi tiêu thụ sản phẩm, thu
mua nguyên liệu đầu vào... nhưng khi doanh nghiệp nào đó cần có sự hỗ trợ của các
công ty, doanh nghiệp khác, họ lại sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ. Hoặc, doanh nghiệp
nào đó, nhận được đơn hàng lớn thì các công ty, doanh nghiệp khác sẵn sàng tạo
điều kiện về công nhân, các phương tiện hỗ trợ khác để doanh nghiệp hoàn thành
sản phẩm, kịp thời bàn giao cho nơi đặt hàng. Chính vì vậy, chỉ ở Phương La mới
có “công nhân làng nghề” chung, “máy dệt làng nghề” chung.
- Tính cách cư dân thành thị bước đầu hình thành: Biểu hiện tính cách của
người thành thị đang dần hình thành trong tính cách người Phương La. Do có kinh
tế vững vàng, lại giao thiệp với nhiều loại bạn hàng, nên tính đố kỵ trong con người
tiểu nông ở người Phương La đã suy giảm rõ rệt. Họ không nhòm ngó, để ý đến
công việc của người khác; luôn coi trọng những người giỏi làm giàu.
Đặc biệt, để tạo được mặt hàng khăn xuất khẩu với giá thành hợp lý, mặt
hàng đảm bảo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, bền đẹp và ký được hợp đồng với khách
hàng ở trong và ngoài nước, các doanh nghiệp của làng nghề xuất hiện sự cạnh
tranh mạnh mẽ, về giá thành, chất lượng hàng, tuyển chọn những lao động có tay
nghề cao, song không mang tính sát phạt, gièm pha nhau.
Đối với người lao động, nếu cùng mặt hàng sản xuất mà doanh nghiệp, công ty
thanh toán tiền lương sòng phẳng, nhanh gọn, trả công cao, việc làm luôn đảm bảo, họ
sẵn sàng làm cho doanh nghiệp, công ty đó hết tháng này sang tháng khác. Nếu không,
107
họ chuyển sang làm cho công ty, doanh nghiệp, tổ hợp khác. Đây chính là sự chuyển
biến tâm lý và ý thức cơ bản của người lao động ở làng nghề Phương La trong thời kỳ
cơ chế kinh tế mới phát triển. Do ý thức được về năng lực sản xuất, về trình độ tay
nghề, về hiệu quả chất lượng mặt hàng làm ra nên người lao động có quyền tự do lựa
chọn những công ty, doanh nghiệp, tổ hợp nào đem lại nhiều lợi ích cho họ.
Trong nền kinh tế - xã hội truyền thống, để bảo đảm lợi nhuận, người làm
nghề và làng nghề thường có tâm lý giấu nghề, chỉ truyền cho con cháu trong gia
đình, họ tộc. Từ thời kỳ đổi mới tới nay, nhất là khi các công ty, tổ hợp của làng được
thành lập, tư tưởng đưa nghề ra thiên hạ chuyện không hiếm thấy ở làng Phương La
ngày nay; phá vỡ tâm lý sợ mất nghề mà tục lệ xưa của làng đã quy định. Đây là nét
mới rất quan trọng trong phát triển sản xuất góp phần nâng cao đời sống nhân dân
không chỉ ở một làng, một xã mà tạo điều kiện cho các xã khác trong huyện Hưng Hà
cùng phát triển, làm giàu bằng sức lao động và khả năng trí tuệ của mình.
Tuy nhiên, dù đang chuyển mình mạnh mẽ từ người nông dân sang công nhân
công nghiệp, từ làng nông nghiệp sang làng công nghiệp nhờ phát triển nghề thì người
Phương La vẫn chưa tách khỏi và “thoát khỏi” tâm lý và lối sống truyền thống.
108
3.2.2. Phong tục cưới xin, tang ma
3.2.2.1. Việc cưới xin
Việc cưới xin của người Phương La nay rất khác xưa, các hủ tục thách cưới,
“cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”… đã được xóa bỏ.
Việc mời cưới cũng rất mới. Hai gia đình lập danh sách khách mời, đặt mua
thiệp cưới đẹp, ghi rõ ngày cưới, giờ ăn cỗ rồi đem đến các gia đình và chỉ phải mời
một lần; không phải mời miệng, mời nhiều lần mất công như xưa. Do đã quen với
cuộc sống công nghiệp, người Phương La cũng chia sẻ và không còn yêu cầu những
nghi thức rườm rà, để tập trung thời giờ cho việc làm nghề và các công việc khác.
Nhiều gia đình ở Phương La giàu, lại có nhiều mối quan hệ làm ăn nên việc
mời cưới rất rộng. Những ông chủ doanh nghiệp, giám đốc công ty có tổ chức cưới
con mời mở rộng hơn, mời hết làng, đối tượng khách còn có cả những người cung
cấp vật tư, công nhân, các cơ sơ tiêu thụ sản phẩm nên số người đến dự rất đông, có
đám lên tới vài trăm mâm cỗ, việc ăn uống diễn ra trong vài ngày. Một mặt cũng là
để mời anh em, con cháu họ hàng gần xa; bà con hàng xóm tạo sự gần gũi, đoàn kết,
gắn bó; tỏ lòng tri ân tới các bạn hàng, đồng nghiệp, mở rộng mối quan hệ làm ăn.
Mặt khác, thể hiện vị thế của gia đình, dòng họ với mọi người, nhất là đối với các
đối tác làm ăn. Có điểm mới là, không chỉ thuần túy đến dự cưới, nhiều người đến
đây cũng còn mục đích giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, giải quyết công
việc. Các chủ doanh nghiệp nếu gặp cũng tranh thủ bàn bạc về hướng làm ăn thời
gian tới; thông tin nhanh về các vấn đề liên quan đến khâu tổ chức, sản xuất.
Về cỗ cưới, ngày xưa, cỗ cưới do con cháu trong họ, cả người làng thân thiết
đến làm giúp, bây giờ đều chủ yếu được đặt, có nhóm người chuyên làm cỗ của
làng hoặc thuê nơi khác đến. Vì vậy, con cháu cũng không phải đến trước lo làm cỗ,
còn dân làng chỉ đến chơi mừng có thể vào buổi chiều tối hôm trước, hoặc vào sáng
ngày hôm sau (hôm cưới).
Cỗ cưới của các gia đình giàu có, gồm nhiều món ăn đắt tiền, sang trọng,
không khác gì cỗ cưới ở thành phố. Mỗi mâm cỗ trị giá tới gần hai triệu đồng.
Những gia đình kinh tế ở mức khá thì mọi khâu có giảm hơn, số người mời chủ yếu
tập trung là họ hàng, làng xóm, bạn bè. Cỗ cưới của các gia đình này, thường trị giá
khoảng tám trăm nghìn đồng một mâm cho sáu người.
Địa điểm tổ chức đám cưới của người Phương La chủ yếu vẫn được tổ chức
tại gia đình, ít có đám cưới tại nhà hàng, khách sạn hay nơi công cộng của làng.
Chính vì vậy, đám cưới thường diễn ra ít nhất trong hai ngày.
Quà mừng cưới ở Phương La giờ cũng khác, không còn mừng hiện vật, đa số
người đi dự đều mừng bằng tiền. Giá trị của tiền mừng tùy thuộc vào quan hệ của
người được mời với gia chủ. Thông thường, mức mừng cưới (có đi ăn cỗ) giữa những
người dân khoảng hai trăm ngàn; thanh niên, công nhân với nhau mừng cao hơn. Các
đối tác làm ăn mức mừng còn phụ thuộc vào từng mối quan hệ với gia chủ, người có
mối quan lâu dài để làm ăn lại quý mến nhau, mừng tới một vài triệu đồng.
109
Về rước dâu, đám cưới của làng Phương La xưa, chủ yếu là đi bộ (nếu người
trong cùng xã), xa hơn là đi bằng xe đạp, xe máy. Ngày nay, hầu hết các gia đình tổ
chức cưới cho con đều sử dụng xe ô tô đi đón dâu. Các chủ doanh nghiệp cưới con,
huy động tới hàng chục xe con đưa đón dâu. Còn những gia đình kinh tế trung bình
cũng phải có ít nhất một vài xe, có thể huy động xe của gia đình, họ hàng, nếu
không có thì phải thuê.
Về thời gian ăn cỗ cưới, do ảnh hưởng của nghề, để tiết kiệm được thời gian
tập trung cho sản xuất, người Phương La tổ chức ăn cưới vào 8 giờ sáng, thường là
người vợ ở nhà dệt để chồng đi. Đôi khi, có gia đình do phụ nữ ngồi dệt ở nhà nhiều
lại đi ăn cưới cho chồng để nhân đó mà nghỉ ngơi, giao lưu...
Như vậy, việc cưới ở làng Phương La cơ bản vẫn giữ được những lễ nghi phù
hợp với truyền thống, góp phần giáo dục con cháu biết giữ gìn hạnh phúc, sống nhân
văn hơn… Tuy nhiên, việc cưới của người Phương La còn những bất cập: hiện tượng
đón dâu hai lần diễn ra khá phổ biến. Nhà trai mang theo lễ xin cưới lần một và đón
cô dâu về ngủ một đêm ở nhà chú rể, hôm sau, cô dâu “trốn” về nhà mình. Đến ngày
cưới chính thức lại có lễ xin dâu và đón dâu lần hai. Người Phương La quan niệm,
làm như vậy để tránh sự tan vỡ cho con cháu sau này. Vì thế, các gia đình, cặp đôi
đều thi nhau cưới hai lần, gây tốn kém, lãng phí và mất thời gian, công sức. Tổ chức
cưới cho con, cho cháu; vẫn có biểu hiện ganh đua, các gia đình có tiền càng tổ chức
đám cưới to “ít nhất là bằng bạn, bằng bè” “để người khác trông vào”...
Theo ông Bùi Văn Hà - Phó Chủ tịch UBND xã: “Việc ăn uống, tổ chức lễ
cưới, đưa đón dâu lại là vấn đề mà lãnh đạo xã đang vận động nhân dân hạn chế vì
quá tốn kém”. Ông cũng cho biết: “Nhưng được cái, đám cưới ở làng dù to hay
nhỏ, cô dâu chú rể đều chọn ngày lành, giờ tốt đến UBND xã làm thủ tục đăng ký
kết hôn” [Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2014)].
3.2.2.2. Việc tang
Lễ tang là việc hệ trọng nhất trong cuộc đời mỗi con người. Đây cũng là biểu
hiện văn hóa chỉ có ở loài người. Thực chất, con người chết đi là sự chuyển hóa từ
110
dạng vật chất này sang dạng vật chất khác. Con người sẽ vĩnh viễn không còn tồn tại
trên cõi đời này nữa; đồng nghĩa, con cháu, anh em, bạn bè, người thân sẽ vĩnh viễn
không bao giờ được gặp lại người thân yêu của mình. Đây là quy luật hà khắc nhất
của tự nhiên mà không ai trên đời này có thể cưỡng lại được. Chính vì thế, người ta
quan niệm "nghĩa tử là nghĩa tận", dù lúc còn sống, người đó có nhiều lỗi lầm, sai
phạm thì đến lúc mất đi đều được tha thứ. Minh chứng là, trước khi đưa thi hài người
mất đến nơi an nghỉ cuối cùng, có đại diện chính quyền địa phương đọc điếu văn nêu
lại những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp, nhấn mạnh công trạng,
những nét tốt của người đã mất, tỏ lòng tiếc thương, lưu luyến không muốn xa lìa..
Mỗi người chết đi đều để lại cho người sống bài học về sự nhân văn, giáo
dục con người ta sống tốt hơn vì rồi "ai cũng đều chết cả"... Cho nên, việc tổ chức
tang lễ vô cùng quan trọng, thể hiện tấm lòng của người còn sống đối với người đã
khuất. Ngoài ý nghĩa đó ra, mọi thủ tục được thực hiện đầy đủ, nghiêm ngặt để
tránh điều xấu, điều bất hạnh về sau cho người sống.
Từ quan niệm trên cộng với điều kiện kinh tế khá giả nên hầu hết các gia
đình ở Phương La đều rất coi trọng và thận trọng trong tổ chức tang ma cho người
thân. Khi người nhà nằm xuống, họ mời thầy xem ngày, giờ tốt để tiến hành các
nghi thức cho đám tang: từ khâm liệm, nhập quan, chuyển cữu, hạ huyệt, tìm đất
mai táng... Trong lễ tang dứt khoát phải có tang nhạc - tang nhạc là nghi thức không
thể thiếu trong đám tang dù nhà giàu hay nghèo “sống dầu đèn, chết kèn trống”.
Địa điểm tổ chức tang lễ: mặc dù rất chật chội vì thiếu không gian nhưng việc
tổ chức tang lễ ở Phương La vẫn diễn ra tại gia đình tang chủ. Ngày thường sân nhà
là nơi tập kết nguyên vật liệu, giao sản phẩm, chỗ đặt máy dệt nhưng nay có tang ma
thì nơi đó biến thành khu vực tổ chức tang lễ. Mọi người trong làng, ngoài xã đều
chia sẻ, đồng cảm. Nếu quá chật chội, có thể sử dụng thêm một đoạn đường hay đoạn
ngõ của khu dân cư. Vì thế, đám tang của người Phương La chìm sâu trong các dãy
nhà cao tầng san sát nhau nhưng cũng rất trang trọng và nền nếp. Trường hợp, nếu
người đó mất ở ngoài làng, hoặc ở các bệnh viện vẫn đưa về nhà để làm tang.
111
Việc phúng viếng: tuy rất bận mải với công việc, nghỉ lúc nào là mất tiền lúc
đó nhưng không phải vì thế mà người Phương La bỏ qua các nghĩa vụ, các mối
quan hệ, ứng xử với người làng. Một người nằm xuống là tin lan truyền khắp làng
trên, xóm dưới. Ngay khi hay tin có người làng mất là gia đình đã cắt cử thành viên
có ý thức sang giúp đỡ gia đình tang chủ thể hiện tình làng nghĩa xóm. Do đặc thù
là làng nghề, mọi người còn bận mải với nghề nên việc phúng viếng của dân làng
cũng rất tập trung, thường họ tranh thủ đến viếng và chia buồn với tang chủ vào
buổi tối, cho nên, buổi tối nhà đám rất đông. Thông thường việc tang lễ chỉ diễn ra
trong hai ngày, một đêm, đến ngày thứ ba là đã hoàn tất hết mọi công việc và người
Phương La mời thầy cúng ba ngày cho người mất và đi đắp mộ.
Lễ viếng: xưa, khi có người mất, người mang chai rượu, người mang nón chè
hoặc thúng gạo sang chia buồn, tục này giờ không còn. Ngày nay, người dân ở đây
chỉ viếng bằng tiền, số tiền có nhiều hơn các làng khác. Tùy mối quan hệ thân sơ
mà người viếng có những mức khác nhau, thông thường, người làng viếng mỗi xuất
là năm mươi nghìn đồng. Người thân hơn với người mất hay người nhà người mất
thì có thể viếng một trăm hay vài trăm. Gia đình tang chủ đã chuẩn bị sẵn khoảng
dăm bảy lễ để các đoàn đến viếng được chủ động. Mỗi lễ thường bao gồm: nải quả,
đĩa hoa, thẻ hương. Có gia đình tang chủ còn chuẩn bị sẵn vòng hoa để các đoàn, cá
nhân chỉ mang dải băng ghi tên đoàn mình và đặt phong bì rồi vào viếng. Có điểm
khác ở làng nghề Phương La là, trước đây, người đến viếng chỉ có họ hàng, thông
gia, anh em, bạn bè, làng xóm của người mất. Bây giờ, người đến viếng còn có
thêm công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp, hoặc đối tác làm ăn có quan hệ
với người mất hay tứ thân, phụ mẫu, con cái của người mất.
Việc đưa tang: hầu hết các làng ở Hưng Hà đưa tiễn người chết về nơi an
nghỉ cuối cùng vào ban chiều, nhưng làng Phương La lại đưa tang vào buổi sáng,
như vậy đám tang có nhiều người tiễn đưa người chết mà lại tiết kiệm được thời
gian dành cho sản xuất. Mặt khác, nếu là mùa hè, thời tiết buổi sáng đỡ nắng nóng,
đảm bảo sức khỏe sẽ thuận lợi hơn cho tất cả mọi người.
Về việc ăn uống trong đám tang: xưa kia, khi người chết nằm xuống; đồng
thời, lợn cũng được “ngả” ra làm cỗ. Mỗi đám ít cũng vài chục mâm, gia đình có
112
quan hệ rộng và họ hàng đông thì có thể lên đến gần trăm mâm. Ngay sau lời điếu
văn, đại diện tang chủ đã có lời mời những ngượi dự lễ tang, khi đưa tiễn người chết
xong về gia đình “dùng bữa”. Đám tang chưa xong, gia đình đã phải phân công
người ra đầu làng đón và mời người đến chia buồn về nhà; vừa gây phiền phức cho
người đi đưa tang, vừa tốn kém, lãng phí cho gia chủ. Đã đau buồn lại lo cỗ bàn,
quả thật là mệt mỏi, tốn kém; nhiều gia đình phải chạy vạy, vay mượn.
Từ khi nghề dệt phát triển, vì tính chất nghề nghiệp, bận mải, tập trung cho
việc dệt cộng với sự vận động của chính quyền địa phương nên việc ăn uống trong
đám tang đã giảm hẳn, chỉ còn dành cho những người “mang tang”, tức là con cháu
trong gia đình, họ hàng. Vấn đề ăn uống trong đám tang ở Phương La hiện nay
được thể hiện trong Hộp 3.6.
Hộp 3.6: Vấn đề ăn uống trong đám tang
Cụ Trần Văn Quyền, thôn Phương La 2: “Ăn uống trong nhà đám giờ đã
giảm nhiều lắm rồi. Ngày xưa, cứ người chết nằm xuống là lợn cũng “ngả” theo,
bất kể giàu có hay nghèo khó. Mỗi đám cũng vài chục mâm chứ chẳng ít: con cháu,
người bắc rạp, người đào huyệt, dân làng đi đưa tang… Nhưng nay thì khác, cơm
nước giờ chỉ dành cho người “mang tang”, người làng không ai ở lại ăn nữa”.
[Nguồn: Phỏng vấn của NCS ( năm 2014)].
Việc tang lễ hoàn tất, thông thường, gia đình họp và thống nhất về sử dụng
tiền phúng viếng, tiền viếng liên quan đến người nào trong gia đình, người đó quản
lý sau lo đáp lễ; tiền viếng chung (thường là của dân làng, họ hàng, thông gia...) sẽ
được góp lại, con cả giữ để sau lo đáp lễ. Nếu thiếu, các con trong gia đình thỏa
thuận có thể chia đều hoặc người có điều kiện hơn thì góp nhiều. Các gia đình giàu
có, là chủ doanh nghiệp, việc lo hậu sự cho cha mẹ, do một mình họ đứng lên lo về
tài chính, anh em khác không phải lo.
Các hủ tục dần bị xóa bỏ để phù hợp với điều kiện, nhịp sống của làng nghề,
không còn tục đội mũ rơm, lăn đường như trước nữa. Phát huy tình làng nghĩa xóm,
coi nghĩa tử là nghĩa tận nên mọi người dân cùng nhau vào chia buồn, hỗ trợ về mọi
113
mặt để chia sẻ với gia chủ, việc cỗ bàn khi người chết nằm xuống đã được khắc
phục, không còn tình trạng gia chủ phải lo mổ lợn thết đãi mời mọi người.
Làng Phương La có 4 thôn đều được công nhận là “Làng văn hóa”, có những
tác động tích cực tới đời sống của dân làng. Đối với việc tang ma cho người mất, về
cơ bản các thủ tục vẫn được duy trì, ít có sự biến đổi ở Phương La; những tiết chính
vẫn diễn ra theo đúng trình tự xưa, điều này được thể hiện ở Bảng 3.4.
Bảng 3.4: Việc thực hành các tiết chính trong tang ma
114
của ngƣời Phƣơng La hiện nay so với trƣớc năm 1996 Đơn vị tính: %
Lễ thức hay công việc
Hiện nay
Trước 1996
Mời thầy
100
0,00
0,00
100
Chọn giờ phát tang
100
0,00
0,00
100
Che mặt cho người mất
100
0,00
100
0,00
Sử dụng nhạc hiếu
100
0,00
0,00
100
Khâm liệm
100
0,00
100
0,00
Đặt hướng mộ
72,59
0,00
100
0,00
Chọn nơi chôn cất
78,84
0,00
100
0,00
Chọn giờ hạ huyệt
100
0,00
100
0,00
Đắp mộ
100
0,00
0,00
100
Yểm bùa
100
0,00
0,00
100
Cúng ba ngày
100
0,00
100
0,00
Cúng tuần
23,08
76,92
23,09
76,91
Cúng 49 ngày
100
0,00
100
0,00
Cúng 100 ngày
100
0,00
100
0,00
Giỗ đầu
100
0,00
100
0,00
Việc để tang
100
0,00
85,09
14,91
[Nguồn: Xử lý số liệu điều tra (Phụ lục 7].
Bảng 3.4 cho thấy, các tiết chính trong tang ma xưa cơ bản vẫn được người
làng nghề giữ gìn, trong đó một số tiết rườm rà đã có xu hướng được giảm đi như
việc cúng tuần được coi là quan trọng đã giảm 0.01% (hiện nay chỉ có 23.08%,
trước đây là 23.09%).
Tuy nhiên, người Phương La vẫn chưa quen việc hỏa táng - nét văn minh của
xã hội hiện đại. Nhiều gia đình giàu có ở Phương La, khi bố mẹ mất đi, coi trọng
việc mời thầy địa lý về xem đất để đặt mộ mong ước được đất “phát” để con cháu
làm ăn phát đạt. Đây cũng không phải là hành động chưa tốt nhưng nếu ai cũng chọn
đất đẹp, vậy còn chỗ không đẹp thì sao, vả lại quy hoạch chung nghĩa trang cũng sẽ bị
phá vỡ. Hiện tượng bỏ tiền ra mua đất xí phần, khoanh riêng khu an táng của dòng
họ đã xuất hiện ở làng Phương La. Đa số những dòng họ này có người là chủ doanh
nghiệp, giàu có, bỏ tiền ra mua đất là chính. Việc phúng viếng linh đình, không còn
cảnh mang thúng gạo, nón chè hay vò rượu v.v sang phúng viếng. Giờ đây, tất cả đồ
phúng viếng được quy ra bằng tiền mặt, không kể gì người giàu, kẻ nghèo, cũng dần
thành tục khó xoá bỏ, gây lãng phí, tốn kém. Không chỉ dừng lại ở đó, sự thể hiện
“bằng hữu”, “thân sơ” cũng được đo đếm bằng tiền, điều này có còn phù hợp với
“nghĩa tử là nghĩa tận”? Việc tổ chức lễ 49, 100 ngày và nhất là giỗ đầu, nhiều gia
đình mời thầy pháp sư về cúng lễ cả mấy ngày; việc ăn uống cũng quá linh đình, tốn
kém và lãng phí.
Như vậy, những việc làm của người còn sống đã tạo ra sự tranh giành địa điểm
cho người đã chết, vậy “nghĩa tử” có còn là “nghĩa tận”? Cũng từ đó, ảnh hưởng đến
tình cảm làng xóm, và rồi những họ không có tiền, liệu có còn đất để chôn cất người
mất?. Việc này cũng dẫn đến quy hoạch chung nghĩa trang của làng bị phá vỡ, ảnh
hưởng đến việc xây dựng đời sống văn hóa mới của làng nghề. Như vậy, văn hóa
truyền thống của làng nghề đã đang dần biến đổi, trong đó có những yếu tố tích cực và
còn có cả những yếu tố chưa tích cực.
115
3.2.3. Hội làng
Xưa kia, lễ hội diễn ra theo đúng mô thức của đời sống nông nghiệp mùa vụ,
đến với hội làng là người dân trở về với cội nguồn, trở về với không gian thiêng,
thời điểm thiêng để nhớ về công lao to lớn của những người có công với làng với
nước và cầu mong sức khỏe, sự an lành, bốn mùa tốt tươi, mưa thuận gió hòa...
Chính vì thế, họ mang tấm lòng thành kính hướng về cội nguồn, cùng sẻ chia những
niềm vui, nỗi buồn với mọi người; giải tỏa những căng thẳng mệt nhọc, tâm hồn
thêm thăng hoa, làm cho đời sống tinh thần được nâng lên, con người sống với nhau
nhân văn, tốt đẹp hơn.
Hội đình làng Phương La hiện nay vẫn diễn ra tại đình Đông từ ngày 20
đến ngày 25 tháng 10 âm lịch. Ban tổ chức lễ hội cũng là Ban quản lý di tích
nên việc điều hành, quản lý lễ hội rất thuận lợi, mọi hoạt động được triển khai
bài bản, công phu. Các dòng họ tham gia đóng góp và có nghĩa vụ góp công, góp
của cho lễ hội. Sau hoạt động tế lễ chung của Ban tế chính, các dòng họ ở làng
đều tham gia vào tế lễ ở đình, công việc chuẩn bị cho tế lễ đươc chuẩn bị chu
đáo từ nhiều ngày trước. Lễ hội làng tổ chức cũng là dịp để con cháu 12 dòng họ
ở khắp các địa phương trong nước về thắp hương tưởng nhớ tới công lao khai
hoang lập ấp dựng xóm, dựng làng của tổ tiên mình trước đây. Người trảy hội
đình Đông cũng tăng lên rất nhiều, hầu hết các gia đình trong làng nghề đều có
người đại diện đến tham gia lễ hội.
Bảng 3.5: Đánh giá việc tham gia lễ hội của ngƣời Phƣơng La hiện nay
116
so với trƣớc năm 1996
Đơn vị tính: %
Số lượng người tham gia lễ hội
Mức độ
Tỷ lệ
Tăng lên
100
Vẫn thế
0,0
Giảm đi
0,0
[Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra (Phụ lục 7)].
Kết quả Bảng 3.5 cho thấy, 100% số người được hỏi đều trả lời số người
tham gia lễ hội tăng lên trong những năm gần đây, điều này khẳng định văn hóa
truyền thống được người dân rất coi trọng.
Ngoài những yếu tố về tâm linh; ngày nay, việc tham gia lễ hội như một nhu
cầu của người dân, họ đến lễ hội để thư giãn, hưởng không khí náo nhiệt của hội,
giao lưu... không chỉ có người già, những người có vấn đề khúc mắc trong cuộc
sống mới về với lễ hội. Thanh niên nam nữ, dù bận mải mấy cũng tụ họp, vào hội,
thắp nén tâm nhang rồi sau đó muốn làm gì thì làm.
Hộp 3.7: Việc tham gia lễ hội đình Đông của ngƣời Phƣơng La
Anh Trần Văn Hà - người làng Phương La: "Đến dịp lễ hội thì vui lắm cơ, ở làng ai
cũng náo nức muốn dự, không tham gia được từ đầu đến cuối thì cũng phải ghé
vào tận hưởng không khí lễ hội, có nén nhang cầu mong mọi sự tốt lành. Nhà em,
không bố thì mẹ năm nào cũng có mặt. Còn thanh niên chúng em, dù bận mải mấy
cũng ới nhau tụ họp đảo qua hội làng rồi sau đó muốn làm gì thì làm. Bây giờ, hầu
như dòng họ nào cũng vào lễ đình. Đủ thành phần, đủ lứa tuổi tham gia từ già, trẻ,
trai gái, giám đốc doanh nghiệp, công nhân làm thuê… Cả năm hội chỉ diễn ra có
hai ngày thôi, không tham gia cũng phí".
[Nguồn: Phỏng vấn của NCS (năm 2013)].
Không chỉ tăng lên về số người tham dự lễ hội mà thành phần tham gia lễ hội
cũng phong phú hơn, gồm cả người ngoài làng, khác xã, cả các doanh nhân, công
nhân... khác với xưa, tham gia lễ hội làng chỉ có người làng mà thội. Số lượt vào cúng
lễ ở đình cũng tăng lên, không chỉ có lễ hội việc cũng lễ mới diễn ra mà bây giờ cứ có
việc lớn, các nhà đều sắm lễ vào đình để báo cáo và xin cho mọi việc suôn sẻ.
Ngoài phần lễ và một số trò diễn dân gian truyền thống, lễ hội đình Phương
La đã phục hưng được một số trò hội vốn đã bị mai một, đồng thời, từng bước đưa
các sinh hoạt văn hoá thể thao hiện đại vào nội dung hoạt động làm cho lễ hội ngày
một phong phú, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Sau mỗi lần tổ chức lễ hội,
Ban tổ chức phải họp rút kinh nghiệm để lễ hội năm sau, lần sau tốt hơn. Các hoạt
động tín ngưỡng trong các đình chùa, đền, miếu được UBND xã định hướng, quản
lý và kiểm tra chặt chẽ. Chủ tịch xã chịu trách nhiệm trước huyện về các hoạt động
tín ngưỡng trong lễ hội thuộc phạm vi quản lý của xã.
Tuy nhiên, việc tổ chức lễ hội đôi khi không theo đúng nghĩa của lễ hội
truyền thống. Những hoạt động, những trò chơi dân gian bị mai một dần, một số
hoạt động đã không còn duy trì nữa, như thi dệt vải, thi đấu gậy… mà các trò chơi
mới đã thay thế, lấn lướt… Những vấn đề này có thể sẽ trở thành mầm mống nảy
sinh sự ganh ghét, đố kỵ, sự cạnh tranh giữa các dòng họ. Vấn đề đặt ra ở đây là làm
117
sao duy trì được hội thi tay nghề giữa các dòng họ. Hội thi phải thật sự trở thành
ngày hội chung của làng nghề, của tất cả mọi người làm nghề, qua đó cũng góp phần
thúc đẩy sự sáng tạo của người thợ, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng đáp ứng nhu cầu
thị trường, nâng cao thu nhập cho họ và phát triển kinh tế của địa phương.
Đặc biệt, việc biện lễ vào hội đình làng khác rất nhiều, xưa cả làng chỉ chuẩn
bị một lễ duy nhất vào đình thì nay mỗi dòng họ, thậm chí nhiều gia đình cũng biện
lễ vào dâng. Các dòng họ, gia đình khá giả thì biện lễ càng lớn. Trước đây, chỉ có
một đội tế chung cho cả làng, bây giờ mỗi dòng họ lại có một đoàn tế riêng nên rất
cầu kỳ, tốn kém và gây phiền toái.
Ở Phương La, hội làng cũng là ngày giỗ của các vị lập làng, có công với
làng, do đó tất cả các dòng họ trong làng đều có nguyện vọng tế lễ. Đây cũng là nét
đẹp văn hoá, là truyền thống của dân tộc ta thể hiện “uống nước nhớ nguồn”, “ăn
quả nhớ kẻ trồng cây”. Song, nếu chúng ta không chú ý thì việc này vô hình dung
cũng sẽ góp phần làm biến dạng hoạt động mang tính tâm linh, thay vào đó là sự thể
hiện thế mạnh về kinh tế và các thế mạnh khác của dòng họ. Mỗi dòng họ có cách
thể hiện khác nhau, từ số lượng người tham gia tế lễ, lễ vật... chúng ta làm sao phải
giúp các dòng họ hiểu rằng đây là sự thể hiện cái tâm, cái đức chứ không phải là sự thể
hiện giàu nghèo, mạnh yếu.
Điểm nữa là mọi người đến với lễ hội để lễ bái, là cầu may, cầu những điều tốt
lành cho bản thân, gia đình, cầu làm ăn phát đạt… chứ chưa hẳn là trở về với cội
nguồn, với cộng đồng làng xã để nhân lên tinh thần đoàn kết tương trợ lẫn nhau, như
vậy tình làng nghĩa xóm có còn trọn vẹn, tinh thần cấu kết cộng đồng liệu có bền
chặt?, tính ích kỷ, vụ lợi đã chen vào làm mất đi vẻ tâm linh cội nguồn của lễ hội.
118
Tiểu kết
Từ 1986, với đường lối đổi mới của Đảng, hộ gia đình trở lại vai trò là
đơn vị kinh tế tự chủ. Đặc biệt, từ khoảng 1990, nền kinh tế phát triển theo cơ
chế thị trường tạo điều kiện cho sự ra đời các công ty, doanh nghiệp; làm cho
nghề, làng nghề Phương La ngày càng giàu có, nhiều tỷ phú nổi lên; dẫn tới hình
thành tầng lớp chủ doanh nghiệp và xuất hiện các mối quan hệ mới trong làng
nghề. Các ông chủ doanh nghiệp là những người chủ động tìm nguồn nguyên
liệu rẻ, đảm bảo chất lượng; và cũng chính họ là thành viên tích cực, quyết định
để hình thành hệ thống tổ chức, đảm bảo việc tiêu thụ sản phẩm... Các yếu tố đó
kích thích sản xuất, kích thích người lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển. Vì
vậy, các chủ doanh nghiệp là những người có uy tín, vị thế với làng xã và người
dân. Sự hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp cũng dẫn đến sự phân hóa giàu
nghèo, phân tầng xã hội, làm doãng rộng khoảng cách giàu nghèo ở Phương La.
Quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa, nhất là kinh tế phát triển đã tác động
đến đời sống văn hóa - xã hội của làng. Vốn là làng cổ, các dòng họ về sinh sống đã
được nhiều đời, ngày một đông, cộng thêm sự tác động của các yếu tố kinh tế,
những ông chủ doanh nghiệp nhiều tiền muốn khẳng định mình... đã dẫn đến việc
tách họ, xây nhà thờ mới. Điều này làm chi phối tới tính cố kết trong cộng đồng,
dòng họ; ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý và tình cảm của những người có cùng cội
nguồn… Nghề phát triển, quá trình CNH, đô thị hóa cùng với sự xuất hiện của
những người lao động làm thuê, mỗi năm lại một tăng, khiến cho vấn đề an ninh -
xã hội của Phương La tiềm ẩn những phức tạp.
Khi nghề dệt của làng Phương La chiếm ưu thế và chuyển sang sản xuất công
nghiệp, người dân từng bước thay đổi lối sống truyền thống dần chuyển thành người
công nhân, buộc họ phải thích ứng với tác phong công nghiệp. Từ nhịp sống mùa vụ,
nông nghiệp sang một nhịp sống công nghiệp chưa đầy đủ, vẫn có sự pha trộn, đan xen.
Chưa hẳn là nhịp sống đô thị nhưng cuộc sống đã khẩn trương, gấp gáp và năng động
hơn. Lối sống đô thị, nhịp sống công nghiệp đã được biểu hiện rõ nét trong làng
Phương La, song sự cố kết cộng đồng vẫn được duy trì. Nhịp sống có sự biến đổi
nhưng các lễ tiết trong năm, phong tục tang ma, cưới hỏi, vẫn được bảo lưu, coi trọng
và thể hiện theo mô thức, nhịp điệu của đời sống nông nghiệp mùa vụ nhưng được đầu
tư và tiến hành trang trọng hơn… Tuy nhiên, trong thực hành lễ nghi có những biểu
hiện chưa đúng với truyền thống, một số giá trị văn hóa truyền thống trong lễ hội chưa
được quan tâm đúng mức nên bị mờ nhạt hoặc không còn nữa. Trong tổ chức tang ma,
cưới hỏi vẫn có biểu hiện ganh đua làm mất đi nét đẹp của truyền thống …
119
120
Chƣơng 4
NHỮNG VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA
4.1. Những tác động của sự biến đổi văn hóa làng dệt Phƣơng La đến kinh tế -
xã hội và văn hóa của làng
Phương La xưa, sản xuất nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo, vì thế, lối
sống truyền thống mùa vụ đủng đỉnh vẫn cơ bản, tư duy người Phương La chưa có
sự thay đổi.
Khi nghề dệt chiếm ưu thế và trở thành nghề chính, với sự năng động
thích nghi cao, người Phương La đã không ngừng cải tiến, đổi mới các khâu của
quá trình sản xuất, nên sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, thu nhập của người
dân tăng cao. Kinh tế phát triển, xã hội biến đổi dẫn đến văn hóa làng Phương La
cũng biến đổi. Nhiều công ty, doanh nghiệp lớn mạnh; đồng thời là sự trưởng
thành đội ngũ giám đốc, các doanh nhân… Nhờ có kinh tế nên các ông chủ tích
cực tham gia các hoạt động nhân đạo, từ thiện, các hoạt động chung của làng xã,
giúp đỡ nhau xóa đói, giảm nghèo… Cũng do kinh tế phát triển mà người
Phương La có điều kiện để quan tâm chú ý đến đời sống tinh thần hơn, các di
tích thờ cúng được tôn tạo, sửa sang rất bề thế; các lễ tiết, nghi lễ truyền thống
được giữ gìn, chú trọng. Nhà thờ họ được dựng lên nhiều, làm cho làng nghề trở
lên trù phú. Việc sưu tầm và ghi chép lại gia phả dòng họ, các hoạt động hướng
về cội nguồn, nhớ về công lao ông, bà tổ tiên góp phần giáo dục con cháu trở
thành người có ích cho xã hội. Nhiều hoạt động văn hóa tinh thần khác được
phục dựng, quan tâm, chăm chút…
Tuy nhiên, quá trình biến đổi văn hóa làng Phương La vẫn có những biến đổi
mang tính trào lưu, còn nhiều hạn chế chưa phù hợp với truyền thống ảnh hưởng đến
mọi mặt đời sống của làng, điều này được khái quát ở Bảng 4.1.
Bảng 4.1: Những tác động của sự biến đổi văn hóa làng dệt Phƣơng La
Lĩnh vực
Những ưu điểm
Những hạn chế
tác động
Kinh tế
Sao nhãng hoạt động nông nghiệp
Duy trì, phát triển nghề truyền thống
Kinh tế phát triển, đời sống người dân được nâng cao
Văn hóa
Du nhập lối sống mới, làm mai một một số giá trị văn hóa truyền thống
xã hội
Tạo cơ hội để khôi phục, giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống
Nâng cao trình độ của cộng đồng dân cư
Suy giảm tính cộng đồng, biểu hiện sự ganh đua trong đời sống xã hội
Phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội
Việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước của người dân ở một số nội dung chưa cao
Tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho người dân
Vấn đề an ninh - xã hội tiềm ẩn nhiều phức tạp, tệ nạn xã hội đã xuất hiện trong một số gia đình
Môi trường làng nghề ô nhiễm trầm trọng
Hạ tầng
Hạ tầng cơ sở vật chất, kỹ thuật của làng được nâng lên
Giao thông ách tách, hạ tầng cơ sở chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của làng nghề
cơ sở
Kiến trúc
cảnh quan
Kiến trúc, cảnh quan làng khang trang, bề thế, nhiều công trình kiến trúc hiện đại được xây dựng
Các công trình kiến trúc truyền thống bị mất giá trị do hoạt động bảo tồn, tôn tạo thiếu đồng nhất và quy hoạch tổng thể
[Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS (năm 2014)].
121
Như vậy, thông qua bảng trên, có thể thấy rằng, các vấn đề có tác động ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của làng nghề Phương La trong thời gian
qua, bao gồm:
122
- Ô nhiễm môi trường trầm trọng
Làng nghề dệt Phương La phát triển, kéo theo ô nhiễm môi trường đang là
những vấn đề nổi bật. Sự phát triển của làng nghề đã mang lại nguồn thu lợi vô
cùng lớn, đời sống người dân giàu có, sung túc nhưng môi trường thì bị ô nhiễm
trầm trọng ở mức báo động. Có tới gần 100% hộ gia đình làm nghề, lại sản xuất
theo quy mô hộ gia đình nhiều, cơ sở sản xuất nằm xen kẽ trong khu dân cư,
nhiều công đoạn sản xuất thủ công… nên rác thải, bụi bặm bay khắp nơi trên
diện rộng không được khống chế. Hệ thống cấp thoát nước sản xuất chưa đảm
bảo. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, mỗi năm làng nghề Phương La
sử dụng gần 10 tấn ôxy già, khoảng 100 tấn nhớt thủy tinh, hàng chục tấn xà
phòng để nhuộm và tẩy. Sản phẩm làm ra tăng, lượng hóa chất thải ra môi trường
càng lớn. Đa số, các công đoạn này đều được làm bằng công nghệ thủ công nên
rất độc hại, gây ô nhiễm môi trường. Mùa nóng và sau mỗi trận mưa, mùi ô
nhiễm bốc lên khó chịu. Làng nghề Phương La tạo ra ô nhiễm môi trường, nguồn
nước, tiếng ồn, bụi của bông, tơ, sợi đay, cói bay khắp nơi… làm ngột ngạt bầu
không khí, dễ gây các bệnh nan y.
Ô nhiễm trầm trọng nhất ở Phương La hiện nay là nguồn nước. Nguồn
nước bị ô nhiễm do chất thải từ công nghệ tẩy nhuộm của các công ty, hộ gia
đình làm cho nước của các con sông đen ngòm, có mùi hôi thối. Nhiều gia đình
đào giếng nhiều lần vẫn không sử dụng được vì nước có màu vàng đục. Các cơ
sở tẩy nhuộm xả nước thải trực tiếp chưa qua xử lý ra môi trường, gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của nhân dân. Khảo sát thực tế nhiều lần ở
làng Phương La, đứng gần sông Cầu Du, màu nước đen ngòm, mùi hôi thối bốc
lên, chúng tôi thấy rất khó chịu.
Bảng 4.2: Đánh giá về tình trạng ô nhiễm môi trƣờng ở Phƣơng La
Đơn vị tính: %
Nguồn ô nhiễm
Mức độ ô nhiễm
Tỷ lệ
Nước
Ô nhiễm nặng nề
0,00
Ô nhiễm ít
30,72
Không ô nhiễm
69,23
Khó đánh giá
0,00
Rác thải
Ô nhiễm nặng nề
0,00
Ô nhiễm ít
76,92
Không ô nhiễm
23,08
Khó đánh giá
0,00
Đất
Ô nhiễm nặng nề
0,00
Ô nhiễm ít
76,92
Không ô nhiễm
23,08
Khó đánh giá
0,00
0,00
Tiếng ồn, không khí
Ô nhiễm nặng nề
Ô nhiễm ít
61,54
Không ô nhiễm
38,46
Khó đánh giá
0,00
[Nguồn: Xử lý kết quả phiếu điều tra (Phụ lục 7)].
Bảng 4.2 cho thấy không chỉ nguồn nước bị ô nhiễm mà nguồn đất, không
khí ở Phương La hiện nay cũng đang ở mức báo động. Bụi của bông, vải, sợi bay
khắp nơi, càng tăng thêm sự ngột ngạt đến ngộp thở. Nếu không quen, khách đến,
khó có thể cư trú tại làng. Hầu như mọi người dân, mọi cơ sở sản xuất đều chưa đáp
ứng đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường, không khí. Môi trường làng nghề bị
ô nhiễm nghiêm trọng: tiếng ồn, bụi, nguồn nước, rác thải, ảnh hưởng xấu đến sức
khỏe người dân, điều kiện lao động của người làm nghề; đe dọa sự tồn tại của nghề
trong tương lai.
Mặc dù vậy, một số người dân làng nghề vẫn nhận thức rằng, làng nghề
không bị ô nhiễm nên họ còn thờ ơ với việc gìn giữ, bảo vệ môi trường.
123
124
- Không gian cảnh quan làng
Các cơ sở sản xuất mở rộng, nhu cầu về mặt bằng sản xuất rất cao, do không
có mặt bằng sản xuất nên các cơ sở sản xuất, các hộ gia đình tận dụng mọi chỗ, mọi
nơi để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Nơi ăn, chốn nghỉ sẵn sàng trở thành chỗ chứa
nguyên liệu, sản phẩm để làm nghề. Vườn cây của từng gia đình đã thiếu vắng, thay
vào đó là nhà xưởng sản xuất, kho chứa hàng. Các ao trong làng cũng đã bị san lấp,
diện tích được quy hoạch để xây dựng khu công nghiệp của làng. Một số ao chuôm,
sông tù đọng trở thành nơi chứa chất thải sản xuất gây ô nhiễm. Không gian công
cộng của làng dần bị thu hẹp, nhà cửa cao tầng mọc lên… cũng nhằm phục vụ sản
xuất, kinh doanh, cộng với bụi của bông vải, sợi dẫn đến ngột ngạt, ô nhiễm không
khí nặng. Cũng vì thế nên nơi vui chơi, thư giãn của người già, trẻ em đã hết.
Không gian chung của làng còn lại giờ đây chỉ là những nơi gắn liền với yếu tố tâm
linh bất khả xâm phạm như khu đình Phương La, chùa Mẹo… và một chút không gian
gần đình Phương La là nơi giành cho người cao tuổi tập thể dục, diện tích chừng vài
trăm mét vuông. Hầu như mọi người đều tất bật với việc sản xuất, ngồi bên máy dệt, ít
đi ra ngoài; do vậy, họ cũng không quá chú ý đến cảnh quan làng.
Những vấn đề trên ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của người dân và người
lao động. Bên cạnh đó, việc kiến trúc thiếu đồng bộ, dẫn đến không gian làng không
còn thoáng đãng như xưa, thiếu cây xanh, ít khu vui chơi giải trí công cộng.
- Vấn đề an ninh và các tệ nạn xã hội
Như đã trình bày ở Chương 3, mặc dù hiện nay, an ninh trật tự của làng đang
tốt, nhưng quá trình CNH - HĐH đã giúp nghề và làng nghề Phương La phát triển,
thu nhận hàng vài ngàn lao động đến làm thuê mỗi ngày, dẫn đến vấn đề an ninh -
xã hội của làng luôn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp. Người tứ xứ đến làm thuê gây
khó khăn cho công tác quản lý, du nhập nhiều thứ "văn hóa" chưa hẳn đã phù hợp
với truyền thống, lối sống của người làng nghề. Lượng người đến làng đông mà hạ
tầng cơ sở lại chưa đáp ứng kịp, do vậy luôn gây tắc đường vào giờ cao điểm,... Có
điều kiện về kinh tế, lại lo mải làm ra tiền, các gia đình không nâng cao cảnh giác,
nuôi dạy, quản lý con cái tốt cũng dễ làm cho con cái hư hỏng, mắc tệ nạn xã hội...
125
- Việc chấp hành chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước của
người dân chưa cao
Mặc dù, các cấp chính quyền địa phương và ngành văn hóa đã có quy định
về thực hiện nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang và lễ hội, nhưng các gia
đình ở Phương La vẫn vi phạm: xây cất mổ mả không theo quy định về chiều cao
và chiều rộng, tổ chức phúng viếng linh đình trong đám tang; ...
Có điều kiện về kinh tế, hơn nữa khi bị phạt thì số bỏ ra nộp phạt không
thấm vào đâu đối với các gia đình chủ doanh nghiệp, các hộ làm nghề vì vậy tỉ lệ
sinh con thứ 3, thứ 4 có xu hướng gia tăng, ảnh hưởng đến tỉ lệ dân số. Bên cạnh đó,
tư tưởng "trọng nam khinh nữ" vẫn còn tồn tại trong làng nghề , nên có những gia
đình đã đủ hai con nhưng vẫn cố gắng đẻ thêm để được cậu con trai nối dõi tông
đường, thừa kế tài sản, đi giao dịch mua bán có con trai đi cùng (học theo mô hình
của các thương gia, doanh nhân nước ngoài).
Khi chính quyền thôn, xã có công việc họp bàn cần có ý kiến đóng góp của
người dân, nhưng việc triệu tập họp rất khó khăn, vì thế nhiều hộ làm nghề ít nắm
đầy đủ chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
- Một số quan hệ cộng đồng có biểu hiện suy giảm và sự ganh đua trong
các mặt đời sống xã hội
Các quan hệ kinh tế - xã hội đa dạng đã tác động mạnh mẽ đến các quan hệ
cộng đồng của truyền thống. Một mặt, người Phương La vẫn tích cực giữ gìn những
giá trị văn hóa của mình, thể hiện ở giữ gìn các quan hệ dòng họ, quan hệ cộng đồng
làng xã thông qua các phong tục tập quán; song vẫn diễn ra quá trình suy giảm tính
cộng đồng. Xu hướng tách họ, hay tuy không tách họ nhưng lập nhà thờ mới, tổ chức
sinh hoạt riêng; hoặc xu hướng một bộ phận cư dân (chủ yếu là những người giàu) có
quan hệ kinh tế - xã hội rộng rãi với người ngoài làng sẽ ít tham gia các hoạt động
chung của làng tiếp tục diễn ra. Sự ganh đua còn biểu hiện ở nhiều khía cạnh của đời
sống, trong tang ma cho cha mẹ, xây cất mồ mả, cưới xin cho con cái ít nhất cũng phải
“bằng anh, bằng em”; … Điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp tới các mối quan hệ dòng
tộc, họ hàng, làng xóm “người ta có tiền, mình không theo được”.
126
4.2. Dự báo xu hƣớng văn hóa làng dệt Phƣơng La trong thời gian tới
4.2.1. Xu hướng chú trọng, đề cao các giá trị văn hóa truyền thống
Sự thay đổi về kinh tế, nâng cao đời sống vật chất là nguyên nhân quan trọng
để người dân có điều kiện quan tâm nâng cao đời sống tinh thần. Các di tích được
người dân quan tâm tu bổ, hay dựng mới rất mạnh mẽ. Không chỉ vậy, việc sưu
tầm, biên soạn gia phả, tộc phả, sắc phong... cũng được người dân chú trọng. “Phú
quý sinh lễ nghĩa”, vì thế, các lễ nghi được tăng cường, khôi phục, các lễ nghi mới
được cập nhật và sáng tạo. Người Phương La đến lễ đình Đông không chỉ còn vào
dịp lễ hội mà họ đến lễ ở đình Đông bất cứ khi nào nếu gia đình có công việc lớn.
Việc huy động công đức để tôn tạo, tu bổ di tích thể hiện trách nhiệm, quyền
lợi của dân làng trong ứng xử với những người có công với làng với nước; việc ủng
hộ xây dựng các công trình phúc lợi của làng xã, tham gia ủng hộ các quỹ nhân đạo
từ thiện... đã góp phần quy tụ, phát huy sự tương thân tương ái “lá lành đùm lá
rách”, tình làng nghĩa xóm “tối lửa, tắt đèn có nhau”.
Sự thay đổi này kéo theo những sự thay đổi lớn trong cộng đồng làng: mâu
thuẫn giữa các thế hệ, sức ép cộng đồng và cả những quy định của chính sách đối
với lễ nghi… Người dân Phương La rất quan tâm đến đời sống tâm linh vì thế các
di tích được trùng tu, tôn tạo và việc thờ cúng tổ tiên, dòng họ… vô cùng quan
trọng với họ. Nhà có điều kiện làm càng lớn, sắm lễ càng nhiều tiền. Họ tham gia
công đức không chỉ thuần túy là cái tâm mà còn thể hiện sức mạnh của gia đình,
dòng họ. Điều này cũng dễ dẫn đến sự pha tạp, biến dạng của văn hóa tâm linh,
cách ứng xử với những người có công với làng với nước…Mặc dù vậy, những
truyền thống cũ trong nghi lễ tôn giáo, những biểu tượng văn hóa, những truyền
thuyết vẫn là những điểm tựa cho việc khẳng định sức sống lâu bền của văn hóa
truyền thống, trước sự thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.
4.2.2. Xu hướng đa dạng văn hóa
Mọi con người, tuy có nguồn gốc khác nhau, sống trong môi trường tự nhiên,
xã hội khác nhau nhưng đều có chung bản chất - bản chất người, luôn có tính sáng
tạo trong cuộc sống, hoàn thiện bản thân, thoả mãn các nhu cầu người theo các chuẩn
mực chân - thiện - mỹ - ích; có tính xã hội cao, tính cộng đồng mở, có nhu cầu tương
giao, tương tác, gắn kết, liên kết với nhau. Mỗi con người đều có nhu cầu giao lưu,
trao đổi kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu sống của con người xã hội là cơ sở của giao
lưu văn hóa. Ngoài ra, con người còn có các nhu cầu giao lưu khác trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, mỗi cộng đồng người dù lớn hay nhỏ, cho dù đã
phát triển hay còn lạc hậu đều đã có một truyền thống lịch sử lâu đời, có một vốn tri
thức nhất định và thể hiện thông qua văn hóa của mình. Tuy nhiên, để làm giàu vốn
tri thức và phong phú thêm văn hóa đó, con người của cộng đồng cần phải được giao
lưu, tiếp xúc. Chỉ có thông qua giao lưu tiếp xúc, văn hóa của mỗi cộng đồng mới
được phát huy và phong phú thêm. Giao lưu văn hóa chính là quy luật chung của sự
phát triển văn hóa. Giao lưu văn hóa hết sức sống động, nó là một động lực thúc đẩy
sự phát triển văn hóa và nói rộng hơn là sự phát triển xã hội.
Nghề dệt làng Phương La phát triển tạo nhiều công ăn việc làm cho người
dân nơi đây; đồng thời, còn thu hút nhiều lao động từ nơi khác đến, do vậy, giao lưu
văn hóa cởi mở và mở rộng. Những người đến làm thuê đã mang theo tập tục,
những nét văn hóa riêng góp phần làm phong phú thêm văn hóa của làng Phương
La: từ âm ngữ, giọng nói, nét sinh hoạt, phong tục tập quán… Trong Chương 1,
Luận án chỉ ra: “theo ông Trần Hữu Huỳnh, người xã Hồng An (giáp với làng
Phương La) cho biết, Thế phả dòng họ của ông có nói, vào thời Vua Lê Thánh Tông
(1460-1497), Nhà Vua đi đánh Chiêm Thành, bắt được tù binh đem về. Lấy ruộng
công của nơi xa, cấp cho người Chiêm cày cấy… Người Chiêm tụ họp lại dựng nhà
lập ấp, ngày khẩn hoang cấy lúa, trồng dâu chăn tằm, đêm đánh cá, dệt vải”. Vì vậy,
dân làng Phương La có thêm nghề dệt. Điều này càng khẳng định sự giao lưu đã
làm phong phú văn hóa cho dân làng Phương La ngay từi thời xa xưa. Vào làng
Phương La ngày nay, chúng ta được chứng kiến sự phong phú về âm sắc, giọng nói
của người dân do công nhân ở nhiều làng quê khác đến làm thuê. Đặc biệt, do được
đi giao lưu, tiếp xúc để trao đổi mua bán nguyên liệu, sản phẩm nên giọng nói của
người Phương La ngày nay nghe đã nhẹ, trong và hay hơn rất nhiều. Người Phương
La cũng được tiếp thu cả cách thức ăn uống, chế biến món ăn của các làng xã khác
từ những người làm thuê.
127
128
4.2.3. Xu hướng phân hóa trong đời sống văn hóa
Làng Phương La giầu có, nhiều doanh nghiệp, công ty thành lập, đồng thời
đội ngũ giám đốc, chủ cơ sở sản xuất xuất hiện. Tầng lớp chủ doanh nghiệp ngày
càng đông đảo, là động lực quan trọng để duy trì và thúc đẩy làng nghề phát triển.
Các quan hệ làm ăn kinh tế, trong đó bao gồm cả người nhà ruột thịt, người trong
họ, ngoài làng, bạn hàng từ nơi khác đến…tạo lên cho người Phương La càng có
thêm nhiều mối quan hệ, nhiều vai khác nhau trong làng, xã. Vì vậy tính cộng đồng
vẫn còn bền chặt, bó bện. Tuy nhiên, tính cố kết cộng đồng sẽ dẫn đến tự trị cục bộ,
tiểu nông, kinh nghiệm và bảo thủ; cản trở quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa,
ảnh hưởng, chi phối tới đời sống văn hóa của các thế hệ sau.
Nghề, làng nghề phát triển, kinh tế thị trường càng phát triển tuy tạo ra nhiều
cơ may, vận hội cho các các thành viên làng nghề; song sự phân hóa giàu nghèo
cũng như mức độ phân tầng xã hội càng diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc. Những người
giàu có càng có nhiều cơ hội để cho con cháu học hành, nâng cao trình độ. Những
người làm thuê, khó khăn hơn nhiều về kinh tế, càng ít có điều kiện để cho con cái học
cao. Chính điều này làm cho sự phân hóa về trình độ học vấn, khả năng nhận thức của
người dân trong làng nghề càng rõ nét. Những dòng họ có kinh tế mạnh, nhiều con em
được đi du học ở nước ngoài, học đại học… Sự chênh lệch về kinh tế, về mức sống dẫn
đến quan niệm về văn hóa ứng xử, nhu cầu hưởng thụ, thị hiếu văn hóa của người dân
trong một làng nghề cũng rất khác nhau. Người nhiều tiền quan niệm, ứng xử đẹp phải
là người ứng xử như “mạnh thường quân”… Những người có điều kiện về kinh tế càng
có nhiều cơ hội làm giàu thêm, do đó, dễ dẫn đến chi phối hoạt động của làng xã, thậm
chí họ còn chi phối cả những chính sách của địa phương phục vụ chính lợi ích của họ.
Đây là điểm mà các nhà quản lý cần nắm bắt và có giải pháp để hạn chế.
Làng xã xưa được xem là một không gian khép kín và tự trị, một cộng đồng đa
chức năng, văn hóa truyền thống chi phối hầu hết các yếu tố từ kinh tế - xã hội, cơ
cấu tổ chức làng xã. Nhưng Phương La giờ đây có không gian làng rất „„mở‟‟. Sự thu
hẹp của đất nông nghiệp, thay đổi cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp,
người dân thoát hẳn nghèo, trở lên giàu có. Sự tăng nhanh mức sống và các dịch vụ
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân Phương La, sinh hoạt của các gia đình khác
nhau, dẫn đến sự phân hóa trong đời sống văn hóa của cư dân, từ quan niệm về văn
hóa, thực hành các lễ thức thờ cúng, sự ứng xử giữa người với người… khác nhau.
129
4.2.4. Xu hướng đề cao vai trò cá nhân, thích thể hiện mình
Hướng phát triển của các làng nghề cũng sẽ phụ thuộc vào không gian làng nghề,
không gian làng nghề cũng có thể được bảo tồn hoặc phá vỡ. Nó bảo tồn được là hướng
CNH phù hợp với điều kiện phát triển của làng nghề hoặc CNH được dựa trên cơ sở của
làng nghề. Xu hướng đô thị hoá không diễn ra một cách ào ạt thì khi đó các yếu tố văn
hoá bên trong (đình, chùa, đền, miếu, cảnh quan,..) vẫn giữ được; nhịp sống, nếp sống
và các giá trị văn hoá của con người làng nghề ít bị xáo trộn. Ngược lại nếu CNH, đô thị
hoá mà không quan tâm tới quyền lợi của các làng nghề, không dựa trên các điều kiện
của làng nghề thì lúc đó không gian làng nghề sẽ bị phá vỡ, các di tích làng nghề sẽ bị
xâm lấn và nhịp sống, nếp sống làng nghề nhanh chóng bị xáo trộn.
Cho dù CNH - HĐH diễn ra đúng hướng hay không đúng hướng thì trong xu
hướng phát triển của tương lai, chắc chắn có sự cạnh tranh gay gắt giữa chủ cơ sở sản
xuất trong từng làng nghề, cũng như giữa các làng nghề và khi đó những mặt hạn chế,
tiêu cực cuả con người làng nghề có xuất phát điểm từ hạn chế, tiêu cực của người tiểu
nông sẽ có dịp bộc lộ, đó là sự đề cao, thích thể hiện mình ở ngoài xã hội, trong làng
xã và ngay cả trong dòng họ. Luôn thích mình là người đứng đầu, là mạnh thường
quân, giàu có,…; là người sành điệu từ trong suy nghĩ, biểu hiện là tâm lý sùng ngoại:
nhà thờ thiết kế “theo kiểu Mỹ”, khi đi quan hệ làm ăn “phải có con trai đi theo như
người nước ngoài”… đến những hành động, việc làm cụ thể như xây dựng nhà cửa,
phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt phải nhất; trong ủng hộ xây dựng các công trình
phúc lợi, tu bổ du tích cũng luôn muốn mình là nhất… Cũng chính vì vậy, dẫn đến tư
tưởng “trọng nam, khinh nữ”, việc sinh con thứ ba, thứ tư có chiều hướng gia tăng…
Mặt khác, có điều kiện kinh tế, một số ông chủ trong các dòng họ chủ động tổ
chức các hoạt động của dòng họ mình, như: gây quỹ của dòng họ phục vụ các mục
đích khuyến học, thăm hỏi, giúp đỡ người trong dòng họ vượt khó, tổ chức các hoạt
động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao…. Đây là những việc làm rất có ích, phát
huy vai trò dòng họ - một nguồn lực góp phần phát triển kinh tế - xã hội của làng xã.
Tuy nhiên, việc làm này không cẩn thận sẽ dễ tạo ra sự ganh đua không lành mạnh
giữa các dòng họ có thế mạnh về kinh tế. Bên cạnh đó, các hoạt động văn hóa, các
hoạt động chung khác của làng xã liệu có còn được mọi người quan tâm?.
130
4.3. Đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa làng dệt Phƣơng La
Từ những kết luận về hạn chế, bất cập của sự biến đổi văn hóa làng Phương
La thời gian qua, cùng với dự báo xu thế biến đổi văn hóa làng Phương La thời gian
tới, Luận án đưa ra một số giải pháp góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
làng Phương La giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH.
4.3.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng ĐSVHCS ở
làng nghề
4.3.1.1. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho người dân
Phát triển nghề nhằm tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống; đồng thời, cần chú
trọng xây đời sống văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
năm (khóa VIII) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ chín (khóa XI) đề ra.
Hai Nghị quyết đó nhấn mạnh, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết cũng chỉ ra
rằng: chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội, thiếu nền
tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì cũng không thể có được sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững. Việc xây dựng, phát triển kinh tế cũng phải nhằm
mục tiêu văn hóa, đảm bảo tiến tới xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển
một cách toàn diện. Văn hóa chính là kết quả của kinh tế, nhưng đồng thời cũng lại
là động lực cho sự phát triển kinh tế.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở có nhiều nội dung, nhưng với các làng nghề
rất cần quan tâm xây dựng con người Việt Nam mới (yêu nước, tự cường dân tộc,
phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu…). Ngoài những phẩm chất trên, xây dựng con người
ở làng nghề cần chú trọng các tiêu chí: có lối sống lành mạnh, văn minh, trung thực,
nhân nghĩa; lao động cần cù với lương tâm nghề nghiệp, có trách nhiệm cao với cộng
đồng; có ý thức bảo vệ môi trường sinh thái… Xã hội càng hiện đại, con người càng
phải sống, làm việc tuân thủ theo pháp luật. Với người làng nghề, có mối quan hệ
giao lưu rộng, lại làm ăn, buôn bán nên càng cần phải hiểu biết toàn diện về pháp
luật, nhất là Luật doanh nghiệp, Luật thuế, Luật bảo vệ môi trường… và nghiêm túc,
tự giác thực hiện pháp luật, quy định của địa phương, thực hiện hương ước của thôn,
làng. Để khi thành lập, triển khai các hoạt động của doanh nghiệp đúng với quy định
của Nhà nước, thực hiện nghĩa vụ thuế đầy đủ…
Muốn giúp người làm nghề có hiểu biết về pháp luật và có lối sống lành mạnh;
các cấp ủy, chính quyền cần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức về
các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho mọi tầng lớp nhân
dân, để nhân dân hiểu và chấp hành. Quá trình đó cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các
cấp, các ngành, đây là một việc làm hết sức cần thiết, sự kết hợp đó có mối quan hệ
mật thiết với nhau, như: Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân... Các tổ chức
đoàn thể, tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình, quy tụ, giáo dục, động viên nhân
dân tích cực hưởng ứng các cuộc vận động do cấp trên đề ra: việc chấp hành chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; xoá đói, giảm nghèo, giữ gìn môi trường,
y tế giáo dục, kế hoạch hoá gia đình…
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra việc chấp hành pháp luật của mọi người dân; kịp thời khen thưởng, động viên
những người tích cực, những người thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước; đồng thời, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm để
nhằm răn đe, giáo dục những người dân khác.
4.3.1.2. Cần phải có biện pháp mạnh để ngăn chặn, phòng ngừa sự gia tăng
của các tệ nạn xã hội
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nhiều điều kiện để
chúng ta mở rộng giao lưu hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, kinh
131
tế phát triển, sản xuất cũng tăng trưởng, đồng thời với cơ chế thị trường thì mặt trái
của nó cũng có tác động nhất định tới đời sống xã hội. Một bộ phận cán bộ, đảng
viên có lối sống buông thả, hưởng thụ…
Đặc biệt, ở các làng nghề vốn đã manh nha tiểm ẩn các quan hệ kinh tế, sự trao
đổi mua bán cùng các hợp đồng kinh tế, con người vốn phải nhanh nhạy, năng động;
lại chịu tác động của cơ chế thị trường, họ càng thích ứng rất nhanh, vươn lên chiếm
lĩnh thị trường, bạn hàng… Tuy nhiên, do “mải” làm ăn kinh tế, say sưa với công việc
nên cũng có phần nào sao nhãng bổn phận, thờ ơ với vấn đề làng xã. Họ chỉ có kinh tế
để công đức, để ủng hộ… và thậm chí không hiểu ngọn nguồn việc làm của mình, ý
nghĩa của nó là gì, chỉ biết có tiền đóng góp và tên họ được coi trọng nhất, nhân dân
ngưỡng mộ. Nhưng rồi nếu cứ như vậy thì việc giáo dục thế hệ trẻ sau này thế nào?
Con em học được gì ở họ. Hơn nữa nếu buông lỏng sự giáo dục của họ đối với con cái
thì sẽ góp phần gia tăng tệ nạn xã hội ở làng quê. Thứ hai, nếu bố mẹ vì chỉ mải làm,
thậm chí đi làm ăn nơi xa đem theo cả gia đình, sau nhiều năm trở về mang theo cả
điều hay điều dở, … những điều này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường văn
hoá làng nghề, đe doạ trực tiếp cuộc sống bình yên của gia đình, làng xã. Vì vậy chúng
ta phải phòng ngừa và đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả với các tệ nạn xã hội, thậm chí
cần phải có biện pháp xử lí nghiêm minh, triệt để đối với các loại đối tượng này. Song
song với nó là phải phát huy vai trò của giáo dục gia đình, dòng họ trong dạy dỗ,
hướng nghiệp cho con, tạo ra sự thi đua đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau để thu hút sự quan
tâm chú ý của các em. Phải đưa các em tham gia vào các tổ chức đoàn thể, giao nhiệm
vụ, phân công công việc để các em có tính phấn đấu, có môi trường hoạt động trong
thời gian nhàn rỗi. Ban tự quản của thôn làng thường xuyên, kịp thời phát hiện những
biểu hiện lệch chuẩn trong đạo đức để uốn nắn động viên các em, tuyên truyền tác hại
của tệ nạn xã hội giúp cho người dân nâng cao nhận thức, cảnh giác với các loại tội
phạm góp phần phát hiện, giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Công tác phòng chống tệ nạn xã hội là việc làm cấp bách không của riêng ai.
Tất cả mọi người phải tự ý thức và tự bảo vệ mình trước sự cám dỗ của vật chất, tệ
nạn xã hội; gia đình phải kết hợp cùng nhà trường, địa phương quản lý tốt hoạt động
132
của các em. Các tổ chức đoàn thể vào cuộc, cần phải để tâm lưu ý đến đối tượng này,
tuyên truyền, động viên các em tham gia các hoạt động văn hoá nhằm hạn chế thấp
nhất sự sa ngã của các em. Mặt khác, khi đã phát hiện đối tượng tệ nạn xã hội chúng
ta cần giải quyết một cách kịp thời, dứt điểm bằng những biện pháp mạnh để làm
gương cho các đối tượng khác.
Phải xác định công tác phòng chống ma tuý, tệ nạn xã hội là việc làm của các
cấp, các ngành, của mỗi người dân để tạo ra sự đồng thuận, đồng bộ có như vậy hiệu
quả hoạt động xây dựng đời sống văn hoá cơ sở mới tốt.
4.3.1.3. Tăng cường các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao
Một sự khác biệt giữa các làng nghề với các làng thuần nông, đó là nhịp sống
lao động. Thời gian lao động của người dân làng nghề bận mải hơn, họ say làm ra
sảm phẩm để làm giàu, nghỉ một ngày công là tương ứng với việc mất vài trăm nghìn
đồng. Vì vậy, việc tham gia các hoạt động xã hội thường xuyên ngưng trệ, thậm chí
họ không còn thời gian, tâm trí để quan tâm.
Muốn cho họ tham gia các hoạt động xã hội, các hoạt động của thôn làng, phải
thành lập các đội văn nghệ, thể thao của các dòng họ, sử dụng ngay chính các từ
đường dòng họ (nếu có đủ điều kiện) để biểu diễn, thi đấu. Hoặc sử dụng các thiết
chế văn hoá của thôn làng, như đình, chùa… tổ chức giao lưu hoặc thi biểu diễn,
chọn lọc những tiết mục văn nghệ hay, kết quả thể thao cao để trao thưởng động
viên. Thu hút mọi đối tượng, già trẻ, nam nữ, tạo môi trường văn hoá lành mạnh,
tránh sự căng thẳng sau những giờ lao động vất vả.
Mỗi con người đều có hai nhu cầu cơ bản: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh
thần, nhu cầu vật chất đã đáp ứng được thì nhu cầu tinh thần càng phải cao mới đạt.
Chính vì vậy, bất cứ ai làm gì trong môi trường nào đều cần phải có nhu cầu tinh
thần. Một trong những hoạt động đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người đó là hoạt
động văn hoá nghệ thuật, nó giúp con người tái tạo lại sức lao động, giúp con người
sảng khoái, dẫn đến hiệu quả lao dộng cao. Hơn nữa, thông qua các hoạt động thể
dục - thể thao chúng ta dễ dàng lồng ghép việc tuyên truyền chủ chương, đường lối
chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước tới quần chúng nhân dân.
133
Vùng đất Hưng Hà - cái nôi nghệ thuật chèo với chiếu chèo làng Hới, làng Hà
Xá… làng nào cũng có đội văn nghệ, các đội múa hát chèo. Ở Phương La cũng có
những đội văn nghệ của hội khuyến học, các đội thể thao… Vì vậy, cần phát huy triệt
để loại hình nghệ thuật truyền thống này, phải mở rộng giao lưu nghệ thuật giữa các
đơn vị, giữa các làng xã trên địa bàn Huyện với các địa phương khác.
Tăng cường các hoạt động thể dục - thể thao để thu hút nhiều nhất các đối
tượng, các tầng lớp, các lứa tuổi, giới tính tham gia. Tổ chức nhiều buổi giao hữu
giữa các làng, các dòng họ để kích thích sự tích cực tham gia của các cá nhân, dòng
họ nhằm góp phần tạo không khí sôi nổi, vui tươi, đoàn kết, gắn bó tình cảm giữa các
cá nhân, gia đình, dòng họ trong các làng nghề.
Qua hoạt động này, người dân thấy được vai trò của các hoạt động văn hoá,
thấy được ý nghĩa to lớn, thiết thực của việc xây dựng đời sống văn hoá trong các
làng nghề, tự giác thực hiện các quy định, quyết định của Trung ương, của địa
phương về xây dựng gia đình, dòng họ, làng xã, cơ quan, đơn vị văn hóa; về thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội…
134
4.3.2. Nhóm giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
4.3.2.1. Bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống
Làng nghề tạo ra một giá trị kinh tế lớn và ổn định hơn so với làng nông
nghiệp, góp phần nâng cao đời sống vật chất của người dân ở địa phương. Sản
phẩm của làng nghề là sự kết tinh của sức lao động, cái tâm, cái hồn và sự khéo léo
của đôi bàn tay người thợ. Đặc biệt, mỗi làng nghề lại có những truyền thuyết khác
nhau, sự phụng thờ khác nhau về những vị tổ nghề; cách thức thi tay nghề cũng rất
khác nhau… nên làng nghề chứa đựng nhiều yếu tố văn hoá truyền thống của dân tộc.
, các yếu tố văn hóa dân
gian… có sức sống lâu bền.
Như đã phân tích ở trên, do có điều kiện kinh tế khá giả hơn người làng thuần
nông, nên các hoạt động về tín ngưỡng, tâm linh của người làng nghề rất được coi
trọng. Mà trong cơ chế thị trường hiện nay, các yếu tố văn hoá truyền thống đã bị ảnh
hưởng không nhỏ, nét văn hoá đã bị mai một, các hoạt động tế, lễ thiếu sự khuôn
mẫu; một số hoạt động dân gian mờ nhạt, thậm chí đã bị lãng quên. Thay vào đó là
sự phô trương, hình thức, đôi khi trở thành sự ganh đua của các dòng họ... Để bảo
tồn giá trị văn hóa truyền thống trong các làng nghề chúng ta cần:
1. Bảo tồn, tôn tạo các di tích thờ cúng. Việc phục hồi, tôn tạo hay xây mới di
tích phải chú ý đến yếu tố cổ truyền, tính đồng nhất trong kiến trúc, đặt di tích đó trong
cảnh quan chung của cả quần thể di tích, sự hài hòa với môi trường xung quanh.
2. Bảo tồn các lễ thức thờ cúng, hội làng theo đúng khuôn mẫu của các cụ ta
xưa. Không nên vì nhu cầu mục đích kinh tế, sự ganh đua, thích thể hiện mình của
một số cá nhân mà làm cho các lễ thức bị biến dạng, méo mó.
3. Tuyên truyền, vận động người dân tích cực sưu tầm, tìm hiểu và biên soạn
các giá trị văn hóa truyền thống của làng để bảo lưu, truyền bá giúp làm cho mọi
người hiểu đầy đủ, đúng đắn về các giá trị văn hóa đó.
4. Giữ gìn những nét đẹp của các phong tục truyền thống (quan hệ chia sẻ,
giúp đỡ). Trên cơ sở yếu tố văn hoá riêng biệt của làng nghề chi phối tới đời sống
tinh thần của người dân như quan hệ ứng xử giữa người với người trong mối quan hệ
làm ăn, quan hệ kinh tế chịu sự chi phối của luật, của lý. Do đó, cần củng cố, duy trì
tốt mối quan hệ huyết thống, tình làng nghĩa xóm; đoàn kết giúp đỡ nhau cùng phát
triển. Để giữ gìn các nét đẹp trong phong tục tập quán, cần điều chỉnh các tiêu chí
xây dựng gia đình, dòng họ văn hoá… phù hợp với thực tiễn của các làng nghề.
4.3.2.2. Phát triển làng nghề kết hợp với phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống để phát triển du lịch
Làng nghề là hạt nhân để hình thành thị tứ, thị trấn ở các vùng nông thôn, có
điều kiện để xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo sự giao lưu, quan hệ giao tiếp mở rộng…
giúp cho người dân dễ tiếp thu lối sống đô thị hơn làng thuần nông rất nhiều. Nghề,
làng nghề phát triển tạo ra cơ sở kinh tế để bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống
của các làng nghề, từ đó góp phần vào bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa làng nói
chung, văn hoá làng nghề nói riêng làm cho văn hoá trở thành mục tiêu, động lực
của công cuộc xây dựng xã hội mới.
135
Để bảo tồn, phát huy giá trị các di tích, lễ hội nhằm phát triển du lịch ở làng
Phương La, cần thiết phải đánh giá được giá trị của các di tích, lễ hội và các giá trị
văn hóa khác như sản phẩm nghề, các truyền thuyết… Hiện nay, công tác bảo tồn
các di tích và lễ hội ở Phương La đã được người dân quan tâm và chú trọng. Tuy
nhiên, mới chỉ tập trung vào việc tu sửa mà chưa quan tâm phát huy vai trò và
quảng bá về di tích. Việc tổ chức lễ hội cũng thu hút được người dân ở một số làng
xã lân cận tham gia nhưng cũng chưa đủ súc trở thành lễ hội vùng.
Sản phẩm văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần do con người sáng tạo ra để phục
vụ chính cuộc sống con người, thỏa mãn những mục đích và nhu cầu khác nhau của
các cá nhân, cộng đồng. Sản phẩm văn hóa luôn chứa đựng bản sắc văn hóa riêng,
mang dấu ấn cá nhân, dấu ấn cộng đồng nên luôn phản ánh và biểu hiện các yếu tố
mang sắc thái địa phương, vùng miền… Các sản phẩm văn hóa đã có sức hấp dẫn
đối với du khách, song muốn trở thành sản phẩm du lịch phải được tham gia vào các
hoạt động kinh doanh du lịch. Mỗi làng nghề có những nét văn hoá dân gian đặc
sắc, điển hình, được biểu hiện qua hai loại hình văn hóa: văn hóa vật thể và văn hóa
phi vật thể.
Văn hóa vật thể tiêu biểu với các thiết chế tín ngưỡng tôn giáo, tâm linh quý
hiếm. Sản phẩm người làng nghề làm ra còn mang tâm hồn, cốt cách, sự khéo léo
của đôi bàn tay người thợ nên mỗi sản phẩm là một tác phẩm riêng, độc đáo. Cùng
sản xuất một loại sản phẩm nhưng có khi mỗi gia đình lại có những công cụ, dụng
cụ riêng, khác biệt…
Văn hóa phi vật thể của các làng nghề được thể hiện đậm nét qua các lễ hội.
Lễ hội làng nghề bề thế, lắng đọng trong đó những lớp văn hóa, những trò diễn gợi
lại được các nghi thức nông nghiệp. Ngoài ra, còn có nghi thức tế lễ tổ nghề; tục
trình nghề của các phường nghề. Gắn với mỗi nghề lại có những truyền thuyết hấp
dẫn, huyền bí (về tổ nghề, về các vị thần được thờ). Người làng nghề có bí quyết,
công thức nghề riêng, việc giữ bí quyết nghề cũng hết sức nghiêm ngặt. Người làng
nghề thường đi quảng bá, trao đổi sản phẩm nên tư duy cởi mở, năng động, dễ gần
và có nhiều điểm khác trong ứng xử, trong các sinh hoạt cộng đồng so với người
136
a vật thể, phi vật thể của làng nghề có sức
sống lâu bền, là điểm khác biệt với các làng nông nghiệp, chính sức sống lâu bền
này của văn hóa làng nghề đã thúc đẩy mọi mặt đời sống xã hội phát triển.
Phương La là một làng cổ cũng nằm trong cái chung của các làng Việt Bắc
Bộ, làng có đủ cả đình, chùa, miếu, nhà thờ họ… và còn nhiều cổ vật quý. Các di
tích là phần văn hóa tâm linh vô cùng quan trọng của làng. Nổi bật trong các di tích
ấy của làng Phương La là Đình Đông, chùa Ứng Mão, các nhà thờ dòng họ Lê, họ
Trần…và lễ hội đình Đông của làng; đây là những điểm thu hút khách du lịch. Lễ
hội làng Phương La xưa có nhiều trò diễn đặc sắc, đặc biệt tục thi tay nghề giữa các
dòng họ xưa được người dân tham gia, hưởng ứng rất đông (tục này giờ đã không
còn). Về với Phương La, chúng ta còn được chiêm ngưỡng và mua các sản phẩm
khăn dệt máy hoặc dệt thủ công đặc sắc về dùng hoặc biếu, tặng.
Để hội làng Phương La có sức hút hơn với du khách, ngoài công tác tuyên
truyền quảng bá, địa phương cần phải xây dựng Ban quản lý di tích, tổ chức lễ hội
đủ tầm, triển khai bài bản các khâu đúng quy định của pháp luật mà phù hợp điều
kiện của địa phương. Bên cạnh đó, người dân và chính quyền địa phương cần khôi
phục một số trò diễn dân gian, tục thi tay nghề của các dòng họ tạo sự hấp dẫn, cuốn
hút nhân dân. Như vậy chúng ta vừa phát triển được kinh tế lại vừa bảo lưu, phát
huy các giá trị truyền thống; đồng thời, môi trường cảnh quan được bảo vệ, giữ gìn
xanh - sạch - đẹp, phục vụ cuộc sống của con người.
Làng nghề thủ công truyền thống tồn tại và phát triển bởi chính các sản phẩm
làng nghề làm ra hình thành một bản sắc riêng về giá trị sản phẩm của nghề, làng
nghề mình, tạo được một uy tín về chất lượng sản phẩm, nét độc đáo riêng biệt trong
sản phẩm của làng nghề. Mỗi sản phẩm là sự kết tinh của sức lao động, cái tâm, cái
hồn và sự khéo léo của đôi bàn tay người thợ… Từ những cái đó đã tạo nên bản sắc
văn hóa riêng của mỗi nghề và làng nghề - di sản văn hóa phi vật thể; đồng thời làng
nghề cũng chính là nơi lưu giữ bảo quản tốt nhất các truyền thống văn hóa lâu đời,
lưu truyền bí quyết nghề. Tại đây mang đậm nét những phong tục cổ truyền, những
nét văn hóa đặc trưng. Do đó, làng nghề lại còn chứa đựng tiềm năng to lớn về quảng
137
bá truyền thống văn hóa Việt Nam, sản phẩm hàng thủ công Việt Nam. Người ta đến
với làng có khi cũng chỉ là mua sản phẩm, chiêm ngưỡng sản phẩm, tìm hiểu bí
quyết của nghề, hiểu văn hoá của làng nghề. Chính vì vậy chúng ta cần phải có định
hướng góp phần tăng thêm giá trị, khẳng định thương hiệu của làng nghề, giúp làng
nghề phát triển tốt hơn. Muốn phát huy giá trị văn hoá làng, hơn bao giờ hết cần phát
huy vai trò của các nghệ nhân - sự truyền nghề, mở rộng quy mô đào tạo nghề, mở
rộng quy mô làng nghề và cần có chính sách đãi ngộ, tôn vinh các nghệ nhân để họ
không ngừng cống hiến trí tuệ cho con cháu.
Sản phẩm của làng nghề thu hút sự quan tâm chú ý của khách thập phương, hơn
nữa làng nghề là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hoá đặc trưng bản sắc văn hoá Việt Nam.
Ở đâu làng nghề càng phát triển thì ở đó các cổ vật, các di sản văn hoá càng đầy đặn
càng cổ xưa,vì vậy chúng ta cần khai thác thế mạnh của làng nghề như một địa danh
du lịch - du lịch làng nghề. Đến với làng nghề không những được chứng kiến hoạt
động sản xuất sản phẩm thủ công truyền thống, được tham quan các di tích lịch sử, các
giá trị văn hoá của người dân làng nghề, đồng thời có thể tự lựa chọn mua cho mình
những sản phẩm ưa thích. Đây là mục tiêu mà các làng nghề cần vươn tới. Để thực
hiện được mục tiêu, các cấp uỷ Đảng, chính quyền cần quy hoạch không gian kiến
trúc, cảnh quan môi trường, tạo điểm vui chơi, dịch vụ nhà nghỉ, khách sạn…
Như vậy, phát triển du lịch làng nghề không chỉ tạo được môi trường văn hóa
mà còn tạo ra thị trường trao đổi hàng hoá sản phẩm, quảng bá thương hiệu sản phẩm
cho các làng nghề ấy, đồng thời giải quyết tốt được nhiều vấn đề môi trường sinh
thái, sự phát triển nghề, làng nghề, môi trường văn hoá tốt.
Du lịch làng nghề sẽ góp phần làm cho nhân dân địa phương nhận thức được
giá trị của các di sản văn hoá, từ đó có ý thức giữ gìn, bảo vệ. Tự họ có những hành
động, những việc làm phù hợp; đồng thời, còn có ý thức tuyên truyền vận động con,
cháu, mọi người cùng tham gia bảo vệ. Không chỉ vậy họ còn góp công, góp của để
tôn tạo, bảo vệ các di sản, sưu tầm vốn truyền thống, những cổ vật của địa phương và
như vậy văn hoá truyền thống của địa phương ngày càng phong phú đa dạng càng
thu hút nhiều khách du lịch.
138
Muốn làm được điều này các cấp, các ngành ở địa phương cần phải có quy hoạch
tổng thể không gian kiến trúc của các làng nghề. Trong quy hoạch cần tính tới mặt bằng
sản xuất, nơi trưng bày, quảng bá sản phẩm làng nghề, quy hoạch khu xây dựng các thiết
chế văn hoá, nơi diễn ra các hoạt động văn hoá truyền thống và các hoạt động văn hoá
mới, đặc biệt cần tạo ra những khu vực sinh thái hấp dẫn vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của người dân làng nghề vừa đáp ứng nhu cầu khách du lịch. Như vậy chúng ta vừa phát
triển được kinh tế lại vừa bảo lưu, phát triển các giá trị truyền thống đồng thời môi trường
cảnh quan được bảo vệ, giữ gìn, phục vụ đắc lực cuộc sống con người.
139
4.3.3. Nhóm giải pháp về phát triển nghề
4.3.3.1. Quy hoạch làng nghề, tạo điều kiện mở rộng mặt bằng sản xuất
Trong điều kiện hiện nay, làng nghề bảo đảm công ăn việc làm trực tiếp, tức
thì cho một bộ phận lớn cư dân nông nghiệp đang chịu sức ép rất lớn của sự mất đất
nông nghiệp và sự gia tăng dân số, góp phần ổn định chính trị chính trị ở nông thôn,
ngăn ngừa tệ nạn xã hội. Mỗi ngày một làng nghề có thể giải quyết việc cho hàng
trăm, hàng ngàn lao động. Một số nông dân làm thuê đã được học nghề để trực tiếp
làm ra sản phẩm. Một số khác làm phần ruộng của các hộ trong làng hoặc các việc
khác như vận chuyển, nội trợ và tạp vụ tạo tiền đề cho lực lượng công nhân công
nghiệp trong giai đoạn mới. Làng nghề góp phần đào tạo ra một đội ngũ thợ thủ công
- công nhân tiền công ghiệp, bổ sung cho lao động công nghiệp sau này.
Ngày nay làng nghề càng ngày càng khẳng định vai trò to lớn của nó trong
phát triển kinh tế và xã hội. Hiện nay, nghề dệt vẫn là trụ cột, chỗ dựa kinh tế vững
chắc cho người làng Phương La và trong vùng bởi những lý do:
- Giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập tương đối cao và ổn định hơn so
với sản xuất nông nghiệp, khi cuộc sống dựa nông nghiệp đang gặp khó khăn vì
bình quân ruộng đát thấp, manh mún, giá cả nông sản thực phẩm không tương
xứng, chịu nhiều bất lợi so với giá các sản phẩm công nghiệp.
- Giải quyết công ăn việc làm cho cư dân các làng không có nghề ở bên cạnh,
cũng đang chịu sức ép rất lớn, rất bất lợi của việc mất đất sản xuất, trong khi điều
kiện chuyển đổi sang nghề mới rất khó khăn.
- Tạo ra một lượng sản phẩm hàng thủ công đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng
trong nước; nguyên liệu cho các cơ sở công nghiệp thuộc nhiều ngành nghề khác
nhau. Làng nghề tạo ra giá trị kinh tế cao trong cơ cấu kinh tế nói chung và so với
giá trị công nghiệp nói riêng, đáp ứng nhu cầu lớn về hàng hóa tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu, đời sống cư dân luôn đảm bảo hơn các làng thuần nông. Nhiều xã,
huyện đã đặt vị trí của làng nghề, xã nghề như một mục tiêu trọng yếu của chương
trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Nhiều nơi nghề, hộ nghề đã trở thành
nguồn sống chủ yếu của người dân.
Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy, nhưng hiện nay, mặt bằng của các cơ
sở sản xuất ở Phương La vẫn gặp nhiều khó khăn, cho dù đã được giải quyết bằng
lao động vệ tinh. Một cơ sở sản xuất mang tính chất gia đình cần trung bình từ 1.500m2 trở lên để làm nhà xưởng, nhưng trên thực tế diện tích khuôn viên của hầu hết gia đình này từ chỗ 2 - 3 sào (720 - 1.000m2), nay bị thu hẹp do phải chia đất
cho các con khi các con ở riêng. Việc mở rộng nhà xưởng rất khó vì giá đất rất cao
so với khả năng vốn của các cơ sở sản xuất; hơn nữa, cho dù có đủ vốn để mua
thêm đất đai thì cũng không dễ mua được đất đai liền kề với cơ sở sản xuất đang có.
Chính vì những lý do trên, các cấp chính quyền cần quan tâm tạo mọi điều kiện
giải quyết vấn đề mặt bằng sản xuất giúp các cơ sở mở rộng quy mô sản xuất. Làng
Phương La hiện nay, người dân không còn nhu cầu làm nông nghiệp vì thu nhập thấp nên
ruộng bị bỏ hoang, hoặc ruộng cho người làng khác đến cấy thuê. Do vậy, nên chăng, các
cấp chính quyền tạo điều kiện để các chủ cơ sở sản xuất được thuê lại ruộng đất đó mở
rộng nhà xưởng đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất, thu thuế đất theo quy định của Nhà
nước, lấy kinh phí đó đầu tư xây dựng hạ tầng, các công trình phúc lợi của làng xã. Làm
như vậy, vừa có lợi cho người làm nghề, lại không để phí đất nông nghiệp.
4.3.3.2. Hoàn thiện hệ thống giao thông; cung cấp điện, nước; giải quyết
triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường
- Cần hoàn thiện hệ thống giao thông, hệ thống giao thông không chỉ có ý
nghĩa cho phát triển kinh tế du lịch của làng mà còn có ý nghĩa về mặt dân sinh, góp
140
phần phát triển nghề. Để hoàn thiện hệ thống giao thông ở làng Phương La, các cấp
chính quyền cần giữ nguyên cấu trúc đường hiện có, nâng cấp, khôi phục và mở rộng
những con đường có thể để giao thông thuận lợi, tránh tắc nghẽn; cần có một số biển
báo, chỉ dẫn đường giao thông trên hệ thống đường liên xã và cả đường nội làng; cần
xây dựng khu tập kết nguyên liệu và khu giao nhận sản phẩm xuất đi chung cho từng
thôn; tạo không gian thoáng cho người tham quan du lịch.
- Hệ thống điện ổn định và nước sạch là hai yếu tố vô cùng quan trọng đối với
đời sống của người dân. Điện, nước ổn định không những đảm bảo cho sinh hoạt còn
đảm bảo cung cấp nguồn điện ổn định để sản xuất góp phần phát triển kinh tế - xã
hội. Các cơ quan chức năng cần khẩn trương vào cuộc, kiểm tra, rà soát và cho nâng
cấp hệ thống điện, đảm bảo để cung cấp điện ổn định giúp người dân yên tâm sản
xuất. Các cấp chính quyền sớm triển khai, đưa hệ thống nước máy đảm bảo vệ sinh
vào phục vụ sinh hoạt của người dân.
- Cần có biện pháp khống chế, đẩy lùi tình trạng ô nhiễm môi trường làng
nghề. Đồng thời với việc phát triển kinh tế thì nạn ô nhiễm môi trường sống của các
làng nghề hiện nay đang là vấn đề rất bức xúc, là cản trở lớn nhất đối với các làng
nghề ở Thái Bình. Xét một cách tổng quát thì việc tổ chức sản xuất kinh doanh trong
các làng nghề chủ yếu là hộ gia đình do vậy tổ chức sản xuất phân bố ở khắp mọi nơi
trong làng không có khu tập trung. Như vậy ô nhiễm môi trường cùng trải rộng khắp
địa bàn dân cư ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống sinh hoạt, sức khoẻ của người
dân. Khi về với làng nghề Phương La, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh
sầm uất như phố phường, vila, nhà cao tầng mọc lên san sát. Cụm công nghiệp với
các công ty, xí nghiệp được xây dựng, đầu tư hiện đại. Tuy nhiên, về với Phương La,
ai cũng không khỏi băn khoăn bởi khí bụi của bông vải, mùi nồng nặc của hoá chất
tẩy nhuộm, dòng sông nước đen ngòm chảy qua làng song vì quá tham việc, thờ ơ
với vấn để liên quan tới cuộc sống của mình, thậm chí ý thức còn kém trong các vấn
đề xã hội. Do vậy, để giải quyết những bất cập trên, các cấp chính quyền địa phương
cần phải quy hoạch tổng thể cho làng nghề. Việc quy hoạch phải phù hợp với điều
kiện thực tiễn của làng, để người dân dễ chấp hành và thực hiện trong sản xuất, sinh
141
hoạt. Cần đầu tư quy hoạch, xây dựng các khu, cụm xử lý rác thải, nước thải và áp
dụng khoa học công nghệ để cải thiện môi trường. Xử ký nghiêm minh những trường
hợp vi phạm về môi trường… có như vậy, môi trường làng nghề mới được cải thiện.
4.3.3.3. Xây dựng đội ngũ doanh nhân - yếu tố giữ vai trò quyết định việc
duy trì và phát triển nghề
Các ông chủ doanh nghiệp có vai trò ký kết hợp đồng sản xuất do họ có đủ
điều kiện: về trình độ, kinh nghiệm, có vốn và dám nghĩ, dám làm; chủ động tìm
nguồn nguyên liệu rẻ; là thành viên tích cực, quyết định để hình thành hệ thống tổ
chức, sản xuất đảm bảo chất lượng, đảm bảo việc tiêu thụ sản phẩm. Ba yếu tố trên
kích thích sản xuất, kích thích người lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển. Nhờ
vậy, nghề và làng nghề phát triển, đời sống người dân sung túc. Bên cạnh đó, các
ông chủ doanh nghiệp cũng tạo cho người công nhân thoát ly nông nghiệp, một nền
sản xuất nhỏ, bấp bênh, thu nhập thấp; thay thế vào đó là sản xuất hàng thủ công có
thu nhập cao hơn, ổn định (một người thợ dệt, thu nhập gần 200.000/ngày; người
thợ may thu nhập khoảng 150.000/ngày, người nhặt khăn được 12.000đồng/tiếng);
đồng thời, tạo cho người nông dân nếp sản xuất, lối sống, tác phong công nghiệp.
Đội ngũ doanh nhân có sức ảnh hưởng, chi phối đến nhiều mặt đời sống của
làng nghề. Họ phải là những người có năng lực cạnh tranh và cạnh tranh lành mạnh,
tâm huyết với nghề (sống - chết, giàu - nghèo, vinh - nhục vì nghề); không ngừng
học hỏi, tìm ra những giải pháp sản xuất kinh doanh hiệu quả để đưa cơ sở sản xuất
của minh ngày càng phát triển, đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước
và cho các hoạt động chung của làng.
Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ doanh nhân có đủ điều kiện về phẩm chất,
năng lực cạnh tranh thời hội nhập vô cùng quan trọng trong giữ gìn và phát triển
nghề, làng nghề. Mở các lớp tập huấn ngắn hạn, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp
vụ quản lý, tiếp thị thị trường, kiến thức về ngoại ngữ, tin học… giúp các doanh
nhân nâng cao kiến thức, kỹ năng mọi mặt. Thành lập các hiệp hội, câu lạc bộ
doanh nghiệp để các chủ doanh nghiệp có cơ hội giao lưu, tiếp xúc học hỏi kinh
142
nghiệm lẫn nhau. Bên cạnh đó, cần chú trọng đào tạo đội ngũ thợ có tay nghề cao,
tâm huyết với nghề; phát huy những đức tính và những truyền thống tốt đẹp của cha
ông, khắc phục những hạn chế tiêu cực của người làm nghề trong chế độ cũ…;
143
Tiểu kết
Làng nghề có vị trí vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, đất nước. Công cuộc đổi mới cùng với quá trình CNH - HĐH đất nước
đã mang lại cho làng nghề nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những khó khăn, thách
thức. Nghề phát triển, kinh tế đời sống người dân được nâng cao, đây chính là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi văn hóa làng nghề. Sự biến đổi văn hóa
mang tính trào lưu nên có những biến đổi tích cực và cả những biến đổi chưa phù hợp
với truyền thống. Các tác động đó ảnh hưởng trực tiếp đến mọi mặt đời sống xã hội của
làng. Những tác động chưa tích cực, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của làng
nghề được xác định là: vấn đề ô nhiễm môi trường; không gian cảnh quan làng thiếu sự
quy hoạch tổng thể; vấn đề an ninh trật tự và các tệ nạn xã hội xuất hiện; việc thực hiện
chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước của người dân chưa cao; biểu hiện ganh đua,
sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội đã xuất hiện…
Sự biến đổi văn hóa sẽ còn diễn ra liên tục, lâu dài, và dự báo xu hướng biến
đổi của văn hóa làng nghề Phương La trong thời gian tới là: phục hồi các giá trị
truyền thống; đa dạng văn hóa; sự phân hóa trong đời sống văn hóa; đề cao vai trò
cá nhân;…
Từ những nhận định, đánh giá trên, Luận án đề xuất ba nhóm giải pháp nhằm
bảo tồn, phát triển văn hóa làng nghề trong giai đoạn đẩy mạnh CNH – HĐH gồm:
nhóm giải pháp về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; nhóm giải pháp
về nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động xây dựng ĐSVH ở cơ sở, nhấn mạnh việc chấp
hành chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước của người dân, cần có biện pháp mạnh
để ngăn ngừa các tệ nạn xã hội; nhóm giải pháp về phát triển nghề, quan tâm giải quyết
về mặt bằng sản xuất, cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ cho đội ngũ doanh nhân; đặc
biệt giải quyết triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề.
144
1. Trên cơ sở kế thừa lý luận của các học giả đi trước, Luận án đã sử dụng các
lý thuyết về biến đổi văn hóa và xã hội của các nhà Văn hóa học Đức, Mỹ và Việt
Nam; từ đó, góp phần phân tích và làm rõ các khái niệm làng nghề, văn hóa làng
nghề và biến đổi văn hóa làng nghề. Dựa vào các lý thuyết và những khái niệm trên
để Luận án giải quyết các vấn đề được đặt ra.
Làng nghề là các làng có phần đông cư dân sống bằng một nghề hoặc nhiều nghề
thủ công, có khi chỉ là một công đoạn của nghề, tạo ra các sản phẩm mang tính cách
riêng, thời gian làm nghề và thu nhập của nghề chiếm tỷ lệ lớn nhất so với các hoạt động
kinh tế khác; hoạt động làm nghề có ảnh hưởng lớn đến các mặt khác của làng (kiến trúc
làng xóm, nhà cửa, nhịp sống, thiết chế tổ chức và các quan hệ xã hội, tâm lý tính cách,
phong tục tập quán...).
Văn hóa làng nghề mà Luận án đề cập, không đơn thuần là số cộng giữa văn
hóa làng và văn hóa nghề, mà là một dạng đặc thù, là một phức thể các yếu tố văn
hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng nghề, giữa nghề và làng,
giữa con người và các yếu tố ngoài con người, có quan hệ mật thiết với nhau, ràng
buộc và phụ thuộc, tác động vào nhau.. Ngoài các yếu tố chung của văn hóa làng
Việt, văn hóa làng nghề có một số yếu tố đặc thù, như nhịp sống làng nghề, tâm lý và
tính cách của người làng nghề…
Căn cứ các yếu tố trên, Đề tài nghiên cứu Biến đổi văn hóa làng dệt Phương
La (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) đã phân tích, lý giải các vấn đề sau: 1/Tổng
quan làng dệt Phương La; 2/ Nghề dệt và văn hóa vật chất làng Phương La hiện nay;
3/Văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La hiện nay; 4/ Những
vấn đề rút ra từ việc nghiên cứu biến đổi văn hóa làng dệt Phương La.
2. Từ 1986, với đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước; các hộ gia đình trở lại
vai trò là đơn vị kinh tế tự chủ. Sự thay đổi này cùng với sự biến đổi tự thân của cuộc
sống đã tác động sâu sắc đến các nghề thủ công của làng. Đặc biệt, công cụ sản xuất
được người Phương La cải tiến, đổi mới, đáp ứng nhu cầu khách hàng về sản phẩm.
Vì thế, sản phẩm của làng dệt Phương La đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thành trong
KẾT LUẬN
nước và ở nhiều nước khác trên thế giới. Từ khoảng 1990, làng nghề Phương La có
nhiều bước phát triển mới. Đặc biệt, với sự năng động, dám nghĩ, dám làm cùng quyết
tâm nuôi khát vọng làm giàu của người Phương La; các công ty, doanh nghiệp xuất
hiện ngày một nhiều, làm cho nghề, làng nghề Phương La càng giàu có. Không đơn
giản vì đời sống kinh tế khá giả mà ở làng dệt Phương La không còn hộ nghèo, hộ giàu
chiếm tới 70%, nhiều tỷ phú nổi lên. Nơi đây đã hình thành nhiều ông chủ các công ty,
doanh nghiệp; tạo công ăn việc làm, mang lại nguồn thu nhập cao cho người dân và
đóng góp không nhỏ vào ngân sách địa phương.
3. Quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa, nhất là kinh tế phát triển đã tác động
đến đời sống văn hóa - xã hội của làng, đặt ra hàng loạt những thách thức cho sự phát
triển văn hóa của làng nghề. Môi trường cảnh quan biến đổi, một số vấn đề văn hóa
truyền thống bị mai một. Sự ra đời các công ty, doanh nghiệp đã hình thành tầng lớp
chủ doanh nghiệp ở Phương La với nhiều các mối quan hệ mới. Vốn là làng cổ, các
dòng họ về sinh sống đã được nhiều đời, ngày một đông, cộng thêm sự tác động của
các yếu tố kinh tế, những ông chủ doanh nghiệp nhiều tiền muốn khẳng định mình...
đã dẫn đến việc tách họ, xây nhà thờ mới. Đời sống người dân no ấm, công ăn việc
làm ổn định cũng giúp giảm thiểu các tệ nạn xã hội; tuy nhiên, lượng người đến làm
thuê ở làng mỗi năm một tăng, cộng với sự quá tải về vận chuyển hàng hóa, lưu
thông... cũng sẽ gây những khó khăn, phức tạp về an ninh trật tự cho làng. Có tiền,
các di tích luôn được người dân quan tâm tu bổ, tôn tạo; các chủ doanh nghiệp đóng
góp công đức rất lớn. Công đức được quy ra bằng vàng. Nhờ vậy, các di tích ở
Phương La đều rất quy củ và đẹp đẽ. Nhưng việc công đức với số tiền lớn, quy bằng
vàng và ghi danh không theo thứ tự người tâm đức trước ghi trước mà thường là
những người có nhiều tiền, vàng mới được ghi. Điều này, không đúng với truyền
thống của cha ông ta. Làm nghề, phải đáp ứng nhu cầu khách hàng, nơi tiêu thụ sản
phẩm; đã tạo cho người dân nơi đây có tác phong công nghiệp, lối sống gần với
người thành thị. Tuy nhiên, nó cũng làm cho con người ít có thời gian, điều kiện để
tham gia các hoạt động xã hội, quan tâm tới các điều kiện sống liên quan trực tiếp tới
họ. Mặc dù có nhiều thay đổi từ môi trường, không gian sống, mức sống, xã hội, văn
hóa tinh thần song tính cố kết cộng đồng ở Phương La vẫn bền chặt, trật tự của dòng
145
họ, làng xã vẫn được giữ vững… Từ những vấn đề đã trình bày ở trên, Luận án đưa
ra một số giải pháp, bước đi thích hợp giúp các làng nghề phát triển bền vững trong
điều kiện Công nghiệp hóa - hiện đại hóa và đô thị hóa: cần thấy rõ những tác động
tiêu cực của biến đổi văn hóa làng dệt Phương La thời gian qua; dự báo xu hướng
biến đổi văn hóa làng dệt Phương La những năm tiếp theo; các nhóm giải pháp để
bảo vệ, phát huy giá trị văn hóa làng dệt Phương La, bao gồm: nhóm giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động xây dựng ĐSVH ở cơ sở (nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật cho người dân; cần phải có biện pháp mạnh để ngăn chặn, phòng ngừa sự gia
tăng của các tệ nạn xã hội; tăng cường các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao),
nhóm giải pháp phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của làng nghề (bảo tồn các
giá trị văn hóa truyền thống; phát triển làng nghề kết hợp với phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống để phát triển du lịch) và nhóm giải pháp về phát triển nghề
(quy hoạch làng nghề, tạo điều kiện mở rộng mặt bằng sản xuất; hoàn thiện hệ thống
giao thông, cung cấp điện, nước, giải quyết triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường; xây
dựng đội ngũ doanh nhân - yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển nghề).
4. Những kết luận trên được rút ra từ thực tế nghiên cứu, tìm hiểu và phân
tích về biến đổi văn hóa làng dệt Phương La. Luận án đã chỉ ra biến đổi của nghề
dệt truyền thống, những vấn đề nổi bật về văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của
làng dệt Phương La hiện nay. Chắc chắn, văn hóa và sự biến đổi văn hóa của làng
dệt Phương La còn biểu hiện ở nhiều chiều cạnh khác nữa dưới tác động của quá
trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế, văn hóa với thế giới… tác giả luận án sẽ tiếp
tục tìm hiểu và nghiên cứu trong thời gian tới.
Trong điều kiện hiện nay, các làng nghề nói chung, làng nghề Phương La nói
riêng đang từng bước hội nhập - đổi mới - chuyển mình “từ làng lên phố”, có nhiều
thuận lợi song cũng không ít những khó khăn, thách thức. Vì vậy các cấp chính
quyền, mỗi chúng ta cần góp phần tìm hiểu, nghiên cứu có những định hướng phù
hợp để các làng nghề vừa phát triển kinh tế nhanh mạnh, vừa gìn giữ, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc và giúp người dân có đời sống tinh
thần tương xứng với đời sống kinh tế ngày một cao.
146
147
1. A.A. RADUGHIN (Chủ biên, 2004), Văn hóa học - Những bài giảng, bản dịch
của Vũ Đình Phòng, Viện Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. Đặng Nguyên Anh (1999), “Di dân và quản lý di dân trong giai đoạn phát triển mới:
một số suy nghĩ từ góc độ nghiên cứu”, Tạp chí Xã hội học số 3 và số 4.
3. Đặng Nguyên Anh, Cecilia Tacoli, Hoàng Xuân Thành (2004), Ly hương, bất ly
nông, làm thủ công nghiệp tại làng, Nxb Thế giới, Hà Nội.
4. Toan Ánh (1992), Nếp cũ làng xóm Việt Nam, tái bản, Tp. Hồ Chí Minh.
5. F. Ăng - ghen (1995), Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà
nước, C.Mác và Ph.Ăng - ghen toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình
(1927 - !954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hưng Hà (2002), Lịch sử Đảng bộ huyện Hưng
Hà (1927 - !954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hưng Hà (2006), Lịch sử Đảng bộ huyện Hưng
Hà (1930 - 2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Thái Phương (2002), Lịch sử Đảng bộ xã Thái Phương
(1927 - !954), Bản đánh máy, lưu tại văn phòng UBND xã Thái Phương.
10. Nguyễn Duy Bắc (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong xây dựng nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ điển Bách Khoa và Viện
Văn hóa, Hà Nội.
11. Phan Gia Bền (1957), Sơ khảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam,
Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.
12. Nguyễn Văn Bính (2003), Giao tiếp và ứng xử với tư cách là thành tố của văn
hóa trong hoạt động kinh doanh thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện Văn hóa thông tin, Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
13. Phan Kế Bính (2003), Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
14. Trần Văn Bính (Chủ biên, 1998), Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Phương Châm (2009), Biến đổi văn hoá ở các làng quê hiện nay,
Nxb Văn hoá thông tin, Viện Văn hoá.
16. Phong Châu, Nguyễn Quang Vinh, Nghiêm Đa Văn (1977), Truyện các ngành
nghề, Nxb Lao động, Hà Nội.
17. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
18. Đinh Thị Vân Chi (2012), Văn hóa kinh tế làng nghề: thách thức và giải pháp
trong bối cảnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Báo cáo Đề tài cấp bộ,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
20. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
21. Chrstophe Gironde (2002), Kinh tế hộ gia đình: 10 năm thay đổi ngành nghề tại
các xã nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế lần
thứ nhất, Hà Nội - 1998, tập III, Nxb Thế giới, Hà Nội.
22. Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng (Chủ biên, 1997), Xã hội học, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
23. Bùi Thị Dung (2012), "Văn hóa làng nghề Thái Bình trong tiến trình xây dựng
nông thôn mới", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (339), tr. 68-70.
24. Phan Đại Doãn (1996), Quản lý xã hội nông thôn Việt Nam hiện nay, một số
vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Phan Đại Doãn (2000), Làng xã Việt Nam, một số vấn đề kinh tế - xã hội - văn
hoá, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
26. Phan Đại Doãn (2006), Làng Việt Nam Đa nguyên và Chặt, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
148
27. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hoá đến văn hoá học, Viện Văn hóa và Nxb
Văn hóa - thông tin, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghi lần thứ Năm Ban Chấp
hành trung ương Khóa VIII, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện hội nghi lần thứ Chín Ban Chấp
hành trung ương Khóa XI, Hà Nội.
30. Bùi Xuân Đính (2005), “Một số ý kiến về văn hóa làng nghề tỉnh Bắc Giang”, trong
Di sản văn hóa Bắc Giang, Bảo tàng Bắc Giang xuất bản, tr. 264- 282.
31. Bùi Xuân Đính (Chủ biên, 2009), Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà
Nội) - truyền thống và biến đổi, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Bùi Xuân Đính (2012), Các tộc người ở Việt Nam, Nxb Thời đại, Hà Nội.
33. Bùi Xuân Đính (Chủ biên, 2013), Bát Tràng - làng nghề, làng văn, Nxb Hà Nội.
34. Bùi Xuân Đính, Bài giảng về văn hóa nông thôn cho học viên cao học Trường
Đại học Văn hóa Hà Nội.
35. Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí, Thư viện Khoa học tổng hợp tỉnh Thái Bình.
36. Lê Quý Đức (2005), Vai trò của văn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa -
hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb
Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
37. Phạm Duy Đức (1998), Thực trạng văn hoá trong quá trình đô thị hóa ở Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Ngô Văn Giá (Chủ biên, 2007), Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền thống
ở các làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
39. Piérre Gourou (2003), Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, bản dịch, Hội khoa
học Lịch sử Việt Nam, Trường Viễn Đông Bắc cổ, Nxb Trẻ thành phố
Hồ Chí Minh.
149
40. Mai Văn Hai (Chủ biên, 2005), Xã hội học văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
41. Trương Minh Hằng (2006), Gốm sành nâu ở Phù Lãng, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
42. Trương Minh Hằng (Chủ biên, 2012), Tổng quan về nghề và làng nghề truyền
thống ở Việt Nam, Tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
43. Đỗ Thị Hảo (1989), Quê gốm Bát Tràng, Nxb Hà Nội.
44. Đỗ Thị Hảo (1991), Làng Vó và nghề đúc đồng truyền thống, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội
45. Diệp Đình Hoa (Chủ biên, 2000), Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
46. Diệp Đình Hoa (2003), Những con đường khám phá, Bảo tàng Việt Nam xuất bản.
47. Lê Như Hoa (Chủ biên, 1996), Xã hội hóa và sự nghiệp phát triển văn hóa, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
48. Lê Như Hoa (Chủ biên, 1997), Bản lĩnh văn hoá Việt Nam một hướng tiếp cận,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
49. Lê Như Hoa (2000), Quản lý văn hóa đô thị trong điều kiện đô thị hóa, hiện đại
hóa đất nước, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
50. Lê Như Hoa (2003), Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong lôi sống hiện đại,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
51. Nguyễn Thị Tô Hoài (2009), Làng Cọi Khê: Truyền thống và đổi mới, Luận văn
Thạc sĩ Việt Nam học, trường Đại học quốc gia Hà Nội.
52. Tăng Bá Hoành (1984, 1987), Nghề cổ truyền, Sở Văn hoá Thông tin Hải Hưng
và Ban Thông sử Hải Hưng, 2 tập.
53. Mai Thế Hởn (Chủ biên, 2003), Phát triển làng nghề truyền thống trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
54. Tô Duy Hợp (1997), Xã hội học nông thôn - tài liệu tham khảo nước ngoài, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
150
55. Tô Duy Hợp (1997), Ninh Hiệp truyền thống và phát triển, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
56. Tô Duy Hợp (2000), Phát triển cộng đồng - lý thuyết và vận dụng, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
57. Tô Duy Hợp (chủ biên, 2003), Định hướng phát triển làng - xã đồng bằng sông
Hồng ngày nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
58. Phạm Nguyên Hợp (1928), Tiên Hưng Phủ chí, bản dịch, Văn bản ký hiệu
A.3167, hiện lưu giữ tại Viện Văn hóa, Hà Nội.
59. Hội folklore châu Á (2006), Giá trị và tính đa dạng của folklore châu Á trong
quá trình hội nhập, Nxb Thế giới, Hà Nội.
60. Nguyễn Lan Hương (2009), Nghề sơn quang Cát Đằng (truyền thống và biến
đổi), Luận án Tiến sĩ, Viện Nghiên cứu văn hoá.
61. Nguyễn Thanh Hương (2011), „„Những biến đổi ở làng nghề Sơn Đồng, Hoài
Đức, Hà Nội‟‟, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (7),tr.56-58.
62. Trần Đình Hượu (1994), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa, Tái bản có
bổ sung, Hà Nội.
63. Đinh Gia Khánh - Lê Hữu Tầng (Chủ biên, 1994), Lễ hội truyền thống trong đời
sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
64. Vũ Ngọc Khánh (1991), Lược truyện thần tổ các ngành nghề, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
65. Nguyễn Đình Khang (biên dịch), Chú thích về tỉnh Thái Bình (“Notice sur la -
Province de Thái Bình”), ký hiệu M.10372, lưu tại Thư viện quốc gia,
Hà Nội.
66. Lam Khê, Khánh Minh (sưu tầm) (2010), 36 làng nghề Thăng Long, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
67. Khoa Nhân học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí
Minh (2008), Nhân học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia tp. Hồ Chí Minh.
151
68. Vũ Văn Khiên (1997), Bài giảng. Một số vấn đề điều tra chọn mẫu, Nxb Đại
học Thống kê, Hà Nội.
69. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người, Môi trường và Văn hóa, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
70. Nguyễn Thái Lai (2002), Làng tranh Đông Hồ, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
71. Phan Huy Lê (Chủ biên, 1995), Gốm Bát Tràng thế kỷ XV- XIX, Nxb Thế giới,
Hà Nội.
72. Phan Huy Lê (1997), Địa bạ Thái Bình, Nxb Thế giới, Hà Nội.
73. Thanh Lê (1999), Văn hóa và lối sống hành trang vào thế kỷ 21, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
74. Ngô Vi Liễn (1999), Tên làng xã và địa danh các tỉnh Bắc Kỳ, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội
75. Phạm Ngọc Liên (Chủ biên, 2000), Từ điển phổ thông ngành nghề truyền thống,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
76. Tạ Long (Chủ biên, 2008), Sự phát triển của làng nghề La Phù, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
77. Trịnh Duy Luân (2005), Xã hội học đô thị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
78. Trịnh Duy Luân (Chủ biên, 2006), Biến đổi xã hội ở Việt nam trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa (qua nghiên cứu nhóm doanh
nhân), Đề tài khoa học của Viện Xã hội học.
79. Lê Hồng Lý (Chủ biên, 2000), Văn hóa truyền thống làng Đồng Kỵ, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
80. Trần Ngọc Ngoạn (2008), Phát triển nông thôn bền vững: những vấn đề lý luận
và kinh nghiệm thế giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
81. Nguyễn Quang Ngọc (1998), Cơ cấu xã hội trong quá trình phát triển của lịch
sử Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
152
82. Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
83. Hoàng Trọng Phu (1932), Các nghề thủ công ở Hà Đông, tài liệu đánh máy, lưu
tại Thư viện Viện Dân tộc học.
84. Vũ Huy Phúc (1996), Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam (1858 – 1945), Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội
85. Dương Bá Phượng (2001), Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
86. Lương Hồng Quang (Chủ biên, 2011), Câu chuyện làng Giang (các khuynh
hướng, giá trị và khuôn mẫu trong một xã hội đang biến đổi), Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
87. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, Nxb
Thuận Hoá, Huế, tập 3.
88. Nguyễn Thị Sáu (2002), Làng thêu Quất Động, Luận văn Thạc sĩ Văn hoá học,
Trường Đại học Văn hoá Hà Nội.
89. Sở Văn hoá -Thông tin Thái Bình (1989), Ngàn năm đất và người Thái Bình, xuất
bản tại Thái Bình.
91. Sở Văn hoá - Thông tin Thái Bình (2006), Nghiên cứu nhằm bảo tồn và phát
huy giá trị văn hoá trong một số nghề thủ công truyền thống tiêu biểu ở
Thái Bình, Báo cáo đề tài khoa học cấp ngành.
92. Đặng Kim Sơn (Chủ biên, 2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam -
hôm nay và mai sau, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
93. Đặng Kim Sơn (2008), Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông
dân trong quá trình công nghiệp hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
94. Nguyễn Văn Sửu (2010), “Khung sinh kế bền vững: một cách phân tích toàn diện
về phát triển và giảm nghèo”, Tạp chí Dân tộc học, số 2.
153
95. N.N Tsebốcxarốp và IL. N.N Tsebốcxarôva (1975), “Văn hóa là gì”, Tạp chí
Dân tộc học, số 01, (tr. 89 - 90).
96. Hùng Thắng, Thanh Hương, Bàng Cẩm (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Thanh
Niên, Hà Nội.
97. Nguyễn Thanh (1998), Nhận diện văn hoá làng Thái Bình, Sở Văn hóa Thông
tin - Thể thao Thái Bình xuất bản.
98. Nguyễn Thanh (2000), Lễ hội truyền thống ở Thái Bình, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
99. Nguyễn Thanh, Phạm Minh Đức, Bùi Duy Lan (2005), Địa danh Thái Bình trong
lịch sử, Sở Văn hóa Thông tin - Thể thao Thái Bình xuất bản.
100. Nguyễn Thanh, Nguyễn Quang Ân (Chủ biên), Tài liệu địa chí Thái Bình tập
1(2006), tập 2,3 (2007),tập 4 (2008), Trung tâm UNESCO thông tin tư
liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam xuất bản, Hà Nội.
101. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
102. Lê Đức Tiết (1998), Về hương ước lệ làng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
103. Bùi Thọ Ty, Nguyễn Đình Giốc (1990), Tên làng xã ở Thái Bình, Sở Văn hóa
Thông tin - Thể thao Thái Bình xuất bản.
104. Vũ Quốc Tuấn (Chủ biên, 2010), Làng nghề phố nghề Thăng Long - Hà Nội
trên đường phát phát triển, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
105. Vũ Quốc Tuấn (2011), Làng nghề trong công cuộc phát triển đất nước, Nxb
Tri Thức, Hà Nội.
106. Vũ Từ Trang (2007), Nghề cổ đất Việt, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
107. Nguyễn Trãi (1975), Toàn tập, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
108. Vũ Diệu Trung (2013), Sự biến đổi văn hóa làng nghề ở châu thổ sông Hồng
từ năm 1986 đến nay, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, lưu tại Viện Văn hóa
nghệ thuật Việt Nam.
154
109. UBND tỉnh Thái Bình (2004), Báo cáo sơ kết 2 năm tiếp tục thực hiện nghị
quyết 01 của BTV tỉnh uỷ về phát triển nghề và làng nghề (2002-2003),
ngày 15 tháng 9 năm 2004, lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Thái Bình.
110. UBND tỉnh Thái Bình (2006), Quyết định số 29/2006/QĐ-UBND, ngày 31
tháng 3 năm 2006 "Quyết định V/v Ban hành Quy định tiêu chuẩn làng
nghề", lưu tại Văn phòng UBND tỉnh Thái Bình.
111. UBND tỉnh Thái Bình - Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2006), Hoằng Nghị
đại vương và việc bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử - văn hoá Phương
La, Kỷ yếu hội thảo.
112. UBND huyện Hưng Hà (2007), Đề án xây dựng cụm CN - TM - DV xã, thị trấn
2006 - 2010, bản đánh máy, lưu tại Văn phòng UBND huyện Hưng Hà.
113. UBND huyện Hưng Hà (2007), Đề án tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp huyện Hưng Hà giai đoạn 2006 - 2010, bản
đánh máy, lưu tại Văn phòng UBND huyện Hưng Hà.
114. Lưu Thị Tuyết Vân (1995), "Một số vấn đề về làng nghề ở nước ta hiện nay",
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử , (5), tr. 63-71.
115. Viện Sử học (1977), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, tập 1.
116. Viện Sử học (1990), Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại, Nxb Khoa
học xã hội, Hà nội.
117. Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên, 1998), Một số vấn đề lý luận văn hóa trong thời
kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
118. Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên, 1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
văn hóa ở nước ta, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
119. Hoàng Vinh (Chủ biên, 1999), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
văn hóa ở nước ta hiện nay, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
155
120. Bùi Văn Vượng (1998), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, Nxb Văn
hoá dân tộc, Hà Nội.
121. Trần Quốc Vượng (Chủ biên, 1996), Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và
các vị tổ nghề, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
122. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn
hoá dân tộc, Hà Nội.
123. Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2000), Làng nghề, phố nghề Thăng Long- Hà
Nội, Bộ VHTT và Trung tâm triển lãm văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Hà
Nội.
124. Trần Minh Yến (2004), Làng nghề truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
125. Đỗ Ngọc Yến (2015), Biến đổi làng nghề thủ công truyền thống Triều Khúc,
xã Tân Triều, huyện Thanh trì, thành phố Hà Nội, Luận án tiến sĩ Nhân học,
Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
156
157
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Bùi Thị Dung (2012), “Phát triển làng nghề gắn với du lịch”, Tạp chí Tiêu chuẩn
đo lường chất lượng, (11+12), tr.36.
2. Bùi Thị Dung (2012), “Văn hóa làng nghề Thái Bình trong tiến trình xây dựng
nông thôn mới”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (339), tr. 68-70.
3. Bùi Thị Dung (2015), “Về tầng lớp chủ doanh nghiệp ở Phương La”, Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, (371), tr.39-44.
4. Bùi Thị Dung (2015), “Nét tính cách của người làng dệt Phương La”, Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, (372), tr.104-107.
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
158
TT
Nguồn
Trang
Nội dung
Tác giả luận án
159
1 Phụ lục 1: Các phường hội của làng Phương La
ngày nay
Tác giả sưu tầm
163
2 Phụ lục 2: Phong tục liên quan đến sinh nở của
người làng Phương La xưa
Tác giả sưu tầm
165
3 Phụ lục 3: Quy trình sản xuất khăn mặt
UBND xã
166
4 Phụ lục 4: Danh sách các công ty, doanh nghiệp lớn ở
Phương La
Thái Phương
UBND xã
168
5 Phụ lục 5: Danh sách các doanh nghiệp, cá nhân
công đức tu bổ các di tích ở Phương La
Thái Phương
Tác giả luận án
173
6 Phụ lục 6: Danh sách những người cung cấp thông
tin
Tác giả tham
174
7 Phụ lục 7: Mẫu phiếu điều tra xã hội học và kết quả
xử lý phiếu điều tra
khảo mẫu phiếu
điều tra
Tác giả luận án
258
8 Phụ lục 8: Một số ảnh tư liệu
chụp năm 2014
MỤC LỤC CỦA PHỤ LỤC
159
Phụ lục 1
CÁC PHƢỜNG HỘI CỦA LÀNG PHƢƠNG LA NGÀY NAY
Xưa, làng Phương La cũng có các tổ chức phường hội như hội tư văn của
những người có học, có chức; hội tư võ của những người đi lính, hội lão nhiêu của
những người 60 tuổi trở lên… Ngoài ra, còn có các phường nghề, phường tiền.
Những phường này lập ra nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống.
Hiện nay, Phương La có rất nhiều các hội. Một trong những hội được xếp
vào bậc đầu của làng là hội sinh vật cảnh. Cả bốn thôn đều có Hội sinh vật cảnh.
Theo ông Nguyễn Văn Xã (sinh năm 1960), hiện đang là thành viên Ban chấp hành
Hội cho biết, tổng số hội viên hiện nay khoảng trên 90 người. Nguyên tắc kết nạp
vào Hội rất đơn giản, người muốn vào Hội làm đơn, đóng quỹ một lần 200.000
đồng. Điều quan trọng là, đã xin vào hội thì bản thân người đó phải có một số cây
cảnh nhất định và thực hiện quy định của Hội về tham gia các hoạt động trưng bầy,
hội họp… Các hội viên chủ yếu là những người có điều kiện kinh tế khá giả, ham
mê, có thú chơi cây cảnh ở mọi tầng lớp, mọi thành phần từ doanh nghiệp, chủ công
ty, người dân làm nghề… Nhiều cây cảnh của hội viên có giá trị lên tới hàng tỷ
đồng. Thông thường, mỗi năm Hội tổ chức trưng bày cây cảnh một lần vào tháng
Giêng, đây là tháng mà các hội viên ít bận mải công việc, làm ăn. Như dịp Tháng
giêng năm 2014, cây cảnh được bầy chỉ là những cây có trị giá từ 200 triệu đồng trở
xuống, không phải không có cây giá trị hơn mà hội viên chỉ trưng bày những cây
tầm tiền vậy, ai có nhu cầu ngắm cây giá trị hơn thì về cơ sở của hội viên. Hoạt
động của hội không chỉ thuần túy là thưởng ngoạn, trao đổi, mua bán cây cảnh mà
qua đó, các doanh nghiệp, người làng nghề có điều kiện giới thiệu, quảng bá về
công ty, xí nghiệp, cơ sở sản xuất và sản phẩm của mình.
Hội thứ hai cần được nói đến là Hội khuyến học ở Phương La rất phát triển,
bao gồm Hội khuyến học của Làng, của bốn thôn (Phương La 1, 2, 3, 4) và Hội
khuyến học của các dòng họ. Mỗi dòng họ có một hội khuyến học với số kinh phí
rất lớn. Hội khuyến học của dòng họ một năm tổ chức ít nhất hai lần vào dịp Trung
thu và đầu năm học mới, nhằm tuyên dương, khuyến khích các cháu trong dòng họ học
tập đạt kết quả cao nhất. Ngoài ra, hội còn tổ chức khen thưởng đột xuất cho con em
trong dòng họ học tập, công tác đỗ đạt. Đặc biệt, riêng làng Phương La còn có khuyến
học tại gia. Nhiều gia đình, tự mở quỹ khuyến học để chủ động khen thưởng, động viên
con cháu trong gia đình, dòng họ học tập, đỗ đạt cao.
Hội người cao tuổi do cụ Trần Văn Nguyệt (sinh năm 1930) đang sống tại
thôn Phương La 2 là chủ tịch Hội, có 420 hội viên. Mỗi thôn là một chi hội. Tiêu
chí kết nạp hội viên thực hiện theo quy định điều lệ chung của Hội cấp xã. Những
người từ 60 tuổi trở lên, tự nguyện làm đơn sẽ được kết nạp vào Hội. Cả bốn chi hội
có tổng quỹ khoảng 60 triệu. Hằng năm, theo điều lệ Hội, ba tháng tổ chức sinh
hoạt một lần; các ngày: 01/10, 6/6, 19/5 các hội tổ chức sinh hoạt và tham gia các
hoạt động của xã, của địa phương. Đặc biệt nhất là ngày mùng bốn tháng Giêng
thực sự là ngày hội của người cao tuổi, ngày hội xuân và mừng thọ các cụ. Đường
làng, ngõ xóm tấp nập, con cháu các gia đình có người được mừng thọ tổ chức lễ
mừng thọ cho ông bà, bố mẹ linh đình, thậm chí có nhà ăn cỗ đến hàng vài chục
mâm. Hội người cao tuổi của làng đã đóng góp tích cực vào cùng với chính quyền
địa phương tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, các cụ gương mẫu, nuôi dạy con cháu thảo hiền.
Câu lạc bộ dưỡng sinh Kinh lạc của làng Phương La do cụ Đoàn Thúy Tình
- thôn Phương La 2 (sinh năm 1937) là chủ nhiệm Câu lạc bộ cũng rất phát triển,
tổng số có trên dưới 70 người. Câu lạc bộ được thành lập khoảng ba năm trở lại đây.
Việc kết nạp hội viên rất đơn giản, chủ yếu là những người yêu thích câu lạc bộ, có
tinh thần luyện tập sẽ được nhập hội, không phân biệt tuổi tác, giới tính... Thời kỳ
đầu, có hội viên của đoàn dưỡng sinh công ty Dưỡng sinh kinh lạc về hướng dẫn
hội viên tập luyện, sau đó, hội tự duy trì và phát triển đến bây giờ. Hàng ngày, các
cụ tập luyện đều đặn tại sân cạnh đình Đông, trời ấm các cụ tập buổi sáng, rét, tập
vào buổi chiều, mỗi buổi tập khoảng 40 phút. Cứ đến ngày 1/10 hằng năm, xã tổ
chức cho các câu lạc bộ dưỡng sinh tham gia biểu diễn. Câu lạc bộ của làng Phương
La trong bộ đồng phục trắng, trông ai cũng mạnh khỏe, yêu đời và luôn dược đánh
160
giá cao trong các kỳ hội diễn. Những người chăm chỉ luyện tập được xã, Hội tuyên
dương, nhân ngày Hội người cao tuổi thì được xã biếu suất quà trị giá vài chục
nghìn đồng. Tuy giá trị vật chất không lớn nhưng đã động viên về tinh thần hội viên
rất cao.
Câu lạc bộ văn nghệ của làng hoạt động rất mạnh, chủ yếu tập trung biểu
diễn hát, múa chèo và hát mới. Câu lạc bộ này có sự tham gia của nhiều tầng lớp,
lứa tuổi khác nhau. Tiêu chí chủ yếu đặt ra là những người đam mê, có chút khả
năng hát múa. Câu lạc bộ thường xuyên tập luyện và biểu diễn phục vụ hoạt động
của làng xã, cho các dòng họ…
Làng Phương La có bốn chi Hội cựu chiến binh của bốn thôn. Thôn Phương
La 1, do ông Trần Xuân Dương làm chủ tịch và có 36 hội viên. Hội của Phương La
2, do ông Đào Hồng Quân là chủ tịch, có 35 hội viên. Phương La 3, do ông Nguyễn
Văn Xá làm chủ tịch và có 15 hội viên. Ông Đào Văn Tuấn là Chủ tịch Hội cựu
chiến binh của Phương La 4, có 26 hội viên. Những người được kết nạp vào Hội
phải có đủ tiêu chuẩn và được trên 50% hội viên nhất trí (bầu bằng hình thức bỏ
phiếu kín). Các chi hội đều thực hiện theo quy chế của Hội cựu chiến binh xã: tiền
hội phí, mỗi người đóng 2.000 đồng/tháng, sinh hoạt mỗi quý một lần; Ban chấp
hành hội, sinh hoạt tháng một lần. Theo điều tra của chúng tôi, hiện nay bình quân
chia đầu người thì mỗi hội viên của Phương La có 600.000 đồng trong quỹ Hội,
ngoài ra, Hội còn có một số khoản kinh phí khác. Số tiền này, các chi hội tạo điều
kiện cho những hội viên có hoàn cảnh khó khăn, có nhu cầu vay phát triển kinh tế
gia đình. Tiền lãi đó lại được nhập vào quỹ dùng để thăm hỏi, chia vui sẻ buồn cho
các hội viên.
Tại Phương La hiện có một Hội nạn nhân chất độc da cam, trên dưới mười
người. Hội thành lập nhằm động viên tinh thần, giúp đỡ các hội viên vươn lên trong
cuộc sống.
Làng có một câu lạc bộ võ thuật, tập hợp các thanh niên trong làng, có sức
khỏe, ham mê võ thuật. Câu lạc bộ phối hợp với Trung tâm Giáo dục Thanh thiếu
161
niên của Tỉnh thường xuyên mời những người có khả năng võ thuật về để hướng
dẫn, luyện tập cho hội viên. Có sự tài trợ của các doanh nghiệp hảo tâm, tháng hai
vừa qua, câu lạc bộ đã được tham gia biểu diễn, thi thố tài năng tại Trung tâm
thương mại của Tập đoàn Hương sen ở làng Phương La.
Tất cả các hội của làng Phương La đều có quy chế hoạt động, có tiêu chí kết
nạp hội viên, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Thật sự các hội này đã
góp phần tạo thêm mối đoàn kết, gắn bó, yêu thương, tương trợ lẫn nhau trong cộng
đồng làng xã.
Ngoài các hội nói trên, ở làng Phương La còn hình thành một loại hình tổ
chức “tổ hợp”- một công đoạn trong tổ chức sản xuất. Mặc dù kinh tế của làng nghề
Phương La, xã nghề Thái Phương phát triển mạnh, đời sống nhân dân không ngừng
được nâng cao. Nhưng việc phát triển của xã nghề cũng không ảnh hưởng hoặc tác
động mạnh tới cơ cấu tổ chức của làng Phương La. Tuy nhiên làng nghề Phương La
(xã, nghề Thái Phương) trong sản xuất kinh doanh hàng tiểu thủ công nghiệp tiêu
biểu là nghề dệt đã ít nhiều có sự thay đổi đối với các hộ làm nghề dệt. Đó là việc
hình thành các tổ hợp để giao nguyên liệu và sản xuất hàng dệt cho các công ty,
doanh nghiệp hoặc tự bản thân ông chủ tổ hợp ký hợp đồng xuất khẩu. Không chỉ
có người từ địa phương khác tới nhận hàng tại các tổ hợp ở làng Phương La mà
ngay tại 21 xã có các hộ nhận hàng dệt về sản xuất cũng xuất hiện nhiều tổ hợp lao
động gia công hàng dệt, may cắt xén tẩy nhuộm hàng dệt khăn xuất khẩu cho các
ông chủ ở làng Phương La. Việc hình thành các tổ hợp sản xuất trong làng, trong xã
đã tạo thêm sự đoàn kết gắn bó giữa các thành viên trong tổ hợp với nhau. Việc các
hộ thành viên, hộ gia đình tập trung vào sản xuất hàng dệt đã góp phần không nhỏ
tới việc giảm bớt các tai tệ nạn xã hội ở xã Thái Phương, trật tự xã hội ở các làng xã
làm vệ tinh dệt hàng cho người làng Phương La. Mặt khác, thu nhập từ nghề dệt đã
giúp cho người dân Phương La và những người lao động làm thuê ngày một tăng rõ
rệt, góp phần ổn định, nâng cao đời sống nhân dân trong làng, trong xã và trong
huyện Hưng Hà.
162
163
Phụ lục 2
PHONG TỤC LIÊN QUAN ĐẾN SINH NỞ
CỦA NGƢỜI LÀNG PHƢƠNG LA XƢA
xã Phương La” được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Văn bản được lập vào
ngày 22 tháng Năm năm Tự Đức thứ 34 (1881), gồm 19 điều, trong đó có 13 điều
liên quan đến việc tang (việc hiếu). Những phong tục, tập quán trên được dân làng
Phương La quy định và thực hành chặt chẽ như bao làng quê khác.
Xưa kia, ở Phương La, đứa trẻ sinh ra, nếu là con trai thì gia đình phải sửa lễ
ra đình trình hàng giáp, các cụ phụ trách sổ đinh của làng nhận lễ vật trình thánh rồi
ghi tên đứa trẻ vào sổ đinh của làng, giáp. Đứa trẻ được tính suất đinh, là một thành
viên trong cộng đồng làng và mọi quyền lợi, nghĩa vụ của xuất đinh đó được tính
ngay từ thời điểm này. Ngày nay, người dân ở đây hầu hết là theo đạo Phật (có tới
trên 300 người là phật tử), khi đứa trẻ được sinh ra, dù trai hay gái thì các gia đình
đều tổ chức cúng mụ cho đứa trẻ.
Xưa kia, trong cảnh nghèo nàn, lạc hậu, người phụ nữ nông dân Thái Bình,
trong đó có người làng Phương La nuôi con bằng rất nhiều kinh nghiệm, bằng các
tập tục và cả những điều mê tín dị đoan. Những điều kiêng kị cho người mang thai,
chủ yếu chỉ kiêng ăn, kiêng ăn hoa chuối để tránh đẻ ngược; không kiêng làm "Đẻ
con so làm cho láng giềng". Làng Phương La, kiêng bà chửa đi đám cưới, vì sợ trẻ
bị sài đẹn. Làng Phương La cũng có vài bà già quen đỡ đẻ. Bà đỡ đẻ thường dùng
nứa hoặc liềm, hái cắt rốn cho hài nhi. Người Phương La xưa quan niệm, tính tình
đứa bé phụ thuộc rất nhiều vào tính tình người cắt rốn, chôn nhau cho nó. Mới lọt
lòng mẹ, trẻ phải được mặc hoặc quấn bằng đồ cũ đã dùng rồi. Nhận trẻ từ tay bà đỡ
cũng phải là người khoẻ mạnh, phàm ăn, tốt tính. Khi tắm cho trẻ thường dùng nước
chè tươi để nguội để da trẻ săn, ít mụn nhọt, hoặc dùng lá hòe, lá khế để tắm cho trẻ
đỡ mọc rôm. Gia đình có con sinh đôi một trai một gái, phải làm lễ cưới cho hai đứa
trẻ thành vợ chồng để mong trẻ sống lâu, khỏe mạnh. Bà đẻ phải kiêng khem rất
Các phong tục tập quán của làng Phương La được ghi chép trong bản “Tục lệ
chặt chẽ, ở trong buồng kín gió, có gai mây, cành dâu để kị ma tà, vía độc; không
nhanh mồm hỏi trước người đến thăm, tránh sau này nói nhịu.
Đứa trẻ sinh phải giờ xấu, khó nuôi thì phải bán vào cửa chùa làm con Phật,
con Thánh đến mười hai tuổi mới làm lễ chuộc về làm con mình. Khi đặt tên cho
trẻ, thường đặt tên xấu để trẻ dễ nuôi. Nhiều gia đình, đẻ con năm nào thì lấy tên
năm đó đặt cho con như Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi,... Trẻ 6 tuổi trở lên là
đến tuổi đi học. Ngay từ những năm hai mươi của thế kỷ XX, hầu hết các hương
ước của làng xã Thái Bình đã có tinh thần khuyến học, quy định trẻ từ 6 tuổi thì cha
mẹ phải cho con đến trường. Phải cho con gái đi học để mở mang trí tuệ, hiểu biết
lễ nghi để làm tròn bổn phận làm dâu khi xuất giá. Nhưng trong điều kiện sống vô
cùng khó khăn, đa số trẻ em làng Mẹo thời đó vẫn thất học, phải làm lụng vất vả
như người lớn để kiếm ăn và lấy vợ, lập gia đình từ trước tuổi thành niên. Ngày
nay, trẻ em được phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ. Ở Phương La, việc kiêng
kỵ trong ba tháng cữ vẫn được được người dân duy trì, tuy nhiên đã được giản
lược hơn. Bà đẻ, không nhất thiết cứ phải ngồi trong màn, trong nhà tối; hầu như
không còn cảnh gài cành dâu, gai mây quanh nhà; không phải kiêng khem ăn uống
nghặt nghèo như xưa; bà đẻ ăn và thực hành các công việc vệ sinh… theo sự
hướng dẫn của nhân viên y tế, kết hợp một số kinh nghiệm hay, phù hợp của
những người cao tuổi.
164
165
Phụ lục 3
QUY TRÌNH SẢN XUẤT KHĂN MẶT
cả một quy trình với nhiều công đoạn khác nhau:
- Công đoạn đầu tiên cũng là quan trọng nhất chính là chọn sợi để dệt. Trên thị
trường có rất nhiều loại sợi dùng để dệt khăn và giá thành cũng khác nhau. Cơ sở sản xuất
có thể chọn mua sợi của công ty Nam Long, sợi Đam San hoặc sợi của công ty Đông
Phong… Hầu hết những loại sợi này đều phải mua từ các tình Nam Định, Hà Tây, Hà
Nam, Miều Nam… Tùy nhu cầu khách hàng, các công ty, chủ cơ sở dệt chọn nhập loại sợi
để đáp ứng.
- Tiếp theo là phải đem những quả sợi tròn đi mắc cửi, muốn mắc được cửu phải
dùng “guồng mắc”. Công đoạn này mất bình quân 3-4 tiếng mới xong một hoa cửu. Ở
làng Mẹo hiện nay có khoảng gần 1.000 “guồng mắc”, mắc liên tục không ngừng nghỉ.
- Tiếp đến là “vê cửu”, trước đó đã phải dàn máy để có thể dệt theo mẫu mà mình
muốn dệt. Đây là công đoạn cần sự tỷ mỉ và cần mẫn của những người thợ giỏi, có trình độ
về kỹ thuật máy móc mới có thể làm ra được. Sản phẩm tạo ra sau khi dệt xong gọi là khăn
mộc với nhiều mẫu như khăn lì, khăn ô, khăn tem, thể thao
- Sau khi dệt xong, khăn được đưa đi tẩy trắng, tẩy màu ở Hà Tây, Nam Định, Hà
Nam…, hoặc tẩy tại làng. Đây là công đoạn quan trọng, sản phẩm sẽ có màu sắc phù hợp
với từng loại khăn mà mình mong muốn.
- Công đoạn tiếp là đưa những khăn đã tẩy đi may viền, đính tem mác cho sản
phẩm và cũng là công đoạn cuối cùng để làm ra một chiếc khăn mặt. Tuy nhiên, trên đây
chỉ là những công đoạn chính, còn nhiều những công đoạn lặt vặt, chi tiết đòi hỏi kinh
nghiệm, sự tỷ mỉ, cần cù, sáng tạo trong công việc của đội ngũ những người thờ tài hoa.
Quy trình sản xuất ra chiếc khăn mặt cũng không hề đơn giản, nó tương đối vất vả,
166
Phụ lục 4
DANH SÁCH CÁC CÔNG TY, DOANH NGHIỆP LỚN Ở PHƢƠNG LA
TT
Tên công ty, xí nghiệp
Giám đốc,chủ cơ sở Ghi chú
Công ty TNHH Hoàn Hợp
Nguyễn Văn Châm
1
2
Công ty TNHH Tân Phương
Đỗ Văn Tân
3
Công ty TNHH Toàn Thắng
Trần Văn Vực
4
Công ty TNHH CBA
Đinh Công Ba
5
Công ty TNHH Yến Đạt
Trần Văn Nhâm
6
Công ty TNHH Phương Tiến
Trần Sỹ Nhã
7
Công ty Dệt may Vũ Hai
Vũ Văn Hai
8
Xí nghiệp Dệt may Nam Thành
Đinh Đức Cải
9
Trung tâm Thương mại Hương Sen
Trần Văn Sen
10
Công ty TNHH Tiến Đạt
Trần VănTrong
11
Công ty TNHH Xuân Lộc
Đinh Đức Hoán
12
Công ty TNHH Thảo Nguyên
Trần Văn Dũng
13
Công ty TNHH Minh Tâm
Trần Văn Tuấn
14
Công ty TNHH Hồng Phúc
Đinh Xuân Chiến
15
Công ty TNHH Thành Công
Trần Xuân Ứng
16
Công ty TNHH Thăng Long
Trần Văn Hương
17
Công ty TNHH Phúc Cường
Nguyễn Văn Cường
18
Công ty TNHH Hưng Thịnh
Trần Văn Dân
19
Công ty TNHH Thanh Chất
Bùi Thanh Chất
20
Công ty TNHH Châu Minh
Nguyễn Văn Mão
21
Công ty TNHH Minh Ánh
Bùi Văn Tụy
22
Công ty TNHH Tuấn Lộc
Trần Văn Quân
23
Công ty TNHH Tuấn Minh
Đinh Văn Toàn
24
Công ty TNHH Việt Nghĩa
Đinh Quyết Tiến
25
Công ty TNHH Lộc Phát
Trần Văn Thuấn
26
Công ty TNHH Tân Cường
Vũ Văn Tân
27
Công ty TNHH Việt Cường
Trần Văn Mậu
28
Công ty TNHH Thành Tân
Trần Văn Theo
29
Công ty TNHH Phúc Anh
Vũ Văn Hương
30
Công ty TNHH Đăng Dương
Lê Văn Doanh
31
Công ty TNHH Hồng Nhung
Đinh Thị Mít
32
Công ty TNHH Minh Thu
Đào Duy Tứ
33
Công ty TNHH Lương Ngọc
Trần Văn Bẩy
34
Công ty TNHH Nam Dương
Trần Quý Dương
35
Công ty TNHH Thủy Chung
Nguyễn Văn Toàn
36
Công ty TNHH Thành Bắc
Đào Đình Viễn
37
Công ty TNHH Ngọc Hải
Nguyễn Văn Tinh
38
Công ty TNHH Hoàng Thái
Đào Văn Thịnh
39
Tổ hộ sản xuất gia đình
Đinh VănTuynh
40
Tổ hộ sản xuất gia đình
Trần Văn Tuấn
Nguồn: UBND xã Thái Phương
167
168
Phụ lục 5
DANH SÁCH CÁC DOANH NGHIỆP, CÁ NHÂN CÔNG ĐỨC TU BỔ
CÁC DI TÍCH Ở PHƢƠNG LA
Bảng 5.1 : DANH SÁCH CÁC DOANH NGHIỆP, CÁ NHÂN CÔNG ĐỨC
TU BỔ ĐỀN SƠN DU NĂM 2009 - 2013
Số tiền công đức
STT
Họ và tên
Địa chỉ
(quy ra bằng chỉ vàng)
1 Cán bộ và nhân dân Phương La Phương La 1,2,3,4
16.7
2 Hội đồng hương Phương La
T.P Hồ Chí Minh
3.4
3 Hội đồng hương Phương La
T.P Thái Bình
14
4 Vũ Quang Huy
Phương La 2
9.5
5
Trần Văn Sen
T.P Thái Bình
8.6
6 Đỗ Văn Tân
Phương La 2
5.0
7
Lê Minh Quang
Hải Phòng
5.0
8
Trần Xuân Ứng
Phương La 1
2.5
9
Lê Minh Hiệu
T.P Thái Bình
2.5
10 Trần Đức Vĩnh
Hà Nội
2.5
11 Trần Văn Toàn
Phương La 1
2.5
12 Đinh Xuân Đàm
Phương La 1
2.0
13 Trần Văn Tâm
Phương La 1
1.7
14
Nguyễn Thị Nghị
Phương La 1
1.5
15 Trần Văn Liễu
Phương La 1
1.5
16 Nguyễn Văn Sướng
Phương La 3
1.5
169
Số tiền công đức
STT
Họ và tên
Địa chỉ
(quy ra bằng chỉ vàng)
Phương La 1
17 Trần Văn Mậu
1.2
Phương La 1
18 Vũ Văn Vương
1.0
Phương La 1
19 Trần Văn Mười
1.0
Phương La 2
20 Đinh Đức Cải
1.0
Phố Lẻ
21 Đinh Đức Tiến
1.0
Hải Phòng
22 Đỗ Văn Tươi
1.0
23 Trần Sỹ Nhã
Phương La 1
1.0
24 Trần Văn Hương
Phương La 1
1.0
25 Trần văn Dần
Đồng Tu
1.0
26 Trần Văn Mạnh
Phương La 1
0.8
27 Nguyễn Minh Quốc
Phương La 1
0.8
Phương La 1
28 Đặng Thị Nga
0.7
Phương La 1
29 Trần Văn Trong
0.7
Phương La 1
30 Bùi Thanh Chất
0.7
31 Nguyễn Thị Quyển
Phương La 1
0.5
32 Trần Văn Nguyệt
Phương La 2
0.5
Phương La 1
33 Trần Văn Quyền
0.5
Phương La 1
34 Trần Văn Thiện
0.5
Phương La 1
35 Trần Văn Theo
0.5
Phương La 2
36 Trần Văn Vực
0.5
Phương La 2
37 Trần Văn Nhâm
0.5
170
Số tiền công đức
STT
Họ và tên
Địa chỉ
(quy ra bằng chỉ vàng)
38 Trần Văn Nhị
Phương La 1
0.5
39 Trần Văn Nghị
Phương La 1
0.5
40 Đinh Đức Phó
Phương La 1
0.5
41 Trần Văn Trần
Phương La 1
0.5
42 Trần Văn Mức
Phương La 1
0.5
43 Bùi Văn Tuy
Phương La 1
0.5
44 Vũ Văn Đoàn
Phương La 1
0.5
171
Bảng 5.2 : DANH SÁCH CÁC DOANH NGHIỆP, CÁ NHÂN CÔNG ĐỨC TU BỔ CHÙA MẸO NĂM 1995-1996
Số tiền ủng hộ
TT
Họ và tên
Nơi ở
(quy ra bằng chỉ vàng)
1 Hội tín đồ
Phương La
7.0
2
Trần Hương Sen
Thái Bình
4.0
3 Đinh Hồng Quân
Thái Bình
4.0
4 Vũ Quang Huy
Phương La
13
5
Lê Minh Hiệu
Phương La
2.0
6 Đinh Thị Sáu
Phương La
1.2
7
Lê Thanh Chiến
Phương La
1.0
8
Trần văn Ứng
Phương La
1.0
9
Trần Văn Hương
Phương La
1.0
10 Lê Thị Hà
Miền Nam
1.0
11 Đỗ văn Khuê
Phương La
Bộ ngũ sự
12 Đinh Văn Đài
Phương La
13 Trần Văn Tân
Hà Nội
Bộ tam sự
172
Bảng 5.3: DANH SÁCH CÁC DOANH NGHIỆP, CÁ NHÂN CÔNG ĐỨC
TU BỔ ĐỀN MẪU NĂM 2001
Số tiềng ủng hộ
TT
Danh sách
Địa chỉ
(quy ra bằng chỉ vàng)
1 Cán bộ và nhân dân
Phương La
4.5
2 Hội tín đồ
Phương La
3.0
3 Hội đồng hương Phương La
T.P Hồ Chí Minh
6.5
4 Hội đồng hương Phương La
Hà Nội
4.0
5 Hội đồng hương Phương La
Hải Phòng
2.0
6 Hội đồng hương Phương La
T.P Thái Bình
1.5
7 Vũ Quang Huy
Phương La
2.0
8 Trần Văn Sen
Thái Bình
2.0
9 Trần Đức Vinh
Hà Nội
2.0
10 Trần Văn Ứng
Phương La
2.0
11 Trần Văn Hương
Phương La
2.0
12 Trần Thị Ngành
Hải Phòng
1.0
13 Vũ Văn Đồng
1.0
14 Đỗ Thị Sáu
Phương La
1.0
15 Trần Văn Thoan
1.0
16 Lê Minh Quang
Hải Phòng
1.0
17 Lê Thị Hà
T.P Hồ Chí Minh
1.0
18 Trần Văn Khoa
1.0
19 Lê Minh Hiệu
Phương La
1.0
20 Đinh Thị Huệ
Canađa
1.0
21 Vũ Quang Hội
Hà Nội
1.0
22 Đinh Thị Cúc
1.0
23 Hội con hương Phương La
Phương La
3.0
24 Nguyễn Quốc Tuấn
1.0
173
Phụ lục 6
DANH SÁCH NHỮNG NGƢỜI CUNG CẤP THÔNG TIN
Năm
TT
Họ và tên
Nghề nghiệp hay chức vị xã hội
sinh
1 Trần Văn Dũng
1966 Giám đốc Công ty TNHH Thảo Nguyên
2 Trần Văn Đón
1964 Chủ nhiệm Hợp tác xã Nông nghiệp Thái Phương
3 Đặng Hùng
1958 Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình
1985 Công chức Văn hóa xã Thái Phương
1965 Phó Chủ tịch UBND xã Thái Phương
4 Trần Văn Hà
1929 Nhân dân thôn Phương La 2
5 Nguyễn Văn Hà
1969 Giám đốc quỹ tín dụng xã Thái Phương
6 Lê Quang Hoa
1970 P. Giám đốc Công ty dệt may Tiến Mạnh
7 Đinh Văn Hậu
1929 Chủ tịch Hội người cao tuổi làng Phương La
8 Bùi thị Mơ
1968 Công chức văn hóa – xã Bình Lăng
9 Trần Văn Nguyệt
1934 Trưởng Ban quản lý di tích làng Phương La
10 NguyễnVăn Quang
1970 Chủ hộ dệt vệ tinh
11 Trần Văn Quyền
1958 Chủ hộ làm nghề dệt
12 Trần Văn Thành
1964 Hộ dệt vệ tinh
13 Trần Đức Thắng
1960 Công nhân, công ty Nam Long
14 Trần Thị Thiều
1959 Giám đốc Công ty TNHH Phúc Cường
15 Đào Duy Tứ
1959 Hội trưởng Hội sinh vật cảnh
16 NguyễnVăn Sướng
17 Nguyễn Văn Xã
174
Phụ lục 7
MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC VÀ KẾT QUẢ XỬ LÝ PHIẾU ĐIỀU TRA
VỀ LÀNG PHƢƠNG LA
Kính thưa ông/bà!
Trong điều kiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vấn đề
bảo tồn, phát triển làng nghề, văn hóa làng nghề là một trong những vấn đề cần
được quan tâm, giải quyết. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu văn hóa
làng nghề truyền thống ở Thái Bình hiện nay (qua khảo sát trường hợp làng Phương
La) nhằm tìm hiểu các khía cạnh về đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội ở làng
Phương La (xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Kết quả điều tra
giúp cung cấp thông tin để chúng tôi xây dựng một nghiên cứu về biến đổi văn hoá -
xã hội của làng Phương La trong điều kiện Công nghiệp hóa - hiện đại hóa và đô thị
hóa. Để nghiên cứu đạt mục tiêu, xin kính mong ông (bà) bớt chút thời gian chia sẻ
sự hiểu biết, quan điểm, sự đánh giá và trải nghiệm của mình về những vấn đề liên
quan đến văn hóa làng Phương La. Thông tin ông (bà) cung cấp hoàn toàn phục vụ
mục đích nghiên cứu và đảm bảo tính khuyết danh.
Giới thiệu
THÔNG TIN CHUNG
c. Học vấn
e. Tôn giáo
d. Tình trạng hôn nhân
Câu 1: Xin ông/bà cho biết một số thông tin về cá nhân ? b. Giới tính a. Năm sinh/chủ hộ 19…………..
1. Dưới tiểu học
1. Nam
1. Chưa kết hôn
1. Theo tôn
1. Là chủ hộ
2. Nữ
2. Tiểu học
2. Có vợ/chồng
giáo
2. Không là chủ
3. THCS
3. Ly thân/ly dị
2. Không
hộ
4. THPT
4. Góa
tôn giáo
5.TC/ Cao đẳng
6. Đại học
7. Sau đại học
f. Khu vực sinh
g. Nghề nghiệp
h. Tự nhận xét về
mức sống
sống
Ph.La1
1. Thủ công
7. Học viên/sinh viên
1. Giàu có
Ph.La 2
2. Nông dân
8. Cán bộ hưu trí
2. Khá giả
Ph.La 3
3. Công nhân
9. Thất nghiệp
3.Trung bình
Ph.La 4
4. Công chức/viên
10. Nội trợ
4. Nghèo
chức
11. Khác
6. Khó trả lời
5. Công an/bộ đội
6. Buôn bán/dịch
vụ
175
Câu 2. Xin ông/bà cho biết về số lao động của hộ gia đình ?
1. Tổng số thành viên trong gia đình:……………………………………
2. Số lao động của hộ gia đình (trong độ tuổi lao động):………………..
3. Số nữ trong gia đình:………………………………………………….
4. Số trẻ em trong gia đình:……………………………………………...
5. Số người có việc làm:…………………………………………………
Câu 3: Xin ông/bà cho biết về hoạt động kinh tế của ông/bà và gia đình hiện nay?
a. Nguồn thu nhập của ông/bà ?
b. Nguồn thu nhập chính của gia đình ?
(có thể chọn nhiều phương án)
(chỉ chọn 1 phương an)
1. Nghề thủ công
1. Nghề thủ công
2. Trồng trọt
2. Trồng trọt
3. Chăn nuôi
3. Chăn nuôi
4. Hoạt động kinh doanh của gia đình
4. Hoạt động kinh doanh của gia đình
5. Làm thuê
5. Làm thuê
6. Lương
6. Lương
7. Thừa kế
7. Thừa kế
8. Trúng số
8. Trúng số
9. Khác (ghi rõ)
9. Khác (ghi rõ)
176
NỘI DUNG TRAO ĐỔI I
Biến đổi cảnh quan, môi trƣờng làng nghề truyền thống
Câu 4: Xin ông/bà cho biết cảnh quan, môi trường của làng nghề hiện nay và từ năm
1996 trở về trước?
a. Cảnh quan làng nghề hiện nay
b. Cảnh quan làng nghề trước năm 1996
1. Rất sạch đẹp
1. Rất sạch đẹp
2. Sạch đẹp
2. Sạch đẹp
3. Chưa sạch đẹp
3. Chưa sạch đẹp
4. Rất không sạch đẹp
4. Rất không sạch đẹp
5. Khó đánh giá
5. Khó đánh giá
Câu 5: Xin ông/bà đánh giá về tình trạng ô nhiễm môi trường ở làng nghề hiện nay?
a. Ô nhiễm nước
b. Rác thải
c. Đất
d. Tiếng ồn/không khí
1. Ô nhiễm nặng nề
1. Ô nhiễm nặng nề
1. Ô nhiễm nặng nề
1. Ô nhiễm nặng nề
2. Ô nhiễm bình
2. Ô nhiễm bình
2. Ô nhiễm bình
2. Ô nhiễm bình
thường
thường
thường
thường
3. Không bị ô nhiễm
3. Không bị ô nhiễm
3. Không bị ô nhiễm
3. Không bị ô nhiễm
4. Khó đánh giá
4. Khó đánh giá
4. Khó đánh giá
4. Khó đánh giá
Câu 6: Xin ông/bà đánh giá các khía cạnh của hệ thống hạ tầng làng nghề hiện nay so
với thời điểm trước năm 1996?
a. Đường giao
b. Điện sản xuất/s.hoạt
c. Nước sinh hoạt
d. Thoát nước thải
thông
1. Tốt hơn nhiều
1. Tốt hơn nhiều
1. Tốt hơn nhiều
1. Tốt hơn nhiều
2. Tốt hơn
2. Tốt hơn
2. Tốt hơn
2. Tốt hơn
3. Không thay đổi
3. Không thay đổi
3. Không thay đổi
3. Không thay đổi
4. kém hơn
4. kém hơn
4. kém hơn
4. kém hơn
5. Khó đánh giá
5. Khó đánh giá
5. Khó đánh giá
5. Khó đánh giá
177
Câu 7: Xin ông/bà đánh giá về một số vấn đề liên quan đến cảnh quan môi trường của
làng nghề hiện nay so với trước năm 1996?
a. Về cây xanh
b. Về không gian công cộng
1. Nhiều hơn
1. Nhiều hơn
2. Không thay đổi
2. Không thay đổi
3. Ít hơn
3. Ít hơn
4. Khó đánh giá
4. Khó đánh giá
Câu 8: Theo ông/bà thì những nhân tố nào sau đây ảnh hưởng quyết định đến việc thay
đổi cảnh quan môi trường của làng nghề (chỉ lựa chọn 01 phương án)?
1. Do phát triển sản xuất nghề thủ công
2. Do vai trò quản lý của chính quyền địa phương
3. Do sự hỗ trợ của nhà nước/tổ chức quốc tế.
4. Do ý thức và hành vi bảo vệ môi trường của người dân
5. Do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa.
178
NỘI DUNG TRAO ĐỔI II
Biến đổi phƣơng thức truyền nghề và giữ gìn bí quyết nghề nghiệp.
Câu 1: Xin ông/bà cho biết hiện nay và trước năm 1996 việc truyền nghề chủ yếu được
tiến hành vào những đối tượng nào sau đây? (có thể lựa chọn nhiều phương án).
a. Thời điểm hiện nay
b. Từ năm 1996 trở về trước
1. Truyền nghề cho mọi người trong gia
1. Truyền nghề cho mọi người trong gia
đình
đình
2. Chỉ truyền nghề cho con trai/dâu
2. Chỉ truyền nghề cho con trai/dâu
3. Không truyền nghề cho người ngoài
3. Không truyền nghề cho người ngoài
4. Truyền nghề cho mọi người học việc
4. Truyền nghề cho mọi người học việc
5. Chỉ truyền một phần kinh nghiệm
5. Chỉ truyền một phần kinh nghiệm
6. Truyền hết mọi kinh nghiệm
6. Truyền hết mọi kinh nghiệm
Câu 2: Xin ông/bà cho biết nhóm đối tượng chủ yếu được gia đình đào tạo nghề hiện
nay và trước năm 1996?
a. Thời điểm hiện nay
b. Từ năm 1996 trở về trước
1. Lao động trẻ, thanh niên
1. Lao động trẻ, thanh niên
2. Lao động là nam thanh niên
2. Lao động là nam thanh niên
3. Lao động là nữ thanh niên
3. Lao động là nữ thanh niên
4. Lao động là trung niên
4. Lao động là trung niên
5. Lao động là người già
5. Lao động là người già
Câu 3: Xin ông/bà cho biết các lý do duy trì nghề truyền thống của hộ gia đình hiện nay
và vào thời điểm trước năm 1996?
a. Thời điểm hiện nay
b. Từ năm 1996 trở về trước
1. Phát triển kinh tế của gia đình
1. Phát triển kinh tế của gia đình
2. Tạo việc làm cho nhiều người
2. Tạo việc làm cho nhiều người
3. Duy trì phát triển văn hóa truyền thống
3. Duy trì phát triển văn hóa truyền thống
4. Duy trì nghề của cha ông để lại
4. Duy trì nghề của cha ông để lại
5. Đây là lựa chọn công việc tốt nhất của
5. Đây là lựa chọn công việc tốt nhất của gia
gia đình
đình
6. Đáp ứng nhu cầu của xã hội
6. Đáp ứng nhu cầu của xã hội
7. Khác (ghi cụ thể)
7. Khác (ghi cụ thể)
179
Câu 4: Theo ông/bà hoạt động truyền nghề, giữa bí quyết nghề sản xuất thủ công đang
bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nào sau dây?
1. Tôn vinh nghề thủ công/tôn vinh nghệ nhân
2. Yếu tố kinh tế/thu nhập
3. Tính chất bí quyết nghề.
4. Mức độ tài hoa cua bàn tay khối óc, tâm hồn của từng cá nhân
5. Quy luật kinh tế thị trường
6. Mức độ áp dụng kỹ thuật, công nghệ vào quy trình sản xuất.
7. Sự thay đổi công năng sử dụng của các sản phẩm thủ công
8. Sự thay đổi mức sống của người dân
9. Nhu cầu lao động việc làm
10. Vấn đề bảo vệ môi trường sống
11. Lịch sử phát triển, thương hiệu của làng nghề
12. Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
13. Tác động của đô thị hóa
14. Nghệ nhân và thợ tay nghề cao của làng nghề
15. Số lượng, chất lượng đào tạo nghề
16. Khả năng nắm bắt kỹ năng, kỹ xảo truyền thống
17. Khả năng nắm được bí quyết tổ nghề.
180
NỘI DUNG TRAO ĐỔI III
Biến đổi một số quan niệm và quan hệ xã hội.
Câu 5: Ông/bà đề cao vấn đề nào sau đây trong quan hệ bạn hàng hiện nay và thời điểm
trước năm 1996
a. Thời điểm hiện nay
b. Từ năm 1996 trở về trước
1. Đảm bảo chữ tín
1. Đảm bảo chữ tín
2. Tiền trao cháo múc
2. Tiền trao cháo múc
3. Thuận mua vừa bán
3. Thuận mua vừa bán
4. Mục đích mua được nguyên liệu rẻ nhất
4. Mục đích mua được nguyên liệu rẻ nhất
5. Mục đích có lợi nhuận cao nhất
5. Mục đích có lợi nhuận cao nhất
6. Khác (ghi cụ thể)
6. Khác (ghi cụ thể)
Câu 6: Ông/bà thường thực hiện những hình thức nào trong quan hệ với bạn hàng vào
thời điểm hiện nay và trước năm 1996
a. Thời điểm hiện nay
b. Từ năm 1996 trở về trước
1. Giao dịch bằng miệng
1. Giao dịch bằng miệng
2. Giao dịch thông qua trung gian
2. Giao dịch thông qua trung gian
3. Giao dịch trực tiếp bằng văn bản
3. Giao dịch trực tiếp bằng văn bản
4. Giao dịch qua điện thoại
4. Giao dịch qua điện thoại
5. Giao dịch qua thư điện tử/chuyển phát
5.Giao dịch qua thư điện tử/chuyển phát
nhanh.
nhanh.
Câu 7: Xin Ông/bà cho biết việc giữa bí quyết truyền nghề có ảnh hưởng đến những
mối quan hệ nào sau dây vào thời điểm hiện nay và trước năm 1996
a. Thời điểm hiện nay
b. Từ năm 1996 trở về trước
1. Nhằm chi phối quan hệ hôn nhân
1. Nhằm chi phối quan hệ hôn nhân
2. Nhằm chi phối quan hệ thầy - trò
2. Nhằm chi phối quan hệ thầy - trò
3. Nhằm chi phối quan hệ nội tộc
3. Nhằm chi phối quan hệ nội tộc
4. Nhằm chi phối quan hệ bất bình đằng
4. Nhằm chi phối quan hệ bất bình đằng
giới
giới
5. Nhằm duy trì sức mạnh của gia đình,
5. Nhằm duy trì sức mạnh của gia đình,
dòng họ
dòng họ
6. Khác (ghi cụ thể)
6. Khác (ghi cụ thể)
181
Câu 8: Xin Ông/bà cho biết mức độ sang nhà hàng xóm chơi của bản thân vào thời
điểm hiện nay và trước năm 1996
a. Thời điểm hiện nay
b. Từ năm 1996 trở về trước
1. Hàng ngày
1. Hàng ngày
2. Hàng tuần
2. Hàng tuần
3. Hàng tháng
3. Hàng tháng
4. Thỉnh thoảng
4. Thỉnh thoảng
5. Rất hiếm khi
5. Rất hiếm khi
6. Không bao giờ
6. Không bao giờ
Câu 9: Xin Ông/bà cho biết định hướng giá trị của bản thân trong các mối quan hệ sau
ở thời điểm hiện nay và trước năm 1996?
a. Các quan
b. Lựa chọn giá trị hiện nay
a. Các quan
b. Lựa chọn giá trị trước
hệ xã hội
hệ xã hội
năm 1996
Tình cảm
Kinh tế
Tình cảm
Kinh tế
1. Gia đình
1. Gia đình
2. Dòng họ
2. Dòng họ
3. Hàng xóm
3. Hàng xóm
4. Bạn bè
4. Bạn bè
5. Bạn
5. Bạn
hàng/bạn
hàng/bạn
nghề
nghề
6. Chủ-thợ
6. Chủ-thợ
7. Thầy-trò
7. Thầy-trò
Câu 10: Xin Ông/bà đánh giá về mối liên hệ, hỗ trợ lẫn nhau trong khâu sản xuất tiêu
thụ hàng thủ công hiện nay so với trước năm 1996?
1. Tích cực hơn rất nhiều
2. Tích cực hơn
3. Không thay đổi
4. Giảm đi
5. Khó đánh giá
182
Câu 11: Ông/bà hãy đánh giá về mối quan hệ của bản thân ở thời điểm hiện nay và
trước năm 1996?
a. Các quan hệ xã hội
a. Các quan hệ xã hội
b. Thời điểm hiện nay Bình Quan thường trọng
b. Trước năm 1996 Quan trọng
Bình thường
Không quan trọng
Không quan trọng
1. Quan hệ gia đình 2. Quan hệ dòng họ 3. Quan hệ hàng xóm 4. Quan hệ bạn hàng 5. Quan hệ bạn bè
6. Quan hệ tâm linh tín ngưỡng
1. Quan hệ gia đình 2. Quan hệ dòng họ 3. Quan hệ hàng xóm 4. Quan hệ bạn hàng 5. Quan hệ bạn bè 6. Quan hệ tâm linh tín ngưỡng
183
Néi dung trao ®æi IV
BiÕn ®æi h×nh thøc tæ chøc s¶n xuÊt, kü thuËt chÕ t¸c vµ s¶n phÈm
C©u 1. Xin «ng/bµ cho biÕt n¬i s¶n xuÊt thñ c«ng cña hé gia ®×nh hiÖn nay vµo thêi
®iÓm tríc n¨m 1996?
a. Thêi ®iÓm hiÖn nay
b. Thêi ®iÓm tríc n¨m 1996
1. Võa lµ n¬i s¶n xuÊt, b¸n hµng vµ ë
1. Võa lµ n¬i s¶n xuÊt, b¸n hµng vµ ë
2. Võa s¶n xuÊt, võa b¸n hµng
2. Võa s¶n xuÊt, võa b¸n hµng
3. S¶n xuÊt vµ b¸n hµng riªng biÖt
3. S¶n xuÊt vµ b¸n hµng riªng biÖt
4. Kh«ng cã, ph¶i ®i thuª mÆt b»ng
4. Kh«ng cã, ph¶i ®i thuª mÆt b»ng
C©u 2. Xin «ng/bµ cho biÕt lùa chän c«ng nghÖ kü thuËt s¶n xuÊt cña lµng nghÒ hiÖn
nµy vµ tríc n¨m 1996 ®èi víi c«ng ®o¹n sau
a. C¸c c«ng ®o¹n
a. C¸c c«ng ®o¹n
b. Lùa chän c«ng nghÖ s¶n xuÊt tríc n¨m 1996
b. Lùa chän c«ng nghÖ s¶n xuÊt hiÖn nay C«ng nghÖ hiÖn ®¹i
Thñ c«ng
C«ng nghÖ hiÖn ®¹i
Thñ c«ng
1. Lùa chän sîi
1. Lùa chän sîi
nguyªn liÖu
nguyªn liÖu
2. Xö lý sîi nguyªn
2. Xö lý sîi nguyªn
liÖu
liÖu
C©u 3. Xin «ng/bµ cho biÕt viÖc ¸p dông c«ng nghÖ thñ c«ng vµ hiÖn ®¹i trong s¶n xuÊt
thñ c«ng vµo thêi ®iÓm n¨m 1996 vµ hiÖn nay cña gia ®×nh
a. C¸c c«ng ®o¹n
a. C¸c c«ng ®o¹n
b. Lùa chän c«ng nghÖ s¶n xuÊt hiÖn nay
Thñ c«ng
b. Lùa chän c«ng nghÖ s¶n xuÊt trước n¨m 1996 Thñ C«ng c«ng nghÖ hiÖn ®¹i
C«ng nghÖ hiÖn ®¹i
1. DÖt
1. DÖt
2. Tẩy
2. Tẩy
3. Nhuém
3. Nhuém
4. In
4. In
5. §ãng gãi
5. §ãng gãi
184
C©u 4. Theo «ng/bµ c¸c s¶n phÈm cña lµng nghÒ vµo thêi ®iÓm hiÖn nay vµ trưíc n¨m
1996 thÓ hiÖn yÕu tè nµo quan träng nhÊt sau ®©y (lùa chọn 2 đến 3 phương ¸n)
a. S¶n phÈm thñ c«ng cña lµng nghÒ hiÖn
b.S¶n phÈm thñ c«ng cña lµng nghÒ trưíc
nay
n¨m 1996
1. Gi¸ trÞ v¨n ho¸ truyÒn thèng
1. Gi¸ trÞ v¨n ho¸ truyÒn thèng
2. Gi¸ trÞ v¨n ho¸ hiÖn ®¹i
2. Gi¸ trÞ v¨n ho¸ hiÖn ®¹i
3. Gi¸ trÞ kinh tÕ
3. Gi¸ trÞ kinh tÕ
4. Gi¸ trÞ sö dông
4. Gi¸ trÞ sö dông
5. §¸p øng nhu cÇu, thÞ hiÕu ngêi tiªu dïng
5. §¸p øng nhu cÇu, thÞ hiÕu ngêi tiªu dïng
6. S¶n xuÊt mang tÝnh chÊt d©y chuyÒn
6. S¶n xuÊt mang tÝnh chÊt d©y chuyÒn
7. S¶n xuÊt mang tÝnh thñ c«ng
7. S¶n xuÊt mang tÝnh thñ c«ng
C©u 5. Xin «ng/bµ cho biÕt h×nh thøc ph©n c«ng lao ®éng trong s¶n xuÊt nghÒ thñ c«ng
cña hé gia ®×nh vµo thêi ®iÓm hiÖn nay vµ tríc n¨m 1996?
a. Thêi ®iÓm hiÖn nay
b. Thêi ®iÓm trưíc n¨m 1996
1. Theo vai trß
1. Theo vai trß
2. Theo thø bËc thÕ hÖ
2. Theo thø bËc thÕ hÖ
3. Theo vai trß chñ hé/ngưêi lµm thuª
3. Theo vai trß chñ hé/ngưêi lµm thuª
4. Theo vai trß chñ/ngưêi lµm thuª
4. Theo vai trß chñ/ngưêi lµm thuª
5. Theo kh¶ n¨ng vÒ søc khoÎ
5. Theo kh¶ n¨ng vÒ søc khoÎ
6. Theo tr×nh ®é th¹o nghÒ
6. Theo tr×nh ®é th¹o nghÒ
C©u 6. Xin «ng/bµ ®¸nh gi¸ møc ®é ph©n c«ng vµ hîp t¸c lao ®éng gi÷a c¸c hé s¶n xuÊt
thñ c«ng hiÖn nay so víi tríc n¨m 1996 ?
a. §¸nh gi¸ vµo thêi ®iÓm hiÖn nay
b. §¸nh gi¸ vµo thêi ®iÓm n¨m 1996
1. RÊt tèt
1. RÊt tèt
2. Tèt
2. Tèt
3. Cha tèt
3. Cha tèt
4. Khã ®¸nh gi¸
4. Khã ®¸nh gi¸
185
C©u 7. Xin «ng bµ ®¸nh gi¸ vÒ møc ®é ph©n c«ng vµ hîp t¸c lao ®éng gi÷a c¸c thµnh
viªn trong hé gia ®×nh s¶n xuÊt thñ c«ng hiÖn nay so víi tríc n¨m 1996 ?
a. §¸nh gi¸ vµo thêi ®iÓm hiÖn nay
b. §¸nh gi¸ vµo thêi ®iÓm n¨m 1996
1. RÊt tèt
1. RÊt tèt
2. Tèt
2. Tèt
3. Cha tèt
3. Cha tèt
4. Khã ®¸nh gi¸
4. Khã ®¸nh gi¸
C©u 8. Xin «ng/bµ cho biÕt hiÖn tr¹ng mét sè vÊn ®Ò liªn quan ®Õn thuª mín lao ®éng
trong s¶n xuÊt thñ c«ng vµo thêi ®iÓm hiÖn nay vµ tríc n¨m 1996 cña hé gia ®×nh ?
a. Thuª mưín lao ®éng hiÖn nay
b. Thuª mưín lao ®éng trưíc n¨m 1996
1. Ngưêi cïng trong gia ®×nh, dßng häc
1. Ngưêi cïng trong gia ®×nh, dßng häc
2. Ngưêi trong lµng, x·
2. Ngưêi trong lµng, x·
3. Ngưêi trong huyÖn, thµnh phè
3. Ngưêi trong huyÖn, thµnh phè
4. Ngưêi ë tØnh/thµnh kh¸c
4. Ngưêi ë tØnh/thµnh kh¸c
C©u 9. Xin «ng/bµ cho biÕt quy m« thuª mín lao ®éng cña hé gia ®×nh trong s¶n xuÊt
thñ c«ng hiÖn nay vµ trưíc n¨m 1996 ?
a. Quy m« thuª mưín lao ®éng hiÖn nay
b. Quy m« thuª mưín lao ®éng trưíc n¨m
1996
1. Thuê dưới 5 lao động
1. Thuª dưới 5 lao ®éng
2. Thuª tõ 6 - 10 lao ®éng
2.Thuª tõ 6 - 10 lao ®éng
3. Thuª trªn 10 lao ®éng
3. Thuª trªn 10 lao ®éng
4. Kh«ng thuª lao ®éng
4. Kh«ng thuª lao ®éng
C©u 10. Xin «ng/bµ cho biÕt c¸ch thøc tr¶ c«ng cho ngưêi lao ®éng s¶n xuÊt thñ c«ng
hiÖn nay so víi trưíc n¨m 1996 ?
a. C¸ch thøc tr¶ c«ng lao ®éng hiÖn nay
b. C¸ch thøc tr¶ c«ng lao ®éng trưíc n¨m
1996
1. Tr¶ lư¬ng theo th¸ng
1. Tr¶ lư¬ng theo th¸ng
2. Tr¶ c«ng theo s¶n phÈm
2. Tr¶ c«ng theo s¶n phÈm
3. Kho¸n c«ng nhËt
3. Kho¸n c«ng nhËt
4. §an xen c¶ ba h×nh thøc trªn
4. §an xen c¶ ba h×nh thøc trªn
186
C©u 11. Xin «ng/bµ cho biÕt c¸ch thøc thÓ hiÖn hîp ®ßng lao ®éng hiÖn nay vµ trước
n¨m 1996 ?
a. C¸ch thøc thÓ hiÖn hîp ®ång lao ®éng hiÖn
b. C¸ch thøc thÓ hiÖn hîp ®ång lao
nay
®éng trước n¨m 1996
1. B»ng v¨n b¶n
1. B»ng v¨n b¶n
2. B»ng miÖng
2. B»ng miÖng
3. Võa b»ng v¨n b¶n, võa b»ng miÖng
3. Võa b»ng v¨n b¶n, võa b»ng miÖng
4. Kh«ng cã
4. Kh«ng cã
C©u 12. ¤ng/bµ thêng lùa chän thuª mín nh÷ng ngêi lao ®éng nµo sau ®©y vµo thêi
®iÓm hiÖn nay vµ trưíc n¨m 1996 ?
a. HiÖn nay ưu tiªn cho ai
b. Trưíc n¨m 1996 ưu tiªn cho ai
1. ¦u tiªn lao ®éng trong gia ®×nh
1. ¦u tiªn lao ®éng trong gia ®×nh
2. ¦u tiªn lao ®éng th©n quen
2. ¦u tiªn lao ®éng th©n quen
3. ¦u tiªn lao ®éng th¹o nghÒ
3. ¦u tiªn lao ®éng th¹o nghÒ
4. ¦u tiªn lao ®éng víi møc tiÒn c«ng thÊp
4. ¦u tiªn lao ®éng víi møc tiÒn c«ng thÊp
5. ¦u tiªn t¹o ra n¨ng suÊt lao ®éng cao
5. ¦u tiªn t¹o ra n¨ng suÊt lao ®éng cao
6. ¦u tiªn lao ®éng cã kh¶ n¨ng ¸p dông
6. ¦u tiªn lao ®éng cã kh¶ n¨ng ¸p dông c«ng
c«ngnghÖ
nghÖ
187
PHẦN NỘI DUNG TRAO ĐỔI V
Biến đổi tín ngƣỡng, lễ hội và phong tục tập quán làng nghề
Câu 1. Xin ông/bà đánh gia tầm quan trọng của những thiết chế văn hóa trong cộng
đồng hiện nay và thời điểm trước năm 1996?
a. Thiết chế
Thời điểm hiện nay
a. Thiết chế
b.Trước năm 1996
văn hóa làng
văn hóa làng
Quan trọng
Không có
Quan trọng
Không có
Không quan trọng
Không quan trọng
1. Nhà thờ tổ
1. Nhà thờ tổ
nghề
nghề
2. Đình làng,
2. Đình làng,
giếng nước,
giếng nước,
gốc đa
gốc đa
3. Chùa
3. Chùa
4. Đền, miếu
4. Đền, miếu
5. Nhà thờ
5. Nhà thờ
6. Nhà thờ họ
6. Nhà thờ họ
7. Nhà văn hóa,
7. Nhà văn
thư viện
hóa, thư viện
8. Đài phát
8. Đài phát
thanh
thanh
9. Câu lạc bộ
9. Câu lạc bộ
10. Sân vận
10. Sân vận
động
động
Câu 2. Xin ông/bà đánh giá về tầm quan trọng việc duy trì các hoạt động tín ngưỡng, lễ
hội truyền thống của làng nghề hiện nay và thời điểm trước năm 1996
a. Thời điểm hiện nay
b. Từ năm 1996 trở về trước
1. Rất quan trọng
1. Rất quan trọng
2. Quan trong
2. Quan trong
3. Bình thường
3. Bình thường
4. Không quan trọng
4. Không quan trọng
5. Khó đánh giá
5. Khó đánh giá
188
Câu 3. Ông/bà có gia phả của dòng họ vào thời điểm hiện nay và trước năm 1996
a. Thời điểm hiện nay
b. Từ năm 1996 trở về trước
1. Có
1. Có
2. Không
2. Không
Câu 4. Xin ông/bà đánh giá việc tham gia tập quán cưới của người sản xuất thủ công
hiện nay và thời điểm trước năm 1996?
a. Các lễ nghi và
b. Hiện nay
a. Các lễ nghi văn
b. Trước năm 1996
hóa
văn hóa
Quan trọng
Không quan trọng
Quan trọng Không quan trọng
1. Lễ dạm ngõ
1. Lễ dạm ngõ
2. Lễ cưới
2. Lễ cưới
3. Lễ lại mặt
3. Lễ lại mặt
4. Nộp cheo
4. Nộp cheo
5. Thách cưới
5. Thách cưới
6. Cho của hồi môn
6. Cho của hồi môn
7. Lễ gia tiên đón
7. Lễ gia tiên đón
dâu
dâu
8. Lễ tơ hồng
8. Lễ tơ hồng
Câu 5. Xin ông/bà đánh giá việc tang của người sản xuất thủ công hiện nay và trước
năm 1996
a. Các lễ nghi và
b. thời điểm hiện nay
a. Các lễ nghi văn
b. Trước năm 1996
văn hóa
hóa
Quan trọng
Quan trọng
Không quan trọng
Không quan trọng
1. Che mặt người
1. Che mặt người
chết
chết
2. Yểm bùa
2. Yểm bùa
3. Nhạc hiếu
3. Nhạc hiếu
4. Thầy pháp sư làm
4. Thầy pháp sư
lễ
làm lễ
5. Xem giờ phát
5. Xem giờ phát
tang
tang
a. Các lễ nghi và
b. thời điểm hiện nay
a. Các lễ nghi văn
b. Trước năm 1996
văn hóa
hóa
Quan trọng
Quan trọng
Không quan trọng
Không quan trọng
6. Xem giờ hạ huyệt
6. Xem giờ hạ
huyệt
7. Tang phục cổ
7. Tang phục cổ
truyền
truyền
8. Cúng 3 ngày
8. Cúng 3 ngày
9. Cúng tuần
9. Cúng tuần
10. Cúng 35 ngày
10. Cúng 35 ngày
11. Cúng 49 ngày
11. Cúng 49 ngày
12. Cúng 100 ngày
12. Cúng 100 ngày
13. Giỗ đầu
13. Giỗ đầu
189
Câu 6. Xin ông/bà đánh giá sự chuyển đổi về hoạt động tín ngưỡng của làng nghề hiện
nay và trước năm 1996?
a. Các lễ nghi và
b. thời điểm hiện nay
a. Các lễ nghi văn
b. Trước năm 1996
văn hóa
hóa
Quan trọng
Quan trọng
Không quan trọng
Không quan trọng
1. Thờ tổ tiên
1. Thờ tổ tiên
2. Thờ phật
2. Thờ phật
3. Thờ thành hoàng
3. Thờ thành hoàng
4. Thờ ông tổ nghề
4. Thờ ông tổ nghề
5.Thờ thần tài
5.Thờ thần tài
Câu 7. Xin ông/bà đánh giá việc tham gia lễ hội hiện nay so với thời điểm trước năm 1996
Các nội dung
a. Tăng lên
b. Vẫn thế
c. Giảm
1. Số lượng lễ hội truyền thống ở địa phương
2. Tham gia của người dân và hoạt động lễ hội
3. Đóng góp của người dân cho hoạt động lễ hội
4. Sự tham gia của gia đình ông/bà vào lễ hội
5. Đóng góp của gia đình ông/bà vào lễ hội
190
Câu 8. Xin ông/bà đánh giá mức độ quan trọng của các chủ thể sau đối với hoạt động
văn hóa, tín ngưỡng ở làng nghề?
Rất
Không
Khá
Quan
Bình
Các chủ thể
quan
quan
đánh
trọng
thường
trọng
trọng
giá
1. Cán bộ, công chức nhà nước
2. Người giàu có/doanh nhân
3. Người làm nghề thủ công
4. Người già cả trong làng
5. Thanh thiếu niên trong làng
6. Khách thập phương
7. Nam giới trong làng
8. Phụ nữ trong làng
Câu 9. Xin ông/bà đánh giá hiện trạng văn hóa làng nghề truyền thống hiện nay và vào
thời gian trước năm 1996 ?
a. Đánh giá hiện trạng văn hóa làng nghề
b. Đánh giá hiện trạng văn hóa làng nghề
truyền thống hiện nay
trước năm 1996
1. Yếu tố đa dạng, phong phú
1. Yếu tố đa dạng, phong phú
2. Yếu tố bản sắc, độc đáo
2. Yếu tố bản sắc, độc đáo
3. Vai trò của văn hóa làng nghề với sự
3. Vai trò của văn hóa làng nghề với sự phát
phát triển
triển
4. Yếu tố tự hào của người dân 5. Đánh giá về
4. Yếu tố tự hào của người dân 5. Đánh giá về
khả năng lan tỏa của văn hóa làng nghề
khả năng lan tỏa của văn hóa làng nghề
6. Đánh giá về sự giao thoa của văn hóa làng
6. Đánh giá về sự giao thoa của văn hóa làng
nghề
nghề
7. Sắc thái văn hóa dân tộc của làng nghề
7. Sắc thái văn hóa dân tộc của làng nghề
191
Câu 10. Xin ông/bà cho biết tầm quan trọng của các quy ước sau đây đối với đời sống
của làng nghề vào thời điểm hiện nay và trước năm 1996?
a. Các quy ước
a. Các quy ước
Quan trọng
Không có
Quan trọng
Không có
Thời điểm hiện nay Không quan trọng
b.Trước năm 1996 Không quan trọng
1. Quy ước lễ
1. Quy ước lễ
hội của làng
hội của làng
nghề
nghề
2. Quy ước về
2. Quy ước về
tín ngưỡng của
tín ngưỡng của
làng nghề
làng nghề
3. Quy ước cảu
3. Quy ước cảu
gia đình trong
gia đình trong
sản xuất thủ
sản xuất thủ
công
công
4. Quy ước của
4. Quy ước của
dòng họ trong
dòng họ trong
sản xuất thủ
sản xuất thủ
công
công
5. Quy ước
5. Quy ước
cộng đồng
cộng đồng trong
trong sản xuất
sản xuất thủ
thủ công
công
Câu 11. Theo ông/bà thì làng nghề truyền thống đang có những vai trò gì sau đây?
1. Làng nghề tạo ra sản phẩm
2. Làng nghề tạo ra linh hồn văn hóa
3. Làng nghề tạo ra các giá trị chuẩn mực ứng xử
4. Làng nghề tạo ra chuẩn mực giao tiếp
5. Làng nghề tạo ra môi trường học tập
6. Góp phần hạn chế di dân tự do
7. Giải quyết các vấn đề di dân tự do
8. Tạo cơ hội giao lưu văn hóa
9. Mang lại những giá trị vật thể và phi vật thể
10. Phản ánh lịch sử, văn hóa, xã hội của địa phương
11. Phản ánh lịch sử, văn hóa, xã hội của địa phương
12. Phản ánh qua các tập tục, tín ngưỡng, lễ hội và nhiều quy định khác
13. Nhu cầu sản phẩm thủ công
14. Nhu cầu khám phá du lịch
15. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
16. Giải quyết việc làm, tăng thu nhập
17. Tăng thu nhập cho người lao động
18. Góp phần xóa đói giảm nghèo
19. Thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông thôn
20. Bảo tổn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc
21. Đa dạng hóa thị hiếu tiêu dùng của thị trường
22. Duy trì tâm thức của người dân với tín ngưỡng thành hoàng làng, ông tổ nghề
23. Phát triển các quan hệ xã hội
24. Phát triển giáo dục cộng đồng
25. Bảo vệ môi trường cảnh quan
192
Câu 12. Ông/bà đồng ý với những giải pháp sau đối với việc phát triển, phát huy vai trò
của văn hóa làng nghề truyền thống?
1. Tăng cường nhận thức vai trò phát triển làng nghề
2. Tăng cường quản lý các hoạt động của làng nghề
3. Hoàn thiện chính sách pháp luật đối với bảo tồn, phát triển làng nghề
4. Tôn vinh các giá trị văn hóa làng nghề
5. Kết hợp yết tố truyền thống và yếu tố hiện đại
6. Đào tạo nghề, bồi dưỡng nhân tài nghệ nhân
7. Sưu tầm tài liệu, hiện vật có giá trị về truyền thống của các làng nghề
8. Khả năng quản lý doanh nghiệp, điều hành sản xuất thủ công
9. Phát triển du lịch làng nghề
10. Phát huy ảnh hưởng tích cực của biến đổi văn hóa làng nghề
11. Đầu tư quy hoạch hệ thống các làng nghề
12. Tôn tạo hạ tầng giao thông, hệ thốn điện, hệ thống dịch vụ, vệ sinh đường làng
13. Tổ chức khai thác các nhà đón tiếp và trưng bày sản phẩm tại các làng nghề
14. Đưa các sản phẩm làng nghề tham gia hội chợ
15. Tiến hành hội thi tay nghề
16. Tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật và nguồn vốn từ các dự án quốc tế
17. Đẩy mạnh cách thức xây dựng và quản lý thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề
18. Đánh giá tầm quan trọng cảu tục cúng tổ nghề với việc tiến hành các tâm linh khác
19. Quy hoạch khu công nghiệp làng nghề
20. Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ thủ công mỹ nghệ có thẩm mỹ
21. Nâng cao kiến thức khoa học, hiểu biết am tường về truyền thống văn hóa làng nghề
22. Cần có sự vào cuộc của các cấp các ngành và toàn xã hội.
193
Xin trân trọng cảm ơn ông/bà!
194
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ CẢNH QUAN MÔI TRƢỜNG LÀNG NGHỀ
Số người Tỷ lệ % Thông tin chung
208 100.00% 1. Năm sinh
1.1. 1940-1955 32 15.38%
1.2. 1956-1970 16 7.69%
1.3. 1971-1985 128 61.54%
1.4. 1996-nay 32 15.38%
2. Chủ hộ 208 100.00%
2.1. Là chủ hộ 112 53.85%
2.2. Không chủ hộ 96 46.15%
3. Giới tính: 208 100.00%
3.1.Nam 96 46.15%
3.2.Nữ 112 53.85%
4. Trình độ học vấn 208 100.00%
4.1 Dưới tiểu học 0 0.00%
4.2. Tiểu học 0 0.00%
4.3. THCS 32 15.38%
4.4. THPT 32 15.38%
4.5. TC/Cao đẳng 112 53.85%
4.6. Đại học 32 15.38%
4.7. Sau đại học 0 0.00%
5. Tình trạng hôn nhân 208 100.00%
5.1. Chưa kết hôn 32 15.38%
5.2. Có vợ. Chồng 176 84.62%
5.3. Ly thân/ly dị 0 0.00%
5.4. Góa 0 0.00%
195
6. Tôn giáo 208 100.00%
6.1. Theo tôn giáo 16 7.69%
6.2. Không tôn giáo 192 92.31%
7. Khu vực sinh sống 208 100.00%
7.1.Ph.La 1 64 30.77%
7.2.Ph.La 2 32 15.38%
7.3.Ph.La 3 64 30.77%
7.4.Ph.La 4 48 23.08%
8. Nghề nghiệp 208 100.00%
8.1. Thủ công 144 69.23%
8.2. Nông dân 0 0.00%
8.3. Công nhân 0 0.00%
8.4. Công chức/viên chức 0 0.00%
8.5. Công an/bộ đội 0 0.00%
8.6. Buôn bán/dịch vụ 48 23.08%
8.7. Học sinh/sinh viên 0 0.00%
8.8. Cán bộ hưu trí 0 0.00%
8.9. Thất nghiệp 0 0.00%
8.10. Nội trợ 16 7.69%
8.11. Khác 0 0.00%
9. Tự nhận xét về mức sống 208 100.00%
9.1. Giàu có 0 0.00%
9.2. Khá giả 112 53.85%
9.3. Trung bình 96 46.15%
9.4. Nghèo 0 0.00%
9.5. Khó trả lời 0 0.00%
196
10. Tổng số thành viên trong gia đình 208 100.00%
10.1. Có 01 0 0.00%
10.2. Có 02 80 38.46%
10.3. Từ 03 trở lên 128 61.54%
11. Số lao động của hộ gia đình (trong độ tuổi 208 lao động) 100.00%
11.1. Có 01 112 53.85%
11.2. Từ 02 96 46.15%
11.3. Từ 03 trở lên 0 0.00%
12. Số nữ trong gia đình 208 100.00%
12.1. Từ 01 112 53.85%
12.2. Từ 02 96 46.15%
12.3. Từ 03 trở lên 0 0.00%
13. Số trẻ em trong gia đình 208 100.00%
13.1. Từ 01 0 0.00%
13.2. Từ 02 80 38.46%
13.3. Từ 03 trở lên 128 61.54%
14. Số người đang có việc làm 208 100.00%
14.1. Từ 01-02 112 53.85%
14.2. Từ 02-03 96 46.15%
14.3. Từ 03 trở lên 0 0.00%
15. Nguồn thu nhập của ông bà? (Có hay
không từ các liệt kê sau)
15.1. Nghề thủ công 208 100.00%
15.1.1.Có 208 100.00%
15.1.2.Không 208 100.00%
197
15.2. Trồng trọt 100.00% 208
15.2.1.Có 100.00% 208
15.2.2.Không 100.00% 208
15.3. Chăn nuôi 100.00% 208
15.3.1.Có 100.00% 208
15.3.2. Không 100.00% 208
15.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 0.00% 0
15.1.1.Có 100.00% 208
15.1.2.Không 100.00% 208
15.5. Làm thuê 15.38% 32
15.1.1.Có 0.00% 0
15.1.2.Không 0.00% 0
15.6. Lương 128 61.54%
15.1.1.Có 0.00% 0
15.1.2. Không 23.08% 48
15.7. Thừa kế 0.00% 0
15.1.1.Có 0.00% 0
15.1.2. Không 0.00% 0
15.8. Trúng số 208 100.00%
15.1.1. Có 30.77% 64
15.1.2. Không 38.46% 80
15.9. Khác (ghi rõ) 15.38% 32
15.1.1. Có 15.38% 32
15.1.2. Không 100.00% 208
16. Nguồn thu nhập chính của gia đình? 100.00% 208
16.1. Nghề thủ công 69.23% 144
198
16.2. Trồng trọt 0.00% 0
16.3. Chăn nuôi 0.00% 0
16.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 23.08% 48
16.5. Làm thuê 0.00% 0
16.6. Lương 7.69% 16
16.7. Thừa kế 0.00% 0
16.8. Trúng số 0.00% 0
16.9. Khác (ghi rõ) 0.00% 0
17. Thu nhập của cả hộ 208 100.00%
17.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 30.77% 64
17.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 38.46% 80
17.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 15.38% 32
17.4. Trên 30 triệu/tháng 15.38% 32
18. Thu nhập của NLT 208 100.00%
18.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 30.77% 64
18.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 38.46% 80
18.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 15.38% 32
18.4. Trên 30 triệu/tháng 15.38% 32
Câu hỏi phần I: Biến đổi cảnh quan, môi trường làng 0 nghề truyền thống 0.00%
19. Đánh giá cảnh quan, môi trường của làng 0 nghề hiện nay và từ năm 1996 trở về trước? 0.00%
19.1. Cảnh quan làng nghề hiện nay 100.00% 208
19.1.1. Rất sạch đẹp 15.38% 32
19.1.2. Sạch đẹp 84.62% 176
19.1.3. Chưa sạch đẹp 0.00% 0
199
19.1.4. Rất không sạch đẹp 0 0.00%
19.1.5. Khó đánh giá 0 0.00%
19.2. Cảnh quan làng nghề trước năm 1996 208 100.00%
19.2.1. Rất sạch đẹp 0 0.00%
19.2.2. Sạch đẹp 32 15.38%
19.2.3. Chưa sạch đẹp 176 84.62%
19.2.4. Rất không sạch đẹp 0 0.00%
19.2.5. Khó đánh giá 0 0.00%
20. Đánh giá về tình trạng ô nhiễm môi trường ở 0 làng nghề hiện nay? 0.00%
20.1.1. Ô nhiễm nặng nề 0 0.00%
20.1.2. Ô nhiễm bình thường 64 30.77%
20.1.3. Không bị ô nhiễm 144 69.23%
20.1.4. Khó đánh giá 0 0.00%
20.2. Rác thải 208 100.00%
20.2.1. Ô nhiễm nặng nề 0 0.00%
20.2.2. Ô nhiễm bình thường 160 76.92%
20.2.3. Không bị ô nhiễm 48 23.08%
20.2.4. Khó đánh giá 0 0.00%
20.3. Đất 208 100.00%
20.3.1. Ô nhiễm nặng nề 0 0.00%
20.3.2. Ô nhiễm bình thường 160 76.92%
20.3.3. Không bị ô nhiễm 48 23.08%
20.3.4. Khó đánh giá 0 0.00%
20.4. Tiếng ồn/ không khí 208 100.00%
20.4.1. Ô nhiễm nặng nề 0 0.00%
200
20.4.2. Ô nhiễm bình thường 128 61.54%
20.4.3. Không bị ô nhiễm 80 38.46%
20.4.4. Khó đánh giá 0 0.00%
21. Đánh giá các khía cạnh của hệ thống hạ tầng làng 0 nghề hiện nay so với thời điểm trước năm 1996 0.00%
21.1. Đường giao thông 208 100.00%
21.1.1. Tốt hơn nhiều 48 23.08%
21.1.2. Tốt hơn 144 69.23%
21.1.3. Không thay đổi 16 7.69%
21.1.4. Kém hơn 0 0.00%
21.1.5. Khó đánh giá 0 0.00%
21.2. Điện sản xuất/s.hoạt 208 100.00%
21.2.1. Tốt hơn nhiều 48 23.08%
21.2.2. Tốt hơn 160 76.92%
21.2.3. Không thay đổi 0 0.00%
21.2.4. Kém hơn 0 0.00%
21.2.5. Khó đánh giá 0 0.00%
21.3. Nước sinh hoạt 208 100.00%
21.3.1. Tốt hơn nhiều 48 23.08%
21.3.2. Tốt hơn 160 76.92%
21.3.3. Không thay đổi 0 0.00%
21.3.4. Kém hơn 0 0.00%
21.3.5. Khó đánh giá 0 0.00%
21.4. Thoát nước thải 208 100.00%
21.4.1. Tốt hơn nhiều 48 23.08%
21.4.2. Tốt hơn 160 76.92%
201
21.4.3. Không thay đổi 0 0.00%
21.4.4. Kém hơn 0 0.00%
21.4.5. Khó đánh giá 0 0.00%
22. Một số vấn đề liên quan đến cảnh quan môi
trường của làng nghề hiện nay so với trước năm 0
1996? 0.00%
22.1. Về cây xanh 208 100.00%
22.1.1. Nhiều hơn 0 0.00%
22.1.2. Không thay đổi 32 15.38%
22.1.3. Ít hơn 176 84.62%
21.1.4. Khó đánh giá 0 0.00%
22.2. Về không gian công cộng 208 100.00%
22.1.1. Nhiều hơn 0 0.00%
22.2.2. Không thay đổi 192 92.31%
22.2.3. Ít hơn 16 7.69%
4. Khó đánh giá 0 0.00%
23.Những nhân tố nào sau đây ảnh hưởng quyết định
đến việc thay đổi cảnh quan môi trường của làng 208
nghề 100.00%
23.1. Do phát triển sản xuất nghề thủ công 0 0.00%
23.2. Do vai trò quản lý của chính quyền địa phương 0 0.00%
23.3. Do sự hỗ trợ của nhà nước/ tổ chức quốc tế 0 0.00%
23.4. Do ý thức và hành vi bảo vệ môi trường của 0 người dân 0.00%
23.5. Do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa. 208 100.00%
202
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ TRUYỀN NGHỀ VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA NGƢỜI LÀNG NGHỀ
Thông tin chung Số người Tỷ lệ %
1. Năm sinh 224 100.00%
1.1. 1940-1955 0 0.00%
1.2. 1956-1970 64 28.57%
1.3. 1971-1985 160 71.43%
1.4. 1996-nay 0 0.00%
2. Chủ hộ 224 100.00%
2.1. Là chủ hộ 224 100.00%
2.2. Không chủ hộ 0 0.00%
3. Giới tính: 224 100.00%
3.1. Nam 224 100.00%
3.2. Nữ 0 0.00%
4. Trình độ học vấn 224 100.00%
4.1 Dưới tiểu học 0 0.00%
4.2. Tiểu học 0 0.00%
4.3. THCS 32 14.29%
4.4. THPT 160 71.43%
4.5. TC/Cao đẳng 32 14.29%
4.6. Đại học 0 0.00%
4.7. Sau đại học 0 0.00%
5. Tình trạng hôn nhân 224 100.00%
5.1. Chưa kết hôn 0 0.00%
5.2. Có vợ. Chồng 224 100.00%
5.3. Ly thân/ly dị 0 0.00%
203
5.4. Góa 0 0.00%
6. Tôn giáo 224 100.00%
6.1. Theo tôn giáo 48 21.43%
6.2. Không tôn giáo 176 78.57%
7. Khu vực sinh sống 224 100.00%
7.1.Ph.La 1 0 0.00%
7.2.Ph.La 2 176 78.57%
7.3.Ph.La 3 48 21.43%
7.4.Ph.La 4 0 0.00%
8. Nghề nghiệp 224 100.00%
8.1. Thủ công 144 69.23%
8.2. Nông dân 0 0.00%
8.3. Công nhân 0 0.00%
8.4. Công chức/viên chức 0 0.00%
8.5. Công an/bộ đội 0 0.00%
8.6. Buôn bán/dịch vụ 48 23.08%
8.7. Học sinh/sinh viên 0 0.00%
8.8. Cán bộ hưu trí 0 0.00%
8.9. Thất nghiệp 0 0.00%
8.10. Nội trợ 16 7.69%
8.11. Khác 0 0.00%
9. Tự nhận xét về mức sống 224 100.00%
9.1. Giàu có 0 0.00%
9.2. Khá giả 80 35.71%
9.3. Trung bình 144 64.29%
9.4. Nghèo 0 0.00%
204
9.5. Khó trả lời 0 0.00%
10. Tổng số thành viên trong gia đình 224 100.00%
10.1. Từ 01 16 7.14%
10.2. Từ 02 112 50.00%
10.3. Từ 03 trở lên 96 42.86%
11. Số lao động của hộ gia đình (trong độ 224 tuổi lao động) 100.00%
11.1. Từ 01 16 7.14%
11.2. Từ 02 48 21.43%
11.3. Từ 03 trở lên 160 71.43%
12. Số nữ trong gia đình 224 100.00%
12.1. Từ 01 48 21.43%
12.2. Từ 02 32 14.29%
12.3. Từ 03 trở lên 144 64.29%
13. Số trẻ em trong gia đình 224 100.00%
13.1. Từ 01 80 35.71%
13.2. Từ 02 64 28.57%
13.3. Từ 03 trở lên 80 35.71%
14. Số người đang có việc làm 224 100.00%
14..1. Từ 01 64 28.57%
14.2. Từ 02 112 50.00%
14.3. Từ 03 trở lên 48 21.43%
15. Nguồn thu nhập của ông bà? (Có thể chọn 224 nhiều phương án) 100.00%
15.1. Nghề thủ công 64 28.57%
15.2. Trồng trọt 16 7.14%
205
15.3. Chăn nuôi 16 7.14%
15.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 128 57.14%
15.5. Làm thuê 0 0.00%
15.6. Lương 16 7.14%
15.7. Thừa kế 0 0.00%
15.8. Trúng số 0 0.00%
15.9. Khác (ghi rõ) 0 0.00%
16. Nguồn thu nhập chính của gia đình? 240 ( Chỉ chọn 1 phương án) 107.14%
96 42.86% 16.1. Nghề thủ công
16.2. Trồng trọt 0 0.00%
16.3. Chăn nuôi 0 0.00%
16.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 144 64.29%
16.5. Làm thuê 0 0.00%
16.6. Lương 0 0.00%
16.7. Thừa kế 0 0.00%
16.8. Trúng số 0 0.00%
16.9. Khác (ghi rõ) 0 0.00%
17. Thu nhập của cả hộ 224 100.00%
17.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 16 7.14%
17.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 112 50.00%
17.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 64 28.57%
17.4. Trên 30 triệu/tháng 32 14.29%
18. Thu nhập của NLT 224 100.00%
18.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 64 28.57%
18.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 96 42.86%
206
18.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 32 14.29%
18.4. Trên 30 triệu/tháng 32 14.29%
Câu hỏi phần II: Biến đổi phương thức truyền nghề 0 và mối quan hệ của người làng nghề
19. Xin ông/bà biết hiện nay và trước năm 1996
việc được truyền nghề chủ yếu được tiến hành vào 0
những đối tượng nào sau đây?
19.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%
19.1.1. Truyền nghề cho người trong gia đình 0 0.00%
19.1.2. Chỉ truyền nghề cho con trai/dâu 0 0.00%
19.1.3. Không truyền nghề cho người ngoài 0 0.00%
19.1.4. Truyền nghề cho mọi người học việc 224 100.00%
19.1.5. Chỉ truyền một phần kinh ngiệm 0 0.00%
19.1.6. Truyền hết mọi kinh nghiệm 0 0.00%
19.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%
19.2.1. Truyền nghề cho người trong gia đình 208 92.86%
19.2.2. Chỉ truyền nghề cho con trai/dâu 16 7.14%
19.2.3. Không truyền nghề cho người ngoài 0 0.00%
19.2.4. Truyền nghề cho mọi người học việc 0 0.00%
19.2.5. Chỉ truyền 1 phần kinh ngiệm 0 0.00%
19.2.6. Truyền hết mọi kinh nghiệm 0 0.00%
20. Nhóm đối tượng chủ yếu được gia đình đào tạo 0 nghề hiện nay và trước năm 1996 0.00%
20.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%
20.1.1. Lao động trẻ, thanh niên 0 0.00%
20.1.2. Lao động là nam thanh niên 0 0.00%
207
0.00% 20.1.3. Lao động là nữ thanh niên 0
224 100.00% 20.1.4. Lao động là trung niên
20.1.5. Lao động là người già 0 0.00%
20.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%
20.2.1. Lao động trẻ, thanh niên 224 100.00%
20.2.2. Lao động là nam thanh niên 0 0.00%
20.2.3. Lao động là nữ thanh niên 0 0.00%
20.2.4. Lao động là trung niên 0 0.00%
20.2.5. Lao động là người già 0 0.00%
21. Các lý do duy trì nghề truyền thống của hộ gia 0 đình hiện nay và vào thời điểm trước năm 1996 0.00%
21.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%
21.1.1. Phát triển kinh tế của gia đình 208 92.86%
21.1.2. Tạo việc làm cho nhiều người 16 7.14%
21.1.3. Duy trì phát triền văn hóa truyền thống 0 0.00%
21.1.4. Duy trì nghề của cha ông để lại 0 0.00%
21.1.5. Đây là lựa chọn công việc tốt nhất của gia 0 đình 0.00%
21.1.6. Đáp ứng nhu cầu của xã hội 0 0.00%
21.1.7. Khác (ghi cụ thể) 0 0.00%
21.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%
21.2.1. Phát triển kinh tế của gia đình 0 0.00%
21.2.2. Tạo việc làm cho nhiều người 0 0.00%
21.2.3. Duy trì phát triền văn hóa truyền thống 224 100.00%
0 0.00% 21.2.4. Duy trì nghề của cha ông để lại
0 0.00% 21.2.5. Đây là lựa chọn công việc tốt nhất của giađình
208
21.2.6. Đáp ứng nhu cầu của xã hội 0 0.00%
21.2.7. Khác (ghi cụ thể) 0 0.00%
22. Hoạt động truyền nghề, giữ bí quyết nghề sản
xuất thủ công đang bị ảnh hưởng bởi yếu tố nào 224
nhất ? 100.00%
22.1. Tôn vinh nghề thủ công/tôn vinh nghệ nhân 0.00% 0
160 71.43% 22.2. Yếu tố kinh tế/thu nhập
22.3. Tính chất bí quyết nghề 0 0.00%
22.4. Mức độ tài hoa của bàn tay khối óc, tâm hồn 0 của từng cá nhân 0.00%
22.5. Quy luật kinh tế thị trường 0 0.00%
22.6. Mức độ áp dụng kỹ thuật, công nghệ vào quy 0 trình sản xuất 0.00%
22.7. Sự thay đổi công năng sử dụng của các sản 0 phẩm thủ công 0.00%
22.8. Sự thay đổi mức sống của người dân 0 0.00%
22.9. Nhu cầu lao động việc làm 0 0.00%
22.10. Vấn đề môi trường sống 32 14.29%
22.11. Lịch sử phát triển, thương hiệu của làng nghề 0 0.00%
22.12. Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa 32 14.29%
22.13. Tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội 0 nhập quốc tế 0.00%
22.14. Nghệ nhân và thợ tay nghề cao của làng 0 nghề 0.00%
22.15. Số lượng, chất lượng đào tạo nghề 0 0.00%
22.16. Khả năng nắm bắt kỹ năng, kỹ năng truyền 0 0.00%
209
thống
22.17. Khả năng nắm được lí quyết tổ nghề 0 0.00%
IV. Biến đổi một số quan niệm và quan hệ xã hội 0 0.00%
23. Ông/bà đề cao vân đề nào sau đây trong quan hệ 0 bạn hàng hiện nay và thời điểm trước năn 1996? 0.00%
23.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%
23.1.1. Đảm bảo chữ tín 48 21.43%
23.1.2. Tiền trao cháo múc 16 7.14%
23.1.3. Thuận mua vừa bán 0 0.00%
23.1.4. Mục đich mua được nguyên liệu rẻ nhất 0 0.00%
23.1.5. Mục đích có lợi nhuận cao nhất 160 71.43%
23.1.6. Khác (ghi cụ thể) 0 0.00%
23.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%
23.2.1. Đảm bảo chữ tín 224 100.00%
23.2.2. Tiền trao cháo múc 0 0.00%
23.2.3. Thuận mua vừa bán 0 0.00%
23.2.4. Mục đich mua được nguyên liệu rẻ nhất 0 0.00%
23.2.5. Mục đích có lợi nhuận cao nhất 0 0.00%
23.2.6. Khác (ghi cụ thể) 0 0.00%
24. Ông/bà thường thực hiện những hình thức nào
trong quan hệ với bạn hàng vào thời điểm hiện nay 0
và trước năn 1996? 0.00%
24.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%
24.1.1. Giao dịch trực tiếp bằng miệng 0 0.00%
24.1.2. Giao dịch thông qua trung gian 0 0.00%
24.1.3. Giao dịch trực tiếp bằng văn bản 0 0.00%
210
24.1.4. Giao dịch qua điện thoại 224 100.00%
24.1.5. Giao dịch qua thư điện tử/chuyển phát 0 nhanh 0.00%
24.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%
24.2.1. Giao dịch trực tiếp bằng miệng 224 100.00%
24.2.2. Giao dịch thông qua trung gian 0 0.00%
24.2.3. Giao dịch trực tiếp bằng văn bản 0 0.00%
24.2.4. Giao dịch qua điện thoại 0 0.00%
24.2.5. Giao dịch qua thư điện tử/chuyển phát 0 nhanh 0.00%
25. Việc giữ bí truyền nghề có ảnh hưởng đến
những mối quan bệ nào sau đây vào thời điểm hiện 0
nay và trước năm 1996? 0.00%
25.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%
25.1.1. Nhằm chi phối quan hệ hôn nhân 0 0.00%
25.1.2. Nhằm chi phối quan hệ thầy - trò 0 0.00%
25.1.3. Nhằm chi phối quan hệ nội tộc 32 14.29%
25.1.5. Nhằm duy trì sức mạnh của gia đình, dòng họ
25.1.4. Nhằm chi phối quan hệ bất bình đẳng giới 0 0.00%
192 85.71%
25.1.6. Khác (ghi cụ thể) 0 0.00%
25.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%
25.2.1. Nhằm chi phối quan hệ hôn nhân 0 0.00%
25.2.2. Nhằm chi phối quan hệ thầy - trò 0 0.00%
25.2.3. Nhằm chi phối quan hệ nội tộc 224 100.00%
25.2.5. Nhằm duy trì sức mạnh của gia đình, dòng họ
25.2.4. Nhằm chi phối quan hệ bất bình đẳng giới 0 0.00%
0 0.00%
211
25.2.6. Khác (ghi cụ thể) 0 0.00%
26. Xin ông.bà cho biết mức độ sang nhà hàng xóm
chơi của bản thân vào thời điểm hiện nay và trước 0
năm 1996? 0.00%
26.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%
26.1.1. Hàng ngày 43 19.20%
26.1.2. Hàng tuần 52 23.20%
26.1.3. Hàng tháng 49 21.88%
26.1.4. Thỉnh thoảng 71 31.70%
26.1.5. Rất hiếm khi 9 4.02%
26.1.6. Không bao giờ 0 0.00%
26.2. Từ năm 1996 trở về trước 224 100.00%
26.2.1. Hàng ngày 52 23.21%
26.2.2. Hàng tuần 55 24.55%
26.2.3. Hàng tháng 22 9.82%
26.3.4. Thỉnh thoảng 92 41.07%
26.4.5. Rất hiếm khi 3 1.35%
26.5.6. Không bao giờ 0 0.00%
27. Xin ông bà cho biết định hướng giá trị của bản
thân trong các mối quan hệ sau ở thời điểm hiện 0
nay và trước năm 1996? 0.00%
27.1. Lựa chọn giá trị hiện nay 0 0.00%
27.1.1. Gia đình 224 100.00%
27.1.1.1. Tình cảm 224 100.00%
27.1.1.2. Kinh tế 0 0.00%
27.1.2. Dòng họ 224 100.00%
212
27.1.2.1. Tình cảm 0 0.00%
27.1.2.2. Kinh tế 224 100.00%
27.1.3. Hàng xóm 224 100.00%
27.1.3.1. Tình cảm 0 0.00%
27.1.3.2. Kinh tế 224 100.00%
27.1.4. Bạn bè 224 100.00%
27.1.4.1. Tình cảm 0 0.00%
27.1.4.2. Kinh tế 224 100.00%
27.1.5. Bạn hàng/bạn nghề 224 100.00%
27.1.5.1. Tình cảm 16 7.14%
27.1.5.2. Kinh tế 208 92.86%
27.1.6. Chủ - thợ 224 100.00%
27.1.6.1. Tình cảm 0 0.00%
27.1.6.2. Kinh tế 224 100.00%
27.1.7. Thầy - trò 224 100.00%
27.1.7.1. Tình cảm 0 0.00%
27.1.7.2. Kinh tế 224 100.00%
0 0.00% 27.2. Lựa chọn giá trị trước năm 1996
27.2.1. Gia đình 224 100.00%
27.2.1.1. Tình cảm 208 92.86%
27.2.1.2. Kinh tế 16 7.14%
27.2.2. Dòng họ 224 100.00%
27.2.2.1. Tình cảm 208 92.86%
27.2.2.2. Kinh tế 16 7.14%
27.2.3. Hàng xóm 224 100.00%
27.2.3.1. Tình cảm 208 92.86%
213
27.2.3.2. Kinh tế 16 7.14%
27.2.4. Bạn bè 224 100.00%
27.2.4.1. Tình cảm 0 0.00%
27.2.4.2. Kinh tế 224 100.00%
27.2.5. Bạn hàng/bạn nghề 224 100.00%
27.2.5.1. Tình cảm 208 92.86%
27.2.5.2. Kinh tế 16 7.14%
27.2.6. Chủ - thợ 224 100.00%
27.2.6.1. Tình cảm 0 0.00%
27.2.6.2. Kinh tế 224 100.00%
27.2.7. Thầy - trò 224 100.00%
27.2.7.1. Tình cảm 0 0.00%
27.2.7.2. Kinh tế 224 100.00%
28. Đánh giá về mối liên hệ, hỗ trợ lẫn nhau trong
khâu sản xuất - tiêu thụ hàng thủ công hiện nay so 224
với trước năm 1996? 100.00%
28.1. Tích cực hơn rất nhiều 0 0.00%
28.2. Tích cực hơn 224 100.00%
28.3. Không thay đổi 0 0.00%
28.4. Giảm đi 0 0.00%
28.5. Khó đánh giá 0 0.00%
29. Ông/bà hãy đánh giá về mối quan hệ của bản 0 thân ở thời điểm hiện nay và trước năm 1996? 0.00%
29.1. Thời điểm hiện nay 0 0.00%
29.1.1. Quan hệ gia đình 224 100.00%
29.1.1.1 Quan trọng 221 98.66%
214
29.1.1.2 Bình thường 0.89% 2
29.1.1.3 Không quan trọng 0.45% 1
29.1.2. Quan hệ dòng họ 100.00% 224
29.1.2.1 Quan trọng 66.96% 150
29.1.2.2 Bình thường 33.04% 74
29.1.2.3 Không quan trọng 0.00% 0
29.1.3. Quan hệ hàng xóm 224 100.00%
29.1.3.1 Quan trọng 0.00% 0
29.1.3.2 Bình thường 35.71% 80
29.1.3.3 Không quan trọng 64.29% 144
29.1.4. Quan hệ bạn hàng 100.00% 224
29.1.4.1 Quan trọng 100.00% 224
29.1.4.2 Bình thường 0.00% 0
29.1.4.3 Không quan trọng 0.00% 0
29.1.5. Quan hệ bạn bè 224 100.00%
29.1.5.1 Quan trọng 28.57% 64
29.1.5.2 Bình thường 35.71% 80
29.1.5.3 Không quan trọng 35.71% 80
29.1.6. Quan hệ tâm linh tín ngưỡng 224 100.00%
29.1.6.1 Quan trọng 0.00% 0
29.1.6.2 Bình thường 21.43% 48
29.1.6.3 Không quan trọng 176 78.57%
29.2. Trước năm 1996 0.00% 0
29.2.1. Quan hệ gia đình 100.00% 224
29.1.2.1 Quan trọng 91.96% 206
29.1.2.2 Bình thường 8.04% 18
215
29.1.2.3 Không quan trọng 0 0.00%
29.2.2. Quan hệ dòng họ 224 100.00%
29.2.2.1 Quan trọng 148 66.07%
29.2.2.2 Bình thường 75 33.48%
29.2.2.3 Không quan trọng 1 0.45%
29.2.3. Quan hệ hàng xóm 224 100.00%
29.2.3.1 Quan trọng 0.00% 0
29.2.3.2 Bình thường 224 100.00%
29.2.3.3 Không quan trọng 0 0.00%
29.2.4. Quan hệ bạn hàng 224 100.00%
29.2.4.1 Quan trọng 224 100.00%
29.2.4.2 Bình thường 0 0.00%
29.2.4.3 Không quan trọng 0 0.00%
29.2.5. Quan hệ bạn bè 224 100.00%
29.2.5.1 Quan trọng 64 28.57%
29.2.5.2 Bình thường 80 35.71%
29.2.5.3 Không quan trọng 80 35.71%
29.2.6. Quan hệ tâm linh tín ngưỡng 224 100.00%
29.2.6.1 Quan trọng 0 0.00%
29.2.6.2 Bình thường 32 14.29%
29.2.6.3 Không quan trọng 192 85.71%
216
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ BIẾN ĐỔI NGHỀ DỆT
Thông tin chung Số người Tỷ lệ %
1. Năm sinh 224 100.00%
1.1. 1940-1955 32 14.29%
1.2. 1956-1970 160 71.43%
1.3. 1971-1985 0 0.00%
1.4. 1996-nay 32 14.29%
2. Chủ hộ 224 100.00%
2.1. Là chủ hộ 192 85.71%
2.2. Không chủ hộ 32 14.29%
3. Giới tính: 224 100.00%
3.1. Nam 192 85.71%
3.2. Nữ 32 14.29%
4. Trình độ học vấn 224 100.00%
4.1 Dưới tiểu học 0 0.00%
4.2. Tiểu học 64 28.57%
4.3. THCS 128 57.14%
4.4. THPT 0 0.00%
4.5. TC/Cao đẳng 32 14.29%
4.6. Đại học 0 0.00%
4.7. Sau đại học 0 0.00%
5. Tình trạng hôn nhân 224 100.00%
5.1. Chưa kết hôn 32 14.29%
5.2. Có vợ. Chồng 192 85.71%
5.3. Ly thân/ly dị 0 0.00%
5.4. Góa 0 0.00%
217
6. Tôn giáo 224 100.00%
6.1. Theo tôn giáo 48 21.43%
6.2. Không tôn giáo 176 78.57%
7. Khu vực sinh sống 224 100.00%
7.1.Ph.La 1 16 7.14%
7.2.Ph.La 2 128 57.14%
7.3.Ph.La 3 48 21.43%
7.4.Ph.La 4 32 14.29%
8. Nghề nghiệp 224 100.00%
8.1. Thủ công 144 69.23%
8.2. Nông dân 0 0.00%
8.3. Công nhân 0 0.00%
8.4. Công chức/viên chức 0 0.00%
8.5. Công an/bộ đội 0 0.00%
8.6. Buôn bán/dịch vụ 48 23.08%
8.7. Học sinh/sinh viên 0 0.00%
8.8. Cán bộ hưu trí 0 0.00%
8.9. Thất nghiệp 0 0.00%
8.10. Nội trợ 16 7.69%
8.11. Khác 0 0.00%
9. Tự nhận xét về mức sống 224 100.00%
9.1. Giàu có 0 0.00%
9.2. Khá giả 64 28.57%
9.3. Trung bình 160 71.43%
9.4. Nghèo 0 0.00%
9.5. Khó trả lời 0 0.00%
218
10. Tổng số thành viên trong gia đình 224 100.00%
10.1. Từ 01 0 0.00%
10.2. Từ 02 112 50.00%
10.3. Từ 03 trở lên 112 50.00%
11. Số lao động của hộ gia đình (trong độ tuổi 224 lao động) 100.00%
11.1. Từ 01 16 7.14%
11.2. Từ 02 48 21.43%
11.3. Từ 03 trở lên 160 71.43%
12. Số nữ trong gia đình 224 100.00%
12.1. Từ 01 48 21.43%
12.2. Từ 02 32 14.29%
12.3. Từ 03 trở lên 144 64.29%
13. Số trẻ em trong gia đình 224 100.00%
13.1. Từ 01 64 28.57%
13.2. Từ 02 32 14.29%
13.3. Từ 03 trở lên 128 57.14%
14. Số người đang có việc làm 224 100.00%
14..1. Từ 01 112 50.00%
14.2. Từ 02 112 50.00%
14.3. Từ 03 trở lên 0 0.00%
15. Nguồn thu nhập của ông bà? (Có thể chọn 224 nhiều phương án) 100.00%
15.1. Nghề thủ công 64 28.57%
15.2. Trồng trọt 16 7.14%
15.3. Chăn nuôi 16 7.14%
219
15.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 128 57.14%
15.5. Làm thuê 0 0.00%
15.6. Lương 48 21.43%
15.7. Thừa kế 0 0.00%
15.8. Trúng số 0 0.00%
15.9. Khác (ghi rõ) 0 0.00%
16. Nguồn thu nhập chính của gia đình? ( Chỉ 224 chọn 1 phương án) 100.00%
16.1. Nghề thủ công 48 21.43%
16.2. Trồng trọt 0 0.00%
16.3. Chăn nuôi 16 7.14%
16.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 96 42.86%
16.5. Làm thuê 16 7.14%
16.6. Lương 48 21.43%
16.7. Thừa kế 0 0.00%
16.8. Trúng số 0 0.00%
16.9. Khác (ghi rõ) 0 0.00%
17. Thu nhập của cả hộ 224 100.00%
17.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 64 28.57%
17.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 96 42.86%
17.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 32 14.29%
17.4. Trên 30 triệu/tháng 32 14.29%
18. Thu nhập của NLT 224 100.00%
18.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 64 28.57%
18.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 96 42.86%
18.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 32 14.29%
220
18.4. Trên 30 triệu/tháng 32 14.29%
Câu hỏi phần III: Biến đổi hình thức tổ chức sản 0 xuất, kỹ thuật chế tác và sản phẩm
19. Nơi sản xuất thủ công của hộ gia đình hiện nay 0 và vào thời điểm trước năm 1996?
19.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%
19.1.1. Vừa là nơi sản xuất, bán hàng và ở 144 64.29%
19.1.2. Vừa sản xuất, vừa bán hàng 64 28.57%
19.1.3. Sản xuất và bán hàng riêng biệt 16 7.14%
19.1.4. Không có, phải đi thuê mặt bằng 0 0.00%
19.2. Thời điểm trước năm 1996 224 100.00%
19.2.1. Vừa là nơi sản xuất, bán hàng và ở 224 100.00%
19.1.2. Vừa sản xuất, vừa bán hàng 0 0.00%
19.2.3. Sản xuất và bán hàng riêng biệt 0 0.00%
19.2.4. Không có, phải đi thuê mặt bằng 0 0.00%
20. Lựa chọn công nghệ kỹ thuật sản xuất của làng 0 nghề hiện nay và trước năm 1996 0.00%
20.1. Lựa chọn công nghệ sản xuất hiện nay 0 0.00%
20.1.1. Lựa chọn sợi nguyên liệu 224 100.00%
20.1.1.1. Công nghệ hiện đại 32 14.29%
20.1.1.2. Thủ công 192 85.71%
20.1.2. Xử lý sợ nguyên liệu 224 100.00%
20.1.2.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%
20.1.2.2. Thủ công 176 78.57%
0 0.00% 20.2. Lựa chọn công nghệ sản xuất trước năm1996
20.2.1. Lựa chọn sợi nguyên liệu 224 100.00%
221
20.2.1.1. Công nghệ hiện đại 0 0.00%
20.2.1.2. Thủ công 224 100.00%
20.2.2. Xử lý sợ nguyên liệu 224 100.00%
20.2.2.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%
20.2.2.2. Thủ công 176 78.57%
21.Việc áp dụng công nghệ thủ công và hiện đại trong
sản xuất thủ công và thời điểm năm 1996 và hiện nay 0
của gia đình 0.00%
21.1. Lựa chọn công nghệ sản xuất hiện nay 0 0.00%
21.1.1. Dệt 224 100.00%
21.1.1.1. Công nghệ hiện đại 224 100.00%
21.1.1.2. Thủ công 0 0.00%
21.1.2. Tẩy 224 100.00%
21.1.2.1. Công nghệ hiện đại 224 100.00%
21.1.2.2. Thủ công 0 0.00%
21.1.3. Nhuộm 224 100.00%
21.1.3.1. Công nghệ hiện đại 224 100.00%
21.1.3.2. Thủ công 0 0.00%
21.1.4. In 224 100.00%
21.1.4.1. Công nghệ hiện đại 224 100.00%
21.1.4.2. Thủ công 0 0.00%
21.1.5. Đóng gói 224 100.00%
21.1.5.1. Công nghệ hiện đại 224 100.00%
21.1.5.2. Thủ công 0 0.00%
0 0.00% 21.2. Lựa chọn công nghệ sản xuất trước năm1996
21.2.1. Dệt 224 100.00%
222
21.2.1.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%
21.2.1.2. Thủ công 176 78.57%
21.2.2. Tẩy 224 100.00%
21.2.2.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%
21.2.2.2. Thủ công 176 78.57%
21.2.3. Nhuộm 224 100.00%
21.2.3.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%
21.2.3.2. Thủ công 176 78.57%
21.2.4. In 224 100.00%
21.2.4.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%
21.2.4.2. Thủ công 176 78.57%
21.2.5. Đóng gói 224 100.00%
21.2.5.1. Công nghệ hiện đại 48 21.43%
21.2.5.2. Thủ công 176 78.57%
22. Các sản phẩm của làng nghề vào thời điểm hiện
nay và trước năm 1996 thể hiện yếu tố nào quan trọng 0
nhất sau đây? 0.00%
22.1. Sản phẩm thủ công của làng nghề hiện nay 224 100.00%
22.1.1. Giá trị văn hóa truyền thống 16 7.14%
22.1.2. Giá trị văn hóa hiện đại 64 28.57%
22.1.3. Giá trị kinh tế 64 28.57%
22.1.4. Giá trị sử dụng 32 14.29%
22.1.5. Đáp ứng nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng 48 21.43%
22.1.6. Sản xuất mang tính dây chuyền 0 0.00%
22.1.7. Sản xuất mang tính thủ công 0 0.00%
22.2. Sản phẩm thủ công của làng nghề trước1996 224 100.00%
223
22.2.1. Giá trị văn hóa truyền thống 28.57% 64
22.2.2. Giá trị văn hóa hiện đại 0.00% 0
22.2.3. Giá trị kinh tế 35.71% 80
22.2.4. Giá trị sử dụng 7.14% 16
22.2.5. Đáp ứng nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng 7.14% 16
22.2.6. Sản xuất mang tính dây chuyền 14.29% 32
22.2.7. Sản xuất mang tính thủ công 7.14% 16
23. Hình thức phân công lao động trong sản xuất nghề
thủ công của hộ gia đình vào thời điểm hiện nay và 0
trước năm 1986 0.00%
23.1. Thời điểm hiện nay 224 100.00%
23.1.1. Theo vai trò 28.57% 64
23.1.2. Theo thứ bậc thế hệ 64.29% 144
23.1.3. Theo vai trò chủ hộ/ người làm thuê 7.14% 16
23.1.4. Theo vai trò chủ/ người làm thuê 0.00% 0
23.1.5. Theo khả năng về sức khỏe 0.00% 0
23.1.6. Theo trình độ thạo nghề 0.00% 0
23.2. Thời điểm trước năm 1996 224 100.00%
23.2.1. Theo vai trò 28.57% 64
23.2.2. Theo thứ bậc thế hệ 0.00% 0
23.2.3. Theo vai trò chủ hộ/ người làm thuê 7.14% 16
23.2.4. Theo vai trò chủ/ người làm thuê 0.00% 0
23.2.5. Theo khả năng về sức khỏe 144 64.29%
0.00% 0 23.3.6. Theo trình độ thạo nghề
24. Mức độ phân công và hợp tác lao động giữa các 0 hộ sản xuất thủ công hiện nay sơ với trước năm 1996 0.00%
224
24.1. Đánh giá vào thời điểm hiện nay 224 100.00%
24.1.1. Rất tốt 160 71.43%
24.1.2. Tốt 64 28.57%
24.1.3. Chưa tốt 0 0.00%
24.1.4. Khó đánh giá 0 0.00%
24.2. Đánh giá vào thời điểm trước năm 1996 224 100.00%
24.2.1. Rất tốt 80 35.71%
24.2.2. Tốt 144 64.29%
24.2.3. Chưa tốt 0 0.00%
24.2.4. Khó đánh giá 0 0.00%
25. Mức độ phân công và hợp tác lao động giữa các
thành viên trong hộ gia đình sản xuất thủ công hiện 0
nay so với trước năm 1986 0.00%
25.1. Đánh giá vào thời điểm hiện nay 224 100.00%
25.1.1. Rất tốt 144 64.29%
25.1.2. Tốt 80 35.71%
25.1.3. Chưa tốt 0 0.00%
25.1.4. Khó đánh giá 0 0.00%
25.2. Đánh giá vào thời điểm trước năm 1996 224 100.00%
25.2.1. Rất tốt 48 21.43%
25.2.2. Tốt 160 71.43%
25.2.3. Chưa tốt 16 7.14%
25.2.4. Khó đánh giá 0 0.00%
26. Hiện trạng một số vấn đề liên quan đến thuê mướn
lao động trong sản xuất thủ công vào thời điểm hiện 0
nay và trước năm 1986 của hộ gia đình? 0.00%
225
26.1. Thuê mướn lao động hiện nay 224 100.00%
26.1.1. Người cùng trong gia đình, dòng họ 0 0.00%
26.1.2. Người trong làng, xã 16 7.14%
26.1.3. Người trong huyện, thành phố 208 92.86%
26.1.4. Người ở tỉnh/thành khác 0 0.00%
26.2. Thuê mướn lao động trước năm 1996 224 100.00%
26.2.1. Người cùng trong gia đình, dòng họ 0 0.00%
26.2.2. Người trong làng, xã 224 100.00%
26.1.3. Người trong huyện, thành phố 0 0.00%
26.2.4. Người ở tỉnh/thành khác 0 0.00%
27. Quy mô thuê mướn lao động của hộ gia đình trong 0 sản xuất thủ công hiện nay và trước năm 1996 0.00%
27.1. Quy mô thuê mướn lao động hiện nay 224 100.00%
27.1.1. Thuê dưới 5 lao động 224 100.00%
27.1.2. Thuê từ 6 - 10 lao động 0 0.00%
27.1.3. Thuê trên 10 lao động 0 0.00%
27.1.4. Không thuê lao động 0 0.00%
27.2. Quy mô thuê mướn lao động trước năm 1996 224 100.00%
27.2.1. Thuê dưới 5 lao động 224 100.00%
27.2.2. Thuê từ 6 - 10 lao động 0 0.00%
27.2.3. Thuê trên 10 lao động 0 0.00%
27.2.4. Không thuê lao động 0 0.00%
28. Cách thức trả công cho người lao động sản xuất 0 thủ công hiện nay so với trước năm 1996 0.00%
28.1. Cách thức trả công lao động hiện nay 224 100.00%
28.1.1. Trả lường theo tháng 0 0.00%
226
28.1.2. Trả công theo sản phẩm 0 0.00%
28.1.3. Khoán công nhật 0 0.00%
28.1.4. Đan xen cả 3 hình thức trên 100.00% 224
28.2. Cách thức trả công lao động trước năm 1996 100.00% 224
28.2.1. Trả lường theo tháng 0 0.00%
28.2.2. Trả công theo sản phẩm 224 100.00%
28.2.3. Khoán công nhật 0 0.00%
28.2.4. Đan xen cả 3 hình thức trên 0 0.00%
29. Cách thức thể hiện hợp đồng lao động hiện nay và 0 trước năm 1996 0.00%
29.1. Cách thức thể hiện hợp đồng lao động hiện nay 224 100.00%
29.1.1. Bằng văn bản 0 0.00%
29.1.2. Bằng miệng 0 0.00%
29.1.3. Vừa bằng văn bản vừa bằng miệng 224 100.00%
29.1.4. Không có 0 0.00%
29.2. Cách thức thể hiện hợp đồng lao động trước 224 năm 1986 100.00%
29.1.1. Bằng văn bản 0 0.00%
29.1.2. Bằng miệng 224 100.00%
0 0.00% 29.1.3. Vừa bằng văn bản vừa bằng miệng
0 0.00% 29.1.4. Không có
30. Ông/bà thường lựa chọn thuê mướn những người
0 lao động nào sau đây vào thời điểm hiện nay và tước
0.00% năm 1996?
240 107.14% 30.1. Hiện nay ưu tiên cho ai?
0 0.00% 30.1.1. Ưu tiên lao động trong gia đình
227
30.1.2. Ưu tiên lao động thân quen 0 0.00%
30.1.3. Ưu tiên lao động thạo nghề 0 0.00%
30.1.4. Ưu tiên lao động với mức tiền công thấp 0 0.00%
30.1.5. Ưu tiên tạo ra năng suất lao động cao 224 100.00%
30.1.6.Ưu tiên lao động có khả năng áp dụng công 16 7.14% nghệ
30.2. Trước năm 1996 ưu tiên cho ai? 240 107.14%
30.2.1. Ưu tiên lao động trong gia đình 0 0.00%
30.2.2. Ưu tiên lao động thân quen 208 92.86%
30.2.3. Ưu tiên lao động thạo nghề 16 7.14%
30.2.4. Ưu tiên lao động với mức tiền công thấp 0 0.00%
30.2.5. Ưu tiên tạo ra năng suất lao động cao 0 0.00%
30.2.6.Ưu tiên lao động có khả năng áp dụng công 16 7.14% nghệ
228
KẾT QỦA ĐIỀU TRA VỀ TÍN NGƢỠNG, LỄ HỘI , PHONG TỤC
Số người Tỷ lệ % Thông tin chung
208 100.00% 1. Năm sinh
1.1. 1940-1955 0 0.00%
1.2. 1956-1970 48 23.08%
1.3. 1971-1985 160 76.92%
1.4. 1996-nay 0 0.00%
2. Chủ hộ 208 100.00%
2.1. Là chủ hộ 208 100.00%
2.2. Không chủ hộ 0 0.00%
3. Giới tính: 208 100.00%
3.1. Nam 96 46.15%
3.2. Nữ 112 53.85%
4. Trình độ học vấn 208 100.00%
4.1 Dưới tiểu học 0 0.00%
4.2. Tiểu học 0 0.00%
4.3. THCS 48 23.08%
4.4. THPT 112 53.85%
4.5. TC/Cao đẳng 48 23.08%
4.6. Đại học 0 0.00%
4.7. Sau đại học 0 0.00%
5. Tình trạng hôn nhân 208 100.00%
5.1. Chưa kết hôn 0 0.00%
5.2. Có vợ. Chồng 208 100.00%
5.3. Ly thân/ly dị 0 0.00%
5.4. Góa 0 0.00%
229
6. Tôn giáo 208 100.00%
6.1. Theo tôn giáo 48 23.08%
6.2. Không tôn giáo 160 76.92%
7. Khu vực sinh sống 224 107.69%
7.1.Ph.La 1 80 38.46%
7.2.Ph.La 2 80 38.46%
7.3.Ph.La 3 48 23.08%
7.4.Ph.La 4 16 7.69%
8. Nghề nghiệp 208 100.00%
8.1. Thủ công 32 15.38%
8.2. Nông dân 0 0.00%
8.3. Công nhân 112 53.85%
8.4. Công chức/viên chức 0 0.00%
8.5. Công an/bộ đội 16 7.69%
8.6. Buôn bán/dịch vụ 0 0.00%
8.7. Học sinh/sinh viên 0 0.00%
8.8. Cán bộ hưu trí 32 15.38%
8.9. Thất nghiệp 0 0.00%
8.10. Nội trợ 0 0.00%
8.11. Khác 16 7.69%
9. Tự nhận xét về mức sống 208 100.00%
9.1. Giàu có 48 23.08%
9.2. Khá giả 144 69.23%
9.3. Trung bình 16 7.69%
9.4. Nghèo 0 0.00%
9.5. Khó trả lời 0 0.00%
230
10. Tổng số thành viên trong gia đình 208 100.00%
10.1. Từ 01 16 7.69%
10.2. Từ 02 112 53.85%
10.3. Từ 03 trở lên 80 38.46%
11. Số lao động của hộ gia đình (trong độ 208 tuổi lao động) 100.00%
11.1. Từ 01- 0 0.00%
11.2. Từ 02 64 30.77%
11.3. Từ 03 trở lên 144 69.23%
12. Số nữ trong gia đình 208 100.00%
12.1. Từ 01 48 23.08%
12.2. Từ 02 32 15.38%
12.3. Từ 03 trở lên 128 61.54%
13. Số trẻ em trong gia đình 208 100.00%
13.1. Từ 01 64 30.77%
13.2. Từ 02 16 7.69%
13.3. Từ 03 trở lên 128 61.54%
14. Số người đang có việc làm 208 100.00%
14.1. Từ 01 48 23.08%
14.2. Từ 02 96 46.15%
14.3. Từ 03 trở lên 64 30.77%
15. Nguồn thu nhập của ông bà? (Có thể 208 chọn nhiều phương án) 100.00%
15.1. Nghề thủ công 32 15.38%
15.2. Trồng trọt 16 7.69%
15.3. Chăn nuôi 0 0.00%
231
15.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 48 23.08%
15.5. Làm thuê 96 46.15%
15.6. Lương 16 7.69%
15.7. Thừa kế 0 0.00%
15.8. Trúng số 0 0.00%
15.9. Khác (ghi rõ) 0 0.00%
16. Nguồn thu nhập chính của gia đình? 208 (Chỉ chọn 1 phương án) 100.00%
16.1. Nghề thủ công 16 7.69%
16.2. Trồng trọt 16 7.69%
16.3. Chăn nuôi 32 15.38%
16.4. Hoạt động kinh doanh của gia đình 80 38.46%
16.5. Làm thuê 64 30.77%
16.6. Lương 0 0.00%
16.7. Thừa kế 0 0.00%
16.8. Trúng số 0 0.00%
16.9. Khác (ghi rõ) 0 0.00%
17. Thu nhập của cả hộ 208 100.00%
17.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 64 30.77%
17.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 80 38.46%
17.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 32 15.38%
17.4. Trên 30 triệu/tháng 32 15.38%
18. Thu nhập của NLT 208 100.00%
18.1. Từ 1 - 10 triệu/tháng 64 30.77%
18.2. Từ 11 - 20 triệu/tháng 80 38.46%
18.3. Từ 21 -30 triệu/tháng 32 15.38%
232
18.4. Trên 30 triệu/tháng 32 15.38%
Câu hỏi phần IV: Biến đổi tín ngưỡng, lễ hội và 0 phong tục tập quán làng nghề 0.00%
19. Đánh giá tầm quan trọng của những thiết chế
văn hóa trong cộng đồng hiện nay và thời điểm 0
trước năm 1986? 0.00%
19.2. Thời điểm hiện nay 0 0.00%
19.1.1. Nhà thờ tổ nghề 208 100.00%
19.1.1.1. Quan trọng 0 0.00%
19.1.1.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.1.1.3 Không có 208 100.00%
19.1.2. Đình làng, giếng nước, gốc đa 208 100.00%
19.1.2.1. Quan trọng 208 100.00%
19.1.2.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.1.2.3 Không có 0 0.00%
19.1.3. Chùa 208 100.00%
19.1.3.1. Quan trọng 80 38.46%
19.1.3.2. Không quan trọng 128 61.54%
19.1.3.3 Không có 0 0.00%
19.1.4. Đền, miếu 208 100.00%
19.1.4.1. Quan trọng 208 100.00%
19.1.4.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.1.4.3 Không có 0 0.00%
19.1.5. Nhà thờ 208 100.00%
19.1.5.1. Quan trọng 0 0.00%
19.1.5.2. Không quan trọng 0 0.00%
233
19.1.5.3 Không có 208 100.00%
19.1.6. Nhà thờ họ 208 100.00%
19.1.6.1. Quan trọng 0.00% 0
19.1.6.2. Không quan trọng 0.00% 0
19.1.6.3 Không có 208 100.00%
19.1.7. Nhà văn hóa, thư viện 0 0.00%
19.1.7.1. Quan trọng 0 0.00%
19.1.7.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.1.7.3 Không có 0 0.00%
19.1.8. Đài phát thanh 0 0.00%
19.1.8.1. Quan trọng 0 0.00%
19.1.8.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.1.8.3 Không có 0 0.00%
19.1.9. Câu lạc bộ 0 0.00%
19.1.9.1. Quan trọng 0 0.00%
19.1.9.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.1.9.3 Không có 0 0.00%
19.1.10. Sân vận động 0 0.00%
19.1.10.1. Quan trọng 0 0.00%
19.1.10.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.1.10.3 Không có 0 0.00%
19.2. Trước năm 1996 0 0.00%
19.2.1. Nhà thờ tổ nghề 208 100.00%
19.2.1.1. Quan trọng 0 0.00%
19.2.1.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.2.1.3 Không có 208 100.00%
234
19.2.2. Đình làng, giếng nước, gốc đa 208 100.00%
19.2.2.1. Quan trọng 208 100.00%
19.2.2.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.2.2.3 Không có 0 0.00%
19.2.3. Chùa 208 100.00%
19.2.3.1. Quan trọng 0 0.00%
19.2.3.2. Không quan trọng 32 15.38%
19.2.3.3 Không có 176 84.62%
19.2.4. Đền, miếu 208 100.00%
19.2.4.1. Quan trọng 0 0.00%
19.2.4.2. Không quan trọng 208 100.00%
19.2.4.3 Không có 0 0.00%
19.2.5. Nhà thờ 0 0.00%
19.2.5.1. Quan trọng 0 0.00%
19.2.5.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.2.5.3 Không có 0 0.00%
19.2.6. Nhà thờ họ 0 0.00%
19.2.6.1. Quan trọng 0 0.00%
19.2.6.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.2.6.3 Không có 0 0.00%
19.2.7. Nhà văn hóa, thư viện 0 0.00%
19.2.7.1. Quan trọng 0 0.00%
19.2.7.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.2.7.3 Không có 0 0.00%
19.2.8. Đài phát thanh 0 0.00%
19.2.8.1. Quan trọng 0 0.00%
235
19.2.8.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.2.8.3 Không có 0 0.00%
19.2.9. Câu lạc bộ 0 0.00%
19.2.9.1. Quan trọng 0 0.00%
19.2.9.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.2.9.3 Không có 0 0.00%
19.2.10. Sân vận động 0 0.00%
19.2.10.1. Quan trọng 0 0.00%
19.2.10.2. Không quan trọng 0 0.00%
19.2.10.3 Không có 0 0.00%
20. Đánh giá về tầm quan trọng việc duy trì các
hoạt động tín ngưỡng, lễ hội truyền thống của làng 0
nghề hiện nay và thời điểm trước năm 1996? 0.00%
20.1. Thời điểm hiện nay 208 100.00%
20.1.1. Rất quan trọng 104 50.00%
20.1.2. Quan trọng 98 47.11%
20.1.3. Bình thường 6 2.89%
20.1.4. Không quan trọng 0 0.00%
20.1.5. Khó đánh giá 0 0.00%
20.2. Từ năm 1996 trở về trước 208 100.00%
20.2.1. Rất quan trọng 37 17.79%
20.2.2. Quan trọng 106 50.96%
20.2.3. Bình thường 60 28.84%
20.2.4. Không quan trọng 2 0.96%
20.2.5. Khó đánh giá 3 1.45%
236
21. Ông/bà có gia phả của dòng họ vào thời điểm 0 hiện nay và trước năm 1996? 0.00%
21.1. Thời điểm hiện nay 208 100.00%
21.1.1. Có 208 100.00%
21.1.2. Không 0 0.00%
21.2. Từ năm 1996 trở về trước 208 100.00%
21.1.1. Có 48 23.08%
21.1.2. Không 160 76.92%
22. Đánh giá việc tham gia tập quán cưới của
người sản xuất thủ công hiện nay và thời điểm 0
trước năm 1996? 0.00%
22.1. Hiện nay 0 0.00%
22.1.1. Lễ dạm ngõ 208 100.00%
22.1.1.1. Quan trọng 192 92.31%
22.1.1.2. Không quan trọng 16 7.69%
22.1.2. Lễ cưới 208 100.00%
22.1.2.1. Quan trọng 208 100.00%
22.1.2.2. Không quan trọng 0 0.00%
22.1.3. Lễ lại mặt 208 100.00%
22.1.3.1. Quan trọng 160 76.92%
22.1.3.2. Không quan trọng 48 23.08%
22.1.4. Nộp cheo 208 100.00%
22.1.4.1. Quan trọng 0 0.00%
22.1.4.2. Không quan trọng 208 100.00%
22.1.5. Thách cưới 208 100.00%
22.1.5.1. Quan trọng 0 0.00%
237
22.1.5.2. Không quan trọng 208 100.00%
22.1.6. Cho của hồi môn 208 100.00%
22.1.6.1. Quan trọng 0 0.00%
22.1.6.2. Không quan trọng 208 100.00%
22.1.7. Lễ gia tiên đón dâu 208 100.00%
22.1.7.1. Quan trọng 0 0.00%
22.1.7.2. Không quan trọng 208 100.00%
22.1.8. Lễ tơ hồng 208 100.00%
22.1.8.1. Quan trọng 0 0.00%
22.1.8.2. Không quan trọng 208 100.00%
22.2. Trước năm 1996 0 0.00%
22.2.1. Lễ dạm ngõ 208 100.00%
22.2.1.1. Quan trọng 0 0.00%
22.2.1.2. Không quan trọng 208 100.00%
22.2.2. Lễ cưới 208 100.00%
22.2.2.1. Quan trọng 48 23.08%
22.2.2.2. Không quan trọng 160 76.92%
22.2.3. Lễ lại mặt 208 100.00%
22.2.3.1. Quan trọng 48 23.08%
22.2.3.2. Không quan trọng 160 76.92%
22.2.4. Nộp cheo 208 100.00%
22.2.4.1. Quan trọng 0 0.00%
22.2.4.2. Không quan trọng 208 100.00%
22.2.5. Thách cưới 208 100.00%
22.2.5.1. Quan trọng 0 0.00%
22.2.5.2. Không quan trọng 208 100.00%
238
22.2.6. Cho của hồi môn 208 100.00%
22.2.6.1. Quan trọng 208 100.00%
22.2.6.2. Không quan trọng 0 0.00%
22.2.7. Lễ gia tiên đón dâu 208 100.00%
22.2.7.1. Quan trọng 208 100.00%
22.2.7.2. Không quan trọng 0 0.00%
22.2.8. Lễ tơ hồng 208 100.00%
22.2.8.1. Quan trọng 32 15.38%
22.2.8.2. Không quan trọng 176 84.62%
23. Đánh giá việc tang của người sản xuất thủ 0 công hiện nay và thời điểm trước năm 1996? 0.00%
23.1. Thời điểm hiện nay 0 0.00%
23.1.1. Che mặt cho người chết 208 100.00%
23.1.1.1. Quan trọng 208 100.00%
23.1.1.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.1.2. Yểm bùa 208 100.00%
23.1.2.1. Quan trọng 208 100.00%
23.1.2.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.1.3. Nhạc hiếu 208 100.00%
23.1.3.1. Quan trọng 208 100.00%
23.1.3.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.1.4. Thầy pháp sư làm lễ 208 100.00%
23.1.4.1. Quan trọng 208 100.00%
23.1.4.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.1.5. Xem giờ phát tang 208 100.00%
23.1.5.1. Quan trọng 208 100.00%
239
23.1.5.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.1.6. Xem giờ hạ huyệt 208 100.00%
23.1.6.1. Quan trọng 208 100.00%
23.1.6.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.1.7. Việc để tang 208 100.00%
23.1.7.1. Quan trọng 177 85.09%
23.1.7.2. Không quan trọng 31 14.91%
23.1.8. Cúng 3 ngày 208 100.00%
23.1.8.1. Quan trọng 208 100.00%
23.1.8.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.1.9. Cúng tuần 208 100.00%
23.1.9.1. Quan trọng 48 23.08%
23.1.9.2. Không quan trọng 160 76.92%
23.1.10. Đắp mộ 208 100.00%
23.1.10.1. Quan trọng 208 100.00%
23.1.10.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.1.11. Cúng 49 ngày 208 100.00%
23.1.11.1. Quan trọng 208 100.00%
23.1.11.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.1.12. Cúng 100 ngày 208 100.00%
23.1.12.1. Quan trọng 208 100.00%
23.1.12.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.1.13. Giỗ đầu 208 100.00%
23.1.13.1. Quan trọng 208 100.00%
23.1.13.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.1.14. Khâm liệm 208 100.00%
240
23.1.13.1. Quan trọng 208 100.00%
23.1.13.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.1.15. Đặt hướng mộ 208 100.00%
23.1.13.1. Quan trọng 151 72.59%
23.1.13.2. Không quan trọng 57 27.41%
23.1.16. Chọn nơi chôn cất 208 100.00%
23.1.13.1. Quan trọng 164 78.84%
23.1.13.2. Không quan trọng 44 21.16%
23.2. Trước năm 1996 0 0.00%
23.2.1. Che mặt cho người chết 208 100.00%
23.2.1.1. Quan trọng 208 100.00%
23.2.1.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.2.2. Yểm bùa 208 100.00%
23.2.2.1. Quan trọng 208 100.00%
23.2.2.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.2.3. Nhạc hiếu 208 100.00%
23.2.3.1. Quan trọng 0 0.00%
23.2.3.2. Không quan trọng 208 100.00%
23.2.4. Thầy pháp sư làm lễ 208 100.00%
23.2.4.1. Quan trọng 0 0.00%
23.2.4.2. Không quan trọng 208 100.00%
23.2.5. Xem giờ phát tang 208 100.00%
23.2.5.1. Quan trọng 0 0.00%
23.2.5.2. Không quan trọng 208 100.00%
23.2.6. Xem giờ hạ huyệt 208 100.00%
23.2.6.1. Quan trọng 208 100.00%
241
23.2.6.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.2.7. Việc để tang 208 100.00%
23.2.7.1. Quan trọng 208 100.00%
23.2.7.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.2.8. Cúng 3 ngày 208 100.00%
23.2.8.1. Quan trọng 208 100.00%
23.2.8.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.2.9. Cúng tuần 208 100.00%
23.2.9.1. Quan trọng 47 23.09%
23.2.9.2. Không quan trọng 160 76.91%
23.2.10. Đắp mộ 208 100.00%
23.2.10.1. Quan trọng 0 0.00%
23.2.10.2. Không quan trọng 208 100.00%
23.2.11. Cúng 49 ngày 208 100.00%
23.2.11.1. Quan trọng 208 100.00%
23.2.11.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.2.12. Cúng 100 ngày 208 100.00%
23.2.12.1. Quan trọng 208 100.00%
23.2.12.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.2.13. Giỗ đầu 208 100.00%
23.2.13.1. Quan trọng 208 100.00%
23.2.13.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.2.14. Khâm liệm 208 100.00%
23.2.14.1. Quan trọng 208 100.00%
23.2.14.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.2.15. Đặt hướng mộ 208 100.00%
242
23.2.15.1. Quan trọng 208 100.00%
23.2.15.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.2.16. Chọn nơi chôn cất 208 100.00%
23.2.16.1. Quan trọng 208 100.00%
23.2.16.2. Không quan trọng 0 0.00%
23.2.17. Việc cải táng 208 100.00%
23.2.17.1. Quan trọng 198 95.19%
24. Đánh giá sự chuyển đổi về hoạt động tín ngưỡng
23.2.17.2. Không quan trọng 10 4.82%
của làng nghề hiện nay và trước năm 1996?
0 0.00%
24.1. Thời điểm hiện nay 0 0.00%
24.1.1. Thờ tổ tiên 208 100.00%
24.1.1.1. Quan trọng 208 100.00%
24.1.1.2. Không quan trọng 0 0.00%
24.1.2. Thờ phật 208 100.00%
24.1.2.1. Quan trọng 208 100.00%
24.1.2.2. Không quan trọng 0 0.00%
24.1.3. Thờ thành hoàng 208 100.00%
24.1.3.1. Quan trọng 48 23.08%
24.1.3.2. Không quan trọng 160 76.92%
24.1.4. Thờ ông tổ nghề 208 100.00%
24.1.4.1. Quan trọng 0 0.00%
24.1.4.2. Không quan trọng 208 100.00%
24.1.5. Thờ thần tài 208 100.00%
24.1.5.1. Quan trọng 208 100.00%
24.1.5.2. Không quan trọng 0 0.00%
243
24.2. Trước năm 1996 0 0.00%
24.2.1. Thờ tổ tiên 208 100.00%
24.2.1.1. Quan trọng 208 100.00%
24.2.1.2. Không quan trọng 0 0.00%
24.2.2. Thờ phật 208 100.00%
24.2.2.1. Quan trọng 208 100.00%
24.2.2.2. Không quan trọng 0 0.00%
24.2.3. Thờ thành hoàng 208 100.00%
24.2.3.1. Quan trọng 48 23.08%
24.2.3.2. Không quan trọng 160 76.92%
24.2.4. Thờ ông tổ nghề 208 100.00%
24.2.4.1. Quan trọng 48 23.08%
24.2.4.2. Không quan trọng 160 76.92%
24.2.5. Thờ thần tài 208 100.00%
24.2.5.1. Quan trọng 32 15.38%
24.2.5.2. Không quan trọng 176 84.62%
25. Đánh giá việc than gia lễ hội hiện nay so với 0 thời điểm trước năm 1996? 0.00%
25.1. Số lượng lễ hội truyền thống ở địa 272 phương 130.77%
25.1.1. Tăng lên 192 92.31%
25.1.2. Vẫn thế 0 0.00%
25.1.3. Giảm đi 80 38.46%
25.2. Tham gia của người dân vào hoạt động lễ 208 hội 100.00%
25.2.1. Tăng lên 208 100.00%
244
25.2.2. Vẫn thế 0 0.00%
25.2.3. Giảm đi 0 0.00%
25.3. Đóng góp của người dân cho hoạt động lễ 208 hội 100.00%
25.3.1. Tăng lên 208 100.00%
25.3.2. Vẫn thế 0 0.00%
25.3.3. Giảm đi 0 0.00%
25.4. Sự tham gia của gia đình ông/bà vào lễ 208 hội 100.00%
25.4.1. Tăng lên 16 7.69%
25.4.2. Vẫn thế 192 92.31%
25.4.3. Giảm đi 0 0.00%
25.5. Đóng góp của gia đình ông/bà vào lễ hội 208 100.00%
25.5.1. Tăng lên 48 23.08%
25.5.2. Vẫn thế 160 76.92%
25.5.3. Giảm đi 0 0.00%
26. Đánh giá mức độ quan trọng của các chủ thể
sau đối với các hoạt động văn hóa tín ngưỡng ở 0
làng nghề? 0.00%
26.1. Cán bộ, công chức nhà nước 208 100.00%
26.1.1. Rất quan trọng 0 0.00%
26.1.2. Quan trọng 16 7.69%
26.1.3. Bình thường 192 92.31%
26.1.4. Không quan trọng 0 0.00%
26.1.5. Khó đánh giá 0 0.00%
26.2. Người giàu có/doanh nhân 208 100.00%
245
26.2.1. Rất quan trọng 0.00% 0
26.2.2. Quan trọng 208 100.00%
26.2.3. Bình thường 0.00% 0
26.2.4. Không quan trọng 0.00% 0
26.2.5. Khó đánh giá 0.00% 0
26.3. Người làm nghề thủ công 208 100.00%
26.3.1. Rất quan trọng 0.00% 0
26.3.2. Quan trọng 0.00% 0
26.3.3. Bình thường 208 100.00%
26.3.4. Không quan trọng 0.00% 0
26.3.5. Khó đánh giá 0.00% 0
26.4. Người già cả trong làng 208 100.00%
26.4.1. Rất quan trọng 0.00% 0
26.4.2. Quan trọng 0.00% 0
26.4.3. Bình thường 208 100.00%
26.4.4. Không quan trọng 0.00% 0
26.4.5. Khó đánh giá 0.00% 0
26.5. Thanh thiếu niên trong làng 208 100.00%
26.5.1. Rất quan trọng 0.00% 0
26.5.2. Quan trọng 0.00% 0
26.5.3. Bình thường 208 100.00%
26.5.4. Không quan trọng 0.00% 0
26.5.5. Khó đánh giá 0.00% 0
26.6. Khách thập phương 208 100.00%
26.6.1. Rất quan trọng 0.00% 0
26.6.2. Quan trọng 0.00% 0
246
208 100.00% 26.6.3. Bình thường
26.6.4. Không quan trọng 0 0.00%
26.6.5. Khó đánh giá 0 0.00%
26.7. Nam giới trong làng 224 107.69%
26.7.1. Rất quan trọng 0 0.00%
26.7.2. Quan trọng 0 0.00%
26.7.3. Bình thường 208 100.00%
26.7.4. Không quan trọng 0 0.00%
26.7.5. Khó đánh giá 16 7.69%
26.8. Nữ giới trong làng 224 107.69%
26.8.1. Rất quan trọng 0 0.00%
26.8.2. Quan trọng 0 0.00%
26.8.3. Bình thường 208 100.00%
26.8.4. Không quan trọng 0 0.00%
26.8.5. Khó đánh giá 16 7.69%
27. Đánh giá hiện trạng văn hóa làng nghề truyền 0 thống hiện nay và thời gian trước năm 1996? 0.00%
27.1. Đánh giá hiện trạng văn hóa làng nghề 0 truyền thống hiện nay 0.00%
27.1.1. Yếu tố đa dạng, phong phú 208 100.00%
27.1.1.1. Có 192 92.31%
27.1.1.2. Không 16 7.69%
27.1.2. Yếu tố bản sắc, độc đáo 208 100.00%
27.1.2.1. Có 208 100.00%
27.1.2.2. Không 0 0.00%
27.1.3. Vai trò của văn hóa làng nghề với sự 208 phát triển 100.00%
247
27.1.3.1. Có 208 100.00%
27.1.3.2. Không 0 0.00%
27.1.4. Yếu tố tự hào của người dân về văn hóa 208 làng nghề 100.00%
27.1.4.1. Có 0 0.00%
27.1.4.2. Không 208 100.00%
27.1.5. Đánh giá về khả năng lan tỏa của văn 208 hóa làng nghề 100.00%
27.1.5.1. Có 0 0.00%
27.1.5.2. Không 208 100.00%
27.1.6. Đánh giá về sợ giao thoa của văn hóa 208 làng nghề 100.00%
27.1.6.1. Có 176 84.62%
27.1.6.2. Không 32 15.38%
27.1.7. Sắc thái văn hóa dân tộc của làng nghề 208 100.00%
27.1.7.1. Có 0 0.00%
27.1.7.2. Không 208 100.00%
27.2. Đánh giá hiện trạng văn hóa làng nghề 0 trước năm 1996 0.00%
27.2.1. Yếu tố đa dạng, phong phú 208 100.00%
27.2.1.1. Có 0 0.00%
27.2.1.2. Không 208 100.00%
27.2.2. Yếu tố bản sắc, độc đáo 208 100.00%
27.2.2.1. Có 32 15.38%
27.2.2.2. Không 176 84.62%
27.2.3. Vai trò của văn hóa làng nghề với sự 208 phát triển 100.00%
248
27.2.3.1. Có 16 7.69%
27.2.3.2. Không 192 92.31%
27.2.4. Yếu tố tự hào của người dân về văn hóa 208 làng nghề 100.00%
27.2.4.1. Có 208 100.00%
27.2.4.2. Không 0 0.00%
27.2.5. Đánh giá về khả năng lan tỏa của văn 208 hóa làng nghề 100.00%
27.2.5.1. Có 208 100.00%
27.2.5.2. Không 0 0.00%
27.2.6. Đánh giá về sự giao thoa của văn hóa 208 làng nghề 100.00%
27.2.6.1. Có 16 7.69%
27.2.6.2. Không 192 92.31%
27.2.7. Sắc thái văn hóa dân tộc của làng nghề 208 100.00%
27.2.7.1. Có 0 0.00%
27.2.7.2. Không 208 100.00%
28. Tầm quan trọng của các quy ước sau đây đối
với đời sống của làng nghề và thời điểm hiện nay 0
và trước năm 1986? 0.00%
28.1. Thời điểm hiện nay 0 0.00%
28.1.1. Quy ước lễ hội của làng nghề 208 100.00%
208 100.00% 28.1.1.1. Quan trọng
0 0.00% 28.1.1.2. Không quan trọng
0 0.00% 28.1.1.3. Không có
28.1.2. Quy ước về tín ngưỡng của làng nghề 208 100.00%
0 0.00% 28.1.2.1. Quan trọng
28.1.2.2. Không quan trọng 208 100.00%
0 0.00% 28.1.2.3. Không có
249
28.1.3. Quy ước của gia đình trong sản xuất thủ 208 công 100.00%
28.1.3.1. Quan trọng 208 100.00%
28.1.3.2. Không quan trọng 0 0.00%
28.1.3.3. Không có 0 0.00%
28.1.4. Quy ước của dòng họ trong sản xuất thủ 208 công 100.00%
28.1.4.1. Quan trọng 0 0.00%
28.1.4.2. Không quan trọng 208 100.00%
28.1.4.3. Không có 0 0.00%
28.1.5. Quy ước của cộng đồng trong sản xuất 208 thủ công 100.00%
28.1.5.1. Quan trọng 0 0.00%
28.1.5.2. Không quan trọng 208 100.00%
28.1.5.3. Không có 0 0.00%
28.2. Trước năm 1996 0 0.00%
28.2.1. Quy ước lễ hội của làng nghề 208 100.00%
28.2.1.1. Quan trọng 208 100.00%
28.2.1.2. Không quan trọng 0 0.00%
28.2.1.3. Không có 0 0.00%
28.2.2. Quy ước về tín ngưỡng của làng nghề 208 100.00%
28.2.2.1. Quan trọng 208 100.00%
28.2.2.2. Không quan trọng 0 0.00%
28.2.2.3. Không có 0 0.00%
28.2.3. Quy ước của gia đình trong sản xuất thủ 208 công 100.00%
28.2.3.1. Quan trọng 208 100.00%
28.2.3.2. Không quan trọng 0 0.00%
28.2.3.3. Không có 0 0.00%
250
28.2.4. Quy ước của dòng họ trong sản xuất thủ 208 công 100.00%
28.2.4.1. Quan trọng 208 100.00%
28.2.4.2. Không quan trọng 0 0.00%
28.2.4.3. Không có 0 0.00%
28.2.5. Quy ước của cộng đồng trong sản xuất 208 thủ công 100.00%
28.2.5.1. Quan trọng 208 100.00%
28.2.5.2. Không quan trọng 0 0.00%
28.2.5.3. Không có 0 0.00%
29. Theo ông/bà thì làng nghề truyền thống đang 0 có những vai trò gì sau đây? 0.00%
29.1. Làng nghề tạo ra sản phẩm 208 100.00%
29.1.1. Có 208 100.00%
29.1.2. Không 0 0.00%
29.2. Làng nghề tạo ra linh hồn văn hóa 208 100.00%
29.2.1. Có 208 100.00%
29.2.2. Không 0 0.00%
29.3. Làng nghề tạo ra các giá trị chuẩn mực ứng xử 208 100.00%
29.3.1. Có 208 100.00%
29.3.2. Không 0 0.00%
29.4. Làng nghề tạo ra chuẩn mực giao tiếp 208 100.00%
29.4.1. Có 208 100.00%
29.4.2. Không 0 0.00%
29.5. Làng nghề tạo ra môi trường học tập 208 100.00%
29.5.1. Có 208 100.00%
29.5.2. Không 0 0.00%
29.6. Góp phần hạn chế di dân tự do 208 100.00%
29.6.1. Có 208 100.00%
251
29.6.2. Không 0 0.00%
29.7. Giải quyết các vấn đề xã hội tiêu cực 208 100.00%
29.7.1. Có 208 100.00%
29.7.2. Không 0 0.00%
29.8. Tạo cơ hội giao lưu văn hóa 208 100.00%
29.8.1. Có 208 100.00%
29.8.2. Không 0 0.00%
29.9. Mang lại những giá trị vật thể và phi vật thể 208 100.00%
29.9.1. Có 208 100.00%
29.9.2. Không 0 0.00%
29.10. Phản ánh lịch sử, văn hóa, xã hội của địa 208 phương 100.00%
29.10.1. Có 208 100.00%
29.10.2. Không 0 0.00%
29.11. Phản ánh mối quan hệ giữa "nghề' với 208 "nghiệp" 100.00%
29.11.1. Có 208 100.00%
29.11.2. Không 0 0.00%
29.12. Phản ánh qua các tập tục, tín ngưỡng, lễ 208 hội và nhiều quy định khác 100.00%
29.12.1. Có 208 100.00%
29.12.2. Không 0 0.00%
29.13. Nhu cầu sản phẩm thủ công 208 100.00%
29.13.1. Có 208 100.00%
29.13.2. Không 0 0.00%
29.14. Nhu cầu khám phá du lịch 208 100.00%
29.14.1. Có 208 100.00%
29.14.2. Không 0 0.00%
29.15. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 208 100.00%
252
29.15.1. Có 208 100.00%
29.15.2. Không 0 0.00%
29.16. Giải quyết việc làm, tăng thu nhập 208 100.00%
29.16.1. Có 208 100.00%
29.16.2. Không 0 0.00%
29.17. Tăng thu phập cho người lao động 208 100.00%
29.17.1. Có 208 100.00%
29.17.2. Không 0 0.00%
29.18 . Góp phần xóa đói giảm nghêo 208 100.00%
29.18.1. Có 208 100.00%
29.18.2. Không 0 0.00%
29.19. Thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông 208 thôn 100.00%
29.19.1. Có 208 100.00%
29.19.2. Không 0 0.00%
29.20. Bảo tồn và phát huy gái trị văn hóa dân tộc 208 100.00%
29.20.1. Có 208 100.00%
29.20.2. Không 0 0.00%
29.21. Đa dạng hóa thị hiếu tiêu dùng của thị trường 208 100.00%
29.21.1. Có 208 100.00%
29.21.2. Không 0 0.00%
29.22. Duy trì tâm thức của người dân với tín 208 ngưỡng thành hoàng làng, ông tổ nghề 100.00%
29.22.1. Có 208 100.00%
29.22.2. Không 0 0.00%
29.23. Phát triển các quan hệ xã hội 208 100.00%
29.23.1. Có 208 100.00%
29.23.2. Không 0 0.00%
29.24. Phát triển giáo dục cộng đồng 208 100.00%
253
29.24.1. Có 208 100.00%
29.24.2. Không 0 0.00%
29.25. Bảo vệ môi trường cảnh quan 208 100.00%
29.25.1. Có 208 100.00%
29.25.2. Không 0.00% 0
30. Đánh giá về khả năng sản xuất thủ công của
bản thân mình vào thời điểm hiện nay và trước 0
năm 1986 ở các khía cạnh sau? 0.00%
30.1. Thời điểm hiện nay 0.00% 0
30.1.1. Kinh nghiệm sản xuất 208 100.00%
30.1.1.1. Tốt 0.00% 0
30.1.1.2. Bình thường 208 100.00%
30.1.1.3. Không tốt 0.00% 0
30.1.2. Kỹ thuật sản xuất 100.00% 208
30.1.2.1. Tốt 100.00% 208
30.1.2.2. Bình thường 0.00% 0
30.1.2.3. Không tốt 0.00% 0
30.1.3. Bí quyết truyền nghề 0.00% 0
30.1.3.1. Tốt 0.00% 0
30.1.3.2. Bình thường 0.00% 0
30.1.3.3. Không tốt 0.00% 0
30.1.4. Kinh nghiệm sử dụng nguyên vật liệu 208 100.00%
30.1.4.1. Tốt 0.00% 0
30.1.4.2. Bình thường 208 100.00%
30.1.4.3. Không tốt 0.00% 0
30.1.5. Kỹ thuật chế tác của bản thân 208 100.00%
30.1.5.1. Tốt 0.00% 0
30.1.5.2. Bình thường 208 100.00%
30.1.5.3. Không tốt 0.00% 0
254
30.1.6. Khả năng sáng tạo sản phẩm 208 100.00%
30.1.6.1.. Tốt 0 0.00%
208 100.00% 30.1.6.2. Bình thường
30.1.6.3. Không tốt 0 0.00%
30.2. Trước năm 1996 0 0.00%
30.2.1. Kinh nghiệm sản xuất 208 100.00%
30.2.1.1. Tốt 208 100.00%
30.2.1.2. Bình thường 0 0.00%
30.2.1.3. Không tốt 0 0.00%
30.2.2. Kỹ thuật sản xuất 208 100.00%
30.2.2.1. Tốt 208 100.00%
30.2.2.2. Bình thường 0 0.00%
30.2.2.3. Không tốt 0 0.00%
30.2.3. Bí quyết truyền nghề 208 100.00%
30.2.3.1. Tốt 0 0.00%
30.2.3.2. Bình thường 208 100.00%
30.2.3.3. Không tốt 0 0.00%
208 100.00% 30.2.4. Kinh nghiệm sử dụng nguyên vật liệu
30.2.4.1. Tốt 208 100.00%
30.2.4.2. Bình thường 0 0.00%
30.2.4.3. Không tốt 0 0.00%
30.2.5. Kỹ thuật chế tác của bản thân 208 100.00%
30.2.5.1. Tốt 208 100.00%
30.2.5.2. Bình thường 0 0.00%
30.2.5.3. Không tốt 0 0.00%
30.2.6. Khả năng sáng tạo sản phẩm 208 115.38%
30.2.6.1. Tốt 0 0.00%
30.2.6.2. Bình thường 208 100.00%
30.2.6.3. Không tốt 0 0.00%
255
31. Ông/bà đồng ý với những giải pháp sau đối với
việc phát triển, phát huy vai trò của văn hóa làng 0
nghề truyền thống? 0.00%
31.1. Tăng cường nhận thức vai trò phát triển 208 làng nghề 100.00%
31.1.1. Có 208 100.00%
31.1.2. Không 0 0.00%
31.2. Tăng cường quản lý các hoạt động của làng nghề 208 100.00%
31.2.1. Có 208 100.00%
31.2.2. Không 0 0.00%
31.3. Hoàn thiện chính sách pháp luật đối với bảo 208 tồn, phát triển làng nghề 100.00%
31.3.1. Có 208 100.00%
31.3.2. Không 0 0.00%
31.4. Tôn vinh các giá trị văn hóa làng nghề 208 100.00%
31.4.1. Có 208 100.00%
31.4.2. Không 0 0.00%
31.5. Kết hơp yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại 208 100.00%
31.5.1. Có 208 100.00%
31.5.2. Không 0 0.00%
31.6. Đào tạo nghề, bồi dưỡng nhân tài nghệ nhân 208 100.00%
31.6.1. Có 208 100.00%
31.6.2. Không 0 0.00%
31.7. Sưu tầm tài liệu, hiện vật có giá trọ về truyền 208 thồng của các làng nghề 100.00%
31.7.1. Có 208 100.00%
31.7.2. Không 0 0.00%
31.8. Khả năng quản lý doanh nghiệp, điều hành 208 sản xuất thủ công 100.00%
256
31.8.1. Có 208 100.00%
31.8.2. Không 0 0.00%
31.9. Phát triển du lịch làng nghề 208 100.00%
31.9.1. Có 208 100.00%
31.9.2. Không 0 0.00%
31.10. Phát huy ảnh hưởng tích cực của biến đổi 208 văn hóa làng nghề 100.00%
31.10.1. Có 208 100.00%
31.10.2. Không 0 0.00%
31.11. Đầu tư quy hoạch hệ thống các làng nghề 208 100.00%
31.11.1. Có 208 100.00%
31.11.2. Không 0 0.00%
31.12. Tôn tạo hạ tầng giao thông, hệ thống điện, 208 hệ thống dịch vụ, vệ sinh đường làng 100.00%
31.12.1. Có 208 100.00%
31.12.2. Không 0 0.00%
31.13. Tổ chức khai thác các nhà đón tiếp và trưng 208 bày sản phẩm tại các làng nghề 100.00%
31.13.1. Có 208 100.00%
31.14. Đưa các sản phẩm làng nghề tham gia hội chợ
31.13.2. Không 0 0.00%
208 100.00%
31.14.1. Có 208 100.00%
31.14.2. Không 0 0.00%
31.15. Tiến hành hội thi tay nghề 208 100.00%
31.15.1. Có 208 100.00%
31.15.2. Không 0 0.00%
31.16. Tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật và nguồn vốn 208 từ các dự án quốc tế 100.00%
31.16.1. Có 208 100.00%
257
31.16.2. Không 0 0.00%
31.17. Đẩy mạnh cách thức xây dựng và quản lý 208 thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề 100.00%
31.17.1. Có 208 100.00%
31.17.2. Không 0 0.00%
31.18. Đánh giá tầm quan trọng của tục cúng tổ 208 nghề với việc tiến hành các tâm linh khác 100.00%
31.18.1. Có 208 100.00%
31.18.2. Không 0 0.00%
31.19. Quy hoạch khu công nghiệp làng nghề 208 100.00%
31.19.1. Có 208 100.00%
31.19.2. Không 0 0.00%
31.20. Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ thợ 208 thủ công mỹ nghệ có thẩm mỹ 100.00%
31.20.1. Có 208 100.00%
31.20.2. Không 0 0.00%
31.21. Nâng cao kiến thức khoa học, hiểu biết và 208 an tường về truyền thống văn hóa làng nghề 100.00%
31.21.1. Có 208 100.00%
31.21.2. Không 0 0.00%
31.22. Cần có sự vào cuộc của các cấp các ngành 208 và toàn xã hội 100.00%
31.22.1. Có 208 100.00%
31.22.2. Không 0 0.00%
258
Phụ lục 8
MỘT SỐ ẢNH TƢ LIỆU
Ảnh 1.1: Đường vào làng Phương La
CHỦ ĐỀ 1: GIỚI THIỆU LÀNG PHƢƠNG LA
259
Ảnh 1.2: Một đoạn đường làng Phương La
Ảnh 1.3: Biểu tượng làng dệt
260
Ảnh 1.4: Tượng đài liệt sỹ của làng
Ảnh 1.6: Cửa hàng tạp hóa trên trục đường chính làng Phương La
Ảnh 1.5: Một góc đường làng Phương La
261
Ảnh 1.7: Cửa hàng dịch vụ trên trục đường chính của làng
Ảnh 1.8: Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Việt Nam tại làng
262
CHỦ ĐỀ 2: NGHỀ DỆT LÀNG PHƢƠNG LA
Ảnh 2.1: Máy dệt bán công nghiệp khi chưa mắc sợi
Ảnh 2.2: Máy dệt bán công nghiệp khi đã mắc quả sợi
263
Ảnh 2.3: Mặt trước của máy dệt công nghiệp
Ảnh 2.4: Công đoạn in hoa thủ công cho sản phẩm
264
Ảnh 2.5: Kiểm tra, đóng gói sản phẩm
Ảnh 2.6: Kiểm tra, đóng gói sản phẩm
265
Ảnh 2.7: Tập kết thứ phẩm tại vườn
Ảnh 2.8: Tập kết nguyên liệu dệt tại sân
266
Ảnh 2.7: Tập kết sản phẩm dệt tại kho
Ảnh 2.8: Tập kết sản phẩm dệt tại kho
267
Ảnh 2.9: Nơi xuất nguyên liệu tại làng
Ảnh 2.11: Khăn mặt có in màu của sản xuất hộ gia đình
268
Ảnh 2.12: Khăn mặt có in màu của sản xuất công ty
Ảnh 2.13: Vận chuyển sợi bằng xe “lôi”
269
Ảnh 2.14: Vận chuyển sản phẩm đi tiêu thụ
Ảnh 2.15: Xe của công ty gia đình vận chuyển sản phẩm đi tiêu thụ
270
CHỦ ĐỀ 3: MỘT SỐ DOANH NGHIỆP TẠI LÀNG
Ảnh 3.1: Công ty TNHH dệt may xuất khẩu Nam Thành
Ảnh 3.1: Công ty TNHH dệt may xuất khẩu Thảo Nguyên
271
Ảnh 3.3: Công ty TNHH dệt may xuất khẩu Phúc Vĩnh
Ảnh 3.4: Công ty TNHH dệt may xuất khẩu Thành Bắc
272
Ảnh 3.5: Công ty TNHH dệt Tân Phương
Ảnh 3.6: Công ty TNHH dệt may Phương Tiến
273
CHỦ ĐỀ 4: CÁC DI TÍCH THỜ CÚNG
Ảnh 4.1: Đình Phương La (đình Đông)
Ảnh 4.2: Cổng đình Phương La (đình Đông)
274
Ảnh 4.3: Bia đình Phương La
Ảnh 4.4: Đền Sơn Du
275
Ảnh 4.3: Chuông chùa Mẹo
Ảnh 4.4: Bài Minh khắc trên chuông chùa Mẹo
276
Ảnh 4.5: Bia công đức kiến thiết đền Sơn Du
277
Ảnh 4.6: Bia công đức tôn tạo chủa Phương La (chùa Mẹo)
278
Ảnh 4.7: Bia công đức xây dựng Nhà tổ chùa Phương La (chùa Mẹo)
279
Ảnh 4.8: Bia công đức xây dựng Đền mẫu Phương La
280
Ảnh 4.9: Cổng nhà thờ dòng họ Đinh
Ảnh 4.10 : Một góc trái nhà thờ dòng họ Đinh
281
Ảnh 4.11 : Nhà thờ dòng họ Trần ở Phương La (nhìn từ phía chợ vào)
Ảnh 4.12 : Nhà thờ dòng họ Trần ở Phương La (nhìn từ xa)
282
Ảnh 4.13: Cổng nhà thờ họ Lê
Ảnh 4.14 : Nhà thờ họ Đỗ
283
CHỦ ĐỀ 5 : Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG LÀNG NGHỀ
Ảnh 5.1 : Ô nhiễm môi trường nước ở làng dệt Phương La
284
Ảnh 5.2 : Ô nhiễm không khí do bụi của bông, vải, sợi
285
CHỦ ĐỀ 6 : CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁC CỦA NGƢỜI PHƢƠNG LA
Ảnh 6.1. Tranh thủ giờ giải lao, người thợ đi mua sắm
286
Ảnh 6.2: Tranh thủ giờ giải lao, người thợ đi mua sắm
287
Ảnh 6.3: Hoạt động buôn bán tại chợ làng Phương La
288
Ảnh 6.4: Tranh thủ nghỉ giải lao của thợ thủ công