UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ

TRƯỜNG TIỂU HỌC NGŨ HIỆP

----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3

RÈN KĨ NĂNG TÍNH GIÁ TRỊ BIỂU THỨC THEO

BỘ SÁCH CÁNH DIỀU

Lĩnh vực/ Môn : Toán

Cấp học : Tiểu học

Tên Tác giả : Bùi Thị Thùy Dung

Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Ngũ Hiệp

Chức vụ : Giáo viên

NĂM HỌC: 2022 – 2023

MỤC LỤC

4

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Môn Toán là một môn học chiếm một vị trí rất quan trọng và then chốt

trong nội dung chương trình các môn học bậc tiểu học. Nó không chỉ truyền thụ

và rèn luyện kỹ năng tính toán để giúp các em học tốt các môn học khác mà còn

giúp các em rèn luyện trí thông minh, óc tư duy sáng tạo, khả năng tư duy lôgic,

làm việc khoa học. Đồng thời qua đó rèn luyện kĩ năng tính toán cho học sinh.

Việc tính đúng và tính cẩn thận, đó là một việc làm hết sức quan trọng giúp các

em có tính cẩn thận, chu đáo trong cuộc sống. Vì vậy chúng ta cần phải quan

tâm tới việc dạy toán ở Tiểu học.

“Tính giá trị biểu thức”ở Tiểu học thuộc phần kiến thức số học. Biểu thức

không được định nghĩa bằng khái niệm cụ thể mà chỉ giới thiệu “hình thức thể

hiện” là các số, các chữ liên kết bởi các dấu của phép tính. Biểu thức đã được

giới thiệu ngay từ lớp 1 thông qua các phép cộng, trừ. Ở lớp 2, dạy học về phép

nhân, phép chia. Tuy nhiên, đến lớp 3 mới hình thành biểu tượng về biểu thức.

Thực tế, học “Tính giá trị biểu thức” không phải khó đối với học sinh.

Song kĩ năng tính toán của học sinh còn hạn chế nên nhiều em đã làm sai ngay

từ những biểu thức đơn chỉ với 1 phép tính. Khi học biểu thức 2 phép tính trở

lên, đa số học sinh còn lúng túng, nhầm lẫn khi thực hiện thứ tự các phép tính

5

trong biểu thức, nhầm lẫn cách làm các dạng bài dẫn đến sai kết quả tính. Một

mặt, do giáo viên chưa hệ thống các kiểu bài tập đa dạng, khác nhau về 1 dạng

bài để các em được luyện tập và nâng cao kĩ năng.

Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 3, tôi thấy tính giá trị biểu thức là

cơ sở để học các mạch kiến thức khác như: hình học, giải toán và vận dụng tính

toán trong đời sống thực tế. Vì vậy, làm cách nào để học sinh lớp 3 nói chung,

học sinh tiểu học nói riêng học tốt các dạng bài tính giá trị biểu thức là một vấn

đề trăn trở đối với mỗi giáo viên Tiểu học. Do đó, trong quá trình giảng dạy tôi

đã tìm tòi, nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm. Qua quá trình nghiên cứu và thực tế

giảng dạy, tôi muốn chia sẻ với các bạn đồng nghiệp kinh nghiệm nhỏ: “Một số

biện pháp giúp học sinh lớp 3 rèn kĩ năng Tính giá trị biểu thức theo bộ sách

Cánh diều”.

2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu là tìm ra những biện pháp rèn cho học sinh lớp 3 kĩ

năng tính giá trị biểu thức. Kĩ năng tính toán và giải các dạng toán trong chương

trình.

3. Đối tượng nghiên cứu

Với đề tài này tôi chỉ đi sâu nghiên cứu và áp dụng giảng dạy cho học sinh

lớp 3G do tôi chủ nhiệm và học sinh khối 3 trong năm học 2022 - 2023

6

4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này tôi đã vận dụng những phương pháp để nghiên

cứu như sau:

+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.

+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.

+ Phương pháp điều tra.

+ Phương pháp luyện tập - thực hành.

+ Phương pháp hỏi - đáp.

7

PHẦN NỘI DUNG

1. Cơ sở lí luận

Trong toán học Biểu thức là một dãy các số, dấu phép tính viết xen kẽ với

nhau. Còn giá trị của biểu thức chính là kết quả của biểu thức.

Chương trình toán Tiểu học, học sinh từ lớp 1 đến lớp 3 được học các kiến

thức liên quan đến biểu thức và được phát triển dần. Cụ thể chương trình lớp 3

như sau:

Lớp 3: Củng cố bảng nhân, chia từ 2 đến 5. Bổ sung cộng, trừ các số có ba

chữ số (có nhớ 1 lần). Lập bảng nhân (chia) 3, 4, 6, 7, 8, 9. Nhân, chia ngoài

bảng trong phạm vi 1000. Tìm thành phần chưa biết của phép tính. Tính chu vi

một số hình. Đặc biệt, ở lớp 3 học sinh được làm quen với biểu thức số và giá trị

biểu thức, giới thiệu thứ tự thực hiện các phép tính trong biểu thức số có đến hai

dấu phép tính, có dấu ngoặc. Học sinh được làm quen với vòng số lớn hơn: phép

cộng, trừ có nhớ. Phép nhân, chia các số trong phạm vi 10 000; Nhận biết các số

trong phạm vi 100 000, phép cộng, trừ có nhớ các số có 5 chữ số. Nhân, chia các

số có 5 chữ số với các số có 1 chữ số. Tính diện tích một số hình. Tiếp tục tính

giá trị của biểu thức có đến 2 dấu phép tính; Gấp một số lên nhiều lần, giảm đi

một số lần; giải toán, …

8

Với dạng bài “Tính giá trị biểu thức” ở chương trình cũ và chương trình

mới có điểm khác nhau. Chương trình cũ: Tính giá trị của biểu thức số có đến 3

dấu phép tính, có hoặc không có dấu ngoặc. Còn chương trình mới: Tính giá trị

của biểu thức số có đến 2 dấu phép tính, có hoặc không có dấu ngoặc

Đối với dạng bài “Tính giá trị biểu thức” ở lớp 3, ngoài 3 dạng cơ bản

trong sách giáo khoa đã cung cấp, tôi mở rộng và cung cấp thêm cho học sinh

một số dạng bài về tính giá trị biểu thức có nhiều hơn 2 dấu phép tính nhưng vừa

sức với học sinh, giúp các em vận dụng tốt các dạng bài đã học và nâng cao kĩ

năng tính giá trị biểu thức. Cụ thể có các dạng như sau:

* Biểu thức dạng yêu cầu tính nhanh, tính thuận tiện, hợp lý:

+ Dạng biểu thức là một tổng các số hạng cách đều.

+ Dạng biểu thức tính nhanh bằng việc nhóm thành các cặp số tròn trăm,

tròn nghìn.

+ Dạng biểu thức có chứa biểu thức trong ngoặc có giá trị bằng 0, bằng 1.

Đa số học sinh làm sai hoặc lúng túng khi gặp các dạng bài chưa có quy tắc này

2. Thực trạng vấn đề

Lên đến lớp 3, với vòng số lớn hơn, yêu cầu tính giá trị biểu thức từ 2 đến

3 phép tính và các dạng bài tập đa dạng, học sinh hay làm sai thậm chí bỏ qua

những bài khó không giống các dạng cơ bản sách giáo khoa khi được giao trong

đề ôn tập hoặc kiểm tra. Khi thực hiện 3 dạng bài các em còn nhầm lẫn cách tính

9

giữa dạng 1 với dạng 2 và dạng 3. Đặc biệt, khi mở rộng các dấu phép tính các

em còn làm sai. Sau đây là kết quả khảo sát 48 học sinh trong lớp tôi chủ nhiệm

về tính giá trị biểu thức đầu nămhọc 2022 -2023:

HoànThànhtốt Hoànthành Chưahoànthành

TổngsốHS 48 Sốlượng 13 27 8

Tỉlệ 27,1 % 56,3 % 16,6 %

Từ kết quả trên, tôi nhận thấy: Kĩ năng tính giá trị biểu thức của học sinh

còn nhiều hạn chế. Các em vẫn còn làm sai kết quả tính và nhầm lẫn cách làm

các dạng bài. Để khắc phục tình trạng trên, tôi tìm ra lỗi sai của các em trong

từng dạng bài và nguyên nhân của những tồn tại đó để từ đó có những giải pháp

kịp thời, phù hợp, giúp các em nắm vững các dạng bài về tính giá trị biểu thức.

a. Những tồn tại của học sinh trong từng dạng bài tính giá trị biểu thức

* Trường hợp 1: Đối với các biểu thức đơn: (Biểu thức chỉ có 2 số và 1 dấu

phép tính)

Đối với biểu thức đơn có 1 phép tính: cộng, trừ, nhân, chia có nhớ, đa số

học sinh sai do quên không nhớ khi thực hiện tính hoặc do không thuộc các bảng

cộng, trừ, nhân, chia đã học nên tính sai kết quả.

* Trường hợp 2: Đối với các biểu thức có 2 dấu phép tính.

+ Biểu thức chỉ có dấu cộng, trừ hoặc nhân, chia.

Ví dụ: (Bài 2 trang 90 Toán 3 Bộ sách Cánh diều tập 1)

10

Chọn giá trị đúng với mỗi biểu thức sau:

a) 125 - 82 + 7 b) 40 : 5 x 8 c) 20 + 70 - 30

+ Câu a, c: Học sinh sai không nắm được cách tính giá trị biểu thức ở dạng 1.

Các em đã làm theo thứ tự tính biểu thức từ phải sang trái.

+ Câu b: Học sinh sai vì nhầm lẫn với cách tính ở dạng 2. Do đó, khi gặp các

dạng biểu thức có 2 phép tính: nhân và chia; cộng và trừ các em không thực hiện

tính theo thứ tự từ trái sang phải mà thực hiện tính phép nhân trước rồi đến phép

chia, phép cộng trước rồi đến phép trừ.

+ Biểu thức chỉ có dấu cộng, trừ hoặc nhân, chia

Với dạng bài này, tôi nhận thấy ngoài việc học sinh nhân, chia, cộng, trừ

sai, thì học sinh thường mắc lỗi sai khi viết kết quả biểu thức sau dấu bằng thứ

nhất.

Ví dụ: (Bài 1 trang 91 Toán 3 Bộ sách Cánh diều tập 1)

Tính giá trị của biểu thức:

a) 7 + 43 x 2 b) 8 + 15 : 3

Học sinh làm sai vì viết chưa đúng vị trí kết quả trong biểu thức vì cho

rằng “trong biểu thức có dấu cộng, trừ, nhân, chia ta thực hiện các phép tính

nhân, chia trước, thực hiện các phép tính cộng, trừ sau”. Do đó, thực hiện phép

nhân, chia trước thì viết kết quả trước rồi với cộng số hạng còn lại.

11

+ Biểu thức có dấu ngoặc

Ví dụ: (Bài 1 trang 94 Toán 3 Bộ sách Cánh diều tập 1)

Tính giá trị biểu thức:

a) (37 - 18) + 17 b) (6 + 5) x 8 c) 56 - (35 - 16)

+ Câu a: Học sinh làm sai vì thực hiện phép tính cộng trước, thực hiện phép tính

trừ trong dấu ngoặc sau.

+ Câu b: Học sinh làm sai vì thực hiện phép tính nhân rồi mới đến phép tính

cộng trong dấu ngoặc.

+ Câu c: Học sinh làm sai vì thực hiện phép tính trừ bên ngoài dấu ngoặc trước.

b. Nguyên nhân của những tồn tại.

Từ những tồn tại của các em khi thực hành các dạng bài tính giá trị biểu

thức tôi đã tìm ra một số nguyên nhân cơ bản như sau:

+ Giáo viên đôi lúc chưa linh hoạt trong giảng dạy, chưa đầu tư nghiên cứu tìm

ra phương pháp giảng dạy hợp lý đối với từng dạng bài. Chưa khắc sâu cách làm

từng dạng bài cho học sinh.

+ Một số em có lực học không ổn định và nhanh quên kiến thức; kĩ năng tính

toán của một số em còn sai; học sinh chưa thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia.

+ Lên đến lớp 3, các em được thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân có nhớ

nhưng khi thực hiện các em thường quên không nhớ hoặc cộng, trừ, nhân, chia

12

sai. Học sinh chưa hiểu bản chất của từng quy tắc, chưa nắm vững cách tính của

từng dạng tính giá trị biểu thức.

+ Học sinh chưa được làm quen với các dạng bài tập mở rộng về tính nhanh giá

trị biểu thức nên hầu hết các em tính sai hoặc đưa ra cách tính chưa hợp lý khi

thực hiện yêu cầu bài tập.

3. Các giải pháp tổ chức thực hiện.

3.1.Giải pháp 1: Tự học và tự bồi dưỡng của giáo viên

Tự học, tự bồi dưỡng là phương thức tốt nhất giúp người giáo viên tiến

bộ, trưởng thành, có đủ phẩm chất năng lực chuyên môn nghiệp vụ để hoàn

thành nhiệm vụ giáo dục đào tạo được giao. Tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn

nghiệp vụ cho mình, tôi nghĩ không phải là trong một, hai ngày mà là cả một

quá trình làm nghề dạy học. Ý thức được điều đó, tôi luôn tự học hỏi nâng cao

trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân mình.

Ngay từ đầu năm học, dưới sự chỉ đạo của BGH, tôi đã xây dựng cho

mình kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng một cách khoa học nhất. Trong kế hoạch tôi

đã xác định được mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp tự học, tự bồi

dưỡng. Với các chuyên đề nhà trường tổ chức, tôi đã tự mình tìm hiểu nội dung

chương trình của các lớp, tìm hiểu mục tiêu của các tiết học để cùng tham gia

thảo luận đóng góp ý kiến với đồng nghiệp.

13

Khi được giao nhiệm vụ dạy lớp 3, tôi đã tìm hiểu sâu về chương trình

toán 3 bộ sách Cánh Diều nói chung và dạy tính giá trị biểu thức nói riêng, chỗ

nào băn khoăn chưa hiểu tôi hỏi ngay đồng nghiệp, chuyên môn để được tháo

gỡ. Nắm vững bản chất dạng Tính giá trị biểu thức tôi chú trọng nghiên cứu diễn

đạt câu từ một cách dễ hiểu nhất để truyền đạt cho các em.

Đặc biệt, dưới sự góp ý của Ban giám hiệu qua các tiết dự giờ, kiểm tra của bản

thân hay của đồng nghiệp, tôi tiếp thu và chỉnh sửa nghiêm túc. Ngoài ra, tự bản

thân luôn học hỏi bạn bè đồng nghiệp trong nhà trường, liên tục tham gia dự giờ

đồng nghiệp trong khối để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như

khả năng truyền đạt giúp học sinh nắm vững cách làm bài trong mỗi tiết học.

3.2.Giải pháp 2: Phân loại đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy

học

Trong một lớp học thì lực học của học sinh thường không đồng đều nên

việc giáo viên nắm bắt được lực học của từng học sinh trong lớp là nhiệm vụ

đầu tiên và cũng hết sức quan trọng. Từ đó, giáo viên có những giải pháp giúp

các em đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học. Chính vì vậy, qua theo

dõi thực tế lực học của lớp, tôi chia học sinh thành các nhóm sau:

+Nhóm 1: Học sinh bị rỗng kiến thức ở lớp dưới: 9em

14

+ Nhóm 2: Học sinh thiếu điều kiện học tập do hoàn cảnh gia đình khó

khăn, bố mẹ không quan tâm: 6 em.

+ Nhóm 3: Học sinh không chú ý học, nghịch ngợm: 6em

+ Nhóm 4: Học sinh tiếp thu bài tốt, tích cực học bài: 20 em.

Sau khi phân loại được đối tượng học sinh, tôi giải thích để các em hiểu và biết

các em còn chưa đạt chuẩn phần kiến thức nào. Sau đó, tôi lập ngay kế hoạch

kèm cặp giúp đỡ và bồi dưỡng học sinh theo từng nhóm.

+ Nhóm 1: Đây là nhóm học sinh tôi quan tâm nhiều nhất. Tôi vừa phải

giúp các em nhớ lại kiến thức cũ, vừa phải đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng

trong từng tiết học. Nên tôi liên tục kiểm tra các phép tính cộng, trừ, nhân, chia

bằng nhiều hình thức khác nhau: đọc thuộc lòng, phiếu bài tập, chấm bài thường

xuyên,…

+ Nhóm 2: Với đối tượng học sinh này, tôi sẽ tìm hiểu điều kiện hoàn

cảnh của học sinh đó; vận động phụ huynh và học sinh trong lớp giúp đỡ về:

sách vở, đồ dùng…. Ngoài ra, tôi luôn lắng nghe tâm sự để chia sẻ động viên

các em kịp thời.

+ Nhóm 3: Trường hợp học sinh nghịch ngợm, không chú ý trong giờ

học, tôi xếp cho các học sinh đó ngồi ngay bàn đầu và xếp em học sinh ngoan,

học giỏi bên cạnh để giúp đỡ, kèm cặp. Trong giờ học, tôi thường xuyên quan

15

tâm đến học sinh đó bằng cách gọi trả lời các câu hỏi, khen ngợi và động viên

khích lệ các em khi có sự tiến bộ…

+ Nhóm 4: Là nhóm học sinh ngoan, tiếp thu bài tốt, ngoài những bài tập

yêu cầu cần đạt chuẩn, tôi luôn chuẩn bị thêm một số bài tập nâng cao hơn để

giúp các em phát huy khả năng của mình.

Ngoài ra, với học sinh nhóm 1, 2, 3 tôi luôn đánh giá các em theo hướng

động viên, khuyến khích còn nhóm 4 tôi đánh giá theo sự sáng tạo. Bên cạnh đó,

trong thời gian dạy buổi 2, tôi dành nhiều thời gian để ôn tập củng cố lại các

bảng nhân, chia, cộng, trừ với nhiều hình thức: đọc đồng thanh từng bảng nhân,

chia; bằng cách nối tiếp, cá nhân, thi đọc thuộc lòng, hỏi vấn đáp nhanh các

phép tính cộng, trừ trong bảng đã học ở lớp 2, giải toán liên quan đến tính giá trị

biểu thức… với mục đích giúp các em nhớ lại các dạng bài đã học.

Sau thời gian được ôn tập và có hệ thống, học sinh lớp tôi có nhiều

chuyển biến tích cực trong học tập: đi học chuyên cần, tích cực tự giác học bài

và biết vận dụng vào tính giá trị của biểu thức tốt hơn. Đó là cơ sở để các em

học tốt tính giá trị biểu thức trong chương trình học.

16

3.3.Giải pháp 3: Ôn tập, củng cố kiến thức cơ bản có liên quan đến tính giá

trị biểu thức.

Để học sinh học tốt được dạng bài tính giá trị biểu thức ở lớp 3, trước hết

học sinh phải thực hiện thành thạo các bảng nhân, chia, cộng, trừ đã học. Có kĩ

năng thực hiện thành thạo các phép tính về cộng, trừ, nhân, chia từ dễ đến khó

theo các vòng số của chương trình sách giáo khoa. Do đó tôi đã tiến hành ôn tập

lại cho học sinh các mạch kiến thức trên như sau:

Với các bảng nhân chia từ 2 đến 9

Để ôn tập cho học sinh tôi tiến hành dưới các hình thức như: Phát phiếu

bài tập cho các em làm với nhiều dạng bài. Tổ chức trò chơi xì điện, trò chơi đố

nhau. Tổ chức học nhóm đôi học sinh kiểm tra lẫn nhau về các bảng cộng trừ,

nhân, chia đã học, báo cáo kết quả kiểm tra. Các hình thức ôn tập trên tôi tiến

hành vào 15 phút đầu của các buổi ôn Toán - buổi 2 trong ngày. Tiến hành ôn tập

tương tự cho học sinh với các bảng nhân chia 3, 4, 6, 7, 8, 9 các em được học ở

lớp 3.

Với phép cộng, trừ các số có 2, 3 chữ số

Đối với các biểu thức cộng, trừ các số có 2, 3 chữ số. Trước hết tôi giúp

học sinh nắm vững kiến thức theo chương trình sách giáo khoa đã cung cấp.

Thường xuyên ôn tập dưới hình thức phiếu bài tập ở buổi 2. Tiến hành kiểm tra

17

nhanh bằng bảng con. Từ đó tôi phát hiện học sinh có kĩ năng chưa tốt để có

phương pháp bồi dưỡng kịp thời. Tiến hành tương tự với phép cộng, trừ các số

trong phạm vi 10 000; 100 000 các em học sau này.

Với các phép nhân, chia các số có 2, 3 chữ số với số có 1 chữ số

Với các biểu thức là phép nhân, chia các số có 2, 3 chữ số cho số có 1 chữ

số, sau khi cung cấp đầy đủ kiến thức theo chương trình sách giáo khoa, tôi cũng

tiến hành cho học sinh ôn tập vào buổi 2 dưới dạng phiếu bài tập, kiểm tra kĩ

năng tính của học sinh thường xuyên bằng bảng con. Tiến hành ôn tập tương tự

với phép nhân, chia các số có 4, 5 chữ số cho số có 1 chữ số các em được học

sau này. Đặc biệt với phép chia hết và phép chia có dư trong bảng, tôi rèn cho

học sinh kĩ năng nói nhanh kết quả tính bằng cách hỏi đáp nhanh.

Với việc hệ thống ôn tập lại các kiến thức đã học ở lớp 2; cộng, trừ, nhân,

chia các số có 2, 3 chữ số ở lớp 3 là cơ sở giúp các em có nền tảng cơ bản vững

chắc nhất để các em tự tin, vận dụng và làm tốt được các dạng bài tính giá trị

biểu thức nhiều phép tính và nhiều số ở lớp 3.

Qua việc thực hiện biện pháp trên, tôi thấy hầu hết các em học sinh trong

lớp đã thuộc và hiểu được bản chất, ý nghĩa của các bảng cộng, trừ, nhân, chia.

Đặc biệt, kĩ năng tính giá trị biểu thức đơn của các em nhanh và thành thạo.

18

3.4.Giải pháp 4: Giúp học sinh có kĩ năng “Tính giá trị biểu thức” trong các

bài học chính khóa.

Sau khi giúp học sinh ôn tập, củng cố lại các kiến thức có liên quan đến

dạng “Tính giá trị biểu thức”, tôi đã nghiên cứu để tìm cách dạy dạng toán về

tính giá trị biểu thức cho học sinh một cách dễ hiểu nhất. Cũng như các mạch

kiến thức, khi dạy đến dạng toán“Tính giá trị biểu thức”, tôi luôn yêu cầu học

sinh nắm chắc các kiến thức cơ bản mà sáchgiáo khoa cung cấp.

a. Cho học sinh làm quen với biểu thức.

Ở các lớp 1, 2 các em mới chỉ thực hiện các phép tính cộng trừ, nhân, chia

dạng đơn giản nhưng các em chưa biết gì về biểu thức. Vậy để học sinh làm

quen với biểu thức và biết cách tính giá trị, tôi đã cung cấp giới thiệu cho học

sinh nhận biết về biểu thức.

Ví dụ : (Ví dụ về biểu thức số trang 87 Toán 3 Bộ sách Cánh diều tập 1):

381 + 135; 95 – 17; 13 x 3; 64 : 8; 265 - 82 + 10; 11 x 3 + 4; 5 x 12 : 2 ... được

được gọi là biểu thức.

Tôi đưa ra kết luận: Biểu thức là một dãy các số, dấu phép tính viết xen kẽ

với nhau. Từ đây, học sinh nhận biết được khái niệm ban đầu về biểu thức và

các em không còn bỡ ngỡ về biểu thức mà cảm thấy quen thuộc vì lâu nay các

19

em đã được học, được làm. Đồng thời tôi còn giới thiệu cho các em biết về giá

trị của biểu thức.

Ví dụ: (trang 89 Toán 3 Bộ sách Cánh diều tập 1)

381 + 209 = 590. Vậy 590 được gọi là giá trị của biểu thức 381 + 209

68 : 2 = 34. Vậy 34 được gọi là giá trị của biểu thức 68 : 2

Tôi khẳng định cho học sinh: Giá trị của biểu thức chính là kết quả tìm

được của biểu thức. Từ đây các em hiểu rõ hơn về biểu thức và giá trị biểu thức.

* Sau khi các em đã có khái niệm ban đầu về biểu thức và giá trị biểu

thức, tôi mới tiến hành dạy các dạng bài “Tính giá trị biểu thức” trong sách giáo

khoa thông qua các bước sau:

Bước 1: Hướng dẫn học sinh nhận xét biểu thức.

Bước 2: Hướng dẫn học sinh cách làm.

Bước 3: Hướng dẫn học sinh cách trình bày.

Bước 4: Rút ra cách làm cho từng dạng.

b. Biểu thức chỉ có dấu cộng, trừ hoặc nhân, chia.

Ví dụ 1: 37 - 7 - 16 (Ví dụ 1, trang 90 Toán 3 Bộ sách Cánh diều tập 1)

Bước 1: Hướng dẫn học sinh nhận xét biểu thức:

- Biểu thức này có phép tính trừ.

Bước 2: Hướng dẫn học sinh cách làm:

20

- Biểu thức trên ta tính như sau: lấy 37 trừ 7 bằng 30, 30 trừ 16 bằng 14.

Các em thực hiện phép tính từ trái sang phải có nghĩa là thực hiện phép tính trừ

đầu tiên bên trái trước trước được kết quả bao nhiêu rồi thực hiện tiếp phép trừ

tiếp theo.

Bước 3: Hướng dẫn học sinh cách trình bày như sau:

37 - 7 - 16 = 30 – 16

= 14

* Tôi lưu ý học sinh: + Sau khi tìm được kết quả của phép tính trừ đầu

tiên các em viết kết quả tìm được sau dấu bằng rồi viết trừ 16 sang phải.

+ Thực hiện phép tính trừ được kết quả bao nhiêu viết dấu bằng xuống

dòng dưới thẳng với dấu bằng ở trên và viết kết quả của phép tính trừ vừa tìm

được.

Bước 4: Củng cố cách làm cho học sinh.

+ Muốn tính giá trị biểu thức khi có nhiều dấu cộng, trừ ta làm thế nào?

(Thực hiện tính từ trái sang phải)

Ví dụ 2: 15 : 3 x 2 (Ví dụ 2, trang 89 Toán 3 Bộ sách Cánh diều tập 1)

Bước 1: Hướng dẫn học sinh nhận xét biểu thức:

- Biểu thức này có phép tính chia và nhân.

Bước 2: Hướng dẫn học sinh cách làm:

21

- Biểu thức trên ta tính như sau: Lấy 15 chia cho 3 được 5, 5 nhân 2 bằng

10.

Các em thực hiện từ trái sang phải, thực hiện phép tính chia trước được

kết quả bao nhiêu rồi thực hiện tiếp phép nhân.

Bước 3: Hướng dẫn học sinh cách trình bày:

15 : 3 x 2= 5 x 2

= 10

* Tôi lưu ý học sinh như sau:

+ Sau khi tìm được kết quả của phép tính chia các em viết kết quả tìm

được sau dấu bằng rồi viết nhân 2 sang phải.

+ Thực hiện phép tính nhân được kết quả bao nhiêu viết dấu bằng xuống

dòng dưới thẳng với dấu bằng ở trên và viết kết quả của phép tính nhân vừa tìm

được.

+ HD học sinh cách trình bày khác:

15 : 3 x 2 = 5 x 2 = 10

Hoặc: 15 : 3 x 2

= 5 x 2

= 10

Bước 4: Củng cố cách làm cho học sinh.

22

+ Trong biểu thức có chứa dấu phép tính cộng, trừ, nhân, chia ta thực hiện

tính như thế nào? (Thực hiện tính từ trái sang phải).

Qua 2 ví dụ nêu trên tôi khẳng định cho học sinh: Đây là dạng “Tính

giá trị biểu thức” chỉ có các dấu (cộng, trừ) hoặc (nhân, chia). (Dạng 1)

Tôi quy ước cho học sinh cách làm như sau: Khi tính giá trị của các biểu

thức chỉ có phép tính cộng, trừ hoặc nhân, chia thì ta thực hiện các phép tính

theo thứ tự từ trái sang phải.

c. Biểu thức có dấu cộng, trừ, nhân, chia.

Ví dụ 1: 312 x 2 -5 (Bài 1c, trang 91 Toán 3 Bộ sách Cánh diều tập 1)

Bước 1: Hướng dẫn học sinh nhận xét biểu thức:

- Biểu thức này có phép tính nhân và trừ.

Bước 2: Hướng dẫn học sinh cách làm:

- Biểu thức trên ta tính như sau: Ta thực hiện phép nhân trước lấy 312

nhân cho 2 được 624, Lấy 624 trừ 5 bằng 619. Các em thực hiện nhân trước, trừ

sau.

Bước 3: Hướng dẫn học sinh cách trình bày:

- Tôi hướng dẫn học sinh cách trình bày như sau:

312 x 2 - 5 = 624 - 5

= 619

23

* Tôi lưu ý học sinh cách trình bày như sau:

+ Số 624 đứng ở vị trí đầu nên các em phải giữ nguyên vị trí của số 624

sang sau dấu bằng không được đổi vị trí giữ nguyên giống biểu thức ban đầu.

+ Thực hiện phép tính trừ được kết quả bao nhiêu viết dấu bằng xuống

dòng dưới thẳng với dấu bằng ở trên rồi viết kết quả của phép tính trừ vừa tìm

được.

Bước 4: Củng cố cách làm cho học sinh.

+ Muốn tính giá trị biểu thức khi có dấu cộng và chia ta làm thế nào?

(Thực hiện phép tính chia trước, phép tính cộng sau).

Ví dụ 2: 5 x 9 - 2 (Bài 2, trang 92 Toán 3 Bộ sách Cánh diều tập 1)

Bước 1: Hướng dẫn học sinh nhận xét biểu thức:

- Biểu thức này có phép tính trừ và nhân.

Bước 2: Hướng dẫn học sinh cách làm:

- Biểu thức trên ta tính như sau: Ta thực hiện phép nhân trước lấy 5 nhân

9 được 45; Lấy 45 trừ 2 bằng 43. Các em thực hiện phép tính nhân trước, phép

tính trừ sau.

Bước 3: Hướng dẫn học sinh cách trình bày:

- Tôi hướng dẫn học sinh cách trình bày như sau:

5 x 9 - 2 = 45 - 2

24

= 43

* Tôi lưu ý học sinh:

+ Số 45 đứng ở vị trí đầu nên các em phải giữ nguyên vị trí của số 45 sau

dấu bằng không được đổi vị trí giữ nguyên giống biểu thức ban đầu.

+ Thực hiện phép tính trừ được kết quả bao nhiêu viết dấu bằng xuống

dòng dưới thẳng với dấu bằng ở trên rồi viết kết quả của phép tính trừ vừa tìm

được.

Bước 4: Củng cố cách làm cho học sinh.

+ Muốn tính giá trị biểu thức khi có dấu trừ và nhân ta làm thế nào?

(Thực hiện phép tính nhân trước, phép tính trừ sau).

Qua 2 ví dụ nêu trên tôi khẳng định cho học sinh: Đây là dạng “Tính

giá trị biểu thức” có dấu cộng, trừ, nhân, chia. ( Dạng 2)

Tôi rút ra cách làm cho học sinh như sau: Khi tính giá trị của các biểu

thức có các phép tính cộng, trừ, nhân, chia thì ta thực hiện các phép tính nhân,

chia trước; rồi thực hiện các phép tính cộng, trừ sau.

d. Biểu thức có dấu ngoặc đơn.

Ví dụ: 36 : (62 - 56) (Bài 1, trang 94 Toán 3 Bộ sách Cánh diều)

Bước 1: Hướng dẫn học sinh nhận xét biểu thức:

25

- Biểu thức này có phép tính trừ trong dấu ngoặc đơn và phép chia ở ngoài

dấu ngoặc đơn.

Bước 2: Hướng dẫn học sinh cách làm:

- Biểu thức trên ta tính như sau: Ta thực hiện tính trong dấu ngoặc trước

lấy 62 trừ 56 bằng 6; Lấy 36 chia 6 bằng 6. Như vậy các em thực hiện phép tính

trừ trong ngoặc trước, thực hiện phép tính chia sau.

Bước 3: Hướng dẫn học sinh cách trình bày như sau:

36 : (62 - 56) = 36 : 6

= 6

* Tôi lưu ý học sinh cách trình bày:

+ Phép tính trong dấu ngoặc đơn thực hiện trước ở vị trí nào trong biểu

thức thì ta giữ nguyên ở vị trí đó sau dấu bằng. Nên 62 trừ 56 bằng 6 ở vị trí sau

thì ta viết sang sau dấu chia rồi viết 36 bên trái dấu chia.

+ Thực hiện phép chia được kết quả bao nhiêu viết dấu bằng xuống dòng

dưới thẳng với dấu bằng ở trên và viết kết quả của phép tính chia vừa tìm được.

Bước 4: Củng cố cách làm cho học sinh.

+ Muốn tính giá trị biểu thức khi có dấu ngoặc ta làm thế nào?

(Thực hiện các phép tính trong dấu ngoặc trước, thực hiện các phép tính ngoài

dấu ngoặc sau).

26

Tôi khẳng định cho học sinh: Đây là dạng biểu thức có dấu ngoặc đơn.

(Dạng 3)

* Tôi đưa ra cách làm như sau: Khi tính giá trị biểu thức có dấu ngoặc đơn

ta thực hiện tính các phép tính trong dấu ngoặc trước, tính các phép tính ngoài

dấu ngoặc sau.

Qua 3 dạng “Tính giá trị biểu thức” nêu trên tôi cho học sinh so sánh lại

các dạng bài để học sinh nắm rõ cách làm từng dạng bài và không bị nhầm lẫn

giữa các dạng bài với nhau. Đồng thời nắm rõ cách trình bày từng dạng bài qua

từng ví dụ để các em thấy được từng dạng tính giá trị biểu thức phải trình bày

như thế nào mới đúng.

VD: a) 30 + 5 : 5 = 30 + 1 b) ( 30 + 5 ) : 5 = 35 : 5

= 31 = 7

Qua 2 ví dụ nêu trên ta thấy 2 ví dụ này khác nhau: Biểu thức ở câu a

không có dấu ngoặc, biểu thức ở câu b có dấu ngoặc. Chính điểm khác nhau này

dẫn đến cách tính giá trị của hai biểu thức khác nhau và cho kết quả khác nhau.

* Tôi lưu ý lại cho học sinh rõ hơn: Khi tính giá trị biểu thức, chúng ta

cần xác định đúng dạng của biểu thức đó, sau đó thực hiện các phép tính đúng

thứ tự.

27

Như vậy, với cách dạy 3 dạng toán về “Tính giá trị biểu thức” ở mỗi một

dạng, tôi đều hướng dẫn các em thực hiện qua các bước: Nhận xét biểu thức;

hướng dẫn cách làm; cách trình bày bài; củng cố cách làm. Tôi tin tưởng khi học

sinh nắm vững cách làm từng dạng, phân biệt được 3 dạng và qua các tiết luyện

tập thực hành, các em sẽ làm thành thạo dạng “Tính giá trị biểu thức”.

3.5.Giải pháp 5:Tuyên dương khen thưởng học sinh

Như chúng ta đã biết, tâm lí học sinh Tiểu học rất thích được khen ngợi,

động viên, khích lệ. Do đó trong quá trình dạy học tôi luôn tránh chê bai học

sinh chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng khi các em làm bài chưa đúng, tạo cho các em sự

gần gũi, tinh thần tự tin trong học tập và không khí học tập thoải mái. Thường

xuyên động viên khuyến khích các em đặc biệt là những học sinh còn nhút nhát,

học sinh chưa đạt chuẩn để các em mạnh dạn hơn trong học tập bằng những lời

nói nhẹ nhàng như “Bạn nào xung phong lên bảng làm bài? Nếu sai cả lớp

chúng ta cùng sửa và rút kinh nghiệm”. …Vì vậy mà học sinh lớp tôi đã mạnh

dạn xung phong làm bài. Các em còn mạnh dạn hỏi cô giáo những bài chưa hiểu

ở trên lớp qua điện thoại khi học ở nhà. Ngoài ra, tôi thường tổ chức cho các em

các trò chơi “Ai nhanh ai đúng”, Thi tiếp sức … giúp học sinh ôn tập lại kiến

thức sau từng bài học bằng cách hỏi đáp. Vào các tiết hoạt động tập thể tôi

thường tổ chức cho các em trò chơi “Vườn hoa kiến thức” giúp các em ôn tập

28

củng cố tất cả các môn học trong tuần cũng như các dạng bài trên. Thường

xuyên quan sát, khích lệ các em bằng những lời khen, bằng những tràng pháo

tay của các bạn trong lớp.

Trong quá trình dạy học, cho các em học sinh thi đua làm bài nhanh và

chính xác. Nhất là những em chưa đạt chuẩn mà có sự cố gắng giáo viên khen

thưởng động viên cổ vũ tinh thần học tập của các em bằng những món quà nhỏ

như cái bút, cái thước, ....các em rất phấn khởi từ đó tạo cho các em không còn

tư tưởng ngại học, ngại làm bài mà trở nên yêu thích môn học hơn.

Sau một thời gian, tôi thấy các em học sinh chưa đạt chuẩn có ý thức phấn

đấu vươn lên trong học tập rất tốt. Có những em đã từ học sinh chưa đạt chuẩn

lên học sinh trung bình, học sinh khá. Chính vì vậy, số lượng học sinh chưa đạt

chuẩn trong lớp tôi giảm hẳn. Đặc biệt, đến giờ học Toán cả lớp đều hứng thú,

say sưa học bài.

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:

Với các giải pháp đã áp dụng qua thời gian học tập, học sinh lớp tôi đã

tiến bộ rõ rệt và đạt được kết quả rất khả quan qua đề khảo sát như sau:

Đề bài: (Thời gian: 40 phút)

x

Bài 1: Đặt tính rồi tính.

a) 325 3 b) 564 + 136 c) 1460 : 5 d) 4758 – 3861

29

x

x

Bài 2: Tính giá trị biểu thức.

a) 356 4 : 2 b) 476 – ( 365 – 43) c) 87 + 256 : 4 d) 193 + 56 4

x

Bài 3: Tính nhanh.

a) 65 + 76 + 24 + 35 b) (149 + 26) (34 – 26 – 8)

Bài 4: Một kho muối có 4720kg muối, lần đầu chuyển đi 2000kg muối, lần sau

chuyển đi 1700kg muối. Hỏi trong kho còn lại bao nhiêu ki-lô-gam muối?

Kết quả như sau:

Tổng Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5

số HS

Bài 1 34 em = 70,8% 12 em = 25 % 2 em = 0 em = 0 %

48 em 4,2%

Bài 2 32 em = 66,7% 12 em = 25% 4 em = 0 em = 0 %

8,3%

Bài 3 30 em = 63,6% 10 em = 30,3% 4 em = 0 em = 0 %

6,1%

Bài 4 32 em = 66,7% 12 em = 25% 4 em = 0 em = 0 %

8,3%

Qua thời gian học tập và rèn luyện, chất lượng học tập của học sinh lớp

tôi dạy đã được nâng cao rõ rệt. Hầu hết các em làm được bài, hiểu yêu cầu của

bài và làm đúng được các phép tính. Đặc biệt là nhóm học sinh bị rỗng kiến thức

30

ở lớp dưới. Các em đã thuộc bảng nhân, chia, biết tính giá trị biểu thức. Nhóm

học sinh ở mức tiếp thu bài tốt đã biết vận dụng tính giá trị biểu thức vào giải

bài toán kép nhanh và đúng. Học sinh đã nhận đề toán và làm bài một cách tự

tin. Chất lượng học sinh tăng lên rõ rệt, học sinh chưa đạt chuẩn giảm hẳn.

31

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Để nâng cao chất lượng dạy học về Tính giá trị biểu thức và học Toán ở lớp

3, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện ở trường Tiểu học và đáp ứng yêu

cầu mới của giáo dục, theo tôi người giáo viên cần phải:

- Người giáo viên phải có lòng nhiệt tình, tâm huyết với nghề, yêu nghề, có

ý thức tự học tự bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ cho bản thân.

- Cần phân loại đối tượng học sinh trong lớp ngay từ đầu năm để có kế

hoạch và có phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Quan

tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong lớp trong mọi hoạt động.

- Giáo viên phải nắm vững cấu trúc chương trình học. Củng cố vững chắc

các dạng toán ở lớp dưới có liên quan đến “Tính giá trị biểu thức”.

- Dạy chắc chắn dạng bài “Tính giá trị biểu thức” theo 3 dạng. Có hệ thống

ôn tập củng cố qua các tiết luyện Toán.

- Khi giảng dạy dạng bài “Tính giá trị của biểu thức” về nội dung, mức độ

cũng như phương pháp giải bài tập thuộc vấn đề biểu thức hoàn toàn phù hợp và

có tính vừa sức đối với học sinh. Hỗ trợ cho học sinh kỹ năng tính toán, phát

triển tư duy sáng tạo.

32

- Sắp xếp bài tập theo từng dạng bài với mức độ nâng cao dần để giúp các

em đi từng bước từ dễ đến khó. Sau mỗi bài cần củng cố kiến thức, để học sinh

ghi nhớ dạng bài và cách giải của từng dạng.

- Thường xuyên ra các đề kiểm tra khảo sát nhanh để nhận được thông tin

phản hồi từ học sinh, để có sự điều chỉnh cách dạy cho phù hợp.

- Giáo viên phải thường xuyên vận dụng các phương pháp phù hợp trong

khi dạy và khuyến khích học sinh ham học Toán. Đồng thời giáo viên phải

thường xuyên chấm chữa bài liên tục để thúc đẩy tinh thần tự giác và trách

nhiệm của các em trong học tập. Từ đó, là cơ sở để giáo viên tìm ra nhiều

phương pháp mới giúp các em học tập tiến bộ.

2. Khuyến nghị

* Đối với nhà trường:

- Tiếp tục duy trì và tổ chức có hiệu quả các hình thức bồi dưỡng giáo viên

như hiện nay.

- Tổ chức các chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn tập trung vào xây dựng

những nội dung dạy học khó; tổ chức giải đề thi các cấp....

* Đối với giáo viên:

- Xây dựng kế hoạch dạy học ngay từ đầu năm học.

- Tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

33

Trên đây là một số kinh nghiệm tôi đã vận dụng trong quá trình dạy học.

Tuy đã cố gắng nhiều song vẫn còn nhiều hạn chế. Tôi rất mong được sự góp ý

của các đồng chí chỉ đạo chuyên môn và của các bạn đồng

nghiệpđểtôigiảngdạyđượctốthơn.

Xintrân trọngcảmơn!

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến do tôi

viết, không sao chép từ bất kỳ nguồn tài

liệu nào.

Thanh Trì, ngày 14 tháng 4 năm 2023

Người viết

Bùi Thị Thùy Dung

34

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Ghi chú

TT Tên tài liệu 1. Sách giáo khoa bộ sách Cánh diều Toán 1, Toán 2,

Toán 3.

2. Sách giáo viên Toán 1, Toán 2, Toán 3.

3. Bài tập trắc nghiệm và tự luận Toán 3 (Tập 1) –

NXB Đại học sư phạm.

4. Bài tập cuối tuần Toán 3 (Tập 1)

5. Vở bài tập Toán 3 (Tập 1).

6. Các phương pháp dạy Toán Tiểu học.