YOMEDIA
ADSENSE
Bình luận án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế
110
lượt xem 6
download
lượt xem 6
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết trình bày một số vấn đề chung về hôn nhân thực tế cũng như của giải pháp pháp lý được đưa ra trong án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế. Có thể thấy việc ban hành án lệ nêu trên có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các vụ việc liên quan đến vấn đề chấm dứt hôn nhân thực tế nhất là trong bối cảnh quy định pháp luật về vấn đề này chưa được đầy đủ, rõ ràng.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bình luận án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế
- BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 41/2021/AL VỀ CHẤM DỨT HÔN NHÂN THỰC TẾ ThS. Huỳnh Thị Nam Hải Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật Đại học quốc gia TP.HCM (VNU –HCM) Tóm tắt Trong phạm vi bài viết này tác giả trình bày một số vấn đề chung về hôn nhân thực tế cũng như của giải pháp pháp lý được đưa ra trong án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế. Có thể thấy việc ban hành án lệ nêu trên có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các vụ việc liên quan đến vấn đề chấm dứt hôn nhân thực tế nhất là trong bối cảnh quy định pháp luật về vấn đề này chưa được đầy đủ, rõ ràng. Từ khóa: Án lệ số 41/2021/AL, chấm dứt hôn nhân thực tế, hôn nhân thực tế. 1. Một số vấn đề chung về hôn nhân thực tế Dưới góc độ pháp lý tại Việt Nam, chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn có thể được hiểu là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, với gia đình và với xã hội nhưng không tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời, trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng có đủ điều kiện kết hôn nhưng không thực hiện việc đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn được gọi là “hôn nhân thực tế”. Thuật ngữ “hôn nhân thực tế” xuất hiện lần đầu tiên trong Thông tư số 112/NCPL ngày 19/08/1972 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn xử lý về dân sự những việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn. Hôn nhân thực tế là hôn nhân được công nhận dựa trên cơ sở thực tế là các bên nam, nữ đã và đang chung sống như vợ chồng, có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng kí kết hôn tại cơ quan đăng kí kết hôn có thẩm quyền95. Hay theo Thông tư liên tịch số 01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp, được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây: có tổ chức lễ cướï khi về chung sống với nhau; việc họ chung sống với nhau được gia đình (một hoặc hai bên) chấp nhận; việc họ chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ, cùng nhau xây dựng gia đình. Như vậy, có thể thấy rằng “hôn nhân thực tế” là một quan hệ thực tế được xác lập giữa một người nam và một người nữ chung sống với nhau như vợ chồng, tuy có đủ điều 95 Thông tư số 112/NCPL ngày 19/08/1972 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn xử lý về dân sự những việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn ghi nhận: “Chỉ coi là hôn nhân thực tế việc kết hôn chưa đăng ký kết hôn mà hai bên nam nữ đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn khác chỉ vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn”. 70
- kiện theo quy định của pháp luật nhưng lại không đăng ký kết hôn. Khái niệm “Hôn nhân trên thực tế” được các thẩm phán Việt Nam và sau đó là nhà lập pháp đưa ra nhằm trao cho một số cặp đôi chung sống tự do không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tư cách vợ chồng hợp pháp. Điều này có nghĩa là khi được thừa nhận là hôn nhân thực tế, giữa các bên có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ như vợ chồng trong hôn nhân hợp pháp dù không đăng ký kết hôn theo quy định. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp tạm thời nhằm giải quyết tình trạng chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn trong giai đoạn lịch sử trước đây. Việc thừa nhận hôn nhân thực tế được xem như là một chế định bổ khuyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ hôn nhân. Hiện nay, để giải quyết hậu quả pháp lý của quan hệ hôn nhân thực tế, Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định về điều khoản chuyển tiếp như sau: “1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết; 2. Đối với vụ việc về hôn nhân và gia đình do Tòa án thụ lý trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa giải quyết thì áp dụng thủ tục theo quy định của Luật này; 3. Không áp dụng Luật này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ việc mà Tòa án đã giải quyết theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình trước ngày Luật này có hiệu lực”. Do đó, các quy định liên quan đến hôn nhân thực tế vẫn được áp dụng. Căn cứ Mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 thì những trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng; Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng quy định của Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết. 2. Khái quát chung về án lệ tại Việt Nam Tại Việt Nam, khái niệm về án lệ lần đầu tiên được chính thức ghi nhận tại Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 28/10/2015 (có hiệu lực từ ngày 16/12/2015). Điều 1 Nghị quyết này quy định: “án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Theo đó, lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có 71
- hiệu lực pháp luật của Tòa án dùng làm án lệ là: “lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể” (Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP). Có thể thấy rằng Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP đã tạo nên một khái niệm chính thống về “án lệ” tại Việt Nam. Theo khái niệm này thì án lệ trước hết phải là những lập luận làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau và sau đó phải chứa những phân tích và giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý làm cơ sở cho Tòa án chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý hoặc quy phạm pháp luật cần áp dụng. Sau một thời gian áp dụng, Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP đã bị thay thế bởi Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP. Khái niệm về án lệ vẫn được quy định tương tự như trước đây nhưng nội hàm đã có sự thay đổi, mở rộng hơn. Cụ thể, lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định không chỉ có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể mà còn thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể; có tính chuẩn mực; có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử (Khoản 1, Điều 2 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP quy định về tiêu chí lựa chọn án lệ). Theo quy định này thì án lệ không chỉ dừng lại ở việc “làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau…” như trong quy định trước đây mà còn “…thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể”. Điều này có nghĩa là thông qua hoạt xét xử, Thẩm phán có thể “sáng tạo ra pháp luật” trong trường hợp luật chưa có quy định. Hay nói cách khác là án lệ không chỉ có giá trị làm rõ các quy định của pháp luật có nhiều cách hiểu khác nhau mà còn là những bản án thể hiện lẽ công bằng đối với những sự kiện pháp lý mới phát sinh mà pháp luật thành văn chưa có quy định cụ thể để điều chỉnh. 3. Án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế và một số bình luận Trước khi đi vào bình luận đối với án lệ số 41/2021/AL, tác giả trình bày một cách tóm tắt nội dung của án lệ này, cụ thể như sau: - Nguồn án lệ: Bản án dân sự phúc thẩm số 48/2010/DSPT ngày 29/7/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế và chia tài sản chung” tại tỉnh Kon Tum giữa nguyên đơn là chị Trần Thị Trọng P1 với bị đơn là anh Trần Trọng P2 và anh Trần Trọng P3; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 06 người. - Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 3, 4 phần “Nhận định của Tòa án”. - Khái quát nội dung của án lệ: + Tình huống án lệ: Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, không đăng ký kết hôn nhưng sau đó họ không còn chung sống với nhau và trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực, có người chung sống với nhau như vợ chồng với người khác. Quan hệ hôn nhân đầu tiên và quan hệ hôn nhân thứ hai đều là hôn nhân thực tế. 72
- + Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, phải xác định hôn nhân thực tế đầu tiên đã chấm dứt. - Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015); Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Nghị quyết số 02/2000/NQ-HDTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. - Từ khóa của án lệ: “Hôn nhân thực tế”; “Chấm dứt hôn nhân thực tế”. Như đã trình bày ở trên, theo quy định của các văn bản hướng dẫn liên quan đến vấn đề hôn nhân thực tế, có thể thấy hiện chỉ có quy định về cách xác định thời điểm bắt đầu quan hệ hôn nhân thực tế. Cụ thể, Điểm c, Mục 2, Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 do Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp ban hành hướng dẫn Nghị quyết số 35/2000/QH1 về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định thời điểm nam nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình. Tuy nhiên, đối với thời điểm chấm dứt hôn nhân thực tế thì pháp luật hôn nhân và gia đình chưa có quy định rõ ràng về vấn đề này. Nhìn chung, hôn nhân thực tế được hình thành từ việc chung sống tự do nên khi chấm dứt cũng thường được thực hiện một cách tự do. Mặc dù về nguyên tắc khi việc chung sống như vợ chồng được thừa nhận là hôn nhân thực tế và có giá trị pháp lý tương tự như hôn nhân có đăng ký nên việc chấm dứt cũng cần buộc phải thông qua con đường tư pháp. Nhưng có thể thấy rằng khi chấm dứt việc chung sống, không phải lúc nào các bên chung sống như vợ chồng cũng yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. Nhiều trường hợp hôn nhân thực tế được chấm dứt trên thực tế, nghĩa là các bên không còn chung sống với nhau, không còn chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình. Sau khi chấm dứt việc chung sống, một trong cách bên hoặc cả hai bên tiếp tục chung sống như vợ chồng với người khác. Trong trường hợp này vấn đề đặt ra là quan hệ chung sống nào sẽ được thừa nhận là hôn nhân thực tế? Trước vấn đề này, pháp luật hôn nhân và gia đình đã im lặng trong một thời gian dài. Điều này đã tạo ra nhiều khó khăn trong quá trình giải quyết các quan hệ tranh chấp phát sinh từ các quan hệ chung sống này. Nhằm giải quyết vấn đề này, đảm bảo cho hoạt động xét xử được thống nhất cũng như bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, ngày 23/2/2021, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế. Án lệ này đã được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố theo Quyết định số 42/QĐ-CA vào ngày 12/3/2021. Theo đó, Án lệ số 41/2021/AL đã nêu lên tình huống pháp lý là nam và nữ chung sổng với nhau như vợ chồng, không đăng ký kết hôn nhưng sau đó họ không còn chung sống với nhau và trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực, có người chung sống với nhau như vợ chồng với người khác. Quan hệ hôn nhân đầu tiên và quan hệ hôn nhân thứ hai có phải 73
- đều được thừa nhận là hôn nhân thực tế không?96 Trong trường hợp này, giải pháp pháp lý được Tòa án đưa ra là chỉ quan hệ hôn nhân thứ hai được thừa nhận là hôn nhân thực tế, còn quan hệ hôn nhân thực tế đầu tiên được xác định là đã chấm dứt. Có thể thấy rằng khi giải quyết vụ việc nêu trên, Tòa án có thẩm quyền đã áp dụng các quy định về hôn nhân thực tế như đã trình bày ở trên để giải quyết những tranh chấp phát sinh từ việc chung sống như vợ chồng. Theo đó, những trường hợp chung sống trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, có con chung, có tài sản chung mà không có đăng ký kết hôn thì được thừa nhận là hôn nhân thực tế. Để được thừa nhận là hôn nhân thực tế thì một trong những điều kiện tiên quyết là họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình. Do đó, khi các bên không còn chung sống với nhau trên thực tế, không còn chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình thì quan hệ hôn nhân đó cần phải được xem là đã chấm dứt. Trong trường hợp một hoặc cả hai bên đã chung sống như vợ chồng với người khác thì quan hệ chung sống sau sẽ được thừa nhận là hôn nhân thực tế nếu thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp quan hệ hôn nhân thực tế được thừa nhận thì giữa các bên có quyền và nghĩa vụ với nhau như vợ chồng hợp pháp, cụ thể là được chia tài sản chung và được hưởng thừa kế di sản của nhau. Có thể thấy giải pháp pháp lý mà Tòa án có thẩm quyền đã đưa ra để giải quyết vụ việc tranh chấp nêu trên là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với sự thật khách quan từ đó bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của các bên. 4. Kết luận Có thể thấy hoạt động ban hành và áp dụng án lệ trong thời gian vừa qua tại Việt Nam bước đầu đã có những thành công nhất định. Thông qua các án lệ được ban hành, nhiều vấn đề chưa được pháp luật quy định rõ ràng nay đã có đường lối giải quyết từ đó góp phần giảm bớt khó khăn cho hoạt động xét xử. Riêng đối với vấn đề chung sống như vợ chồng thì mặc dù số lượng án lệ vẫn còn hạn chế (án lệ số 41/2021/AL là án lệ đầu tiên về vấn đề này) nhưng bước đầu đã cho thấy những dấu hiệu tích cực. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng do nhiều vấn đề pháp lý về quan hệ chung sống như vợ chồng chưa được quy định một cách đầy đủ hoặc rõ ràng. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật hôn nhân và gia đình các năm 1959, 1986, 2000, 2014; 96 Án lệ số 41/2021/AL có nguồn gốc từ Bản án số 48/2010/DSPT ngày 29-7-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về vụ án tranh chấp di sản thừa kế và chia tài sản chung tại tỉnh Kon Tum giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Trọng P1, bị đơn là anh Trần Trọng P2 và anh Trần Trọng P3. Theo đó, Bà Tô Thị T2 chung sống với ông Trần Thế T1 từ năm 1969 có 2 con chung là Trần Trọng P2 và Trần Trọng P3, đến năm 1982 bà T2 vào tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chung sống với ông Trần Sinh D từ đó đến nay và đã có 3 con chung. Từ năm 1985, ông Trần Thế T1 và bà Trần Thị S chung sống với nhau có con chung là Trần Thị Trọng P1 cho đến năm 2003 thì ông T1 chết. Do đó, Tòa phúc thẩm nhận định rằng bà Tô Thị T2 chung sống với ông T1 không đăng ký kết hôn. Đến năm 1982 bà T2 đã bỏ vào tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lấy ông D có con chung từ đó đến nay quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1 với bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên không còn nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại. Sau khi bà T2 không còn sống chung với ông T1, ông T1 sống chung với bà S từ năm 1985 cho đến khi ông T1 chết và có 1 con chung, có tài sản chung hợp pháp nên bản án sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế. Bà S được chia tài sản chung và được hưởng di sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ. 74
- 2. Án lệ số 41/2021/AL về chấm dứt hôn nhân thực tế; 3. Nghị quyết số 01/NQ/HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986; 4. Nghị quyết số 35/2000/QH1 về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; 5. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; 6. Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về ban hành, công bố và áp dụng án lệ; 7. Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về ban hành, công bố và áp dụng án lệ; 8. Nghị định số 77/2001/NĐ-CP hướng dẫn Nghị quyết số 35/2000/QH1 về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; 9. Thông tư số 112/NCPL ngày 19/08/1972 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn xử lý về dân sự những việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn; 10. Thông tư số 81/DS của Tòa án nhân dân tối cao ngày 27/4/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế; 11. Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP do Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp ban hành hướng dẫn Nghị quyết số 35/2000/QH1 về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; 12. Công văn số 16/1999/KHXX ngày 01/02/1999 của Tòa án nhân dân tối cao; 13. Tòa án nhân dân tối cao (1995), Báo cáo tổng kết công tác năm 1995 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 1996 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội; 14. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (1998), Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội; 15. Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình, Nhà xuất bản Công an nhân dân. 75
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn