intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

BỊNH RUN PARKINSON

Chia sẻ: Nguyễn Thắng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

39
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bịnh Parkinson được một bác sĩ người Anh, James Parkinson, sống vào thế kỷ thứ 19 (1817) phát hiện và mô tả những triệu chứng tay chân bị run hay bị co cứng. Nhưng mãi đến 1960, người ta mới tìm ra những hóa chất thay đổi trong não bộ tạo ra bịnh này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: BỊNH RUN PARKINSON

  1. BỊNH RUN PARKINSON Parkinson là ai? Bịnh Parkinson được một bác sĩ người Anh, James Parkinson, sống vào thế kỷ thứ 19 (1817) phát hiện và mô tả những triệu chứng tay chân bị run hay bị co cứng. Nhưng mãi đến 1960, người ta mới tìm ra những hóa chất thay đổi trong não bộ tạo ra bịnh này. Ai hay bị bịnh này? Bịnh này thường thấy ở những người cao niên ở lứa tuổi 55-60, tuy nhiên có những trường hợp xảy ra ở những người trẻ tuổi. Càng lớn tuổi, nguy cơ bị bịnh này càng cao. Sự phổ biến (prevalence) của bịnh tương đối thấp, cỡ 1- 2% người bị bịnh này. Nam thường bị bịnh này nhiều hơn nữ. Người da trắng bị bịnh này nhiều hơn là da vàng.
  2. Triệu chứng bịnh Parkinson - Run tay chân (tremor) khi ngồi yên là triệu chứng thông thường nhứt của bịnh này. Khi nhìn tay bịnh nhân, ta có cảm giác như bịnh nhân để tay lên một vật tròn lăn qua lăn lại (pill rolling tremor). Bịnh nhân cũng có thể bị rung môi và cằm nhưng đầu bị rung rất ít gặp. - Hoạt động cơ năng bị chậm lại (bradykinesia) làm trở ngại trong công việc hàng ngày như tắm rửa, mặc quần áo. Khi bịnh nặng, ăn uống cũng trở n ên khó khăn. - Bắp thịt bị cứng lại (rigidity). Khi bác sĩ cầm tay bịnh nhân xếp vào thả ra thì có cảm giác có cái gì đó giựt giựt ghị lại như bánh xe răng cưa (cogwheel rigidity). Bắp thịt bị cứng lâu ngày có thể gây ra sự co thắt (cramps) gây đau đớn cho bịnh nhân. Ngoài ra, phản xạ giúp bịnh nhân đứng vững bị mất dần nên những bịnh nhân này dễ té. - Cách đi đứng (gait) của bịnh nhân rất khó khăn khi bị 3 nhóm triệu chứng kể trên. Bịnh nhân đi từng bước nhỏ chậm chạp như người máy, không nhấc bước chân lên (festinating gait), người nghiêng về phía trước, hai tay không đánh đưa và khi muốn dừng hay quay lại rất khó. Chữ viết cũng bị thay đổi nhỏ lại (micrographia). Nét mặt nhìn không có hồn, nháy mắt ít lại vì các cơ mặt bị cứng
  3. lại nên nhìn như mặt nạ (mask facie). Khi bịnh nặng hơn sẽ ảnh hưởng đến việc ăn uống như khó khăn khi nuốt thức ăn. Bịnh nhân dễ bị sặc khi ăn và nguy cơ sưng phổi (pneumonia) do sặc thức ăn uống vào đường hô hấp rất cao, có thể dẫn đến tử vong. - Chúng ta có thể dùng chữ TRAP (bị nhốt, bị kẹt) để nhớ những triệu chứng bịnh Parkinson: Tremor, Rigidity, Akinesia/bradykinesia, Postural instability. Bịnh này từ đâu ra? Các nhà khoa học liên kết sự suy giảm chất Dopamine với bịnh Parkinson. Dopamine là một chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitter) ở n ão bộ có nhiều chức năng. Ngoài việc tạo cảm giác sung sướng khi ăn no chẳng hạn, sự xáo trộn của Dopamine có thể gây ra bịnh tâm thần phân liệt (Schizophrenia) và bịnh Parkinson. Tùy ở những vùng não mà chất Dopamine bị xáo trộn, nó gây ra nhiều bịnh hoàn toàn khác nhau. MPTP là một hóa chất vô tình được tạo ra trong lúc bào chế heroin. Khi hút nhầm phải MPTP, chất này gây tổn thương cho vùng não tạo ra Dopamine (substantia nigra) từ đó sanh ra những triệu chứng giống bịnh Parkinson. Ngoài ra những bịnh nhân dùng những loại thuốc an thần như Haldol làm giảm chất Dopamine ở vùng
  4. não kể trên cũng có thể gây ra triệu chứng bịnh này. Thuốc Reglan (Metoclopramide) chống buồn nôn cũng có thể làm giảm Dopamine và tạo triệu chứng Parkinson. Vì thế mà các khoa học gia kết luận rằng một trong yếu tố chính gây ra bịnh này là do sự thiếu hụt chất Dopamine ở mạch thần kinh gọi là striatonigral pathway. Nguyên nhân bịnh Nguyên nhân bịnh một phần do yếu tố di truyền, một phần do bịnh nhân hấp thụ những chất độc ở môi trường như các chất diệt cỏ dại hay sâu bọ như chất Paraquat và Rotenone. Ngoài ra các chất công nghiệp dùng làm dung môi (solvent) như Toluene và N- Hexane cũng có thể gây ra bịnh này. Những người bị chấn thương sọ não có đến 4 lần nguy cơ sanh ra bịnh này. Người bịnh lú lẫn Alzheimer dementia đến giai đoạn nào đó bộ não bị tổn thương ở vùng substantia nigra sẽ biểu hiện những triệu chứng của Parkinson. Có một bịnh gọi là Lewy body dementia, bịnh nhân có triệu chứng lú lẫn và đồng thời có triệu chứng
  5. Parkinson. Người bị Parkinson ở giai đoạn cuối có thể sanh ra những triệu chứng của bịnh lú lẫn (dementia). Về yếu tố di truyền: người bịnh vướng phải cái di thể (gene) tạo chất Lewy body (LRRK2), chất này là một loại protein đọng lại ở tế bào thần kinh tạo sự thoái hóa của tế bào thần kinh. Tùy ở vùng não bộ chất này đọng lại mà ta có những biểu hiện bịnh khác nhau. Ở bịnh lú lẫn Lewy body dementia thì chất này đọng lại trước tiên ở vỏ não tạo hiện tượng lú lẫn (dementia) có trước triệu chứng run của Parkinson. Khi chất này ứ đọng trước tiên ở vùng sâu hơn (substantia nigra) thì triệu chứng Parkinson xảy ra trước khi người bịnh lú lẫn (dementia), đến khi các tế bào thần kinh hư hỏng lan lên vùng vỏ não thì bịnh nhân sẽ có triệu chứng lú lẫn. Những triệu chứng tâm thần đi đôi với bịnh Parkinson Bịnh trầm cảm và lo âu thường hay xẩy ra ở những người bịnh Parkinson vì bịnh này ở giai đoạn đầu không ảnh hưởng đến khả năng tri thức (cognition) của họ. Bịnh nhân nhận thức những hạn chế về thể xác của mình mà cảm thấy chán chường. Gần như phân nửa người bịnh này than phiền bị buồn chán và thất vọng. Khoảng 1/4 bị bịnh trầm cảm (major depression).
  6. Bịnh trầm cảm và lo âu thường đi đôi với nhau. Bịnh nhân có thể có chứng sợ hãi bất thần và vô cớ (panic attack). Một số bịnh nhân không có cảm giác buồn chán nhưng biểu hiện bằng sự mệt mỏi, mất thích thú trong cuộc sống, có tính l ãnh đạm (apathy) không muốn làm gì hết. Xáo trộn giấc ngủ hay đi đôi với bịnh này. Giấc ngủ REM (rapid eyes movements) bị xáo trộn tạo nên những cơn ác mộng hay những giấc mơ tạo cảm giác mạnh. Người bịnh có giấc ngủ không an ổn, nói mớ hay cơ thể hoạt động lúc đang mơ. Sáng dậy họ cảm thấy mệt mỏi hay ngủ gật gù (somnolence). Có từ 40-80% bịnh nhân Parkinson trở thành lú lẫn ở giai đoạn nặng. Sở dĩ con số này càng ngày càng gia tăng vì sau này ta có thuốc kéo dài sự sống cho bịnh nhân. Khi tế bào não bị hủy hoại nhiều thì sanh ra triệu chứng lú lẫn. Một số bịnh nhân còn có triệu chứng của bịnh tâm thần phân liệt như thấy ảo thị (visual hallucinations), nghe ảo thính hay cảm thấy có người rình rập muốn ám hại mình. Không rõ có phải do phản ứng phụ của thuốc Levodopa hay do bịnh phát triển mà có. Cách trị bịnh
  7. Hiện nay chưa có thuốc nào trị dứt bịnh Parkinson. Các loại thuốc chỉ làm giảm các triệu chứng nhưng rồi khi bịnh phát triển nặng hơn, công hiệu thuốc bị hạn chế. Bác sĩ có thể dùng những loại thuốc làm tăng chất Dopamine để trị bịnh này. Thông thường nhứt là thuốc Sinemet kết hợp 2 chất Levodopa (tiền Dopamine) và Carbidopa. Chất sau nay ngăn chận sự biến đổi Levodopa thành Dopamine ở dòng máu và đợi đến não bộ mới biến thành Dopamine. Không phải tất cả những triệu chứng bịnh này đều thuyên giảm với thuốc. Khoảng 3/4 bịnh nhân có kết quả tốt. Thuốc này làm giảm các triệu chứng cứng tay chân và hoạt động chậm chạp, run tay thì ít bớt hơn. Đi không vững và những triệu chứng khác ít hay không thuyên giảm. Thuốc này tương đối hiệu nghiệm hơn các loại thuốc khác và được dùng làm mẫu để so sánh sự hiệu nghiệm các thuốc khác. Stalevo l à một loại thuốc như Sinemet nhưng công hiệu kéo dài lâu hơn Sinemet vì nó có thêm chất Entacapone làm tăng sự hiệu nghiệm của Levodopa. Một nhóm khác nữa gọi là Dopamine agonist, có cấu trúc gần giống Dopamine. Thí dụ như Bromocriptine (Parlodel), Pergolide (Permax), Pramipexole (Mirapex) và Ropinirole (Requip). Riêng Ropinirole còn được dùng trị cảm giác bứt rứt khó chịu ở chân khi đi ngủ (Restless le g syndrome). Nhóm này có thể dùng chung với
  8. nhóm trên trong trường hợp bịnh nặng. Các loại thuốc trong hai nhóm đầu này rất thông dụng và được dùng trước nhứt (First line therapy). Khi bịnh còn nhẹ thì bác sĩ có thể dùng nhóm Anticholinergic như Benztropin e (Cogentin) hay Trihexyphenidyl (Artane) để quân bình gián tiếp lượng Dopamine bằng cách giảm lượng Acetylcholine. Tuy nhi ên ở những người cao niên hay khi bịnh nặng tạo ra triệu chứng lú lẫn (dementia) những thuốc này làm lú lẫn nặng hơn. Ngoài ra còn có loại thuốc ngăn chận men (enzyme) phân hủy Dopamine gọi là MAO-B inhibitor như Selegiline (Eldepryl, Carbex) có thể giúp ích cho bịnh Parkinson. Thuốc Selegiline còn được dùng cho bịnh trầm cảm. Có một nhóm nữa là COMT inhibitor ngăn chận men phân hủy Levodopa được dùng kèm với Levodopa để tăng sự hiệu nghiệm của chất này như Entacapone (Comtan) và Tolcapone (Tasmar). Một loại thuốc dùng diệt siêu vi tên Amantadine (Symmetrel) cũng được dùng trong việc trị liệu bịnh Parkinson. Hiện nay các chất chống oxy-hóa (antioxidant) như sinh tố E chưa được FDA chấp nhận trị bịnh Parkinson. Ngoài thuốc ra, bịnh nhân còn phải được trị liệu bằng vật lý trị liệu (physical therapy) để giúp các bắp thịt hoạt động, hay cần phải đến chuyên viên tập nói (speech therapy) nếu bịnh nặng hơn ảnh hưởng cách phát âm. Bịnh nhân cần tham gia những nhóm hỗ trợ tinh thần (group support) để nâng đỡ tinh thần cho nhau.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2