YOMEDIA
ADSENSE
Các hoạt động mang đường hướng giao tiếp sử dụng trong việc dạy kĩ năng đọc hiểu tiếng Anh
71
lượt xem 6
download
lượt xem 6
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết này đề cập tới một số hoạt động sáng tạo theo đường hướng dạy học giao tiếp nhằm làm cho đọc hiểu trở thành một hoạt động cuốn hút hơn và hiệu quả hơn đối với người học tiếng Anh.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Các hoạt động mang đường hướng giao tiếp sử dụng trong việc dạy kĩ năng đọc hiểu tiếng Anh
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 246-248; 215<br />
<br />
<br />
<br />
CÁC HOẠT ĐỘNG MANG ĐƯỜNG HƯỚNG GIAO TIẾP SỬ DỤNG<br />
TRONG VIỆC DẠY KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU TIẾNG ANH<br />
Lê Thị Kim Anh - Bùi Thùy Anh<br />
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
<br />
Ngày nhận bài: 02/4/2019; ngày chỉnh sửa: 04/5/2019; ngày duyệt đăng: 10/5/2019.<br />
Abstract: Alternative teaching methods to reading comprehension have been one of the essential<br />
requirements for English teachers, because reading skill is widely considered an individual task<br />
which does not bring a great deal of interaction and interest to learners in the classroom. This article<br />
mentions and discusses a number of creative communicative activities which can help to turn<br />
reading comprehension into a more appealing and effective task to English learners.<br />
Keywords: Communicative activities, reading comprehension, interaction, interest.<br />
<br />
1. Mở đầu thú này và áp dụng các giải pháp dạy đọc hiểu theo đường<br />
Trong các lớp học tiếng Anh, đọc hiểu là 1 trong 4 kĩ hướng giao tiếp.<br />
năng không thể thiếu để giúp người đọc trau dồi, vun đắp Bài viết này đề cập một số hoạt động sáng tạo theo<br />
vốn kiến thức cũng như nâng cao kĩ năng sử dụng ngôn đường hướng dạy học giao tiếp nhằm làm cho đọc hiểu<br />
ngữ của mình. Tuy nhiên, nếu như trong khi các kĩ năng trở thành một hoạt động cuốn hút hơn và hiệu quả hơn<br />
nghe và nói luôn làm cho người học tiếng Anh cảm thấy đối với người học tiếng Anh.<br />
hứng thú, vui thích khi được tạo các cơ hội cũng như môi 2. Nội dung nghiên cứu<br />
trường giao tiếp, tương tác hết sức “sôi động” với giáo 2.1. Khái niệm “dạy học theo đường hướng giao tiếp”<br />
viên (GV), với những người học khác và cả với nguồn<br />
Trên thế giới, có rất nhiều định nghĩa và diễn giải về<br />
học liệu phong phú, cuốn hút thì đối với các kĩ năng<br />
“tĩnh” như viết và đặc biệt là đọc hiểu lại mang tới một phương pháp dạy học theo đường hướng giao tiếp (CLT).<br />
không khí lớp học hoàn toàn ngược lại. Trên thực tế, theo Theo Savignon (1984) [1], CLT là phương pháp mang<br />
quan sát và trong nhiều bài báo, tài liệu nghiên cứu, phần đến những điều khác nhau tới những người khác nhau,<br />
lớn người học ngôn ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng những người mà sử dụng phương pháp đó. Savignon và<br />
thường cảm thấy uể oải, chán nản và mất hứng thú khi các GV ngôn ngữ khác đã bắt đầu tìm kiếm một giải pháp<br />
tham gia vào các hoạt động đọc hiểu vốn mang tính cá thay thế cho phương pháp ngôn ngữ âm thanh vào những<br />
nhân tương đối nhàm chán, lặp đi lặp lại và không làm năm 70 trong thế kỉ XX và dần dần chuyển sang CLT sau<br />
người học có cơ hội được làm việc nhóm hoặc tương tác khi giảng dạy ngôn ngữ giao tiếp và các chiến lược giao<br />
liên tục với nhau như các kĩ năng khác. Dần dần, những tiếp. Lí thuyết và thực hành nghiên cứu Joseph Wood<br />
hoạt động và bài tập đọc hiểu trở nên buồn tẻ và không 232-233 [2] cho thấy rằng những sinh viên được ứng<br />
thu hút được sự chú ý của người học và họ có xu hướng dụng phương pháp CLT thường xuyên cùng với phương<br />
muốn mang các bài tập đó về nhà tự hoàn thành hơn là pháp ngôn ngữ âm thanh sẽ có kết quả học tập tốt hơn so<br />
thực hiện các nhiệm vụ đọc hiểu theo yêu cầu tại lớp học. với những sinh viên chỉ được dạy theo phương pháp<br />
Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy kĩ năng ngôn ngữ âm thanh. Phương pháp ngôn ngữ âm thanh<br />
đọc hiểu là điều hết sức quan trọng đối với GV môn cho thấy rằng sinh viên học ngôn ngữ từ việc lặp lại và<br />
Tiếng Anh. Trong đó, áp dụng phương pháp dạy học theo hình thành thói quen sử dụng ngôn ngữ. Tuy nhiên, khác<br />
đường hướng giao tiếp và cụ thể là sử dụng những hoạt với CLT, phương pháp dạy ngôn ngữ truyền thống lại rất<br />
động có tính chất giao tiếp, tương tác và sáng tạo vào ít; nếu có, đây là cơ hội giúp người học được sử dụng<br />
giảng dạy kĩ năng đọc hiểu có thể được coi như là một ngôn ngữ để giao tiếp thực sự.<br />
“cứu cánh” cho những giờ học đọc hiểu vốn tĩnh lặng và<br />
Trong nghiên cứu của mình, Brown (2007) [3] đưa ra<br />
gây “buồn ngủ”. Những hoạt động như vậy sẽ không chỉ<br />
có khả năng giúp người học rèn luyện các kĩ năng đọc định nghĩa về CLT như một cách tiếp cận phương pháp<br />
hiểu mà còn giúp họ trau dồi cả những kĩ năng khác trong giảng dạy ngôn ngữ, nhấn mạnh tính xác thực, tương tác,<br />
quá trình tham gia hoạt động như nghe, nói, thuyết trình, học tập “lấy người học làm trung tâm”, các hoạt động<br />
phản biện, làm việc nhóm, lãnh đạo, dẫn dắt nhóm,... Do dựa trên nhiệm vụ và giao tiếp cho thế giới thực với<br />
đó, GV rất cần tìm hiểu sâu về phương pháp dạy hứng những mục đích có ý nghĩa.<br />
<br />
246 Email: kimanh131081@gmail.com<br />
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 246-248; 215<br />
<br />
<br />
2.2. Đặc điểm của phương pháp dạy học theo đường mang tính cá nhân “tĩnh lặng” với hoạt động giao tiếp<br />
hướng giao tiếp cùng những người học khác một cách liên tục thông qua<br />
Brown (2007) cũng đưa ra 4 đặc điểm liên kết đáng các hoạt động làm việc nhóm mang tính chất tương tác<br />
chú ý của phương pháp CLT trong các lớp học ngôn ngữ trong quá trình đọc hiểu một văn bản nào đó.<br />
[3], bao gồm: 2.4. Các hoạt động theo đường hướng giao tiếp sử dụng<br />
1) Mục tiêu của lớp học tập trung vào tất cả các yếu cho kĩ năng đọc hiểu<br />
tố của năng lực giao tiếp và không bị giới hạn ở năng lực Có rất nhiều các hoạt động theo đường hướng giao<br />
ngữ pháp hoặc ngôn ngữ. tiếp đã và đang được áp dụng rộng rãi trong các giờ học<br />
2) Các kĩ thuật ngôn ngữ được thiết kế để thu hút kĩ năng đọc hiểu song song cùng với các dạng bài tập đọc<br />
người học trong việc sử dụng ngôn ngữ thực dụng, xác hiểu truyền thống vốn vẫn đóng một vai trò quan trọng<br />
thực cho các mục đích có ý nghĩa. Các hình thức ngôn trong việc phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ của<br />
ngữ tổ chức không phải là trọng tâm chính mà là các khía người học tiếng Anh. Những hoạt động đọc hiểu theo<br />
cạnh của ngôn ngữ cho phép người học thực hiện các đường hướng giao tiếp khi được đưa vào lớp học tiếng<br />
mục đích đó. Anh sẽ giúp cho môi trường ngôn ngữ của lớp học trở<br />
3) Độ lưu loát và tính chính xác được coi là nguyên nên sống động, sôi nổi hơn và giúp kích hoạt cả ngôn ngữ<br />
tắc được khuyến khích dựa trên các kĩ thuật giao tiếp. Đôi nói của người học. Đồng thời, những hoạt động này còn<br />
khi sự lưu loát có thể phải đảm nhận tầm quan trọng cao có thể phát triển một số kĩ năng ngoài ngôn ngữ cho học<br />
hơn độ chính xác để giữ cho người học tích cực tham gia viên, chẳng hạn như cải thiện khả năng làm việc nhóm,<br />
vào việc sử dụng ngôn ngữ một cách có ý nghĩa. khả năng dẫn dắt, lãnh đạo, phát triển tư duy phản biện,...<br />
4) Trong lớp học giao tiếp, người học phải có khả Việc chuẩn bị tiến hành những hoạt động này cũng<br />
năng sử dụng được ngôn ngữ một cách năng suất và diễn không đòi hỏi GV phải mất quá nhiều thời gian, công sức<br />
đạt một cách dễ hiểu. hay vật chất nhưng điều cần thiết là phải lựa chọn và áp<br />
2.3. Sử dụng các hoạt động theo đường hướng giao tiếp dụng đúng hoạt động phù hợp với đối tượng người học<br />
vào việc giảng dạy kĩ năng đọc hiểu cũng như nội dung, thời gian cho phép trong chương<br />
John Kruidenier (2002) xác định rằng, đọc hiểu là trình học thì các hoạt động đọc hiểu theo đường hướng<br />
một quá trình chủ động và người đọc phải tương tác và giao tiếp mới có thể phát huy tác dụng, hiệu quả một cách<br />
làm việc với một văn bản để có thể thực hiện tốt các triệt để nhất.<br />
nhiệm vụ [4]. Cũng theo ông, khi quá trình đọc văn bản<br />
Sau đây là một số hoạt động theo đường hướng giao<br />
diễn ra, ngôn từ được mã hóa và liên hệ với ý nghĩa của<br />
tiếp được gợi ý nên sử dụng để biến các giờ học đọc hiểu<br />
chúng trong trí nhớ của người đọc và các cụm từ và câu<br />
trong lớp học tiếng Anh trở nên thú vị và hấp dẫn hơn<br />
được xử lí nhanh chóng thuần thục đủ để nghĩa của một<br />
với người học và đồng thời tạo cảm hứng sáng tạo cho cả<br />
từ, cụm hay câu không bị mất đi trước khi những ngôn<br />
người dạy.<br />
từ tiếp theo được xử lí bởi người đọc. Như vậy, có thể<br />
thấy rằng, theo phương pháp dạy học truyền thống, đại 2.4.1. Mở rộng bài đọc<br />
đa số các hoạt động và bài tập đọc hiểu thường diễn ra Với các bài đọc ngắn, đơn giản, GV yêu cầu người<br />
trên giấy và trong tâm trí của cá nhân mỗi người học. Mỗi học viết thêm một tính từ đứng trước mỗi danh từ hoặc<br />
người học làm việc độc lập trên các bài đọc và các nhiệm trạng từ cho mỗi động từ. Đối với các bài đọc dài hơn<br />
vụ liên quan đến bài đọc hiểu mà không được yêu cầu một chút, có thể yêu cầu người học viết thêm một số<br />
tương tác với những người học khác. Điều này khiến cho mệnh đề hoặc câu bổ sung có thể được chèn vào văn bản;<br />
các giờ học đọc hiểu trở nên nhàm chán và tĩnh lặng và viết chúng theo thứ tự lộn xộn trên bảng và yêu cầu người<br />
thậm chí có thể được coi như là những giờ học có tác học thảo luận cùng các học viên khác rồi sắp xếp chúng<br />
dụng ru ngủ người học.<br />
vào những vị trí thích hợp nhất trong bài đọc và giải thích<br />
Với câu hỏi “Liệu đọc hiểu có thể trở thành hoạt động lí do tại sao.<br />
mang tính giao tiếp được không?” thì có thể được trả lời<br />
là chắc chắn là hoàn toàn có. Lí do là bởi vì đọc hiểu thực 2.4.2. Giản lược bài đọc<br />
chất cũng là một phương thức giao tiếp nội dung như bất GV yêu cầu người học làm việc theo nhóm nhỏ hoặc<br />
kì các hình thức sử dụng ngôn ngữ khác như viết, nghe cặp đôi, bàn bạc và thảo luận để giản lược nội dung của<br />
hoặc nói. Vậy nên, cần phải khẳng định người dạy hoàn bài đọc xuống với số lượng từ chính xác thành 100 từ<br />
toàn có thể biến đọc hiểu thành hoạt động mang tính chất (hoặc số lượng từ theo yêu cầu của GV) hoặc giảm tổng<br />
tương tác cao hơn bằng cách kết hợp hoạt động đọc vốn số câu đã có trong bài đọc xuống một nửa.<br />
<br />
247<br />
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 246-248; 215<br />
<br />
<br />
2.4.3. Sắp xếp, xây dựng bài đọc Khi các nhóm đã sẵn sàng, GV che đi bài đọc, sau đó<br />
GV viết một danh sách các từ khóa được chọn ra từ yêu cầu các nhóm trao đổi các câu hỏi và các câu trả lời.<br />
bài đọc theo thứ tự lộn xộn trên một tờ giấy. GV phát cho Nhóm trả lời đúng nhiều số câu hỏi nhất sẽ thắng.<br />
mỗi nhóm một bản sao để học viên đọc qua bài đọc và 2.4.8. Nhóm đọc<br />
sau đó yêu cầu sắp xếp các từ khóa trở lại theo đúng thứ GV chia lớp học thành các nhóm đọc. Mỗi nhóm có<br />
tự xuất hiện mà không nhìn vào bài đọc. Khi gặp khó 6 thành viên, mỗi thành viên đóng một vai trò khác nhau:<br />
khăn trong việc sắp xếp trật tự từ khóa, có thể cho phép - Phụ trách thảo luận: Dẫn dắt nhóm, phân công<br />
đọc lại bài đọc một lần nữa. nhiệm vụ cho mỗi thành viên, đặt các câu hỏi và kiểm<br />
Khi người học đã có danh sách các từ theo đúng thứ soát thời gian đọc.<br />
tự, GV thu lại bài đọc đi; yêu cầu người học xây dựng lại - Kết nối sáng tạo: Tạo mối liên hệ giữa các đoạn<br />
bài đọc (bằng cách nói hoặc viết) sử dụng các từ khóa. trong bài đọc, giữa thông tin trong bài đọc với thông tin<br />
2.4.4. Ghép nối bên ngoài.<br />
GV chuẩn bị bài đọc nhưng bỏ câu đầu tiên của mỗi - Dự đoán nội dung: Dự đoán điều sẽ xảy ra tiếp theo<br />
đoạn trong bài đọc vì việc chọn câu đầu tiên của đoạn trong khi đọc bài đọc hoặc sau khi kết thúc bài đọc.<br />
văn đặc biệt hữu ích vì chúng thường tóm tắt ý chính của - Nghệ sĩ sáng tạo: Minh họa những thông tin đã đọc<br />
đoạn văn. Người học có thể sử dụng những câu này để và viết chú thích cho các hình vẽ.<br />
giúp họ hiểu cấu trúc và nội dung chính của văn bản. Sau - Người tóm tắt: Tóm tắt lại các sự kiện chính, các<br />
đó, GV in và phát cho mỗi nhóm học viên 1 bản photo; nhân vật và bối cảnh trong bài đọc.<br />
viết các câu còn thiếu theo thứ tự lộn xộn trên bảng và - Phù thủy từ vựng: Lựa chọn các từ mới, thú vị, hài<br />
yêu cầu người học thảo luận theo nhóm và thêm chúng hước trong bài đọc, tìm định nghĩa, loại từ và đặt câu với<br />
vào bài đọc theo đúng vị trí và giải thích lí do tại sao. các từ đã chọn.<br />
2.4.5. Chuyển đổi hình thức trình bày bài đọc GV giao bài đọc cho mỗi nhóm và yêu cầu các nhóm<br />
Người học phải chuyển đổi hình thức trình bày văn vừa đọc vừa thảo luận về nội dung bài đọc cũng như hoàn<br />
bản theo một cách nào đó thay cho hình thức trình bày thành các nhiệm đã được giao cho mỗi thành viên trong<br />
của văn bản gốc. Ví dụ: nhóm. Sau khi tất cả các thành viên hoàn thành nhiệm<br />
- Kể lại câu chuyện hoặc nội dung bài đọc ở ngôi thứ vụ, mỗi nhóm sẽ trình bày về sản phẩm và kết quả công<br />
nhất chứ không phải người thứ ba. việc của mình trước lớp.<br />
- Kể lại một câu chuyện, bài đọc từ góc nhìn của 3. Kết luận<br />
một nhân vật khác trong câu chuyện (ví dụ: từ góc nhìn Có thể thấy rằng, với những hoạt động có tính<br />
của con sói, không phải từ góc nhìn của cô bé quàng tương tác theo định hướng giao tiếp, kĩ năng đọc hiểu<br />
khăn đỏ). vẫn có khả năng vừa mang tới những hiệu quả trong<br />
- Trình bày câu chuyện, bài đọc dưới hình thức như việc giúp người học hiểu được nội dung bài đọc, tăng<br />
một bản tin trên đài truyền thanh hoặc truyền hình. cường vốn ngôn ngữ của mình, trau dồi kĩ năng đọc<br />
hiểu và đồng thời mang lại không khí hoàn toàn tươi<br />
2.4.6. Suy luận mới trong lớp học tiếng Anh, thu hút tất cả những<br />
GV in bài đọc trên giấy A4, sau đó cắt giấy thành 3 người học trong lớp vào các hoạt động học đọc hiểu.<br />
phần theo chiều dọc; photo các phần này nhưng chỉ đưa Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng việc lựa chọn<br />
cho mỗi nhóm một phần của bài đọc. Người học phải làm những hoạt động phù hợp với khả năng, xu hướng, và<br />
việc cùng nhau để suy luận nội dung toàn bộ bài đọc theo nhu cầu của từng nhóm lớp cũng là điều hết sức quan<br />
phần nội dung mà họ có. Cuối cùng, GV đưa ra câu trọng nhằm đảm bảo việc tổ chức thành công các<br />
chuyện hoặc bài đọc gốc để so sánh. nhiệm vụ học tập và làm cho những nhiệm vụ, hoạt<br />
2.4.7. Đặt câu hỏi liên quan đến bài đọc động đó trở nên thực sự có ý nghĩa và hiệu quả đối với<br />
GV phát bài đọc đã lựa chọn cho người học, cho họ cả người học và người dạy. Kể từ đó, những người học<br />
thời gian để đọc nắm bắt nội dung và suy đoán nghĩa của tiếng Anh sẽ có thể tìm thấy niềm vui và sự cần thiết<br />
từ mới,... Sau đó, cho mỗi nhóm chuẩn bị 10-15 câu hỏi phải đầu tư thời gian, tâm huyết và khả năng của mình<br />
liên quan đến bài đọc và một nhóm khác sẽ phải trả lời cho các giờ học đọc hiểu trong lớp học cũng như việc<br />
các câu hỏi dựa trên những thông tin họ nhớ từ bài đọc. tự đọc tại ngoài lớp học tiếng Anh.<br />
Câu hỏi nên thực tế. (Xem tiếp trang 215)<br />
<br />
248<br />
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 209-215<br />
<br />
<br />
* Quy trình Có thể sản xuất nhiều Interferon bằng quy trình<br />
- Tách gen IFN ở người nhờ enzimi khuẩn cấy ghép gen IFN ở người vào vi khuẩn E. Coli.<br />
- Gắn gen IFN vào ADN của phagơ<br />
- Nhiễm phagơ tái tổ hợp vào E. coli<br />
GV yêu cầu HS đánh giá và phát triển vấn đề: Những chế HS: Có thể sản xuất được những chế phẩm sử<br />
phẩm sử dụng trong nông nghiệp có được sản xuất bằng dụng trong nông nghiệp bằng phương pháp như<br />
phương pháp trên không? trên.<br />
<br />
3. Kết luận CÁC HOẠT ĐỘNG MANG ĐƯỜNG HƯỚNG...<br />
Dạy học tiếp cận năng lực và đánh giá năng lực của HS (Tiếp theo trang 248)<br />
là vấn đề mới và khó đối với các GV phổ thông hiện nay trong<br />
dạy học các môn học. Tuy nhiên, nếu có lòng yêu nghề, yêu Tài liệu tham khảo<br />
trò, nhiệt huyết và chịu khó tìm hiểu, đầu tư thời gian thì đều<br />
có thể vượt qua. Việc đánh giá năng lực của HS có thể có [1] Savignon, S. (1984). Communicative competence:<br />
những cách tiếp cận khác nhau và theo chúng tôi, tiếp cận cấu Theory and classroom practice. Reading, MA:<br />
trúc của năng lực trong đánh giá có thể dễ dàng và thuận lợi Addyson-Wesley.<br />
hơn đối với các GV phổ thông hiện nay trong dạy học các [2] Savignon, S. (1998). Communicative competence:<br />
môn học nói chung và trong dạy học môn Sinh học nói riêng. Theory and classroom practice. (2nd edition). New<br />
York: McGraw-Hill.<br />
Tài liệu tham khảo [3] Brown, H. D. (2007). Teaching by Principles. New<br />
[1] Nguyễn Văn Hồng (chủ biên) - Nguyễn Thị Hà - York: Addison Wesley Longman Inc. Proceedings,<br />
Nguyễn Thị Hằng - Phạm Thị Hồng Tú (2019). pp. 162-174.<br />
Giáo trình Vận dụng các tiếp cận dạy học để phát [4] JohnKruidenier, Research-Based Principles for<br />
triển năng lực học sinh trong dạy học Sinh học. Adult Basic Education ReadingInstruction, (USA,<br />
NXB Đại học Thái Nguyên. The National Institute for Literacy, 2002), pp. 77.<br />
[2] Đinh Quang Báo (chủ biên) - Phan Thị Thanh Hội - [5] Canale, M., & Swain, M. (1980). Theoretical bases<br />
Nguyễn Thị Hằng Nga - Ngô Văn Hưng - Trần Thị of communicative approaches to second language<br />
Gái (2018). Dạy học phát triển năng lực môn Sinh teaching and testing. Applied Linguistics, Vol. 1,<br />
học trung học cơ sở. NXB Đại học Sư phạm. pp. 1-47.<br />
[3] Nguyễn Kim Dung (2011). Xây dựng bộ tiêu chí [6] Cohen, A. (1990). Language learning. Boston:<br />
đánh giá chất lượng học tập của học sinh phổ thông. Heinle & Heinle Publishers.<br />
Báo cáo tổng kết đề tài Khoa học và Công nghệ cấp [7] Cohen, A., & Macaro, E. (2007). Language learner<br />
Bộ, Mã số B2009.19.53.TĐ. strategies. Oxford: Oxford University Press.<br />
[4] Chicago Public Schools Bureau of Student [8] Dornyei, Z. (1995). On the teachability of<br />
Assessment (Source: Charles, Randall, Lester, communication strategies. TESOL Quarterly, Vol 1,<br />
Frank and O’Daffer, Phares. How to Evaluate pp. 55-85.<br />
Progress in Problem Solving. Reston, VA: National [9] Ellis, R. (2008). The study of second language<br />
Council of Teachers of Mathematocs, 1987. In acquisition. Oxford: Oxford University Press.<br />
Stenmark, Jean, Mathematics Assessment: Myths, [10] Iwai, C. and Gobel, P. (2003). Instructional effects<br />
Models, Good Questions and Practical Suggestions. of communication strategies. JALT Lee, J. F.<br />
Reston, VA: National Council of Teachers of (2000). Tasks and communicating in language<br />
Mathematics, 1991). classrooms. New York: McGraw<br />
[5] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ [11] Savignon, S. (2002). Interpreting communicative<br />
thông - Chương trình tổng thể. language teaching. New Haven: Yale University<br />
[6] Nguyễn Thị Lan Phương (2016). Ý tưởng xây dựng ngân Press.<br />
hàng câu hỏi đánh giá năng lực học sinh phổ thông. Tạp [12] https://www.teachingenglish.org.uk/article/making-<br />
chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 12, tr 110-114. reading-communicative<br />
[7] Nguyễn Ngọc Duy (2018). Thiết kế bộ công cụ đánh giá [13] https://www.fluentu.com/blog/educator-english/esl-<br />
năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh các reading-comprehension-activities/<br />
tỉnh miền núi Tây Bắc thông qua dạy học dự án trong [14] https://busyteacher.org/2748-what-to-do-with-reading<br />
môn Hóa học. Tạp chí Giáo dục, số 443, tr 47-53. -texts-10-creative-ways.html.<br />
<br />
215<br />
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn