BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ---------------------------------

TRẦN LAN HƯƠNG CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN

ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN --------------------------------- TRẦN LAN HƯƠNG

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SẢN PHẨM TRONG CÁC

DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

Chuyên ngành: KHOA HỌC QUẢN LÝ Mã số: 9310110

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Mai Ngọc Anh 2. TS. Nguyễn Hữu Xuyên

HÀ NỘI - 2021

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam

kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi thực hiện và không vi phạm sự

trung thực trong học thuật.

Hà Nội, ngày tháng năm 2021

Nghiên cứu sinh

Trần Lan Hương

ii

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin được gửi lời cám ơn sâu sắc đến hai thầy hướng dẫn là PGS.TS.

Mai Ngọc Anh và TS. Nguyễn Hữu Xuyên, các thầy đã luôn tận tình hướng dẫn và tạo

mọi điều kiện tốt nhất để tôi có thể hoàn thành luận án.

Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo khoa Khoa học quản lý - trường Đại học

Kinh tế Quốc dân, trưởng bộ môn Quản lý công nghệ và các đồng nghiệp tại khoa Khoa

học quản lý, đã hết sức tạo điều kiện về thời gian, động viên, khích lệ tôi trong suốt quá

trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án.

Tôi xin gửi lời tri ân tới các thầy cô tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tham

gia giảng dạy, dìu dắt tôi về học thuật trong suốt thời gian học tập. Thầy cô cũng luôn

nhiệt tình giúp đỡ những khi tôi gặp khó khăn, trăn trở về luận án, để sau 3 năm thực

hiện luận án, tôi đã trưởng thành và vững vàng hơn rất nhiều trên con đường nghiên cứu.

Tôi cũng xin trân trọng cám ơn tập thể lãnh đạo và chuyên viên chuyên trách của

Viện Đào tạo sau Đại học – trường Đại học kinh tế Quốc dân đã hỗ trợ và tạo điều kiện

đầy đủ để tác giả có thể hoàn thành quá trình học tập và nghiên cứu.

Đồng thời, luận án không thể hoàn thiện nếu không có sự giúp đỡ về nguồn dữ liệu và góp ý chuyên môn đến từ các đơn vị và cá nhân thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thành viên trong gia đình và

bạn bè đã luôn ủng hộ, tạo điều kiện và đồng hành cùng tác giả trong suốt thời gian làm

nghiên cứu sinh.

Hà Nội, ngày tháng năm 2021

Nghiên cứu sinh

Trần Lan Hương

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii

MỤC LỤC .................................................................................................................... iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ...................................................................................... vi

DANH MỤC BẢNG ................................................................................................... vii

DANH MỤC HÌNH ..................................................................................................... ix

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SẢN PHẨM

VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SẢN PHẨM ............ 12

1.1. Tổng quan nghiên cứu về đổi mới sáng tạo ................................................... 12

1.1.1. Tổng quan nghiên cứu về khái niệm và vai trò của đổi mới sáng tạo ......... 12

1.1.2. Tổng quan nghiên cứu về phân loại đổi mới sáng tạo ................................. 15

1.2. Tổng quan nghiên cứu về kết quả đổi mới sáng tạo và đổi mới sáng tạo sản

phẩm ......................................................................................................................... 18

1.2.1. Kết quả đổi mới sáng tạo ............................................................................. 18

1.2.2. Đổi mới sáng tạo sản phẩm .......................................................................... 20

1.3. Tổng quan nghiên cứu về các nhân tố tác động đến đổi mới sáng tạo sản

phẩm ......................................................................................................................... 22

1.3.1. Các nhân tố nội sinh .................................................................................... 23

1.3.2. Các nhân tố ngoại sinh ................................................................................. 29

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỔI MỚI

SÁNG TẠO SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ

CÔNG NGHỆ .............................................................................................................. 32

2.1. Cơ sở lý luận về doanh nghiệp khoa học và công nghệ ................................ 32

2.1.1. Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp khoa học & công nghệ .................. 32

2.1.2. Động cơ thành lập doanh nghiệp khoa học & công nghệ ............................ 36

2.1.3. Đặc trưng của doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên thế giới và tại Việt

Nam ........................................................................................................................ 37

iv

2.2. Các lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu để xác định các nhân tố tác động tới

đổi mới sáng tạo sản phẩm trong doanh nghiệp khoa học và công nghệ .......... 40

2.2.1. Lý thuyết về đổi mới sáng tạo đóng và mở (close and open innovation) .... 40

2.2.2. Lý thuyết về quan điểm dựa trên thể chế (institutional- based view) .......... 52

2.3. Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu ....................................... 55

2.3.1. Mô hình nghiên cứu đề xuất ........................................................................ 55

2.3.2. Các giả thuyết nghiên cứu ........................................................................... 61

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 68

3.1. Phương pháp thu thập dữ liệu ........................................................................ 68

3.1.1. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp ......................................................... 68

3.1.2. Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp ........................................................... 68

3.2. Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu ........................................................ 84

3.2.1. Chuẩn bị dữ liệu ........................................................................................... 84

3.2.2. Xử lý và phân tích dữ liệu ........................................................................... 85

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................. 93

4.1. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt

Nam .......................................................................................................................... 93

4.1.1. Sự hình thành của doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam ........... 93

4.1.2. Các hỗ trợ, ưu đãi dành cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt

Nam ...................................................................................................................... 100

4.1.3. Thực trạng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp khoa học và công

nghệ ...................................................................................................................... 103

4.1.4. Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các

doanh nghiệp khoa học và công nghệ .................................................................. 104

4.1.5. Những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp khoa học và công

nghệ .......................................................................................................... 104

4.2. Đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ ............ 108

4.2.1. Thống kê mô tả chung về dữ liệu thu thập được từ khảo sát. .................... 108

4.2.2. Kết quả phân tích định lượng ..................................................................... 119

CHƯƠNG 5: BÀN LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KHUYẾN NGHỊ ...... 137

5.1. Bàn luận về kết quả nghiên cứu ................................................................... 137

v

5.1.1. Mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo mở và đổi mới sáng tạo sản phẩm ..... 137

5.1.2. Mối quan hệ giữa hỗ trợ nhà nước và đổi mới sáng tạo sản phẩm ............ 142

5.1.3. Mối quan hệ giữa quy mô và đổi mới sáng tạo sản phẩm ......................... 143

5.1.4. Bàn luận về kết quả các giả thuyết nghiên cứu không được chấp nhận .... 144

5.2. Khuyến nghị nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo sản phẩm trong các doanh

nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam ............................................................ 148

5.2.1. Đối với nhà quản lý doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam ...... 148

5.2.2. Đối với các nhà hoạch định và thực thi chính sách ................................... 150

5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo ...................................................... 155

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐƯỢC

CÔNG BỐ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

: Chuyển giao công nghệ CGCN

: Doanh nghiệp DN

DNKH&CN : Doanh nghiệp Khoa học và công nghệ

: Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN

: Đổi mới sáng tạo ĐMST

: Phân tích nhân tố khám phá EFA

: Quan điểm dựa trên thể chế IBV

: Khoa học và công nghệ KH&CN

: Quan điểm dựa trên thị trường MBV

: Nghiên cứu và phát triển NC&PT

: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD

OI hướng vào : Đổi mới sáng tạo mở hướng vào

OI hướng ra : Đổi mới sáng tạo mở hướng ra

OI kết hợp : Đổi mới sáng tạo mở kết hợp

: Research & Development R&D

: Quan điểm dựa trên nguồn lực RBV

: Sở hữu trí tuệ SHTT

: Sản xuất và kinh doanh SX-KD

vii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Một số khái niệm đổi mới sáng tạo ............................................................... 13

Bảng 2.1. Các quy tắc đối lập giữa đổi mới sáng tạo Mở và Đóng .............................. 47

Bảng 2.2. Các hình thức của đổi mới sáng tạo mở hướng vào ..................................... 50

Bảng 2.3. Các hình thức của đổi mới sáng tạo mở hướng ra ........................................ 51

Bảng 2.4. Các hình thức của đổi mới sáng tạo mở kết hợp .......................................... 52

Bảng 2.5: Phân loại thể chế ........................................................................................... 54

Bảng 3.1: Thang đo ban đầu các biến phụ thuộc và độc lập của nghiên cứu ............... 72

Bảng 4.1: Thống kê mô tả một số biến số của toàn bộ mẫu khảo sát (n = 106) ......... 114

Bảng 4.2: Thống kê mô tả một số biến số của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ

có đổi mới sáng tạo sản phẩm của mẫu khảo sát (n = 99) ........................................... 114

Bảng 4.3: Thống kê mô tả một số biến số của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ

có không đổi mới sáng tạo sản phẩm của mẫu khảo sát (n = 7) .................................. 115

Bảng 4.4: Tỉ lệ các doanh nghiệp khoa học và công nghệ không nhận được hỗ trợ Nhà

nước cho hoạt động đổi mới sáng tạo phân chia theo lí do ......................................... 118

Bảng 4.5a: Kết quả đánh giá ban đầu độ tin cậy của thang đo OIhuongvao .............. 119

Bảng 4.5b: Kết quả đánh giá lại độ tin cậy của thang đo OIhuongvao ....................... 120

Bảng 4.6a: Kết quả đánh giá ban đầu độ tin cậy của thang đo OIhuongra ................. 120

Bảng 4.6b: Kết quả đánh giá lại độ tin cậy của thang đo OIhuongra ......................... 121

Bảng 4.7a: Kết quả đánh giá ban đầu độ tin cậy của thang đo OIkethop ................... 121

Bảng 4.7b: Kết quả đánh giá lại độ tin cậy của thang đo OIkethop ............................ 122

Bảng 4.8: Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo Sở hữu trí tuệ ........................... 122

Bảng 4.9: Kết quả phân tích giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của các thang đo

OIhuongvao, OIhuongra, OIkethop, Sở hữu trí tuệ .................................................... 123

Bảng 4.10: Ma trận hệ số tương quan ......................................................................... 125

Bảng 4.11: Kết quả tính toán nhân tố phóng đại phương sai VIF ............................... 125

Bảng 4.12: Kết quả ước lượng mô hình hồi quy logistic nhị phân ............................. 126

Bảng 4.13: Kết quả kiểm định độ phù hợp của mô hình (9b) bằng câu lệnh fitstat .... 128

Bảng 4.14: Kết quả kiểm định độ phù hợp bằng kiểm định Horme-Lemeshow ........ 128

Bảng 4.15: Kết quả kiểm định độ phù hợp của mô hình bằng câu lệnh linktest ......... 129

viii

Bảng 4.16: Kết quả kiểm định độ phù hợp của mô hình bằng bảng phân loại ........... 130

Bảng 4.17: Kết quả phân tích xác suất để doanh nghiệp đổi mới sáng tạo khi tất cả các

biến độc lập có giá trị bằng giá trị trung bình ............................................................. 132

Bảng 4.18: Tác động biên các biến độc lập đến xác suất đổi mới sáng tạo sản phẩm của

các doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong mô hình đầy đủ ............................... 133

Bảng 5.1: Số lượng và tỉ lệ các doanh nghiệp khoa học và công nghệ tiếp cận với hỗ trợ

Nhà nước ..................................................................................................................... 152

ix

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1. Cơ chế đổi mới sáng tạo đóng ....................................................................... 42

Hình 2.2 : Mô hình đổi mới sáng tạo mở ...................................................................... 49

Hình 2.3: Mô hình nghiên cứu đề xuất về các nhân tố tác động tới đổi mới sáng tạo sản

phẩm .............................................................................................................................. 61

Hình 4.1: Thực trạng đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt

Nam năm 2019 theo loại hình đổi mới sáng tạo ......................................................... 109

Hình 4.2: Cơ cấu đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt

Nam năm 2019 theo loại hình đổi mới sáng tạo ......................................................... 110

Hình 4.3: Thực trạng đổi mới sáng tạo sản phẩm sản phẩm của doanh nghiệp khoa học

và công nghệ năm 2019 theo quy mô nguồn vốn ........................................................ 110

Hình 4.4: Thực trạng đổi mới sáng tạo sản phẩm của doanh nghiệp khoa học và công

nghệ năm 2019 theo loại hình kinh tế ......................................................................... 111

Hình 4.5: Thực trạng đổi mới sáng tạo sản phẩm của doanh nghiệp khoa học và công

nghệ năm 2019 theo khu vực địa lý ............................................................................ 112

Hình 4.6: Thực trạng đổi mới sáng tạo sản phẩm của doanh nghiệp khoa học và công

nghệ năm 2019 theo đối tượng khảo sát ..................................................................... 113

Hình 4.7: Nguồn gốc tạo ra đổi mới sáng tạo sản phẩm của các doanh nghiệp khoa học

và công nghệ ............................................................................................................... 116

Hình 4.8: Thực trạng đổi mới sáng tạo sản phẩm của các doanh nghiệp khoa học và công

nghệ năm 2019 theo quy mô và nguồn gốc hình thành ............................................... 116

Hình 4.9: Hỗ trợ của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ . 117

Hình 4.10: Tác động biên của các biến độc lập và kiểm soát lên xác suất xảy ra đổi mới

sáng tạo sản phẩm ....................................................................................................... 135

Hình 4.11: Tóm tắt kết quả kiểm định các giả thuyết của nghiên cứu ........................ 136

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và môi trường kinh doanh ngày càng cạnh tranh, vòng

đời của sản phẩm và công nghệ ngày càng trở nên ngắn hơn, đổi mới sáng tạo (tiếng

Anh là Innovation, từ sau đây viết tắt là ĐMST) giữ một vai trò trung tâm đối với sự

phát triển kinh tế, xã hội của từng quốc gia và địa phương. ĐMST là tiền đề tạo ra lợi

thế cạnh tranh và có tính quyết định đối với sự tồn tại và phát triển không chỉ trong ngắn

hạn mà còn mở đường cho tương lai lâu dài cho các doanh nghiệp, giúp cho doanh

nghiệp có thể cạnh tranh với những đối thủ khác trên thị trường và bước chân vào những thị trường mới. Trong nhiều nghiên cứu, trong các tài liệu và quy định của pháp luật Việt

Nam hiện nay, ĐMST được coi là vũ khí then chốt trong phát triển doanh nghiệp và tăng

trưởng kinh tế quốc gia. Vai trò của ĐMST đã được khẳng định một cách rõ nét trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII1 của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, nhấn mạnh ĐMST là động lực quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội

của đất nước, tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. World Bank (2013) cũng nhận định rằng những thành tựu về giảm đói nghèo

và tăng thu nhập dựa trên lợi thế về nguồn tài nguyên phong phú và lao động giá rẻ sẽ không thể tồn tại lâu dài. Muốn phát triển bền vững và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh

tế trong thời gian tới thì Việt Nam cần phải chú trọng hơn đến việc tăng năng suất lao

động dựa trên nền tảng hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Thuật ngữ ĐMST có tính đa chiều khi được sử dụng trong rất nhiều các ngữ cảnh

đa dạng cũng như một lượng lớn các nghiên cứu học thuật về chủ đề này. Tác giả nhận

thấy rằng, cách dùng thuật ngữ ĐMST hiện tay có thể hiểu theo hai cách, đó là hiểu

ĐMST là quá trình hay hiểu ĐMST là kết quả. Đối với hai cách hiểu trên, nghiên cứu

này sẽ sử dụng thuật ngữ quá trình ĐMST (Process of innovation) và kết quả ĐMST (Innovation performance). Quá trình ĐMST là một tập hợp giai đoạn và các hoạt động khác nhau. Để ĐMST thành công, tức là đưa ra thị trường được kết quả đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp cần thực hiện nhiều hoạt động khác nhau. Tuỳ thuộc vào bản chất của kết quả ĐMST đó, các hoạt động này có thể bao gồm hoạt động liên quan đến khoa học, công nghệ (nghiên cứu và phát triển), tổ chức, tài chính, sản xuất hay thương mại nhằm

1 https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hĐMST mở-dang/lan-thu-xiii/nghi- quyet-dai-hĐMST mở-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-3663

tạo ra hay có mục đích tạo ra kết quả ĐMST cho doanh nghiệp. Kết quả ĐMST được hiểu là mức độ thành công của doanh nghiệp trong ứng dụng những ý tưởng mới, kiến

2

thức mới, phát minh hay sáng chế cùng với sự kết hợp những nguồn lực khác trong quá

trình ĐMST. Cần phải lưu ý rằng, sự thành công ở đây bao gồm cả thành công về mặt

kỹ thuật và thương mại. Kết quả ĐMST tồn tại ở những hình thái đa dạng. Theo OECD

(2005), thì kết quả ĐMST có thể được chia thành bốn loại bao gồm: ĐMST sản phẩm, ĐMST quy trình, ĐMST marketing, ĐMST tổ chức2.

Để đạt được những mục tiêu ĐMST của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp

hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, các học giả đã nhấn mạnh sự cần thiết

của việc tăng cường tri thức và hiểu biết về ĐMST cũng như là kiểm soát những hoạt

động và các nhân tố ảnh hưởng tới ĐMST. Đã có rất nhiều các nghiên cứu quốc tế và

trong nước về hoạt động ĐMST trong các doanh nghiệp phân theo quy mô hay theo lĩnh

vực hoạt động, tuy nhiên, theo hiểu biết của tác giả, chưa có nghiên cứu nào ở trong

nước trước đây quan tâm đến ĐMST trong nhóm các doanh nghiệp khoa học và công

nghệ (DNKH&CN), nơi mà hoạt động ĐMST là cốt lõi cho sự tồn tại và phát triển.

“Doanh nghiệp khoa học và công nghệ là doanh nghiệp thực hiện sản xuất, kinh doanh,

dịch vụ khoa học và công nghệ để tạo ra sản phẩm, hàng hoá từ kết quả nghiên cứu khoa

học và phát triển công nghệ” (Điều 58, Luật Khoa học và công nghệ 2013). Các điều

kiện sau đây xác định một doanh nghiệp là doanh nghiệp khoa học và công nghệ: được

thành lập, đăng ký kinh doanh, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật

doanh nghiệp; Có khả năng thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; Doanh thu từ

các sản phẩm, dịch vụ hình thành từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công

nghệ cần phải đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu trừ trường hợp doanh nghiệp

thành lập dưới 5 năm (Nghị định 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công

nghệ). DNKH&CN được cho là đòn bảy sản xuất trong nước khi các doanh nghiệp này

không chỉ đóng vai trò là nơi tiếp nhận và thích nghi công nghệ tiên tiến ở nước ngoài,

là một kênh chuyển giao công nghệ, cầu nối đưa các kết quả khoa học và công nghệ vào

sản xuất mà còn là một lực lượng sản xuất chủ lực, tạo ra những sản phẩm có giá trị gia

tăng cao, có sức cạnh tranh tốt trên thị trường, đóng góp cho việc xây dựng và phát triển

nền kinh tế - xã hội và GDP của đất nước. Theo dữ liệu từ Cục Phát triển thị trường và

DNKH&CN, cho biết: Tính đến tháng 8 năm 2019, cả nước có 468 doanh nghiệp được

cấp giấy chứng nhận DNKH&CN, hoạt động trong nhiều lĩnh vực chủ yếu như giao

thông, xây dựng, y tế, nông nghiệp, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ cao. DNKH&CN đã

2 Tuy nhiên gần đây OECD (2018, tr.32) đã điều chỉnh định nghĩa về ĐMST của mình: “Đổi mới là một sản phẩm và/ hoặc quy trình mới hoặc được cải tiến đáng kể so với các sản phẩm hoặc quy trình trước đây của đơn vị và đã được cung cấp cho người dùng tiềm năng (sản phẩm) hoặc được đơn vị sử dụng (quy trình)”. OECD đã sửa đổi định nghĩa về ĐMST nhằm giảm bớt sự phức tạp của định nghĩa dựa trên danh sách bốn loại ĐMST trước đó (sản phẩm)

tạo việc làm cho 23.989 người lao động, ghi nhận doanh thu năm 2018 đạt hơn 160.887,4

3

tỷ đồng với 165 doanh nghiệp cung cấp thông tin về tình hình sản xuất kinh

doanh (doanh thu bình quân đạt 975,075 tỷ đồng/doanh nghiệp), đạt 2,9% GDP cả nước.

Trên thực tế, ĐMST trong các doanh nghiệp, đặc biệt là DNKH&CN của Việt Nam còn

nhiều hạn chế. Trong 165 doanh nghiệp báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, chỉ có

147/165 doanh nghiệp có lãi với tổng lợi nhuận trước thuế năm 2018 đạt: 5.215,2 tỷ

đồng. Liên quan đến điều kiện duy trì giấy chứng nhận DNKH&CN, chỉ có 151 doanh

nghiệp có doanh thu từ sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN với 8.672,8 tỷ đồng

(tương đương chỉ 5,4% tổng doanh thu). Như vậy, số lượng cũng như chất lượng hoạt

động các DNKH&CN ở Việt Nam còn hạn chế so với tiềm năng phát triển.

Trên đây chỉ là những số liệu khiêm tốn của những doanh nghiệp đã được cấp giấy

chứng nhận là DNKH&CN. Theo thống kê của Cục Phát triển thị trường và

DNKH&CN, số lượng DNKH&CN tiềm năng, nghĩa là có có đủ các tiêu chí để được

cấp giấy chứng nhận DNKH&CN theo qui định hiện hành về pháp luật DNKH&CN, thì

có vào khoảng 3000 doanh nghiệp và vì thế những đóng góp của đối tượng này nếu được

thống kê đầy đủ sẽ lớn hơn rất nhiều. Nghiên cứu này không chỉ tập trung vào những

doanh nghiệp đã có giấy chứng nhận là DNKH&CN mà còn quan tâm đến cả những

DNKH&CN tiềm năng, gọi chung là doanh nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN

hoặc DNKH&CN. Liên quan đến khách thể nghiên cứu lại là các doanh nghiệp hoạt

động theo mô hình DNKH&CN mà không phải là chỉ là doanh nghiệp có giấy chứng

nhận là DNKH&CN, nghiên cứu đưa ra các lí do sau đây. Thứ nhất, số lượng các doanh

nghiệp có giấy chứng nhận là DNKH&CN ở Việt Nam chiếm tỉ lệ nhỏ và không phản

ánh được số lượng thực của các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình này. Thứ hai, tác

giả muốn suy rộng kết quả nghiên cứu không chỉ dành cho các DNKH&CN có giấy

chứng nhận mà còn cả những DNKH&CN tiềm năng, để đem lại giá trị toàn diện hơn

cho nghiên cứu. Nghiên cứu không chỉ tìm ra hướng để tăng năng lực cạnh tranh của

các DN đã có giấy chứng nhận và duy trì các hỗ trợ và ưu đãi dành cho nhóm đối tượng

này mà còn nhằm tìm cách để thúc đẩy các DNKH&CN tiềm năng tiến gần hơn với việc

đủ điều kiện nộp hồ sơ xin chứng nhận. Từ đó cũng góp phần đạt mục tiêu của quốc gia

về tăng trưởng cả số lượng và chất lượng các DNKH&CN tại Việt Nam. Chất lượng

thể hiện ở chỗ với chứng nhận “Doanh nghiệp khoa học và công nghệ”, doanh nghiệp

không chỉ được thụ hưởng các ưu đãi và hỗ trợ để phát triển sản phẩm/dịch vụ hiện tại

mà còn giúp tập trung nguồn vốn, tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn lực bên ngoài

khác và không ngừng tạo ra sản phẩm mới có chất lượng và sức cạnh tranh, góp phần

đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế vĩ mô của ngành, địa phương, vùng và quốc gia.

4

Kết quả khảo sát của nghiên cứu này chỉ ra rằng tỉ lệ giới thiệu ĐMST sản phẩm

ra thị trường của các DNKH&CN là tương đối cao ở mức trên 90% các doanh nghiệp

được khảo sát, tuy nhiên sự thành công trên thị trường của các ĐMST sản phẩm này còn

hạn chế với bình quân tỉ lệ doanh thu đến từ sản phẩm hình thành từ kết quả nghiên cứu

khoa học còn thấp, chỉ chiếm dưới 30% tổng doanh thu, không đạt tỉ lệ theo quy định

dành cho các DNKH&CN và vì thế sẽ không được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ của Nhà

nước. Mức độ mới (Radical level) bình quân của những ĐMST sản phẩm này chỉ dừng

ở ngưỡng mới với doanh nghiệp và tương đối mới với thị trường của doanh nghiệp (chi

tiết xem ở phụ lục 6). Trước làn sóng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn

ra hiện nay, công nghệ, tri thức và ĐMST trở thành yếu tố then chốt quyết định năng

lực cạnh tranh. Tốc độ toàn cầu hoá và thương mại hoá nhanh cho các sản phẩm khoa

học và công nghệ của Việt Nam chịu sức ép cạnh tranh gay gắt từ các cường quốc công

nghệ như Mỹ, Châu Âu, Nhật, Hàn Quốc và tất nhiên có cả Trung Quốc. Rất nhiều các

sản phẩm KH&CN mới được tạo ra trong nước, được đánh giá cao nhưng lại không đủ

sức cạnh tranh với với các sản phẩm nhập ngoại do tâm lý của người tiêu dùng về các

rủi ro kỹ thuật của sản phẩm made in Vietnam, các hoạt đông marketing, quảng bá đến

công chúng hạn chế do thiếu đầu tư kinh phí, khó khăn trong việc tìm kiếm và mở rộng

thị trường. Cùng với đó, tốc độ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam nói

chung và DNKH&CN nói riêng còn chậm và thụt lùi sau thế giới, làm giảm năng lực

cạnh tranh trong các lĩnh vực tương ứng. Vì thế, việc tăng cường khả năng hình thành

và sự thành công về thương mại của đổi mới sáng tạo sản phẩm tại các doanh nghiệp

hoạt động theo mô hình DNKH&CN là cấp thiết và cũng góp phần đẩy nhanh tiến trình

gia tăng số lượng và chất lượng của các doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận

DNKH&CN của Việt Nam.

Trong nghiên cứu này, ĐMST sản phẩm là biến phụ thuộc và được hiểu là kết

quả đổi mới sáng tạo sản phẩm. ĐMST sản phẩm là việc giới thiệu các hàng hoá/ dịch vụ mới hoặc được cải tiến đáng kể về mặt đặc điểm cũng như công năng sử dụng, khác biệt đáng kể so với các hàng hoá/ dịch vụ trước đây đã được doanh nghiệp giới thiệu ra thị trường. Nghiên cứu tập trung vào loại hình kết quả ĐMST này là vì các lý do sau đây. Thứ nhất, do khách thể nghiên cứu là các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN, việc hình thành ĐMST sản phẩm được coi là điều kiện bắt buộc của doanh

nghiệp để có thể duy trì hay được cấp giấy chứng nhận và thụ hưởng các ưu đãi, hỗ trợ

tài chính từ Chính phủ. Thứ hai, trong bốn loại hình kết quả ĐMST, ĐMST sản phẩm là loại hình kết quả ĐMST phổ biến nhất trong mẫu của nghiên cứu này. Hướng tiếp

cận tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Romijn & Albaladejo (2002).

5

Thứ ba, việc phát triển sản phẩm mới sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể đạt được lợi thế

cạnh tranh và liên quan trực tiếp đến năng suất cũng như sự tồn tại của doanh nghiệp

trong dài hạn, dù là doanh nghiệp lớn hay doanh nghiệp nhỏ. Trong rất nhiều ngành

công nghiệp, các mục tiêu về tăng trưởng và lợi nhuận phụ thuộc rất lớn vào việc doanh

nghiệp có hay không ĐMST sản phẩm. Việc không chú trọng tới ĐMST sản phẩm có

thể tạo ra một cuộc khủng hoảng và đe doạ lớn tới sự tồn tại của doanh nghiệp trong các

ngành công nghiệp đó.

Về phía biến độc lập, để xác định được các nhân tố tác động đến ĐMST sản phẩm

trong các doanh nghiệp KH&CN Việt Nam, nghiên cứu này sẽ sử dụng hai lý thuyết

nền tảng đó là lý thuyết ĐMST đóng - mở và lý thuyết về quan điểm dựa trên thể chế

(gọi tắt là lý thuyết thể chế). Các nhân tố sẽ được chia thành hai nhóm, nhóm các nhân

tố nội sinh (các nhân tố nằm bên trong thuộc sự kiểm soát của doanh nghiệp có tác động

đến năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp) và nhóm các nhân tố ngoại sinh (các

nhân tố có tác động đến đổi mới sáng tạo nhưng vượt ra khỏi phạm vi kiểm soát của

doanh nghiệp). Để xác định các nhân tố nội sinh, lý thuyết ĐMST đóng - mở được đề xuất bởi Chesbrough (2003, 2006) được sử dụng. Lý thuyết này cho rằng các ý tưởng

có giá trị có thể đến từ không chỉ bên trong mà bên ngoài của doanh nghiệp và có thể được phát triển để đưa ra thị trường theo những con đường bên trong hay bên ngoài ranh

giới của doanh nghiệp. Nói cách khác, trong quá trình ĐMST để hình thành nên kết quả

ĐMST, doanh nghiệp có thể lựa chọn tự mình thực hiện mọi hoạt động (quá trình ĐMST

đóng) hay sử dụng các giải pháp thị trường như là mua, thuê hay kết hợp với các chủ

thể từ bên ngoài thị trường (quá trình ĐMST mở). Mô hình ĐMST đóng là mô hình

trong đó quá trình ĐMST diễn ra tương đối khép kín với bên ngoài, bộ phận nghiên cứu

và phát triển của doanh nghiệp là đầu não để hình thành nên kết quả đổi mới sáng tạo,

trong mô hình này thì doanh nghiệp phải tự làm hết mọi khâu trong quá trình đổi mới

sáng tạo. Trong khi đó, ĐMST mở là việc sử dụng có mục đích những luồng tri thức từ bên trong ra, luồng tri thức từ bên ngoài vào hay luồng tri thức kết hợp để hình thành nên kết quả đổi mới sáng tạo. Việc xếp những nhân tố ĐMST mở vào nhóm những nhân tố nội sinh là vì tuy có sự tham gia của luồng tri thức và công nghệ từ môi trường bên ngoài, nhưng doanh nghiệp sẽ đóng vai trò chủ động trong việc sử dụng các luồng tri thức đó, có thể lựa chọn đi theo chiến lược đóng hay mở cửa trong quá trình ĐMST để hoàn thiện kết quả ĐMST. Theo tìm hiểu của tác giả, hiện nay tại Việt Nam có rất ít các nghiên cứu đề cập đến hay tìm cách trình bày một cách hệ thống lý thuyết ĐMST đóng

- mở và đây là nghiên cứu thực nghiệm đầu tiên tại Việt Nam tìm cách đo lường riêng rẽ các cơ chế của hoạt động ĐMST mở và kiểm định tác động của các cơ chế ĐMST

6

mở tới kết quả ĐMST sản phẩm ở cấp độ doanh nghiệp. Từ đó, đưa ra kết luận xem việc

mở cửa các hoạt động ĐMST của doanh nghiệp ra bên ngoài có kích thích việc hình

thành kết quả ĐMST và tăng cường mức độ thành công về thương mại của ĐMST sản

phẩm ở doanh nghiệp hay không. Để xác định các nhân tố ngoại sinh, lý thuyết về quan

điểm dựa trên thể chế (IBV) được phát triển bởi Peng (2002, 2009) được sử dụng. Lý

thuyết này lập luận rằng thể chế đúng dắn sẽ có thể kích thích được những hành vi

ĐMST của doanh nghiệp và ngược lại. Từ hai lý thuyết này, nghiên cứu sẽ kiểm định

các tác động của sáu biến số độc lập chính đó là: (1) ĐMST mở hướng vào, (3) ĐMST

mở hướng ra, (3) ĐMST mở kết hợp và (4) Cường độ nghiên cứu và phát triển nội bộ

(xây dựng dựa trên lý thuyết ĐMST đóng- mở) và biến số (5) Hỗ trợ nhà nước, (6) Bảo

hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ (xây dựng dựa trên lý thuyết quan điểm dựa trên thể

chế), tới ĐMST sản phẩm trong các DNKH&CN Việt Nam.

Từ những lý giải trên đây, đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo sản phẩm trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam” có những đóng góp mới và ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Dưới góc độ lý thuyết, luận án sẽ tổng quan một cách kỹ lưỡng về khái niệm đổi mới sáng tạo, quá trình đổi mới sáng tạo, kết quả ĐMST và ĐMST sản phẩm, đồng thời hai lý thuyết nền tảng được sử dụng trong luận án này, bao gồm lý thuyết ĐMST đóng - mở và lý thuyết quan điểm dựa trên thể chế. Dưới góc độ thực nghiệm, nghiên cứu sẽ chỉ ra và kiểm định mối quan hệ ảnh hưởng của nhân tố nội sinh (xây dựng dựa trên lý thuyết ĐMST đóng - mở) và ngoại sinh (xây dựng dựa trên lý thuyết quan điểm dựa trên thể chế) đến ĐMST sản phẩm trong các DNKH&CN tại Việt Nam. Từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao khả năng đổi mới sáng tạo sản phẩm cho DNKH&CN Việt Nam, đồng thời nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước trong lĩnh vực ĐMST của DNKH&CN. Về điểm mới, đây cũng là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam vận dụng kết hợp hai lý thuyết ĐMST đóng - mở và lý thuyết thể chế để đánh giá các tác động của các nhân tố nội sinh và ngoại sinh tương ứng tới ĐMST sản phẩm ở cấp độ doanh nghiệp. Nghiên cứu cũng đã nỗ lực đánh giá tác động của cả ba cơ chế của hoạt động ĐMST mở lên đổi mới sản phẩm, bao gồm ĐMST mở hướng vào, ĐMST mở hướng ra và ĐMST mở kết hợp lên ĐMST sản phẩm, điều mà hiếm có các nghiên cứu quốc tế đã thực hiện được, đặc biệt là trong một bối cảnh nghiên cứu mới là tại các DNKH&CN tại một quốc gia đang phát triển như Việt Nam.

2.Mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể

- Mục tiêu tổng quát: Xác định các nhân tố nội sinh và ngoại sinh tác động tới ĐMST sản phẩm trong các doanh nghiệp Khoa học và công nghệ Việt Nam. Nghiên cứu tập trung vào ảnh hưởng của hoạt động đổi mới sáng tạo mở (ba cơ chế hướng vào,

7

hướng ra và kết hợp) và các hình thức hỗ trợ của nhà Nước và bảo hộ thực thi quyền sở hữu trí tuệ tới đổi mới sáng tạo sản phẩm trong các DNKH&CN.

- Câu hỏi nghiên cứu:

1) Các cơ chế ĐMST mở nào đang được thực thi tại các DNKH&CN, mức độ mở của các cơ chế này và các cơ chế của ĐMST mở có tác động như thế nào đến ĐMST sản phẩm tại các DNKH&CN?

2) Cường độ đầu tư cho hoạt động NC&TK nội bộ có tác động như thế nào đến

ĐMST sản phẩm tại các DNKH&CN?

3) Các hỗ trợ nhà nước có tác động như thế nào tới đổi mới sáng tạo sản phẩm?

4) Bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ có tác động như thế nào tới đổi mới

sáng tạo sản phẩm ?

- Nhiệm vụ cụ thể: Từ mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu trên đây, tác giả xác

định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:

• Nghiên cứu lý thuyết về đổi mới sáng tạo, quá trình đổi mới sáng tạo, kết quả đổi mới sáng tạo, đổi mới sáng tạo sản phẩm và các nhân tố tác động đến đổi mới sáng tạo sản phẩm.

• Nghiên cứu về tác động của ba cơ chế đổi mới sáng tạo mở (hướng vào, hướng ra, kết hợp) và cường độ R&D nội bộ tới việc hình thành đổi mới sáng tạo sản phẩm, mức độ thành công của đổi mới sáng tạo sản phẩm tại các DNKH&CN dựa trên tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước đã công bố.

• Nghiên cứu về tác động của các hình thức hỗ trợ của Nhà nước và bảo hộ thực

thi quyền sở hữu trí tuệ tới việc hình thành đổi mới sáng tạo sản phẩm dựa trên tổng

quan nghiên cứu trong và ngoài nước đã công bố.

• Nghiên cứu và kiểm định và hoàn thiện thang đo cho các biến số phụ thuộc và độc lập trong mô hình đánh giá tác động của các nhân tố nội sinh và ngoại sinh tới khả năng đổi mới sáng tạo sản phẩm trong DNKH&CN.

• Áp dụng thử nghiệm, hoàn thiện mô hình để lượng hóa tác động của hoạt động đổi mới sáng tạo mở và các hình thức hỗ trợ của nhà Nước và bảo hộ thực thi quyền sở hữu trí tuệ tới đổi mới sáng tạo sản phẩm trong DNKH&CN (Khảo sát dự kiến với 100 doanh nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN).

• Đưa ra những khuyến nghị cho các nhà quản lý DNKH&CN và các nhà hoạch

định, thực thi chính sách để thúc đẩy ĐMST sản phẩm trong các DNKH&CN.

8

3. Đối tượng nghiên cứu

• Đối tượng nghiên cứu: Các nhân tố nội sinh và ngoại sinh tác động tới ĐMST

sản phẩm trong các DNKH&CN Việt Nam

• Khách thể nghiên cứu (Đối tượng điều tra): Các doanh nghiệp đã, đang và có ý định đề nghị chứng nhận là doanh nghiệp khoa học và công nghệ theo điều 7, nghị định số: 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ (từ sau đây gọi là các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN Việt Nam)

4. Phạm vi nghiên cứu:

Về mặt nội dung: Chủ đề nghiên cứu của luận án có nội dung rộng, có thể tiếp cận trên nhiều góc độ và cơ sở lý thuyết khác nhau. Nghiên cứu này tập trung nghiên cứu các nhân tố nội sinh và ngoại sinh tác động đến ĐMST sản phẩm trong các DNKH&CN. ĐMST sản phẩm được hiểu là việc giới thiệu các hàng hoá/ dịch vụ mới hoặc được cải tiến đáng kể về mặt đặc điểm cũng như công năng sử dụng, khác biệt đáng kể so với các hàng hoá/ dịch vụ trước đây đã được doanh nghiệp giới thiệu ra thị trường. Nghiên cứu tập trung vào loại hình kết quả ĐMST này là vì các lý do sau đây. Thứ nhất, do khách thể nghiên cứu là các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam, việc hình thành ĐMST sản phẩm được coi là điều kiện bắt buộc của doanh nghiệp để có thể duy trì được giấy chứng nhận và thụ hưởng các ưu đãi, hỗ trợ tài chính từ Chính phủ. Thứ hai, trong bốn loại hình kết quả ĐMST, ĐMST sản phẩm là loại hình kết quả ĐMST phổ biến nhất trong mẫu của nghiên cứu này. Thứ ba, việc phát triển sản phẩm mới sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể đạt được lợi thế cạnh tranh và liên quan trực tiếp đến năng suất cũng như sự tồn tại của doanh nghiệp trong dài hạn, dù là doanh nghiệp lớn hay doanh nghiệp nhỏ. Về phía các nhân tố tác động, dựa trên lý thuyết về ĐMST mở (open innovation) và lý thuyết về quan điểm dựa trên thể chế (IBV), nghiên cứu đã xác định được các biến số nội sinh và ngoại sinh có tác động đến ĐMST sản phẩm trong các DNKH&CN Việt Nam.

Về mặt thời gian nghiên cứu: Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ năm 2004 – 2020. Năm 2004 là năm ban hành của Quyết định số 171/2004/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, đây là lần đầu tiên

thuật ngữ DNKH&CN được đề cập đến. Các nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập từ Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và công nghệ, Cục thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia, Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp Khoa học và công nghệ. Dữ liệu sơ cấp được thu thập trong năm 2019-2020.

9

• Về đơn vị phân tích: Các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN

Việt Nam.

• Về không gian: Nghiên cứu được thực hiện đối với các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN. Mẫu điều tra trải trên cả ba miền Bắc, Trung và Nam của Việt Nam

5. Khái quát quy trình nghiên cứu

Quy trình nghiên cứu được khái quát trong hình dưới đây, chi tiết về phương

pháp nghiên cứu sẽ được trình bày trong chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

10

6. Cấu trúc luận án

Nội dung chính của Luận án gồm có 5 chương như sau:

Chương 1. Tổng quan nghiên cứu về đổi mới sáng tạo sản phẩm và các nhân tố

tác động đến đổi mới sáng tạo sản phẩm

Chương 2: Cơ sở lý luận về các nhân tố tác động đến đổi mới sáng tạo sản phẩm

trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Chương 4: Kết quả nghiên cứu

Chương 5: Bàn luận về kết quả nghiên cứu và khuyến nghị

7. Những đóng góp mới của luận án

Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận

- Thứ nhất, luận án đã vận dụng kết hợp hai lý thuyết đổi mới sáng tạo mở (open

innovation) và quan điểm dựa trên thể chế (IBV) để xây dựng mô hình nghiên cứu đánh

giá các tác động của các nhân tố nội sinh và ngoại sinh tương ứng tới đổi mới sáng tạo

sản phẩm ở cấp độ doanh nghiệp.

- Thứ hai, dựa trên lý thuyết về đổi mới sáng tạo mở (Chesbrough, 2003; 2006;

2014) và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan, luận án này bổ sung xây dựng và kiểm

định độ tin cậy của thang đo của cả ba cơ chế đổi mới sáng tạo mở: hướng vào, hướng ra,

kết hợp trong bối cảnh nghiên cứu các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam.

Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu của luận án

- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của luận án về mối quan hệ tích cực giữa đổi mới

sáng tạo mở và đổi mới sáng tạo sản phẩm, nghiên cứu gợi ý rằng các doanh nghiệp

khoa học và công nghệ nên dịch chuyển mô hình hoạt động từ phía thực hiện các hoạt

động đổi mới sáng tạo khép kín sang phía thực hiện các hoạt động đổi mới sáng tạo mở.

Cụ thể, các nhà quản lý doanh nghiệp nên tích cực hơn nữa trong việc mở cửa ranh giới

hoạt động của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam đối với các chủ thể

bên ngoài, để khai thác các nguồn lực có sẵn bên ngoài và tìm kiếm các đối tác để kết

hợp trong các hoạt động đổi mới sáng tạo.

- Thêm vào đó, kết quả của nghiên cứu của luận án cũng không phủ nhận vai trò

quan trọng của R&D nội bộ đối với đổi mới sáng tạo sản phẩm vì đầu tư cho R&D nội

11

bộ có tác động đến sự thành công về mặt thị trường của đổi mới sáng tạo sản phẩm. Vì

vậy, doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược phù hợp và cân bằng giữa đầu tư cho hoạt

động R&D nội bộ và hoạt động đổi mới sáng tạo mở để có thể nâng cao khả năng hình

thành đổi mới sáng tạo sản phẩm cũng như tăng được tỉ trọng doanh thu từ sản phẩm

mới và mức độ mới của sản phẩm mới.

- Cuối cùng, kết quả nghiên cứu của luận án cũng khẳng định vai trò tích cực của

hỗ trợ Nhà nước tới đổi mới sáng tạo sản phẩm trong các doanh nghiệp khoa học và

công nghệ, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoạch định và tổ chức thực thi những

chính sách công nhằm hỗ trợ, cung cấp ưu đãi cho DNKH&CN để kích thích họ đổi mới

sáng tạo sản phẩm.

12

CHƯƠNG 1.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SẢN PHẨM VÀ

CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SẢN PHẨM

1.1. Tổng quan nghiên cứu về đổi mới sáng tạo

1.1.1. Tổng quan nghiên cứu về khái niệm và vai trò của đổi mới sáng tạo

1.1.1.1. Khái niệm đổi mới sáng tạo

ĐMST (innovation) được coi là tiền đề tạo ra lợi thế cạnh tranh và có tính quyết định đối với sự tồn tại và phát triển không chỉ trong ngắn hạn mà còn mở đường cho tương lai lâu dài của mọi doanh nghiệp. Những nghiên cứu trước về ĐMST đã chỉ ra rằng ĐMST giúp tạo ra lợi ích cho doanh nghiệp vì nó giảm giá thành và cải thiện chất lượng của sản phẩm/dịch vụ đang có và tạo ra các sản phẩm/dịch vụ mới hoặc cung cấp mô hình kinh doanh hay cách thức phân phối hàng hoá tốt hơn (Hauser và cộng sự, 2006). Vì thế, ĐMST là điều kiên tiên quyết để duy trì sự phát triển bền bững của doanh nghiệp trên thị trường trong nước hay quốc tế (Drucker, 2006).

Schumpeter (1926) đã phân biệt giữa khái niệm sáng chế (invention) và đổi mới sáng tạo. Sáng chế là một ý tưởng hoặc mô hình cho một sản phẩm, quy trình hoặc công nghệ mới hoặc cải tiến. ĐMST là một sản phẩm, quy trình hoặc công nghệ mới hoặc được cải tiến, và thành công về mặt thương mại trên thị trường. Vì vậy, thành công về mặt thương mại là điều kiện cần thiết để một sáng chế trở thành ĐMST (trích dẫn trong De Jong và Brower, 1999, tr 14).

Kể từ lần đầu tiên được đề cập đến trong nghiên cứu của học giả Schumpeter như là “những cách phối hợp mới” (new combinations) hay “sự huỷ diệt mang tính sáng tạo” (creative destruction) (trích dẫn trong Lundvall, 2012, tr 9), thuật ngữ ĐMST (innovation) trở thành một khái niệm khoa học thu hút được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các học giả. Keith & Theodore (1984, tr 1) định nghĩa “ ĐMST là quá trình bắt đầu với một sáng chế, tiếp theo là phát triển sáng chế này, và cuối cùng tạo ra kết quả là đưa ra thị trường các sản phẩm mới, quy trình mới hoặc dịch vụ mới”. Cụ thể hơn, Damanpour & Wischnevsky (2006) đề cập tới ĐMST như là sự phát triển và sử dụng các ý tưởng hay hành vi mới trong tổ chức. Ý tưởng mới có thể là một sản phẩm, dịch vụ hoặc phương pháp sản xuất mới (đổi mới kỹ thuật) hoặc là một thị trường, cơ cấu tổ chức hoặc hệ thống quản trị mới (đổi mới quản trị hay ĐMST cơ cấu tổ chức). Trong khi đó, Lundvall (2012, tr 9) cho rằng ĐMST là một quá trình “tích tụ bồi đắp” (cummulative), bao gồm việc liên tục học tập, tìm kiếm và khám phá để hình thành

13

nên các sản phẩm mới, các kỹ thuật mới, các hình thức tổ chức mới và thị trường mới. Quy trình này diễn ra với tất cả tổ chức trong nền kinh tế, có thể quá trình này xảy ra nhanh chóng và có tính đột phá hay chậm và thay đổi dần dần. Nhìn chung có rất nhiều định nghĩa về ĐMST được đưa ra, ví dụ trong nghiên cứu tổng quan của mình, Edison và cộng sự (2013) và De Jong & Brower (1999) đã tổng quan được hơn 50 định nghĩa về đổi mới sáng tạo, một vài định nghĩa được liệt kê trong hai nghiên cứu tổng quan trên được chỉ ra trong bảng dưới đây.

Acs & Audretsch (1988)

Damanpour (1992)

de Jong & Kemp (2003)

Fruhling & Keng (2007)

Geiger & Cashen (2002) Hage (1999)

Palmberg (2004)

ĐMST là một quá trình bắt đầu với một sáng chế, tiến hành phát triển các sáng chế và dẫn đến việc giới thiệu một sản phẩm, quy trình hoặc dịch vụ mới cho thị trường. ĐMST được định nghĩa là việc áp dụng một ý tưởng hoặc hành vi cho dù là một hệ thống, chính sách, chương trình, thiết bị, quy trình, sản phẩm hoặc dịch vụ mới đối với tổ chức áp dụng. Hành vi ĐMST có thể được định nghĩa là tất cả các hành động đơn lẻ hướng đến việc tạo ra, giới thiệu và áp dụng những đặc tính mới có lợi ở bất kỳ cấp độ tổ chức nào. ĐMST là một ý tưởng, thực hành hoặc đối tượng được coi là mới đối với một cá nhân hoặc một đơn vị áp dụng khác. ĐMST là việc tạo ra sản phẩm mới trong công ty. ĐMST đã được định nghĩa một cách nhất quán là việc áp dụng một ý tưởng về hành vi mới đối với tổ chức. Sự đổi mới có thể là một sản phẩm mới, một dịch vụ mới, một công nghệ mới hoặc một phương thức hành chính mới. ĐMST được định nghĩa là một sản phẩm mới về mặt công nghệ hoặc được cải tiến đáng kể so với sản phẩm trước đây của công ty đã được thương mại hóa trên thị trường.

van Dale, 1992 Buijs, 1987

Timmerman, 1985

Vrakking & Cozijnsen, 1992

Dibrell và cộng sự. (2008) Các ĐMST có mức độ phức tạp khác nhau và có thể bao gồm từ những thay đổi nhỏ đối với các sản phẩm, quy trình hoặc dịch vụ hiện có đến đột phá Giới thiệu một cái gì đó mới; đổi mới về công nghệ hay công nghiệp Sự thích nghi và dự đoán của một tổ chức đối với những thay đổi của môi trường Sự phát triển và giới thiệu thành công các sản phẩm, dịch vụ, quy trình làm việc mới hoặc cải tiến; đổi mới cũng liên quan đến những thay đổi trong tổ chức, thị trường mới và cải tiến phong cách lãnh đạo Mọi đổi mới được thiết kế và thực hiện để củng cố vị thế của một tổ chức so với các đối thủ cạnh tranh và về lâu dài sẽ dẫn đến lợi thế cạnh tranh

Bảng 1.1. Một số khái niệm đổi mới sáng tạo

Nguồn: Edison và cộng sự (2013, tr. 1395) và De Jong & Brower (1999, tr 14)

14

Tại Việt Nam, thuật ngữ ĐMST được nhắc đến là là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa (Luật Khoa học và công nghệ, 2013).

1.1.1.2. Vai trò của đổi mới sáng tạo

Khái niệm của Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế OECD có thể coi là định nghĩa được chấp thuận và sử dụng rộng rãi bởi nhiều nhà nghiên cứu (Phan Thị Thục Anh, 2016). OECD (2005, tr 46) nêu rằng “ĐMST là sự thực thi áp dụng một sản phẩm (hàng hoá hay dịch vụ) hoặc quy trình mới hay cải tiến đáng kể, một phương pháp marketing mới hay là phương thức tổ chức mới trong thực tiễn hoạt động, trong tổ chức công việc hay trong quan hệ với bên ngoài”. Nghiên cứu này cũng sẽ sử dụng định nghĩa của OECD (2005) do tính phổ biến trong nhiều nghiên cứu và điều tra khảo sát về ĐMST trên thế giới và tại Việt Nam.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và môi trường kinh doanh ngày càng cạnh tranh, vòng đời của sản phẩm và công nghệ ngày càng trở nên ngắn hơn, ĐMST (innovation) giữ một vai trò trung tâm đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của từng quốc gia và địa phương. ĐMST là tiền đề tạo ra lợi thế cạnh tranh và có tính quyết định đối với sự tồn tại và phát triển không chỉ trong ngắn hạn mà còn mở đường cho tương lai lâu dài cho các doanh nghiệp, ĐMST giúp cho doanh nghiệp có thể cạnh tranh với những đối thủ khác trên thị trường và bước chân vào những thị trường mới (Becheikh và cộng sự, 2006; Edison và cộng sự, 2013). Điều này cũng được khẳng định trong nhiều nghiên cứu, cụ thể: Porter (1996) cho rằng, yếu tố đặc thù và bền vững, tạo nên sự khác biệt của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh và đạt được kết quả kinh doanh vượt trội chính là hành vi ĐMST; López-Nicolás & Meroño-Cerdán (2011) hay Nguyễn Quốc Duy & Vũ Hồng Tuấn (2013) cũng chỉ ra mối liên hệ trực tiếp giữa đổi mới sáng tạo, lợi thế cạnh tranh và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; Phan Thị Thục Anh & Nguyễn Thuỳ Dung (2015) cho rằng do bản chất ĐMST là sự khác biệt, nên một ĐMST mang tính tích cực sẽ tạo ra một sự “lớn lên” cả về lượng và chất cho tổ chức theo thời gian, thậm chí là thay đổi bộ mặt của bản thân tổ chức, của ngành hay của thế giới. World Bank (2013) nhận định rằng những thành tựu về giảm đói nghèo và tăng thu nhập dựa trên lợi thế về nguồn tài nguyên phong phú và lao động giá rẻ sẽ không thể tồn tại lâu dài; muốn phát triển bền vững và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới thì các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam cần phải chú trọng hơn đến việc tăng năng suất lao động dựa trên nền tảng hoạt động khoa học, công nghệ và ĐMST.

15

1.1.2. Tổng quan nghiên cứu về phân loại đổi mới sáng tạo

Theo tổng kết của nhiều nhà nghiên cứu, từ các định nghĩa về ĐMST thì có thể

rút ra được là ĐMST có thể xuất phát từ một ý tưởng mới, có thể là sự kết hợp lại các

ý tưởng cũ, một sơ đồ thách thức trật tự hiện tại, một công thức hoặc một cách tiếp cận

độc đáo được coi là mới của các cá nhân liên quan (Patanakul & Pinto, 2014). Vì vậy,

ĐMST tồn tại dưới nhiều hình thức rất đa dạng, có thể bao gồm các mục tiêu sau: phát

triển sản phẩm, thị trường mới, công nghệ, phát triển quy trình, phát triển tổ chức và

môi trường (Cozijnsen & Vrakking, 1992, trích dẫn trong De Jong & Brower, 1999,

tr 14). Bên cạnh đó, ĐMST không phải chỉ là sự đổi mới về công nghệ. Đổi mới sáng

tạo bao gồm cả những ý tưởng kỹ thuật và cả hành chính mới (Daft, 1978; Van De

Ven, 1986). ĐMST kỹ thuật bao gồm công nghệ, sản phẩm hay dịch vụ mới. ĐMST

hành chính bao gồm quá trình, chính sách hay cơ cấu tổ chức mới. Do sự phức tạp và

đa dạng trong đặc điểm của đổi mới sáng tạo, phần viết này sẽ cố gắng phân loại ĐMST

1.1.2.1. Theo loại hình đổi mới sáng tạo

theo những tiêu thức phổ biến nhất trong nhiều nghiên cứu về ĐMST hiện nay.

Theo khái niệm của OECD (2005) đã nhắc đến ở trên thì có 04 loại hình ĐMST bao gồm: ĐMST tạo sản phẩm, ĐMST quy trình, ĐMST marketing và ĐMST tổ chức3.

Tại Việt Nam, việc phân chia của OECD cũng vẫn được coi là cơ sở để phân loại

đổi mới sáng tạo. Doanh nghiệp có hoạt động ĐMST là DN thực hiện các nội dung

ĐMST nói trên và biểu hiện cụ thể ở một trong 04 hoạt động cơ bản bao gồm: (1)

ĐMST sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ); (2) ĐMST quy trình, công nghệ, thiết bị; (3)

ĐMST tổ chức và quản lý; (4) ĐMST tiếp thị. Trong đó, hoạt động (1) và/hoặc (2)

thuộc về hoạt động ĐMST công nghệ (ĐMCN) (Cục phát triển thị trường và doanh

nghiệp khoa học và công nghệ, 2019). Cụ thể các loại hình ĐMST được OECD (2005)

định nghĩa như sau:

3 Tuy nhiên gần đây OECD (2018, tr.32) đã điều chỉnh định nghĩa về ĐMST của mình: “Đổi mới là một sản phẩm và/ hoặc quy trình mới hoặc được cải tiến đáng kể so với các sản phẩm hoặc quy trình trước đây của đơn vị và đã được cung cấp cho người dùng tiềm năng (sản phẩm) hoặc được đơn vị sử dụng (quy trình)”. OECD đã sửa đổi định nghĩa về ĐMST nhằm giảm bớt sự phức tạp của định nghĩa dựa trên danh sách bốn loại ĐMST trước đó (sản phẩm, quy trình, tổ chức và tiếp thị), thành hai loại chính: ĐMST sản phẩm và ĐMST quy trình kinh doanh. Định nghĩa sửa đổi cũng làm giảm sự mơ hồ về yêu cầu thay đổi “đáng kể” bằng cách so sánh cả những cải tiến mới và cải tiến với các sản phẩm hoặc quy trình kinh doanh hiện có của công ty.

• ĐMST sản phẩm: đề cập đến việc tạo ra và giới thiệu các sản phẩm, dịch vụ mới/ hoặc được cải tiến đáng kể về đặc điểm và công năng so với các sản phẩm hiện có. Nó bao gồm cải tiến đáng kể về đặc điểm kỹ thuật, thành phần, chất liệu, phần mềm, mức độ thân thiện người dùng hay các đặc điểm chức năng khác.

16

• ĐMST quy trình là việc thực hiện một phương pháp sản xuất hoặc phân phối

mới hoặc được cải tiến đáng kể, bao gồm những thay đổi đáng kể về kỹ thuật, thiết bị

và / hoặc phần mềm.

• ĐMST tiếp thị: là việc thực hiện một phương pháp tiếp thị mới liên quan đến

những thay đổi đáng kể trong thiết kế hoặc bao bì sản phẩm, vị trí sản phẩm, quảng cáo

hoặc định giá sản phẩm.

• ĐMST tổ chức: đề cập đến việc thực hiện một phương pháp tổ chức mới trong

thực tiễn kinh doanh, cơ cấu tổ chức tại nơi làm việc hoặc quan hệ bên ngoài doanh

nghiệp. Nó bao gồm những thay đổi trong kiến trúc của sản xuất và tính đến những đổi

1.1.2.2. Theo mức độ đổi mới về công nghệ của đổi mới sáng tạo

mới trong cơ cấu quản lý, quản trị doanh nghiệp, hệ thống tài chính hoặc hệ thống đãi ngộ nhân viên.

• ĐMST không đột phá (cải tiến) (Incremental): Đây là những thay đổi tương đối nhỏ trong công nghệ dựa trên các nền tảng hiện có mang lại lợi ích gia tăng tương đối

thấp cho khách hàng.

• ĐMST có tính đột phá thị trường (Market breakthroughs): Những ĐMST này

dựa trên công nghệ cốt lõi tương tự như các sản phẩm hiện có nhưng mang lại lợi ích khách hàng cao hơn đáng kể trên mỗi đô la.

• ĐMST có tính đột phá về công nghệ (Technological breakthroughs): Những

ĐMST này áp dụng một công nghệ hoàn toàn khác so với các sản phẩm hiện có nhưng

không mang lại lợi ích vượt trội cho khách hàng trên mỗi đô la.

• ĐMST có tính đột phá toàn diện (Radical): là những ĐMST giới thiệu các tính

năng mới lần đầu tiên được tạo ra hoặc đem lại kết quả vượt trội. Những ĐMST này sử

1.1.2.3. Theo tính mới của đổi mới sáng tạo

dụng một công nghệ khác biệt đáng kể có thể biến đổi thị trường hiện tại hoặc tạo ra thị trường mới và cung cấp trải nghiệm tiện ích mới cho khách hàng.

Theo tính mới, ĐMST có thể chia làm bốn loại lần lượt là: mới đối với doanh

nghiệp, mới đối với thị trường hiện tại, mới đối với với ngành, mới đối với thế giới.

• Mới đối với doanh nghiệp: Mức độ mới thấp nhất của ĐMST là mới đối với doanh nghiệp. Nó được định nghĩa là việc tổ chức thông qua một ý tưởng mới, thực

hành hoặc hành vi mới, ban hành chính sách mới, chương trình mới, thiết bị mới, quy trình mới, sản phẩm mới, công nghệ hoặc chế độ hành chính mới tại tổ chức.

17

• Mới đối với thị trường: Khi doanh nghiệp là tổ chức đầu tiên giới thiệu ĐMST

này ra thị trường của mình.

• Mới đối với ngành: Những ĐMST này là mới đối với ngành/ lĩnh vực hoạt động

của doanh nghiệp.

• Mới đối với thế giới: Khi doanh nghiệp là tổ chức đầu tiên giới thiệu ĐMST

1.1.2.4. Theo cấp độ nghiên cứu của đổi mới sáng tạo

này ra tất cả các thị trường trong nước và quốc tế và tất cả các ngành/ lĩnh vực.

Đối mới sáng tạo cũng đã được nghiên cứu dưới nhiều cấp độ bao gồm cá nhân,

nhóm, dự án, tổ chức, vùng (Lichtenthaler, 2011; Anderson, Potočnik and Zhou, 2014;

Patanakul and Pinto, 2014; Oliveira và cộng sự, 2017).

Các ĐMST xảy ra như thế nào và đóng góp gì cho các ĐMST thành công là

những câu hỏi đầy thách thức và có thể được trả lời ở nhiều cấp độ. Những cấp độ đó được phân loại thành nghiên cứu tập trung ở cấp độ cá nhân và cấp độ tổ chức. Ở cấp

độ cá nhân, khả năng nhận thức của mỗi cá nhân là điều cần thiết để tạo ra các ý tưởng (Sexton & Barrett, 2003). Schumpeter (1910, 1934) đã nhấn mạnh khả năng vượt qua

một môi trường trơ trọi hoặc chống đối của những người có tinh thần doanh thương có vai trò quan trọng như thế nào đến đổi mới sáng tạo. Một số học giả cho rằng sự hiện

diện của một người dẫn đầu (the champion) như một yếu tố đóng góp vào sự thành công

của đổi mới công nghệ. Người dẫn đầu thường đề cập đến như là một cá nhân nổi lên

một cách không chính thức để thúc đẩy ĐMST một cách tích cực và say mê thông qua

các giai đoạn tổ chức quan trọng. Nhiều nhà nghiên cứu đồng ý rằng những người dẫn

đầu có vai trò thiết yếu trong việc thực hiện thành công một ĐMST (Van De Ven, 1986;

Markham & Griffin, 1998; Gambatese & Hallowell, 2011). Tuy nhiên, Howell &

Higgins (1990) đã xác định rằng những người dẫn đầu có tác động không chỉ đến việc

thực hiện ý tưởng mà còn đến việc hình thành ý tưởng, hành vi của những người này có vai trò khác nhau trong từng giai đoạn của quá trình đổi mới sáng tạo.

Bằng cách xem xét vấn đề này ở cấp độ tổ chức, các nhà nghiên cứu cho rằng những ĐMST có thể được thúc đẩy bởi các nhân tố nội sinh và ngoại sinh, dẫn đến hai trường phái tư tưởng chính về yếu tố thúc đẩy đổi mới: quan điểm dựa trên thị trường (market - based view) và quan điểm dựa trên nguồn lực (resource-based view). Từ quan

điểm dựa trên thị trường, các học giả cho rằng các điều kiện thị trường cung cấp bối

cảnh hoặc điều kiện ban đầu có thể kích hoạt hoặc cản trở chiều hướng và số lượng của các hoạt động đổi mới sáng tạo. ĐMST xảy ra khi các công ty thành công thích nghi

hoặc định hướng bản thân thay đổi để khai thác được tối đa những điều kiện thay đổi

18

của thị trường. Còn theo quan điểm dựa trên nguồn lực, để doanh nghiệp có thể tiến

hành đổi mới, các yếu tố ngoại sinh là không đủ để kích thích doanh nghiệp ĐMST, các

doanh nghiệp cần có những nguồn lực đầy đủ để có thể thực thi các chiến lược phù hợp

(Patanakul & Pinto, 2014). Nghiên cứu này sẽ tập trung nghiên cứu và định nghĩa ĐMST

cấp độ tổ chức.

1.2. Tổng quan nghiên cứu về kết quả đổi mới sáng tạo và đổi mới sáng tạo sản phẩm

Khái niệm ĐMST được đo lường rất đa dạng và không thống nhất vì bản chất

của ĐMST là cả một quá trình bao gồm rất nhiều giai đoạn và hoạt động khác nhau và

kết quả tạo thành sau quá trình ĐMST cũng khác nhau (Wan và cộng sự, 2005; Mannan

& Haleem, 2017). Vì thế để đảm bảo được độ sâu của nghiên cứu, tác giả sẽ giới hạn

lại phạm vi nghiên cứu của chủ đề đổi mới sáng tạo là kết quả ĐMST (innovation

performance) thay vì cả quá trình ĐMST. Tuy nhiên vì kết quả ĐMST cũng vẫn là một

khái niệm rộng sẽ được làm rõ ở phần tiếp theo, vì thế mà nghiên cứu này sẽ tập trung vào một loại hình phổ biến nhất của kết quả đổi mới sáng tạo, chính là kết quả đổi mới sáng tạo sản phẩm, từ sau đây sử dụng tên gọi ĐMST sản phẩm (product innovation)4. Hay nói cách khác nhân tố mục tiêu trong nghiên cứu này là ĐMST sản phẩm.

1.2.1. Kết quả đổi mới sáng tạo

Kết quả ĐMST (Innovation/ innovative performance) được đề cập đến như là mức độ thành công của doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu liên quan đến sản

phẩm/ dịch vụ mới (Henard & Szymanski, 2001), hay như Dodgson và cộng sự (2014)

định nghĩa là thành công trong ứng dụng những ý tưởng mới từ quá trình kết hợp những

nguồn lực khác nhau.

Khái niệm này được đo lường rất đa dạng qua nhiều nghiên cứu. Saunila (2017)

tổng quan nghiên cứu về chủ đề kết quả đổi mới sáng tạo, đã chỉ ra bốn dạng kết quả đổi mới sáng tạo: tập trung vào đầu vào (inputs), quá trình (process), đầu ra (outputs) hoặc hậu quả (outcomes). Kết quả ĐMST đầu vào bao gồm các nguồn lực cung cấp cho sự đổi mới, ví dụ, nhân sự, kinh phí, thiết bị và ý tưởng. Kết quả ĐMST quá trình cho biết cơ chế giữa đầu vào và đầu ra của đổi mới xảy ra như thế nào (Carayannis &

Provance, 2008). Các thước đo cho kết quả ĐMST quá trình có thể bao gồm thời gian,

4 Trong nghiên cứu này thuật ngữ ĐMST sản phẩm được giới hạn lại là kết quả của ĐMST sản phẩm, chứ không phải là quá trinh ĐMST sản phẩm, dù nhiều khi trong các nghiên cứu quốc tế cả hai thuật ngữ này được sử dụng chung dưới một thuật ngữ là “product innovation”. Quá trình ĐMST sản phẩm theo (Mannan & Haleem, 2017) là một quá trình phức tạp và nhiều khía cạnh, bắt đầu từ giai đoạn thiết kế và kết thúc là việc tạo thành được sản phẩm và nhận được sự hài lòng lớn từ phía khách hàng

chi phí và chất lượng cũng như tiến độ của dự án. Kết quả ĐMST đầu ra là kết quả trực

19

tiếp của các hoạt động đổi mới sáng tạo (tức là sản phẩm mới hoặc kiến thức mới được

tạo ra). Việc nghiên cứu kết quả ĐMST đầu ra giúp làm rõ các xu hướng và sự phát triển

theo thời gian của đổi mới sáng tạo. Kết quả ĐMST tác động là tác động của việc đổi

mới sáng tạo: phản ánh về sự thành công của đổi mới trên thị trường và tập trung vào

doanh thu, lợi nhuận, thị phần và sự hài lòng của khách hàng (Janssen và cộng sự, 2011).

Nghiên cứu của Rauter và cộng sự (2019) đã cố gắng làm sáng tỏ hai khía cạnh

nổi bật của kết quả ĐMST bao gồm kết quả kinh tế của ĐMST (economic innovation

performance) và kết quả bền vững của ĐMST (sustainable innovation performance).

Kết quả kinh tế của ĐMST sẽ đánh giá khía cạnh thành công trong tăng trưởng doanh

thu, tăng trưởng cận biên, thị phần hoặc mức độ hài lòng của khách hàng. Trong khi đó,

kết quả bền vững của ĐMST sẽ được nhìn nhận dưới những góc độ như mức độ bền

vững của sản phẩm/ dịch vụ (ví dụ như chất liệu thân thiện với môi trường, tối đa hoá

vòng đời), ô nhiễm môi trường (ví dụ như giảm ô nhiễm, rác thải hay hao phí nguồn

lực), hiệu quả về nguồn lực (ví dụ như giảm số lượng đầu vào), tác động xã hội (ví dụ

như tăng cường sức khoẻ, an toàn, vị thế xã hội và đạo đức).

Ngoài ra một vài nghiên cứu sử dụng hoạt động đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ

(sáng chế) như là thước đo cho đổi mới sáng tạo (ví dụ: Katila & Ahuja, 2002). Sáng chế có hai vai trò, thứ nhất giúp bảo vệ ĐMST khỏi những nguy cơ bị bắt chước và đồng

thời cũng tạo ra lợi nhuận cho những công ty đổi mới sáng tạo khi chúng được bán cho

những bên thứ ba. Tuy vậy, hành vi đăng ký bảo hộ sáng chế lại được cho là một yếu tố

thuộc về ngành và thường liên quan đến quy mô của doanh nghiệp vì những doanh

nghiệp lớn thì có xu hướng đăng ký bảo hộ sáng chế nhiều hơn những doanh nghiệp nhỏ

(Klevorick và cộng sự, 1995).

Trong mối quan hệ giữa ĐMST mở và kết quả đổi mới sáng tạo, kết quả ĐMST

được đo lường bằng các thước đo như năng lực đổi mới (Ahuja, 2000), khả năng giới

thiệu ra thị trường sản phẩm/dịch vụ mới (Spithoven và cộng sự, 2013); mức độ đột phá của ĐMST sản phẩm/dịch vụ (Laursen & Salter, 2006; Lichtenthaler, 2008; Dahlander & Gann, 2010; Parida và cộng sự, 2012); giảm chi phí và thời gian để phát triển sản phẩm/quy trình mới (Kolk & Püümann, 2008); sự gia tăng doanh số bán hàng và mức độ chấp nhận thị trường của sản phẩm mới (Lichtenthaler, 2008, 2009; Lazzarotti và cộng sự, 2010; Spithoven và cộng sự, 2013); hay doanh thu tạo ra từ hoạt động ĐMST

(Laursen & Salter, 2006). Trong khi Chesbrough & Crowther (2006) đề xuất rằng tăng trưởng và doanh thu là động cơ chính để doanh nghiệp thực hiện ĐMST mở,

Lichtenthaler và cộng sự (2009) lại đề xuất rằng việc sử dụng các thước đo đầu ra phi tiền tệ như gia tăng mức độ hài lòng của khách hàng hay là việc tiếp nhận tri thức mới

20

thì nên được sử dụng để đo lường kết quả đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu Huang & Rice

(2009) thay vì coi cường độ R&D (nội sinh) là nhân tố tác động ĐMST mở hay kết quả

đổi mới sáng tạo, thì lại sử dụng biến số này làm thước đo gián tiếp cho kết quả đổi mới

sáng tạo. Tuy nhiên đây được coi là điểm hạn chế trong nghiên cứu của Huang & Rice

(2009) vì cường độ R&D không phải là môt thước đo kết quả ĐMST tốt vì nó đã không

phản ánh được quá trình thương mại hoá kết quả R&D - một phần quan trọng thể hiện

sự thành công của đổi mới sáng tạo (Leiponen & Helfat, 2003, được trích dẫn trong

Huang & Rice, 2009, tr 215) và trong cơ chế ĐMST mở, cường độ R&D nội bộ không

phải là yếu tố duy nhất tạo ra sự thành công mà hoạt động R&D ngoại sinh cũng rất

quan trọng. Ngoài ra, có một số nghiên cứu không sử dụng các biến đo lường trực tiếp

cho kết quả ĐMST mà sử dụng một loạt các biến quan sát (Pullen và cộng sự, 2012;

Hameed và cộng sự, 2018).

Đa số những nghiên cứu nghiên cứu sử dụng kết hợp nhiều thước đo để phản ánh

kết quả ĐMST như Laursen & Salter (2006) hay như Cheng & Huizingh (2014) đã áp

dụng 4 thước đo kết quả ĐMST từ những nghiên cứu trước đó, bao gồm: mức độ đổi mới của sản phẩm/dịch vụ, mức độ thành công của sản phẩm/dịch vụ mới, kết quả khách

hàng và kết quả tài chính. Mức độ đổi mới của sản phẩm/dịch vụ thể hiện mức độ đột phá của sản phẩm/dịch vụ mới (Salomo và cộng sự, 2008), mức độ thành công của sản

phẩm/dịch vụ mới thể hiện khả năng cạnh tranh trên thị trường của sản phẩm/dịch vụ

mới (Baker & Sinkula, 1999). Kết quả khách hàng đề cập đến mức độ hài lòng và trung

thành của khách hàng (Blazevic & Lievens, 2004). Cuối cùng, kết quả tài chính đề cập

đến thành công tài chính của đổi mới sáng tạo, ví dụ như lợi nhuận hay doanh thu (Im

& Workman, 2004).

1.2.2. Đổi mới sáng tạo sản phẩm

Trong số các biểu hiện của kết quả đổi mới sáng tạo, ĐMST sản phẩm nhận được sự quan tâm rất lớn của các học giả. Nghiên cứu của Becheikh và cộng sự (2006) chỉ ra rằng trong số các nghiên cứu liên quan ĐMST, tỉ lệ các nghiên cứu tập trung vào ĐMST sản phẩm là rất lớn, chiếm đến khoảng hơn 80% đối tượng nghiên cứu. Bên cạnh đó, dưới góc nhìn của những nhà quản lý, ĐMST sản phẩm vẫn được quan tâm hơn cả (Linder và cộng sự, 2003). Nghiên cứu này sẽ giới hạn phạm vi nghiên cứu kết quả

ĐMST lại và chỉ tập trung vào ĐMST sản phẩm với những lý do sau đây. Thứ nhất, do

khách thể nghiên cứu là các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN, việc

hình thành ĐMST sản phẩm được coi là điều kiện bắt buộc của doanh nghiệp để có thể duy trì hay được cấp giấy chứng nhận và thụ hưởng các ưu đãi, hỗ trợ tài chính từ Chính

phủ. Thứ hai, trong bốn loại hình kết quả ĐMST, ĐMST sản phẩm là loại hình kết quả

21

ĐMST phổ biến nhất trong mẫu của nghiên cứu này. Hướng tiếp cận tương tự cũng được

tìm thấy trong nghiên cứu của Romijn và Albaladejo (2002). Thứ ba, việc phát triển sản

phẩm mới sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể đạt được lợi thế cạnh tranh và liên quan trực

tiếp đến năng suất cũng như sự tồn tại của doanh nghiệp trong dài hạn, dù là doanh

nghiệp lớn hay doanh nghiệp nhỏ. Trong rất nhiều ngành công nghiệp, các mục tiêu về

tăng trưởng và lợi nhuận phụ thuộc rất lớn vào việc doanh nghiệp có hay không ĐMST

sản phẩm. Việc không chú trọng tới ĐMST sản phẩm có thể tạo ra một cuộc khủng

hoảng và đe doạ lớn tới sự tồn tại của doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp đó.

ĐMST sản phẩm theo (OECD, 2005) đề cập đến là việc giới thiệu các sản phẩm

mới/ hoặc được cải tiến đáng kể về mặt đặc điểm cũng như công năng sử dụng so với

các sản phẩm hiện có. Nó bao gồm sự sự cải tiến đáng kể về đặc điểm kĩ thuật, thành

phần, chất liệu, phần mềm, sự thân thiện với người dùng hay các đặc điểm chức năng

khác. Sản phẩm ở đây là bao gồm cả hàng hoá và dịch vụ. OECD/Eurostat (2018) đã

cập nhật thêm rằng sản phẩm được coi là sản phẩm ĐMST khi nó mới hoặc được cải

tiến khác biệt đáng kể so với hàng hóa/dịch vụ trước đây doanh nghiệp đã giới thiệu trên thị trường.

ĐMST sản phẩm có thể sử dụng tri thức hoặc công nghệ mới hoặc sử dụng những tri thức và công nghệ cũ nhưng theo một cách tổ hợp mới. Bộ vi xử lý và máy ảnh kỹ

thuật số đầu tiên là những ví dụ về ĐMST sản phẩm sử dụng công nghệ mới. Máy nghe

nhạc MP3 di động đầu tiên, kết hợp các tiêu chuẩn phần mềm hiện hành lúc bấy giờ với

ổ cứng thu nhỏ công nghệ, là một ĐMST sản phẩm mới kết hợp các công nghệ hiện có.

Sản phẩm chất tẩy rửa mới sử dụng thành phần hóa học cũ mà trước đây chỉ được sử

dụng làm chất trung gian để sản xuất lớp phủ cũng được coi là ĐMST sản phẩm khi có

sự đổi mới về công năng sử dụng . Việc sử dụng các loại vải thoáng khí trong quần áo

là một ví dụ về sự đổi mới sản phẩm liên quan đến việc sử dụng các vật liệu mới để cải

thiện hiệu suất của sản phẩm (OECD, 2005).

ĐMST sản phẩm có thể được xác định bằng một vài các thước đo khác nhau. (De Jong & Vermeulen, 2006) trong nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ĐMST sản phẩm trong 1250 doanh nghiệp nhỏ hoạt động trên 7 lĩnh vực ở Hà Lan đã sử dụng hai thước gián tiếp để đo lường ĐMST sản phẩm đó doanh nghiệp có giới thiệu sản phẩm/ dịch vụ mới (đối với doanh nghiệp) hay không và doanh nghiệp có giới thiệu sản phẩm/ dịch vụ mới (đối với ngành/ lĩnh vực hoạt động) hay không. Thước đo đầu tiên là thước đo rộng hơn vì nó bao gồm cả những thay đổi (cải tiến) nhỏ hoặc bắt chước các đối thủ cạnh tranh, trong khi đó thước đo thứ hai đã loại trừ những cải tiến này mà tập trung vào những ĐMST thực sự mới ở trên thị trường. Trong nghiên cứu của Frit (1989), ngoài

22

hai thước đo như trên, tác giả có bổ sung thêm 1 thước đo liên quan tới tần suất cải tiến sản phẩm/dịch vụ đã giới thiệu. Spithoven và cộng sự (2013) cũng đã sử dụng hai thước đo bao gồm biến số phản ánh việc doanh nghiệp có giới thiệu sản phẩm/dịch mới hoặc được cải tiến đáng kể ra thị trường hay không và tỉ lệ doanh thu của doanh nghiệp đối với những sản phẩm/dịch vụ mới hoặc được cải tiến đáng kể trên.

Laursen & Salter (2006) đã sử dụng ba thước đo để đo lường ĐMST sản phẩm5, bao gồm một biến số đo lường tỉ lệ doanh thu của doanh nghiệp đối với những sản phẩm có mức độ đột phá về công nghệ, tức là mới đối với thị trường thế giới. ĐMST đột phá là sự phát triển vượt trội về chất và yêu cầu những nguồn lực đặc biệt để có thể hình thành được. Loại ĐMST này có thể sẽ đem lại những lợi nhuận lớn cho doanh nghiệp nhưng lại mất thời gian hơn so với ĐMST không có tính đột phá. Hai biến số còn lại đo lường tỉ lệ doanh thu của các ĐMST sản phẩm chỉ có tính mới đối với doanh nghiệp và tỉ lệ doanh thu của các cải tiến đáng kể về sản phẩm, gọi chung là các biến số đo lường ĐMST không có mức độ đột phá về công nghệ.

Vega-Jurado và cộng sự (2008) đã xây dựng một thước đo có tên gọi là mức độ ĐMST sản phẩm, với ba giá trị mà biến phụ thuộc ĐMST sản phẩm có thể nhận được: 0 - nếu như doanh nghiệp không giới thiệu được bất kì sản phẩm nào mới/ cải tiến; 1 - nếu doanh nghiệp có sản phẩm mới với chỉ doanh nghiệp; 2 - nếu như doanh nghiệp có sản phẩm mới với thị trường. Romijn & Albaladejo (2002) đã sử dụng ba thước đo ĐMST sản phẩm bao gồm: doanh nghiệp có hoàn thiện được ít nhất một ĐMST sản phẩm hay không, số lượng bằng sáng chế và chỉ số đo lường mức độ ĐMST sản phẩm tính toán thông qua tính mới của ĐMST và cường độ khoa học.

1.3. Tổng quan nghiên cứu về các nhân tố tác động đến đổi mới sáng tạo sản phẩm

5 Nghiên cứu vẫn sử dụng thuật ngữ kết quả ĐMST (innovation performance)

Vai trò không thể phủ nhận của ĐMST trong phát triển, duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp đã nhấn mạnh sự cần thiết khi xây dựng mô hình và tìm ra các nhân tố tác động đến phạm vi và đặc tính của ĐMST sản phẩm. Số lượng các công trình trong và ngoài nước đề cập đến các nhân tố tác động tới ĐMST sản phẩm là rất lớn. Đồng thời, các kết quả tác động cũng không thống nhất với nhau giữa các nghiên cứu. Theo Souitaris (1999) có rất nhiều lý do gây ra sự đa dạng và không thống nhất về tác động của các biến nhân tố tới ĐMST bao gồm những lý do liên quan tới đặc tính, khái niệm và cách đo lường đa dạng của bản thân khái niệm ĐMST cũng như là đặc điểm của các doanh nghiệp được nghiên cứu.

23

Souitaris (1999) dựa trên trên nền tảng nghiên cứu của Tidd & Trewhella (1997) đã xây dựng một mô hình danh mục các nhân tố tác động đến ĐMST sản phẩm và ĐMST quy trình và chia danh mục thành bốn nhóm chính bao gồm: (1) Các biến giao tiếp bên ngoài, đo lường khả năng của doanh nghiệp trong việc tương tác và tiếp nhận thông tin từ những chủ thể bên ngoài doanh nghiệp; (2) Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (năng lực bên trong): phản ánh những nhân tố bối cảnh của tổ chức và cơ chế thực thi. Năng lực cạnh tranh là những kĩ năng kỹ thuật và tổ chức giúp doanh nghiệp trong quá trình tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh; (3) Các biến số chiến lược liên quan đến việc lập kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp và thái độ của những người ra quyết định chính; (4) các biến số kinh tế để chỉ ra các biến số thuộc về đặc điểm “nhân khẩu” của doanh nghiệp, bao gồm các biến số như quy mô, độ tuổi và khả năng sinh lời.

Nhân tố tác động đến ĐMST sản phẩm cũng có thể được chia thành hai nhóm: nhân tố bên trong (các nhân tố nằm bên trong thuộc sự kiểm soát của doanh nghiệp có tác động đến năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp) và nhân tố bên ngoài (các nhân tố có tác động đến đổi mới sáng tạo nhưng vượt ra khỏi phạm vi kiểm soát của doanh nghiệp) (Edison và cộng sự, 2013). Trong nghiên cứu của mình về ĐMST nói chung trong ngành công nghiệp phần mềm, Edison và cộng sự đã tổng quan được 244 nhân tố tác động đến ĐMST và phân chia chúng thành hai nhóm nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài. Do cách phân chia đề xuất bởi Souitaris (1999) có phần phức tạp và lại bỏ quên một số biến số quan trọng (ví dụ như biến số thuộc về chính phủ và các chính sách công) nên nghiên cứu này cũng sẽ tiếp cận theo hướng đơn giản hơn đó là chia các nhân tố tác động thành hai nhóm nội sinh và ngoại sinh.

1.3.1. Các nhân tố nội sinh

Số lượng các nhân tố ảnh hưởng đến ĐMST của tổ chức là rất lớn và đa dạng. Nghiên cứu này sẽ áp dụng cách tiếp cận của Becheikh và cộng sự (2006) để phân loại các nhân tố ảnh hưởng bên trong tác động đến ĐMST sản phẩm. Cách phân chia này này cũng đã được Nguyễn Quốc Duy (2015) và Dziallas & Blind (2019) áp dụng trong nghiên cứu tổng quan lý thuyết của mình. Tuy nhiên việc phân chia các nhân tố thành các nhóm chỉ có tính chất tương đối và chưa thể phản ánh được hết đầy đủ đặc điểm cũng như số lượng của các biến số tác động, đặc biệt là các biến số nội sinh. Bên cạnh đó, một số biến số thuộc nhóm các nhân tố về hoạt động ĐMST mở được tác giả xếp vào các nhân tố nội sinh nhưng được tách thành một mục riêng biệt so với hệ thống danh mục của Becheikh và cộng sự (2006) với lí do là nó chứa một số cấu phần mà trong các nghiên cứu trước đây lại cho rằng đây là biến số ngoại sinh. Phần sau đây sẽ tổng kết lại một số biến số nội sinh nổi bật trong các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố tác động tới ĐMST sản phẩm.

1.3.1.1. Các nhân tố phản ánh thuộc tính chung của doanh nghiệp

24

Quy mô là một trong các biến đại diện cho đặc trưng tổng quát của doanh nghiệp

và là một trong những biến số quan trọng và hay được sử dụng trong các mô hình đánh

giá tác động đến kết quả ĐMST (Lichtenberg & Siegel, 1991; Cohen & Klepper, 1996; Kafouros và cộng sự, 2008). Tác động của biến quy mô lên đổi mới vẫn gây nhiều tranh

cãi (Frit, 1989; Vega-Jurado và cộng sự, 2008). Theo lý thuyết phát triển kinh tế của

(Schumpeter, 1934), những doanh nghiệp khởi nghiệp (thường gắn với quy mô nhỏ) có

tiềm năng lớn nhất về ý tưởng và công nghệ so với các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên,

theo chủ nghĩa tư bản, xã hội và dân chủ, Schumpeter (2017) lại cho rằng hoạt động

ĐMST thường tỷ lệ thuận với quy mô của doanh nghiệp. Quy mô doanh nghiệp được

cho là tỉ lệ thuận với ĐMST vì các lí do sau. Thứ nhất, những doanh nghiệp lớn thường

có lợi thế về nguồn lực để ĐMST và tham gia vào các hoạt động chứa nhiều rủi ro hơn

là những doanh nghiệp nhỏ (Damanpour, 1992; Majumdar, 1995; Tsai, 2001). Thứ hai

là những doanh nghiệp lớn có thể thu được lợi ích từ lợi thế về quy mô trong hoạt động R&D, sản xuất và marketing (Stock và cộng sự, 2002). Bằng chứng thực nghiệm về mối

quan hệ tiêu cực của quy mô và ĐMST được đưa ra trong một số nghiên cứu bao gồm: Frit (1989) - nghiên cứu về hoạt động ĐMST sản phẩm của các doanh nghiệp ở Đức. Ở

chiều ngược lại, nghiên cứu của Vega-Jurado và cộng sự (2008); Parida và cộng sự, (2012); Pham and Matsunaga (2019) lại cho thấy rằng quy mô càng lớn thì doanh nghiệp

càng có khả năng ĐMST sản phẩm.

Độ tuổi của doanh nghiệp có tác động không thống nhất đến ĐMST sản phẩm.

Doanh nghiệp càng lâu đời thì càng có sự tích luỹ về kiến thức, kinh nghiệm và có mạng

lưới quan hệ và chỗ đứng nhất định trên thị trường nên càng có khả năng thực hiện thành

công ĐMST, tuy vậy nhưng doanh nghiệp này lại khó khăn hơn trong việc thích nghi

và nắm bắt những thay đổi do họ đã quen với các quy định và lề lối làm việc cũ, họ cũng

thiếu đi tinh thần khởi nghiệp cũng như những kỹ năng cần thiết để tiếp cận với ĐMST trên thị trường (Nguyễn Quốc Duy, 2015). Kết quả thực nghiệm của Pham & Matsunaga, (2019) chỉ ra những doanh nghiệp càng lâu đời thì lại càng ít có ĐMST sản phẩm hơn các doanh nghiệp trẻ trong bối cảnh nghiên cứu các doanh nghiệp chế biến chế tạo tại Việt Nam.

Một số các nhân tố thuộc tính khác được xem xét trong mối quan hệ với ĐMST

sản phẩm như là đặc điểm của nguồn vốn, cơ cấu vốn góp hay cường độ vốn góp (Tran & Santarelli, 2013; Gómezar và cộng sự, 2016; T. V. Nguyen và cộng sự, 2016), kết

quả hoạt động của thời kì trước (Pham & Matsunaga, 2019).

1.3.1.2. Các nhân tố phản ánh chiến lược của doanh nghiệp

25

Liên quan đến chiến lược tăng trưởng của doanh nghiệp, nghiên cứu này cũng quan

tâm đến mức độ chuyên môn hoá (hoạt động đơn ngành) hay đa dạng hoá (hoạt động đa

ngành) sẽ ảnh hưởng tích cực đến ĐMST của doanh nghiệp hơn. Chuyên môn hóa cũng có thể thúc đẩy sự đổi mới bằng cách tăng cường số lượng các đơn vị trong tổ chức và

các cá nhân ưu tú nhất để cùng tìm kiếm giải pháp cho một vấn đề cụ thể (Robertson &

Langlois, 1995). Đối với chiến lược đa dạng hóa, doanh nghiệp thường đi kèm với các

biện pháp kiểm soát tài chính, có thể tạo ra các định hướng hoạt động có tính ngắn hạn

và tránh rủi ro, từ đó lại ngăn cản hoạt động tạo công nghệ hay sản phẩm mới (Becheikh

và cộng sự, 2006).

Cho dù là chuyên biệt hay đa dạng, một doanh nghiệp thường đứng trước hai lựa

chọn: nên hạn chế hoạt động của mình ở thị trường nội địa hay trở nên quốc tế hoá hơn.

Hầu như các bằng chứng thực nghiệm đều chỉ ra rằng xuất khẩu và quốc tế hóa có tác

động tích cực đáng kể đến sự đổi mới (Romijn & Albaladejo, 2002; Parida và cộng sự, 2012; Spithoven và cộng sự, 2013). Những doanh nghiệp càng có xu hướng quốc tế hoá

thì lại càng có khả năng đổi mới cao hơn (Frishammar & Andersson, 2009). Để duy trì sức cạnh tranh trên thị trường liên quốc tế, một công ty không có lựa chọn nào khác hơn

là không ngừng đổi mới sáng tạo (Veugelers & Cassiman, 1999).

Các chiến lược về đa dạng hoá sản phẩm (Pham & Matsunaga, 2019) hay chiến

lược xuất khẩu (Gómez và cộng sự, 2016) cũng được đề cập đến như là những nhân tố

1.3.1.3. Các nhân tố thuộc về văn hoá doanh nghiệp

chiến lược của tổ chức có tác động đến ĐMST sản phẩm.

Văn hóa tổ chức có thể được định nghĩa là những điểm chung về giá trị, niềm tin

và những giả định ngầm giữa các thành viên trong tổ chức. Nhiều công trình nghiên cứu

1.3.1.4. Các nhân tố thuộc về đội ngũ quản lý/lãnh đạo doanh nghiệp

khác nhau đã được kết luận về vai trò then chốt của văn hóa đối với sự ĐMST. Lý do chính là nó có thể kích thích hành vi đổi mới giữa các thành viên của tổ chức vì nó có thể khiến họ chấp nhận ĐMST như một giá trị cơ bản của tổ chức và có thể thúc đẩy các cá nhân hướng đến ĐMST (Dulaimi & Hartmann, 2006). Nghiên cứu thực nghiệm cũng cung cấp bằng chứng về mối quan hệ đáng kể giữa văn hóa và ĐMST sản phẩm (Valencia và cộng sự, 2010).

Nhà lãnh đạo/quản lý doanh nghiệp được hiểu là cá nhân hay một vài cá nhân đứng

ra thành lập và quản lý hoạt động của doanh nghiệp vì mục đích tăng trưởng và lợi

26

nhuận. Họ chính là những người có vai trò rất quan trọng để thúc đẩy ĐMST trong

doanh nghiệp vì họ nắm trong tay quyền lực để huy động và tổ chức các nguồn lực, vạch

ra chiến lược của tổ chức. Các đặc điểm của các nhà lãnh đạo/ quản lý doanh nghiệp

bao gồm giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, đào tạo chuyên môn và kinh nghiệm, tính

cách, khả năng, quan niệm của nhà quản lý về những chi phí và rủi ro liên quan đến

ĐMST, quan niệm của nhà quản lý về lợi ích thu được từ ĐMST (Caird, 1994).

Koellinger (2008) cho rằng bằng cấp và kinh nghiệm là hai đặc điểm quan trọng

của các doanh nhân ĐMST. Những người có trình độ học vấn cao hơn dường như sáng

tạo hơn, linh hoạt hơn và nhận thức tốt hơn về các ý tưởng đổi mới sáng tạo. Kinh

nghiệm làm việc và kiến thức và kỹ năng tích lũy được của một doanh nhân có thể dẫn

đến mức năng lực cao hơn, đồng thời họ thường có mạng lưới quan hệ rộng rãi hơn và

từ đó có ảnh hưởng tích cực để đạt được sự ĐMST trong doanh nghiệp của họ. Romijn

& Albaladejo (2002) lại tìm ra rằng bằng cấp không có liên quan đến ĐMST nhưng kinh

nghiệm làm việc trong môi trường khoa học trước đây thì có khiến cho doanh nghiệp đó

đạt được ĐMST sản phẩm. Ở bối cảnh Việt Nam, Pham & Matsunaga (2019) có chỉ ra được mối liên hệ giữa bằng cấp phổ thông và ĐMST sản phẩm tuy nhiên các bằng cấp

nghề nghiệp chuyên nghiệp cũng như kinh nghiệm lại không có mối liên kết với ĐMST sản phẩm.

Tuổi của chủ sở hữu/người quản lý có thể liên quan đến sự ĐMST của công ty.

Các doanh nhân trẻ, những người được cho là năng động và ham học hỏi, có nhiều khả

năng nhận biết và áp dụng kiến thức và công nghệ mới, và do đó có nhiều ĐMST hơn.

Trong khi đó, tuổi già có thể làm giảm tính linh hoạt và độ nhạy bén với kiến thức và

công nghệ mới, dẫn đến ít ĐMST hơn. Các bằng chứng thực nghiệm về lập luận này

1.3.1.5. Các nhân tố thuộc về nguồn lực và chiến lược chức năng

được tìm thấy trong nghiên cứu của Pham & Matsunaga (2019).

Hoạt động nghiên cứu và phát triển nội bộ (R&D nội bộ) được thừa nhận là biến số rất quan trọng quyết định đến khả năng tạo ra kết quả ĐMST của doanh nghiệp. Theo Cohen & Levithal (1989), R&D có vai trò kép trong sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và tạo ra thành quả ĐMST nói riêng. Thứ nhất là nó góp phần phát triển tiềm lực bên trong của doanh nghiệp bằng việc tạo ra các ý tưởng, khai thác và chuyển hoá các tri thức và ý tưởng thành công nghệ, sản phẩm hay quy trình mới. Thứ hai là góp phần duy trì và tăng khả năng hấp thụ (absorptive capacity) tiếp cận, tìm hiểu cặn kẽ và khai thác tối đa các tiềm lực của các luồng tri thức từ bên ngoài và thu hút những đối tác hợp

tác đối với doanh nghiệp. Ngoài ra, trong các lĩnh vực công nghệ cao và mới, thực hiện

27

R&D nội bộ là rất quan trọng bởi doanh nghiệp gần như không thể mua được công nghệ

mới từ môi trường bên ngoài hay từ những đối thủ cạnh tranh và nếu có thể mua được

thì chi phí cũng rất đắt đỏ (Lee, 1995). Mối quan hệ tích cực của R&D nội bộ lên ĐMST

được khởi nguồn từ mô hình ĐMST thế hệ thứ 1 có tên gọi là “sức đẩy của khoa học”.

Theo mô hình này, nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai là hoạt động

quan trọng để tạo ra sản phẩm dịch vụ mới. Nghiên cứu của Vega-Jurado và cộng sự

(2008) về các nhân tố tác động tới ĐMST sản phẩm tại Tây Ban Nha đã chỉ ra tầm quan

trọng của việc đầu tư vào hoạt động NC&PT nội bộ. Tại Việt Nam, Phùng Minh Thu

Thuỷ và cộng sự (2018) cũng chỉ ra kết quả tương tự.

Romijn & Albaladejo (2002) ngoài tìm ra được mối liên hệ tích cực giữa các hoạt

động NC&PT tới ĐMST sản phẩm thì cũng chỉ ra được tầm quan trọng của việc nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực, thể hiện qua kiến thức, kỹ năng kinh nghiệm và động

lực làm việc của họ. Nghiên cứu Nguyen và cộng sự (2016) đã cho thấy được tỉ lệ phần

trăm lao động tham gia vào hoạt động R&D có thể tác động tích cực đến khả năng

ĐMST sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam.

Nhân tố liên quan đến khả năng hấp thụ cũng được cho là có tác động tích cực đến

khả năng ĐMST của doanh nghiệp. Khả năng hấp thụ cho phép doanh nghiệp có thể nhận ra, tiếp nhận và chuyển hoá tốt các tri thức công nghệ từ bên ngoài và đạt được

những lợi thế của người đi tiên phong trong khai thác công nghệ (Cohen & Levinthal,

1990). Rangus và cộng sự (2017) và Gómez và cộng sự (2016) cũng đã chỉ ra bằng

chứng về mối quan hệ thúc đẩy của khả năng hấp thụ tới ĐMST sản phẩm trong các

doanh nghiệp ở Slovenia và Tây Ban Nha.

Tình hình tài chính của doanh nghiệp bao gồm cơ cấu tài chính, tăng trưởng doanh

thu và tỷ suất lợi nhuận cao, các quỹ dành cho nghiên cứu phát triển đều góp phần tích

cực vào nâng cao ĐMST thông qua tăng cường khả năng thực hiện các dự án đầu tư và

1.3.1.6. Các nhân tố thuộc về hoạt động đổi mới sáng tạo mở

triển khai các hoạt động nghiên cứu phát triển (Bhattacharya & Bloch, 2004). Các hoạt động ĐMST có mức độ rủi ro cao, cho nên các doanh nghiệp có tỷ lệ vốn vay quá lớn, có rủi ro cao về tài chính sẽ không chú trọng phát triển các đổi mới sáng tạo, đặc biệt là các ĐMST sản phẩm (Nguyễn Quốc Duy, 2015).

Bogers và cộng sự (2017) đã chỉ ra một chủ đề nổi bật trong các nghiên cứu về

ĐMST mở đó là tác động của ĐMST mở đến kết quả ĐMST và kết quả nhìn chung của doanh nghiệp. Mặc dù phần lớn các bài báo về chủ đề này cho thấy việc thực hiện ĐMST

mở có tác động tích cực đến kết quả hoạt động, tuy nhiên vẫn có những nghiên cứu chỉ

28

ra mối quan hệ phi tuyến (hình chữ U ngược) hoặc thậm chí ảnh hưởng tiêu cực đến

ĐMST sản phẩm của doanh nghiệp.

Parida và cộng sự (2012) nghiên cứu tác động của bốn hình thức ĐMST mở hướng

vào đến ĐMST sản phẩm trong các doanh nghiệp công nghệ cao có quy mô vừa và nhỏ.

Parida và cộng sự (2012) tìm ra rằng những mối quan hệ của những hình thức ĐMST

mở khác nhau, bao gồm tìm kiếm công nghệ (Technology scouting), hợp tác công nghệ

theo chiều dọc (Vertical technology collaboration), hợp tác công nghệ theo chiều ngang

(Horizontal technology collaboration) và lựa chọn công nghệ (Technology sourcing),

sẽ có những tác động tích cực đến ít nhất một trong thước đo mức độ đột phá về công

nghệ của kết quả ĐMST trong các doanh nghiệp SMEs. Cụ thể, dù nghiên cứu này tìm

ra mối quan hệ tích cực giữa tìm kiếm công nghệ và lựa chọn công nghệ đối với cả hai

loại kết quả đổi mới, điều cũng được chỉ ra trong nhiều nghiên cứu trước đây

(Chesbrough, 2006; van de Vrande và cộng sự, 2009; Bianchi và cộng sự, 2010), nhưng

tìm kiếm công nghệ có tác động lớn hơn đối với kết quả ĐMST không đột phá trong khi

lựa chọn công nghệ thì có tác động lớn hơn để dẫn đến kết quả ĐMST đột phá. Trong khi đó, hợp tác công nghệ theo chiều dọc với nhà cung cấp hay khách hàng lại có tác

động đến kết quả ĐMST đột phá (kết quả tuy cùng hướng với Von Hippel & Katz (2002), Belderbos và cộng sự (2004), Pittaway và cộng sự (2004), Faems và cộng sự

(2005) và hợp tác công nghệ theo chiều ngang với đối thủ cạnh tranh, trường đại học

hay các viện nghiên cứu thì lại tạo ra kết quả ĐMST công nghệ không đột phá (cùng

hướng với nghiên cứu của Belderbos và cộng sự (2004); ngược hướng với Pittaway và

cộng sự, 2004; Miotti & Sachwald, 2003).

Nghiên cứu của Laursen & Salter (2006) cũng đã làm sáng tỏ hai hoạt động ĐMST

mở hướng vào, bao gồm độ rộng và độ sâu của tìm kiếm tri thức bên ngoài, đối với

ĐMST sản phẩm, cụ thể, các tác giả đã tìm thấy mối quan hệ chữ U của biến độ rộng và

độ sâu của ĐMST mở đến kết quả ĐMST tại các doanh nghiệp sản xuất của Anh Quốc.

Nghiên cứu của Spithoven và cộng sự (2013) đã cố gắng so sánh tác động của các hoạt động ĐMST mở đến ĐMST sản phẩm ở doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp lớn. Nghiên cứu sử dụng hai biến số đo lường ĐMST sản phẩm đó là khả năng giới thiệu ra thị trường sản phẩm/dịch vụ mới và doanh thu từ sản phẩm/dịch vụ mới này trong mối quan hệ tác động gây ra bởi các biến số ĐMST mở bao gồm: chiến lược tìm kiếm, hoạt

động R&D ngoại sinh, hợp tác và bảo hộ sở hữu trí tuệ. Nghiên cứu đi đến kết luận đó các doanh nghiệp nhỏ và lớn đều có thể tăng được khả năng giới thiệu ra thị trường

những sản phẩm/dịch vụ mới cũng như thụ hưởng doanh thu tăng lên thông qua các hoạt động ĐMST mở. Riêng đối với những doanh nghiệp SMEs, nếu thực hiện các chiến

29

lược tìm kiếm rộng và sâu, hợp tác với những đối tác khác và áp dụng dụng các cơ chế

bảo hộ sở hữu trí tuệ sẽ có thể tăng khả năng giới thiệu sản phẩm/dịch vụ mới. Bên cạnh

đó, để tăng doanh thu từ những sản phẩm/dịch vụ mới, SMEs có thể theo đuổi các chiến

lược tìm kiếm rộng và áp dụng các cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ. Khi so sánh với các

doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp nhỏ có ít khả năng giới thiệu sản phẩm/dịch vụ mới

ra thị trường thông qua việc thực hiện các hoạt động ĐMST mở, đồng thời cũng thu

được tỉ lệ doanh thu từ các sản phẩm dịch vụ mới ít hơn so với các doanh nghiệp lớn -

kết luận này cũng củng cố những khám phá mà Lee và cộng sự (2010) tìm ra trước đó.

Ngoài ra nghiên cứu của Pullen và cộng sự (2012) cũng tìm ra mối quan hệ thúc đẩy

khi SMEs tham gia vào các mạng lưới hợp tác phát triển sản phẩm với ĐMST sản phẩm.

Cheng & Huizingh (2014) là nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu mối quan hệ giữa cả

ba cơ chế ĐMST mở (hướng vào, hướng ra và kết hợp) và ĐMST sản phẩm (cùng các

kết quả ĐMST khác) tại 223 doanh nghiệp dịch vụ ở Đài Loan. Tuy nhiên nghiên cứu của Cheng và Huizingh đã không xét riêng rẽ các tác động của từng loại cơ chế ĐMST

mở tới kết quả đổi mới sáng tạo, các tác giả dùng 10 chỉ báo để tính toán ra biến tiềm ẩn ĐMST mở sử dụng mô hình cấu trúc để kết luận về mối quan hệ tích cực giữa ĐMST

mở tới cả bốn khía cạnh của kết quả đổi mới sáng tạo.

1.3.2. Các nhân tố ngoại sinh

Tầm quan trọng của việc nghiên cứu tác động của các nhân tố bên ngoài (nhân tố

môi trường bên ngoài) lên tổ chức được nhấn mạnh kể từ khi học thuyết quyền biến

(contigency theory) ra đời. Học thuyết quyền biến được phát triển bởi Burns and Stalker

(1961) và Hall và cộng sự (1968). Ý tưởng của học thuyết này là cơ cấu của tổ chức cần

được những nhà quản lý thiết kế phụ thuộc vào đặc điểm của môi trường mà tổ chức

hoạt động. Vì vậy, nghiên cứu các nhân tố môi trường rất quan trọng để xác định được

1.3.2.1. Nhóm nhân tố thuộc về lĩnh vực hoạt động

chiến lược, cấu trúc hay hành vi của tổ chức. Becheikh và cộng sự (2006) đã liệt kê khoảng 20 nhân tố môi trường và phân chia thành 06 nhóm bao gồm: Nhóm nhân tố thuộc về ngành công nghiệp, nhóm nhân tố vùng/ địa phương, nhóm nhân tố mạng lưới quan hệ, nhóm nhân tố tiếp thu tri thức và công nghệ, nhóm nhân tố thuộc về chính phủ và chính sách công và cuối cùng là nhóm nhân tố về văn hoá.

Đổi mới sáng tạo được chỉ ra trong nhiều nghiên cứu về việc chịu ảnh hưởng bởi

môi trường bên ngoài của tổ chức, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đặc điểm của ngành/ lĩnh vực hoạt động. Mức độ cạnh tranh trong ngành được coi là động lực thúc đẩy các

doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, hoàn thiện công nghệ và thực hiện đổi mới

30

- sáng tạo (Davis & Meyer, 2004). Môi trường cạnh tranh khốc liệt sẽ buộc doanh nghiệp

phải tự thay đổi để đạt được hiệu quả về mặt chi phí hoặc khác biệt về mặt sản phẩm.

Ngược lại, đối với những tổ chức hoạt động trong môi trường ít cạnh tranh thì chỉ cần

cố gắng duy trì những gì sẵn có là tổ chức đó đã có thể tồn tại với kết quả hoạt động ở

mức độ chấp nhận được. Các nghiên cứu thực nghiệm cũng chỉ ra rằng trong một số

ngành (ví dụ như: chế biến chế tạo, dịch vụ, tài chính) thì ĐMST nhiều hơn là những

doanh nghiệp hoạt động trong các ngành còn lại (như là xây dựng, bán buôn, vận tải,

bán lẻ, dịch vụ khách sạn) (De Jong & Vermeulen, 2006). Hay như việc các doanh

nghiệp hoạt động trong các ngành công nghệ cao, có lợi thế hơn trong việc tiếp cận tri

thức và tiến bộ công nghệ, thường có khả năng ĐMST sản phẩm nhiều hơn là những

ngành truyền thống cũng được chỉ ra trong nghiên cứu về ĐMST trong các doanh nghiệp

1.3.2.2. Nhóm nhân tố khu vực địa lý

Về vị trí địa lý, các doanh nghiệp ở các khu vực đô thị, thành phố trực thuộc trung ương có thể tiếp cận tốt hơn với vốn, lao động chất lượng, công nghệ tiên tiến, cơ hội

chế biến chế tạo tại Tây Ban Nha của Gómez và cộng sự (2016).

thị trường, thông tin và mạng lưới kinh doanh cũng như các sự trợ giúp và tư vấn dễ dàng hơn từ các mạng lưới, hiệp hội nghề nghiệp, vườn ươm hay các công viên công

nghệ. Các chủ sở hữu và nhân viên trong những lĩnh vực này có thể được học nhiều hơn và có kiến thức kỹ thuật và nhân công tốt hơn. Ngoài ra, kiến thức có thể bị rò rì

(knowledge spillover) dễ dàng và nhiều hơn do sự tập trung dày đặc của các trường đại

học, cơ sở nghiên cứu, các khu công nghiệp và các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh

nghiệp khoa học và công nghệ tại các khu vực này (Pham & Matsunaga, 2019). Bằng

chứng về mối quan hệ này được tìm thấy trong nghiên cứu của Thuy Phung Minh Thu

và cộng sự (2018), những doanh nghiệp chế biến chế tạo ở Việt Nam có trụ sở tại những

thành phố lớn đông dân cư thì có khả năng tạo ra ĐMST sản phẩm cao hơn là những

1.3.2.3. Nhóm nhân tố hợp tác và tương tác trong mạng lưới, tiếp thu tri thức và

công nghệ

doanh nghiệp hoạt động ở những thành phố có mật độ dân cư thấp.

ĐMST trong doanh nghiệp thường không diễn ra một cách biệt lập mà có thể được thực hiện trong một mối quan hệ hợp tác của doanh nghiệp với các chủ thể khác trong ngành bao gồm khách hàng, đối thủ cạnh tranh, nhà cung cấp, doanh nghiệp cùng ngành hoặc chủ thể ngoài ngành ngoài bao gồm trường đại học, viện nghiên cứu,… Trong một

thỏa thuận hợp tác, doanh nghiệp và đối tác bên ngoài cùng ĐMST và chia sẻ lợi ích. Các doanh nghiệp hợp tác trong các hoạt động ĐMST để chia sẻ rủi ro kinh doanh, giảm chi

31

phí R&D, khai thác tối ưu các nguồn lực và mở rộng kỹ năng, sau đó nâng cao lợi thế

cạnh tranh (Garcia Martinez và cộng sự, 2014; Medda, 2020). Nhờ sự hợp tác, các doanh

nghiệp sẽ không chỉ tích lũy bộ kỹ năng chuyên biệt từ các đối tác mà còn có thể nâng

cao năng lực R&D nội bộ của mình và nắm bắt các phương pháp sản xuất, phân phối

hoặc hỗ trợ mới bằng cách cho nhân viên và nhà quản lý R&D nội bộ tiếp cận với kiến

thức, công nghệ mới. Cường độ và chất lượng của các mối quan hệ tương tác trong mạng

lưới có quan hệ tích cực đến ĐMST sản phẩm cũng có thể tìm thấy trong nhiều nghiên

cứu ở nước ngoài (Romijn & Albaladejo, 2002; Laursen & Salter, 2006; De Jong &

Vermeulen, 2006; Vega-Jurado và cộng sự, 2008; Spithoven và cộng sự, 2013) và tại

1.3.2.4. Nhóm nhân tố thuộc về chính phủ và chính sách công

Việt Nam (Phung Minh Thu Thuy và cộng sự, 2018; Pham & Matsunaga, 2019)

ĐMST nói chung và ĐMST sản phẩm là những hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro

và có đỗ trễ, đặc biệt đối với những doanh nghiệp gặp bất lợi về nguồn lực do không có

lợi thế về quy mô như doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp,… Vì thế sự ổn định trong chính sách sẽ kích thích các doanh nghiệp nỗ lực đầu

tư cho hoạt động NC&PT tạo sản phẩm mới, đồng thời sự hỗ trợ của chính phủ có thể giúp ích rất nhiều cho việc ĐMST trong doanh nghiệp (Barasa và cộng sự, 2017). Ví dụ

về hỗ trợ tài chính như các chính sách ưu đãi tín dụng hoặc hỗ trợ vốn đầu tư ban đầu hoặc trong quá trình triển khai dự án của chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp tiếp

cận được các nguồn vốn để đầu tư vào hoạt động NC&PT, các chính sách miễn giảm

thuế, phí có thể giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng tài chính và tăng cường đầu tư

vào đổi mới sáng tạo. Ngoài ra chính phủ cũng có thể có nhiều những hỗ trợ kỹ thuật

khác như đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp. Pham &

Matsunaga (2019) đã chỉ ra một số bằng chứng về các tác động của chính sách của chính

phủ như đến ĐMST trong doanh nghiệp ở Việt Nam. Cụ thể, sự thay đổi liên tục của

các chính sách của chính phủ có khả năng hạn chế sự ĐMST sản phẩm. Các doanh nghiệp phản ứng với các quy định không chắc chắn của chính phủ bằng cách tập trung vào định hướng kinh doanh ngắn hạn, điều này sẽ hạn chế hình thành sản phẩm đổi mới. Trong khi đó, hỗ trợ của chính phủ cả về kỹ thuật và tài chính có xu hướng kích thích sự ĐMST sản phẩm.

32

CHƯƠNG 2:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN

ĐỔI MỚI SÁNG TẠO SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

2.1. Cơ sở lý luận về doanh nghiệp khoa học và công nghệ

2.1.1. Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp khoa học & công nghệ

2.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp khoa học & công nghệ

Doanh nghiệp khoa học và công nghệ (DNKH&CN) là khái niệm khó định nghĩa

do đây là loại hình doanh nghiệp tạo ra hàng hoá và dịch vụ chủ yếu dựa vào sự phát

triển, sở hữu và áp dụng tri thức, vì thế hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ có thể

dựa trên cơ sở ứng dụng các công nghệ, bí quyết công nghệ được tạo ra từ kết quả nghiên cứu của các bên liên quan như là các viện nghiên cứu, trường đại học hoặc tổ chức, cá

nhân có hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Để chỉ DNKH&CN trên thế giới, có nhiều thuật ngữ được đưa ra như doanh nghiệp dựa trên tri thức

(knowledge-based firm), doanh nghiệp dựa trên khoa học (science-based firm), doanh nghiệp dựa trên công nghệ (technology-based firm), doanh nghiệp dựa trên công nghệ

mới/cao (new/high technology-based firm), doanh nghiệp vệ tinh hàn lâm (academic

spin-off/spinout) (Nguyễn Thị Minh Nga, 2006; Hoàng Văn Tuyên, 2016; Đào Quang

Thuỷ, 2019).

DNKH&CN xuất hiện đầu tiên tại các nước công nghiệp phát triển như Mỹ,

Anh. Họ có chung một quan điểm về DNKH&CN là các doanh nghiệp có khởi đầu dựa

trên kết quả KH&CN hoặc doanh nghiệp có khả năng thực hiện ĐMST và thương mại

hóa các kết quả KH&CN để sản xuất các loại sản phẩm mà người tiêu dùng có nhu cầu (Phạm Hồng Quất, 2018).

Theo Mai Hà và cộng sự (2015), doanh nghiệp KH&CN trên thế giới hoạt động dưới hai hình thức doanh nghiệp vệ tinh hàn lâm (spin-offs)6 và doanh nghiệp dựa trên công nghệ mới và/hoặc cao. Doanh nghiệp vệ tinh hàn lâm được hiểu là những doanh nghiệp hình thành do một hay một nhóm các nhà sáng lập có tinh thần doanh nhân

6 Doanh nghiệp spin-offs tại Việt Nam thường được đề cập đến dưới tên gọi doanh nghiệp khởi nguồn

(entrepreneurship) rời khỏi tổ chức mẹ để bắt đầu việc sản xuất kinh doanh độc lập mới. Tổ chức mẹ có thể là trường đại học, viện nghiên cứu hay phòng thí nghiệm hay thậm

33

chí doanh nghiệp. Doanh nghiệp vệ tinh hàn lâm sẽ thương mại hoá công nghệ hay bí

quyết công nghệ từ các tổ chức mẹ thông qua chuyển giao công nghệ (CGCN) dưới 2

hình thức: chính thức (giấy phép li-xăng) và không chính thức (chuyển giao tri thức

ngầm, chuyển giao cán bộ hoặc thông qua các mối quan hệ giữa doanh nghiệp mới với

tổ chức mẹ) (Nguyễn Thị Minh Nga, 2013). Trong khi đó, doanh nghiệp dựa trên công

nghệ mới và/ hoặc cao nghĩa là những doanh nghiệp tập trung nhiều vào NC&TK hoặc

chú trọng vào việc khai thác tri thức kỹ thuật mới, tính mới ở đây có thể hàm ý là doanh

nghiệp mới hoặc công nghệ mới hoặc ngành công nghiệp mới.

Ngoài ra, khái niệm DNKH&CN cũng được cho rằng xuất phát từ mô hình doanh

nghiệp khởi nguồn (spin-offs) và doanh nghiệp khởi nghiệp (start-ups) từ khoảng giữa

thế kỷ XX tại các nước công nghiệp phát triển (Nguyễn Vân Anh và cộng sự, 2014).

Các tác giả định nghĩa doanh nghiệp spin-offs được khởi nguồn từ trường đại học (tách

ra hoạt động độc lập từ các trường đại học) và các cá nhân tạo ra các tài sản KH&CN

tham gia vào quá trình quản lý của doanh nghiệp mới hình thành. Doanh nghiệp start-

up chỉ sự khởi nghiệp của một doanh nghiệp mới hình thành trên nền tảng kết quả KH&CN. Mặc dù có sự khác nhau giữa doanh nghiệp spin-off và start-up, nhưng giữa

chúng đều có đặc điểm chung là: (1) Khởi đầu một doanh nghiệp mới dựa trên kết quả KH&CN; (2) Doanh nghiệp có khả năng thực hiện đổi mới và thương mại hóa các kết

quả KH&CN để sản xuất các loại sản phẩm mà người tiêu dùng có nhu cầu.

Tại Việt Nam, theo Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19/5/2007 và Nghị định số

96/2010/NĐ-CP ngày 20/9/2010, trong đó có điều khoản nêu rõ khái niệm DNKH&CN:

“DNKH&CN là doanh nghiệp do tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài

có quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển

công nghệ (R&D) thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật Doanh

nghiệp và Luật KH&CN. Hoạt động chính của doanh nghiệp là thực hiện sản xuất, kinh

doanh các loại sản phẩm hàng hóa hình thành từ kết quả R&D do doanh nghiệp được quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp; thực hiện các nhiệm vụ KH&CN. DNKH&CN thực hiện sản xuất, kinh doanh và thực hiện các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật” (Điều 1.2, Điều 2, Nghị định 80; Điều 2, Nghị định 96). Theo Luật Khoa học và công nghệ số: 29/2013/QH13, điều 58 định nghĩa: “Doanh nghiệp khoa học và công nghệ là doanh nghiệp thực hiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khoa học và công nghệ để tạo ra

sản phẩm, hàng hoá từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ”. Các quy định chi tiết về việc công nhận DNKH&CN được điều chỉnh gần đây nhất theo nghị định

số 13/2019/NĐ-CP của Chính phủ về DNKH&CN. Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 02 năm 2019 của Chính phủ về DNKH&CN (thay thế Nghị định số 80/2007/NĐ-

34

CP, Nghị định số 96/2010/NĐ-CP và Điều 20 Nghị định số 95/2014/NĐ-CP về

DNKH&CN) đã điều chỉnh lại khái niệm DNKH&CN là “Doanh nghiệp được thành lập

được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp, có khả năng tạo ra hoặc ứng dụng

kết quả khoa học và công nghệ được cơ quan có thẩm quyền đánh giá, thẩm định, công

nhận và có doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả khoa

học và công nghệ đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu trừ những doanh nghiệp mới

thành lập dưới 5 năm”.

Như vậy, các cách tiếp cận về DNKH&CN rất đa dạng. Trong nghiên cứu này,

để phù hợp với thực tiễn Việt Nam, tác giả sẽ lựa chọn khái niệm DNKH&CN theo điều

58 Luật Khoa học và Công nghệ như đã trình bày ở phía trên. Đây cũng là khái niệm

được sử dụng trong hầu hết các đề tài nghiên cứu về DNKH&CN gần đây như Phạm

2.1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp khoa học & công nghệ

Hồng Quất (2018) và Đào Quang Thuỷ (2019).

DNKH&CN có ba vai trò cơ bản bao gồm: (1) Là kênh chuyển giao và thương mại hoá tri thức, công nghệ, (2) Quyết định sự phát triển của thị trường khoa học & công nghệ,

(3) Tạo ra tăng trưởng và đổi mới sáng tạo, (4) Tạo việc làm mới và thu hút nhân lực có trình độ (Mai Hà và cộng sự, 2015; Phạm Hồng Quất, 2018; Đào Quang Thuỷ, 2019).

(1) Là kênh chuyển giao và thương mại hoá tri thức, công nghệ

DNKH&CN đóng vai trò như là cầu nối giữa khu vực hàn lâm và khu vực công

nghiệp. DNKH&CN giúp chuyển giao kết quả KH&CN và/hoặc thương mại hoá kết

quả KH&CN từ khu vực hàn lâm (trường đại học, viện nghiên cứu…) hoặc sử dụng tri

thức, kỹ năng, kinh nghiệm của các nhà sáng lập có tinh thần doanh thương được tích

luỹ trong thời gian làm việc ở môi trường hàn lâm và áp dụng những tri thức đó vào sản

phẩm và dịch vụ đưa ra thị trường. DNKH&CN giúp cho những tổ chức KH&CN nói

chung và môi trường hàn lâm nói riêng có thể nắm bắt tốt hơn những đòi hỏi của thị trường và xác định được hướng nghiên cứu thích hợp đáp ứng tốt nhu cầu của khu vực công nghiệp. Đồng thời, khu vực công nghiệp cũng có thể tận dụng những kết quả KH&CN từ khu vực hàn lâm để có thể rút ngắn được thời gian cũng như giảm thiểu rủi ro trong quá trình đầu tư cho hoạt động NC&TK.

(2) Quyết định sự phát triển của thị trường khoa học & công nghệ7:

7 Nghiên cứu này sẽ không đi sâu phân tích sự khác biệt giữa thị trường khoa học & công nghệ và thị trường công nghệ. Các quan điểm khác biệt về hai thị trường này có thể tham khảo tại Nguyễn Trọng Cơ (2017)

Ngày nay, khi khoa học và công nghệ được coi là loại hàng hoá đặc biệt và có ý

35

nghĩa quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp hay cả ngành công nghiệp nói chung, nhu

cầu chuyển giao khoa học và công nghệ giữa các bên là một nhu cầu tất yếu, từ đó hình

thành nên thị trường giao dịch loại hàng hoá đặc biệt đó, ở cả trong phạm vi quốc gia và

vượt ra ngoài phạm vi đó khi thị trường đã đủ sức hấp dẫn. DNKH&CN, với ưu thế vượt

trội trong việc ứng dụng, khai thác và thương mại hóa kết quả khoa học và công nghệ,

luôn là chủ thể tích cực tham gia các giao dịch về khoa học và công nghệ trên thị trường.

Với vai trò vừa là người mua lại vừa có thể là người bán, các DNKH&CN trực tiếp hoặc

thông qua các tổ chức dịch vụ trung gian để tham gia các giao dịch đáp ứng nhu cầu

“cung” và “cầu” công nghệ trên thị trường. Có thể nói, các DNKH&CN chính là chủ

thể chính quyết định sự tồn tại và phát triển của thị trường khoa học & công nghệ. Mức

độ tham gia các giao dịch mua bán khoa học và công nghệ giữa các chủ thể này trong

quá trình thương mại hóa các kết quả nghiên cứu phát triển và tài sản trí tuệ tạo nên sức

sống và khả năng phát triển của thị trường khoa học và công nghệ.

(3) Tạo ra tăng trưởng và đổi mới sáng tạo

DNKH&CN là đội ngũ tiên phong và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc

thúc đẩy sự tăng trưởng và đổi mới sáng tạo trong các ngành công nghiệp. Những doanh

nghiệp này luôn tìm cách việc khai thác các giá trị tài sản vô hình tiềm ẩn và vô hạn của

mỗi quốc gia, đồng thời áp dụng những tri thức và công nghệ tiến tiến trên thế giới và

khu vực. Việc sở hữu tri thức và công nghệ khiến cho DNKH&CN có được “vũ khí”

quan trọng để đưa ra thị trường những công nghệ, sản phẩm và dịch vụ mới khả năng

cạnh tranh cao hơn, tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn, thúc đẩy sản xuất công nghiệp, xuất

khẩu và tăng trưởng kinh tế.

Sự phát triển của các DNKH&CN tạo ra một môi trường cạnh tranh hơn và gián

tiếp thúc đẩy các doanh nghiệp công nghiệp khác tiến tới sự thay đổi, đổi mới để có thể

tồn tại và duy trì lợi thế cạnh tranh. Điều này tạo ra hiệu ứng lan toả và hình thành nên

làn sóng đổi mới khiến cho các ngành công nghiệp đạt đến trình độ tiên tiến hơn.

(4) Tạo việc làm mới và thu hút nhân lực có trình độ

Bên cạnh đó, DNKH&CN với đặc trưng là đầu tư mạnh mẽ cho NC&TK, tạo

công nghệ/ sản phẩm/dịch vụ mới, các doanh nghiệp này có thể tạo ra những ngành nghề

mới và gia tăng các cơ hội việc làm cho lực lượng lao động có kĩ năng và chất lượng

cao. Sự gia tăng về số lượng của các DNKH&CN cũng là nguồn bổ sung thêm về số

lượng và mức độ đa dạng của các vị trí việc làm dành cho lực lượng lao động lành nghề,

có tri thức, kỹ năng và kinh nghiệm.

36

Bản thân các DNKH&CN cũng là nơi thu hút lao động trẻ có trình độ cao nhờ cơ

chế tự chủ, tính năng động và hiệu quả trong hoạt động nghiên cứu phát triển và thương

mại hoá sản phẩm trí tuệ. Cùng với cơ chế tự chủ dành cho các viện nghiên cứu, trường

đại học, chính phủ các nước đang có chính sách đẩy mạnh hoạt động thương mại hoá

kết quả nghiên cứu khoa học, hỗ trợ các nhà khoa học tham gia hoạt động kinh doanh

và khuyến khích doanh nghiệp tham gia hoạt động nghiên cứu triển khai. Lực lượng lao

động có trình độ cao đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ khối nghiên cứu cơ bản sang

khối DNKH&CN. Thay vì lựa chọn công việc nghiên cứu đơn thuần trong các viện

nghiên cứu và trường đại học, các nhà khoa học, đặc biệt là những nghiên cứu viên trẻ

có trình độ cao đã chuyển sang làm việc cho các DNKH&CN với môi trường năng động

hơn, và quan trọng hơn cả, trong môi trường doanh nghiệp, họ có khả năng hiện thực

hóa những ý tưởng sáng tạo và trí tuệ từ các công trình nghiên cứu.

2.1.2. Động cơ thành lập doanh nghiệp khoa học & công nghệ

Có rất nhiều động cơ khiến cho doanh nghiệp KH&CN được thành lập. Có thể

phân loại được các động cơ thành lập DNKH&CN thành hai nhóm, một nhóm động cơ

xuất phát từ những cá nhân sáng lập ra DNKH&CN (gắn với những start-ups) và một

2.1.2.1. Động cơ của người sáng lập

nhóm động cơ xuất phát từ những tổ chức mẹ (gắn với những spin-offs).

Về phía người sáng lập, các nghiên cứu của Dahlstrand (1997), Chiesa &

Piccaluga (2000); Bernardt và cộng sự (2002) đã chỉ ra rằng những động cơ của người

sáng lập doanh nghiệp KH&CN liên quan đến mong muốn cá nhân hoặc môi trường

làm việc trước đây. Đối với mong muốn cá nhân, những nhà sáng lập có thể xuất phát

từ mong muốn được độc lập ra quyết định, tự do khám phá và khai thác những ý tưởng

mới, mong muốn được hoàn thiện công nghệ hay là có được thu nhập cao… Một số

mong muốn khác có thể là mong muốn được kiểm tra khả năng kinh doanh và giải quyết

các vấn đề khó khăn hay là động cơ xuất phát từ phía gia đình. Đối với môi trường làm

việc trước đây, các học giả đưa ra một số các động cơ như những nhà sáng lập không

thỏa mãn với công việc hiện tại về mặt thu nhập hay thời gian, những ý tưởng ĐMST

không được nhà quản lý sử dụng, mất việc làm do doanh nghiệp đóng cửa,…

Tuy nhiên phải khẳng định rằng vì tính rủi ro và độ trễ mà DNKH&CN gặp phải,

thì việc những cá nhân đứng ra thành lập doanh nghiệp là để được tự do khám phá và

sử dụng ý tưởng mới là then chốt chứ không hẳn chỉ là vấn đề thu nhập hay tình trạng

việc làm.

2.1.2.2. Động cơ của tổ chức mẹ

37

Các tổ chức mẹ có nhiều động cơ để thành lập DNKH&CN. Thứ nhất,

DNKH&CN được thành lập khi mà sản phẩm và dịch vụ mới được tạo ra lại không phù

hợp với chiến lược kinh doanh của tổ chức mẹ. Tổ chức mẹ quyết định thành lập DNKH&CN để có thể thương mại hoá sản phẩm dịch vụ đó một cách thành công hơn

khi được bán ở thị trường tương đối độc lập với thị trường của tổ chức mẹ và không

gây ảnh hưởng cạnh tranh trực tiếp đến tổ chức mẹ. Thứ hai, DNKH&CN cũng có thể

được thành lập để mang lại giá trị tài chính cho các tổ chức mẹ. Tổ chức mẹ thành lập

DNKH&CN và nắm giữ cổ phần trong doanh nghiệp mới cũng như nắm quyền kiểm

soát đối với hoạt động của DNKH&CN.

2.1.3. Đặc trưng của doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên thế giới và tại Việt Nam

2.1.3.1. Đặc trưng của doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên thế giới

a. Quy mô

Về quy mô của doanh nghiệp KH&CN, từ những khái niệm rút ra trên đây có thể thấy rằng quy mô của những doanh nghiệp này thường là vừa và nhỏ. Trên thế giới,

DNKH&CN là những doanh nghiệp spin-offs hay start-ups. Các doanh nghiệp tách ra từ những tổ chức KH&CN như trường đại học, viện nghiên cứu hay do một (nhóm) cá

nhân có tinh thần doanh thương đứng ra thành lập. Thời gian thành lập mới và chiến

lược kinh doanh tập trung nhiều vào phát triển các sản phẩm dựa trên thành tựu NC&TK

khiến cho những doanh nghiệp này thường mang đặc điểm của một doanh nghiệp vừa

b. Mạnh về tri thức

và nhỏ.

Như các khái niệm đã nêu về DNKH&CN, đây là những doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu dựa vào sự phát triển, sở hữu và áp dụng tri thức. DNKH&CN là những doanh nghiệp mạnh về tri thức và sử dụng tài sản tri thức, trong đó có tri thức ngầm như là một lợi thế cạnh tranh. DNKH&CN được thành lập với tài sản lớn nhất chính là tri thức và ý tưởng ĐMST của người sáng lập. Họ là những người có tinh thần doanh doanh thương và họ mang những tri thức của mình để ứng dụng vào sản phẩm hoặc công nghệ mới và tìm kiếm các cơ hội trên thị trường (Lawson & Lorenz, 1999). So với những loại hình doanh nghiệp thông thường khác, DNKH&CN sở hữu nhiều dạng tri thức ngầm

hơn. Ngoài tri thức của những nhà sáng lập có tinh thần doanh thương, DNKH&CN còn

sở hữu tri thức ngầm từ những nhà sáng chế (inventor), nhà đầu tư ở giai đoạn đầu trong

38

vòng đời phát triển của doanh nghiệp (bao gồm gia đình, bạn bè, nhà đầu tư ban đầu -

initial investor, nhà bảo trợ kinh doanh - business angel, angel investor, nhà đầu tư mạo

hiểm - venture capitalist, các chương trình trợ giúp của chính phủ - government

c. Đầu tư có tính mạo hiểm và độ trễ

program) và nhiều tri thức ngầm khác.

Xuất phát việc DNKH&CN chú trọng nhiều vào hoạt động nghiên cứu và phát

triển, khai thác tri thức công nghệ mới, công nghệ cao, sản phẩm và dịch vụ của doanh

nghiệp luôn ĐMST. Việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu triển khai, đặc biệt là nghiên

cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai tạo công nghệ mới, công nghệ cao thì chứa nhiều

rủi ro do không khả thi về kỹ thuật hay kinh tế, sản phẩm tạo ra không được thị trường

c. Tính mới

đón nhận. Chính vì vậy, đầu tư vào DNKH&CN có tính mạo hiểm và có độ trễ.

Tính mới trong các DNKH&CN có thể hiểu theo nhiều tầng nghĩa khác nhau

(Mai Hà và cộng sự, 2015).

Đơn giản nhất, tính mới có thể biểu hiện sự mới thành lập của các doanh nghiệp,

tại các nước, doanh nghiệp KH&CN thường là những doanh nghiệp “mới”, mới ở đây

là mới thành lập (nhỏ hơn 3,5,8…năm).

Thứ hai, tính mới cần thể hiện thông qua công nghệ mới (lần đầu tiên được áp

dụng) hay sản phẩm và dịch vụ mới do thay đổi cách thức sử dụng công nghệ. Vì

DNKH&CN đầu tư nhiều vào hoạt động NC&TK, chú trọng vào khai thác tri thức công

nghệ mới, tiên tiến, nên đầu ra của doanh nghiệp luôn là các công nghệ hay/ và sản phẩm

dịch vụ có tính đổi mới sáng tạo. Đôi khi sản phẩm dịch vụ có thể không mới nhưng

được sử dụng theo cách ĐMST (innovative). Tính mới ở đây nhấn mạnh khả năng thực

hiện đổi mới sáng tạo của DNKH&CN và sản xuất kinh doanh dựa trên kết quả

KH&CN.

Thứ ba, tính mới còn thể hiện trong ngành công nghiệp mà DNKH&CN hoạt

động trong đó. Đó là những lĩnh vực “công nghệ cao”, có chi tiêu trung bình vào hoạt

động R&D trên tổng doanh thu cao hơn các lĩnh vực khác, hoặc sử dụng các nhà khoa

2.1.3.2. Đặc trưng của doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam

học và kỹ sư có chất lượng cao hơn các doanh nghiệp khác.

Tương tự như các quốc gia khác trên thế giới, số lượng các DNKH&CN tại Việt

Nam chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng số các doanh nghiệp và đa phần là có quy mô vừa và

39

nhỏ (Nguyễn Thị Minh Nga, 2006; Mai Hà và cộng sự, 2015; Đào Quang Thuỷ & Lê

Thị Kim Chi, 2020). Hoạt động của các DNKH&CN chủ yếu là tập trung vào các hoạt

động khai thác tri thức thông qua hoạt động nghiên cứu và triển khai, vì thế đầu tư cũng

mang nhiều rủi ro và có độ trễ.

Tại Việt Nam, các DNKH&CN có thể là những doanh nghiệp được hình thành

mới hoàn toàn hoặc chuyển đổi loại hình tổ chức hay là kết quả của sự sáp nhập nhiều

doanh nghiệp đã tồn tại từ trước. Ví dụ, có một tập hợp các doanh nghiệp KH&CN vốn

được chuyển đổi từ các tổ chức KH&CN thành vì thế tuy mới được thành lập nhưng

những doanh nghiệp này lại không “mới”. Mục 4.1.1.2 sẽ phân tích kĩ những con đường

hình thành DNKH&CN ở Việt Nam. Vì thế tính mới của DNKH&CN Việt Nam không

thể hiện qua sự mới thành lập của doanh nghiệp. Từ sau khi nghị định mới nhất về

DNKH&CN Việt Nam (Nghị định số 13/2019) ra đời thì tính mới trong các ngành công

nghiệp mới của các DNKH&CN thuộc 07 lĩnh vực như quy định tại thông tư 17/2012/TTLT-BKHCN-BTC-BNV đã được thay thế8, doanh nghiệp KH&CN có thể

thuộc bất kỳ lĩnh vực KH&CN nào, vì thế mà DNKH&CN không nhất thiết phải hoạt

động trong các ngành công nghiệp mới. Theo định nghĩa về DNKH&CN quy định tại

điều 58 của Luật Khoa học và công nghệ số: 29/2013/QH13, doanh nghiệp khoa học và

công nghệ là doanh nghiệp thực hiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khoa học và công nghệ

để tạo ra sản phẩm, hàng hoá từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.

Tức là DNKH&CN là một loại doanh nghiệp có chức năng trước hết và chủ yếu là “sản

xuất ra các công nghệ” và đóng vai trò là một tổ chức trung gian chủ chốt trên thị trường

khoa học và công nghệ . Vì thế có thể thấy rằng tính mới của DNKH&CN tại Việt Nam

không thể hiện thông qua sự mới thành lập, cũng không thể hiện qua lĩnh vực hoạt động

mới mà thể hiện thông qua công nghệ hay/và sản phẩm dịch vụ có tính đổi mới sáng tạo

hoặc sản phẩm dịch vụ được hình thành theo cách thức đổi mới sáng tạo. Do vậy, nghiên

cứu này tập trung quan tâm đến đổi mới sáng tạo trong các DNKH&CN Việt Nam, đặc

biệt là đổi mới sáng tạo sản phẩm - lý do tồn tại cũng như là chìa khoá cạnh tranh của

những doanh nghiệp này.

8 Công nghệ thông tin - truyền thông, đặc biệt công nghệ phần mềm tin học; công nghệ sinh học, đặc biệt công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp, thủy sản và y tế; công nghệ tự động hóa; công nghệ vật liệu mới, đặc biệt công nghệ nano; công nghệ bảo vệ môi trường; công nghệ năng lượng mới; công nghệ vũ trụ và một số công nghệ khác;

Điểm đặc biệt của các DNKH&CN Việt Nam so với các DNKH&CN ở nước ngoài đó là doanh nghiệp gặp phải áp lực duy trì tỉ lệ doanh thu nhất định từ sản phẩm/ dịch vụ hình thành từ kết quả KH&CN. Theo Nghị định 13/2019, để được hưởng các ưu

40

đãi và hỗ trợ từ nhà nước hàng năm, các DNKH&CN cần đảm bảo tỉ lệ doanh thu hàng năm của sản phẩm/dịch vụ hình thành từ kết quả kết quả khoa học và công nghệ đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu9. Nếu trong 5 năm liên tiếp DN không đạt tỉ lệ theo quy định bên cạnh sẽ không được thủ hưởng ưu đãi thì sẽ bị thu hồi giấy chứng nhận là DNKH&CN. Quy định này cũng hạn chế số lượng doanh nghiệp có tiềm năng chứng nhận DNKH&CN do đa phần doanh nghiệp Việt Nam là DNVVN. Tỉ lệ các doanh nghiệp có chứng nhận là DNKH&CN chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng số các DNKH&CN tiềm năng.

Ngoài ra, một điểm khác biệt khác của các DNKH&CN Việt Nam khác so với các nước khác đó là các DNKH&CN hoạt động trên một thị trường khoa học và cộng nghệ chưa phát triển. Vì thế mà nội lực doanh nghiệp yếu (do đặc điểm về quy mô) kết hợp với các khó khăn liên quan đến thị trường KH&CN khiến cho số lượng các DNKH&CN của Việt Nam tăng rất chậm.

Cuối cùng, một lý do nữa khiến cho số lượng các doanh nghiệp có giấy chứng nhận là DNKH&CN (được hưởng ưu đãi và hỗ trợ) ở Việt Nam không phản ánh được số lượng thực của các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình này. Pháp luật liên quan đến DNKH&CN tại Việt Nam chưa đồng bộ và chưa có hướng dẫn cụ thể để giúp đỡ các DN có thể dễ dàng trong thủ tục hưởng hỗ trợ và ưu đãi của Nhà nước, nên nhiều doanh nghiệp dù đủ điều kiện chuyển đổi nhưng đang được hưởng các chính sách ưu đãi theo lĩnh vực hoặc địa bàn khuyến khích đầu tư có lợi hơn, vì vậy không có nhu cầu chứng nhận DNKH&CN.

2.2. Các lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu để xác định các nhân tố tác động tới đổi mới sáng tạo sản phẩm trong doanh nghiệp khoa học và công nghệ

2.2.1. Lý thuyết về đổi mới sáng tạo đóng và mở (close and open innovation)

Ngoài những nguồn lực nội tại, rất nhiều doanh nghiệp giờ đây nhận thức được

tri thức và công nghệ sản sinh bên ngoài doanh nghiệp cũng giữ vai trò rất quan trọng

trong việc duy trì năng lực cạnh tranh của họ trên thị trường toàn cầu. Năm 2003, học

giả người Mỹ Henry Chesbrough chính là người đầu tiên đặt tên cho cơ chế mới này là

“ĐMST mở”. Đây là xu hướng cho rằng các ý tưởng có giá trị có thể đến từ không chỉ

bên trong mà bên ngoài của doanh nghiệp và có thể được phát triển để đưa ra thị trường

theo những con đường bên trong hay bên ngoài ranh giới của doanh nghiệp. Cách tiếp

cận này đánh giá tầm quan trọng ngang nhau của ý tưởng, tri thức và con đường khai

9 Quy định này loại trừ những doanh nghiệp mới thành lập dưới 5 năm.

thác ở bên ngoài so với ý tưởng, tri thức, con đường khai thác nội bộ doanh nghiệp

41

(Chesbrough, 2003, p43). Đồng thời, ông cũng coi ĐMST truyền thống là “ĐMST khép

2.2.1.1. Đổi mới sáng tạo đóng

kín” (ĐMST đóng).

Theo Chesbrough (2003), mô hình ĐMST đóng (khép kín) nở rộ vào đầu thế kỉ

20, theo đó trong đó công ty có một bộ phận R&D chuyên trách (bộ phận R&D nội bộ),

có nhiệm vụ chuyên biệt là thực hiện nghiên cứu ĐMST trong công ty. Đây là đầu não

của mọi hoạt động ĐMST trong doanh nghiệp, kết quả hoạt động của bộ phận này sẽ

quyết định doanh nghiệp có thể cạnh tranh trên thị trường bằng sản phẩm/ công nghệ do

chính họ tạo ra hay không, vì thế doanh nghiệp theo mô hình này thường đầu tư một

phần rất lớn trong ngân sách của họ để phát triển bộ phận R&D chuyên trách và theo

đuổi những chương trình R&D dài hơi. Mô hình này giả định rằng miễn là các doanh

nghiệp đầu tư mạnh mẽ vào hoạt động R&D nội bộ hơn các đối thủ cạnh tranh và bảo

vệ tốt tài sản trí tuệ của mình khỏi việc bị rò rĩ hay “tràn” tri thức ra bên ngoài (spill-

over), họ sẽ có thể ĐMST nhanh hơn và đột phá hơn đối thủ cạnh tranh từ đó đạt được

lợi thế cạnh tranh (Ye & Kankanhalli, 2013).

Cơ chế hoạt động của mô hình ĐMST đóng

Trong mô hình này, bộ phận R&D hoạt động tương đối độc lập với các tổ chức

có chức năng nghiên cứu và phát triển khác như trường đại học, các doanh nghiệp đối

thủ, chính phủ hay các nguồn tri thức khác. Doanh nghiệp phải tự làm hết mọi khâu

trong quá trình nghiên cứu và phát triển, từ tự tạo ra ý tưởng riêng, sử dụng các nguồn

lực của mình để phát triển ý tưởng này bao gồm củng cố ý tưởng, sản xuất, tiếp thị, phân

phối, vv (Chesbrough, 2003).

Cả một quá trình tiêu tốn thời gian và nguồn lực, cùng các rủi ro khi doanh

nghiệp tự thực hiện mọi thứ từ giai đoạn nghiên cứu R đến hết giai đoạn phát triển D.

42

Hình 2.1. Cơ chế đổi mới sáng tạo đóng

Nguồn: Chesbrough (2003)

Hình 1.7 minh họa cơ chế hoạt động của ĐMST đóng. Trong cơ chế này, quá trình ĐMST đi theo một chu trình các bước nhất định, tuyến tính và khép kín. Trước hết, phòng thí nghiệm nghiên cứu nội bộ của công ty đưa ra các ý tưởng, vẽ ra các cơ hội phát triển sản phẩm rất độc lập, bị chi phối bởi rất ít các ràng buộc trừ ràng buộc về chi phí. Những ý tưởng này được đặt trên “kệ” và được giữ kín nghiêm ngặt trong phạm vi của doanh nghiệp. Sau đó, nhóm phát triển lựa chọn trên kệ bảo mật đó những kết quả được cho là phù hợp để triển khai dự án biến kết quả nghiên cứu thành sản phẩm và dịch vụ. Mọi hoạt động triển khai và chế tạo đều được thực hiện trong phạm vi của doanh nghiệp. Lưu ý rằng, việc lựa chọn ý tưởng nào sẽ được nhóm phát triển đánh giá về triển vọng tạo ra lợi nhuận của ý tưởng đó.

Để thực hiện quá trình này, doanh nghiệp cần một đội ngũ các nhà nghiên cứu có trình độ cao làm việc lâu dài trong bộ phận R&D chuyên trách. Tạo cho họ một môi trường thuận lợi để có thể tạo ra các đột phá về trí tuệ và chuyển hoá thành sản phẩm cuối cùng mang lại giá trị thương mại cho doanh nghiệp. Chesbrough gọi những doanh nghiệp vận hành ĐMST theo mô hình này giống như những lâu đài kiên cố bất khả xâm phạm và tự cung tự cấp. Ở trung tâm lâu đài bộ phận R&D chuyên trách là một kho tàng lưu trữ tri thức sâu rộng tích luỹ từ hoạt động nghiên cứu khoa học. Hầu như tất cả hoạt động đều diễn ra phía sau bức tường của lâu đài và những người bên ngoài chỉ có thể nhận ra và ngưỡng mộ những kì quan được tạo ra từ bên trong khi nó được chủ lâu đài giới thiệu ra bên ngoài.

2.2.1.2. Đổi mới sáng tạo mở

43

Đầu thế kỉ 20, môi trường tạo thành tri thức, cụ thể là các trường đại học chỉ tập

trung tạo ra kiến thức khoa học cơ bản và chủ yếu quan tâm đến việc tìm hiểu thế giới

và các quy luật của nó, hay những khám phá khoa học cơ bản ít có tính ức dụng và bỏ qua hay không mấy quan tâm đến các sáng chế ứng dụng có thể áp dụng vào đời sống

sản xuất thực tiễn. Các nhà nghiên cứu hàn lâm không coi việc phát triển công nghệ

khởi nguồn từ các đột phá khoa học mà họ tìm ra trước đó là nhiệm vụ của họ. Nhiệm

vụ này được đẩy sang cho các doanh nghiệp và doanh nghiệp tự thực hiện triển khai,

sản xuất và thương mại hoá những công nghệ mà họ cần. Vì thế ở giai đoạn đó, hầu như

tất cả các doanh nghiệp đều cần phát triển một bộ phận R&D chuyên biệt thực hiện tất

cả các khâu trong chuỗi giá trị.

Tuy nhiên, kể từ cuối thế kỉ 20, sự thay đổi của bối cảnh tri thức đã khiến cho mô

hình ĐMST đóng không còn phù hợp với hầu hết mọi tổ chức. Bối cảnh tri thức thay

đổi như là một hệ quả của hàng loạt những hiện tượng mới như là sự chuyển giao công nghệ và thông tin nhanh chóng và dễ dàng, các tiến bộ công nghệ, khuyếch tán tri thức,

trao đổi dữ liệu điện tử, thị trường toàn cầu, khách hàng toàn cầu (Kozioł-Nadolna & Świadek, 2011). Chesbrough (2003) đã chỉ ra các dấu hiệu nhận biết sự di chuyển của

tri thức giữa các tổ chức. Đầu tiên đó là số lượng bằng sáng chế phân phối lại cho các công ty nhỏ thay vì tập trung ở các công ty lớn như trước đây. Hai là số lượng bằng sáng

chế do tổ chức/ cá nhân người nước ngoài sở hữu tại nước sở tại. Thứ ba đó là tỉ lệ chi

cho R&D ở các công ty quy mô nhỏ hơn tăng lên trong tổng chi cho R&D cả quốc gia.

Thứ tư đó là sự gia tăng của số lượng sinh viên tốt nghiệp Đại học và học viên sau đại

học, sự gia tăng này phản ánh đầu tư của xã hội vào phát triển nguồn nhân lực, là nguyên

liệu thô để phát hiện và phát triển các ý tưởng.

Khái niệm ĐMST mở đã được đề cập đến nhiều trong các nghiên cứu học thuật

hay các hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, Henry Chesbrough là học giả đầu tiên đề cập tới khái niệm này trong cuốn sách có tựa đề: “Open Innovation: New Imperative for creating and and Profiting from Technology”. Cách tiếp cận này khác với ĐMST đóng, đó là đề cao tầm quan trọng của cả các ý tưởng đến từ bên ngoài và con đường bên ngoài để tiếp cận thị trường ngang bằng với viết phát triển ý tưởng và các con đường từ bên trong. Ông định nghĩa rằng “ĐMST mở là một mô hình giả định rằng khi các

công ty tìm cách thúc đẩy công nghệ của họ, công ty có thể và nên sử dụng các ý tưởng từ bên ngoài và cả bên trong, đồng thời đi theo cả các con đường bên trong và bên

ngoài để tới các thị trường” (Chesbrough, 2003, tr xxiv).

44

Kể từ sau công trình của Chesbrough (2003), các học giả đã điều chỉnh và mở

rộng khái niệm ban đầu về ĐMST mở, ngay chính bản thân Chesbrough cũng điều chỉnh

định nghĩa ban đầu của ông trong các nghiên cứu về ĐMST mở sau này. Định nghĩa đầu

tiên cho thấy rằng ý tưởng có giá trị có thể đến từ bên trong hay ngoài công ty và có thể

phát triển thành kết quả ĐMST theo những con đường bên trong hoặc bên ngoài. Nói

cách khác, quan niệm này đã đặt các ý tưởng bên ngoài và con đường bên ngoài tiếp cận

thị trường ngang hàng với mức độ quan trọng dành cho các ý tưởng và con đường bên

trong. Ba năm sau, Chesbrough (2006, tr 1) đã điều chỉnh lại và nhấn mạnh vào tính chủ

động trong quản lý các luồng tri thức ra và vào doanh nghiệp: “ĐMST mở là việc sử

dụng có mục đích những luồng tri thức từ bên trong ra và từ bên ngoài vào để thúc đẩy

ĐMST nội bộ và mở rộng thị trường khai thác bên ngoài của kết quả đổi mới sáng tạo”.

Định nghĩa này được cho là chuẩn tắc và có tính liên kết với các nghiên cứu trước đó về

sự lan toả tri thức (“spillover”) (Henry Chesbrough & Bogers, 2014). Trong quá trình

thực hiện hoạt động R&D, doanh nghiệp sẽ không tránh khỏi tạo ra những kết quả không

dự tính trước được, đặc biệt là trong các hoạt động nghiên cứu cơ bản, họ tạo ra rất nhiều

sự lan toả này. Điều này sẽ khiến cho các doanh nghiệp tư nhân e ngại khi đầu tư vào

hoạt động R&D nội bộ, do những kết quả nghiên cứu có thể bị tràn ra ngoài doanh

nghiệp và tạo ra lợi ích miễn phí cho những đối tượng nắm bắt được và khai thác chúng.

Doanh nghiệp coi đây là chi phí khi thực hiện hoạt động R&D. Tuy vậy, việc đầu tư cho

nghiên cứu và phát triển nội bộ vẫn rất cần thiết để có thể giúp doanh nghiệp nâng cao

khả năng hấp thụ và khai thác tốt hơn các công nghệ và tri thức từ bên ngoài (Cohen &

Levinthal, 1990). Khái niệm mới của Chesbrough (2006) đã coi sự tràn tri thức này là

những dòng tri thức di chuyển tự do từ bên ngoài vào và từ bên trong ra cần phải được

quản lý. Doanh nghiệp thay vì coi sự tràn tri thức này là chi phí sẽ chủ định quản lý

những dòng tri thức này. Doanh nghiệp có thể tận dụng những tri thức từ bên ngoài để

phục vụ cho những hoạt động ĐMST của mình, đồng thời có thể chủ động tạo ra những

kênh khai thác cho những tri thức nội bộ không dùng đến, thứ được tạo ra không có chủ

đích và không phù hợp với mô hình kinh doanh của doanh nghiệp, ra bên ngoài cho

những tổ chức khác và thu lợi ích từ những sự khác thác này. Do đó, “những gì không

xác định và không được quản lý” trước đây có thể được “xác định và quản lý” trong

mô hình ĐMST mở (Chesbrough & Bogers, 2014, tr 12).

Gần đây nhất, định nghĩa của ĐMST mở đã được Chesbrough & Bogers (2014)

điều chỉnh để đáp ứng sự quan tâm ngày càng tăng đối với các luồng tri thức phi tiền tệ,

đồng thời với bổ sung cơ chế kết hợp được đề xuất bởi Gassmann & Enkel (2004), định

45

nghĩa năm 2006 đã được mở rộng như sau: “Một quá trình ĐMST phân tán dựa trên các

luồng kiến thức được quản lý có chủ đích xuyên qua các ranh giới của tổ chức bằng

cách sử dụng các cơ chế tiền tệ và phi tiền tệ phù hợp với mô hình kinh doanh của tổ

chức. Những luồng kiến thức này có thể là luồng kiến thức từ bên ngoài đi vào tổ chức,

hay là luồng kiến thức từ tổ chức hướng ra bên ngoài hoặc kết hợp” (Chesbrough và

Bogers, 2014).

Phụ lục 1 nêu tổng hợp chỉ tiết về các khái niệm ĐMST mở trong một số nghiên

2.2.1.3. So sánh đổi mới sáng tạo mở và đổi mới sáng tạo đóng

cứu nổi bật trên thế giới về lý thuyết này.

Mô hình ĐMST mở này đã “mở cửa” mô hình đóng và bao gồm thêm một số

nguồn phi R&D bên ngoài và nội bộ. Ngày này, sự phổ biến và đa dạng của tri thức trên

các nguồn dữ liệu khoa học công khai, các tạp chí và ấn phẩm khoa học công bố trực

tuyến, các nguồn tài nguyên tri thức được đăng tải trên các phương tiện Internet, các

doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận với lượng tri thức khổng lồ mà cần phải một số

tiền không nhỏ để tiếp cận như trước đây.

Sự ra đời của khái niệm ĐMST mở không phủ nhận tầm quan trọng của các hoạt

động R&D nội bộ mà chỉ đưa ra một chiến lược vận hành mới cho các tổ chức doanh

nghiệp để vận động một cách hiệu quả hơn khi mà tất cả các quốc gia đều xuất hiện sự

di chuyển tự nhiên của các dòng tri thức. Các công ty cần tận dụng tối đa yếu tố bối cảnh

này thay vì bám vào những logic hoạt động của cơ chế cũ, phát triển bộ phận R&D

chuyên biệt, lưu trữ tất cả các công nghệ của họ trên giá, và chờ đến khi công ty của

mình cảm thấy chúng phù hợp với chiến lược kinh doanh của mình hoặc tìm được cách

để phát triển chúng.

Logic mới của ĐMST mở thay vì lờ đi những luồng tri thức ở bên ngoài, sẽ khai

thác tối đa sự khuyếch tán của các luồng tri thức này. Nếu trước đây, doanh nghiệp thu

được lợi nhuận từ việc tích trữ công nghệ cho mục đích khai thác và sử dụng riêng, thì

logic mới cho phép họ có thể tận dụng nhiều con đường để thương mại hoá công nghệ

của họ. Hoạt động nghiên cứu sẽ không chỉ còn giới hạn ở việc tạo ra tri thức mới, thực

hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu mà còn bao gồm cả việc đánh giá và tích hợp các tri thức

từ bên ngoài. Thay vì quản lý quản lý tài sản trí tuệ như một cách để không ai có thể sử

dụng công nghệ của doanh nghiệp, quản lý tài sản trí tuệ sẽ là một công cụ để doanh

nghiệp phát triển mô hình kinh doanh mới và hưởng lợi khi đối thủ sử dụng công nghệ

46

của mình. Logic mới này khẳng định rằng: Bạn không cần phải sáng chế ra tri thức khoa

học mới nhất hay tốt nhất để giành chiến thắng trên thị trường, để chiến thắng, bạn cần

sử dụng tối ưu nhất các luồng tri thức bên trong và bên ngoài một cách kịp thời, kết hợp

các tri thức này theo những cách thức khác nhau để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới.

Ví dụ về công ty Intel, được thành lập vào năm 1968, với quy mô phát triển rất

ấn tượng nhưng Intel chỉ bắt đầu một chiến lược R&D chuyên biệt chính thức từ năm

1989. Công ty phụ thuộc gần như hoàn toàn vào nghiên cứu bên ngoài từ khi thành lập

cho đến trước 1989. Ngày nay, mặc dù Intel đã tạo ra khả năng nghiên cứu nội bộ ở một

mức độ nhất định, nhưng chiến lược đầu tư cho R&D bên ngoài của họ vẫn rất đáng chú

ý, họ đánh giá những nguồn R&D có sẵn từ bên ngoài trước khi trước khi tự thực hiện

những nghiên cứu bên trong. Ngoài ra, Intel còn chi hơn 100 triệu đô la tiền tài trợ cho

các dự án nghiên cứu ở Đại học. Công ty cũng theo sát các hoạt động của các công ty

khởi nghiệp trong ngành công nghiệp máy tính và truyền thông, thông qua nhiều phương

tiện khác nhau, từ liên minh không chính thức đến đầu tư mạo hiểm của công ty.

ĐMST mở giúp doanh nghiệp có thể tập trung vào phát triển 1 lĩnh vực, thế mạnh

nhất định thay vì phải làm mọi thứ từ nghiên cứu đến thương mại hoá để cuối cùng có

thể thu được lợi ích kinh tế. Như vậy với cơ chế mới này, các doanh nghiệp khi muốn

tiếp cận những luồng tri thức hữu ích, sẽ không bắt tay vào tạo ra nó mà sẽ nghiên cứu

các tri thức có sẵn ở bên ngoài, tận dụng triệt để các tri thức đó và chỉ đầu tư để tạo ra

rất ít các tri thức mới cần thiết và kịp thời. Trong quá trình nghiên cứu các tri thức từ

bên ngoài, những nhà nghiên cứu của doanh nghiệp sẽ có cơ hội mở rộng và hiểu một

lượng lớn những tri thức khoa học và công nghệ, và hình dung ra làm thế nào để tích

hợp những phát hiện đột phá đó vào trong hệ thống. Bảng dưới đây minh hoạ các quy

tắc đối lập giữa ĐMST mở và ĐMST đóng.

47

Bảng 2.1. Các quy tắc đối lập giữa đổi mới sáng tạo Mở và Đóng

Các quy tắc của ĐMST Đóng

Các quy tắc của ĐMST mở

Những người thông minh trong lĩnh vực công

Không phải tất cả những người thông minh

ty quan tâm thì làm việc cho công ty đó.

đều làm việc cho công ty. Công ty cần làm

việc với những người thông minh bên trong và bên ngoài công ty.

Để thu lợi được từ R&D, công ty phải tự

R&D ngoài có thể tạo ra giá trị lớn; R&D nội

khám phá, phát triển và thực hiện

bộ cũng cần để tạo ra một phần của giá trị đó

Nếu một công ty tự khám phá ra nghiên cứu,

Công ty đó không cần phải là chính người

thì công ty đó sẽ đưa chúng ra thị trường trước tiên

tạo ra nghiên cứu thì mới kiếm được lợi nhuận từ nó

Công ty đưa một ĐMST ra thị trường đầu tiên

Xây dựng một mô hình kinh doanh tốt thì sẽ

thì sẽ thắng lợi

tốt hơn là ra thị trường đầu tiên

Nếu một công ty tạo ra những ý tưởng tốt

Nếu một công ty sử dụng những ý tưởng bên

nhất và nhiều nhất trong ngành công nghiệp, thì công ty đó sẽ chiến thắng

ngoài và nội bộ một cách tốt nhất thì công ty đó sẽ là người chiến thắng

Công ty nên kiểm soát quyền sở hữu trí tuệ

Công ty nên kiếm lợi từ việc người khác sử

của mình, để đối thủ không kiếm lợi được từ

dụng quyền sở hữu trí tuệ của công ty và công

những ý tưởng của công ty.

ty nên mua quyền sở hữu trí tuệ của người khác khi mà nó làm mô hình kinh doanh của

công ty đó tiến bộ

Nguồn: Chesbrough (2003)

d. Cơ chế hoạt động của ĐMST mở

Các nghiên cứu đã chỉ ra nhiều cách tiếp cận và thuật ngữ đa dạng về các cơ chế của hoạt động ĐMST mở. Về cơ bản ĐMST mở được chia làm hai cơ chế: cơ chế hướng vào (inbound/outside - in) và cơ chế hướng ra (outbound/inside-out) (Chesbrough và cộng sự, 2006; Mazzola và cộng sự, 2012). Cơ chế hướng vào là hoạt động tận dụng những khám phá của các cá nhân/tổ chức khác và cơ chế hướng ra là tìm kiếm các tổ chức khác có mô hình kinh doanh phù hợp đối với một công nghệ nhất định. Trong khi đó, Lichtenthaler (2008) đã phân chia hoạt động ĐMST mở thành 02 loại: Tiếp thu công nghệ từ bên ngoài (external technology acquisition) và khai thác công nghệ từ bên ngoài (external technology exploitation). Van de Vrande và cộng sự (2009) đã sử dụng

48

hai thuật ngữ khác là cơ chế “khám phá” (exploration) và cơ chế “khai thác” (exploitation). Tiếp nối xu hướng nghiên cứu về ĐMST mở (Dahlander & Gann, 2010) đã chia nhỏ cơ chế hướng vào (inbound) thành hai loại: tìm kiếm và tiếp nhận, cơ chế hướng ra (outbound) thành hai loại: tiết lộ và bán, các tác giả đã mở rộng ra ĐMST mở không chỉ có khía cạnh chiều di chuyển (hướng ra- hướng vào) mà còn đề cập đến khía cạnh thứ hai đó là khía cạnh tài chính và phi tài chính của các cơ chế. Pisano & Verganti (2008) thì lại phân chia ĐMST mở thành ĐMST mở hoàn toàn (ví dụ như hình thức crowsourcing) và ĐMST mở một phần (ví dụ như những câu lạc bộ riêng tư, nơi mà doanh nghiệp lựa chọn đối tác và các đầu vào mà họ cần). Cũng quan tâm đến số lượng và mạng lưới của các đối tác, Laursen & Salter (2006) đã phát triển hai khái niệm đo lường độ mở (hướng vào) của doanh nghiệp đó là “độ rộng” (breath) và “độ sâu” (depth) của các chiến lược tìm kiếm tri thức bên ngoài.

Nghiên cứu này sẽ tiếp cận các cơ chế của ĐMST mở được đề xuất bởi Gassmann & Enkel (2004) và Chesbrough & Bogers (2014). Đây là các cơ chế được các nghiên cứu về ĐMST mở sử dụng và trích dẫn rộng rãi nhất. Ban đầu, ĐMST mở được phân chia thành 2 cơ chế: hướng vào (outbound/ inside - out) và hướng ra (inbound/ outside-in) (Chesbrough, 2006; Mazzola và cộng sự, 2012). Đổi mở hướng vào (inbound/ outside -in) đề cập đến việc sử dụng nội bộ các tri thức bên ngoài tổ chức từ các đối tác, khách hàng, trường đại học hay các tổ chức nghiên cứu, ĐMST mở hướng ra (outbound/inside- out) đề cập đến việc khai thác bên ngoài các tri thức hình thành bên trong tổ chức, thông qua qua thương mại hoá sáng chế, bán li-xăng, hay bằng các hình thức khác. Bên cạnh hai cơ chế hướng vào và hướng ra thì kể từ sau công trình của Gassmann & Enkel (2004), ĐMST mở bổ sung thêm cơ chế thứ ba, đó là sự kết hợp của cả hai cơ chế truyền thống, thông qua hình thức đối tác, hợp tác, liên minh, liên doanh,...Kể từ khi Gassmann & Enkel lần đầu tiên đề cập tới cơ chế kết hợp, các nghiên cứu sau này đã mở rộng lý thuyết về cơ chế này Chesbrough & Bogers (2014) cũng như đưa ra các thang đo nhằm tìm cách đo lường hay kiểm định các mối quan hệ của ĐMST mở nói chung và cơ chế ĐMST mở kết hợp nói riêng với các biến số khác (Enkel và cộng sự, 2009; Mazzola và cộng sự, 2012; Piller & West, 2014). Ba cơ chế của mô hình ĐMST mở được Chesbrough & Bogers (2014) minh hoạ trong hình dưới đây, ngoài thêm vào hình thức di chuyển kết hợp của tri thức qua ranh giới của doanh nghiệp, các tác giả còn mở rộng mô hình ĐMST từ 2003 (chỉ có nghiên cứu và phát triển) bằng việc thêm vào các giai đoạn sau của quá trình ĐMST (bao gồm sản xuất và marketing) và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân tích tất cả các hoạt động từ tạo thành ý tưởng cho đến thương mại hoá thành công trong quá trình ĐMST mở.

49

Hình 2.2 : Mô hình đổi mới sáng tạo mở

Nguồn: Chesbrough & Bogers (2014)

Đổi mới sáng tạo mở hướng vào

ĐMST mở hướng vào có nghĩa là tổ chức thu thập đầu vào kiến thức và công

nghệ từ các nguồn bên ngoài, như các đối tác, khách hàng, các trường đại học, viện

nghiên cứu, … sau đó lựa chọn để tiếp nhận, hợp nhất với nguồn lực nội bộ và thương

mại hoá kết quả ĐMST ra thị trường hiện tại của doanh nghiệp (West & Bogers, 2014).

Đây là cơ chế ĐMST mở được nghiên cứu phổ biến hơn so với hai cơ chế còn lại (West

và cộng sự, 2014), cơ chế này khuyến khích doanh nghiệp tìm kiếm mở rộng phạm vi

tiềm kiếm ý tưởng, tri thức và công nghệ ra bên ngoài doanh nghiệp. Trên thực tế, trong cơ chế này, các doanh nghiệp sẽ tìm kiếm và bổ sung cho các hoạt động R&D nội bộ kém hiệu quả, tốn kém hoặc rủi ro bằng các nguồn kiến thức, ý tưởng và công nghệ từ bên ngoài. Bảng dưới đây liệt kê một số hình thức của cơ chế ĐMST mở hướng vào:

50

Bảng 2.2. Các hình thức của đổi mới sáng tạo mở hướng vào

STT Hình thức Giải nghĩa

1 Mua quyền sở hữu (purchasing) Mua quyền sở hữu công nghệ (tài sản trí tuệ, sáng chế, bản quyền hay nhãn hiệu) từ các đối tác bên ngoài

li- xăng 2 Mua (Licensing in) Mua quyền sử dụng công nghệ (tài sản trí tuệ, sáng chế, bản quyền hay nhãn hiệu) thông qua trả phí bản quyền cho đối tác bên ngoài

3 Sát nhập (Acquisitions) Sát nhập công ty khác đang sở hữu những công nghệ tiềm năng

4 Thuê ngoài R&D (Outsourcing) Mua dịch vụ R&D từ các tổ chức khác như các trường đại học, viện nghiên cứu, kỹ sư thương mại hoặc nhà cung cấp

5 Đầu tư mạo hiểm (Venture) Đầu tư vào các dự án có triển vọng thông qua đầu tư mạo hiểm (đầu tư mạo hiểm bên ngoài hoặc đầu tư mạo hiểm nội bộ)

O À V G N Ớ Ư H Ở M

6 Người dùng thúc đẩy ĐMST

T S M Đ

Đưa khách hàng tham gia vào các quy trình ĐMST (ví dụ: nghiên cứu thị trường để tìm hiểu nhu cầu của họ hoặc phát triển sản phẩm dựa trên thông số kỹ thuật hoặc đề xuất sửa đổi của khách hàng)

7

Nhà cung cấp/ đối thủ thúc đẩy ĐMST Đưa nhà cung cấp/đối thủ tham gia vào các quy trình ĐMST (ví dụ: nghiên cứu thị trường để tìm hiểu nhu cầu của họ hoặc phát triển sản phẩm dựa trên thông số kỹ thuật hoặc đề xuất sửa đổi của khách hàng)

8 Crowdsourcing

Giao công việc cho một cộng đồng hoặc một nhóm người, thông qua một “lời kêu gọi” để tất cả có thể cùng đóng góp công sức thực hiện công việc đó

9

ĐMST với cộng đồng (communities) Các doanh nghiệp dựa vào các cộng đồng bên ngoài mà qua đó họ thuê ngoài một phần hoạt động sáng tạo (Vd: cộng đồng người sử dụng)

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

51

Đổi mới sáng tạo mở hướng ra

ĐMST mở hướng ra đề cập đến việc khai thác ra bên ngoài các kiến thức, ví dụ

như thông qua việc bán các bằng sáng chế hay trực tiếp cấp phép. Trong quá trình thực

hiện hoạt động R&D, doanh nghiệp thường tạo ra những ý tưởng, tri thức hay công nghệ

ngoài dự tính nhưng lại không được sử dụng do nhiều lý do như không phù hợp với chiến

lược kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp không đủ tiềm lực để tiếp tục phát triển.

Cơ chế này hướng doanh nghiệp từ quan điểm lưu trữ và sử dụng nội bộ các kết quả R&D

nội bộ, luôn phải chịu rủi ro về rò rỉ tri thức sang việc quản lý có mục đích các luồng kiến

thức ra các đối tượng sử dụng ở bên ngoài (Chesbrough, 2006). Khi một doanh nghiệp

khai thác công nghệ theo cơ chế này, có nghĩa là doanh nghiệp cho phép những ý tưởng

và tài sản trí tuệ chưa được sử dụng hoặc tận dụng được đi ra bên ngoài ranh giới của tổ

chức dưới hình thức bán hoặc tiết lộ (Dahlander & Gann, 2010). Các tổ chức sử dụng các

tri thức và nguồn lực này sẽ phải trả cho doanh nghiệp một khoản phí nhất định (đôi khi

rất lớn). Cơ chế này đã nhấn mạnh vai trò của quản lý tài sản trí tuệ nhằm tối đa hóa lợi

nhuận của công ty và các lợi ích phi lợi nhuận khác. Tuy nhiên, so với các nghiên cứu về ĐMST hướng vào, nghiên cứu về ĐMST hướng ra còn hạn chế.

Bảng 2.3. Các hình thức của đổi mới sáng tạo mở hướng ra

STT Hình thức Giải nghĩa

Bán các công nghệ nội bộ (sở hữu trí tuệ; bằng sáng Bán quyền sở hữu chế, bản quyền hoặc nhãn hiệu) ra thị trường để thu lợi 1 (Selling) nhuận tốt hơn từ chúng

Bán quyền sử dung công nghệ (tài sản trí tuệ, sáng chế, Bán li-xăng bản quyền hay nhãn hiệu) cho đối tác bên ngoài khai 2 (Licensing out) thác nội bộ và thu phí bản quyền từ họ

Thực hiện dịch vụ R&D cho các doanh nghiệp khác 3 R&D cho doanh nghiệp khác

A R G N Ớ Ư H Ở M T S M Đ

4 Tạo ra một tổ chức mới dựa trên kiến thức nội bộ và cũng với tất cả sự hỗ trợ từ doanh nghiệp/ công ty mẹ Tách thành công ty con (Spinning out/ spinoff)

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

52

Đổi mới sáng tạo mở kết hợp

Cơ chế kết hợp này tiếp nhận có chủ đích nguồn tri thức hướng vào và giải phóng

có chủ đích tri thức nội bộ ra bên ngoài. Cơ chế này thường do doanh nghiệp hợp tác

với một hay nhiều đối tác khác để có thể quản lý luồng tri thức song song này thông qua

các ranh giới của doanh nghiệp. Sản phẩm của cơ chế kết hợp có thể là kết quả của chia

sẻ ý tưởng hay thương mại hoá.

Về mặt lý thuyết, hình thức kết hợp của ĐMST có thể ghép đôi hai hình thức bất

kì của cơ chế hướng vào và cơ chế hướng ra, tuy nhiên hiện nay chỉ có một vài hình

thức kết hợp phổ biến như sau:

Bảng 2.4. Các hình thức của đổi mới sáng tạo mở kết hợp

STT Hình thức Giải nghĩa

Liên minh chiến lược 1 Tham gia vào các liên minh gồm nhiều doanh nghiệp vì một mục tiêu chung (Strategic alliances) trong dài hạn

Hợp tác phát triển công nghệ với các đối

2 Hợp tác (Cooperation)

tác bên ngoài như trường đại học hoặc các công ty khác

P Ợ H T Ế K Ở M

Thành lập liên doanh hợp tác với các Doanh nghiệp liên doanh 3 doanh nghiệp khác để thương mại hóa

T S M Đ

(Joint venture) công nghệ

Thành lập liên doanh hợp tác với các Liên doanh R&D 4 doanh nghiệp khác để nghiên cứu và phát (Joint R&D) triển

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

2.2.2. Lý thuyết về quan điểm dựa trên thể chế (institutional- based view)

Quan điểm dựa trên thể chế (Institutional-based view - IBV) được phát triển bởi (Peng, 2002) trong lĩnh vực quản lý chiến lược doanh nghiệp dựa trên các phiên bản của

học thuyết thể chế (Institutional theory) của North (1990) và Scott (1995). Từ sau nghiên

cứu của Peng, các nghiên cứu áp dụng lý thuyết IBV là rất nhiều và đa dạng, tập trung chủ yếu trong các chủ đề liên quan đến quản lý chiến lược trong doanh nghiệp. Lý thuyết

IBV cũng được áp dụng trong nhiều nghiên cứu về ĐMST ở cấp độ quốc gia (Lee & Law,

53

2016) hay cấp độ doanh nghiệp như (Caird, 1994; Zhu và cộng sự, 2012; Barasa và cộng

sự., 2017; Saka-Helmhout và cộng sự, 2020; Zhou & Wang, 2020) trong đó nghiên cứu

của Barasa và cộng sự (2017) tập trung làm rõ mối quan hệ của các nhân tố phản ánh thể

chế tới ĐMST sản phẩm tại các quốc gia Đông Phi. 2.2.2.1. Khái niệm thể chế

Nghiên cứu của North (1990, tr.3) đã đưa ra khái niệm thể chế là: “những luật

chơi ở trong xã hội, hay chính thức hơn là những ràng buộc do con người nghĩ ra để

định hình sự tương tác giữa con người với nhau”. Scott (1995, tr 33) đưa ra khái niệm

chi tiết và bao quát hơn, là “các cấu trúc và hoạt động có tính nhận thức, chuẩn mực và

điều tiết nhằm cung cấp sự ổn định và đảm bảo ý nghĩa của các hành vi xã hội”. Davis

& North (1971) định nghĩa khung thể chế là tập hợp các quy tắc cơ bản về chính trị, xã

hội và pháp lý thiết lập cơ sở cho sản xuất, trao đổi và phân phối. Như vậy có thể hiểu

rằng thể chế là những quy tắc hoặc những ràng buộc do con người tạo ra nhằm tạo cơ

chế khuyến khích sự trao đổi, phát triển kinh tế, chính trị, xã hội. Các ràng buộc thể chế bao gồm những điều các cá nhân được phép, không được phép hoặc nên làm.

Để đảm bảo tính thống nhất trong thuật ngữ sử dụng, luận án này sẽ sử dụng định nghĩa về thể chế được sử dụng trong nghiên cứu của Nguyễn Võ Hưng (2003, tr 2). Định

nghĩa này có nguồn gốc từ nghiên cứu của Greif (1997a), trích dẫn trong Ngân hàng Thế giới (2002): “Thể chế là các quy tắc, cơ chế thi hành và các tổ chức”. 2.2.2.2. Thể chế chính thức và phi chính thức

Theo North (1990), thể chế được chia thành 2 loại, bao gồm thể chế chính thức

và thể chế phi chính thức (Formal and Informal Institutions).

Thể chế chính thức là chính sách bằng văn bản, luật pháp và các quy định được

cơ quan quyền lực nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Chúng cũng bao gồm các

quy tắc trong các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội,…Các quy tắc này được

phê chuẩn và áp dụng bởi các tổ chức tư nhân, tổ chức công cộng, và tư nhân hoạt động trong khuôn khổ pháp luật (Nguyễn Võ Hưng, 2003). Trong đó, quy tắc có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, ví dụ như quy tắc chính trị có khả năng tác động tới các quy tắc kinh tế và ngược lại. Bên cạnh đó, các thể chế chính thức thể hiện sự phân cấp rõ rệt: “Từ hiến pháp, luật lệ và luật pháp thông thường, các luật lệ cụ thể, và cuối cùng là các hợp đồng cá nhân” (North, 1990).

Thể chế phi chính thức là các quy tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức và các hiệp

ước, công ước được kí kết tự nguyện. Mặc dù không được ban hành chính thức, nhiều

khi không thành văn, tuy nhiên các quy tắc này được xã hội thừa nhận, tạo thành chuẩn mực văn hóa chung của một doanh nghiệp hoặc quốc gia. Thể chế phi chính thức cũng

54

là một nguồn quan trọng trong xây dựng thể chế chính thức. Đồng thời, đây cũng là

công cụ quan trọng, kết hợp đồng thời với thể chế chính chức để có thể ổn định và duy

trì hoạt động của các tổ chức.

Bảng sau đây so sánh những cách phân loại thể chế của học giả North (1990) và

Scott (1995).

Bảng 2.5: Phân loại thể chế

Các trụ cột Mức độ chính thức Ví dụ (Scott, 1995) (North, 1990)

Điều tiết Quy định, quy chế (regulations) Các thể chế chính thức

Luật (laws)

Quy tắc (rules)

Chuẩn mực (norms)

Các thể chế phi chính thức Chuẩn hoá Nhận thức Văn hoá (cultures)

Đạo đức (ethics)

Nguồn: Peng và cộng sự (2009)

Về cơ bản, thể chế chính thức và phi chính thức đều có vai trò quan trọng trong quản lý, kiểm soát và định hướng các hành động của con người. Trong đó đặc biệt nhấn

mạnh rằng, hai loại thể chế có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Các thể chế không chính

thức đôi khi là kết quả của các thể chế chính thức và ngược lại. 2.2.2.3. Mối quan hệ của thể chế và đổi mới sáng tạo

Theo Edquist & Johnson (1997) thì mối quan hệ của thể chế và ĐMST tồn tại

một cách hiển nhiên ở nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm ở cấp doanh nghiệp khi mà thể

chế ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa hoạt động NC&PT, sản xuất và marketing, và kết quả là tác động trực tiếp hay gián tiếp đến ĐMST của doanh nghiệp. Trong mối quan hệ với đổi mới sáng tạo, thể chế có một số chức năng đặc điểm như sau:

- Chức năng cơ bản nhất của thể chế là làm giảm sự bất ổn về hành vi của mọi người thông qua việc cung cấp thông tin và kiểm soát số lượng thông tin cần thiết. Các hoạt động đối mới sáng tạo thì bị chi phối rất nhiều bởi sự không chắc chắn và thể chế góp phần làm giảm sự không chắc chắn này thông qua việc cung cấp thông tin.

- Quản lý tranh chấp và hợp tác: Thể chế sẽ góp phần kiểm soát và điều tiết

những cuộc tranh chấp hay mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân hay giữa các nhóm

người và giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác.

55

- Cung cấp động lực: Thể chế có thể cung cấp những động lực khác nhau để tổ

chức thực hiện quá trình đổi mới sáng tạo. Có thể là động lực tài chính như là các chương

trình lương, thưởng, ưu đãi về thuế... để giúp cho các doanh nghiệp có thể có sự tích luỹ

hay tiếp cận tài chính đầu tư cho những hoạt động đổi mới sáng tạo, từ đó ảnh hưởng

đến kết quả ĐMST. Động lực cũng có thể phi tiền tệ như được đảm bảo quyền sở hữu

trí tuệ đối với tri thức và ý tưởng (bao gồm những luật và quy định liên quan đến sáng

chế, bản quyền tác giả, nhãn hiệu,..) cũng là những động lực quan trọng vì chúng tạm

thời tạo ra sự độc quyền về tri thức và công nghệ, cho phép những doanh nghiệp có cơ

sở để thực hiện cho cho thuê công nghệ tạm thời và cũng ảnh hưởng đến việc khuyếch

tán tri thức.

Nghiên cứu này sẽ dựa trên cách tiếp cận của Barasa và cộng sự (2017) để làm

rõ rác động của thể chế, đặc biệt là các thể chế chính thức đến khả năng tạo thành ĐMST

sản phẩm trong các doanh nghiệp. Barasa lập luận rằng việc sở hữu nguồn lực cạnh

tranh hiếm có giá trị, khó bắt chước hay không thể thay thế sẽ khiến cho doanh nghiệp

dễ dàng đạt được ĐMST nhưng điều này còn phụ thuộc vào môi trường thể chế của

doanh nghiệp. Những thể chế đúng đắn sẽ có thể kích thích được những hành vi ĐMST

của doanh nghiệp và ngược lại. Thể chế có thể làm giảm chi phí giao dịch (transaction

costs) và sự không ổn định cũng như giải phóng quan hệ hợp tác giữa các chủ thể kinh

tế. Kaufmann và cộng sự (2011) đã chỉ ra chất lượng thể chế bao gồm: (1) Quá trình

một chính phủ được lựa chọn, giám sát và thay đổi, (2) Năng lực của chính phủ trong

việc xây dựng và thực thi các chính sách, (3) Các tương tác kinh tế và xã hội giữa Chính

phủ và nhân dân. Vì thế mà môi trường thế chế có thể có tác động một cách đa chiều

đến xu hướng ĐMST của doanh nghiệp. Ví dụ như sự yếu kém trong thực thi quyền sở

hữu trí tuệ và không đăng ký quyền sở hữu trí tuệ có thể là những rào cản rất lớn cho

doanh nghiệp tiến hành đổi mới sáng tạo.

2.3. Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu

2.3.1. Mô hình nghiên cứu đề xuất

2.3.1.1. Biến phụ thuộc và các biến độc lập

a. Biến phụ thuộc

Biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu của luận án này là ĐMST sản phẩm

trong các DNKH&CN Việt Nam, đầy đủ là các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình

DNKH&CN.

56

Khái niệm ĐMST sản phẩm được tham khảo từ các cuốn sổ tay Oslo (Oslo

Manual) (2005, 2018) về việc thu thập và diễn giải các dữ liệu đổi mới công nghệ để

phục vụ cho mục đích đo lường các hoạt động khoa học, công nghệ và ĐMST. Theo

đó, ĐMST sản phẩm theo (OECD, 2005) đề cập đến “ là việc giới thiệu các sản phẩm

mới/ hoặc được cải tiến đáng kể về mặt đặc điểm cũng như công năng sử dụng so với

các sản phẩm hiện có”. Nó bao gồm sự sự cải tiến đáng kể về đặc điểm kĩ thuật, thành

phần, chất liệu, phần mềm, sự thân thiện với người dùng hay các đặc điểm chức năng

khác. Sản phẩm ở đây là bao gồm cả hàng hoá và dịch vụ. OECD/Eurostat (2018) đã

cập nhật thêm rằng sản phẩm được coi là sản phẩm ĐMST khi nó mới hoặc được cải

tiến khác biệt đáng kể so với hàng hóa/dịch vụ trước đây doanh nghiệp đã giới thiệu

trên thị trường.

Nghiên cứu quyết định sử dụng định nghĩa này với lý do đây là định nghĩa đã

được áp dụng rộng rãi trong rất nhiều các quốc điều tra về ĐMST trong doanh nghiệp

trên thế giới và tại Việt Nam. Ví dụ, như tại Châu Âu, điều tra ĐMST cộng đồng

(Community Innovation Survey - CIS) thực hiện điều tra khảo sát về ĐMST trong các doanh nghiệp đã được thực hiện kể từ năm 2008. Cuộc khảo sát hiện được thực hiện hai

năm một lần trên khắp các Quốc gia thành viên EU, một số nước EFTA và các nước ứng cử viên của EU. Các khái niệm và phương pháp luận cơ bản của CIS cũng dựa trên sổ tay Oslo (1997, 2005)10. Dữ liệu từ các quốc điều tra của CIS được sử dụng rất nhiều trong các nghiên cứu kinh điển về ĐMST bao gồm (Laursen & Salter, 2006; Backer và

cộng sự, 2008; Herstad và cộng sự, 2008; Schroll & Mild, 2011; Ladd, 2012). Tại Việt

Nam, điều tra về ĐMST được thực hiện từ năm 2014 - 2016 do Cục thông tin KH&CN

Quốc gia, Bộ KH&CN thực hiện cũng đã sử dụng cơ sở lý luận và phương pháp điều

tra hướng dẫn theo Sổ tay Oslo 2005.

Nghiên cứu của Becheikh và cộng sự (2006) chỉ ra rằng trong các nghiên cứu

liên quan đến đổi mới, tỉ lệ các nghiên cứu tập trung vào ĐMST sản phẩm là rất lớn. Cùng với đổi mới quy trình, ĐMST sản phẩm chiếm đến khoảng hơn 80% các nghiên cứu. Tuy nhiên đứng dưới góc nhìn của những nhà quản lý, ĐMST sản phẩm vẫn được quan tâm hơn cả (Linder và cộng sự, 2003). Nghiên cứu này sẽ giới hạn phạm vi nghiên cứu kết quả ĐMST lại và chỉ tập trung vào ĐMST sản phẩm, vì đây là loại hình kết quả ĐMST phổ biến nhất trong mẫu của nghiên cứu này. Hướng tiếp cận tương tự cũng được

10 Xem thêm về CIS tại: https://ec.europa.eu/eurostat/cache/metadata/en/inn_cis2_esms.htm

tìm thấy trong nghiên cứu của Romijn & Albaladejo (2002). Ngoài ra, do khách thể nghiên cứu là các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam, việc hình thành

57

ĐMST sản phẩm được coi là điều kiện bắt buộc của doanh nghiệp để có thể duy trì được

giấy chứng nhận và thụ hưởng các ưu đãi, hỗ trợ tài chính từ Chính phủ. Thêm vào đó,

việc phát triển sản phẩm mới sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể đạt được lợi thế cạnh

tranh và liên quan trực tiếp đến năng suất cũng như sự tồn tại của doanh nghiệp trong

dài hạn, dù là doanh nghiệp lớn hay doanh nghiệp nhỏ. Trong rất nhiều ngành công

nghiệp, các mục tiêu về tăng trưởng và lợi nhuận phụ thuộc rất lớn vào việc doanh

nghiệp có hay không ĐMST sản phẩm.

Dựa theo đặc tính của các nhân tố tác động, nghiên cứu này sẽ dựa theo công

trình của Edison và cộng sự (2013) và Becheikh và cộng sự (2006) để phân loại các

nhân tố thành hai nhóm: (1) Nhóm các nhân tố bên trong (phản ánh đặc trưng của doanh

nghiệp và thuộc sự kiểm soát của doanh nghiệp có tác động đến năng lực đổi mới sáng

tạo của doanh nghiệp) và (2) nhóm nhân tố bên ngoài (liên quan đến môi trường bên

ngoài, vượt ra khỏi phạm vi kiểm soát của doanh nghiệp).

b. Biến độc lập

Liên quan đến khách thể nghiên cứu lại là các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN mà không phải là chỉ là doanh nghiệp có giấy chứng nhận là DNKH&CN, nghiên cứu đưa ra các lí do sau đây. Thứ nhất, như đã phân tích ở trên về các đặc trưng của DNKH&CN tại Việt Nam, số lượng các doanh nghiệp có giấy chứng nhận là DNKH&CN ở Việt Nam chiếm tỉ lệ nhỏ và không phản ánh được số lượng thực của các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình này. Thứ hai, tác giả muốn suy rộng kết quả nghiên cứu không chỉ dành cho các DNKH&CN có giấy chứng nhận mà còn cả những DNKH&CN tiềm năng, để đem lại giá trị toàn diện hơn cho nghiên cứu. Nghiên cứu không chỉ tìm ra hướng để tăng năng lực cạnh tranh của các DN đã có giấy chứng nhận và duy trì các hỗ trợ và ưu đãi dành cho nhóm đối tượng này mà còn nhằm tìm cách để thúc đẩy các DNKH&CN tiềm năng tiến gần hơn với việc đủ điều kiện nộp hồ sơ xin chứng nhận. Từ đó cũng góp phần đạt mục tiêu của quốc gia về tăng trưởng cả số lượng và chất lượng các DNKH&CN tại Việt Nam. Chất lượng thể hiện ở chỗ với chứng nhận “Doanh nghiệp khoa học và công nghệ”, doanh nghiệp không chỉ được thụ hưởng các ưu đãi và hỗ trợ để phát triển sản phẩm/dịch vụ hiện tại mà còn giúp tập trung nguồn vốn, tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn lực bên ngoài khác và không ngừng tạo ra sản phẩm mới có chất lượng và sức cạnh tranh, góp phần đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế vĩ mô của ngành, địa phương, vùng và quốc gia.

Để xác định các nhân tố nội sinh, nghiên cứu sẽ dựa trên lý thuyết về ĐMST mở được đề xuất bởi Chesbrough (2003) để xem xét mối quan hệ giữa các biến số phản ánh

việc đóng cửa và mở cửa hoạt động của doanh nghiệp đối với môi trường bên ngoài và

58

kết quả ĐMST sản phẩm của doanh nghiệp. Đối với biến số ngoại sinh nghiên cứu sẽ

áp dụng lý thuyết về quan điểm dựa trên thể chế (IBV) được phát triển bởi Peng (2002,

2009) để xem xét tác động của các biến số phản ánh chất lượng thể chế chính thức tới

ĐMST sản phẩm của doanh nghiệp.

Liên quan đến biến số nội sinh, việc lựa chọn lý thuyết đổi mới sáng tạo đóng -

mở để xem xét tác động lên đổi mới sáng tạo sản phẩm vì các lí do sau đây. Thứ nhất,

mối quan hệ của một số biến nội sinh “truyền thống” tác động lên ĐMST sản phẩm vẫn

còn gây nhiều tranh cãi như các đặc điểm về thuộc tính chung của doanh nghiệp (quy

mô, tuổi,..) và vì thế khó có thể đưa ra kết luận chính xác về việc đổi mới sáng tạo chịu

ảnh hưởng bởi đặc trưng nào kể trên. Thứ hai, cả những đặc điểm thuộc tính chung trên

và một số yếu tố khác như mức độ đầu tư cho hoạt động R&D hay đặc điểm của nhà

quản lý/chủ sở hữu doanh nghiệp đều không có sự biến thiên quá lớn trong các

DNKH&CN - khách thể mà nghiên cứu này quan tâm. Đặc trưng của những doanh

nghiệp này đều thường là những DNVVN, gặp phải những hạn chế về nguồn lực của

DNVVN, nhưng mức độ tham gia và đầu tư cho R&D thường cao và cao hơn những doanh nghiệp khác, nhà sáng lập và điều hành doanh nghiệp thường là những người có

tinh thần doanh thương, có trình độ, năng lực và trí tuệ cao. Vì thế mà việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong các DNKH&CN thông qua việc thay đổi các yếu tố đặc trưng này sẽ

chỉ có giới hạn nhất định. Thứ ba, lý thuyết đổi mới sáng tạo mở này vẫn còn đang rất

mới mẻ tại Việt Nam. Theo hiểu biết của tác giả, đây là một trong số ít nghiên cứu thực

nghiệm đề cập đến thuật ngữ “Đổi mới sáng tạo mở” dưới góc độ doanh nghiệp tại Việt

Nam. Trên thực tế, trong số những nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam, thuật ngữ

“Đổi mới sáng tạo mở” đã được đề cập bởi Tăng Duệ Âu (2016) trong nghiên cứu về

chia sẻ tri thức trong các trường Đại học tại Việt Nam dưới lăng kính đổi mới sáng tạo

mở. Các nghiên cứu khác không sử dụng thuật ngữ “Đổi mới sáng tạo mở” nhưng họ

giải quyết một hay một số (không đầy đủ) khía cạnh của cơ chế đổi mới sáng tạo mở với các thuật ngữ như “chia sẻ kiến thức” (Nguyen và cộng sự, 2020; Nguyen và cộng sự, 2020); “Nguồn tri thức nội bộ, khu vực, bên ngoài và cộng tác” (Phung Minh Thu Thuy và cộng sự, 2018), “tiếp nhận công nghệ” (Nguyễn Minh Ngọc, 2016). Thứ tư, trong một vài nghiên cứu trước đây cho rằng việc doanh nghiệp mở cửa để tiếp nhận công nghệ, cộng tác với các bên ngoài hay chia sẻ tri thức lại thuộc về các nhân tố ngoại sinh - các nhân tố mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được, ví dụ như trong nghiên cứu tổng quan của Becheikh và cộng sự (2006), vì thế lý thuyết đổi mới sáng tạo đóng

- mở của Chesbrough lại tiếp cận khác, hàm ý rằng đây là những yếu tố nội sinh và nhấn mạnh vào sự chủ động của doanh nghiệp trong quản lý tri thức, công nghệ và tài sản trí

59

tuệ một cách toàn diện, vì thế mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể kiểm soát được các yếu

tố này để có thể đạt được kết quả đổi mới sáng tạo. Từ các lí do trên đây, việc áp dụng

lý thuyết đổi mới sáng tạo đóng - mở hứa hẹn sẽ mang lại những lý giải mới về vấn đề

nghiên cứu cũng như có sự phù hợp cao đối với các đặc trưng của khách thể nghiên cứu.

Tác giả mong muốn tìm hiểu xem liệu các DNKH&CN của Việt Nam nên tự mình thực

hiện hoạt động đổi mới sáng tạo hay tích cực mở cửa hoạt động đổi mới sáng tạo để có

thể đạt được kết quả đổi mới sáng tạo sản phẩm và nếu nên mở thì mở theo cơ chế nào.

Liên quan đến biến số ngoại sinh, việc lựa chọn lý thuyết quan điểm dựa trên thể

chế (IBV) để xem xét tác động lên ĐMST sản phẩm vì các lí do sau đây. Thứ nhất, lý

thuyết về quan điểm dựa trên thể chế là một lý thuyết rộng, có phạm trù rất lớn, xét trên

nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội, được hình thành một cách chính thức hoặc phi

chính thức bởi các cơ quan nhà nước hoặc cũng có thể là bởi các tổ chức hay tập hợp

các cá nhân. Vì thế lý thuyết này có thể dễ dàng kết hợp với các lý thuyết khác trong

mô hình đánh giá tác động của các yếu tố đến đổi mới sáng tạo sản phẩm. Nói cách

khác, lý thuyết quan điểm dựa trên thể chế sẽ không xung đột với lý thuyết đổi mới sáng tạo đóng - mở. Thứ hai, việc đưa vào mô hình các yếu tố thuộc về thể chế là hết sức cần

thiết trong bối cảnh và vấn đề nghiên cứu hiện tại. Các DNKH&CN vốn là những doanh nghiệp tồn tại và phát triển dựa trên tri thức và công nghệ, vì thế điều hiển nhiên là mỗi

một DNKH&CN đều sẽ phải có sở hữu tri thức, những công nghệ hay bí quyết công

nghệ có tính mới, tuy nhiên việc khai thác và thương mại hoá thuận lợi hay không còn

phụ thuộc vào môi trường thể chế. Thể chế đúng đắn sẽ có thể kích thích được những

hành vi ĐMST của doanh nghiệp và ngược lại. Thứ ba, mặc dù nhiều nghiên cứu đã chỉ

ra các khía cạnh ảnh hưởng của thể chế lên ĐMST cấp độ doanh nghiệp, nhưng các

DNKH&CN Việt Nam vẫn đang thực sự gặp nhiều khó khăn liên quan đến chất lượng

thể chế, đặc biệt là chế chế Nhà nước. Các DNKH&CN này vẫn đang gặp khó khăn trong

2.3.1.2.Đề xuất mô hình nghiên cứu

việc thụ hưởng các chính sách ưu đãi và hỗ trợ từ phía Nhà nước hay là sự yếu kém và chậm chạp trong bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Vì thế, nghiên cứu này vẫn mong muốn khẳng định lại tầm quan trọng của việc hoàn thiện các thể chế nhằm kích thích DNKH&CN đổi mới sáng tạo, đồng thời mang lại được những hiệu ứng lan toả tích cực khác đến thị trường KH&CN và các chủ thể khác tham gia trong thị trường đó.

Luận án này đề xuất mô hình nghiên cứu dựa trên hai lý thuyết đó là lý thuyết ĐMST mở (thể hiện thông qua ba biến số đo lường hoạt động ĐMST mở) và lý thuyết

IBV (thể hiện thông qua biến số hỗ trợ nhà nước và biến số bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ) tác động đến ĐMST sản phẩm của các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình

60

DNKH&CN Việt Nam. Tác giả cũng đưa vào một số biến số kiểm soát phản ảnh đặc

điểm và chiến lược của doanh nghiệp (quy mô, mức độ đa ngành và tính quốc tế hoá).

Liên quan đến việc hình thành nên các biến số độc lập, phần dưới đây sẽ luận

giải thêm về cơ sở hình thành. Các biến số độc lập nội sinh bao gồm 4 biến số: ĐMST

mở hướng vào (OIhuongvao), ĐMST mở hướng ra (OIhuongra), ĐMST mở kết hợp

(OIkethop) và cường độ R&D nội bộ (RDnoibo). Ba biến số đầu được hình thành dựa

trên cơ chế của ĐMST mở được đề xuất bởi Gassmann & Enkel (2004) và Chesbrough

& Bogers (2014). Đây là các cơ chế được các nghiên cứu về ĐMST mở sử dụng và trích

dẫn rộng rãi nhất, đồng thời cũng phản ánh đầy đầy đủ nhất nội hàm của ĐMST mở mới

nhất đề xuất bởi Chesbrough và các cộng sự. ĐMST hướng vào có nghĩa là tổ chức thu

thập đầu vào kiến thức và công nghệ từ các nguồn bên ngoài, như các đối tác, khách

hàng, các trường đại học, viện nghiên cứu, … sau đó lựa chọn để tiếp nhận, hợp nhất

với nguồn lực nội bộ và thương mại hoá kết quả ĐMST ra thị trường hiện tại của doanh

nghiệp. ĐMST mở hướng ra đề cập đến việc khai thác ra bên ngoài các kiến thức, ví dụ

như thông qua việc bán các bằng sáng chế hay trực tiếp cấp phép. ĐMST kết hợp tiếp nhận có chủ đích nguồn tri thức hướng vào và giải phóng có chủ đích tri thức nội bộ ra

bên ngoài một cách đồng thời. Cơ chế này thường do doanh nghiệp hợp tác với một hay nhiều đối tác khác để có thể quản lý luồng tri thức song song này thông qua các ranh

giới của doanh nghiệp. Sản phẩm của cơ chế kết hợp có thể là kết quả của chia sẻ ý

tưởng hay thương mại hoá. Đối với các biến số ngoại sinh, nghiên cứu này đưa vào hai

biến số hỗ trợ nhà nước (Hotronhanuoc) và bảo hộ & thực thi sở hữu trí tuệ (SHTT).

Thể chế là một khái niệm có phạm trù rất lớn, xét trên nhiều mặt của đời sống kinh tế

xã hội và góp phần to lớn vào việc hình thành trật tự xã hội chung của một quốc gia và

hoạt động của các chủ thể kinh tế trong quốc gia đó. Việc sử dụng kết hợp các thước đo

được Barasa và cộng sự (2017) gợi ý với lí do chất lượng thể chế là một khái niệm tiềm

ẩn và cần được đo lường bởi nhiều biến số quan sát. Trong phạm vi của nghiên cứu này, tác giả sẽ tập trung vào các thể chế chính thức của chính phủ trên đây với lí do đây vẫn là hai khía cạnh mà DNKH&CN Việt Nam vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn, khó trong việc thụ hưởng các chính sách ưu đãi và hỗ trợ từ phía Nhà nước và khó khi gặp phải sự yếu kém và chậm chạp trong bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Điều này trở thành rào cản cho ĐMST của các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN này. Chi tiết về giả thuyết tác động của từng biến số sẽ được trình bày cụ thể và chi tiết ở phần tiếp theo.

61

Hình 2.3: Mô hình nghiên cứu đề xuất về các nhân tố tác động tới

đổi mới sáng tạo sản phẩm

Nguồn: Tác giả tổng hợp

2.3.2. Các giả thuyết nghiên cứu

2.3.2.1. Giả thuyết về đổi mới sáng tạo mở hướng vào (OIhuongvao)

ĐMST mở hướng vào có nghĩa là tổ chức thu thập đầu vào kiến thức và công

nghệ từ các nguồn bên ngoài, như các đối tác, khách hàng, các trường đại học, viện nghiên cứu, … sau đó lựa chọn để tiếp nhận, hợp nhất với nguồn lực nội bộ và thương

mại hoá kết quả ĐMST ra thị trường hiện tại của doanh nghiệp (West & Bogers, 2014).

62

Mặc dù các nghiên cứu chỉ ra có nhiều động lực và lý do để một doanh nghiệp

thực hiện các hoạt động ĐMST mở hướng vào như là đạt được sự tăng trưởng về quy

mô hay là doanh thu (Chesbrough & Crowther, 2006) hay những đầu ra phi tài chính

như là sự gia tăng mức độ hài lòng của khách hàng, sự tiếp nhận của tri thức

mới (Lichtenthaler & Frishammar, 2011) tuy nhiên nghiên cứu này sẽ ủng hộ Laursen

& Salter (2006) và Parida và cộng sự (2012) cho rằng động cơ chủ yếu và trực tiếp khi

một doanh nghiệp thực hiện ĐMST mở hướng vào đó chính là đạt được kết quả đổi mới

sáng tạo.

Hoạt động ĐMST mở hướng vào có thể có tác động tiêu cực khi doanh nghiệp

được tiếp cận/tiếp thu với quá nhiều ý tưởng tiềm năng và gặp rắc rối trong việc phân

bổ những nguồn lực của mình để quản lý và sắp xếp thứ tự ưu tiên của các ý tưởng

(Frishammar & Hörte, 2005). Thêm vào đó, việc quá lạm dụng những công nghệ từ bên

ngoài sẽ khiến cho doanh nghiệp xao nhãng trong việc phát triển những kiến thức và kĩ

năng công nghệ quan trọng, làm giảm khả năng cạnh tranh cốt lõi của doanh nghiệp

(Lichtenthaler, 2010). Họ cũng có thể đối mặt với vấn đề liên quan đến thích nghi công nghệ từ bên ngoài (not invented here syndrome) (Katz & Allen, 1982).

Tuy nhiên, đa số các nghiên cứu đều lập luận về mối quan hệ tích cực của ĐMST mở hướng vào và kết quả đổi mới sáng tạo. Parida và cộng sự (2012) chỉ ra việc tìm

kiếm công nghệ và mua công nghệ sẽ có những tác động tích cực đến cả hai loại kết quả

đổi mới, bao gồm kết quả ĐMST đột phá và kết quả ĐMST không đột phá, trong các

doanh nghiệp SMEs. Laursen & Salter (2006) cũng kết luận rằng những doanh nghiệp

mở cửa hơn trong việc tiếp cận các nguồn lực bên ngoài hay các kênh tìm kiếm bên

ngoài thì có khả năng cao hơn để có được kết quả đổi mới sáng tạo. Những doanh nghiệp

thực hiện các hoạt động ĐMST mở hướng vào có thể nắm bắt được những cơ hội từ môi

trường bên ngoài, ý tưởng về sản phẩm mới trên thị trường để phát triển ý tưởng đó

thành sản phẩm/dịch vụ/công nghệ của doanh nghiệp mình. Ngoài ra, trong điều kiện thị trường đối mặt với sự bùng nổ về công nghệ và những sự cạnh tranh khốc liệt của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường khiến cho vòng đời của các sản phẩm hay vòng đời công nghệ trở nên ngắn lại, những doanh nghiệp sử dụng ĐMST mở hướng vào, cụ thể là hoạt động mua các tài sản trí tuệ, với bốn lí do sau đây: (1) Giảm chi phí đầu tư về tài chính, nhân sự và thời gian để phát triển bộ phận R&D nội bộ, (2) Linh hoạt để

nắm bắt các cơ hội tức thì trên thị trường, điều sẽ không thể làm được nếu doanh nghiệp đang tập trung cho một dự án phát triển công nghệ dài hơi; (3) Sử dụng những công

nghệ gần như hoàn chỉnh từ bên ngoài để bổ sung vào quá trình đổi mới nội bộ bên trong doanh nghiệp và nhằm tận dụng các cơ hội trên thị trường (Chesbrough, 2006; Anokhin

63

và cộng sự, 2011); (4) Giúp cho doanh nghiệp có thể phát triển những sản phẩm có độ

phức tạp tương đối dựa trên nền tảng của những công nghệ ngoại sinh đã được thử

nghiệm và chứng minh được tính khả thi (Tao & Magnotta, 2006).

Giả thuyết H1: Hoạt động ĐMST mở hướng vào có tác động tích cực đến khả

2.3.2.2 Giả thuyết về đổi mới sáng tạo mở hướng ra (OIhuongra)

năng ĐMST sản phẩm của DNKH&CN

Để mở cửa hoạt động đổi mới sáng tạo của mình, doanh nghiệp không những

phân vân giữa quyết định “làm hay mua”, tức là có thực hiện hoạt động ĐMST mở

hướng vào không, mà còn phải quyết định xem nên “giữ hay bán” các công nghệ/sản

phẩm của mình (Dittrich & Duysters, 2007). Mặc dù chuyển giao công nghệ ra bên

ngoài không phải là hoạt động cốt lõi của hầu hết các công ty, nhưng một số công ty

tiên phong đã gặt hái được những lợi ích rất lớn từ việc thực hiện hoạt động ĐMST mở

hướng ra. Doanh thu từ hoạt động cấp phép sử dụng tài sản trí tuệ của IBM là hơn 1,2

tỷ đô la vào năm 2004 cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của đổi mới sáng mở hướng ra (Arora và cộng sự, 2002; Chesbrough, 2006).

ĐMST mở hướng ra đề cập đến việc chuyển giao ra bên ngoài các kiến thức hay công nghệ của doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp khai thác công nghệ theo cơ chế

này, có nghĩa là doanh nghiệp cho phép những ý tưởng và tài sản trí tuệ chưa được sử

dụng hoặc tận dụng được đi ra bên ngoài ranh giới của tổ chức dưới hình thức bán hoặc

tiết lộ (Dahlander & Gann, 2010). Tuy nhiên hiện nay các nghiên cứu về ĐMST mở lại

tập trung nhiều hơn vào ĐMST mở hướng vào và ít có sự chú ý đến ĐMST mở hướng

ra (West & Bogers, 2014; Lichtenthaler, 2015). Trên thực tế, những nhà quản lý doanh

nghiệp cũng dường như thoải mái hơn với việc thực hiện các hoạt động ĐMST mở

hướng vào so với thực hiện ĐMST mở hướng ra, đặc biệt là tại các công ty lớn (Davis

& Harrison, 2001; Kline, 2003; Lichtenthaler, 2010). Brunswicker & Chesbrough (2018) trong nghiên cứu về ĐMST mở tại các doanh nghiệp lớp cũng khẳng định rằng ĐMST mở hướng vào được các doanh nghiệp lớn thực hành nhiều hơn là ĐMST mở hướng ra. Bản thân hoạt động ĐMST mở hướng ra chứa đựng nhiều rủi ro tiềm tàng. Những rủi ro này có thể vì doanh nghiệp quyết định chuyển giao những tài sản trí tuệ của họ mà khiến cho đối thủ cạnh tranh hiện tại hay tiềm năng trở nên mạnh hơn, làm lung lay vị thế cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp (Arora và cộng sự, 2002). Đồng thời để thực hiện hoạt động ĐMST mở, các doanh nghiệp cũng phải đối mặt với những thách thức quản lý cao hơn gây ra bởi đặc tính của thị trường công nghệ không hoàn hảo

(Lichtenthaler & Ernst, 2007) cũng như là sự thiếu hệ thống của các quy trình nội bộ

64

chưa thể đáp ứng được yêu cầu của những hoạt động ĐMST mở hướng ra (Lichtenthaler

và cộng sự, 2009). Trong nghiên cứu tổng quan của mình, Greco và cộng sự (2015) đã

chỉ ra sự tương phản đáng ngạc nhiên trong số lượng các nghiên cứu về mối quan hệ

giữa ĐMST mở hướng ra và kết quả ĐMST so với hai cơ chế còn lại. Vì thế hiện nay

chỉ có ít các nghiên cứu tập trung làm rõ mối quan hệ giữa ĐMST mở hướng ra và kết

quả hoạt động của doanh nghiệp nói chung và kết quả ĐMST nói riêng.

Hoạt động ĐMST mở nói chung và ĐMST mở hướng ra nói riêng có thể có các

tác động tích cực và tiêu cực đến kết quả hoạt động (Kline, 2003; Laursen & Salter,

2006; Enkel, 2010; Praest Knudsen & Bøtker Mortensen, 2011). Lichtenthaler (2009)

khẳng định rằng tác động của hoạt động ĐMST mở hướng ra lên kết quả hoạt động cụ

thể là của doanh nghiệp phụ thuộc vào từng tình huống cụ thể của môi trường hoạt động

của tổ chức như là bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (Patent protection), sự thay đổi nhanh

chóng của công nghệ (Technological turbulence), cường độ giao dịch (Transaction rate)

và cường độ cạnh tranh (Competitive intensity).

Tuy nhiên có thể thấy rằng, hiếm có nghiên cứu phân tích mối quan hệ giữa ĐMST mở hướng ra và kết quả ĐMST (Greco và cộng sự, 2015). Kể cả nghiên cứu của

Lichtenthaler (2009) cũng quan tâm đến mối quan hệ của ĐMST mở hướng ra và biến số phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp. Inauen & Schenker-Wicki (2012) là

một trong số các nghiên cứu hiếm hoi về mối quan hệ này và cho thấy các bằng chứng

thức nghiệm về tác động không thống nhất giữa ĐMST mở hướng ra và kết quả đổi mới

sáng tạo. Trong nghiên cứu của Inauen & Schenker-Wicki (2012), các tác giả đã kiểm

định các giả thuyết về mối quan hệ giữa ĐMST mở hướng ra và một loạt các thước đo

kết quả đổi mới sáng tạo, bao gồm: ĐMST quy trình, ĐMST sản phẩm, tỉ lệ doanh thu

từ sản phẩm mới cải tiến/ đổi mới, mức độ đột phá của ĐMST sản phẩm và ĐMST qui

trình. Nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ tích cực của ĐMST mở hướng ra đối với ĐMST

quy trình, tuy nhiên lại không cho thấy tồn tại mối quan hệ với ĐMST sản phẩm.

Vì trong nghiên cứu này biến số đo lường kết quả ĐMST là ĐMST sản phẩm, trong khi mục tiêu mà doanh nghiệp thực hiện ĐMST mở hướng ra là để thu lại được lợi ích về tài chính và các lợi ích phi tài chính khác từ các những ý tưởng, tri thức hay công nghệ ngoài dự tính nhưng lại không được sử dụng do nhiều lý do như không phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp không đủ tiềm lực để tiếp tục phát triển thành sản phẩm. Vì thế mối quan hệ giữa hoạt động ĐMST mở hướng ra và ĐMST sản phẩm trở nên rất yếu. Nghiên cứu này đặt giả thiết như sau.

Giả thuyết H2: Hoạt động ĐMST mở hướng ra không có tác động đến khả năng

ĐMST sản phẩm của DNKH&CN

2.3.2.3. Giả thuyết về đổi mới sáng tạo mở kết hợp (OIkethop)

65

Ngoài thực hiện các hoạt động đối mới sáng tạo mở hướng vào và hướng ra, doanh nghiệp còn có thể thực hiện các hoạt động ĐMST mở kết hợp, tức là cơ chế kết hợp giữa ĐMST mở hướng vào và ĐMST mở hướng ra. Gassmann & Enkel (2004) đã định nghĩa cơ chế ĐMST mở kết hợp là khi cả hoạt động ĐMST mở hướng vào và hướng ra cùng tồn tại thông qua mối quan hệ đối tác, hợp tác, liên minh, liên doanh,…trong hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), chế tạo, sản xuất hay là thương mại hoá sản phẩm. Các hoạt động kết hợp này có thể tạo ra các kết quả khác biệt so với việc doanh nghiệp chỉ thuần thực hiện hoạt động ĐMST mở hướng ra hay ĐMST mở hướng vào.

Việc thực hiện các hoạt động ĐMST mở hướng vào (mua li-xăng, thuê ngoài R&D,…) sẽ khiến các doanh nghiệp phải trả một khoản chi phí đáng kể để có quyền sở hữu và sử dụng các kết quả nghiên cứu từ bên ngoài. Trong khi đó, trong một thỏa thuận hợp tác, doanh nghiệp và đối tác bên ngoài cùng ĐMST và chia sẻ lợi ích. Các nghiên cứu về ĐMST mở chỉ ra rằng các doanh nghiệp hợp tác trong các hoạt động ĐMST để chia sẻ rủi ro kinh doanh, giảm chi phí R&D, khai thác tối ưu các nguồn lực và mở rộng kỹ năng, sau đó nâng cao lợi thế cạnh tranh (Das and Teng, 2000; Garcia Martinez và cộng sự, 2014; Medda, 2020). Nhờ sự hợp tác, các doanh nghiệp sẽ không chỉ tích lũy bộ kỹ năng chuyên biệt từ các đối tác mà còn có thể nâng cao năng lực R&D nội bộ của mình và nắm bắt các phương pháp sản xuất, phân phối hoặc hỗ trợ mới bằng cách cho nhân viên và nhà quản lý R&D nội bộ tiếp cận với kiến thức, công nghệ mới (Kuittinen và cộng sự, 2013). Ngoài ra, Pisano (1990) còn chỉ ra rằng hợp tác có thể giúp các doanh nghiệp vượt mặt các đối thủ cạnh tranh nhờ giúp ngắn thời gian tạo thành kết quả đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, bằng chứng thực nghiệm về tác động thực tế của việc hợp tác R&D đối với kết quả ĐMST của công ty tương đối khan hiếm. Một số ít các nghiên cứu đã tìm thấy tác động tích cực của hợp tác đối với kết quả đổi mới sáng tạo (Klomp & Van Leeuwen, 2001; Monjon & Waelbroeck, 2003; Jajodia & Wijesekera, 2005; Fosfuri & Tribó, 2008; Kuittinen và cộng sự, 2013, Parida và cộng sự, 2012)11

Giả thuyết H3: Hoạt động ĐMST mở kết hợp có tác động tích cực đến khả năng

11 Trong nghiên cứu của Parida và cộng sự (2012), các hoạt động ĐMST mở chỉ được phân chia thành 02 nhóm: ĐMST mở hướng vào và ĐMST mở hướng ra mà không có cơ chế ĐMST mở kết hợp. Vì thế mặc dù nghiên cứu gốc của các tác giả chỉ ra 04 hoạt động của ĐMST mở hướng vào bao gồm: tìm kiếm công nghệ (technology scouting), hợp tác công nghệ theo chiều dọc (vertical technology collaboration), hợp tác công nghệ theo chiều ngang (horizontal technology collaboration) và lựa chọn công nghệ (Technology sourcing), nhưng nghiên cứu này chỉ xếp tìm kiếm công nghệ và lựa chọn công nghệ thuộc về ĐMST mở hướng vào, hai hình thức còn lại của hợp tác công nghệ thực chất là thuộc về cơ chế kết hợp

ĐMST sản phẩm của DNKH&CN

2.3.2.4. Giả thuyết về Cường độ nghiên cứu và phát triển nội bộ (RDnoibo)

66

Hoạt động nghiên cứu và phát triển nội bộ (R&D nội bộ) được thừa nhận là biến

số rất quan trọng quyết định đến khả năng tạo ra kết quả ĐMST của doanh nghiệp. Theo

Cohen & Levithal (1989), R&D có vai trò kép trong sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và tạo ra thành quả ĐMST nói riêng. Thứ nhất là nó góp phần phát triển tiềm lực

bên trong của doanh nghiệp bằng việc tạo ra các ý tưởng, khai thác và chuyển hoá các

tri thức và ý tưởng thành công nghệ, sản phẩm hay quy trình mới. Thứ hai là góp phần

duy trì và tăng khả năng hấp thụ (absorptive capacity) tiếp cận, tìm hiểu cặn kẽ và khai

thác tối đa các tiềm lực của các luồng tri thức từ bên ngoài và thu hút những đối tác hợp

tác đối với doanh nghiệp…Ngoài ra, trong các lĩnh vực công nghệ cao và mới, thực hiện

R&D nội bộ là rất quan trọng bởi doanh nghiệp gần như không thể mua được công nghệ

mới từ môi trường bên ngoài hay từ những đối thủ cạnh tranh và nếu có thể mua được

thì chi phí cũng rất đắt đỏ (Lee, 1995). Mối quan hệ tích cực của R&D nội bộ lên ĐMST

được khởi nguồn từ mô hình ĐMST đóng. Từ những lập luận ở trên đây, nghiên cứu này sẽ giả thuyết như sau:

Giả thuyết H4: Cường độ R&D nội bộ có tác động tích cực đến khả năng ĐMST

2.3.2.5. Giả thuyết về hỗ trợ nhà nước (Hotronhanuoc)

sản phẩm của các DNKH&CN.

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng các chính sách và quy định của chính

phủ có thể tạo điều kiện thức đẩy hay kìm hãm đổi mới sáng tạo. Các quy định và chính

sách hỗ trợ có thể tác động tích cực đến khả năng tạo ra ĐMST của các doanh nghiệp.

Theo Patanakul & Pinto (2014), các hỗ trợ của nhà nước có thể kể đến như: (1) Tạo lập

môi trường kinh doanh thuận lợi cho khu vực tư nhân ĐMST thông qua các chính sách

cắt giảm/ loại bỏ rào cản hay hạn chế: chính sách miễn giảm thuế hay hỗ trợ tài chính,

thúc đẩy hợp tác công tư; (2) Tạo lập nền tảng để đổi mới: thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng, xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo; (3) Thúc đẩy nghiên cứu khoa học; (4) Đào tạo và phát triển nhân lực; (5) Thiết lập mục tiêu cụ thể và rõ ràng. Một loạt các nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra tác động tích cực khi chính sách của chính phủ thúc đẩy một số lĩnh vực nhất định, thay thế nhập khẩu và thúc đẩy quản lý môi trường lần lượt có tác động tích cực đáng kể đến sự ĐMST (Coombs & Tomlinson, 1998; Becheikh và cộng sự, 2006). Tương tự như vậy, hỗ trợ tài chính được cấp bởi các chính phủ, các tổ chức nghề nghiệp hay các tổ chức tài chính dưới dạng trợ cấp, tín dụng hay giải thưởng

sẽ khuyến khích các doanh nghiệp ĐMST nhiều hơn (Caird, 1994; Keizer, Dijkstra, &

Halman, 2001; Souitaris, 2001; Romijn & Albaladejo, 2002; Jaumotte & Pain, 2005).

67

Giả thuyết H5: Hỗ trợ của nhà nước có tác động tích cực đến khả năng ĐMST

2.3.2.6. Giả thuyết về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ (SHTT)

sản phẩm của DNKH&CN

Trong thực tế, có nhiều cách để bảo vệ tài sản trí tuệ. Một lựa chọn là để tài sản trí tuệ được giữ bí mật. Mặc dù tùy chọn này được các doanh nghiệp sử dụng rộng rãi

(Cohen và cộng sự, 2000), nhưng điều này có thể gây ra lãng phí cho toàn xã hội nếu

như những người ĐMST tiềm năng dựa trên kết quả của nghiên cứu của người khác

không thể tiếp cận thông tin cần thiết (Jaumotte & Pain, 2005). Một lựa chọn thay thế

là sử dụng biện pháp bảo hộ chính thức đối với các quyền sở hữu trí tuệ như đăng ký

cấp bằng sáng chế, bản quyền hoặc nhãn hiệu. Cơ chế của việc đăng ký quyền sở hữu

trí tuệ đó là trao cho các nhà sáng chế quyền tạm thời loại trừ những người khác tiếp cận

và sử dụng sáng chế của họ đồng thời cho phép các nhà sáng chế kiếm được tiền từ cho

thuê tài chính (li-xăng) hay bán tài sản trí tuệ nhằm bù đắp cho các khoản đầu tư nghiên

cứu của họ, do đó cung cấp các động lực khuyến khích các nhà sáng chế hay doanh nghiệp tục tục đầu tư vào hoạt động R&D và khuyến khích sự phát triển công nghệ mới.

Bằng chứng về mối quan hệ tích cực giữa việc đăng ký bảo hệ sáng chế với ĐMST sản phẩm có thể chỉ ra trong nghiên cứu của Argente và cộng sự (2020).

Giả thuyết H6: Bảo hộ và thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có tác động tích

cực đến khả năng ĐMST sản phẩm của DNKH&CN

68

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Phương pháp thu thập dữ liệu

3.1.1. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp

Phân tích dữ liệu thứ cấp được sử dụng để rà soát và tổng hợp những thông tin,

tư liệu liên quan đến vấn đề ĐMST, bao gồm ĐMST, ĐMST sản phẩm và các nhân tố

tác động đến ĐMST sản phẩm cùng với thực trạng về DNKH&CN Việt Nam. Nghiên

cứu tài liệu cũng là cách thức đối chiếu, kiểm chứng những phát hiện từ khảo sát thu

thập thông tin sơ cấp từ các DNKH&CN. Nghiên cứu thu thập dữ liệu thứ cấp từ nguồn

như sau:

- Các chính sách của Việt Nam (bao gồm các luật, hướng dẫn thi hành luật, nghị

định, quyết định, thông tư, công văn) về các nội dung liên quan đến hình thành và phát

triển DNKH&CN, hoạt động khoa học và công nghệ, bảo hộ và thực thi quyền sở hữu

trí tuệ, các ưu đãi và hỗ trợ DNKH&CN.

- Báo cáo, ấn phẩm về ĐMST, DNKH&CN và các chủ đề khác liên quan đến nội

dung nghiên cứu được phát hành và cung cấp bởi Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế

Trung ương, Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và công nghệ, Cục thông tin

khoa học và công nghệ Quốc gia, Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp Khoa học

và công nghệ.

- Các bài báo, báo cáo, tạp chí khoa học, đề tài nghiên cứu và các công bố trong

nước và quốc tế về các nội dung nghiên cứu.

- Các phiếu khảo sát thực được thực hiện tìm hiểu thông tin về ĐMST tại các

quốc gia châu Âu (CIS), Ngân hàng thế giới (Enterprise surveys - ES) và Cục thông tin

khoa học và công nghệ quốc gia.

3.1.2. Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp

Nghiên cứu thu thập thông tin sơ cấp thông qua phương pháp điều tra khảo sát bằng bảng hỏi tự điền (Phiếu điều tra). Cụ thể: Nghiên cứu sử dụng phương pháp thu thập thông tin một cách gián tiếp thông qua bảng hỏi tự điền, được gọi là phương pháp anket (hay phỏng vấn viết). Phương pháp này yêu cầu bảng hỏi phải được thiết kế hết

sức chặt chẽ và công phu vì đây là công cụ giao tiếp duy nhất giữa người hỏi và người

trả lời. Điểm mạnh của phương pháp điều tra khảo sát bằng bảng hỏi tự điền là thu thập những thông tin định lượng và có thể triển khai đánh giá trên phạm vi cả nước, số lượng

69

mẫu lớn hơn so với đa số các phương pháp định tính. Tính khách quan và sâu của câu

trả lời cũng được đảm bảo do không có sự tham gia của người điều tra khiến cho người

trả lời sẽ bị tâm lý, có xu hướng che dấu những thông tin nhạy cảm, khó nói. Tuy nhược

điểm của phương pháp điều tra khảo sát bằng bảng hỏi tự điền sẽ phải chấp nhận một

phạm vi sai số nhất định nhưng đây là phương pháp phù hợp trong điều kiện kinh phí

và thời gian có giới hạn thay vì điều tra khảo sát bằng bảng hỏi phỏng vấn trực diện

(Trần Thị Kim Thu, 2011).

Để có thể tiến hành thu thập dữ liệu sơ cấp, nghiên cứu thực hiện một quy trình

3.1.2.1. Hình thành thang đo các biến số

với chi tiết các bước như sau:

ĐMST là một khái niệm phức tạp và bao gồm rất nhiều hoạt động đa dạng với

những thành phần cấu thành khác nhau phản ánh đổi mới sáng tạo. Có rất nhiều thước

đo ĐMST đã được sử dụng, trong đó, R&D và sáng chế là hai thang đo gián tiếp hay

được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây (Becheikh và cộng sự, 2006). Tuy nhiên R&D được cho là thước đo không phản ánh tốt vì thước đo này phản ánh đầu vào của

quá trình đổi mới sáng tạo, nó có thể bao gồm cả những nỗ lực đầu tư cho hoạt động R&D nhưng thất bại, vì thế nó không hẳn sẽ dẫn tới kết quả tạo ra sản phẩm hay quá

trình mới (Flor & Oltra, 2004; Kleinknecht và cộng sự, 2002). ĐMST lại có đặc tính khác nữa đó là nó có thể xuất hiện trong những trường hợp rất đặc biệt hay một cách

tình cờ từ ý tưởng của người sáng tạo. Nếu sử dụng thước đo này thì cũng sẽ thiên lệch

cho các doanh nghiệp lớn với lợi thế về vốn và nhân lực. Thước đo về bằng sáng chế

được cho là đo lường phát minh hay sáng chế thay vì đổi mới sáng tạo. ĐMST vượt xa

hơn sáng chế vì nó phát triển thành một sản phẩm có thể thương mại hoá. Sử dụng thước

đo này sẽ tính cả những sáng chế không được phát triển thành sản phẩm đổi mới sáng

tạo và vì thế sẽ ước lượng cao hơn ĐMST thực tế. Bên cạnh đó việc đăng ký bằng sáng chế cũng không nhất quán giữa các ngành và các quốc gia, do rất nhiều lý do như chi phí cao, thời gian cấp bằng lâu, dễ bị bắt chước,…, nên không phải ĐMST nào cũng được doanh nghiệp đăng ký cấp bằng sáng chế. Vì những hạn chế đã liệt kê ở trên, các nghiên cứu về ĐMST đang dần dần thay thế các thước đo gián tiếp bằng các thước đo mới và trực tiếp hơn ví dụ như số lượng các kết quả ĐMST hay mức độ đột phá của các kết quả ĐMST. Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ sử dụng thước đo được đề xuất bởi

Spithoven và cộng sự (2013). Thước đo này cũng đã được sử dụng trong nhiều nghiên cứu về ĐMST sản phẩm như Frit (1989), De Jong & Vermeulen (2006) và Phùng Minh

Thu Thuỷ và cộng sự (2018). Dựa trên thước đo trên, câu hỏi điều tra đã được điều chỉnh để phù hợp với thuật ngữ hay được sử dụng đối với các DNKH&CN của Việt Nam. Cụ

70

thể, thước đo đổi mới sáng tạo sản phẩm là biến số nhị phân (PI), dựa trên câu hỏi Có/

Không: “DN có đưa ra thị trường sản phẩm mới hình thành từ KQKHCN/ sản phẩm

được cải tiến đáng kể trong năm vừa qua không?”. Đây là biến phụ thuộc chính mà

nghiên cứu sẽ trình bày, phân tích và bàn luận kỹ lưỡng ở chương 04 và chương 05.

Ngoài ra để củng cố thêm việc đánh giá ảnh hưởng của các biến độc lập lên

ĐMST sản phẩm, tác giả cũng sử dụng hai thang đo ĐMST sản phẩm khác được đề xuất

bởi Spithoven và cộng sự (2013), Laursen & Salter (2006) và Parida và cộng sự (2012),

đó là tỷ trọng doanh thu đối với sản phẩm/ dịch vụ mới (RE) hay cải tiến và mức độ

“mới” của sản phẩm/ dịch vụ cải tiến (Radical). Câu hỏi được xây dựng như sau: “Tỷ lệ

doanh thu từ thương mại hoá KQKHCN hay sản phẩm hình thành từ KQKHCN/ sản

phẩm trên tổng doanh thu của doanh nghiệp là?” và “Xin ông/bà cho ý kiến đánh giá

về mức độ “mới” của các sản phẩm mới/ cải tiến đáng kể?”. Phần trình bày về kết quả

chạy các mô hình hồi quy logistic thứ bậc (ordinal logistic regression) này sẽ được nêu

ra ở chương 05.

Chi tiết về các thang đo biến độc lập và kiểm soát được mô tả kỹ trong bảng tổng hợp dưới đây. Việc phân ra các biến số tiềm ẩn thành các biến quan sát được xây dựng

dựa trên việc tổng hợp và điều chỉnh về thang đo của các nghiên cứu thực nghiệm cùng lĩnh vực được công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín và tham khảo từ rất nhiều các phiếu

khảo sát về ĐMST tại các quốc gia châu Âu (CIS), Ngân hàng thế giới (Enterprise

surveys - ES) và Cục thông tin khoa học và công nghệ quốc gia. Quy trình thiết kế nội

dung và hình thức bảng hỏi được trình bày chi tiết tại mục 3.1.2.2. Đối với các biến số

tiềm ẩn của mô hình phản ánh ba cơ chế của ĐMST mở, bao gồm: OIhuongvao,

OIhuongra, OIkethop, nghiên cứu đã xây dựng thang đo dựa chủ yếu trên nghiên cứu

về tác động của ĐMST mở lên kết quả ĐMST, bao gồm của van de Vrande và cộng sự

(2009) nghiên cứu về các doanh nghiệp SME chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công

nghệ cao và là các doanh nghiệp đa quốc gia tại Hà Lan. Hai nghiên cứu của Naqshbandi & Jasimuddin (2018) thực hiện tại chi nhánh của các doanh nghiệp đa quốc gia tại Pháp và Cheng & Huizingh (2014) điều tra các doanh nghiệp dịch vụ tại khu vực Asean, nghiên cứu của Mazzola và cộng sự (2012) về các doanh nghiệp máy móc công nghiệp và linh kiện tại Mỹ. Biến số RDnoibo được tham khảo (có điều chỉnh) từ các nghiên cứu của Lichtenthaler (2008), Lichtenthaler & Ernst (2009), Laursen & Salter (2006),

Schroll & Mild (2011). Biến số quan sát của hai biến tiềm ẩn Hotronhanuoc và SHTT là hai biến số được tác giả xây dựng dựa trên việc tham khảo các câu hỏi được sử dụng

trong các phiếu khảo sát của Cục thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia và tham khảo ý kiến chuyên gia đang làm việc tại Viện nghiên cứu sáng chế và khai thác công

71

nghệ. Các câu hỏi này được xây dựng dựa trên thực tế các hỗ trợ và ưu đãi mà các

DNKH&CN Việt Nam đang được hưởng theo quy định và các khó khăn mà

DNKH&CN gặp phải trong quá trình bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Chi tiết

về tên biến số, diễn giải biến số, câu hỏi quan sát, thang đo và nguồn gốc của thước đo

của tất cả các biến phụ thuộc, các biến độc lập và biến kiểm soát được nêu chi tiết trong

bảng 3.1 ở dưới đây.

72

Bảng 3.1: Thang đo ban đầu các biến phụ thuộc và độc lập của nghiên cứu

THANG ĐO DIỄN GIẢI STT TÊN BIẾN CÂU HỎI NGUỒN GỐC CÂU HỎI BIẾN SỐ

Phụ thuộc

Frit (1989), Spithoven Đổi mới sáng tạo DN có đưa ra thị trường sản phẩm mới hình và cộng sự (2013) , ( De (cid:0)Có 1a PI sản phẩm thành từ KQKHCN/ sản phẩm được cải tiến Jong & Vermeulen, (cid:0)Không đáng kể trong năm vừa qua không? (Biến nhị phân) 2006), Phùng Minh Thu Thuỷ và cộng sự (2018)

(có điều chỉnh)

Thang thứ bậc lệ doanh thu

thương mại hoá từ Tỷ KQKHCN hay sản phẩm hình thành từ Đổi mới sáng tạo RE Spithoven và cộng sự (2013) 1b sản phẩm nghiệp

(có điều chỉnh) (Biến thứ hạng) KQKHCN/ sản phẩm trên tổng doanh thu của doanh là? (cid:0) 0% (cid:0) < 10% (cid:0) 10% - dưới 30% (cid:0) 30%- dưới 50% (cid:0) Khác

73

DIỄN GIẢI THANG ĐO STT TÊN BIẾN NGUỒN GỐC CÂU HỎI BIẾN SỐ CÂU HỎI

Thang thứ bậc

Xin ông/bà cho ý kiến đánh giá về mức độ

(cid:0) Không ĐMST sp Đổi mới sáng tạo sản (cid:0) Mới với doanh

“mới” của các sản phẩm mới/ cải tiến đáng kể

phẩm Laursen & Salter (2006) 1c Radical nghiệp và Parida và cộng sự (Biến thứ hạng) (cid:0) Mới tại Việt (2012) Nam

(cid:0) Mới trên thế giới (có điều chỉnh)

Độc lập

Các nhân tố nội sinh

ĐMST mở hướng vào

2 OIhuongvao

OIhuongvao1. Các đối tác bên ngoài, chẳng hạn như khách hàng, đối thủ cạnh tranh, viện nghiên cứu, chuyên gia tư vấn, nhà cung cấp, chính phủ hoặc trường đại học có liên quan trực tiếp đến tất cả các dự án đổi mới của Thang điểm Likert 1-5 (cid:0) Rất không đồng ý (cid:0) Không đồng ý (cid:0) Phân vân Van de Vrande và cộng sự (2009); Cheng và Huizingh, (2014); Naqshbandi và (Biến tiềm ẩn đo lường thông qua các 05 biến quan sát) doanh nghiệp (cid:0) Đồng ý Jasimuddin, (2018)

(cid:0) Rất đồng ý (Có điều chỉnh)

74

DIỄN GIẢI THANG ĐO STT TÊN BIẾN CÂU HỎI NGUỒN GỐC BIẾN SỐ CÂU HỎI

OIhuongvao2. Tất cả các dự án đổi mới của

doanh nghiệp chúng tôi phụ thuộc rất nhiều

vào sự đóng góp của các đối tác bên ngoài,

chẳng hạn như khách hàng, đối thủ cạnh tranh,

viện nghiên cứu, nhà tư vấn, nhà cung cấp,

chính phủ hoặc trường đại học.

OIhuongvao 3. Doanh nghiệp chúng tôi thường mua các dịch vụ liên quan đến R&D

từ các đối tác bên ngoài (outsource R&D), chẳng hạn như khách hàng, đối thủ cạnh tranh,

viện nghiên cứu, chuyên gia tư vấn, nhà cung cấp, chính phủ hoặc trường đại học

OIhuongvao4. Doanh nghiệp chúng tôi thường mua tài sản trí tuệ, như bằng sáng chế, bản quyền hoặc nhãn hiệu, từ các đối tác bên ngoài để sử dụng trong các dự án đổi mới của

chúng tôi

75

DIỄN GIẢI THANG ĐO STT TÊN BIẾN CÂU HỎI NGUỒN GỐC BIẾN SỐ CÂU HỎI

OIhuongvao5. DN chúng tôi thường xuyên

đầu tư mua cổ phần của các doanh nghiệp non

trẻ/ mới khởi nghiệp hay đầu tư khôi phục tổ

chức khác nhằm tiếp cận được nguồn tri thức

của họ hay để đạt được những sự cộng hưởng

lợi ích khác

OIhuongra1. Doanh nghiệp của chúng tôi

thường xuyên bán giấy phép, chẳng hạn như

bằng sáng chế, bản quyền hoặc nhãn hiệu cho các tổ chức khác để hưởng lợi triệt để hơn từ

ĐMST mở hướng ra những KQKHCN của chúng tôi

3 OIhuongra (Biến tiềm ẩn đo lường thông qua các 05 biến OIhuongra2. Doanh nghiệp của chúng tôi thường xuyên có khoản thu phí bản quyền đến Thang điểm Likert 1-5 (cid:0) Rất không đồng ý quan sát)

(cid:0) Không đồng ý (cid:0) Phân vân Van de Vrande và cộng sự (2009); Cheng & từ các tổ chức khác cho những tài sản trí tuệ mà doanh nghiệp của chúng tôi cung cấp cho họ OIhuongra3. Doanh nghiệp của chúng tôi (cid:0) Đồng ý Huizingh, (2014) luôn tích cực khai thác triệt để mọi khả năng (cid:0) Rất đồng ý (Có điều chỉnh) sử dụng các tài sản trí tuệ của mình để mang

76

DIỄN GIẢI THANG ĐO STT TÊN BIẾN CÂU HỎI NGUỒN GỐC BIẾN SỐ CÂU HỎI

lại lợi ích tốt hơn cho công ty của chúng tôi

OIhuongra4. Doanh nghiệp chúng tôi luôn

coi trọng và tận dụng những sáng kiến và tri

thức của nhân viên kể cả không thuộc bộ phận

nghiên cứu và phát triển

OIhuongra5. Doanh nghiệp chúng tôi thường

thành lập các doanh nghiệp spin-off (doanh nghiệp mới*) để khai thác tốt hơn những

KQKHCN mà mình tạo ra.

*Doanh nghiệp mới có thể được tạo ra từ

doanh nghiệp mẹ, tiếp tục phát triển và thương mại hoá các quyền sở hữu trí tuệ được tạo ra và chuyển giao bởi tổ chức mẹ. Doanh nghiệp mới cũng có thể có chủ sở hữu bên ngoài độc lập với doanh nghiệp mẹ, khai thác quyền sở hữu trí tuệ được doanh nghiệp mẹ cấp phép

77

DIỄN GIẢI THANG ĐO STT TÊN BIẾN CÂU HỎI NGUỒN GỐC BIẾN SỐ CÂU HỎI

OIkethop1. Doanh nghiệp chúng tôi thường

xuyên hợp tác cùng với các tổ chức khác để

tạo ra các đồng sáng chế Thang điểm Likert ĐMST mở kết hợp

OIkethop2. Doanh nghiệp chúng tôi thường 1-5 (Biến tiềm ẩn đo lường 4 OIkethop xuyên tham gia vào các liên minh/ liên doanh (cid:0) Rất không đồng ý thông qua các 03 biến R&D để hợp tác nghiên cứu và phát triển (cid:0) Không đồng ý quan sát)

OIkethop3. Doanh nghiệp chúng tôi thường xuyên tham gia vào các liên minh/ liên doanh (cid:0) Phân vân (cid:0) Đồng ý Mazzola và công sự (2012)

sản xuất để hợp tác sản xuất sản phẩm/ dịch vụ (cid:0) Rất đồng ý (Có điều chỉnh)

(cid:0) Dưới 1% Lichtenthaler (2008),

Cường độ R&D nội bộ

5 RDnoibo Tỷ lệ chi cho hoạt động R&D nội bộ trên tổng doanh thu (cid:0) Từ 1- dưới 3% (cid:0) Từ 3- dưới 5% (cid:0) Từ 5- dưới 10% Lichtenthaler & Ernst (2009), Laursen & Salter (2006), Schroll & Mild (biến số có thang đo khoảng)

(cid:0) Từ 10% trở lên (2011)

Các nhân tố ngoại sinh

6 Hotronhanuoc Hỗ trợ của nhà nước (cid:0)Có Đề xuất của tác giả, H1 Nhà nước có hỗ trợ DN nghiên cứu hình thành kết quả NCKH không?

78

DIỄN GIẢI THANG ĐO STT TÊN BIẾN NGUỒN GỐC CÂU HỎI BIẾN SỐ CÂU HỎI

(Biến nhị phân nhận giá (cid:0)Không được đề cập trong Van

trị bằng 1 nếu DN tiếp de Vrande (2009)

cận được ít nhất 01 trong

các hỗ trợ sau, bằng 0

nếu không nhận được bất

kì hình thức hộ trợ nào)

H2 Nhà nước có hỗ trợ DN xác lập quyền sở hữu trí tuệ không? H3 Nhà nước có hỗ trợ DN trong quá trình thương mại hoá KQKHCN không? H4 Nhà nước có hỗ trợ DN trong quá trình tìm kiếm và mua công nghệ/KQKHCN từ bên ngoài không? H5 Nhà nước có hỗ trợ DN trong quá trình nhận chuyển giao và sử dụng KQKHCN từ bên ngoài không? H6 Nhà nước có ưu đãi DN về thuế thu nhập doanh nghiệp không? H7 Nhà nước có ưu đãi DN về vay vốn tín dụng không? H8 Nhà nước có ưu đãi DN về lãi suất tín dụng không? H9 Nhà nước có ưu đãi DN về tiền thuê đất, thuê mặt nước không?

79

DIỄN GIẢI THANG ĐO STT TÊN BIẾN CÂU HỎI NGUỒN GỐC BIẾN SỐ CÂU HỎI

SHTT1. Doanh nghiệp gặp khó khăn, vướng

mắc về các thủ tục pháp lý đăng ký và xác lập Thang điểm Likert Bảo hộ và thực thi bảo hộ sở hữu trí tuệ ở Việt Nam 1-5 quyền sở hữu trí tuệ SHTT2. Doanh nghiệp thường gặp phải xâm (cid:0) Rất không đồng ý 7 SHTT (Biến tiềm ẩn đo lường phạm về quyền sở hữu trí tuệ (cid:0) Không đồng ý thông qua 4 biến quan SHTT3. Doanh nghiệp gặp khó khăn khi yêu (cid:0) Phân vân sát)

cầu thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam (cid:0) Đồng ý (cid:0) Rất đồng ý Đề xuất của tác giả

Các nhân tố kiểm soát

Quy mô doanh nghiệp

8 Quymo Tổng số nhân lực bình quân của doanh nghiệp

(biến số có thang đo khoảng)

(cid:0) Dưới 10 người (cid:0) Từ 10 – 49 người (cid:0) Từ 50 – 99 người (cid:0) Từ 100 – 199 người (cid:0) Từ 200 người trở lên Lichtenthaler (2008), Keupp (2009)

80

THANG ĐO DIỄN GIẢI STT TÊN BIẾN CÂU HỎI NGUỒN GỐC CÂU HỎI BIẾN SỐ

Mức độ đa dạng ngành

(Biến nhị phân, nhận giá

9 Danganh trị bằng 1 nếu DN hoạt DN hoạt động đa hay đơn ngành?

(cid:0) Đơn ngành động đa ngành, bằng 0

(cid:0) Đa ngành Lichtenthaler (2008) nếu đơn ngành)

Tính quốc tế hoá (Biến

nhị phân, nhận giá trị

bằng 1 nếu thị trường Thị trường chính (mục tiêu) của doanh 10 Tinhquocte nghiệp

chính của doanh nghiệp là quốc tế, bằng 0 nếu là (cid:0) Trong nước

trong nước) (cid:0) Quốc tế Keupp (2009)

3.1.2.2. Thiết kế nội dung và hình thức bảng hỏi

81

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng quan, cơ sở lý luận và nghiên cứu các dữ liệu

thứ cấp, nghiên cứu này tiến hành xây dựng nội dung và thiết kế bảng hỏi. Sau khi xác

định được khung nghiên cứu, tham khảo các nghiên cứu trước đây về thang đo cho các biến phụ thuộc và độc lập, tác giả tiến hành xây dựng các câu hỏi điều tra. Cơ sở xây

dựng các câu hỏi trong phiếu điều tra dựa trên sự kết hợp của 2 phương pháp: (1) dịch

câu hỏi/ thang đo gốc từ các nghiên cứu quốc tế (có chất lượng và được trích dẫn rộng

rãi) từ tiếng Anh sang tiếng Việt (có điều chỉnh) và (2) tham khảo thang đo từ các cuộc

điều tra khảo sát được thực hiện bởi các tổ chức uy tín trong và ngoài nước như Tổng

cục thống kê của các nước thuộc liên minh châu Âu (CIS - the community innovation

survey), Cục thông tin bộ Khoa học và công nghệ Quốc gia (Phiếu điều tra nghiên cứu

và phát triển khoa học công nghệ năm 2018, Phiếu điều tra tiềm lực KH&CN của các tổ

chức khoa học và công nghệ, phiếu thu thập thông tin về ĐMST trong các doanh nghiệp

năm 2019).

Nội dung của bảng hỏi bao gồm 3 phần:

Phần 1: Giới thiệu ngắn gọn về mục đích, ý nghĩa của cuộc khảo sát cùng thời

lượng dự kiến để điền phiếu khảo sát.

Phần 2: Thu thập dữ liệu về các thông tin liên quan đến ĐMST tại các doanh nghiệp.

Phần 3: Lời cảm ơn của tác giả.

Cụ thể, trong phần 2, bảng hỏi tập trung lượng hóa 9 nhóm thông tin của các

doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp khoa học công nghệ tại Việt Nam

trong năm 2019 bao gồm: thông tin cơ bản; thông tin về kết quả khoa học và Công nghệ

và sản phẩm hình thành từ Kết quả Khoa học và công nghệ; thông tin về hoạt động

ĐMST mở, thông tin về kết quả sản xuất kinh doanh; thông tin về nguồn nhân lực (lao

động) của doanh nghiệp, thông tin về hoạt động nghiên cứu và phát triển; thông tin về tài sản trí tuệ của doanh nghiệp và quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ tại doanh nghiệp; thông tin về hỗ trợ của nhà nước dành cho doanh nghiệp.

Thử nghiệm bảng hỏi là công việc cần thiết trước khi sử dụng bảng hỏi cho cuộc điều tra chính thức, đây là việc kiểm tra nội dung thông tin và tính khả thi của bảng hỏi để tiếp tục sửa chữa và hoàn thiện bảng hỏi cho phù hợp hơn và có tính khả thi cao hơn. Nội dung của việc thử nghiệm bảng hỏi là để kiểm tra sự hiểu biết của đối tượng trả lời

về ý nghĩa của những câu hỏi và thuật ngữ chuyên môn, kỹ thuật điền vào bảng hỏi, thái độ của đối tượng trả lời đối với chủ đề nghiên cứu được nêu ra, sự dễ hiểu, rõ ràng và

82

không đa nghĩa của câu hỏi, sự phù hợp và chính xác về thuật ngữ sử dụng và các đáp

án được liệt kê... Cụ thể, để kiểm tra và tinh chỉnh câu hỏi điều tra, tác giả đã thực hiện

điều tra thí điểm phiếu điều tra với 05 chuyên gia có chuyên môn sâu, kiến thức vững

vàng và có nhiều năm kinh nghiệm tham gia các đề tài và dự án về đổi mới sáng tạo,

trong khoảng thời gian tháng 05 và tháng 06 năm 2020, bao gồm:

• TS. A, phòng Ươm tạo và phát triển doanh nghiệp KH&CN, Cục Phát triển thị

trường và doanh nghiệp KH&CN, Bộ Khoa học và Công nghệ.

• TS. B, giám đốc một doanh nghiệp có giấy chứng nhận là doanh nghiệp khoa

học và công nghệ.

• Ông C, Quỹ phát triển KH&CN Nafosted.

• TS. D, phòng tài trợ đề tài, hoạt động đổi mới công nghệ, Quỹ Đổi mới công

nghệ Quốc gia Natif.

• TS. E, Viện Nghiên cứu sáng chế và Khai thác công nghệ.

Những góp ý của chuyên gia sau khi làm và trao đổi về phiếu điều tra được thu âm và/hoặc ghi chép lại. Dựa trên những phản hồi của chuyên gia, phiếu điều tra được

điều chỉnh để sẵn sàng cho điều tra chính thức vào tháng 08 năm 2020.

Nghiên cứu quyết định sẽ thu thập dữ liệu dựa trên cả bản cứng phiếu điều tra và

thông qua công cụ khảo sát trực tuyến. Bản cứng phiếu điều tra được thiết kế bằng ứng

dụng Microsoft Word và được lưu trữ các phiên bản điều chỉnh liên tục từ khi bắt đầu

thiết kế vào tháng 04/2020 đến tháng 06/2020. Bước tiếp theo là thiết kế phiếu điều tra

trực tuyến. Tác giả đã sử dụng công cụ khảo sát trực tuyến Qualtrics để khai thác các

tính năng vượt trội về loại và hình thức câu hỏi, logic phân nhánh câu hỏi hoặc bỏ qua

câu hỏi, thiết kế và định dạng font và màu sắc của chữ, cũng như có thể dễ dàng kiểm

tra đối chiếu giữa các giao diện website và điện thoại so với các công cụ Google Form

hay Microsoft Form. Phiếu điều tra sau đó đã được gửi trước đến 13 doanh nghiệp khoa

học và công nghệ thì gặp phải vấn đề đó là các doanh nghiệp có xu hướng bỏ qua các

câu hỏi quan trọng vì 02 lí do: (1) Thiết kế của câu hỏi không thân thiện, (2) Câu hỏi

không để chế độ bắt buộc trả lời. Thiết kế không thân thiện là vì hầu như các doanh

nghiệp sử dụng giao diện điện thoại để trả lời phiếu, đối với những câu hỏi chứa lượng

lớn thông tin ví dụ câu hỏi về hình thức hỗ trợ của nhà nước (cho biến Hotronhanuoc)

thì người trả lời cần phải gạt màn hình sang và như vậy gây khó khăn và mất thời gian

cho việc đọc câu hỏi đồng thời điền thông tin. Vì vậy, để giảm tối đa tỉ lệ thiếu dữ liệu

sau này, tác giả đã thiết kế lại hình thức của câu hỏi trên cả giao diện website và di dộng

để đảm bảo thân thiện cho người điền phiếu, các câu hỏi được thu hẹp chiều ngang để

83

hiện thị trên một màn hình mà không cần gạt sang bên, góp phần để thời gian trả lời

phiếu được rút ngắn lại. Đồng thời, tác giả để chế độ bắt buộc trả lời đối với tất cả câu

hỏi về những biến số quan trọng của nghiên cứu. Sau đó bản cứng cũng được thiết kế

lại để thống nhất hình thức với bản trực tuyến.

Như vậy, để hoàn chỉnh được phiếu khảo sát, tác giả đã sử dụng 06 tháng từ tháng

04/2020 đến tháng 08/2020. Phiếu điều tra khảo sát có thể được truy cập trực tuyến tại

đường link: http://ucla.qualtrics.com/jfe/form/SV_5jLw1dr10mzduoB hoặc xem thiết

3.1.2.3. Chọn mẫu

kế bản cứng tại phụ lục 2

Thiết kế mẫu điều tra: Để chọn được mẫu khảo sát, nghiên cứu sử dụng phương

pháp chọn mẫu thuận tiện để lựa chọn doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh

nghiệp khoa học và công nghệ. Chọn mẫu thuận tiện là cách chọn trong đó đối tượng

điều tra được lựa chọn một cách tình cờ hoặc thuận tiện, dễ dàng nhất cho người nghiên

cứu thông qua các mối quan hệ gần gũi, quen biết. Dù nhược điểm của phương pháp

này là không đảm bảo được tính đại diện của mẫu nhưng ưu điểm của cách chọn mẫu

này là tiết kiệm được chi phí và thời gian (Lei và cộng sự, 2020). Sau đó kỹ thuật ném

tuyết cũng được sử dụng để có thể tiếp cận được nhiều doanh nghiệp hơn trong phạm vi

quan hệ của những doanh nghiệp đã trực tiếp tiếp cận trước đó. Đối với các phương

pháp chọn mẫu phi ngẫu nhiên, việc xác định quy mô mẫu không dựa vào công thức để

tính toán mà phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người chọn. Một số yếu tố có thể cân

nhắc để lựa chọn quy mô mẫu bao gồm: đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu, kinh phí

cho cuộc điều tra, phương pháp thu thập, kinh nghiệm (Trần Thị Kim Thu, 2011). Vì

thế nghiên cứu này dựa theo lập luận của Long & Freese (2001) để chọn cỡ mẫu ít nhất

là 100 (đạt yêu cầu tối thiểu 100 và gấp 10 lần số lượng tham số ước lượng). Để tránh

những rủi ro phải loại quan sát vì thiếu thông tin, nghiên cứu cố gắng thu thập được ít

nhất 150 phiếu điều tra. Cụ thể, đối tượng điều tra (khách thể nghiên cứu) là: các doanh

nghiệp có giấy chứng nhận là doanh nghiệp khoa học và công nghệ, hoạt động sản xuất

kinh doanh trước thời điểm 01/01/2019 và hiện đang tồn tại. Đối tượng trực tiếp trả lời

phiếu hỏi là cá nhân thuộc bộ máy quản lý hoặc bộ phận nghiên cứu và phát triển của

doanh nghiệp có thể trả lời các câu hỏi trong phiếu điều tra (mỗi doanh nghiệp chỉ có

duy nhất 01 cá nhân đại diện trả lời phiếu). Ngoài ra theo phân tích ở trên, nghiên cứu

tập trung vào các DN hoạt động theo mô hình DNKH&CN, vì thế ngoài các DN được

cấp giấy chứng nhận, nghiên cứu còn tiếp cận đối tượng khảo sát sau:

84

• Doanh nghiệp đang có kế hoạch để xin cấp giấy chứng nhận là doanh nghiệp

khoa học và công nghệ.

• Doanh nghiệp có tiềm năng trở thành doanh nghiệp Khoa học và công nghệ (có

khả năng tạo ra hoặc ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ).

Để có thể gửi được phiếu điều tra cho các doanh nghiệp, tác giả đã sử dụng 03

cách sau đây: (1) Dựa vào danh sách 468 doanh nghiệp có giấy chứng nhận là DN

KH&CN đến cuối năm 2019, tác giả trực tiếp gửi phiếu điều tra trực tuyến đến các

doanh nghiệp có cung cấp địa chỉ email, tuy nhiên cách này đem lại tỉ lệ trả lời thấp do

các doanh nghiệp có xu hướng bỏ qua email của các nhà nghiên cứu cá nhân; (2) Tác

giả nhờ vào phương pháp chọn mẫu thuận tiện (thông qua mối quan hệ quen biết) để có

thể gặp mặt trực tiếp hoặc liên hệ qua điện thoại/email/zalo với một số DN KH&CN,

sau đó nhờ những doanh nghiệp này chuyển phiếu điều tra cho những doanh nghiệp hoạt

động theo mô hình DNKH&CN khác trong mạng lưới quen biết của họ (chọn mẫu ném

tuyết); và (3) nhờ vào quan hệ cá nhân, tác giả đã liên hệ với bà N., trung tâm Đào tạo

và hỗ trợ phát triển thị trường Công nghệ, Bộ Khoa học và công nghệ để trình bày mục

đích nghiên cứu và nguyện vọng được kết nối với các DNKH&CN (chọn mẫu ném

tuyết). Đây là đầu mối liên hệ được lượng lớn các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình

DNKH&CN, theo cách này tác giả thu thập được số lượng tương đối lớn các phiếu điều

tra và có tỉ lệ phản hồi lớn nhất trong ba cách.

Tác giả cố gắng để lấy mẫu có tính đại diện về địa lý. Cụ thể, từ 25/08/2020 –

07/12/2020, nghiên cứu đã thực hiện khảo sát chính thức và thu được 159 phiếu đại diện

cho các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp Khoa học và công nghệ tại

cả 3 khu vực miền Bắc, miền Trung và miền Nam của Việt Nam.

3.2. Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu

3.2.1. Chuẩn bị dữ liệu

Là một công cụ khảo sát trực tuyến, Qualtrics cho phép người dùng có thể tải xuống và sử dụng ngay lập tức bộ dữ liệu mà không cần phải tiến hành nhập dữ liệu. Điểm nổi bật hơn cả, Qualtrics cho phép người dùng tải các dữ liệu xuống dưới nhiều định dạng kết quả, bao gồm định dạng chữ (nguyên thuỷ) hay định dạng số (đã được tự động mã hoá). Phần mềm Excel sau đó được sử dụng để làm sạch cơ bản dữ liệu, loại

những quan sát thiếu quá nhiều điểm dữ liệu. Tác giả kiểm tra từng quan sát (từng phiếu) để kiểm tra dữ liệu thiếu (missing data), kiểm tra những phản hồi bất hợp tác (unengaged

responses) và tìm giá trị ngoại lai (outliers). Tổng số phiếu thu được là 159 phiếu, trong đó có 38 phiếu thiếu nhiều thông tin và bị loại, số phiếu được xử lý làm sạch và mã hoá

85

dữ liệu lần 2 qua phần mềm Stata là 121 phiếu. Sau đó, tác giả kiểm tra lần lượt các biến

(1 biến phụ thuộc và 09 biến giải thích) để tìm dữ liệu thiếu của các chỉ báo / biến số

và kiểm tra Skewness & Kutosis của từng biến. Sau khi làm sạch 2 lần, bộ dữ liệu còn

106 quan sát được sử dụng để đánh giá độ tin cậy Cronbach’s Alpha và phân tích nhân

tố khám phá EFA và hồi quy logistic đa biến. Như vậy tỉ lệ hoàn thành của khảo sát

này là 66,67%. Cụ thể phần xử lý và phân tích dữ liệu như thế nào sẽ được trình bày

ở phần sau.

Để sẵn sàng cho phần xử lý và phân tích dữ liệu, tác giả tiến hành mã hoá (lần 2)

dữ liệu. Do Qualtrics có những nguyên tắc mã hoá riêng để đảm bảo tính chính xác và

nguyên thuỷ của dữ liệu thu thập được. Vì thế dựa vào khung mã hoá (bảng chứa thuyết

minh về những mã hiệu đã được sử dụng trong những trường dữ liệu), tác giả đã tiến

hành mã hoá lại một lần nữa để đảm bảo phù hợp khi sử dụng dữ liệu cho phần chạy mô

hình định lượng.

Ví dụ, đối với câu hỏi về tình trạng doanh nghiệp (câu được Qualtrics mã hoá là

số Q3, A4 là mã tác giả sử dụng trong bản cứng), Qualtrics đã mã hoá tự động lựa chọn là doanh nghiệp khoa học và công “doanh nghiệp có giấy chứng nhận

nghệ (DNKH&CN)” là 4; lựa chọn “Có kế hoạch để xin cấp giấy chứng nhận DNKH&CN” là 5 và lựa chọn “Có tiềm năng trở thành DNKH&CN (có khả năng tạo

ra hoặc ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ)” là 6. Cụ thể như sau:

Q3 A4. Tình trạng của doanh nghiệp:

Có giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ (DNKH&CN) (4)

Có kế hoạch để xin cấp giấy chứng nhận DNKH&CN (5)

Có tiềm năng trở thành DNKH&CN (có khả năng tạo ra hoặc ứng dụng kết quả khoa

học và công nghệ) (6)

Qua Stata, tác giả đã mã hoá lại (recode) lại các giá trị của câu trả lời, với câu trả

lời có giá trị 4,5,6 được mã hoá lại thành 1, 2, 3 tương ứng.

3.2.2. Xử lý và phân tích dữ liệu

3.2.2.1. Thống kê mô tả và đánh giá độ tin cậy của thang đo

Sử dụng phần mềm Stata giúp phân tích thống kê các vấn đề cụ thể như sau:

• Thống kê mô tả tổng quan về các DN tham gia khảo sát

• Thống kê mô tả kết quả ĐMST và các yếu tố bên trong và bên ngoài DN

86

• Phân tích mối tương quan giữa các yếu tố và ĐMST sản phẩm của DN

Đánh giá độ tin cậy của thang đo

Để kết quả của đo lường đạt hiệu quả thì bản thân hệ thống đo lường phải đảm

bảo các yêu cầu bao gồm: độ tin cậy (Reliability - kết quả thu được phải phụ hợp và

tương đương khi sử dụng lặp đi lặp lại cùng một phương pháp đo) và có giá trị (Validity

- Đo đúng cái chúng ta cần đo). Để đánh giá độ tin cậy của việc đo lường hoạt động

ĐMST mở, nghiên cứu này sử dụng hệ số Cronbach’s alpha đối với các biến số sử dụng

nhiều chỉ báo để đo lường bao gồm biến ĐMST mở hướng vào (OIhuongvao), ĐMST

mở hướng ra (OIhuongra) ĐMST mở kết hợp (OIkethop) và biến bảo hộ và thực thi

quyền sở hữu trí tuệ (SHTT). Hệ số Cronbach’s Alpha có giá trị biến thiên trong đoạn

[0,1]. Về lý thuyết, hệ số này càng cao càng tốt (thang đo càng có độ tin cậy cao). Tuy

nhiên điều này không hoàn toàn chính xác. Hệ số Cronbach’s Alpha quá lớn (khoảng từ

0.95 trở lên) cho thấy có nhiều biến trong thang đo không có khác biệt gì nhau, hiện

tượng này gọi là trùng lắp trong thang đo (Nguyễn Đình Thọ, 2013). Cụ thể, các tiêu

chuẩn trong kiểm định độ tin cậy thang đo Cronbach's Alpha:

- Mức giá trị hệ số Cronbach’s Alpha: Theo Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng

Ngọc (2008) thì hệ số Cronbach’s Alpha có giá trị

• Từ 0.8 đến gần bằng 1: thang đo lường rất tốt.

• Từ 0.7 đến gần bằng 0.8: thang đo lường sử dụng tốt.

• Từ 0.6 trở lên: thang đo lường đủ điều kiện.

Ngoài ra Trần Thị Kim Thu (2011, tr 46) cho rằng thông thường các mục đo

được cho là thống nhất đảm bảo chất lượng đánh giá khi hệ số ! ≥ 0,7.

- Nếu một biến đo lường có hệ số tương quan biến tổng Corrected Item – Total

Correlation ≥ 0.3 thì biến đó đạt yêu cầu (Nunnally & Bernstein, 1994).

12 Lưu ý: khi thực hiện phân tích độ tin cậy thang đo Cronbach's Alpha, về mặt số liệu thống kê, chúng ta cần loại biến đang xem xét. Tuy nhiên, việc loại biến quan sát hay không không chỉ đơn thuần nhìn vào con số thống kê mà còn phải xem xét giá trị nội dung của khái niệm. Nếu nội dung của biến có ý nghĩa quan trọng, không nhất thiết chỉ vì để tăng hệ số Cronbach’s Alpha mà loại đi một biến chất lượng.

- Giá trị Cronbach's Alpha if Item Deleted: cột này biểu diễn hệ số Cronbach's Alpha nếu loại biến đang xem xét. Thông thường chúng ta sẽ đánh giá cùng với hệ số tương quan biến tổng Corrected Item - Total Correlation, nếu giá trị Cronbach's Alpha if Item Deleted lớn hơn hệ số Cronbach Alpha thì sẽ loại biến quan sát đang xem xét để tăng độ tin cậy của thang đo.12

3.2.2.2. Phân tích nhân tố khám phá (EFA)

87

Sau đó khi đánh giá độ tin cậy, phân tích nhân tố khám phá (EFA) được sử dụng

để đánh giá giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của từng bộ biến quan sát. Phương pháp

phân tích nhân tố EFA thuộc nhóm phân tích đa biến phụ thuộc lẫn nhau (interdependence techniques), nghĩa là không có biến phụ thuộc và biến độc lập mà nó

dựa vào mối tương quan giữa các biến với nhau (interrelationships). EFA dùng để rút

gọn một tập k biến quan sát thành một tập F (F

của việc rút gọn này dựa vào mối quan hệ tuyến tính của các nhân tố với các biến nguyên

thủy (biến quan sát hay chỉ báo). Trong phân tích nhân tố, nghiên cứu này sẽ sử dụng

phương pháp trích Pricipal Factor (pf) đi cùng với phép xoay Varimax, là cách thức

được sử dụng phổ biến nhất. Đối với số lượng nhân tố, có thể áp dụng một trong hai

phương pháp: xác định từ trước hay sử dụng hệ số Eigen value. Phương pháp xác định

từ trước ở đây là tác giả dựa vào các nghiên cứu tổng quan và cơ sở lý thuyết để chỉ định

số lượng nhân tố cần phân tích. Phương pháp dựa vào Eigen value là chỉ có những nhân tố nào có Eigen value lớn hơn 1 mới được giữ lại mô hình.

Điều kiện để phân tích nhân tố khám phá là phải thỏa mãn các yêu cầu:

- Hệ số tải nhân tố (Factor loading) > 0.513

- 0.5 ≤ KMO ≤ 1: Hệ số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) là chỉ số được dùng để xem

xét sự thích hợp của phân tích nhân tố. Trị số KMO lớn có ý nghĩa phân tích nhân tố là

thích hợp.

- Kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê (Sig. < 0.05): Đây là một đại lượng

thống kê dùng để xem xét giả thuyết các biến không có tương quan trong tổng thể. Nếu

kiểm định này có ý nghĩa thống kê (Sig. < 0.05) thì các biến quan sát có mối tương quan

với nhau trong tổng thể.

13 Theo Hair và cộng sự (2013), factor loading (hệ số tải nhân tố hay trọng số nhân tố) là chỉ tiêu để đảm bảo mức ý nghĩa thiết thực của EFA: • Factor loading > 0.3 được xem là đạt mức tối thiểu • Factor loading > 0.4 được xem là quan trọng • Factor loading > 0.5 được xem là có ý nghĩa thực tiễn

- Phần trăm phương sai toàn bộ (Percentage of variance) > 50%: Thể hiện phần trăm biến thiên của các biến quan sát. Nghĩa là xem biến thiên là 100% thì giá trị này cho biết phân tích nhân tố giải thích được bao nhiêu %.

3.2.2.3. Phân tích hồi quy logistic nhị phân với biến phụ thuộc là biến nhị phân (Binary logistic)

88

Nghiên cứu đã thực hiện khảo sát chính thức với 159 doanh nghiệp hoạt động theo mô hình doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại cả 3 khu vực miền Bắc, miền Trung và miền Nam của Việt Nam. Tuy nhiên, 54 câu trả lời đã không được hoàn thiện với rất nhiều dữ liệu quan trọng bị thiếu, vì thế nghiên cứu này sử dụng mẫu cuối cùng là 106 doanh nghiệp để sử dụng cho phần chạy mô hình định lượng.

Việc sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) thông thường (ở đây gọi là hồi quy xác suất tuyến tính) trong trường hợp này là không phù hợp, có thể cung cấp kết quả sai lệch. OLS và các loại phương pháp bình phương tuyến tính nhỏ nhất khác được sử dụng phổ biến để ước lượng các tham số chưa biết trong mô hình hồi quy tuyến tính, trong đó biến phụ thuộc thường là biến liên tục. Phương pháp ước lượng phù hợp được sử dụng cho các biến phụ thuộc định tính (ví dụ: biến danh mục, biến thứ bậc hay biến nhị phân) được gọi là phương pháp hồi quy logistic (Long & Freese, 2001). Do tính chất nhị phân của biến phụ thuộc, nghiên cứu này sẽ áp dụng hồi quy logit nhị phân14 để kiểm tra các giả thuyết. Biến phụ thuộc là biến nhị phân nhận 1 trong 2 hai giá trị, giá trị 1 nếu các doanh nghiệp ghi nhận ĐMST sản phẩm và 0 khi không có ĐMST sản phẩm nào được ghi nhận trong năm 2019. Hồi quy logistic nhị phân cho phép chúng ta khám phá các yếu tố có ảnh hưởng đến khả năng xảy ra ĐMST sản phẩm như thế nào.

Đặc điểm của mô hình

Công thức tổng quát của phương trình hồi quy logistic:

"!"#!$%$. #$ "!"#!$%$. (1)

#( &'! = )|+!) =

Loga hai vế của (1) ta có mô hình:

-./01 = -2 (.334) = 56 7 9 = :& + :!

Ta lắp các tên cụ thể của các biến phụ thuộc và độc lập vào:

'( )*$+#|-$) #/'( )*$+#|-$)

56 = > = :& + :#. @'AB.2/CD.! + :0. @'AB.2/ED! +

14 Để chạy mô hình hồi quy với biến phụ thuộc là biến nhị phân, các mô hình được phát triển bao gồm: Logit, Probit, Tobit và Tobit có kiểm soát. Hai mô hình phổ biến hơn cả là Logit và Probit (Ngô Văn Thứ & Nguyễn Mạnh Thế, 2019)

:1. @'FG1A.#! + :2. HI2.0J.! + :3. K.1E.2AD2B.L! + :4. MKNN! +

89

:5. OBPQ.! + :4. ID2/D2A! + :5. N02ARB.L1G! + S! + T! (2)

Trong đó:

p : Xác suất để doanh nghiệp có ĐMST sản phẩm (PI =1)

'

p-1: Xác suất để doanh nghiệp không có ĐMST sản phẩm (PI = 0)

#/'

: hệ số odds hay hệ số trội/ chênh, đây là tỉ lệ của xác suất để doanh nghiệp

'

có ĐMST sản phẩm (PI = 1) trên xác suất để doanh nghiệp không có ĐMST sản phẩm

#/'

'

nhận giá trị trong khoảng từ [0,+¥) (PI = 0),

#/'

56 = > : logarit cơ số tự nhiên của tỉ lệ của xác suất để doanh nghiệp có ĐMST

6

sản phẩm (PI = 1) trên xác suất để doanh nghiệp không có ĐMST sản phẩm (PI = 0),

7/6

ln = > nhận giá trị trong khoảng từ (-¥,+¥)

:&: hệ số chặn ( hệ số tự do)

:8: hệ số hồi quy

@'AB.2/CD.! , @'AB.2/ED! , @'FG1A.#!: Các biến độc lập phản ánh hoạt động ĐMST mở của doanh nghiệp, lần lượt là ĐMST mở hướng vào, ĐMST mở hướng

ra, ĐMST mở kết hợp

HI2.0J.! : Biến độc lập phản ánh cường độ nghiên cứu và phát triển nội bộ của

doanh nghiệp

K.1E.2AD2B.L! , MKNN!: Biến ngoại sinh, lần lượt là hỗ trợ nhà nước, bảo hộ

và thực thi quyền sở hữu trí tuệ

OBPQ.! , ID2/D2A!, N02ARB.L1G!: Biến kiểm soát phản ánh quy mô, mức độ đa dạng của ngành/ lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, tính quốc tế hoá của doanh nghiệp

S! : Hiệu ứng cố định (fixed effect) - Tại đây nghiên cứu sử dụng hiệu ứng cố định vùng (Region FE) để kiểm soát những tác động không quan sát được của mô hình và phần nào làm giảm sai lệch do thiếu biến (Omitted variable bias). Region FE bao gồm các biến số nhị phân cho biết doanh nghiệp i có địa chỉ tại miền

Bắc, Trung hay Nam Việt Nam.

T! : Phần dư

90

Ý nghĩa:

Chiều của tác động

Nếu hệ số X9 mang dấu dương thì tăng Y9 sẽ làm tăng khả năng (xác suất) doanh

nghiệp có ĐMST sản phẩm (Z[9 = 1).

Nếu hệ số X9 mang dấu âm thì tăng Y9 sẽ làm giảm khả năng (xác suất) doanh

nghiệp có ĐMST sản phẩm (Z[9 = 1).

6

Độ lớn của tác động

7/6

Nếu Y9 tăng lên một đơn vị thì ln = > tăng X9 lần, hệ số odds thay đổi (] :' -

1)x100%

Lưu ý: Trong mô hình Logistic, ta không giải thích trực tiếp ý nghĩa của X9 như trong hồi quy tuyến tính (OLS) mà giải thích sự thay đổi khả năng xảy ra biến cố của biến phụ thuộc do ảnh hưởng của biến nguyên nhân thông qua tỷ số Odds (odds ratio – là tỉ số của hai hệ số Odds)

Khi Y9= x0 thì khả năng xảy ra biến cố là: Odds (p|Y9 =x0) = G;"$;$<"

Khi Y9 = x0+1 (tức là khi x tăng thêm 1 đơn vị) thì khả năng xảy ra biến cố là:

Odds (p|Y9 = x0+1) = G;"$;'(<"$#)

Như vậy khi tăng x lên 1 đơn vị thì khả năng xảy ra biến cố sau đó sẽ thay đổi so

với trước, sự thay đổi đó được thể hiện qua tỷ số sau:

"("#($(%"#*) "("#($%"

Odds ( p|:' = x0 +1) Odds( p|:'= x0)

= = G;$: gọi là tỷ số Odds (0dds Ratio), hay tỷ số khả năng

Trong mô hình Logistic, chúng ta thường nêu ý nghĩa của Odds Ratio (OR) để phản ánh cho ảnh hưởng của biến nguyên nhân đến sự thay đổi khả năng xảy ra biến cố của biến phụ thuộc nhị phân.

• Nếu biến độc lập là biến số liên tục: OR phản ánh sự thay đổi khả năng xảy ra

biến cố của biến phụ thuộc nhị phân khi thay đổi trị số của biến nguyên nhân.

• Nếu biến độc lập là biến phân loại có nhiều biểu hiện: OR phản ánh sự khác nhau của khả năng xảy ra biến cố biến phụ thuộc nhị phân đối với từng loại hình (so với loại hình tham chiếu).

Phương pháp ước lượng hợp lý cực đại (Maximum Likelihood) được sử dụng để ước lượng phương trình hồi quy logistic (2). Mặc dù cỡ mẫu chỉ là 106 sau khi loại bỏ các quan sát thiếu dữ liệu, mẫu sử dụng vẫn thoả mãn mức tối thiểu 100 quan sát và ít nhất 10 lần số lượng tham số để tránh rủi ro ước lượng (Long & Freese, 2001).

91

Kiểm định độ phù hợp của mô hình

Hồi quy Binary Logistic cũng đòi hỏi đánh giá độ phù hợp của mình, nghiên cứu này đánh giá độ phù hợp của mô hình theo: (1) Các hệ số ^= giả (pseudo ^= ), (2) Chỉ tiêu -2 log likelihood.

Chỉ tiêu -2LL đo lường độ phù hợp tổng quát của mô hình Binary Logistic, thước đo này có ý nghĩa giống như SSE (sum of squares of erorr) đối với mô hình hồi quy đa biến thông thường, nghĩa là càng nhỏ thì càng thể hiện được độ phù hợp cao của mô hình. Giá trị nhỏ nhất mà -2LL có thể đạt được là 0, tương ứng với độ phù hợp hoàn hảo của mô hình.

Các hệ số pseudo ^= cũng được sử dụng để do lường độ phù hợp tổng quát trong mô hình Binary logistic, thước đo này có ý nghĩa giống như hệ số xác định ^= trong mô hình hồi quy đa biến thông thường, nghĩa là càng lớn thì càng thế hiện độ phù hợp cao của mô hình.

Các chỉ số này được sử dụng để đánh giá độ phù hợp giữa mô hình cơ sở (baseline) và các mô hình thêm bớt biến độc lập và biến kiểm soát. Tức là, trong hồi quy logistic, không nêu ý nghĩa của ^= giả như là ^= trong hồi quy tuyến tính (% biến thiên của biến phụ thuộc được giải thích bởi các biến độc lập của mô hình) mà chỉ dùng để so sánh các mô hình khác nhau trên cùng bộ dữ liệu, xem xét theo mô hình nào tốt hơn. Mô hình tốt hơn là mô hình có ^= lớn hơn. Vì sử dụng phần mềm Stata, nên nghiên cứu cũng sử dụng các câu lệnh fitstat để tính toán các hệ số pseudo ^= như Mcfadden ^=, AIC, BIC, Prob > LR c2. Nhìn chung, khi so sánh giữa các mô hình, với các điều kiện khác không thay đổi, mô hình phù hợp hơn là mô hình có pseudo ^= lớn hơn, AIC nhỏ hơn, BIC càng tiến gần về cực âm.

Mức độ phù hợp của mô hình cũng có thể được thể hiện thông qua bảng phân

loại: classification table bằng lệnh estat classification

Lệnh linktest và kiểm định Hosmer – Lemeshow cũng được sử dụng. Kiểm định Hosmer – Lemeshow (lệnh estat gof, group (5) table) đo lường sự tương thích giữa giá trị thực và giá trị dự đoán của biến phụ thuộc, trong trường hợp này mô hình có độ phù hợp cao thì khoảng cách giữa giá trị quan sát và giá trị ước lượng nhỏ, tức là kết quả chấp nhận được là kiểm định có p_value không có ý nghĩa thống kê.

Kiểm định ý nghĩa thống kê của các hệ số ước lượng

Hồi quy Binary logistic cũng đòi hỏi kiểm định giả thuyết hệ số hồi quy khác không. Nếu hệ số hồi quy X9 đều bằng 0 thì tỉ lệ chênh lệch giữa các xác suất sẽ bằng 1, tức là xác suất để sự kiện xảy ra hay không xảy ra như nhau. Tương tự như kiểm định

92

t trong hồi quy đa biến thông thường, với các giả thuyết H0: X9 = 0, đại lượng Wald c2 được sử dụng để kiểm định ý nghĩa thống kê của hệ số hồi quy tổng thể. Câu lệnh để thực hiện kiểm định Wald trong stata là test. Kiểm định LR (likelihood – ratio) sử dụng câu lệnh lrtest cũng được sử dụng. Theo đó kiểm định LR sẽ so sánh các log likelihood của mô hình đầy đủ và các mô hình bớt 1 biến. Chi tiết về thực hiện kiểm định ý nghĩa của hệ số ước lượng đơn lẻ hay kiểm định đồng thời sử dụng câu lệnh test và lrtest được mô tả trong sách của Long & Freese (2001, tr. 200). Chi tiết xem thêm tại phụ lục 3.

Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến

Để xác định xem phương trình có xảy ra ra hiện tượng đa cộng tuyến (các biến độc lập có tương quan tuyến tính chặt chẽ với nhau) hay không, nghiên cứu sử dụng ma trận hệ số tương quan giữa các biến độc lập. Giá trị hệ số tương quan riêng cho từng cặp biến độc lập sẽ là căn cứ cho việc xác định phương trình có xảy ra đa cộng tuyến. Ngoài ra, nghiên cứu cũng sử dụng thêm phương pháp tính toán nhân tố phóng đại phương sai VIF. Công thức tính VIF cho biến độc lập j trong tổng số k biến độc lập là:

= là hệ số xác định trọng phương trình hồi quy của biến độc lập thứ j

`[a> = 1 = 1 − ^>

Trong đó, ^>

theo (k-1) biến độc lập còn lại, như vậy nếu biến độc lập thứ j có tương quan tuyến tính = sẽ gần 1 và do đó VIF của nó sẽ lớn. Nếu chặt chẽ với (k01) biến độc lập còn lại thì ^> VIF lớn, thông thường ngưỡng được sử dụng để đánh giá là 10, có nghĩa phương trình có hiện tượng đa cộng tuyến, có nghĩa là biến độc lập này có tương quan chặt chẽ với các biến độc lập còn lại. Chi tiết xem tại phụ lục 4.

93

CHƯƠNG 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam

4.1.1. Sự hình thành của doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam

4.1.1.1. Sự hình thành của hệ thống chính sách về doanh nghiệp khoa học và

công nghệ Việt Nam

Tại Việt Nam, thuật ngữ doanh nghiệp KH&CN được đề cập lần đầu tiên vào

năm 2004 trong Quyết định số 171/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ. Doanh

nghiệp KH&CN tại Việt Nam sử dụng tên tiếng anh là science & technology enterprises.

Tuy nhiên, khái niệm về doanh nghiệp KH&CN chỉ được bắt đầu được đưa ra cùng với

các quy định về việc thành lập và chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước trong nghị định số 80/2007/NĐ-CP của Chính phủ. Từ trước thời điểm đó, một số biện pháp và

chính sách đã ra đời và tạo điều kiện tiền đề cho sự hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp này:

(1) Tạo điều kiện liên kết Khoa học - công nghệ:

Quyết định 175-CP ngày 29/4/1981 của Chính phủ cho phép tổ chức NC&TK

chuyển giao trực tiếp kết quả NC&TK cho các doanh nghiệp và được nhận thù lao với

giá thoả thuận; Nghị quyết số 51-HĐBT ngày 17/5/1983 của Hội đồng Bộ trưởng quy

định về chuyển một số viện nghiên cứu công nghệ thành doanh nghiệp và cho phép các

viện công nghệ được mở các xí nghiệp vệ tinh phục vụ sản xuất các sản phẩm từ kết quả

NC&TK; Quyết định số 134/HĐBT ngày 31/08/1987 của Hội đồng Bộ trưởng cho phép

các tổ chức KH&CN chủ động mở rộng mọi hình thức liên doanh, liên kết và cho phép các thành phần của đội ngũ nhân lực KHCN được ký các hợp đồng kinh tế và dân sự với các tổ chức KH&CN và các tổ chức khác và cho phép các tổ chức KH&CN được chia sẻ lợi nhuận và quyền được phân phối nguồn thu; Chỉ thị số 199-CT ngày 25/06/1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về hình thành liên hiệp khoa học - sản xuất, khuyến khích các hình thức phối hợp liên kết đa dạng giữa các tổ chức đào tạo, nghiên cứu và sản xuất, và cho phép các nhà khoa học được lập các cơ sở nghiên cứu, thí nghiệm, thực nghiệm của riêng mình.

(2) Cho phép viện nghiên cứu, trường đại học hình thành “doanh nghiệp tựa như

DNKH&CN” (quasi-spin-offs) (Mai Hà và cộng sự, 2015, tr 157)

94

Nghị định 35-HĐBT ngày 28/01/1992 của Hội đồng Bộ trưởng cho phép các cơ

quan NC&TK được tổ chức thành lập các doanh nghiệp trực thuộc hoặc phối thuộc;

Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII khẳng định

“…cho phép các tổ chức KH&CN được tổ chức hoạt động SX-KD các sản phẩm do

mình nghiên cứu ra…”; Quyết định số 68/1998/QĐ-TTg cho phép thí điểm thành lập

doanh nghiệp nhà nước trong các cơ sở đào tạo - nghiên cứu (doanh nghiệp 68); Quyết

định số 214/2005/QĐ-TTg ngày 30/08/2005 của Thủ tướng Chính phủ về khuyến khích

các viện nghiên cứu, trường đại học thành lập hoặc liên kết liên doanh với các tổ chức

trong nước, ngoài nước để thành lập các DNKH&CN.

(3) Khuyến khích hoạt động KH&CN trong các doanh nghiệp: Nghị định số

119/1999/NĐ-CP ngày 18/09/1999 của Chính phủ và văn bản hướng dẫn thi hành; Luật

khoa học và công nghệ số 21/2000-QH10 ngày 09/06/2000 và văn bản hướng dẫn thi

hành, Luật đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005; Luật thuế thu nhập doanh nghiệp

số 09/2003/QH11 ngày 17/06/2003; Nghị định số 122/2003/NĐ-CP về thành lập Quỹ

phát triển KH - CN Quốc gia; Quyết định số 171/2004/QĐ-TTg ngày 28/9/2004 về việc phê duyệt Đề án đổi mới cơ chế quản lý KH&CN; Quyết định số 214/2005/QĐ-TTg

ngày 30/08/2005 về việc phê duyệt Đề án phát triển thị trường công nghệ.

Việc chuyển đổi các tổ chức KH&CN sang loại hình DNKH&CN đã được đề cập

đến từ năm 1980, trong kết luận của Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trung ương

Đảng khóa IX: “Từng bước chuyển các tổ chức KH&CN thực hiện nhiệm vụ nghiên

cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang cơ chế tự trang trải kinh phí, hoạt động theo

cơ chế doanh nghiệp”. Nhiệm vụ trên được cụ thể hóa trong Nghị định số 115/2005/NĐ-

CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ

chức KH&CN công lập: “Các tổ chức KH&CN có thể lựa chọn hình thức chuyển đổi

thành doanh nghiệp KH&CN” (Điều 4, Nghị định 115).

Việc thành lập và các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước dành cho các DNKH&CN được Chính phủ ban hành tại Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19/5/2007 và Nghị định số 96/2010/NĐ-CP ngày 20/9/2010, trong đó có điều khoản nêu rõ khái niệm doanh nghiệp KH&CN: “Doanh nghiệp KH&CN là doanh nghiệp do tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R&D) thành lập, tổ

chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật KH&CN. Hoạt động chính của doanh nghiệp là thực hiện sản xuất, kinh doanh các loại sản phẩm hàng

hóa hình thành từ kết quả R&D do doanh nghiệp được quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp; thực hiện các nhiệm vụ KH&CN. Doanh nghiệp KH&CN thực hiện sản xuất, kinh

95

doanh và thực hiện các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật” (Điều 1.2, Điều 2,

Nghị định 80; Điều 2, Nghị định 9). Luật Luật Khoa học và công nghệ số:

29/2013/QH13 đã bổ sung quy định về doanh nghiệp khoa học công nghệ trong đó

DNKH&CN phải có năng lực thực hiện nhiệm vụ khoa học và có doanh thu từ việc sản

xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá hình thành từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát

triển công nghệ đạt tỷ lệ theo quy định. Các quy định chi tiết về việc công nhận

DNKH&CN được điều chỉnh gần đây nhất theo Nghị định số 13/2019/NĐ-CP của Chính

phủ về DNKH&CN. Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 02 năm 2019 của

Chính phủ về DNKH&CN (thay thế Nghị định số 80/2007/NĐ-CP, Nghị định số

96/2010/NĐ-CP và Điều 20 Nghị định số 95/2014/NĐ-CP về DNKH&CN) đã điều

chỉnh lại khái niệm DNKH&CN là “Doanh nghiệp được thành lập được thành lập và

hoạt động theo Luật doanh nghiệp, có khả năng tạo ra hoặc ứng dụng kết quả khoa học

và công nghệ được cơ quan có thẩm quyền đánh giá, thẩm định, công nhận và có doanh

thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ

đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu trừ những doanh nghiệp mới thành lập dưới 5 năm”.

4.1.1.2. Những con đường hình thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam

Theo Nguyễn Vân Anh và cộng sự (2014), cơ sở để hình thành các DNKH&CN

tại Việt Nam là: (1) Doanh nghiệp tự đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghệ (R&D),

hoặc phối hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học hợp tác nghiên cứu (Ví dụ như

Công ty cổ phần thoát nước đô thị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu BUDSACO); (2) Tiếp nhận

chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài để làm chủ công nghệ (Ví dụ: Công ty cổ phần

công nghệ Việt - Séc). Do các đặc điểm về hoạt động của DNKH&CN, nên chủ yếu các

DNKH&CN được hình thành ở các thành phố lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, nơi

tập trung những tiềm lực KH&CN mạnh của cả nước với hệ thống nhiều trường đại học,

viện nghiên cứu và các khu công nghệ cao… Phần sau đây sẽ trình bày về những con đường hình thành DNKH&CN tại Việt Nam và một số DNKH&CN điển hình.

a. Thành lập mới hoàn toàn doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Trong thực tế có những doanh nghiệp ngay từ khi thành lập đã đáp ứng được ngay các tiêu chí theo quy định trong điều 6 của Nghị định 13/2019 về DNKH&CN, họ đã được cấp giấy chứng nhận là DNKH&CN và đang có những kết quả sản xuất kinh doanh rất nổi bật. Các doanh nghiệp này thường được phát triển từ ý tưởng của những nhóm sinh viên, giảng viên, các nghiên cứu viên của các trường đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài nước. Tiêu biểu cho những doanh nghiệp này có thể kể đển Công ty

96

IREX (Tokyo),

Cổ phần Robot Tosy15 do một sinh viên đã giành ngôi vô địch cuộc thi Robocon năm 2003 sáng lập vào năm 2004. Tosy thường xuyên tham gia các triển lãm lớn nhất thế giới về lĩnh vực Robot, Điện tử tiêu dùng và Đồ chơi: CES (Las Vegas), IFA (Berlin), CEATEC (Munich), Spielwarenmesse (Tokyo), Automatica (Nuremberg), American International Toy Fair (New York), Toys and Games Fair (Hong Kong)... Sản phẩm robot công nghiệp dịch vụ do Công ty Robot Tosy chế tạo đã gây bất ngờ cho các chuyên gia từ các cường quốc có trình độ công nghệ cao phát triển tại triển lãm tự động hóa lớn nhất thế giới Automatica được tổ chức vào tháng 6/2010 tại Đức. Nhờ giá rẻ (bằng 1/4 giá robot của các nước công nghiệp) và tính năng thông minh, sản phẩm robot của Tosy đã được 7 đối tác từ Nhật, Mỹ, Đức, Ba Lan... đề nghị làm nhà phân phối. Một sản phẩm của công ty này là đĩa bay Tosy sản xuất dựa theo “nguyên lý boomerang” đã được Tập đoàn Tatara Tomy, nhà phân phối đồ chơi hàng đầu của Nhật hiện nay đã nhận làm nhà phân phối cho Tosy tại thị trường Nhật bản vốn nổi tiếng khó tính về chất lượng sản phẩm. Tại cuộc triển lãm đồ chơi lớn nhất thế giới diễn ra tại Nuremberg - Đức tháng 2-2010, Tosy đã ký được 10 hợp đồng đưa đồ chơi Việt Nam đi Ý, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Mỹ, Úc, Hàn Quốc, Pháp... Ngoài Việt Nam, hiện Tosy đã có văn bằng bảo hộ nhãn hiệu tại Mỹ, Đức và đang chờ cấp bằng tại 50 quốc gia khác (Đào Quang Thuỷ, 2019).

Ngoài hai doanh nghiệp nói trên, có thể kể đến những công ty tiêu biểu khác như

TECHPAL, công ty TNHH Giải pháp năng lượng Toàn diện,…

b. Thành lập các doanh nghiệp khoa học và công nghệ từ việc chuyển đổi các tổ chức khoa học và công nghệ

Con đường thứ hai để thành lập các DNKH&CN là chuyển đổi từ các tổ chức KH&CN. Nghị định 115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập bắt buộc các tổ chức KH&CN công lập phải chuyển đổi tổ chức và hoạt động (điều 4, chương I) sang mô hình tổ chức KH&CN tự trang trải kinh phí hoặc mô hình DNKH&CN. Nghị định 80/2007/NĐ-CP cũng hướng dẫn cụ thể các bước khi thực hiện chuyển đổi tổ chức KH&CN công lập sang mô hình DNKH&CN. Hình thành DNKH&CN là bước đi cần thiết để nâng cao năng lực nghiên cứu phát triển và khả năng thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu của các tổ chức KH&CN.

15 www.tosy.com

Việt Nam có số lượng khá đông các tổ chức nghiên cứu và phát triển (chủ yếu là các tổ chức nghiên cứu công lập). Các tổ chức KH&CN có tiềm năng sẵn có về nghiên cứu, bao gồm cả nguồn nhân lực trình độ cao và nguồn cơ sở vật chất phục vụ nghiên

97

cứu. Chỉ cần có những tác động vào khâu ươm tạo, thương mại hóa các kết quả khoa học công nghệ của tổ chức là có thể hình thành nên DNKH&CN.

Một số DNKH&CN hình thành từ con đường này bước đầu đã gặt hái được thành công đáng kể trong nghiên cứu phát triển, cải tiến công nghệ và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học. Một điển hình chuyển đổi từ việc chuyển đổi các tổ chức KH&CN thành DNKH&CN là Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp (IMI) - đơn vị nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam thí điểm thành công việc chuyển đổi thành doanh nghiệp làm ví dụ. Từ năm 2002, IMI bắt đầu thí điểm hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, trong đó công ty mẹ là DNKH&CN. Không chỉ đơn thuần nghiên cứu, IMI còn đưa các kết quả đó vào thực tế, sản xuất các loại máy móc công nghệ cao để bán. Sau 5 năm, IMI đã có 16 công ty thành viên và 12 trung tâm nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đào tạo. Hơn 100 máy cơ điện tử được nghiên cứu thành công và 60% đã được sản xuất, bao gồm máy công cụ, thiết bị cho ngành đo lường công nghiệp, chế biến nông sản xuất khẩu, kỹ thuật điện, bảo vệ môi trường và đặc biệt là thiết bị cho ngành xây dựng – nhóm hàng đem lại doanh số lớn nhất. Trong hơn 10 năm chuyển đổi, IMI đã phát triển về mọi mặt, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân gần 40%/năm, doanh thu bình quân của các kỹ sư từ 11 triệu đồng/người/năm lên hơn 2 tỷ đồng/người/năm. Đồng thời, tạo dựng được nền móng để phát triển một ngành cơ khí mới (ngành cơ điện tử), có khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế cao. Các sản phẩm cơ khí mới của IMI đã tiết kiệm được mỗi năm hơn 10 triệu USD do thay thế hàng nhập khẩu, và từ năm 2005 một số sản phẩm này đã được xuất khẩu trực tiếp, mở ra một thời kỳ xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao mang thương hiệu Việt Nam. 51 sản phẩm cơ khí mới của IMI thuộc cụm công trình “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo cụm sản phẩm cơ điện tử trong công nghiệp” đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh - Giải thưởng cao quý nhất của Đảng và Nhà nước về khoa học và công nghệ (năm 2005), do đã “góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân, khoa học và công nghệ trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”. Năm 2011, công trình “Nghiên cứu đổi mới công nghệ sản xuất găng tay phẫu thuật y tế từ cao su thiên nhiên Việt Nam” có sự tham gia của tập thể cán bộ khoa học IMI đã được Hội đồng xét chọn Nhà nước nhất trí đề nghị tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ. Điều đặc biệt quan trọng, Viện hỗ trợ các công ty con của mình thông qua chuyển giao kết quả nghiên cứu do Viện tạo nên, kết hợp với cổ phần do cán bộ công nhân viên chức trong Viện đóng góp (100% cán bộ của IMI là cổ đông tại các công ty thành viên).

IMI đã thành công trong việc chuyển đổi từ một Viện nghiên cứu cơ khí có quy

mô nhỏ trở thành một Viện nghiên cứu có tiềm lực mạnh về cơ điện tử, tạo dựng mô

hình mới để gắn nghiên cứu với sản xuất và đào tạo công nghệ cao. Hiện nay Viện IMI

98

đang đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ tiến hành thủ tục giao quyền sở hữu, quyền sử

dụng các kết quả KH&CN hình thành từ các nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà

nước để tiến hành đăng ký chứng nhận DNKH&CN đối với các doanh nghiệp trực thuộc

Viện (Đào Quang Thuỷ, 2019).

c. Thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ từ chuyển đổi từ doanh nghiệp đang

hoạt động

Trong hoàn cảnh Việt Nam với xuất phát điểm kinh tế còn thấp, phần lớn các

doanh nghiệp khởi nghiệp khó có các điều kiện để đi ngay vào công nghệ cao, công

nghệ hiện đại. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận doanh nghiệp chế tạo sản xuất đã có bề

dày phát triển, tạo lập được chỗ đứng nhất định trên thương trường, có tiềm lực tốt.

Những doanh nghiệp này là đội ngũ có tiềm năng để phát triển thành doanh nghiệp khoa học công nghệ và có thể tạm chia ra làm hai loại.

Đối với những doanh nghiệp mà hoạt động sản xuất, kinh doanh chính dựa trên

nền tảng công nghệ thuộc bản quyền, nếu hội tụ đủ các điều kiện theo quy định về

DNKH&CN thì có thể chuyển đổi toàn bộ doanh nghiệp sang mô hình DNKH&CN.

Ngoài ra có thể kể đến các doanh nghiệp đã chuyển đổi hiệu quả như Công ty TNHH

nhà nước một thành viên Thoát nước và Phát triển đô thị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

(BUSADCO), Xí nghiệp cơ khí Quang Trung (doanh nghiệp tư nhân tại tỉnh Ninh Bình),

Công ty vật tư thú y Hanvet (Hưng Yên), Công ty CP giống cây trồng Thái Bình,...

Đối với những doanh nghiệp đa ngành, đa lĩnh vực mà hoạt động sản xuất dựa

trên công nghệ thuộc quyền sử dụng không tạo ra doanh thu chính cho công ty, thì có

thể thành lập các DNKH&CN trực thuộc để sản xuất, kinh doanh các sản phẩm khoa

học và công nghệ (nếu đáp ứng điều kiện về DNKH&CN). Các doanh nghiệp điển hình

có thể chuyển đổi theo phương thức này có thể kể đến như Công ty cổ phần Chế tạo

máy điện Việt Nam-Hungary, Công ty máy nông nghiệp miền Nam Vikyno, Công ty cổ

phần Khí cụ điện, Công ty cổ phần Hóa chất Sơn Hà Nội, Công ty vật tư nông nghiệp

4.1.1.3. Điều kiện cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại

Việt Nam

Nghệ An,... (Đào Quang Thuỷ, 2019).

Trước đây, điều kiện để doanh nghiệp được công nhận doanh nghiệp KH&CN

theo Thông tư liên tịch số 17/2012/TTLT-BKHCN-BTC-BNV của liên Bộ KH&CN, Bộ

Tài chính và Bộ Nội vụ ban hành ngày 10/9/2012 là “Đối tượng thành lập doanh nghiệp

KH&CN hoàn thành việc ươm tạo và làm chủ công nghệ từ kết quả KH&CN được sở

99

hữu, sử dụng hợp pháp hoặc sở hữu hợp pháp công nghệ để trực tiếp sản xuất thuộc các

lĩnh vực: (1) Công nghệ thông tin - truyền thông, đặc biệt là công nghệ phần mềm tin học;

(2) Công nghệ sinh học, đặc biệt là công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp, thủy sản, y

tế; (3) Công nghệ tự động hóa; (4) Công nghệ vật liệu mới, đặc biệt là công nghệ nano;

(5) Công nghệ bảo vệ môi trường; (6) Công nghệ năng lượng mới; (7) Công nghệ vũ trụ

và một số công nghệ khác do Bộ KH&CN quy định; chuyển giao công nghệ hoặc trực

tiếp sản xuất trên cơ sở công nghệ đã ươm tạo và làm chủ hay sở hữu hợp pháp công nghệ

theo quy định của pháp luật theo các lĩnh vực đã nói ở trên” (Điều 1.2, Thông tư 17).

Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 02 năm 2019 của Chính phủ về

DNKH&CN đã điều chỉnh lại khái niệm DNKH&CN là “Doanh nghiệp được thành lập

được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp, có khả năng tạo ra hoặc ứng dụng

kết quả khoa học và công nghệ được cơ quan có thẩm quyền đánh giá, thẩm định, công

nhận và có doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả khoa

học và công nghệ đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu trừ những doanh nghiệp

mới thành lập dưới 5 năm”. Việc có quy định ngoại lệ đối với doanh nghiệp mới thành

lập (dưới 5 năm) chưa cần đạt được tỷ lệ doanh thu từ kết quả KH&CN tối thiểu vẫn

được chứng nhận là DNKH&CN để nhằm khuyến khích và hỗ trợ cho doanh nghiệp

khởi nghiệp sáng tạo đứng vào hàng ngũ doanh nghiệp KH&CN. Hồ sơ đề nghị chứng

nhận DNKH&CN được đơn giản hoá bằng việc bỏ quy định về việc giải trình quá trình

ươm tạo và làm chủ công nghệ; bỏ quy định về việc chứng minh quyền sở hữu, quyền

sử dụng hợp pháp kết quả KH&CN. Doanh nghiệp tự cam kết và chịu trách nhiệm đối

với thông tin kê khai, sẽ thu hồi hoặc hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận khi phát hiện có

hành vi vi phạm. Đồng thời, thời gian xử lý hồ sơ cấp giấy chứng nhận DNKH&CN

được giảm xuống từ 30 ngày làm việc xuống còn tối đa 15 ngày làm việc. Ngoài ra,

thẩm quyền của cơ quan trung ương cũng được bổ sung trong việc chứng nhận

DNKH&CN nhằm hỗ trợ địa phương giải quyết những hồ sơ phức tạp, đặc biệt trong

một số lĩnh vực công nghệ mới, sản phẩm có ảnh hưởng đến sức khỏe, môi trường,…

Để được cấp giấy chứng nhận là DNKH&CN, các doanh nghiệp không bị giới hạn ở

lĩnh vực hoạt động nữa mà có thể thuộc mọi lĩnh vực KH&CN tuy nhiên doanh nghiệp

cần đảm bảo tỷ lệ doanh thu từ kết quả KH&CN đạt 30% tổng doanh thu (theo quy định

tại Điều 58 Luật khoa học và công nghệ). Sau khi nhận được giấy chứng nhận là

DNKH&CN, doanh nghiệp phải đảm bảo rằng trong 5 năm liên tiếp có ít nhất 1 năm

đạt tỷ lệ doanh thu từ kết quả KH&CN tối thiểu để có thể tiếp tục được hưởng ưu đãi,

hỗ trợ của Nhà nước và không bị thu hồi giấy chứng nhận. Điều kiện này loại trừ các

doanh nghiệp mới thành lập dưới 5 năm.

4.1.1.4. Thực trạng cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam

100

Theo báo cáo tình hình phát triển doanh nghiệp Khoa học & công nghệ Việt Nam năm 2019 của Cục phát triển thị trường và doanh nghiệp Khoa học & công nghệ, tính đến tháng 8/2019, cả nước có 468 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận DNKH&CN, tăng 82 doanh nghiệp so với thời điểm tháng 8/2018. Sau khi Nghị định số 13/2019/NĐ-CP được ban hành, số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận DNKH&CN có xu hướng gia tăng nhanh, đặc biệt ở các thành phố như Hồ Chí Minh, Hà Nội là những địa phương đã chú trọng xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Trong đó, có 56/63 Sở Khoa học và Công nghệ cung cấp thông tin về tình hình cấp giấy chứng nhận và hoạt động của DNKH&CN ở địa phương. Như vậy, cả nước có 57 Sở KH&CN đã tiến hành cấp giấy chứng nhận DNKH&CN (tăng 1 Sở so với năm 2018), trong đó những tỉnh, thành phố phát triển mạnh về DNKH&CN tiếp tục phát huy thế mạnh của mình, tăng trưởng về số lượng DNKH&CN, có thể kể đến như: thành phố Hà Nội (tăng từ 44 lên 60 doanh nghiệp); thành phố Hồ Chí Minh (tăng từ 58 lên 78 doanh nghiệp);…

Những tỉnh, thành phố chưa có doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận DNKH&CN gồm: Điện Biên, Vĩnh Phúc, Bình Thuận, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Lai Châu. Có tỉnh đã cấp giấy chứng nhận DNKH&CN nhưng do doanh nghiệp ngừng hoạt động, đã tiến hành thu hồi Giấy chứng nhận nên hiện tại không có DNKH&CN như: Yên Bái.

DNKH&CN được cấp giấy chứng nhận có kết quả KH&CN thuộc hầu hết các lĩnh vực công nghệ được khuyến khích phát triển, trong đó chủ yếu: công nghệ sinh học (38,5%), công nghệ tự động hóa (20,6%), công nghệ vật liệu mới (9,8 %), công nghệ thông tin (9,3%).

4.1.2. Các hỗ trợ, ưu đãi dành cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam

4.1.2.1. Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam

Theo quy định của pháp luật, DNKH&CN được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ sau đây:

a. Được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp

Về mức ưu đãi thuế TNDN mà DNKH&CN được hưởng: DNKH&CN được cấp giấy chứng nhận từ ngày 20/3/2019 trở đi sẽ được miễn thuế 04 năm, giảm 50% số thuế

101

phải nộp trong 09 năm tiếp theo đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh kết quả KH&CN.

Về điều kiện tỷ lệ doanh thu để hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp: Theo Nghị định 80/2007/NĐ-CP, Nghị định 96/2010/NĐ-CP, DNKH&CN phải đáp ứng điều kiện tỷ lệ doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu trong năm thứ nhất, 50% trong năm thứ hai và 70% từ năm thứ ba trở đi mới được hưởng ưu đãi về thuế TNDN. Điều này dẫn đến rất ít doanh nghiệp được hưởng. Nghị định 13/2019/NĐ-CP đã giảm điều kiện hưởng ưu đãi thuế TNDN hàng năm xuống tỷ lệ 30%, giúp nhiều doanh nghiệp tiếp cận được chính sách ưu đãi quan trọng này. Tuy nhiên, trong thời gian được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, năm nào DNKH&CN có đủ điều kiện về tỷ lệ doanh thu quy định thì được miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, năm nào không đạt điều kiện về tỷ lệ doanh thu thì không được miễn, giảm thuế và phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo mức thuế suất hiện hành. Các quy định này nhằm buộc các doanh nghiệp không ngừng cải tiến, đổi mới sáng tạo công nghệ, nâng cao hàm lượng chất xám trong các sản phẩm để hạ giá thành sản phẩm, hoặc mang lại giá trị gia tăng cao hơn.

b. Được miễn, giảm tiền thuê đất, mặt nước

Đất xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học của doanh nghiệp KH&CN bao gồm: Đất xây dựng phòng thí nghiệm, đất xây dựng cơ sở ươm tạo công nghệ và doanh nghiệp khoa học và công nghệ, đất xây dựng cơ sở thực nghiệm, đất xây dựng cơ sở sản xuất thử nghiệm. Sở Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tiếp nhận hồ sơ của người sử dụng đất theo quy định tại Điều 60 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ khi xác định diện tích đất được miễn, giảm cho mục đích khoa học và công nghệ. Thủ tục, hồ sơ đề nghị miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước thực hiện theo quy định của pháp luật về tiền thuê đất và quản lý thuế.

c. Ưu đãi tín dụng dành cho các DNKH&CN

DNKH&CN thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ, sản xuất, kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ được Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tài trợ, cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay tối đa 50% lãi suất vay vốn tại ngân hàng thương mại thực hiện cho vay và bảo lãnh để vay vốn tại các ngân hàng thương mại.

102

d. Hỗ trợ tìm kiếm, sở hữu và sử dụng kết quả KH&CN từ bên ngoài

DNKH&CN được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xem xét, giao quyền

sử dụng hoặc sở hữu các kết quả KH&CN thuộc sở hữu nhà nước. Thủ tục giao kết quả

KH&CN thuộc ngân sách nhà nước được thực hiện theo pháp luật hiện hành.

e. Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu hình thành kết quả KH&CN, thương mại hóa

kết quả KH&CN

DNKH&CN được hưởng ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hoạt

động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, hoạt động sản xuất kinh doanh theo

quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Quyết định số 30/2018/QĐ-

TTg ngày 31/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ: hướng dẫn trình tự, thủ tục, hồ sơ đề

nghị xác nhận hàng hóa sử dụng trực tiếp cho phát triển hoạt động ươm tạo công nghệ,

ươm tạo DNKH&CN, đổi mới công nghệ để miễn thuế nhập khẩu theo quy định của

Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Liên quan đến việc triển khai ưu đãi về thuế nhập khẩu đối với hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo DNKH&CN, đổi mới công nghệ,

Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành các văn bản hướng dẫn sau: Thông tư số 14/2017/TT-BKHCN ngày 01/12/2017 quy định tiêu chí xác định máy móc, thiết bị,

phụ tùng, vật tư chuyên dùng cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, hoạt động ươm tạo công nghệ, ươm tạo DNKH&CN, đổi mới công nghệ.

DNKH&CN được ưu tiên, không thu phí dịch vụ khi sử dụng máy móc, trang

thiết bị tại các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm

tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu KH&CN của Nhà nước để thực hiện các hoạt động

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ươm tạo công nghệ, sản xuất thử nghiệm

sản phẩm mới, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Trong trường hợp phát

sinh chi phí mua nguyên vật liệu để thực hiện các hoạt động nghiên cứu, doanh nghiệp

chi trả các khoản chi phí phát sinh cho các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ của Nhà nước.

DNKH&CN được ưu tiên tham gia các dự án hỗ trợ thương mại hóa kết quả khoa học và công nghệ, tài sản trí tuệ của Nhà nước. DNKH&CN được miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà theo quy định của pháp luật về lệ phí

trước bạ.

DNKH&CN tự đầu tư nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sau khi có kết quả được chuyển giao, ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn, được cơ quan quản lý nhà

nước về khoa học và công nghệ công nhận thì được hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà

103

nước. Trường hợp kết quả có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và

quốc phòng, an ninh thì Nhà nước sẽ xem xét mua kết quả đó.

f. Hỗ trợ xác lập quyền sở hữu trí tuệ

DNKH&CN được các cơ quan có thẩm quyền ưu tiên trong việc xác lập quyền

sở hữu trí tuệ, công nhận, đăng ký lưu hành sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học

4.1.2.2. Thực trạng tiếp cận các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với doanh nghiệp

khoa học và công nghệ Việt Nam

và công nghệ để phát triển sản phẩm mới.

Theo báo cáo của các Sở Khoa học và Công nghệ: việc tiếp cận các chính sách

ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước đối với DNKH&CN còn khó khăn, số doanh nghiệp được

hỗ trợ còn khá khiêm tốn.

Một số DNKH&CN được hưởng chính sách ưu đãi, hỗ trợ khác của nhà nước như miễn/giảm thuế giá trị gia tăng; hỗ trợ đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; vay vốn với lãi suất thấp hơn doanh nghiệp thông thường,…

Ngoài các chính sách hỗ trợ chung của Nhà nước, các tỉnh/thành phố đều tăng cường hỗ trợ cho các DNKH&CN, doanh nghiệp tiềm năng thông qua việc thực hiện

các nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước. Tại thành phố Hồ Chí Minh, DNKH&CN còn nhận được hỗ trợ từ Quỹ Inofund Dự án BIPP (Công ty TNHH MTV Thương mại

- Sản xuất - Xuất nhập khẩu Ngân Hà), Chương trình kích cầu đầu tư của Thành phố Hồ

Chí Minh về hỗ trợ lãi vay, thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước

(Công ty TNHH Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Anh Đào).

Tuy nhiên, một số chính sách ưu đãi hỗ trợ của Nhà nước còn chưa tác động được

tới doanh nghiệp như: chính sách ưu tiên sử dụng các trang thiết bị phục vụ trong phòng

thí nghiệm trọng điểm quốc gia; hưởng ưu đãi về giá cho thuê đất tại các khu công nghiệp/khu chế xuất/khu kinh tế,… Do còn thiếu các văn bản, quy định hướng dẫn chi tiết, liên ngành nên việc đưa các chính sách ưu đãi này vào thực tiễn còn gặp khó khăn.

4.1.3. Thực trạng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Tính đến tháng 8/2019, trong tổng số 468 DNKH&CN có 19 doanh nghiệp ngừng

hoặc tạm ngừng hoạt động (đã thu hồi giấy chứng nhận DNKH&CN của 7 doanh nghiệp). Căn cứ báo cáo của 165 doanh nghiệp cung cấp thông tin về tình hình hoạt

động sản xuất, kinh doanh năm 2018: có 23.989 người lao động được tạo công ăn việc làm. Tổng doanh thu của 165 doanh nghiệp năm 2018 đạt: 160.887,4 tỷ đồng. Trong đó,

104

có 151 doanh nghiệp có doanh thu từ sản phẩm KH&CN với tổng: 8.672,8 tỷ đồng

(chiếm 5,4% tổng doanh thu). Tỷ lệ này rất thấp so với tỷ lệ quy định doanh thu từ sản

phẩm KH&CN đạt 30% tổng doanh thu, vì thế mà có nhiều các DNKH&CN sẽ không

được hưởng các ưu đãi về thuế TNDN. Có147/165 doanh nghiệp có lãi với tổng lợi

nhuận trước thuế năm 2018 đạt: 5.215,2 tỷ đồng. Trong đó, tổng lợi nhuận trước thuế

của sản phẩm KH&CN đạt: 724,9 tỷ đồng/131 doanh nghiệp. Có 40/165 doanh nghiệp

có doanh thu trên 100 tỷ đồng. Và có 7/165 doanh nghiệp báo cáo lỗ.

4.1.4. Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của

các doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Trong tổng số 165 DNKH&CN có: 110 doanh nghiệp có báo cáo thực hiện việc

đầu tư cho phát triển KH&CN với tổng kinh phí đầu tư đạt 853,5 tỷ đồng; 36 doanh

nghiệp báo cáo về việc trích lập quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp với tổng kinh phí trích lập năm 2018 là 55,6 tỷ đồng; 52 doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ KH&CN có sử dụng vốn nhà nước với tổng kinh phí từ ngân sách nhà nước 213,7 tỷ đồng.

Các DNKH&CN chú trọng tới việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Trong tổng số

468 DNKH&CN được cấp giấy chứng nhận: khoảng 7% doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận từ kết quả KH&CN có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; hơn 90% doanh

nghiệp còn lại tự đầu tư nghiên cứu hoặc nhận chuyển giao kết quả KH&CN bằng toàn

bộ nguồn vốn của chính doanh nghiệp.

DNKH&CN chú trọng tới việc xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các

kết quả KH&CN và sản phẩm được tạo ra: có 88 doanh nghiệp được cấp văn bằng bảo

hộ quyền sở hữu trí tuệ và 10 doanh nghiệp đã đăng ký bảo hộ và đang chờ kết quả. Ví

dụ: Công ty CP Robot Tosy đăng ký bảo hộ tại 21 nước trên thế giới. Công ty TNHH

Thiết bị Y tế Bắc Việt sở hữu hơn 15 bằng độc quyền sáng chế và bằng kiểu dáng công nghiệp; Công ty CP Công nghiệp và thiết bị chiếu sáng Duhal sở hữu 15 bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp;...

4.1.5. Những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ

4.1.5.1. Thuận lợi

Chứng nhận “Doanh nghiệp khoa học và công nghệ” giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong quá trình thương mại hóa sản phẩm (do sản phẩm được cơ quan có thẩm

quyền chứng nhận, giúp khách hàng yên tâm về chất lượng), thuận lợi hơn trong giao dịch với các cơ quan thuế tại địa phương.

105

Được hưởng các hỗ trợ của Nhà nước về đăng ký xác lập quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao giá trị thương hiệu của doanh nghiệp, được giới thiệu quảng bá sản phẩm thông qua các hội thảo, triển lãm, kết nối cung - cầu, chợ công nghệ và thiết bị.

Nhờ được miễn, giảm thuế TNDN, tiền thuê đất, vay vốn tín dụng đầu tư, thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước, doanh nghiệp tập trung được nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho KH&CN, đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực, không ngừng tạo ra các sản phẩm mới có chất lượng và sức cạnh tranh. Nhiều DNKH&CN chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, tạo ra các sản phẩm chủ lực của địa phương và quốc gia; nhiều DNKH&CN có doanh thu lớn, sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu.

4.1.5.2. Khó khăn

Các tỉnh, thành phố ngày càng chú trọng tới việc hỗ trợ doanh nghiệp ở địa phương thực hiện các hoạt động nhằm phát triển KH&CN thông qua ban hành và triển khai các chính sách, chương trình hỗ trợ. Đây là một trong những biện pháp tác động trực tiếp đến sự hình thành và phát triển DNKH&CN ở các địa phương.

a. Khó khăn do cơ chế, chính sách chưa hoàn thiện:

i) Về thủ tục chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ:

- Đối với các kết quả KH&CN hình thành từ nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước: quy định về thủ tục giao quyền còn chưa rõ ràng và cụ thể, tốn nhiều thời gian và chi phí (chi phí định giá), không khuyến khích doanh nghiệp thực hiện, dẫn đến việc hình thành DNKH&CN từ các kết quả KH&CN có nguồn gốc từ ngân sách rất hạn chế.

- Khó khăn trong việc thực hiện thủ tục xác nhận, thẩm định kết quả KH&CN không sử dụng ngân sách nhà nước theo quy định của Thông tư số 02/2015/TT-BKHCN: (i) Việc lập hồ sơ đánh giá, thẩm định kết quả KH&CN khó đối với doanh nghiệp; (ii) Chưa có cơ chế hỗ trợ cụ thể của Nhà nước đối với các công trình tự nghiên cứu dẫn đến chưa khuyến khích các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp trong tự nghiên cứu, lập hồ sơ để được đánh giá, thẩm định kết quả KH&CN không sử dụng NSNN.

- Quy định tiêu chí về thương mại hóa thành công kết quả KH&CN (tỷ lệ doanh thu tối thiểu 30%) cũng hạn chế số lượng doanh nghiệp có tiềm năng chứng nhận DNKH&CN do đa phần doanh nghiệp Việt Nam là DNVVN.

ii) Về chính sách ưu đãi, hỗ trợ:

- Các thủ tục liên quan đến hưởng chính sách ưu đãi tín dụng từ các quỹ phát triển KH&CN và quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN chưa được hướng dẫn cụ thể để DNKH&CN ở địa phương có thể tiếp cận và hưởng ưu đãi.

106

- Quy định đối với các chính sách hỗ trợ DNKH&CN đầu tư nghiên cứu

KH&CN; ưu tiên xác lập quyền sở hữu trí tuệ; sử dụng miễn phí trang thiết bị tại các

phòng thí nghiệm… chưa đưa ra quy định mức hỗ trợ bao nhiêu, thủ tục thực hiện, quy

trình, hồ sơ như thế nào để các địa phương căn cứ triển khai có hiệu quả.

- Chương trình hỗ trợ phát triển DNKH&CN do nguồn lực và cách thức triển

khai hạn chế, chưa lan tỏa tới các địa phương, từ đó chưa khích lệ doanh nghiệp chứng

nhận DNKH&CN.

- Chính sách Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chưa

phát huy hiệu quả.

- Pháp luật liên quan đến doanh nghiệp KH&CN tại Việt Nam chưa đồng bộ với

các Luật trong một số lĩnh vực có liên quan (ví dụ như Luật Đất đai), dẫn tới việc doanh

nghiệp KH&CN chưa được hưởng ưu đãi theo quy định. Cụ thể, nhiều doanh nghiệp

KH&CN chưa được hưởng những ưu đãi liên quan đến quyền sử dụng đất, được thuê

đất, cơ sở hạ tầng với mức giá thấp nhất theo khung giá của Nhà nước tại địa phương

nơi doanh nghiệp KH&CN thuê, đặc biệt đối với các doanh nghiệp KH&CN nằm ngoài

các khu CNC. Bên cạnh đó, chính sách thuế của Nhà nước đối với một số ngành, lĩnh

vực hiện còn một số điểm chưa hợp lý đối với việc khuyến khích phát triển doanh nghiệp

KH&CN. Ví dụ, trong việc quy định áp dụng mức thuế nhập nguyên liệu cao hơn mức

thuế sản phẩm nhập khẩu của một số mặt hàng mà đại đa số các doanh nghiệp tại Việt

Nam chưa sản xuất được, khiến cho sản phẩm mà doanh nghiệp KH&CN đầu tư nghiên

cứu và thực hiện sản xuất trong nước (chịu mức thuế cao do nhập nguyên liệu) phải cạnh

tranh không bình đẳng với sản phẩm nhập khẩu (được áp dụng mức thuế suất rất thấp,

thậm chí là 0%).

b. Khó khăn từ phía doanh nghiệp:

i) Về tiềm lực:

- Việc đầu tư cho KH&CN chứa nhiều rủi ro, trong khi các doanh nghiệp nhỏ,

siêu nhỏ do tiềm lực tài chính yếu nên không dám mạnh dạn đầu tư cho KH&CN; thiếu

nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao; thiếu thông tin, cơ hội tiếp xúc, nắm bắt

công nghệ mới, cơ hội hợp tác với các tổ chức KH&CN,...

- Cơ sở vật chất cho hoạt động KH&CN của các DNKH&CN còn thiếu, do thiếu

vốn đầu tư hoặc không thuê được đất để xây dựng mở rộng cơ sở sản xuất.

ii) Về nhận thức:

107

- Chưa hiểu biết về DNKH&CN và những chính sách khuyến khích phát triển

DNKH&CN.

- Chưa thực sự quan tâm đầu tư cho phát triển KH&CN, quá trình nghiên cứu,

đổi mới công nghệ và tạo ra sản phẩm mới chưa đúng mức. DNVVN không quen với

việc đề xuất và theo đuổi việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước (họ

thường nghiên cứu hoặc đặt hàng bằng vốn tự có, dù hạn chế về tính khoa học nhưng

hiệu quả tức thì).

- Chưa nhận thức được tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ nên chưa đăng ký bảo

hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp; chưa xem nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển là

vũ khí chiến lược để cạnh tranh.

- Nhiều doanh nghiệp đã hưởng các chính sách ưu đãi theo lĩnh vực hoặc địa bàn

khuyến khích đầu tư, vì vậy không có nhu cầu chứng nhận DNKH&CN.

iii) Về hoạt động thương mại hóa kết quả khoa học và công nghệ:

- Các sản phẩm nghiên cứu khoa học không quá nổi trội về công nghệ hoặc không

có thị trường tiêu thụ nên các sản phẩm được hình thành từ kết quả KH&CN chưa mang lại lợi nhuận cao cho DNKH&CN.

c. Khó khăn từ phía cơ quan quản lý và các tổ chức hỗ trợ:

Bộ KH&CN có quá nhiều cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về

doanh nghiệp KH&CN, Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN; Vụ Phát

triển KH&CN địa phương; Ban quản lý khu công nghệ cao Hòa Lạc; Vụ Công nghệ

cao; Văn phòng Chứng nhận hoạt động công nghệ cao; Vụ Tổ chức cán bộ (triển khai

Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN theo Quyết định số 592/QĐ-TTg

ngày 22/5/2012 về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN

và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm). Tuy nhiên, Cục Phát triển Thị trường và doanh nghiệp KH&CN là cơ quan quản lý nhà nước về phát triển thị trường công nghệ và hỗ trợ hình thành, phát triển doanh nghiệp KH&CN lại không trực tiếp tham gia cấp phép thành lập các doanh nghiệp KH&CN, mà chỉ tổng hợp số liệu doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN từ các Sở KH&CN địa phương.

- Cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN tại địa phương: thiếu cán bộ chuyên trách thực hiện nhiệm vụ tư vấn, hướng dẫn hỗ trợ cho doanh nghiệp chứng nhận DNKH&CN. Mặc dù được các Sở KH&CN hỗ trợ nhưng nhìn chung nhiều doanh nghiệp vẫn thiếu thông tin về các ưu đãi hỗ trợ mà mình được hưởng.

108

- Nhiều tỉnh, thành phố chưa thành lập quỹ phát triển KH&CN nên khó khăn

trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ đối với DNKH&CN. Nhiều DNKH&CN gặp khó

khăn trong việc triển khai ứng dụng kết quả KH&CN do thiếu vốn để đầu tư cơ sở vật

chất và quảng bá giới thiệu sản phẩm, việc cấp phép sản xuất lưu hành chậm, khó khăn

trong việc đấu thầu các dự án công do thiếu các quy định về định mức,…

- Chưa có hướng dẫn cụ thể về việc triển khai Nghị định số 13/2019/NĐ-CP nên

sự phối hợp giữa các đơn vị chức năng như Sở KH&CN, cơ quan thuế, kế hoạch và đầu

tư, tài nguyên môi trường, UBND các huyện thành phố và các đơn vị liên quan về thực

hiện chính sách ưu đãi đối với DNKH&CN chưa có.

- Các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp chưa phát huy hiệu quả

trong việc ươm mầm công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp để hình thành DNKH&CN. Việc

đăng ký hoạt động của cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo DNKH&CN khó khăn (do

đăng ký theo Quyết định số 819/QĐ-BKHCN ngày 17/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ về thủ tục thành lập, đăng ký hoạt động của tổ chức KH&CN).

- Thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển, đặc biệt là việc hình thành và thu hút vốn đầu tư mạo hiểm. Thị trường chứng khoán mới chỉ xuất hiện giao dịch cổ phiếu của

doanh nghiệp mà chưa có cổ phiếu công nghệ như các quốc gia phát triển, nên không huy động được vốn để đầu tư cho ươm tạo công nghệ và ươm tạo doanh nghiệp KH&CN.

- Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng tự đổi mới hạn chế trong khi Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách hiệu quả, tạo sự gắn

kết giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp

nhận các kết quả KH&CN mới để hình thành các doanh nghiệp KH&CN. Qua đó, cũng

giúp các nhà khoa học có kinh phí đầu tư cho hoạt động R&D.

4.2. Đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ

4.2.1. Thống kê mô tả chung về dữ liệu thu thập được từ khảo sát.

Phần viết này sẽ trình bày một số mô tả về mẫu nghiên cứu. Dữ liệu sử dụng để thống kê mô tả sẽ là thông tin thu thập từ 106 doanh nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN. Cụ thể trong 106 doanh nghiệp này, có 30 doanh nghiệp có giấy chứng nhận là DNKH&CN, 27 doanh nghiệp có kế hoạch để xin cấp giấy chứng nhận là DNKH&CN, 48 doanh nghiệp có tiềm năng trở thành DNKH&CN (có khả năng tạo ra hoặc ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ). Đây cũng là phần giúp cho tác giả có

được hình dung tổng quát về tình hình ĐMST trong các DNKH&CN, và lấy căn cứ để phân tích và bàn luận về kết quả định lượng ở phần sau.

4.2.1.1. Kết quả đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp Khoa học và công nghệ

109

Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp KH&CN ghi nhận ĐMST là rất

cao, lên đến 97,17% DN có ĐMST trong năm 2019. Chỉ có 2,83% doanh nghiệp không

có ĐMST. Các số liệu trên đây chứng tỏ rằng, DNKH&CN là khối doanh nghiệp rất năng động trong hoạt động phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ và phát triển thành

công được những thành quả từ kết quả khoa học công nghệ thành sản phẩm dịch vụ.

Những con số tỉ lệ này cao hơn rất nhiều so với số liệu trong tổng điều tra về ĐMST mà

Bộ Khoa học & công nghệ đã thực hiện trước đó với các doanh nghiệp trong ngành chế

biến và chế tạo của Việt Nam năm 2018, với chỉ khoảng chưa đến 30% các doanh nghiệp

chế biến chế tạo có ĐMST. Các tác giả Mai Hà và cộng sự (2015) chỉ ra rằng

DNKH&CN thực hiện nhiều hoạt động nghiên cứu và phát triển và hoạt động ĐMST

hơn so với các doanh nghiệp thông thường.

Theo cách phân loại về ĐMST theo loại hình đổi mới đã trình bày ở trên, OECD

(2005) chia ĐMST ra làm 04 loại: ĐMST sản phẩm, ĐMST quy trình, ĐMST tổ chức và ĐMST marketing. Trong 04 loại hình kể trên, ĐMST sản phẩm và ĐMST quy trình

vẫn là hai loại hình phổ biến nhất, với khoảng 93,4% và 82,08% DNKH&CN có ghi nhận lần lượt hai loại ĐMST trên. Số lượng các doanh nghiệp chỉ thực hiện một loại

hình ĐMST là không nhiều, với 6,6% doanh nghiệp chỉ có ĐMST sản phẩm và chưa đến 1% doanh nghiệp chỉ có ĐMST tổ chức. Chủ yếu các doanh nghiệp ghi nhận kết

quả nhiều hơn một loại hình ĐMST, đặc biệt là có đến 62,26% DNKH&CN có cả 04

loại hình ĐMST trong năm 2019.

93,40%

82,08%

74,53%

69,81%

ĐMST sản phẩm

ĐMST quy trình

ĐMST tổ chức

ĐMST marketing

Hình 4.1: Thực trạng đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam năm 2019 theo loại hình đổi mới sáng tạo

Nguồn: Khảo sát của tác giả

Không đổi mới sáng tạo , 2,83%

Chỉ đổi mới sản phẩm, 6,60%

Chỉ đổi mới tổ chức, 0,94%

Có đổi mới sáng tạo kết hợp cả 4 loại hình, 62.26%

Có đổi mới sáng tạo kết hợp từ 2-3 loại hình 27,36%

110

Hình 4.2: Cơ cấu đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Việt Nam năm 2019 theo loại hình đổi mới sáng tạo

4.2.1.2. Thực trạng đổi mới sáng tạo sản phẩm của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Nguồn: Khảo sát của tác giả

Đơn vị: %

Hình 4.3. mô tả thực trạng ĐMST sản phẩm của DNKH&CN năm 2019 theo quy mô nguồn vốn. Nhìn chung thì doanh nghiệp có quy mô càng lớn thì càng có khả năng tạo ra ĐMST sản phẩm. Có khoảng 23% doanh nghiệp siêu nhỏ và chưa đến 3% doanh nghiệp nhỏ là không ghi nhận ĐMST sản phẩm.

0,00

0,00

2,90

22,73

100,00

100,00

97,10

77,27

DOANH NGHIỆP NHỎ DOANH NGHIỆP VỪA DOANH NGHIỆP LỚN

DOANH NGHIỆP SIÊU NHỎ

Có ĐMST sản phẩm

Không có ĐMST sản phẩm

Hình 4.3: Thực trạng đổi mới sáng tạo sản phẩm sản phẩm của doanh nghiệp khoa học và công nghệ năm 2019 theo quy mô nguồn vốn

Nguồn: Khảo sát của tác giả

111

Hình 4.4 mô tả thực trạng kết quả ĐMST của DNKH&CN năm 2019 theo loại

hình kinh tế. Khối DN Nhà nước có xu hướng thực hiện ĐMST tốt hơn cả với 100% số

DNKH&CN Nhà nước cho biết họ thực hiện ĐMST sản phẩm trong năm 2019. Tỷ lệ

này ở mức khá cao khoảng 94% đối với khối DN ngoài Nhà nước, trong khi khối DN

có vốn đầu tư nước ngoài chỉ ghi nhận dưới 67%.

Đơn vị: %

0,00

6,00

33,33

100,00

94,00

66,67

DN NHÀ NƯỚC

DN NGOÀI NHÀ NƯỚC

DN CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

Có ĐMST sản phẩm

Không có ĐMST sản phẩm

Hình 4.4: Thực trạng đổi mới sáng tạo sản phẩm của doanh nghiệp khoa học và

công nghệ năm 2019 theo loại hình kinh tế

Nguồn: Khảo sát của tác giả

Hình 4.5 mô tả thực trạng kết quả ĐMST của DNKH&CN năm 2019 theo khu

vực địa lý. Doanh nghiệp ở phía bắc có xu hướng thực hiện ĐMST tốt hơn bình quân cả

nước với hơn 96% số DNKH&CN ở miền Bắc cho biết họ thực hiện ĐMST sản phẩm

trong năm 2019. Tỷ lệ này giảm xuống còn khoảng 89% và 85% đối với khối DN

KH&CN ở miền Trung và Nam.

Đơn vị: %

112

3,85

11,11

15,79

96,15

88,89

84,21

MIỀN BẮC

MIỀN TRUNG

MIỀN NAM

Có ĐMST sản phẩm

Không có ĐMST sản phẩm

Hình 4.5: Thực trạng đổi mới sáng tạo sản phẩm của doanh nghiệp khoa học và

công nghệ năm 2019 theo khu vực địa lý

Nguồn: Khảo sát của tác giả

Hình 4.6 mô tả thực trạng kết quả ĐMST của DNKH&CN năm 2019 theo đối

tượng khảo sát. Như đã nêu ở trên, đối tượng khảo sát của nghiên cứu này là doanh

nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN, bao gồm doanh nghiệp có giấy chứng nhận

là DNKH&CN, doanh nghiệp có kế hoạch để xin cấp giấy chứng nhận là DNKH&CN

và doanh nghiệp có tiềm năng trở thành DNKH&CN (có khả năng tạo ra hoặc ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ). Khảo sát cho thấy rằng các doanh nghiệp đã có giấy

chứng nhận là DNKH&CN thì có xu hướng rất tích cực trong việc tạo ra ĐMST sản

phẩm hàng năm, họ làm điều này một phần cũng để duy trì được giấy chứng nhận là

DNKH&CN và tiếp tục được hưởng các ưu đãi hỗ trợ của Nhà nước. Hai đối tượng còn lại thì động lực tạo ra kết quả ĐMST là thấp hơn nên ghi nhận từ khoảng 9% - 12% trong tỷ lệ doanh nghiệp không có ĐMST sản phẩm.

Đơn vị: %

113

0,00

8,33

11,11

100,00

91,67

88,89

CÓ GIẤY CHỨNG NHẬN LÀ DNKH&CN

CÓ KẾ HOẠCH ĐỂ XIN CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN DNKH&CN

CÓ TIỀM NĂNG TRỞ THÀNH DNKH&CN

Có ĐMST sản phẩm

Không có ĐMST sản phẩm

Hình 4.6: Thực trạng đổi mới sáng tạo sản phẩm của doanh nghiệp khoa học và công nghệ năm 2019 theo đối tượng khảo sát

Nguồn: Khảo sát của tác giả

Bảng 4.1, 4.2 và 4.3 trình bày tóm tắt về giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất, giá nhỏ nhất và các tứ phân vị p25, trung vị, p75 của ĐMST sản phẩm của các biến số độc lập và kiểm soát được giả thuyết có ảnh hưởng tới ĐMST sản phẩm của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong mẫu khảo sát16.

16 Các biến số đổi mới sáng tạo mở bao gồm OIhuongvao, OIhuongra, OIkethop được tính bằng giá trị trung bình của các biến quan sát được giữ lại sau khi đã kiểm định độ tin cậy thông qua Cronbach’s Alpha và EFA

Phần sau đây trình bày thông tin thống kê mô tả các biến số để bước đầu tìm ra được sự khác biệt giữa những DNKH&CN không có ĐMST sản phẩm và DNKH&CN có ĐMST sản phẩm. Từ bảng 4.1, cho thấy là tỉ lệ các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam ghi nhận đổi mới sản phẩm trong năm vừa qua rất cao, chiếm đến 93,4% với 99 doanh nghiệp có ghi nhận đổi mới sản phẩm và chỉ có 7 doanh nghiệp không có đổi mới sản phẩm. Điều này lý giải bởi các DNKH&CN hoạt động trong môi trường cạnh tranh rất cao và vì thế họ thực hiện nhiều hoạt động nghiên cứu và phát triển và hoạt động ĐMST hơn so với các doanh nghiệp thông thường (Mai Hà và cộng sự, 2015). Ngoài việc phải chịu áp lực cạnh tranh, bản thân các DNKH&CN đã có giấy chứng nhận đều phải cố gắng duy trì mức doanh thu từ các sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ theo tỷ lệ quy định của Nghị định 13/2019 để có thể thụ hưởng được những ưu đãi và hỗ trợ của Nhà nước. Liên quan đến hoạt động đổi mới sáng tạo mở, hoạt động đổi mới sáng tạo mở kết hợp được thực hiện nhiều nhất với

114

điểm bình quân là 4,142 trên thang 5 (độ lệch chuẩn = 0,856), ĐMST mở hướng vào ở mức tương đối cao là 3,09 (độ lệch chuẩn 0,693), còn ĐMST mở hướng ra lại ít được các DNKH&CN thực hiện nhất chỉ ở mức 2,783. Dù là các DNKH&CN nhưng tỉ lệ bình quân chi cho hoạt động R&D nội bộ chỉ đạt ở mức dưới 5% tổng doanh thu của doanh nghiệp. Dữ liệu cho thấy rằng 66% DNKH&CN được nhận hỗ trợ Nhà nước dưới một hình thức bất kì. Liên quan đến bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, bình quân các doanh nghiệp đều gặp tương đối nhiều khó khăn liên quan đến thủ tục pháp lý đăng ký và xác lập bảo hộ sở hữu trí tuệ, xâm phạm về quyền SHTT và thực thi bảo hộ quyền SHTT (Trung bình = 3,642, độ lệch chuẩn 0,706). Tổng số nhân lực bình quân của các doanh nghiệp trong mẫu khảo sát là từ 50 - 100 người. Số liệu ghi nhận 70,8% các doanh nghiệp hoạt động đa ngành và chỉ có 30,2% là có thị trường tiêu thụ sản phẩm chính là thị trường quốc tế. Bảng 4.2 và 4.3 cho thấy rằng các doanh nghiệp có ĐMST sản phẩm có xu hướng thực hiện hoạt động ĐMST mở nhiều hơn so với các doanh nghiệp không có ĐMST sản phẩm, tuy nhiên ở cả hai nhóm này đều cho thấy hoạt động ĐMST mở được thực hiện nhiều hơn cả là ĐMST mở kết hợp và ĐMST mở hướng ra là hoạt động ít phổ biến nhất.

Bảng 4.1: Thống kê mô tả một số biến số của toàn bộ mẫu khảo sát (n = 106)

GTNN

p25

Biến số

p75

GTLN

Quan sát

Độ lệch chuẩn

PI OIhuongvao OIhuongra OIkethop RDnoibo Hotronhanuoc SHTT Quymo Danganh Tinhquocte

Trung bình 0,934 3,090 2,783 4,142 2,330 0,660 3,642 2,085 0,708 0,302

106 106 106 106 106 106 106 106 106 106

Trung vị 1 3 3 4 2 1 3,667 2 1 0

1 3,500 3 5 3 1 4 2 1 1

1 3 2 4 2 0 3 2 0 0

1 4 4,500 5 5 1 5 5 1 1

0,250 0,693 0,881 0,856 0,953 0,476 0,706 0,927 0,457 0,461

0 1 1 1 1 0 1,667 1 0 0

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Bảng 4.2: Thống kê mô tả một số biến số của các doanh nghiệp khoa học và công

nghệ có đổi mới sáng tạo sản phẩm của mẫu khảo sát (n = 99)

GTNN

p25

Biến số

p75

GTLN

Quan sát

Trung bình

Độ lệch chuẩn

PI OIhuongvao OIhuongra OIkethop RDnoibo Hotronhanuoc SHTT Quymo Danganh Tinhquocte

1 3,141 2,818 4,202 2,364 0,687 3,643 2,141 0,717 0,313

99 99 99 99 99 99 99 99 99 99

Trung vị 1 3 3 4 2 1 3,667 2 1 0

1 3,500 3,500 5 3 1 4 2 1 1

1 3 2 4 2 0 3 2 0 0

1 4 4,500 5 5 1 5 5 1 1

0 0,655 0,87 0,833 0,931 0,466 0,681 0,926 0,453 0,466

1 1 1 1 1 0 1,667 1 0 0

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

115

Bảng 4.3: Thống kê mô tả một số biến số của các doanh nghiệp khoa học và công

nghệ có không đổi mới sáng tạo sản phẩm của mẫu khảo sát (n = 7)

GTNN

p25

GTLN

p75

Biến số

Quan sát

Trung bình

Độ lệch chuẩn

7 7 7 7 7 7 7 7 7 7

0 2,357 2,286 3,286 1,857 0,286 3,619 1,286 0,571 0,143

0 0,852 0,951 0,756 1,215 0,488 1,079 0,488 0,535 0,378

0 1,500 1 2 1 0 2 1 0 0

0 2 2 3 1 0 3 1 0 0

Trung vị 0 2 2 3 1 0 3,333 1 1 0

0 3 3 4 3 1 4,667 2 1 0

0 4 4 4 4 1 5 2 1 1

PI OIhuongvao OIhuongra OIkethop RDnoibo Hotronhanuoc SHTT Quymo Danganh Tinhquocte

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Từ kết quả phân tích trên có thể thấy được rằng tại các DNKH&CN, hoạt động

ĐMST có diễn ra một cách tích cực và trong ba cơ chế ĐMST mở, thì cơ chế ĐMST

mở kết hợp là cơ chế phổ biến nhất, sau đó là cơ chế ĐMST mở hướng vào. Các

4.2.1.3. Nguồn gốc đổi mới sáng tạo sản phẩm của các doanh nghiệp khoa học

và công nghệ

DNKH&CN còn tương đối dè chừng khi thực hiện cơ chế ĐMST hướng ra.

Để có được đổi mới sáng tạo sản phẩm, các doanh nghiệp có thể tự mình thực

hiện thông qua đội ngũ cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp hoặc thuê tổ chức, nhân lực

bên ngoài thực hiện hoặc kết hợp cả hai hình thức: một phần tự thực hiện phần còn lại

thuê tổ chức, cá nhân bên ngoài. Bình quân, 79,2% các doanh nghiệp tự thực hiện để có

được sản phẩm mới, 50,4% các doanh nghiệp đã phối hợp với cá nhân, đơn vị ngoài để

thực hiện sản phẩm mới và chỉ có khoảng hơn 3,3% các doanh nghiệp thuê cá nhân, tổ

chức ngoài thực hiện để có được sản phẩm mới.

Đơn vị: %

116

61,62

32,32

4,04

2,02

Không rõ

Hoàn toàn bởi doanh nghiệp

Đồng thời bởi doanh nghiệp và các đối tác khác

Hoàn toàn bởi đối tác bên ngoài do doanh nghiệp thuê

Hình 4.7: Nguồn gốc tạo ra đổi mới sáng tạo sản phẩm của các doanh nghiệp

khoa học và công nghệ

Đơn vị: %

Nguồn: Khảo sát của tác giả

64,71

64,18

50,00

45,45

36,36

32,84

29,41

25,00

25,00

0,00

1,49

0,00

DOANH NGHIỆP SIÊU NHỎ

DOANH NGHIỆP NHỎ

DOANH NGHIỆP VỪA

DOANH NGHIỆP LỚN

Hoàn toàn bởi doanh nghiệp

Đồng thời bởi doanh nghiệp và các đối tác khác

Hoàn toàn bởi đối tác bên ngoài do doanh nghiệp thuê

Hình 4.8: Thực trạng đổi mới sáng tạo sản phẩm của các doanh nghiệp khoa học

và công nghệ năm 2019 theo quy mô và nguồn gốc hình thành

Nguồn: Khảo sát của tác giả

4.2.1.4. Thực trạng hỗ trợ của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp khoa học và

công nghệ

117

Hình 4.9 mô tả tỷ lệ % các DNKH&CN được hưởng lợi từ các hình thức hỗ trợ

của Nhà nước. Nhìn chung, không có nhiều DN nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước.

Theo số liệu khảo sát, có khoảng gần 34% số DN không nhận được một sự hỗ trợ nào

của Nhà nước cho các hoạt động tạo thành đổi mới sáng tạo. Ba hình thức hỗ trợ của

Nhà nước DNKH&CN được hưởng nhiều nhất là hỗ trợ doanh nghiệp hình thành kết

quả nghiên cứu khoa học, hỗ trợ xác lập quyền sở hữu trí tuệ và hỗ trợ doanh nghiệp

trong quá trình thương mại hoá kết quả khoa học và công nghệ, lần lượt với tỉ lệ là

Đơn vị: %

46,2%, 52,8% và 45,7% DN nhận được hỗ trợ.

Hình 4.9: Hỗ trợ của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp

khoa học và công nghệ

Nguồn: Khảo sát của tác giả

Có nhiều nguyên nhân được đưa ra nhằm lý giải lý do vì sao các DNKH&CN không được hưởng lợi từ các hình thức hỗ trợ của Nhà nước. Bảng 4.4 dưới đây làm rõ một số nguyên nhân chính cản trở DN tiếp cận các hình thức hỗ trợ của Nhà nước. Trong đó, có thể thấy rõ việc DN không biết đầu mối để kết nối với các hình thức hỗ trợ là rào cản chính khiến các DN không tận dụng được các hình thức hỗ trợ của Nhà nước. Khoảng gần 30% số DNKH&CN phản hồi họ không biết liên lạc và kết nối với đầu mối

ở đâu để nhận được hỗ trợ với tất các hình thức hỗ trợ mà cuộc điều tra đưa ra. Bên cạnh

đó, dường như các hình thức hỗ trợ vẫn chưa thật sự phù hợp và chưa đến được với đối

tượng cần: trung bình có trên 15% số DN phản ánh hai điều này.

118

Bảng 4.4: Tỉ lệ các doanh nghiệp khoa học và công nghệ không nhận được hỗ trợ

Nhà nước cho hoạt động đổi mới sáng tạo phân chia theo lí do

Không

đủ năng

Không biết

Chưa biết

Không có liên quan

Quy trình

lực kỹ

Không

đầu mối để

về các

đến nhu

xét duyệt

hình thức

cầu của

hỗ trợ rất

thuật để có thể

vì lí do khác

kết nối với các hình

hỗ trợ này

phức tạp

xin hỗ

thức hỗ trợ

doanh nghiệp

trợ

Hỗ trợ DN nghiên cứu hình

13,2

17

Đơn vị: %

22,6

0

0

0,9

thành kết quả NCKH

Hỗ trợ DN xác lập quyền

13,2

10,4

22,6

0

0

0,9

sở hữu trí tuệ

Hỗ trợ DN trong quá trình

17

11,3

23,6

0,9

0

0,9

thương mại hoá KQKHCN

Hỗ trợ DN trong quá trình

tìm kiếm và mua công

23,6

22,6

25,5

0

0

0,9

nghệ/KQKHCN

từ bên

ngoài

Hỗ trợ DN trong quá trình

nhận chuyển giao và sử

19,8

19,8

33

0,9

0,9

0,9

dụng KQKHCN từ bên

ngoài

Ưu đãi DN về thuế thu

13,2

12,3

29,2

17

4,7

0,9

nhập doanh nghiệp

Ưu đãi DN về vay vốn tín

17

11,3

28,3

18,9

4,7

0

dụng

Ưu đãi DN về lãi suất tín

15,1

15,1

29,2

17

5,7

0

dụng

Ưu đãi DN về tiền thuê đất,

11,3

16

31,1

16

4,7

0

thuê mặt nước

15,9

15,1

27,2

7,9

2,3

0,6

Giá trị trung bình

Nguồn: Khảo sát của tác giả

119

4.2.2. Kết quả phân tích định lượng

4.2.2.1. Đánh giá độ tin cậy của thang đo

Để kết quả của đo lường đạt hiệu quả thì bản thân hệ thống đo lường phải đảm

bảo các yêu cầu bao gồm: độ tin cậy (reliability - kết quả thu được phải phù hợp và

tương đương khi sử dụng lặp đi lặp lại cùng một phương pháp đo) và có giá trị (validity

- Đo đúng cái chúng ta cần đo). Để đánh giá độ tin cậy của việc đo lường hoạt động

ĐMST mở, nghiên cứu này sử dụng hệ số Cronbach’s alpha đối với các biến số sử dụng

nhiều chỉ báo để đo lường bao gồm biến ĐMST mở hướng vào (OIhuongvao), ĐMST

mở hướng ra (OIhuongra), ĐMST mở kết hợp (OIkethop) và biến bảo hộ và thực thi

quyền sở hữu trí tuệ (SHTT). Kết quả phân tích độ tin cậy như sau.

Đổi mới sáng tạo mở hướng vào

a. Thang đo Đổi mới sáng tạo mở

Bảng 4.5a: Kết quả đánh giá ban đầu độ tin cậy của thang đo OIhuongvao

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Hệ số Cronbach's Alpha của biến ĐMST mở hướng vào là 0,7255 tuy nhiên các

hệ số tương quan biến tổng của chỉ báo (biến quan sát) OIhuongvao1, trong thang đo (xem cột item-rest correlation) <= 0,3 và có giá trị tại cột alpha (Cronbach’s alpha if Item deleted) có thể làm cho Cronbach’s Alpha của thang đo này lớn hơn 0,7255 nếu xoá chỉ báo đó đi. Vì vậy, nghiên cứu này xoá biến quan sát OIhuongvao1 và thực hiện lại kiểm định Cronbach’s alpha. Sau đó tiếp tục xoá OIhuongvao2 và OIhuongvao5 do không thoả mãn hai điều kiện trên. Cuối cùng thang đo chỉ còn giữ lại hai biến quan sát là OIhuongvao3 và OIhuongvao4 với hệ số Cronbach’s bach alpha 0,8334 > 0,8 chứng

tỏ thang đo lường rất tốt theo Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008) và phù hợp để bước vào bước phân tích nhân tố khám phá ở phần sau.

120

Bảng 4.5b: Kết quả đánh giá lại độ tin cậy của thang đo OIhuongvao

Đổi mới sáng tạo mở hướng ra

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Bảng 4.6a: Kết quả đánh giá ban đầu độ tin cậy của thang đo OIhuongra

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Hệ số Cronbach's Alpha của biến ĐMST mở hướng ra là 0,6845 tuy nhiên các hệ

số tương quan biến tổng của chỉ báo (biến quan sát) OIhuongra4, trong thang đo (xem

cột item-rest correlation) <= 0,3 và có giá trị tại cột alpha (Cronbach’s alpha if Item

deleted) có thể làm cho Cronbach’s Alpha của thang đo này lớn hơn 0,6845 nếu xoá chỉ

báo đó đi. Vì vậy, nghiên cứu này xoá biến quan sát OIhuongra4 và thực hiện lại kiểm

định Cronbach’s alpha. Sau đó tiếp tục xoá OIhuongra3 và OIhuongra5 do không thoả mãn hai điều kiện trên. Cuối cùng thang đo chỉ còn giữ lại hai biến quan sát là OIhuongra1 và OIhuongra2 với hệ số Cronbach’s bach alpha 0,9326 > 0,8 chứng tỏ thang đo lường rất tốt theo Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008) và phù hợp để bước vào bước phân tích nhân tố khám phá ở phần sau.

121

Bảng 4.6b: Kết quả đánh giá lại độ tin cậy của thang đo OIhuongra

Đổi mới sáng tạo mở kết hợp

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Bảng 4.7a: Kết quả đánh giá ban đầu độ tin cậy của thang đo OIkethop

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Hệ số Cronbach's Alpha của biến ĐMST mở kết hợp là 0,889 tuy nhiên chỉ báo

(biến quan sát) OIkethop1 có giá trị tại cột alpha (Cronbach’s alpha if Item deleted) có

thể làm cho Cronbach’s Alpha của thang đo này lớn hơn 0,889 nếu xoá chỉ báo đó đi.

Vì vậy, nghiên cứu này xoá biến quan sát OIkethop1 và thực hiện lại kiểm định Cronbach’s alpha. Cuối cùng thang đo chỉ còn giữ lại hai biến quan sát là OIkethop2 và OIkethop3 với hệ số Cronbach’s bach alpha 0,9543 > 0,8 chứng tỏ thang đo lường rất tốt theo Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008) và phù hợp để bước vào bước phân tích nhân tố khám phá ở phần sau.

122

Bảng 4.7b: Kết quả đánh giá lại độ tin cậy của thang đo OIkethop

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

b. Thang đo thực thi quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ

Bảng 4.8: Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo Sở hữu trí tuệ

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

4.2.2.2. Kết quả chạy phân tích nhân tố khám phá EFA

Hệ số Cronbach's Alpha của biến thực thi bảo hộ sở hữu trí tuệ là 0,899 > 0,8 chứng tỏ thang đo lường rất tốt. Đồng thời các hệ số tương quan biến tổng của các chỉ báo còn lại đều > 0,5 tức là đạt yêu cầu (Nunnally & Bernstein, 1994). Như vậy trong thang đo thực thi bảo hộ sở hữu trí tuệ có 03 biến SHTT1, SHTT2, SHTT3 thoả mãn yêu cầu khi kiểm định độ tin cậy của thang đo và phù hợp để bước vào bước phân tích nhân tố khám phá ở phần sau.

Sau khi đánh giá độ tin cậy của thang đo, thang đo các biến được kiểm định về giá trị hội tụ và giá trị phân biệt theo phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) để đánh giá mức độ hội tụ của từng bộ biến quan sát về khái niệm mà nó đo lường cũng như mối quan hệ tương quan trong các bộ biến quan sát đó. Đối với số lượng nhân tố, nghiên cứu này áp dụng phương pháp xác định từ trước. Phương pháp xác định từ trước ở đây là tác giả dựa vào các nghiên cứu tổng quan và cơ sở lý thuyết để chỉ định số lượng nhân tố cần phân tích. Nghiên cứu này sẽ sử dụng phương pháp trích Pricipal Factor Analysis đi cùng với phép xoay Varimax. Kết quả phân tích EFA cụ thể như sau:

123

Bảng 4.9: Kết quả phân tích giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của các thang đo

OIhuongvao, OIhuongra, OIkethop, Sở hữu trí tuệ

(ma trận Pattern Matrix)

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Theo kết quả phân tích, tất cả các hệ số tải nhân tố của các biến quan sát OIhuongvao3, OIhuongvao4, OIhuongra1, OIhuongra2, OIkethop2, OIkethop3, SHTT1

SHTT2, SHTT3 lúc này đều > 0,5. Tất cả các bộ biến quan sát đo lường 04 khái niệm OIhuongvao, OIhuongra, OIkethop và SHTT đều đạt giá trị hội tụ tốt (tất cả các hệ số

tải của các biến quan sát đều tải cao trên cùng một khái niệm) và giá trị phân biệt tốt

(không có khác biệt đáng kể của hệ số tải của một biến quan sát trên các khái niệm khác)

Để đánh giá tính thích hợp của mô hình, nghiên cứu tiến hành phân tích hệ số

KMO (Kaiser-Meyer-Olkin). Để hiển thị chỉ số KMO, dùng lệnh "estat kmo, novar"

khi đó màn hình hiện ra chỉ số KMO như sau:

Kaiser-Meyer-Olkin measure of sampling adequacy (overall) = 0.7170

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Kết quả phân tích nhân tố cho thấy chỉ số KMO là 0,717 > 0,7, điều này chứng

tỏ dữ liệu dùng để phân tích nhân tố là hoàn toàn thích hợp.

Kiểm định Bartlett cũng được sử dụng để xem xét giả thuyết các biến không có

tương quan trong tổng thể.

124

Determinant of the correlation matrix

Det = 0.001

Bartlett test of sphericity

Chi-square = 714.646

Degrees of freedom = 36

p-value = 0.000

H0: variables are not intercorrelated

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy

KMO = 0.717

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Kết quả kiểm định Barlett’s là 714,646 với mức ý nghĩa 5% là (p_value) sig =

0,000 < 0,05, (bác bỏ giả thuyết H0: các biến quan sát không có tương quan với nhau

trong tổng thể) như vậy giả thuyết về ma trận tương quan giữa các biến là ma trận đồng

nhất bị bác bỏ, tức là các biến quan sát có tương quan với nhau trong mỗi nhóm nhân tố

4.2.2.3. Kết quả chạy mô hình hồi quy với biến phụ thuộc là biến định tính

và thỏa điều kiện phân tích nhân tố.

a. Thống kê mô tả về các biến phụ thuộc và độc lập trong mô hình hồi quy

Bảng 4.10 trình bày phân tích tương quan của các biến độc lập. Mặc dù giá trị hệ

số tương quan riêng cho từng cặp biến độc lập không vượt quá ngưỡng 0,7 cho thấy có

hiện tượng đa cộng tuyến, nhưng nghiên cứu này vẫn sử dụng thêm phương pháp tính

toán nhân tố phóng đại phương sai VIF. Giá trị trung bình của VIF là 1,149 và tất cả các

VIF riêng lẻ chạy trong ngưỡng từ 1,203 - 1,103, đều thấp hơn rất nhiều so với điểm

giới hạn là 10. Do đó, nghiên cứu này không gặp phải vấn đề về đa cộng tuyến.

125

(5)

(3)

(6)

(2)

(8)

(9)

Variables (1) OIhuongvao (2) OIhuongra (3) OIkethop (4) RDnoibo (5) Hotronhanuoc (6) SHTT (7) Quymo (8) Danganh (9) Tinhquocte

(1) 1.000 0.141 0.050 0.041 -0.109 -0.017 0.033 -0.086 0.215

1.000 0.061 -0.121 -0.030 0.018 -0.088 0.208 0.015

1.000 0.152 0.147 0.049 -0.008 0.200 0.182

1.000 0.271 0.172 0.119 0.093 0.074

1.000 -0.022 0.023 0.152 0.124

1.000 -0.293 0.104 0.023

1.000 -0.166 0.162

1.000 0.016

1.000

Bảng 4.10: Ma trận hệ số tương quan (7) (4)

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Bảng 4.11: Kết quả tính toán nhân tố phóng đại phương sai VIF

RDnoibo Quymo SHTT Danganh Hotronhanuoc Tinhquocte OIhuongvao OIkethop OIhuongra Mean VIF

1/VIF 0,831 0,834 0,857 0,862 0,868 0,880 0,896 0,906 0,906 .

VIF 1,203 1,199 1,166 1,160 1,152 1,137 1,116 1,104 1,103 1,149

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

b. Kết quả ước lượng của mô hình

Để kiểm định các giả thuyết H1 - H6, nghiên cứu đã chạy các mô hình hồi quy logistic nhị phân để ước lượng tác động của các biến độc lập lên biến phụ thuộc đo lường ĐMST sản phẩm. Mô hình (1) - (5) được chạy để kiểm định các giả thuyết H1 - H4 xây dựng dựa trên lý thuyết ĐMST đóng - mở. Mô hình (6) - (8) được sử dụng để kiểm định các giả thuyết H5 và H6 xây dựng dựa trên lý thuyết thể chế IBV. Mô hình (9a) và (9b) xem xét đầy đủ tác động đồng thời của tất cả 6 biến độc lập và 3 biến kiểm soát lên biến phụ thuộc ĐMST sản phẩm, trong đó mô hình (9a) không kiểm soát hiệu ứng cố định vùng (region FE) còn mô hình (9b) đã kiểm soát về hiệu ứng cố định vùng. Chi tiết về kết quả hồi quy của 10 mô hình ước lượng được trình bày ở phụ lục 5.

Phần phân tích dưới đây tập trung vào báo cáo kết quả ước lượng của mô hình chính (9b) để giải thích việc chấp nhận hay bác bỏ các giả thuyết từ H1 - H6, kết quả ước lượng và kiểm định của mô hình chính được thể hiện từ hình 4.12 đến 4.16. Nhìn vào hình 4.12, kết quả ước lượng của cả hai mô hình (9a) không có kiểm soát hiệu ứng cố định vùng và (9b) có kiểm soát hiệu ứng cố định vùng đều cho thấy rằng ĐMST mở hướng vào (OIhuongvao) và ĐMST mở kết hợp (OIkethop) có tác động trực tiếp và tích

126

cực đến ĐMST sản phẩm trong khi bằng chứng thực nghiệm không chỉ ra mối liên hệ giữa ĐMST mở hướng ra (OIhuongra) và ĐMST sản phẩm. Điều này cho thấy rằng các giả thuyết H1, H2, H3 của nghiên cứu này được ủng hộ. Tuy nhiên giả thuyết H4 lại không được ủng hộ khi mà cường độ R&D nội bộ (RDnoibo) không có tác động đến ĐMST sản phẩm trong mô hình (9a) và thậm chí là có quan hệ tiêu cực với ý nghĩa thống kê tương đối lớn (p < 0.05) ở mô hình (9b) . Liên quan đến lý thuyết thể chế IBV, mô hình (9b) đánh giá kết hợp hai biến số đo lường chất lượng thể chế, bao gồm Hotronhanuoc và SHTT, lên ĐMST sản phẩm. Kết quả ước lượng chỉ ra rằng giả thuyết H5 được chấp nhận nhưng giả thuyết H6 bị bác bỏ.

Bảng 4.12: Kết quả ước lượng mô hình hồi quy logistic nhị phân

Biến phụ thuộc: PI

(1) Mô hình 9a 1,903*** (0,672) 0,053 (0,627) 1,449*** (0,562) -0,791 (0,921) 3,695* (1,925) 1,143 (0,873) 2,600*** (0,797) -1,032 (1,229) -1,233 (1,137) NO 0,912 (1,529) 106 0,470 0,063

(2) Mô hình 9b 3,375** (1,610) 1,472 (0,998) 2.300*** (0,885) -2,117** (1,022) 8,335** (3,248) 1,748 (1,310) 4,363*** (1,510) -5,308* (3,167) -2,867 (2,118) YES 6,899* (4,043) 106 0,618 0,254

0,035

0,004

0,470 0,446 -420,377 0,865

0,618 0,431 -414,018 0,991

0,384 92,45%

0,311 95,28%

OIhuongvao OIhuongra OIkethop RDnoibo Hotronhanuoc SHTT Quymo Danganh Tinhquocte Region FE _cons Observations Pseudo R2 Prob > Wald c2 Prob > LR c2 McFadden's Pseudo R2 AIC BIC Prob> Hosmer-Lemeshow c2 _hatsq (linktest) Corrected classsification Robust standard errors are in parentheses *** p<.01, ** p<.05, * p<.1

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

127

Để kiểm tra tính vững của các ước lượng, nghiên cứu cũng trình bày chi tiết các

mô hình (1) - (8) ở phụ lục 5. Có thể thấy rằng các ước lượng tương đối thống nhất về ý

nghĩa thống kê và chiều của tác động giữa các mô hình (1) - (9b), vì thế kết quả ước

lượng đảm bảo được tính vững.

c. Kết quả mức ý nghĩa thống kê của hệ số ước lượng và độ phù hợp của mô hình đầy đủ

Mô hình 9b (mô hình đầy đủ có kiểm soát hiệu ứng cố định vùng) được sử dụng

để giải thích tác động của các biến độc lập lên biến phụ thuộc vì có các chỉ số kiểm định

ý nghĩa thống kê của hệ số ước lượng bao gồm Prob > Wald c2, Prob > LR c2 và kiểm định độ phù hợp bao gồm Mcfadden ^=, AIC, BIC, _hatsq, Prob> Hosmer-Lemeshow

c2 và Corrected classsification của mô hình nhìn chung tốt và tốt hơn các mô hình khác.

Chi tiết về các test kiểm định ý nghĩa thống kê của hệ số ước lượng và độ phù hợp của

mô hình (9b) như sau:

Nghiên cứu kiểm định ý nghĩa thống kê của hệ số ước lượng thông qua Wald c2

tests và Likelihood ratio c2 test với giả thuyết H0 là các hệ số ước lượng beta bằng 0,

kết quả từ bảng 4.12 chỉ ra Prob > Wald c2 = 0,254. Vì thế tác giả sẽ tiến hành Wald

tests để kiểm định riêng rẽ từng hệ số ước lượng của các biến số độc lập chính, kết quả

cho thấy có thể bác bỏ các giả thuyết H0 đối với các hệ số ước lượng của biến số

OIhuongvao (p-value = 0,036), OIkethop (p-value = 0,009), RDnoibo (p-value = 0,038),

Hotronhanuoc (p-value = 0,010) nhưng hệ số ước lượng của OIhuongra (p-value =

0,140) và SHTT (p-value = 0,182) thì không có ý nghĩa thống kê.

Đối với kiểm định LR, kết quả cho thấy Prob > LR c2 = 0.004 < 0,01, chứng tỏ

có thể bác bỏ giả thuyết H0 ở mức ý nghĩa 1%, cho thấy các hệ số ước lượng của các

biến độc lập chính đều có ý nghĩa thống kê. Các chỉ số kiểm định độ phù hợp bao gồm Mcfadden ^=, AIC, BIC được sử dụng để so sánh với các mô hình khác được thể hiện trong bảng kết quả 4.13.

128

Bảng 4.13: Kết quả kiểm định độ phù hợp của mô hình (9b) bằng câu lệnh fitstat

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Kiểm định Hosmer - Lemeshow đo lường sự tương thích giữa giá trị thực và giá

trị dự đoán của biến phụ thuộc, với giả thuyết H0: chênh lệch giữa giá trị quan sát và

giá trị dự báo từ mô hình bằng 0. Trong trường hợp này mô hình có độ phù hợp cao do

kiểm định có p_value = 0,991 > 0.1 không có ý nghĩa thống kê, do đó không có cơ sở

bác bỏ được giả thuyết H0.

Bảng 4.14: Kết quả kiểm định độ phù hợp bằng kiểm định Horme-Lemeshow

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

129

Bảng 4.15: Kết quả kiểm định độ phù hợp của mô hình bằng câu lệnh linktest

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Mức độ chính xác của mô hình Logistic nhị phân cũng thể hiện ở bảng 4.16 với

bộ dữ liệu 106 quan sát sử dụng ước lượng mô hình logit: có 99 quan sát có ĐMST sản

phẩm (thuộc nhóm PI= 1), mô hình phân nhóm đúng (dự báo đúng xác suất ĐMST sản

phẩm) 97 quan sát, đạt tỉ lệ 97,98% (nhìn dòng sensitivity); trong 7 quan sát không có

đổi mới sản phẩm (thuộc nhóm PI = 0), mô hình phân nhóm đúng (dự báo đúng xác suất không có đổi mới sản phẩm 4 quan sát), chỉ đạt tỉ lệ 57,14% (nhìn dòng specificity). Mô

hình có tỉ lệ specificity không cao một phần do việc phân loại này rất nhậy cảm với kích

thước của các nhóm thành phần và thường có xu hướng phân loại các quan sát vào các nhóm thành phần nhiều quan sát17. Bảng kết quả cho thấy mức độ dự đoán đúng của toàn bộ mô hình là = 95,28%. Các diễn giải trên chỉ ra rằng mô hình này dùng để dự

17 https://www.stata.com/manuals14/restatclassification.pdf

đoán khả năng ĐMST sản phẩm của các DNKH&CN thì sẽ khả quan hơn.

130

Bảng 4.16: Kết quả kiểm định độ phù hợp của mô hình bằng bảng phân loại

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

d. Kết quả hồi quy logistic nhị phân của mô hình chính (9b)

Từ bảng kết quả 4.12 trên ta có thể xác định phương trình hồi qui logistic của mô

hình đầy đủ:

6( ?@'+7|A') 7/6( ?@'+7|A')

bc = > = 6,899 + h, hij ∗ @'AB.2/CD.∗∗∗ + ), lim ∗ @'AB.2/ED +

m, hnn ∗ @'FG1A.#∗∗∗ − 2,177 ∗ ^qcrstr + u, hhj ∗ K.1E.2AD2B.L∗ + 1,748 ∗ wxyy + l, hzh ∗ OBPQ.∗∗∗ − 5,308 ∗ q}c~}cℎ − 2,867 ∗ yscℎÄÅrÇÉ]

Trong đó: p( PIC = 1|XC) là xác suất để doanh nghiệp có ĐMST sản phẩm. Về

chiều và ý nghĩa thống kê của tác động, có thể kết luận như sau:

• Theo kết quả ước ượng của mô hình, biến OIhuongvao có hệ số :# = 3,375 > 0 chỉ ra tác động thuận chiều của OIhuongvao tới biến phụ thuộc p(PIC = 1|OIhuongvao), tức là kết quả hồi quy đã chứng minh được tác động tích cực của hoạt động ĐMST mở, cụ thể là ĐMST mở hướng vào tới khả năng ĐMST sản phẩm của

DNKH&CN.

Giả thuyết H1: Hoạt động ĐMST mở hướng vào có tác động tích cực đến khả

131

năng ĐMST sản phẩm của DNKH&CN được chấp nhận ở mức ý nghĩa 5%.

• Theo kết quả ước ượng của mô hình, biến OIhuongra có hệ số :0 = ), lim nhưng lại không có ý nghĩa thống kê chỉ ra rằng OIhuongra không có tác động tới biến phụ thuộc p( PIC = 1|è[ℎÅrc~ê}), tức là kết quả hồi quy đã chứng minh được không tồn tại mối quan hệ giữa ĐMST mở hướng ra tới khả năng ĐMST của DNKH&CN. Kết

quả nghiên cứu ủng hộ giả thuyết H2: Hoạt động ĐMST mở hướng ra không có tác động

đến khả năng ĐMST sản phẩm của DNKH&CN.

• Theo kết quả ước ượng của mô hình, biến OIkethop có hệ số :1 = 2,3> 0 chỉ ra tác động thuận chiều của OIkethop tới biến phụ thuộc p( PIC = 1|è[ë]Éℎrí), tức là kết quả hồi quy đã chứng minh được tác động tích cực của hoạt động ĐMST mở, cụ thể

là ĐMST mở kết hợp tới khả năng ĐMST sản phẩm của DNKH&CN.

Giả thuyết H3: Hoạt động ĐMST mở kết hợp có tác động tích cực đến khả năng

ĐMST sản phẩm của DNKH&CN được chấp nhận ở mức ý nghĩa 1%.

• Theo kết quả ước ượng của mô hình, biến Hotronhanuoc có hệ số :3 = 8,335 > 0 chỉ ra tác động thuận chiều của Hotronhanuoc tới biến phụ thuộc p( PIC = 1|xrÉêrcℎ}cÅrÇ) , tức là kết quả hồi quy đã chứng minh được tác động tích cực của hỗ trợ nhà nước tới khả năng ĐMST sản phẩm của DNKH&CN.

Giả thuyết H5: Hỗ trợ của nhà nước có tác động tích cực đến khả năng ĐMST

sản phẩm của DNKH&CN được chấp nhận ở mức ý nghĩa 5%.

• Theo kết quả ước ượng của mô hình, biến Quymo có hệ số :5 = 4,363 > 0 chỉ ra tác động thuận chiều của Quymo tới biến phụ thuộc p( PIC = 1|ìÅîïr), tức là kết quả hồi quy đã chứng minh được tác động tích cực của quy mô của tổ chức tới khả năng

ĐMST sản phẩm của DNKH&CN.

• Ngoài ra, theo kết quả ước ượng của mô hình, các biến OIhuongra, SHTT, và

Tinhquocte đều có p-value của hệ số ước lượng > 0,1, tức là các ước lượng đều không

có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 10%, chứng tỏ rằng không tồn tại mối quan hệ giữa ĐMST hướng ra, bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ và tính quốc tế hoá với khả năng ĐMST sản phẩm của các DNKH&CN. Trong khi đó thì cường độ R&D nội bộ (RDnoibo) và mức độ đa dạng ngành/lĩnh vực hoạt động (Danganh) lại có quan hệ ngược chiều và có ý nghĩa thống kê với ĐMST sản phẩm.

Như vậy không như kì vọng của nghiên cứu, các giả thuyết sau đây bị bác bỏ: - Giả thuyết H4: Cường độ R&D nội bộ có tác động tích cực đến khả năng năng

ĐMST sản phẩm của các DNKH&CN.

- Giả thuyết H6: Bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ có tác động tích cực

đến khả năng ĐMST sản phẩm của DNKH&CN

132

e. Tác động biên của các biến độc lập đến xác suất đổi mới sáng tạo sản phẩm

của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong mô hình đầy đủ

Phần trên đây, nghiên cứu đã tập trung trình bày các kết quả và thuyết minh về

chiều và mức độ ý nghĩa thống kê đối với tác động từ các biến độc lập và kiểm soát lên

biến phụ thuộc. Về độ lớn của tác động, vì hệ số ước lượng từ các mô hình hồi quy phi

tuyến nói chung và mô hình logistic nhị phân nói riêng rất khó để diễn giải, nên nghiên

cứu này cũng trình bày các tác động biên (marginal effects). Tác động biên đo lường sự

thay đổi trong xác suất xảy ra biến cố khi có sự thay đổi ở một biến độc lập ñD (các biến độc lập khác giữ nguyên ở một giá trị cố định).

Nghiên cứu sẽ sử dụng lệnh margins và lựa chọn cách tiếp cận MEMs – Marginal

Effects at the means và AMEs - Average Marginal Effects. Cách làm này cũng được

Spithoven và các cộng sự (2013) thực hiện trong nghiên về tác động của ĐMST mở lên

kết quả đổi mới sáng tạo. Chi tiết về phần kỹ thuật tính toán tác động biên được tác giả

tham khảo từ Long & Freese (2001) và Williams (2012).

Bảng 4.17: Kết quả phân tích xác suất để doanh nghiệp đổi mới sáng tạo khi tất

cả các biến độc lập có giá trị bằng giá trị trung bình

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Kết quả trên đây có nghĩa là xác suất để doanh nghiệp ĐMST sản phẩm là 99,99%

nếu tất cả các biến độc lập có giá trị bằng giá trị trung bình.

133

Bảng 4.18: Tác động biên các biến độc lập đến xác suất đổi mới sáng tạo sản

(9)

Model 9b

Hệ số ước lượng

Tác động biên

Tác động biên

(AMEs)

(MEMs)

phẩm của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong mô hình đầy đủ

0,098**

OIhuongvao

0,000

3,375**

(0,041)

(0,001)

(1,610)

0,043

OIhuongra

0,000

1,472

(0,029)

(0,000)

(0,998)

0,067***

OIkethop

0,000

2,300***

(0,016)

(0,000)

(0,885)

-0,061**

RDnoibo

-0,000

-2,117**

(0,027)

(0,000)

(1,022)

0,227***

1. Hotronhanuoc

0,007

8,335**

(0,043)

(0,011)

(3,248)

0,051

SHTT

0,000

1,748

(0,036)

(0,000)

(1,310)

0,126***

Quymo

0,000

4,363***

(0,030)

(0,001)

(1,510)

-0,065***

1. Danganh

-0,000

-5,308*

(0,020)

(0,000)

(3,167)

-0,077*

1.Tinhquocte

-0,000

-2,867

(0,042)

(0,001)

(2,118)

_cons

0,560

(1,498)

Region FE

YES

YES

YES

Observations

106

Robust standard errors are in parentheses

*** p<.01, ** p<.05, * p<.1

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Từ bảng 4.18, cột tác động biên AMEs, ta có thể thấy kết luận rằng:

Tại mức ý nghĩa 5%, xác suất ĐMST sản phẩm của doanh nghiệp tăng 9,8% khi

mức độ ĐMST mở hướng vào của doanh nghiệp tăng 1 đơn vị.

Tại mức ý nghĩa 1%, xác suất ĐMST sản phẩm của doanh nghiệp tăng 6,7% khi

mức độ ĐMST mở kết hợp của doanh nghiệp tăng 1 đơn vị.

134

Tại mức ý nghĩa 5%, xác suất ĐMST sản phẩm của doanh nghiệp giảm 6,1% khi

mức độ đầu tư cho hoạt động R&D nội bộ của doanh nghiệp tăng 1 đơn vị.

Tại mức ý nghĩa 1%, xác suất ĐMST sản phẩm của doanh nghiệp tăng 22,7% khi doanh nghiệp chuyển từ trạng thái không nhận được hỗ trợ của nhà nước sang nhận được hỗ trợ của nhà nước.

Tại mức ý nghĩa 1%, xác suất ĐMST sản phẩm của doanh nghiệp tăng 12,6% khi

quy mô của doanh nghiệp tăng 1 đơn vị.

Tại mức ý nghĩa 1%, xác suất ĐMST sản phẩm của doanh nghiệp giảm 6,5% khi

doanh nghiệp chuyển trạng thái hoạt động từ đơn ngành sang đa ngành.

Tại mức ý nghĩa 10%, xác suất ĐMST sản phẩm của doanh nghiệp giảm 7,7%

khi thị trường chính của doanh nghiệp chuyển từ nội địa sang quốc tế.

Tuy nhiên trên đây chỉ là giá trị bình quân, phần sau đây trình bày sơ đồ tác động biên của một số biến độc lập có ý nghĩa thống kê ở trên, sử dụng câu lệnh marginsplot để có thể minh hoạ rõ nét hơn sự thay đổi xác suất khi các biến độc lập thay đổi tại từng giá trị nhất định.

135

Hình 4.10: Tác động biên của các biến độc lập và kiểm soát lên xác suất xảy ra đổi mới sáng tạo sản phẩm

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

136

Như vậy, nghiên cứu đã tiến hành đánh giá tác động của các nhân tố nội sinh bao gồm: (1) ĐMST mở hướng vào, (2) ĐMST mở hướng ra, (3) ĐMST mở kết hợp, (4) Cường độ R&D và các nhân tố ngoại sinh bao gồm: (5) Hỗ trợ nhà nước và (6) Bảo hộ sở hữu trí tuệ, cùng với 3 biến kiểm soát (7) Quy mô, (8) Mức độ đa dạng ngành, (9) Tính quốc tế lên ĐMST sản phẩm trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Nghiên cứu đã đạt được các kết quả như trình bày trong hình 4.11. Tiếp theo đó, chương 5 sẽ bình luận về các kết quả định lượng của dữ liệu khảo sát thu thập được.

Hình 4.11: Tóm tắt kết quả kiểm định các giả thuyết của nghiên cứu

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

137

CHƯƠNG 5

BÀN LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KHUYẾN NGHỊ

5.1. Bàn luận về kết quả nghiên cứu

Trong chương này, tác giả sẽ bình luận về các kết quả định lượng của dữ liệu khảo sát thu thập được. Ngoài những bàn luận về mô hình chính với biến phụ thuộc là biến nhị phân (PI) phản ánh khả năng hình thành sản phẩm/dịch vụ mới, nghiên cứu cũng sẽ tiến hành so sánh với 2 mô hình phụ đánh giá tác động của các biến độc lập lên hai thang đo thứ bậc khác của biến phụ thuộc, phản ánh: (1) Tỉ trọng doanh thu của sản phẩm mới (RE) và (2) mức độ mới của sản phẩm mới (Radical). Kết quả ước lượng của hai mô hình phụ được thể hiện trong phụ lục 6.

5.1.1. Mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo mở và đổi mới sáng tạo sản phẩm

5.1.1.1. Mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo mở hướng vào và đổi mới sáng tạo sản phẩm

DNKH&CN dù tập trung nhiều hơn vào các hoạt động NC&TK, nhưng không phải lúc nào cũng là những doanh nghiệp tự mình thực hiện tất cả các bước trong quá trình đổi mới công nghệ do vẫn mang những đặc điểm về sự hạn chế về nguồn lực của những doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, đồng thời hoạt động trong một môi trường cạnh tranh và những nhu cầu lớn về tài chính, nhân lực và đầu vào khác với doanh nghiệp thông thường. Theo Mai Hà và cộng sự (2015), DNKH&CN liên kết trong một mạng lưới và phụ thuộc nhiều vào nguồn công nghệ bên ngoài như tổ chức KH&CN độc lập, với doanh nghiệp khác hay các tổ chức “mẹ”. Các tổ chức mẹ có thể là các doanh nghiệp lớn hoạt động ở khu vực công nghiệp hay các tổ chức KH&CN (Viện nghiên cứu, trường đại học, …). Trong mọi trường hợp, dù DNKH&CN được hình thành từ loại hình tổ chức mẹ nào thì DN vẫn duy trì tiếp nhận tri thức và công nghệ thông qua hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ, thực hiện hợp đồng phụ, trao đổi tri thức với tổ chức mẹ (Delapierre và cộng sự, 1998). Vì thế, hoạt động của DNKH&CN rất đa dạng. Trong chu trình nghiên cứu cơ bản - nghiên cứu ứng dụng - triển khai - chuyển giao tri thức - phát triển công nghệ/sản phẩm/dịch vụ - thương mại hoá công nghệ/sản phẩm/dịch vụ, DNKH&CN thường bắt đầu thực hiện chức năng nghiên cứu ứng dụng (tổ chức KH&CN sẽ thực hiện các chức năng nghiên cứu cơ bản và các bước phía sau, DNKH&CN sẽ thừa hưởng kết quả KH&CN của tổ chức KH&CN), triển khai thực nghiệm, chuyển giao tri thức hay phát triển công nghệ và cuối cùng là thương mại hoá công nghệ/sản phẩm hình thành từ công nghệ.

138

Như vậy, trong điều kiện thị trường đối mặt với sự bùng nổ về công nghệ và

những sự cạnh tranh khốc liệt của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường khiến cho vòng

đời của các sản phẩm hay vòng đời công nghệ trở nên ngắn lại, những doanh nghiệp đặc

biệt là DNKH&CN sử dụng ĐMST mở hướng vào, cụ thể là hoạt động outsource R&D

và mua các tài sản trí tuệ, với bốn lí do sau đây: (1) Giảm chi phí đầu tư về tài chính,

nhân sự và thời gian để phát triển bộ phận R&D nội bộ, (2) linh hoạt để nắm bắt các cơ

hội tức thì trên thị trường, điều sẽ không thể làm được nếu doanh nghiệp đang tập trung

cho một dự án phát triển công nghệ dài hơi; (3) sử dụng những công nghệ gần như hoàn

chỉnh từ bên ngoài để bổ sung vào quá trình đổi mới nội bộ bên trong doanh nghiệp và

nhằm tận dụng các cơ hội trên thị trường; (4) giúp cho doanh nghiệp có thể phát triển

những sản phẩm có độ phức tạp tương đối dựa trên nền tảng của những công nghệ ngoại

sinh đã được thử nghiệm và chứng minh được tính khả thi.

Các biến quan sát được sử dụng để đo lường khái niệm tiềm ẩn ĐMST mở hướng

vào được nghiên cứu xây dựng dựa trên cơ sở của các nghiên cứu thực hiện ở nước

ngoài, bao gồm nghiên cứu của van de Vrande và cộng sự (2009) nghiên cứu về các

doanh nghiệp SME chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao và là các doanh

nghiệp đa quốc gia tại Hà Lan; Naqshbandi & Jasimuddin (2018) thực hiện tại chi nhánh

của các doanh nghiệp đa quốc gia tại Pháp và Cheng & Huizingh (2014) điều tra các

doanh nghiệp dịch vụ tại khu vực Asean. Tuy nhiên việc sử dụng thang đo từ các nghiên

cứu ở một bối cảnh khác sẽ khiến cho các câu hỏi quan sát cần phải được kiểm chứng

thông qua các phương pháp kiểm tra độ tin cậy của thang đo, nghiên cứu này sử dụng

phương pháp đánh giá thông qua Cronbach’s alpha và phân tích nhân tố khám phá. Kết

quả phân tích từ bảng 4.5a và 4.5b cho thấy rằng các biến quan sát được giữ lại có thể

coi là hai hình thức điển hình và cụ thể nhất của ĐMST mở hướng vào tại các

DNKH&CN, là outsource R&D và tiếp nhận chuyển giao công nghệ.

Cùng hướng với đa số các nghiên cứu trước đây về mối quan hệ tích cực của

ĐMST mở hướng vào và kết quả ĐMST như Parida và cộng sự (2012), Laursen & Salter

(2006), nghiên cứu này đã cung cấp những bằng chứng thực nghiệm về mối liên hệ tích

cực giữa ĐMST mở hướng vào, tức là outsource hoạt động R&D và tiếp nhận chuyển

giao công nghệ, và ĐMST sản phẩm. Vì thế, so với các doanh nghiệp không tìm kiếm

tri thức và công nghệ từ môi trường bên ngoài, DNKH&CN nào tận dụng và quản lý tốt

được các nguồn lực tri thức và công nghệ có sẵn thì sẽ có được sự bổ sung dồi dào cho

các thiếu hụt về nguồn lực, tài chính, đặc biệt là công nghệ, để có thể tăng trưởng nhanh

hơn và đạt được thành công trong đổi mới sáng tạo sản phẩm.

5.2.1.2. Mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo mở hướng ra và đổi mới sáng tạo

sản phẩm

139

Để mở cửa hoạt động đổi mới của mình, doanh nghiệp không những phân vân

giữa quyết định “làm hay mua”, tức là có thực hiện hoạt động ĐMST mở hướng vào

không, mà còn phải quyết định xem nên “giữ hay bán” các công nghệ/sản phẩm của

mình (Dittrich & Duysters, 2007). ĐMST mở hướng ra đề cập đến việc chuyển giao ra

bên ngoài các kiến thức hay công nghệ của doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp khai

thác công nghệ theo cơ chế này, có nghĩa là doanh nghiệp cho phép những ý tưởng và

tài sản trí tuệ chưa được sử dụng hoặc tận dụng được đi ra bên ngoài ranh giới của tổ

chức dưới hình thức bán hoặc tiết lộ (Dahlander & Gann, 2010).

Mặc dù chuyển giao công nghệ ra bên ngoài không phải là hoạt động cốt lõi của

hầu hết các công ty, nhưng một số công ty tiên phong đã gặt hái được những lợi ích rất lớn từ việc thực hiện hoạt động ĐMST mở hướng ra. Doanh thu từ hoạt động cấp phép sử dụng tài sản trí tuệ của IBM là hơn 1,2 tỷ đô la vào năm 2004 cho thấy tầm quan

trọng ngày càng tăng của đổi mới sáng mở hướng ra (Arora và cộng sự, 2002; Chesbrough, 2006). Trên thực tế, những nhà quản lý doanh nghiệp cũng dường như

thoải mái hơn với việc thực hiện các hoạt động ĐMST mở hướng vào so với thực hiện ĐMST mở hướng ra (Davis & Harrison, 2001; Kline, 2003; Lichtenthaler, 2010). Bản

thân hoạt động ĐMST mở hướng ra chứa đựng nhiều rủi ro tiềm tàng. Những rủi ro này

có thể vì doanh nghiệp quyết định chuyển giao những tài sản trí tuệ của họ mà khiến

cho đối thủ cạnh tranh hiện tại hay tiềm năng trở nên mạnh hơn, làm lung lay vị thế cạnh

tranh của bản thân doanh nghiệp (Arora và cộng sự, 2002) . Đồng thời để thực hiện hoạt

động ĐMST mở, các doanh nghiệp cũng phải đối mặt với những thách thức quản lý cao

hơn gây ra bởi đặc tính của thị trường công nghệ không hoàn hảo (Lichtenthaler & Ernst,

2007) cũng như là sự thiếu hệ thống của các quy trình nội bộ chưa thể đáp ứng được yêu

cầu của những hoạt động ĐMST mở hướng ra (Lichtenthaler và cộng sự, 2009). Đặc biệt trong các DNKH&CN Việt Nam việc thực hiện hoạt động ĐMST mở hướng ra đòi hỏi được thách thức rất lớn đến từ việc thực thi Luật Sở hữu trí tuệ tại tại Việt Nam cũng như nhận thức của các nhà quản lý doanh nghiệp về tầm quan trọng của việc đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ. Vì thế là các DNKH&CN tương đối dè chừng trong việc thực hiện ĐMST mở hướng ra. Các biến quan sát được sử dụng để đo lường khái niệm tiềm ẩn

ĐMST mở hướng ra được nghiên cứu xây dựng dựa trên cơ sở của các nghiên cứu thực

hiện ở nước ngoài, bao gồm nghiên cứu của van de Vrande và cộng sự (2009) nghiên

cứu về các doanh nghiệp SME chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao và là các doanh nghiệp đa quốc gia tại Hà Lan và Cheng & Huizingh (2014) điều tra các

140

doanh nghiệp dịch vụ tại khu vực Asean. Tuy nhiên việc sử dụng thang đo từ các nghiên

cứu ở một bối cảnh khác sẽ khiến cho các câu hỏi quan sát cần phải được kiểm chứng

thông qua các phương pháp kiểm tra độ tin cậy của thang đo, nghiên cứu này sử dụng

phương pháp đánh giá thông qua Cronbach’s alpha và phân tích nhân tố khám phá. Kết

quả cho thấy rằng các biến quan sát được giữ lại có thể coi là hai hình thức điển hình và

cụ thể nhất của ĐMST mở hướng vào tại các DNKH&CN, là bán quyền sở hữu và bán

li-xăng.

Đây là nghiên cứu hiếm hoi đánh giá tác động của ĐMST mở hướng ra tới kết

quả đổi mới sáng tạo, cụ thể là ĐMST sản phẩm. Kết quả thực nghiệm đã tìm ra không

có mối liên hệ nào giữa ĐMST mở hướng ra và ĐMST sản phẩm, đồng thuận với phát

hiện của Inauen và Schenker-Wicki (2012) khi nghiên cứu về ĐMST mở tại các doanh

nghiệp lên sàn chứng khoán ở các quốc gia châu Âu, bao gồm Đức, Thuỵ Sĩ và Áo. Tuy

nhiên điều này không có nghĩa rằng việc thực hiện ĐMST mở hướng ra là không đem

lại kết quả nào tích cực dành cho doanh nghiệp, mục tiêu mà doanh nghiệp thực hiện

ĐMST mở hướng ra là để thu lại được lợi ích về tài chính và các lợi ích phi tài chính khác từ các những ý tưởng, tri thức hay công nghệ ngoài dự tính nhưng lại không được

sử dụng do nhiều lý do như không phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp không đủ tiềm lực để tiếp tục phát triển thành sản phẩm. Tuy nhiên, vì

trong nghiên cứu này biến số đo lường kết quả ĐMST là ĐMST sản phẩm, nên mối

quan hệ giữa hoạt động ĐMST mở hướng ra và ĐMST sản phẩm trở nên rất yếu. Kết

5.2.1.3. Mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo mở kết hợp và đổi mới sáng tạo sản phẩm

quả tìm được đúng với kì vọng của tác giả.

Ngoài thực hiện các hoạt động đổi mới sáng tạo mở hướng vào và hướng ra,

doanh nghiệp còn có thể thực hiện các hoạt động ĐMST mở kết hợp, tức là cơ chế kết

hợp giữa ĐMST mở hướng vào và ĐMST mở hướng ra. Gassmann và Enkel (2004) đã định nghĩa cơ chế ĐMST mở kết hợp là khi cả hoạt động ĐMST mở hướng vào và hướng ra cùng tồn tại thông qua mối quan hệ đối tác, hợp tác, liên minh, liên doanh,…trong hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), chế tạo, sản xuất hay là thương mại hoá sản phẩm. Các hoạt động kết hợp này có thể tạo ra các kết quả khác biệt so với việc doanh nghiệp chỉ thuần thực hiện hoạt động ĐMST mở hướng ra hay ĐMST mở hướng vào.

Việc thực hiện các hoạt động ĐMST mở hướng vào (mua li-xăng, outsource R&D, mua sở hữu trí tuệ …) sẽ khiến các doanh nghiệp phải trả một khoản chi phí đáng kể để có quyền sở hữu và sử dụng các kết quả nghiên cứu từ bên ngoài. Trong khi đó, trong một thỏa thuận hợp tác, doanh nghiệp và đối tác bên ngoài cùng ĐMST và chia sẻ

141

lợi ích. Các nghiên cứu về ĐMST mở chỉ ra rằng các doanh nghiệp hợp tác trong các hoạt động ĐMST để chia sẻ rủi ro kinh doanh, giảm chi phí R&D, khai thác tối ưu các nguồn lực và mở rộng kỹ năng, sau đó nâng cao lợi thế cạnh tranh (Das & Teng, 2000; Garcia Martinez và cộng sự, 2014; Medda, 2020). Nhờ sự hợp tác, các doanh nghiệp sẽ không chỉ tích lũy bộ kỹ năng chuyên biệt từ các đối tác mà còn có thể nâng cao năng lực R&D nội bộ của mình và nắm bắt các phương pháp sản xuất, phân phối hoặc hỗ trợ mới bằng cách cho nhân viên và nhà quản lý R&D nội bộ tiếp cận với kiến thức, công nghệ mới (Kuittinen và cộng sự, 2013). Ngoài ra, Pisano (1990) còn chỉ ra rằng hợp tác có thể giúp các doanh nghiệp vượt mặt các đối thủ cạnh tranh nhờ rút ngắn thời gian tạo thành kết quả ĐMST.

Đối với các DNKH&CN, liên kết hợp tác có thể hình thành giữa DN và các tổ chức mẹ (tổ chức thành lập ra DNKH&CN, có thể là doanh nghiệp lớn hay các tổ chức KH&CN) hay xảy ra giữa DN và các tổ chức KH&CN và doanh nghiệp hoạt động độc lập khác (Mai Hà và cộng sự, 2015). Việc liên kết hợp tác của DNKH&CN xảy ra rất thường xuyên và phổ biến. Nhiều DNKH&CN trong suốt giai đoạn đầu phát triển (giai đoạn khởi nghiệp) và các giai đoạn sau này vẫn duy trì liên kết với tổ chức mẹ như là sử dụng chung công nghệ và các nguồn lực vật chất và phi vật chất khác. Bernardt và cộng sự (2002) kết luận trong nghiên cứu của mình là hầu hết các DNKH&CN đều đánh giá sự hỗ trợ của tổ chức mẹ đóng góp vào sự thành công của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, DNKH&CN hình thành các liên kết, hợp tác với trường đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài nước, với doanh nghiệp trong và ngoài nước, các khách hàng, đối tác kinh doanh, nhà cung cấp và nhiều liên kết, hợp tác khác. Theo nghiên cứu của Mustar (1994), trong số những DNKH&CN mà nghiên cứu điều tra thì có một nửa trong số đó không thuộc mạng lưới liên kết bị phá sản sau 5 năm hoạt động, ngược lại hơn 75% DNKH&CN thuộc một mạng lưới liên kết đạt được sự tăng trưởng nhanh hơn so với trung bình các doanh nghiệp khác.

18 Trong nghiên cứu của Parida và cộng sự (2012), các hoạt động ĐMST mở chỉ được phân chia thành 02 nhóm: ĐMST mở hướng vào và ĐMST mở hướng ra mà không có cơ chế ĐMST mở kết hợp. Vì thế mặc dù nghiên cứu gốc của các tác giả chỉ ra 04 hoạt động của ĐMST mở hướng vào bao gồm: tìm kiếm công nghệ (technology scouting), hợp tác công nghệ theo chiều dọc (vertical technology collaboration), hợp tác công nghệ theo chiều ngang (horizontal technology collaboration) và lựa chọn công nghệ (Technology sourcing), nhưng nghiên cứu này chỉ xếp tìm kiếm công nghệ và lựa chọn công nghệ thuộc về ĐMST mở hướng vào, hai hình thức còn lại của hợp tác công nghệ thực chất là thuộc về cơ chế kết hợp

Kết quả thực nghiệm của nghiên cứu này đã tìm thấy tác động tích cực của hợp tác trong R&D và sản xuất đối với ĐMST sản phẩm đo lường bằng cả biến phụ thuộc nhị phân PI và biến phụ thuộc thứ bậc RE (chi tiết xem kết quả ước lượng mô hình 9c và 9d ở phụ lục 6), kết quả này cùng hướng với các nghiên cứu trước đây Klomp & Van Leeuwen, 2001; Monjon & Waelbroeck, 2003; Jajodia & Wijesekera, 2005; Fosfuri & Tribó, 2008; Kuittinen và cộng sự, 2013; Parida và cộng sự, 201218. Do vậy, có thể kết luận rằng, để phát triển và đạt được thành tựu đổi mới sáng tạo sản phẩm và đạt được

142

tăng trưởng trong tỉ trọng doanh thu đến từ sản phẩm mới, DNKH&CN cần có những hợp tác với các chủ thể từ bên ngoài dưới nhiều hình thức, có thể là hợp tác toàn diện, hay hợp tác một phần trong hoạt động nghiên cứu triển khai và sản xuất kinh doanh.

5.1.2. Mối quan hệ giữa hỗ trợ nhà nước và đổi mới sáng tạo sản phẩm

Nhiều quốc gia trên thế giới đã nhấn mạnh sự cần thiết hỗ trợ của Nhà nước cho

việc hình thành và phát triển của các DNKH&CN. DNKH&CN đóng vai trò ngày càng

quan trọng trong đổi mới sáng tạo, hình thành thị trường sản phẩm dịch vụ mới có giá

trị cao, tạo ra ảnh hưởng tích cực khác đến xã hội như mở rộng cơ hội việc làm ở những

lĩnh vực mới, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Bên cạnh đó, những thành

tựu của DNKH&CN cũng có ảnh hưởng rất lớn đến các ngành công nghiệp khác nhau,

giúp các doanh nghiệp liên quan gia tăng năng suất nhờ vào phương thức sản xuất mới,

giảm chi phí đầu vào, giúp doanh nghiệp trở nên cạnh tranh hơn và tăng trưởng nhanh

hơn (Mai Hà và cộng sự, 2015). DNKH&CN là đối tượng cần được thụ hưởng các chính

sách hỗ trợ đặc biệt từ Chính phủ bởi: (1) DNKH&CN tập trung nhiều vào các hoạt động NC&TK - có độ rủi ro cao, (2) DNKH&CN là những doanh nghiệp nhạy cảm trước những biến động, có những cơ hội đầu tư cho NC&TK cần phải được nắm bắt kịp thời, (3) Nhu cầu trên thị trường về các sản phẩm/ dịch vụ mới mà DNKH&CN tạo ra

là rất khó dự báo, (4) Những người sáng lập ra DNKH&CN tuy có được trình độ chuyên môn và kỹ năng cao, giàu về kinh nghiệm nhưng lại thiếu về kỹ năng quản lý và kinh

doanh, (5) DNKH&CN có những nhu cầu tài chính đa dạng ở những thời điểm khác

nhau trong vòng đời phát triển của mình.

Kết quả của nghiên cứu này chỉ ra rằng các chính sách và quy định hỗ trợ của

chính phủ có thể tạo điều kiện thúc đẩy ĐMST của các doanh nghiệp KH&CN ở cả ba

thước đo khả năng ĐMST sản phẩm, tỷ trọng doanh thu từ sản phẩm mới, mức độ mới

của sản phẩm mới (chi tiết xem tại phụ lục 6). Kết quả này cùng hướng với một loạt các

nghiên cứu thực nghiệm trước đây chỉ ra tác động tích cực của các chính sách của chính

phủ thúc đẩy đến sự ĐMST trong các doanh nghiệp (Coombs & Tomlinson, 1998;

Becheikh và cộng sự, 2006) và hỗ trợ tài chính được cấp bởi các chính phủ dưới dạng

trợ cấp, tín dụng hay giải thưởng sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới nhiều hơn

(Caird, 1994; Keizer và cộng sự, 2001; Souitaris, 2001; Romijn & Albaladejo, 2002;

Jaumotte & Pain, 2005). Trong bối cảnh nghiên cứu này vai trò của Chính phủ rất quan

trọng giúp các doanh nghiệp KH&CN có thể thương mại hoá công nghệ thành công,

cũng tức là ĐMST thành công. Teece và cộng sự (1997) cũng đã đưa ra quan điểm các

chính sách công của Chính phủ thường được nhìn nhận là những hàng rào để tạo điều

143

kiện thuận lợi hay hạn chế các hoạt động của doanh nghiệp, để thương mại hoá công

nghệ đòi hỏi doanh nghiệp nói chung tiếp cận được các hoạt động hỗ trợ do Chính phủ

cung cấp. Tại Việt Nam và một số quốc gia khác, các DNKH&CN có đặc trưng chung

đó là được Chính phủ hỗ trợ về cơ sở hạ tầng và các chính sách khuyến khích. Sự phát

triển nhanh chóng cả về lượng và chất của các DNKH&CN có thể coi là xuất phát từ rất

nhiều hỗ trợ từ Nhà nước như miễn, giảm các loại thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế

nhập khẩu, ưu đãi về tín dụng, về vốn đầu tư ban đầu, hỗ trợ về đất đai nhà xưởng, dịch

vụ xã hội và những điều kiện ưu đãi khác. Một phần nữa, Mai Hà và cộng sự (2015)

cũng đưa ra lập luận rằng, các DNKH&CN tại Việt Nam vẫn có nhiều là thuộc sở hữu

của nhà nước hay đôi khi là có nguồn gốc xuất phát từ các cơ quan nhà nước nên các

yếu tố về thể chế thường chi phối nhiều đến kết quả hoạt động của các DNKH&CN nói

chung và kết quả ĐMST nói riêng. Kinh nghiệm ở hầu hết các nước Châu Âu cho thấy

nước nào có những chính sách hỗ trợ riêng biệt cho DNKH&CN thì các DNKH&CN có

nhiều thành công hơn so với các quốc gia khác (Storey & Tether, 1998). Thiếu các chính

sách hỗ trợ hay các chính sách không hiệu quả sẽ khiến cho các DNKH&CN không thể

thực hiện đúng vai trò và chức năng của mình như là những doanh nghiệp động lực công

nghệ. Vì thế nghiên cứu này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của việc hoạch

định và tổ chức thực thi những chính sách nhằm hỗ trợ, cấp ưu đãi cho DNKH&CN.

5.1.3. Mối quan hệ giữa quy mô và đổi mới sáng tạo sản phẩm

Là một trong các biến đại diện cho đặc trưng tổng quát của doanh nghiệp, biến

quy mô của doanh nghiệp là một trong những biến số quan trọng và hay được sử dụng

trong các mô hình đánh giá tác động đến kết quả ĐMST (Lichtenberg & Siegel, 1991;

Cohen & Klepper, 1996; Kafouros và cộng sự, 2008). Mối quan hệ tích cực này có thể

được giải thích như sau. Thứ nhất, những doanh nghiệp lớn thường có lợi thế về nguồn

lực để ĐMST và tham gia vào các hoạt động chứa nhiều rủi do hơn là những doanh

nghiệp nhỏ (Damanpour, 1992; Majumdar, 1995; Tsai, 2001). Đối với DNKH&CN,

thường phải tham gia vào các hoạt động NC&TK nhiều hơn các doanh nghiệp khác và

vì thế phải đối mặt với rủi ro cao hơn cũng như chịu những độ trễ trong đầu tư. Vì thế

mà quy mô càng lớn, đặc biệt ở nghiên cứu này sử dụng thước đo quy mô là tổng số

nhân lực của doanh nghiệp, đồng nghĩa với tiềm lực về vốn con người càng vững mạnh.

Điều này đặc biệt quan trọng ở những DNKH&CN - loại hình doanh nghiệp tạo ra hàng

hoá và dịch vụ chủ yếu dựa vào sự phát triển, sở hữu và áp dụng tri thức. Càng nhiều

nhân lực làm việc trong bộ phận R&D sẽ càng hỗ trợ tích cực cho việc đầu tư vào các

hoạt động NC&TK tạo ra kết quả đổi mới sáng tạo. Thứ hai là những doanh nghiệp lớn

144

có thể thu được lợi ích từ lợi thế về sản xuất và marketing (Stock và cộng sự, 2002). Đổi

mới sáng tạo không phải chỉ dừng lại ở việc tạo ra sáng chế mà còn lại thương mại hoá

thành công sáng chế đó trên thị trường, tức là DNKH&CN không phải chỉ tham gia vào

hoạt động nghiên cứu ứng dụng và triển khai công nghệ mà còn là phát triển công nghệ

đó và thương mại hoá sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN. Vì thế, với quy mô lớn

hơn, doanh nghiệp có thể có được lợi thế hơn về nhân lực tham gia vào các hoạt động

phi R&D như sản xuất và marketing sản phẩm, từ đó ĐMST thành công.

Tuy nhiên khi đánh giá tác động của quy mô tới hai thước đo ĐMST sản phẩm

khác là tỷ trọng doanh thu từ sản phẩm mới (RE) và mức độ mới của sản phẩm mới

(Radical), kết quả ước lượng tại phụ lục 6 chỉ ra rằng các doanh nghiệp lớn hơn không

có ưu thế hơn để tăng trưởng doanh thu từ sản phẩm mới hay mức độ mới của sản phẩm

(chi tiết xem ở phụ lục 6). Đây cũng là một phát hiện thú vị của nghiên cứu, các hạn chế

liên quan đến quy mô dù ảnh hưởng đến khả năng tạo ra sản phẩm mới nhưng nếu một

khi doanh nghiệp đã có thể tạo ra được sản phẩm mới thì sự thành công của ĐMST thể

hiện thông qua nguồn thu đến từ sản phẩm mới hay mức độ mới của sản phẩm không

hề bị chi phối bởi sự thiếu thốn về nguồn nhân lực. Nói cách khác, quy mô không quyết

định đến “chất lượng” của đổi mới sáng tạo. Điều này có thể giải thích như sau. Thứ

nhất, sự đột phá của đổi mới sáng tạo thường đến từ những nhà sáng lập của doanh

nghiệp hay đội ngũ nhân lực tinh hoa nhất làm việc tại bộ phận R&D mà không xuất

phát từ số đông các nhân viên của doanh nghiệp. Thứ hai, việc duy trì một bộ máy nhân

lực quá cồng kềnh ở một DNKH&CN có thể là để phục vụ các hoạt động phi R&D của

doanh nghiệp và bộ phận này chỉ góp phần duy trì doanh nghiệp và những nguồn doanh

thu khác chứ không tạo ra doanh thu đến từ các sản phẩm mới. Nguồn doanh thu đến từ

sản phẩm mới rất quan trọng vì nó phần nào phản ánh được khả năng phát triển và mở

rộng mô hình kinh doanh nhanh chóng của một DNKH&CN, điều làm nên sự khác biệt

của các DNKH&CN so với các doanh nghiệp nhỏ và vừa truyền thống.

5.1.4. Bàn luận về kết quả các giả thuyết nghiên cứu không được chấp nhận

5.1.4.1. Mối quan hệ giữa tính đa ngành và đổi mới sáng tạo sản phẩm

Liên quan đến chiến lược tăng trưởng của doanh nghiệp, nghiên cứu này cũng quan tâm đến mức độ chuyên môn hoá (hoạt động đơn ngành) hay đa dạng hoá (hoạt

động đa ngành) sẽ ảnh hưởng tích cực đến ĐMST của doanh nghiệp hơn. Kết quả này

chỉ ra rằng DNKH&CN dù hoạt động trên một lĩnh vực hay nhiều lĩnh vực cũng sẽ

không ảnh hưởng đến năng suất ĐMST của DN đó, cụ thể hơn là ĐMST sản phẩm sẽ không phụ thuộc vào việc DN đầu tư vào đơn hay đa lĩnh vực.

5.1.4.2. Mối quan hệ giữa tính cường độ R&D và đổi mới sáng tạo sản phẩm

145

Nghiên cứu này thu được một phát hiện khá bất ngờ đó là cường độ nghiên cứu

và phát triển nội bộ của DNKH&CN không có tác động đến ĐMST sản phẩm (đo lường

bằng thước đo khả năng hình thành sản phẩm mới PI).

Hoạt động nghiên cứu và phát triển nội bộ (R&D nội bộ) là biến số rất quan trọng

quyết định đến khả năng tạo ra kết quả ĐMST của doanh nghiệp. Theo Cohen & Levithal

(1989), R&D có vai trò kép trong sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và tạo ra

thành quả ĐMST nói riêng. Thứ nhất là nó góp phần phát triển tiềm lực bên trong của

doanh nghiệp bằng việc tạo ra các ý tưởng, khai thác và chuyển hoá các tri thức và ý

tưởng thành công nghệ, sản phẩm hay quy trình mới. Thứ hai là góp phần duy trì và tăng

khả năng hấp thụ (absorptive capacity) tiếp cận, tìm hiểu cặn kẽ và khai thác tối đa các

tiềm lực của các luồng tri thức từ bên ngoài và thu hút những đối tác hợp tác đối với

doanh nghiệp. Ngoài ra, trong các lĩnh vực công nghệ cao và mới, thực hiện R&D nội

bộ là rất quan trọng bởi doanh nghiệp gần như không thể mua được công nghệ mới từ môi trường bên ngoài hay từ những đối thủ cạnh tranh và nếu có thể mua được thì chi

phí cũng rất đắt đỏ (Lee, 1995).

Mối quan hệ không đáng kể của R&D nội bộ và khả năng tạo thành ĐMST sản

phẩm gợi ý rằng các DNKH&CN có thể sử dụng các phương thức ĐMST mở để thay thế thay vì đầu tư thêm R&D nội bộ để đạt được kết quả đổi mới sáng tạo. Điều này

cũng phản ánh được rằng có thể các DNKH&CN của Việt Nam chưa thực sự xem nhiệm

vụ nghiên cứu và phát triển là vũ khí chiến lược để cạnh tranh trong dài hạn, nếu DN có

thể mua thì sẽ mua luôn chứ không làm ra hay ít nhất là đóng góp một phần.

Ngoài lý do trên, không loại trừ một nguyên nhân khác rằng kết quả này một

phần do dữ liệu thu thập được là dữ liệu chéo, không phản ánh được đầy đủ mối quan

hệ của cường độ NC&TK nội bộ và ĐMST sản phẩm trong DNKH&CN. Chamanski & Waagø (2001) nhận định rằng, DNKH&CN cần có sự đầu tư cho hoạt động NC&TK rất lớn trong một thời gian dài, đặc biệt trong những giai đoạn đầu của quá trình phát triển DNKH&CN. Đồng thời, đầu tư cho những DN này cần phải chờ một khoảng thời gian nhất định giữa thời điểm đầu tư ban đầu vào NC&TK và thời điểm có thể tạo ra lợi nhuận, cũng tức là thành công thương mại hoá sản phẩm/ dịch vụ, tức là ĐMST thành công. Chính vì thế dữ liệu trong nghiên cứu này chỉ phản ánh được tình trạng trong một năm của DNKH&CN mà không phản ánh được dữ liệu thay đổi qua nhiều năm, tức là không phản ánh được độ trễ của hiệu quả từ đầu tư cho NC&TK nội bộ tới kết quả

ĐMST của doanh nghiệp.

146

Tuy nhiên để có thể xem xét toàn diện hơn về tác động của nghiên cứu và triển

khai nội bộ lên ĐMST sản phẩm, kết quả hồi quy với hai thước đo biến phụ thuộc RE

và Radical cho thấy rằng R&D nội bộ vẫn rất quan trọng khi có ảnh hưởng tích cực đến

tỷ trọng doanh thu đến từ sản phẩm mới và mức độ mới của sản phẩm mới. Điều này

chỉ ra rằng để có thể tăng trưởng về mặt doanh thu đến từ sản phẩm mới hay tạo ra sản

phẩm thực sự có tính đột phá và cạnh tranh, DNKH&CN vẫn rất cần phải đầu tư phát

5.1.4.3. Mối quan hệ giữa tính quốc tế và đổi mới sáng tạo sản phẩm

triển bộ phận R&D nội bộ song song với các hoạt động ĐMST mở.

Kết quả từ các mô hình cho thấy tính quốc tế hoá không có tác động tới khả năng

ĐMST của DNKH&CN, có nghĩa là định hướng quốc tế không ảnh hưởng đến một

doanh nghiệp để ĐMST sản phẩm. Nói cách khác, bất kể đặc điểm của thị trường, các

doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi quốc gia hay trên thị trường quốc tế vẫn cần

phải ĐMST sản phẩm để có thể duy trì được khả năng cạnh tranh, vị thế trong mạng

5.1.4.4. Mối quan hệ giữa bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ và đổi mới sáng

tạo sản phẩm

lưới liên kết hợp tác cũng như là duy trì được những lợi ích, ưu đãi của Nhà nước dành cho cho các hoạt động tạo công nghệ/sản phẩm/dịch vụ mới.

Nghiên cứu này lại không cho thấy bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ có mối liên hệ với khả năng hình thành ĐMST sản phẩm của các DNKH&CN. Thậm chí

khi ước lượng tác động của SHTT tới tỷ trọng doanh thu từ sản phẩm mới thì SHTT còn

có tác động tiêu cực.

Trong thực tế, có nhiều cách để bảo vệ tài sản trí tuệ. Một lựa chọn là để tài sản

trí tuệ được giữ bí mật. Mặc dù tùy chọn này được các doanh nghiệp sử dụng rộng rãi

(Cohen và cộng sự, 2000), nhưng điều này có thể gây ra lãng phí cho toàn xã hội nếu

như những người ĐMST tiềm năng dựa trên kết quả của nghiên cứu của người khác

không thể tiếp cận thông tin cần thiết (Jaumotte & Pain, 2005). Một lựa chọn thay thế

là sử dụng biện pháp bảo hộ chính thức đối với các quyền sở hữu trí tuệ như đăng ký

cấp bằng sáng chế, bản quyền hoặc nhãn hiệu. Cơ chế của việc đăng ký quyền sở hữu

trí tuệ đó là trao cho các nhà sáng chế quyền tạm thời loại trừ những người khác tiếp cận

và sử dụng sáng chế của họ đồng thời cho phép các nhà sáng chế kiếm được tiền từ cho

thuê tài chính (li-xăng) hay bán tài sản trí tuệ nhằm bù đắp cho các khoản đầu tư nghiên

cứu của họ, do đó cung cấp các động lực khuyến khích các nhà sáng chế hay doanh

nghiệp tiếp tục đầu tư vào hoạt động R&D và khuyến khích sự phát triển công nghệ mới

147

(Whitaker & Nordhaus, 1970). Tuy nhiên khác với Argente và cộng sự (2020), nghiên

cứu này không tìm được bằng chứng về mối quan hệ giữa bảo hộ và thực thi quyền sở

hữu trí tuệ đối với đổi mới sáng tạo sản phẩm.

Biến số bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở nghiên cứu này được đo lường

dựa trên ba biến quan sát đó là: thủ tục đăng ký và xác lập quyền bảo hộ SHTT, xâm

phạm quyền SHTT và yêu cầu thực thi quyền bảo hộ SHTT.

Việc bác bỏ giả thuyết này có thể được giải thích là do bảo hộ và thực thi bảo hộ

SHTT đối với các DNKH&CN nói riêng chưa thực sự hiệu quả, không góp phần kích

thích khả năng hình thành đổi mới sáng tạo sản phẩm của các doanh nghiệp. Nguyên

nhân đầu tiên xuất phát từ phía DNKH&CN, có thể còn chưa nhận thức được tầm quan

trọng của SHTT nên chưa đăng ký bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp. Dữ liệu

thu thập được chỉ ra rằng DNKH&CN ở Việt Nam chưa chú trọng đúng mức đến vấn

đề bảo hộ quyền SHTT cho các tài sản trí tuệ của mình. Trong khi đó, quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng yêu cầu doanh nghiệp phải chủ động nắm giữ và khai

thác hiệu quả quyền SHTT thì mới có thể tồn tại và phát triển. Vì thế có thực trạng xảy

ra rằng dù không đăng ký quyền SHTT thì doanh nghiệp vẫn giới thiệu sản phẩm / dịch

vụ đổi mới ra thị trường, điều này thường khiến cho doanh nghiệp chịu thiệt thòi và rắc

rối pháp lý khi mà đối thủ cạnh tranh đăng ký bảo hộ SHTT sản phẩm tương tự ở thị

trường nội địa và quốc tế. Nguyên nhân thứ hai cũng được coi là chủ quan đến từ hạn

chế về nguồn lực của các DNKH&CN, các cơ chế bằng sáng chế gây tốn kém cho hầu

hết các DNKH&CN Việt Nam khi muốn được bảo hộ trong nước hay thậm chí cả ở các

thị trường quốc tế. Doanh nghiệp chỉ lấy đăng ký bảo hộ sáng chế của họ nếu họ nhận

thấy cơ hội rõ ràng để thương mại hoá sáng chế đó. Lý do này cũng được nêu ra

bởi Spithoven và cộng sự (2013).

Thứ ba, do cần có thời gian và nhiều thủ tục để theo đuổi bằng độc quyền sáng chế, doanh nghiệp có thể lo sợ rằng sáng chế mình có thể bị bắt chước dễ dàng khi đang trong thời gian chờ cấp bằng sáng chế. Thứ tư, dữ liệu thu thập được chỉ ra rằng DNKH&CN ở Việt Nam gặp tương đối nhiều khó khăn với các vấn đề liên quan đến xâm phạm và thực thi bảo hộ sở hữu trí tuệ. Một ví dụ cụ thể về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi quyền sở hữu trí tuệ của DNKH&CN được tác giả Hoàng

Đức Thảo (2017) nêu ra trong bài viết của mình. Hoàng Đức Thảo là chủ tịch kiêm tổng

giám đốc của Công ty TNHH MTV thoát nước và Phát triển đô thị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (BUSADCO), đây là DNKH&CN đầu tiên trong lĩnh vực xây dựng và bảo vệ môi

trường tại Việt Nam. BUSADCO là doanh nghiệp rất chú trọng đến việc đăng ký bảo

148

hộ cho các tài sản trí tuệ của doanh nghiệp mình bao gồm 21 bằng độc quyền sáng chế,

36 bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp. Tuy nhiên BUSADCO còn gặp không ít

khó khăn liên quan đến chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. BUSADCO bị xâm

phạm quyền SHTT trên phạm vi cả 3 miền Bắc, Trung, Nam. Khi phát hiện những

hành vi xâm phạm quyền SHTT, BUSADCO đã phát văn bản cảnh báo và đồng thời

nhờ các cơ quan chức năng can thiệp xử lý, tuy vậy chỉ có một số đơn vị đã dừng hành

vi vi phạm, tuy nhiên vẫn có không ít các đơn vị vẫn tiếp tục mở rộng sản xuất và trong

thời gian chờ các cơ quan chức năng (Sở KH&CN các địa phương hoặc Bộ KH&CN)

thụ lý hồ sơ. Việc ngăn chặn hành vi vi phạm SHTT gây rất nhiều tốn kém về kinh

phí, thời gian, nhân lực, hành vi của các đối tượng càng về sau càng tinh vi, ở các địa

bàn đa dạng nên rất khó kiểm soát. Việc khó khăn trong bảo hộ và thực thi quyền

SHTT này gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, uy tín cũng như động lực NC&TK

của DNKH&CN này. Để hình thành ra một sản phẩm KH&CN mới, các DNKH&CN

tốn rất nhiều công sức, chất xám và kinh phí cho việc nghiên cứu, thử nghiệm, kiểm

định, xây dựng quy trình, tiêu chuẩn, nghiên cứu thị trường và tìm kiếm khách hàng, tiếp thị và quảng bá sản phẩm.

5.2. Khuyến nghị nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo sản phẩm trong các doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam

5.2.1. Đối với nhà quản lý doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam

5.2.1.1. Khuyến nghị về hoạt động đổi mới sáng tạo mở tại doanh nghiệp

Mối quan hệ tích cực giữa ĐMST mở, cụ thể là ĐMST mở hướng vào và ĐMST

mở kết hợp, đối với ĐMST sản phẩm đã giúp nghiên cứu này khẳng định vai trò của

việc mở cửa ranh giới hoạt động của các DNKH&CN đối với các chủ thể bên ngoài, để

khai thác các nguồn lực có sẵn ngoài xã hội và thị trường, dần dần dịch chuyển từ mô

hình thực hiện các hoạt động ĐMST khép kín sang mô hình hoạt động ĐMST mở. Một số các khuyến nghị dành cho các nhà quản lý DNKH&CN để mở cửa ranh giới của doanh nghiệp như sau:

- Thúc đẩy hoạt động hợp tác ĐMST giữa với các tổ chức KH&CN (trường đại học, viện nghiên cứu,…): Kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng, doanh nghiệp không nên khép kín các hoạt động ĐMST của mình, đặc biệt là đối với các DNKH&CN, sự thiếu

thốn về nguồn lực cộng thêm với việc thiếu thốn các hỗ trợ về chuyên môn từ bên ngoài sẽ rất dễ khiến các DNKH&CN không thể hoàn thành ĐMST hay thậm chí chết yểu. Các

DNKH&CN cần phải đánh giá đúng vai trò của các tổ chức nghiên cứu công lập, các cơ sở giáo dục đại học trong hợp tác, hỗ trợ hoạt động ĐMST của doanh nghiệp, từ đó thiết

149

lập các mối quan hệ trong nghiên cứu và phát triển tri thức khoa học và công nghệ. Đôi

khi các tổ chức KH&CN chính là nguồn cung dồi dào các ý tưởng cũng như công nghệ

mà DNKH&CN tìm kiếm, khai thác và rút ngắn thời gian nghiên cứu và phát triển, sự hỗ

trợ này đặc biệt quan trọng ở giai đoạn khởi nghiệp của doanh nghiệp.

- Hợp tác với các doanh nghiệp khác, kể cả các doanh nghiệp lớn: cụ thể, hợp tác

đổi mới với các công ty lớn có thể cho phép DNKH&CN tiếp cận nguồn tri thức bên

ngoài để phát triển các công nghệ mới, khám phá những ý tưởng kinh doanh mới và

thương mại hoá sản phẩm mới. Một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mở có thể cung cấp

cho các DNKH&CN nguồn hỗ trợ tài chính, bảo vệ họ với các đối thủ cạnh tranh thông

qua tăng cường năng lực sở hữu trí tuệ, tiếp cận tới các tài sản bổ sung ví dụ như các cơ

sở sản xuất, kiến thức về thị trường mới và các kênh phân phối mới (ví dụ đổi mới mô

5.2.1.2. Khuyến nghị về cường độ đầu tư cho hoạt động R&D nội bộ

Từ kết quả nghiên cứu chỉ ra về mối quan hệ của mức độ đầu tư R&D nội bộ và

hình kinh doanh).

khả năng ĐMST sản phẩm, tỷ trọng doanh thu từ sản phẩm mới và mức độ mới của sản

phẩm, nghiên cứu đưa ra khuyến nghị như sau: Cường độ đầu tư cho hoạt động R&D

cần được thay đổi ở những giai đoạn phát triển khác nhau của DNKH&CN. Hầu như

các DNKH&CN vì đặc thù hoạt động của mình, nên đều có bộ phận nghiên cứu và phát

triển riêng biệt, tuy nhiên đầu tư cho bộ phận này cần đi theo chiến lược phát triển như

sau. Ở giai đoạn đầu của sự phát triển, đối với các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình

DNKH&CN còn chưa hoặc không duy trì được khả năng hình thành sản phẩm/ dịch vụ

mới, bên cạnh duy trì đầu tư cho hoạt động R&D ở mức độ vừa phải, nên tích cực tìm

kiếm các nguồn tri thức và công nghệ từ bên ngoài thông qua hình thức mua tài sản trí

tuệ hay outsource hoạt động R&D hoặc đi theo chiến lược kết hợp với các tổ chức

KH&CN và các đối tác khác để cùng tham gia hoạt động R&D và sản xuất. Môi trường

mà các DNKH&CN tham gia vào hết sức cạnh tranh, vòng đời của công nghệ và sản

phẩm thường ngắn, nên khả năng hình thành sản phẩm/ dịch vụ mới hoặc cải tiến đáng

kể rất quan trọng và là điều kiện tiên quyết cho sự sống còn của doanh nghiệp. Ở giai

đoạn sau, sau khi đã đảm bảo được “số lượng” các sản phẩm/dịch vụ mới thì

DNKH&CN cần quan tâm đến “chất lượng” của sản phẩm/ dịch vụ mới. Kết quả nghiên

cứu gợi ý rằng, ở giai đoạn này, DNKH&CN nên đầu tư mạnh hơn cho hoạt động R&D

bên cạnh duy trì các hoạt động ĐMST mở kết hợp nhằm tạo ra sự thành công trên thị

trường, thể hiện bằng doanh thu đến từ sản phẩm mới cũng như mức độ đột phá của sản

phẩm ở trong nước và quốc tế.

5.2.1.3. Khuyến nghị về quy mô của doanh nghiệp

150

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng số lượng nhân lực của doanh nghiệp có tác động tích cực đến khả năng hình thành ĐMST sản phẩm, nhưng lại không có liên hệ đến sự thành công trên thị trường của ĐMST sản phẩm. Điều ra gợi ý rằng với quỹ lương tương đối hạn chế do sự thiếu thốn về nguồn lực, doanh nghiệp nên sử dụng những sách thu hút và giữ chân nhân tài làm việc trong các hoạt động trực tiếp liên quan đến đổi mới sáng tạo như là bộ phận R&D thay vì duy trì một bộ máy nhân lực công kềnh hoạt động ở những mảng phi R&D khác của doanh nghiệp.

5.2.2. Đối với các nhà hoạch định và thực thi chính sách

5.2.2.1. Khuyến nghị về chính sách hỗ trợ của nhà nước

Căn cứ kết quả chạy mô hình các nhân tố tác động tới ĐMST sản phẩm, thì biến số hỗ trợ nhà nước (Hotronhanuoc) là nhân tố có tác động thuận chiều và mạnh nhất tới khả năng hoàn thành ĐMST sản phẩm và sự thành công trên thị trường của các ĐMST sản phẩm của các DNKH&CN. Các chính sách hỗ trợ Nhà nước dành cho DNKH&CN hiện nay tương đối đa dạng.

Hiện nay các DNKH&CN được hưởng các hỗ trợ của Nhà nước về đăng ký xác lập quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao giá trị thương hiệu của doanh nghiệp, được giới thiệu quảng bá sản phẩm thông qua các hội thảo, triển lãm, kết nối cung - cầu, chợ công nghệ và thiết bị. Thêm vào đó, nhờ được miễn, giảm thuế TNDN, tiền thuê đất, vay vốn tín dụng đầu tư, thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước, doanh nghiệp tập trung được nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho KH&CN, đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực, không ngừng tạo ra các sản phẩm mới có chất lượng và sức cạnh tranh. Nhiều DNKH&CN chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, tạo ra các sản phẩm chủ lực của địa phương và quốc gia; nhiều DNKH&CN có doanh thu lớn, sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Các tỉnh, thành phố ngày càng chú trọng tới việc hỗ trợ doanh nghiệp ở địa phương thực hiện các hoạt động nhằm phát triển KH&CN thông qua ban hành và triển khai các chính sách, chương trình hỗ trợ. Đây là một trong những biện pháp tác động trực tiếp đến sự hình thành và phát triển DNKH&CN ở các địa phương.

Tuy vậy theo điều tra của nghiên cứu này cũng như theo báo cáo của các Sở Khoa học và Công nghệ: việc tiếp cận các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước đối với DNKH&CN còn khó khăn, số doanh nghiệp được hỗ trợ còn khá khiêm tốn. Từ hình 4.9, một số chính sách ưu đãi hỗ trợ của Nhà nước còn chưa tác động được tới nhiều DNKH&CN như:

151

- Chính sách ưu đãi về tín dụng: trên 80% DNKH&CN được hỏi không nhận

được ưu đãi về tín dụng. Mặc dù nhu cầu là rất lớn, nhưng mức độ đáp ứng vốn đầu tư

cho hoạt động NC&TK trong DNKH&CN vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân đã được Phạm

Đức Nghiệm (2014) chỉ ra là các DNKH&CN chủ yếu là những DN có quy mô nhỏ và

vừa, không có tài sản thế chấp nên gặp khá nhiều khó khăn trong việc huy động vốn để

thương mại hoá các sản phẩm KH&CN, các ngân hàng thương mại lại không mặn mà

cho các DNKH&CN vay vốn do tính chất rủi ro cũng như không đủ năng lực đánh giá

các dự án có tính mới và chứa đựng hàm lượng tri thức và công nghệ cao. Vì thế mà

việc tiếp cận các chương trình tín dụng ưu đãi hay tín dụng thương mại đối với

DNKH&CN cũng rất khó khăn.

- Chính sách ưu tiên sử dụng các trang thiết bị phục vụ trong phòng thí nghiệm

trọng điểm quốc gia; hưởng ưu đãi về giá cho thuê đất tại các khu công nghiệp/khu chế

xuất/khu kinh tế,… Do còn thiếu các văn bản, quy định hướng dẫn chi tiết, liên ngành

nên việc đưa các chính sách ưu đãi này vào thực tiễn còn gặp khó khăn.

- Các chính sách ưu đãi về thuế: Đa số các DNKH&CN gặp khó khăn khi tiếp cận các ưu đãi về thuế, trong đó có thuế thu nhập doanh nghiệp. Nguyên nhân có thể kể

đến như việc doanh nghiệp gặp khó khăn khi xin công nhận doanh thu từ sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN của doanh nghiệp để được miễn giảm thuế. Đặc biệt là đối

với những kết quả nghiên cứu mà doanh nghiệp tạo ra bằng nguồn kinh phí ngoài ngân

sách. Sự thiếu đồng bộ giữa các quy định về DNKH&CN với các quy định về ưu đãi

thuế trong hệ thống luật thuế thu nhập doanh nghiệp khiến họ cũng không thể tiến hành

các thủ tục hưởng ưu đãi về thuế.

Nghiên cứu này cũng đã tự tìm hiểu thêm về những lý do mà DNKH&CN không

nhận được hỗ trợ từ phía nhà nước (xem chi tiết tại bảng 5.1), trong đó nguyên nhân lớn

nhất mà các DNKH&CN trong điều tra khảo sát này gặp phải đó là doanh nghiệp không

biết đầu mối để xin kết nối với các hình thức hỗ trợ của Nhà nước (27.3%), xếp ngay sau đó là lí do không biết đến các hình thức hỗ trợ này (15,9%) và hình thức hỗ trợ chưa đáp ứng được các nhu cầu của doanh nghiệp (15,1%).

152

Bình quân

Hỗ trợ, ưu đãi của nhà nước và lý do không nhận được hỗ trợ, ưu đãi

Nhà nước có hỗ trợ DN xác lập quyền sở hữu trí tuệ không? (2)

Nhà nước có hỗ trợ DN nghiên cứu hình thành kết quả NCKH không? (1)

Nhà nước có hỗ trợ DN trong quá trình thương mại hoá KQKHCN không? (3)

Nhà nước có ưu đãi DN về thuế thu nhập doanh nghiệp không? (6)

Nhà nước có ưu đãi DN về vay vốn tín dụng không? (7)

Nhà nước có ưu đãi DN về lãi suất tín dụng không? (8)

Nhà nước có ưu đãi DN về tiền thuê đất, thuê mặt nước không? (9)

Nhà nước có hỗ trợ DN trong quá trình tìm kiếm và mua công nghệ/KQKHCN từ bên ngoài không? (4)

Nhà nước có hỗ trợ DN trong quá trình nhận chuyển giao và sử dụng KQKHCN từ bên ngoài không? (5)

%

%

%

%

%

%

%

%

%

%

Số lượng 49

46,2

Số lượng 56

52,8

Số lượng 48

45,7

Số lượng 29

27,4

Số lượng 26

24,5

Số lượng 24

22,6

Số lượng 20

19,0

Số lượng 19

17,9

Số lượng 22

20,8

30,8

14

13,2

14

13,2

18

17,0

25

23,6

21

19,8

14

13,2

18

17,0

16

15,1

12

11,3

Bảng 5.1: Số lượng và tỉ lệ các doanh nghiệp khoa học và công nghệ tiếp cận với hỗ trợ Nhà nước

15,9

18

17,0

11

10,4

12

11,3

24

22,6

21

19,8

13

12,3

12

11,3

16

15,1

17

16,0

15,1

24

22,6

24

22,6

25

23,6

27

25,5

35

33,0

31

29,2

30

28,3

31

29,2

33

31,1

27,3

0

0,0

0

0,0

1

0,9

0

0,0

1

0,9

18

17,0

20

18,9

18

17,0

17

16,0

7,9

0

0,0

0

0,0

0

0,0

0

0,0

1

0,9

5

4,7

5

4,7

6

5,7

5

4,7

2,3

1

0,9

1

0,9

1

0,9

1

0,9

1

0,9

1

0,9

0

0,0

0

0,0

0

0,0

0,6

Có hỗ trợ Không vì chưa biết về các hình thức hỗ trợ này từ Nhà nước Không vì các hình thức hỗ trợ không có liên quan đến các nhu cầu của doanh nghiệp Không vì doanh nghiệp không biết đầu mối để kết nối với các hình thức hỗ trợ Không vì quy trình xét duyệt hỗ trợ trợ rất phức tạp Không vì doanh nghiệp không đủ năng lực kỹ thuật để có thể xin hỗ trợ lí do Không vì khác

Nguồn: Phân tích của tác giả

153

Từ những thực trạng trên đây, để tăng cường khả năng hoàn thiện ĐMST nói

chung và ĐMST sản phẩm nói riêng của các DNKH&CN, nghiên cứu này đưa ra một

số kiến nghị về chính sách hỗ trợ như sau:

- Giải pháp về ưu đãi tín dụng: Chính quyền trung ương và địa phương cần nâng

cao nhận thức về vai trò của đầu tư mạo hiểm đối với DNKH&CN trong giai đoạn đầu

phát triển của doanh nghiệp, khuyến khích các nhà đầu tư ở giai đoạn đầu cung cấp tài

chính cho các DNKH&CN, thiết kế và phát triển những chương trình/quỹ tại từng địa

phương để có thể đáp ứng nhu cầu cao về vốn dành riêng cho các DNKH&CN, đưa ra

các chính sách và hướng dẫn cụ thể để các ngân hàng thương mại có thể đánh giá được

các dự án KH&CN của các DNKH&CN, để có thể cung cấp vốn cho các DNKH&CN,

đặc biệt trong giai đoạn mở rộng và giai đoạn sau trong vòng đời của doanh nghiệp.

- Giải pháp tăng cường sự thống nhất cũng như chi tiết về các chính sách ưu đãi

theo quy định: Cần có sự thống nhất và chi tiết trong hệ thống văn bản chính sách ưu đãi để tạo điều kiện cho các DNKH&CN có thể tiếp cận được các chủ trương ưu tiên

của Nhà nước.

- Giải pháp tăng cường hiệu quả của các ưu đãi thuế dành cho DN: Luật thuế thu

nhập doanh nghiệp cần nêu rõ hơn các quy định ưu đãi đối với đối tượng DNKH&CN: (i) Mức ưu đãi (gồm ưu đãi về thuế suất 10% trong thời gian 15 năm và ưu đãi về thời

gian miễn, giảm thuế); (ii) Hoàn thiện quy định về việc ưu đãi đối với kết quả KH&CN

mới và các sản phẩm, dịch vụ KH&CN mới.

- Giải pháp để giúp kết nối DNKH&CN với đầu mối để xin kết nối với các hình

thức hỗ trợ của Nhà nước: Nhà nước và các cơ quan liên quan, bao gồm Bộ KH&CN,

tích cực hơn nữa trong hỗ trợ hoạt động của Hiệp hội DNKH&CN Việt Nam. Được thành

lập ngày 30 tháng 07 năm 2019, Hiệp hội là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của các

DNKH&CN, hoạt động nhằm mục đích tập hợp các DNKH&CN, doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu KH&CN, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đoàn kết, hỗ trợ và giúp đỡ nhau phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các hội viên; giữ vai trò cầu nối giữa các DNKH&CN với Nhà nước, sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp lập hồ sơ chứng nhận DNKH&CN và tiếp cận các chính sách ưu đãi.

- Nhóm các giải pháp tăng cường hiểu biết của các DNKH&CN về các hình thức

hỗ trợ của nhà nước: Dựa trên cơ sở của các chủ trương hỗ trợ DNKH&CN của địa phương, chính quyền địa phương cần tăng cường tổ chức các hội nghị phổ biến chính sách hỗ trợ của Nhà nước và địa phương dành cho các DNKH&CN. Các tấm gương

DNKH&CN điển hình và tiêu biểu cần được giới thiệu và quảng bá để khuyến khích

154

các DNKH&CN học tập và trao đổi kinh nghiệm về những thuận lợi mà các DNKH&CN

tiêu biểu đã nhận được để đạt được thành công, lợi thế cạnh tranh gia tăng kể từ khi

doanh nghiệp được cấp chứng nhận là DNKH&CN. Tích cực xây dựng các kênh truyền

thông để phổ biến chính sách về DNKH&CN như thông qua các phương tiện truyền

thông đại chúng, các cuộc thi liên quan đến ĐMST và nghiên cứu khoa học & phát triển

công nghệ,…để có thể khiến cho các DNKH&CN có hiểu biết rộng rãi hơn về các chính

sách hỗ trợ, ưu đãi mà DN mình được hưởng.

- Giải pháp đa dạng thêm hình thức hỗ trợ để đáp ứng như cầu của DNKH&CN:

Chính phủ từ trung ương tới địa phương cần xây dựng và hoàn thiện các quy định và

chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động ươm tạo DNKH&CN. Tại các

nước tiên tiến trên thế giới, có cả hệ thống trợ giúp ươm tạo công nghệ (vốn, kỹ thuật,

quản lý, thương mại,...) và công viên khoa học và công nghệ (cung cấp môi trường

chuyển giao kết quả NC&KH vào sản xuất kinh doanh, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu

cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, phát triển ý tưởng, sản phẩm và quy trình mới, phát hiện

và trình diễn các mô hình,..) để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp (spin-off), khởi nguồn (start-up) phát triển. Trong khi đó, tại Việt Nam, các DNKH&CN hầu như đều đang tự

xoay xở, phải dựa rất nhiều và tiềm lực của các doanh nghiệp thực tế đang hoạt động, để hỗ trợ tốt cho các kết quả KH&CN được ứng dụng vào thực tiễn. Công viên khoa

học và công nghệ hay vườn ươm DNKH&CN là động lực cho việc hình thành và phát

triển các DNKH&CN, hỗ trợ các DN trong giai đoạn khởi nghiệp về các vấn đề liên

quan đến vốn, quản lý, công nghệ, tri thức, thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và phát

triển ý tưởng, sản phẩm, thúc đẩy chuyển giao công nghệ hay áp dụng các kết quả

KH&CN vào sản xuất kinh doanh, trình diễn sáng chế hay mô hình thương mại hoá sản

phẩm.. Từ đó hình thành các cơ sở ươm tạo và các mô hình công viên khoa học và công

nghệ tiệm cận với các nước phát triển trong khu vực và quốc tế, đáp ứng nhu cầu hỗ trợ

5.2.2.2. Khuyến nghị về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ

DNKH&CN trong đổi mới sáng tạo.

Bên cạnh đó, không như kì vọng của nghiên cứu, bảo hộ sở hữu trí tuệ lại không có liên hệ thậm chí là có tác động tiêu cực đến kết quả ĐMST sản phẩm cho thấy sự lỏng lẻo của các cơ quan thực thi pháp luật trong việc thực thi các biện pháp bảo hộ sở hữu trí tuệ. Đây cũng là yếu tố rất quan trọng để khuyến khích các DNKH&CN khai

thác nhiều hoạt động ĐMST mở hướng ra hơn nữa. Đối với những DNKH&CN đầu tư rất lớn vào hoạt động NC&TK đồng thời vòng đời của các công nghệ/ sản phẩm hình

thành từ kết quả KH&CN cũng ngắn hơn so với các doanh nghiệp khác, vì thế mà các cơ quan thực thi pháp luật không những cần quyết liệt mà còn phải nhanh chóng xử lý

155

các vụ việc xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ để bảo vệ quyền lợi của các DNKH&CN,

tránh tình trạng để cho các đơn vị xâm phạm lợi dụng kẽ hở pháp luật và sự chậm trễ

của các cơ quan chức năng để ngang nhiên thu lợi bất chính trên những kết quả mà các

DNKH&CN đã phải dày công sức, thời gian và tiền bạc đầu tư tạo ra. Ngoài ra, đối với

việc đăng ký bảo hộ quyền SHTT của các DNKH&CN, các cơ quan liên quan bao gồm

Cục phát triển thị trường và Doanh nghiệp KH&CN, Cục Sở hữu trí tuệ, Cục Trồng trọt,

Cục Bản quyền tác giả cần phối hợp trong việc tạo điều kiện thuận lợi giúp doanh nghiệp

DNKH&CN đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy các hoạt động ĐMST mở

của doanh nghiệp, từ đó tăng khả năng hoàn thiện ĐMST của DNKH&CN.

5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo

Luận án đã thu được những kết quả ủng hộ cho lý thuyết về ĐMST mở và nhấn

mạnh tầm quan trọng của việc mở cửa doanh nghiệp ra bên ngoài. Các câu hỏi nghiên

cứu đã được trả lời một cách rõ ràng và đạt được các mục tiêu nghiên cứu. Tuy nhiên,

do giới hạn về thời gian và nguồn lực, luận án này sẽ không tránh khỏi những hạn chế

nhất định, cần được hoàn thiện và bổ sung trong những nghiên cứu tiếp theo. Phần sau

đây tác giả sẽ trình bày những hạn chế và hướng nghiên cứu triển vọng của chủ đề

nghiên cứu này.

- Cần mở rộng các thước đo đa dạng hơn cho đổi mới sáng tạo, ĐMST không chỉ nên đo lường đổi mới sáng tạo sản phẩm mà nên xét đến cả cả đổi mới sáng tạo quy

trình, đổi mới sáng tạo marketing và đổi mới sáng tạo tổ chức.

- Ngoài việc đa dạng các thước đo đổi mới sáng tạo, nghiên cứu có thể xem xét đến việc sử dụng các bộ dữ liệu qua nhiều năm (dữ liệu mảng) để có thể đánh giá tác

động một cách chính xác hơn do ĐMST là hoạt động thường có độ trễ đặc biệt là tại các

DN KH&CN. Tuy nhiên là do nghiên cứu tập trung vào nhóm đối tượng nghiên cứu và

khách thể nghiên cứu tương đối đặc biệt, chưa có cuộc tổng điều tra quy mô nào trước đây về các số liệu liên quan đến ĐMST đặc biệt là ĐMST mở trong DNKH&CN Việt Nam. Hiện nay, tại Việt Nam mới thực hiện được điều tra về ĐMST 03 năm 1 lần. Theo đó, cứ 3 năm một lần (tiến hành vào các năm có số tận cùng là 3, 6 và 9), Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia sẽ tiến hành việc điều tra ĐMST trong doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp. Từ bảng hỏi điều tra khảo sát gần đây nhất năm 2019, là năm gần đây nhất, tuy vẫn có thể sử dụng một số thước đo thay

thế (proxy) cho hoạt động ĐMST mở trong đánh giá tác động của ĐMST mở đến kết

quả ĐMST như trong nghiên cứu của Tran Lan Huong (2020) và Do Thi Hai Ha & Tran Lan Huong (2021) về chiến lược ĐMST mở của các doanh nghiệp chế biến chế tạo quy

mô vừa và nhỏ ở Việt Nam. Nhưng nhìn từ bộ dữ liệu điều tra, tác giả cũng không thể

156

bóc tách được đâu là doanh nghiệp Khoa học và công nghệ để có thể tận dụng dữ liệu

mảng thứ cấp của điều tra khảo sát về ĐMST tại Việt Nam. Vì thế nghiên cứu này sẽ

đặt nền móng cho mối quan tâm sau này của các nhà nghiên cứu cũng như đội ngũ cán

bộ quản lý hoạt động của các DNKH&CN để thực hiện điều tra thường xuyên cũng như

chi tiết hơn về hoạt động ĐMST của nhóm đối tượng điều tra này. Nhằm xây dựng cơ

sở dữ liệu qua các năm cũng như có những điều chỉnh kịp thời hỗ trợ cho nhóm các

DNKH&CN phát triển hơn về mảng hoạt động đổi mới sáng tạo. Ngoài ra, nghiên cứu

này cho rằng dù không thể đánh giá được tác động một cách đầy đủ qua thời gian nhưng

vì đặc thù của các DNKH&CN là đầu tư vào các lĩnh vực có cường độ cạnh tranh rất

khốc liệt, vòng đời của công nghệ ngắn hơn so với các doanh nghiệp khác, sự đổi mới

công nghệ diễn ra liên tục, các doanh nghiệp vì thế mà có “cửa sổ cơ hội” ngắn (Jones,

2007), nên từ việc thực hiện các hoạt động ĐMST mở đến tạo thành các ĐMST sản

phẩm là ngắn, có thể diễn ra trong vòng vài tháng, đến dưới 1 năm. Điều này cũng có

nghĩa là việc sử dụng dữ liệu chéo (chỉ điều tra khảo sát tại 1 thời điểm trong 1 khoảng

thời gian nhất định, ở nghiên cứu này là trong một năm hoạt động vừa qua) vẫn có thể chấp nhận được.

- Thêm vào nữa, dữ liệu điều tra của nghiên cứu này được thu thập thông qua các nhà quản lý và cán bộ R&D của các DNKH&CN với kinh nghiệm, trình độ và kỹ

năng cũng như mức độ hiểu biết khác nhau, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp cũng rất đa dạng, vì thế mà các nghiên cứu trong tương lai nên tập trung làm rõ sự khác biệt

giữa các đặc điểm của nhà quản lý cũng như là lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp

trong hoạt động ĐMST của các DNKH&CN.

- Nghiên cứu mới chỉ xem xét các tác động tuyến tính của các hoạt động ĐMST mở lên ĐMST sản phẩm, nghiên cứu sau này có thể tìm hiểu về mối quan hệ phi tuyến

(hình chữ U ngược) như trong nghiên cứu kinh điển của Laursen & Salter (2006).

- Nghiên cứu tập trung vào các nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới sáng tạo sản phẩm tại đối tượng điều tra là các doanh nghiệp khoa học và công nghệ thay vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung, nên khả năng khái quát của mô hình cho những doanh nghiệp với tính chất và đặc trưng khác cần được tiếp tục giải quyết trong các nghiên cứu tiếp theo.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

CỦA TÁC GIẢ ĐƯỢC CÔNG BỐ

1. Tran Lan Huong (2020) ‘Open innovation strategy of small and medium sized manufacturing enterprises in Vietnam’, in 3rd International Conference on

Contemporary Issues in Economics, Management and Business, Finance

2. Nguyen Huu Xuyen, Tran Lan Huong and Nguyen Thi Lan Huong (2020) ‘Commercialization of research results in Vietnam’s universities to serve the enterprise’s innovation’, International Journal of Business, Economics and Law, 21(5), 20–24.

Publishing House, Hanoi, 1258–1284.

3. Do Thi Hai Ha & Tran Lan Huong (2021), 'Open Innovation strategy of small and medium sized manufacturing enterprises in Vietnam', Journal of Economics

and Development, Special Issue 2021, 55–71.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ahuja, G. (2000), 'Collaboration networks, structural holes, and innovation: A

longitudinal study', Administrative Science Quarterly, 45(3), 425–455.

2. Anderson, N., Potočnik, K., & Zhou, J. (2014), 'Innovation and Creativity in Organizations: A State-of-the-Science Review, Prospective Commentary, and Guiding Framework', Journal of Management, 40(5), 1297–1333.

3. Anokhin, S., Wincent, J., & Frishammar, J. (2011), 'A conceptual framework for misfit technology commercialization', Technological Forecasting and Social Change, 78(6), 1060–1071.

4. Argente, D., Baslandze, S., Hanley, D., & Moreira, S. (2020), Patents to Products: Product Innovation and Firm Dynamics (FRB Atlanta Working Paper No. 2020–

4) SSRN Electronic Journal, truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020, từ [https://doi.org/10.2139/ssrn.3577811]

5. Arora, A., Greenstein, S., & Mahony, J. T. (2002), 'Markets for Technology: The Economics of Innovation and Corporate Strategy.', Academy of Management Review, 27(4), 624–626.

6. Backer, D. K., López-Bassols, V., & Martínez, C. (2008), Open Innovation in a Global Perspective - What do existing Data tell us? OECD Science, Technology and Industry Working Papers, Vol 2008, Paris.

7. Baker, W. E., & Sinkula, J. M. (1999), 'The synergistic effect of market orientation and learning orientation on organizational performance', Journal of the Academy of Marketing Science, 27(4), 411–427.

8. Barasa, L., Knoben, J., Vermeulen, P., Kimuyu, P., & Kinyanjui, B. (2017), 'Institutions, resources and innovation in East Africa: A firm level approach', Research Policy, 46(1), 280–291.

9. Becheikh, N., Landry, R., & Amara, N. (2006), 'Lessons from innovation empirical studies in the manufacturing sector: A systematic review of the literature from 1993-2003', Technovation, 26(5–6), 644–664.

10. Belderbos, R., Carree, M., & Lokshin, B. (2004), 'Cooperative R&D and Firm

Performance', Research Policy, 33(10), 1477–1492.

11. Bernardt, Y., Meijaard, J., & Kerste, R. (2002), 'Spin-off start-ups in the Netherlands At First Glance', eim - business & policy research, , truy cập ngày 30

[http://scholar.google.com/scholar?hl=en&btnG= từ

tháng 12 năm 2020, Search&q=intitle:Spin-off+start-ups+in+the+Netherlands+At+First+Glance#0]

12. Bhattacharya, M., & Bloch, H. (2004), 'Determinants of innovation', Small

Business Economics, 22(2), 155–162.

13. Bianchi, M., Campodall’Orto, S., Frattini, F., & Vercesi, P. (2010), 'Enabling open innovation in small- and medium-sized enterprises: How to find alternative applications for your technologies', R and D Management, 40(4), 414–431. 14. Blazevic, V., & Lievens, A. (2004), 'Learning during the new financial service innovation process - Antecedents and performance effects', Journal of Business Research, 57(4), 374–391.

15. Bogers, M., Zobel, A. K., Afuah, A., Almirall, E., Brunswicker, S., Dahlander, L., Frederiksen, L., Gawer, A., Gruber, M., Haefliger, S., Hagedoorn, J., Hilgers, D.,

Laursen, K., Magnusson, M. G., Majchrzak, A., McCarthy, I. P., Moeslein, K. M.,

Nambisan, S., Piller, F. T., Radziwon, A., Rossi-Lamastra, C., Sims, J., & Ter Wal,

A. L. J. (2017), 'The open innovation research landscape: established perspectives

and emerging themes across different levels of analysis', Industry and Innovation, 24(1), 8–40.

16. Brunswicker, S., & Chesbrough, H. (2018), 'The Adoption of Open Innovation in

Large Firms', Research-Technology Management, 61(1), 35–45.

17. Burns, T., & Stalker, G. M. (1961), 'The Management of innovation: mechanistic and organic systems', trong: Classics of Organization theory, Tavistock, London. 18. Caird, S. (1994), 'How important is the innovator for the commercial success of

innovative products in SMEs?', Technovation, 14(2), 71–83.

19. Carayannis, E. G., & Provance, M. (2008), 'Measuring firm innovativeness: towards a composite innovation index built on firm innovative posture, propensity

and performance attributes', International Journal of Innovation and Regional Development, 1(1), 90.

20. Chamanski, A., & Waagø, S. J. (2001), 'Organizational Performance of Technology-Based Firms – the Role of Technology and Business Strategies', Enterprise and Innovation Management Studies, 2(3), 205–223.

21. Cheng, C. C. J., & Huizingh, E. K. R. E. (2014), 'When is open innovation beneficial? The role of strategic orientation', Journal of Product Innovation Management, 31(6), 1235–1253.

22. Chesbrough, H. W. (2006), Open Business Models: How to Thrive in the New Innovation Landscape Harvard Business School Press Books, Business School Press, Harvard.

23. Chesbrough, H (2006), 'Open Innovation: A New Paradigm for Understanding Industrial Innovation', trong: Open Innovation: Researching a New Paradigm, Oxford University Press, Oxford, 1-12

24. Chesbrough, Henry (2003), Open Innovation The new imperative for creating and

profiting from technology Havard business school press, Boston, MA

25. Chesbrough, Henry, & Bogers, M. (2014), 'Explicating Open Innovation: Clarifying an Emerging Paradigm for Understanding Innovation', New Frontiers in Open Innovation, 1–37.

26. Chesbrough, Henry, & Crowther, A. K. (2006), 'Beyond high tech: Early adopters of open innovation in other industries', R and D Management, 36(3), 229–236. 27. Chesbrough, Henry, Vanhaverbeke, W., & West, J. (2006), Open Innovation: Researching a New Paradigm (Henry Chesbrough, W. Vanhaverbeke, & J. West, Btv), Oxford University Press, Oxford.

28. Chiesa, V., & Piccaluga, A. (2000), 'Exploitation and diffusion of public research: The case of academic spin-off companies in Italy', R and D Management, 30(4), 329–340.

29. Cohen, W. M., & Klepper, S. (1996), 'Firm size and the nature of innovation within industries: The case of process and product R&D', Review of Economics and Statistics, 78(2), 232–243.

30. Cohen, W. M., & Levinthal, D. A. (1990), 'Absorptive Capacity: A New Perspective on Learning and Innovation', Administrative Science Quarterly, 35(1), 128.

31. Cohen Wesley ; Levithal Daniel (1989), 'Innovation and Learning: The Two Faces

of R & D', The economic journal, 99(397), 569–596.

32. Coombs, R., & Tomlinson, M. (1998), 'Patterns in UK company innovation styles: New evidence from, the CBI innovation trends survey', Technology Analysis and Strategic Management, 10(3), 295–310.

33. Cục phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ (2019), Báo cáo tình hình hình phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam năm 2019, Hà Nội.

34. Daft, R. L. (1978), 'A Dual-Core Model of Organizational Innovation.', Academy

of Management Journal, 21(2), 193–210.

35. Dahlander, L., & Gann, D. M. (2010), 'How open is innovation?', Research Policy,

39(6), 699–709.

36. Dahlstrand, Å. L. (1997), 'Growth and inventiveness in technology-based spin-off

firms', Research Policy, 26(3), 331–344.

37. Damanpour, F. (1992), 'Organizational Size and Innovation', Organization

Studies, 13(3), 375–402.

38. Damanpour, F., & Daniel Wischnevsky, J. (2006), 'Research on innovation in organizations: Distinguishing innovation-generating from innovation-adopting

organizations', Journal of Engineering and Technology Management - JET-M, 23(4), 269–291.

39. Đào Quang Thuỷ (2019), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng văn bản quy định chi tiết về doanh nghiệp khoa học và công nghệ theo Nghị định thay thế

Nghị định số 80/ 2007/NĐ-CP ngày 19/05/2007 và Nghị định số 96/2010/NĐ-CP

ngày 20/09/2010 của Chính phủ, Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN, Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội

40. Đào Quang Thuỷ & Lê Thị Kim Chi (2020), 'Để doanh nghiệp Kh&Cn Đóng góp

nhiều hơn vào gdp', Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 4, 4–6.

41. Das, T. K., & Teng, B. S. (2000), 'A resource-based theory of strategic alliances',

Journal of Management, 26(1), 31–61.

42. Davis, J. L., & Harrison, S. S. (2001), Edison in the boardroom : how leading companies realize value from their intellectual assets , John Wiley & Sons, New York.

43. Davis, L. E., & North, D. C. (1971), Institutional Change and American Economic Growth Institutional Change and American Economic Growth, Cambridge University Press, Cambridge.

44. De Jong, J., & Brower, E. (1999), Determinants of the innovative ability of SMEs: Literature Review Scales Research Reports Zoetermeer, truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020, từ [http://ideas.repec.org/p/eim/papers/b199902.html]

45. De Jong, P. J., & Vermeulen, P. A. M. (2006), 'Determinants of product innovation in small firms: A comparison across industries', International Small Business Journal, 24(6), 587–609.

46. Delapierre, M., Madeuf, B., & Savoy, A. (1998), 'NTBFs - The French case',

Research Policy, 26(9), 989–1003.

47. Dittrich, K., & Duysters, G. (2007), 'Networking as a means to strategy change: The case of open innovation in mobile telephony', Journal of Product Innovation Management, 24(6), 510–521.

48. Do Thi Hai Ha, & Tran Lan Huong (2021), 'Open Innovation strategy of small and medium sized manufacturing enterprises in Vietnam', Journal of Economics and Development, Special Issue 2021, 55–71.

49. Dodgson, M., Gann, D., & Phillips, N. (2014), The Oxford Handbook of Innovation Management Oxford University press, Oxford University Press, Oxford.

50. Drucker, P. F. (2006), Innovation and Entrepreneurship Practice and Principles,

Harper Business, New York.

51. Dulaimi, M., & Hartmann, A. (2006), 'The role of organizational culture in motivating innovative behaviour in construction firms', Construction Innovation, 6(3), 159–172.

52. Dziallas, M., & Blind, K. (2019), 'Innovation indicators throughout the innovation process: An extensive literature analysis', Technovation, 80–81(February 2017), 3–29.

53. Edison, H., Bin Ali, N., & Torkar, R. (2013), 'Towards innovation measurement in the software industry', Journal of Systems and Software, 86(5), 1390–1407. 54. Edquist, C., & Johnson, B. (1997), 'Institutions and organizations in systems of innovation', Systems of innovation: Technologies, institutions and organizations, (January 1997), 41–63.

55. Enkel, E. (2010), 'Attributes required for profiting from open innovation in networks', International Journal of Technology Management, 52(3–4), 344–371. 56. Enkel, E., Gassmann, O., & Chesbrough, H. (2009), 'Open R&D and open

innovation: Exploring the phenomenon', R and D Management, 39(4), 311–316.

57. Faems, D., Van Looy, B., & Debackere, K. (2005), 'Interorganizational collaboration and innovation: Toward a portfolio approach', Journal of Product Innovation Management, 22(3), 238–250.

58. Fosfuri, A., & Tribó, J. A. (2008), 'Exploring the antecedents of potential absorptive capacity and its impact on innovation performance', Omega, 36(2), 173–187.

59. Frishammar, J., & Andersson, S. (2009), 'The overestimated role of strategic in smaller firms', Journal of

orientations for international performance International Entrepreneurship, 7(1), 57–77.

60. Frishammar, J., & Hörte, S. Å. (2005), 'Managing external information in manufacturing firms: The impact on innovation performance', Journal of Product Innovation Management, 22(3), 251–266.

61. Frit, W. (1989), 'Determinants of Product Innovation Activities', European

Journal of Marketing, 23(10), 1-32–43.

62. Gambatese, J. A., & Hallowell, M. (2011), 'Factors that influence the development and diffusion of technical innovations in the construction industry', Construction Management and Economics, 29(5), 507–517.

63. Garcia Martinez, M., Lazzarotti, V., Manzini, R., & García, M. S. (2014), 'Open innovation strategies in the food and drink industry: Determinants and impact on

innovation performance', International Journal of Technology Management and International Journal of Operations & Production Management, 66(3), 212–242. 64. Gassmann, Oliver; Enkel, E. (2004), 'Towards a Theory of Open Innovation: Three Core Process Archetypes', trong: R&D Management Conf. (RADMA), Lisbon. 65. Gómez, J., Salazar, I., & Vargas, P. (2016), 'Sources of information as determinants of product and process innovation', PLoS ONE, 11(4), 1–15. 66. Greco, M., Grimaldi, M., & Cricelli, L. (2015), 'Open innovation actions and innovation performance: A literature review of European empirical evidence', European Journal of Innovation Management, 18(2), 150–171.

67. Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., & Anderson, R. E. (2013), Multivariate Data

Analysis , Pearson Education Limited, Harlow.

68. Hall, R. H., Lawrence, P. R., & Lorsch, J. W. (1968), 'Organization and Environment: Managing Differentiation and Integration.', Administrative Science Quarterly, 13(1), 180.

69. Hameed, W. U., Basheer, M. F., Iqbal, J., Anwar, A., & Ahmad, H. K. (2018), 'Determinants of Firm’s open innovation performance and the role of R & D

department: an empirical evidence from Malaysian SME’s', Journal of Global Entrepreneurship Research, 8(1), 1–20.

70. Hauser, J., Tellis, G. J., & Griffin, A. (2006), 'Research on innovation: A review

and agenda for marketing science', Marketing Science, 25(6), 687–717.

71. Henard, D. H., & Szymanski, D. M. (2001), 'Why some new products are more

successful than others', Journal of Marketing Research, 38(3), 362–375.

tháng 2020 năm 11 từ

72. Herstad, S. J., Bloch, C. W., Ebersberger, B., & van de Velde, E. (2008), Open Innovation and Globalisation: Theory, Evidence and Implications, truy cập ngày [http://www.visioneranet.org/files/391/ 28 openING_report_final.pdf]

73. Hoàng Đức Thảo (2017), 'Thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở doanh nghiệp KH&CN: Kinh nghiệm từ Busadco', Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 23–25.

74. Hoàng Trọng, & Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu

với SPSS tập 2, Nhà xuất bản Hồng Đức, Tp. Hồ Chí Minh.

75. Hoàng Văn Tuyên (2016), 'Phát triển doanh nghiệp KH&CN ở Trung Quốc',

Nghiên cứu Đông Bắc Á, 2, 14–23.

76. Howell, J. M., & Higgins, C. A. (1990), 'Champions of Technological Innovation',

Administrative Science Quarterly, 35(2), 317.

77. Huang, F., & Rice, J. (2009), 'The role of absorptive capacity in facilitating “open innovation” outcomes: A studyof australian smes inthe manufacturing sector', International Journal of Innovation Management, 13(2), 201–220.

78. Im, S., & Workman, J. P. (2004), 'Market Orientation, Creativity, and New Product Performance in High-Technology Firms', Journal of Marketing, 68(2), 114–132. 79. Inauen, M., & Schenker-Wicki, A. (2012), 'Fostering radical innovations with open innovation', European Journal of Innovation Management, 15(2), 212–231. 80. Jajodia, S., & Wijesekera, D. (2005), 'Lecture Notes in Computer Sciences:

Preface', Lecture Notes in Computer Science.

81. Janssen, S., Moeller, K., & Schlaefke, M. (2011), 'Using performance measures conceptually in innovation control', Journal of Management Control, 22(1), 107–128. 82. Jaumotte, F., & Pain, N. (2005), An Overview of Public Policies to Support Innovation OECD Economics Department Working Papers, Paris, truy cập ngày

28 tháng 11 năm 2020 từ [ http://www.oecd-ilibrary.org/an-overview-of-public-

policies-to-support-innovation_5lghb8pz1jvh.pdf%255Cnjsessionid=

c2kq61nvvvr5.x-oecd-live-01?contentType=/ns/WorkingPaper&itemId=/content/ workingpaper/707375561288&containerItemId=/content/workingpaperseri] 83. Jones, O. (2007), 'Understanding the small business sector International Journal

of Entrepreneurial Behaviour & Research', Vol 13, Routledge, London.

84. Kafouros, M. I., Buckley, P. J., Sharp, J. A., & Wang, C. (2008), 'The role of internationalization in explaining innovation performance', Technovation, 28(1– 2), 63–74.

85. Katila, R., & Ahuja, G. (2002), 'Something old, something new: A longitudinal study of search behavior and new product introduction', Academy of Management Journal, 45(6), 1183–1194.

86. Katz, R., & Allen, T. J. (1982), 'Investigating the Not Invented Here (NIH) syndrome: A look at the performance, tenure, and communication patterns of 50 R & D Project Groups', R&D Management, 12(1), 7–20.

87. Kaufmann, D., Kraay, A., & Mastruzzi, M. (2011), 'The worldwide governance indicators: Methodology and analytical issues', Hague Journal on the Rule of Law, 3(2), 220–246.

88. Keith L, E., & Theodore J, G. (1984), Characterization of innovations introduced on the U.S. Market in 1982, The Futures Group,U.S. Small Business Administration, Glastonbury.

89. Keizer, J. A., Dijkstra, L., & Halman, J. I. M. (2001), 'Explaining innovative efforts of SMEs. An exploratory survey among SMEs in the mechanical and electrical engineering sector in The Netherlands', Technovation, 22(1), 1–13.

90. Klevorick, A. K., Levin, R. C., Nelson, R. R., & Winter, S. G. (1995), 'On the technological interindustry differences in

sources and significance of opportunities', Research Policy, 24(2), 185–205.

91. Kline, D. (2003), 'Sharing the corporate crown jewels', MIT Sloan Management

Review, 44(3), 89–93.

92. Klomp, L., & Van Leeuwen, G. (2001), 'Linking innovation and firm performance: A

new approach', International Journal of the Economics of Business, 8(3), 343–364.

93. Koellinger, P. (2008), 'Why are some entrepreneurs more innovative than others?',

Small Business Economics, 31(1), 21–37.

94. Kolk, A., & Püümann, K. (2008), 'Co-Development of Open Innovation Strategy and Dynamic Capabilities as a Source of Corporate Growth', Working Papers Eco- nomics, Tallinn University of Technology, 173, 73–83.

95. Kozioł-Nadolna, K., & Świadek, A. (2011), 'Innovation Process Models With Emphasis on Open Innovation Model', Folia Oeconomica Stetinensia, 9(1), 167–178. 96. Kuittinen, H., Puumalainen, K., Jantunen, A., Kyläheiko, K., & Pätäri, S. (2013), 'Coping with uncertainty - Exploration, exploitation, and collaboration in R&D', International Journal of Business Innovation and Research, 7(3), 340–361.

97. Ladd, M. (2012), 'Determinants and cofactors', Introduction to Physical

Chemistry, 469–470.

98. Laursen, K., & Salter, A. (2006), 'Open for innovation: The role of openness in explaining innovation performance among U.K. manufacturing firms', Strategic Management Journal, 27(2), 131–150.

99. Lawson, C., & Lorenz, E. (1999), 'Collective learning, tacit knowledge and

regional innovative capacity', Regional Studies, 33(4), 305–317.

100. Lazzarotti, V., Manzini, R., & Pellegrini, L. (2010), 'Open innovation models adopted in practice: An extensive study in Italy', Measuring Business Excellence, 14(4), 11–23.

101. Lee, J. (1995), 'Small firms’ innovation in two technological settings', Research

Policy, 24(3), 391–401.

102. Lee, S., Park, G., Yoon, B., & Park, J. (2010), 'Open innovation in SMEs-An

intermediated network model', Research Policy, 39(2), 290–300.

103. Lee, W. C., & Law, S. H. (2016), 'The roles of formal and informal institutions on

innovations activity', Jurnal Ekonomi Malaysia, 50(2), 167–180.

104. Lei, H., Leaungkhamma, L., & Le, P. B. (2020), 'How transformational leadership facilitates innovation capability: the mediating role of employees’ psychological capital', Leadership and Organization Development Journal, 41(4), 481–499. 105. Lichtenberg, F. R., & Siegel, D. (1991), 'the Impact of R&D Investment on Productivity–New Evidence Using Linked R&D–Lrd Data', Economic Inquiry, 29(2), 203–229.

106. Lichtenthaler, U. (2008), 'Open innovation in practice: An analysis of strategic approaches to technology transactions', IEEE Transactions on Engineering Management, 55(1), 148–157.

107. Lichtenthaler, U. (2009), 'Outbound open innovation and its effect on firm performance: Examining environmental influences', R and D Management, 39(4), 317–330.

108. Lichtenthaler, U. (2010), 'Open innovation: potential risks and managerial countermeasures', trong: Proceedings of the R&D Management Conference, 1–11. 109. Lichtenthaler, U. (2011), 'Open innovation: Past research, current debates, and

future directions', Academy of Management Perspectives, 25(1), 75–93.

110. Lichtenthaler, U. (2015), 'A note on outbound open innovation and firm

performance', R and D Management, 45(5), 606–608.

111. Lichtenthaler, U., & Ernst, H. (2007), 'Developing reputation to overcome the imperfections in the markets for knowledge', Research Policy, 36(1), 37–55. 112. Lichtenthaler, U., & Frishammar, J. (2011), 'The impact of aligning product development and technology licensing: A contingency perspective', Journal of Product Innovation Management, 28(SUPPL. 1), 89.

113. Lichtenthaler, U., Lichtenthaler, E., & Frishammar, J. (2009), 'Technology commercialization intelligence: Organizational antecedents and performance consequences', Technological Forecasting and Social Change, 76(3), 301–315.

114. Linder, J. C., Jarvenpaa, S., & Davenport, T. . (2003), 'Toward an innovation

sourcing strategy', MIT Sloan Management Review, 43–49.

115. Long, J. S., & Freese, J. (2001), Regression Models for Categorical Dependent

Variables Using Stata American statistician, Stata Press, Texas.

116. López-Nicolás, C., & Meroño-Cerdán, Á. L. (2011), 'Strategic knowledge management, innovation and performance', International Journal of Information Management, 31(6), 502–509.

117. Lundvall, B. Å. (2010), National systems of Innovation: Toward a theory of Innovation and Interactive Learning Anthem Presss, Anthem Press, London. 118. Mai Hà, Hoàng Văn Tuyên, & Đào Thanh Trường (2015), Doanh nghiệp Khoa học và công nghệ: Từ lý luận đến thực tiễn , Nhà xuất bản khoa học & kỹ thuật, Hà Nội.

119. Majumdar, S. K. (1995), 'The determinants of investment in new technology: An examination of alternative hypotheses', Technological Forecasting and Social Change, 50(3), 235–247.

120. Mannan, B., & Haleem, A. (2017), 'Understanding major dimensions and determinants that help in diffusion & adoption of product innovation: using AHP approach', Journal of Global Entrepreneurship Research, 7(1), 1–24.

121. Markham, S. K., & Griffin, A. (1998), 'The Breakfast of Champions: Associations between Champions and Product Development Environments, Practices and Performance', Journal of Product Innovation Management, 15(5), 436–454. 122. Mazzola, E., Bruccoleri, M., & Perrone, G. (2012), 'The effect of inbound, outbound and coupled innovation on performance', International Journal of Innovation Management, 16(6).

123. Medda, G. (2020), 'External R&D, product and process innovation in European manufacturing companies', Journal of Technology Transfer, 45(1), 339–369. 124. Monjon, S., & Waelbroeck, P. (2003), 'Assessing spillovers from universities to firms: Evidence from French firm-level data', International Journal of Industrial Organization, 21(9), 1255–1270.

125. Mustar, P. (1994), 'Organizations, technologies and the creation', Review of

Industrial Economic, 67.

126. Naqshbandi, M. M., & Jasimuddin, S. M. (2018), 'Knowledge-oriented leadership and open innovation: Role of knowledge management capability in France-based multinationals', International Business Review, 27(3), 701–713.

127. Ngân hàng Thế giới (2002), Báo cáo phát triển Thế giới 2002: Xây dựng thể chế

hỗ trợ thị trường, Hà Nội.

128. Ngô Văn Thứ, & Nguyễn Mạnh Thế (2019), Giáo trình Thống kê thực hành (với sự trợ giúp của SPSS và STATA), Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội. 129. Nguyen Dinh Hoa, Vu Ba Thanh, Vu Thanh Mai, Tung, L. Van, & Huynh Vo Thuc Quyen (2020), 'Knowledge Sharing Influence on Innovation: A Case of

Textile and Garment Enterprises in Vietnam', The Journal of Asian Finance, Economics and Business, 7(7), 555–563.

130. Nguyễn Đình Thọ (2013), Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh,

tập 2 , Nhà xuất bản Tài chính, TP. Hồ Chí Minh.

131. Nguyễn, Minh Ngọc. (2016), 'Tác động của nghiên cứu và phát triển, tiếp nhận công nghệ đến kết quả kinh doanh ở các doanh nghiệp chế tạo-chế biến', Tạp chí kinh tế và phát triển, 225, 73–81.

132. Nguyễn Quốc Duy (2015), 'Đổi mới sáng tạo và các nhân tố tác động - tổng kết cơ

sở lý thuyết', Tạp chí Kinh tế & phát triển, 211(2), 37–46.

133. Nguyễn Quốc Duy, & Vũ Hồng Tuấn (2013), 'Quản trị tri thức chiến lược, đổi mới sáng tạo và kết quả kinh doanh: Nghiên cứu thực nghiệm ở các doanh nghiệp Việt Nam', Tạp chí Kinh tế & phát triển, Số 198(II), 55–64.

134. Nguyen, T. P. L., Tran, N. M., Doan, X. H., & Van Nguyen, H. (2020), 'The impact innovative work behavior of Vietnam of knowledge sharing on

telecommunications enterprises employees', Management Science Letters, 10(1), 53–62.

135. Nguyễn Thị Minh Nga (2006), Nghiên cứu khía cạnh pháp lý của doanh nghiệp

khoa học và công nghệ, Hà Nội.

136. Nguyễn Thị Minh Nga (2013), Nghiên cứu sự hình thành và phát triển doanh nghiệp KH&CN: Trường hợp viện Khoa học và công nghệ Việt Nam Hà Nội: Viện

Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.

137. Nguyễn Trọng Cơ (2017), 'Nghiên cứu bản chất của thị trường khoa học và cóng nghệ và những vấn đề đặt ra đối với phát triển thị trường khoa học và công nghệ', Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, (10), 12–16.

138. Nguyen, T. V., Phan, A. T. T., & Nguyen, M. T. T. (2016), 'Knowledge Creation, Innovation and Financial Performance of Firms: Evidence from Vietnam', International Journal of Business and Management, 11(6), 95.

139. Nguyễn Vân Anh, Nguyễn Hồng Hà, & Lê Vũ Toàn (2014), 'Doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam: Thực trạng và giải pháp phát triển', Journal Science and Technology Policy and Management, 3(March), 66–80.

140. Nguyễn Võ Hưng (2003), Nghiên cứu cơ chế và chính sách phát triển thị trường

công nghệ Việt Nam, Hà Nội.

141. North, D. C. (1990), 'A Transaction Cost Theory of Politics', Journal of

Theoretical Politics, 2(4), 355–367.

142. Nunnally, J., & Bernstein, I. (1994), 'Psychometric Theory, 3rd edn, 1994',

McGraw-Hill, New York.

143. OECD/Eurostat (2018), Oslo Manual 2018: Guidelines for Collecting, Reporting and Using Data on Innovation The Measurement of Scientific, Technological and Innovation Activities, 4th,OECD Publishing, Luxembourg.

144. OECD (2005), Oslo Manual 2005: Guidelines for Collecting, Reporting and Using

Data on Innovation, 3rd, OECD Publishing, Luxembourg.

145. Oliveira, L. S. de, Echeveste, M. E. S., Cortimiglia, M. N., & Gonçalves, C. G. C. (2017), 'Analysis of determinants for Open Innovation implementation in Regional Innovation Systems', RAI Revista de Administração e Inovação, 14(2), 119–129. 146. Parida, V., Westerberg, M., & Frishammar, J. (2012), 'Inbound Open Innovation Activities in High-Tech SMEs: The Impact on Innovation Performance', Journal of Small Business Management, 50(2), 283–309.

147. Patanakul, P., & Pinto, J. K. (2014), 'Examining the roles of government policy on

innovation', Journal of High Technology Management Research, 25(2), 97–107.

148. Peng, M. W. (2002), 'Towards an institution-based view of business strategy in

Asia', Asia Pacific Journal of Management, 19, 251–267.

149. Peng, M. W., Sun, S. L., Pinkham, B., & Chen, H. (2009), 'The institution-based view as a third leg for a strategy tripod', Academy of Management Perspectives, 23(3), 63–81.

150. Phạm Đức Nghiệm (2014), 'Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển Doanh nghiệp

KH&CN ở các địa phương', Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 7.

151. Phạm Hồng Quất (2018), Nghiên cứu đề xuất giải pháp phát triển doanh nghiệp

khoa học và công nghệ theo Luật Khoa học và Công nghệ 2013, Hà Nội.

152. Pham, T. T. T., & Matsunaga, N. (2019), 'Product and Process Innovation of Micro, Small and Medium Manufacturing Enterprises in Vietnam', trong: N.

Matsunaga (Btv), Innovation in Developing Countries: Lessons from Vietnam and Laos, tr 23–51, Springer, Singapore.

153. Phan Thị Thục Anh (2016), 'Các yếu tố thúc đẩy và cản trở đổi mới- sáng tạo: Góc nhìn của doanh nghiệp Việt Nam', Tạp chí Kinh tế & phát triển, 233(2), 9–17.

154. Phan Thị Thục Anh, & Nguyễn Thuỳ Dung (2015), 'Tác động của yếu tố môi trường đến hoạt động đổi mới- sáng tạo trong các tổ chức tại Việt Nam', Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số đặc biệt, 35–42.

155. Phung Minh Thu, T., Knoben, J., Vermeulen, P., & Tran, D. T. (2018), 'Made in Vietnam: Internal, collaborative, and regional knowledge sources and product innovation in Vietnamese firms', European Journal of Innovation Management, 21(4), 581–600.

156. Piller, F., & West, J. (2014), 'Firms, users, and innovation: An interactive model of coupled open innovation, in New Frontiers in Open Innovation', Oxford University Press, 29–49.

157. Pisano, G. P. (1990), 'The R&D Boundaries of the Firm: An Empirical Analysis',

Administrative Science Quarterly, 35(1), 153.

158. Pisano, G. P., & Verganti, R. (2008), 'Which kind of collaboration is right for

you?', Harvard Business Review, 86(12).

159. Pittaway, L., Robertson, M., Munir, K., Denyer, D., & Neely, A. (2004), 'Networking and innovation: A systematic review of the evidence', International Journal of Management Reviews, 5–6(3–4), 137–168.

160. Porter, M. E. (1996), 'What Is Stategy?', Harvard Business Review, 61–78. 161. Praest Knudsen, M., & Bøtker Mortensen, T. (2011), 'Some immediate but negative effects of openness on product development performance', Technovation, 31(1), 54–64.

162. Pullen, A. J. J., De Weerd-Nederhof, P. C., Groen, A. J., & Fisscher, O. A. M. (2012), 'Open innovation in practice: Goal complementarity and closed NPD

networks to explain differences in innovation performance for SMEs in the medical devices sector', Journal of Product Innovation Management, 29(6), 917–934. 163. Rangus, K., Drnovšek, M., Di Minin, A., & Spithoven, A. (2017), 'The role of open innovation and absorptive capacity in innovation performance: empirical evidence from Slovenia', Journal of East European Management Studies, 22(1), 39–62.

164. Rauter, R., Globocnik, D., Perl-Vorbach, E., & Baumgartner, R. J. (2019), 'Open innovation and its effects on economic and sustainability innovation performance', Journal of Innovation and Knowledge, 4(4), 226–233.

165. Robertson, P. L., & Langlois, R. N. (1995), 'Innovation, networks, and vertical

integration', Research Policy, 24(4), 543–562.

166. Romijn, H., & Albaladejo, M. (2002), 'Determinants of innovation capability in small electronics and software firms in southeast England', Research Policy, 31(7), 1053–1067.

167. Saǧ, S., Sezen, B., & Alpkan, L. (2019), 'Determinants of Open Innovation and their Interrelations', International Journal of Innovation and Technology Management, 16(4), 1–20.

168. Saka-Helmhout, A., Chappin, M., & Vermeulen, P. (2020), 'Multiple Paths to Firm institutions matter', in Sub-Saharan Africa: How informal

Innovation Organization Studies, 41(11), 1551–1575.

169. Salomo, S., Talke, K., & Strecker, N. (2008), 'Innovation field orientation and its effect on innovativeness and firm performance', Journal of Product Innovation Management, 25(6), 560–576.

170. Saunila, M. (2017), 'Understanding innovation performance measurement in

SMEs: Measuring Business Excellence', Harvard Business Review, 21(1), 1–39.

171. Schroll, A., & Mild, A. (2011), 'Open innovation modes and the role of internal R&D: An empirical study on open innovation adoption in Europe', European Journal of Innovation Management, 14(4), 475–495.

172. Schumpeter, J.A (1934), The Theory of Economic Development, Harvard

University Press, Boston, MA.

173. Schumpeter, Joseph A. (1910), 'How does one study social science?', Society, 40,

57–63.

174. Schumpeter, Joseph A. (1994), Capitalism, Socialism and Democracy Routledge

Routledge, USA.

175. Scott, W. R. (1995), Institutions and Organizations: Foundations for

Organizational Science Legal Theory, SAGE Publications.

176. Sexton, M., & Barrett, P. (2003), 'A literature synthesis of innovation in small Insights, ambiquities and questions', Construction firms:

construction Management and Economics, 21(6), 613–622.

177. Souitaris, V. (1999), 'Research on the determinants of techonological innovation. A contigency approach', International Journal of Innovation Management, 3(3), 287–305.

178. Souitaris, V. (2001), 'External communication determinants of innovation in the context of a newly industrialized country: A comparison of objective and perceptual results from Greece', Technovation, 21(1), 25–34.

179. Spithoven, A., Vanhaverbeke, W., & Roijakkers, N. (2013), 'Open innovation practices in SMEs and large enterprises', Small Business Economics, 41(3), 537–562. 180. Stock, G. N., Greis, N. P., & Fischer, W. A. (2002), 'Firm size and dynamic

technological innovation', Technovation, 22(9), 537–549.

181. Storey, D. J., & Tether, B. S. (1998), 'New technology-based firms in the European

union: An introduction', Research Policy, 26(9), 933–946.

182. Tang Due Au (2016), 'Using open innovation model to enhance knowledge sharing in

Vietnam University', Journal of Administrative and Business Studies, 2(5), 241–247.

183. Tao, J., & Magnotta, V. (2006), 'How air products and chemicals “identifies and

accelerates”', Research Technology Management, 49(5), 12–18.

184. Teece, D. J., Pisano, G., & Shuen, A. (1997), 'Dynamic capabilities and strategic

management', Strategic Management Journal, 18(7), 509–533.

185. Thuy Phung Minh Thu, Knoben, J., Vermeulen, P., & Tran, D. T. (2018), 'Made in Vietnam: Internal, collaborative, and regional knowledge sources and product

innovation in Vietnamese firms', European Journal of Innovation Management, 21(4), 581–600.

186. Tidd, J., & Trewhella, M. J. (1997), 'Organizational and technological antecedents

for knowledge acquisition and learning', R and D Management, 27(4), 359–375.

187. Tran, H. T., & Santarelli, E. (2013), Determinants and Effects of Innovative Activities in Vietnam. A Firm-Level Analysis, truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2020 từ [https://ssrn.com/abstract=2338463]

188. Tran Lan Huong (2020), 'Open Innovation strategy of small and medium sized manufacturing enterprises in Vietnam', trong: 3rd International Conference on

Contemporary Issues in Economics, Management and Business, tr 1258–1284, Finance Publishing house, Hà Nội.

189. Trần Thị Kim Thu (2011), Giáo trình Điều tra Xã hội học, Nhà xuất bản Đại học

Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội.

190. Tsai, W. (2001), 'Knowledge transfer in intraorganizational networks: Effects of network position and absorptive capacity on business unit innovation and performance', Academy of Management Journal, 44(5), 996–1004.

191. Valencia, J. C. N., Valle, R. S., & Jiménez, D. J. (2010), 'Organizational culture as determinant of product innovation', European Journal of Innovation Management, 13(4), 466–480.

192. Van De Ven, A. H. (1986), 'Central Problems in the Management of Innovation.',

Management Science, 32(5), 590–607.

193. van de Vrande, V., de Jong, J. P. J., Vanhaverbeke, W., & de Rochemont, M. (2009), 'Open innovation in SMEs: Trends, motives and management challenges', Technovation, 29(6–7), 423–437.

194. Vega-Jurado, J., Gutiérrez-Gracia, A., Fernández-de-Lucio, I., & Manjarrés- Henríquez, L. (2008), 'The effect of external and internal factors on firms’ product innovation', Research Policy, 37(4), 616–632.

195. Veugelers, R., & Cassiman, B. (1999), 'Make and buy in innovation strategies: Evidence from Belgian manufacturing firms', Research Policy, 28(1), 63–80. 196. Von Hippel, E., & Katz, R. (2002), 'Shifting innovation to users via toolkits',

Management Science, 48(7), 821–833.

197. Wan, D., Ong, C. H., & Lee, F. (2005), 'Determinants of firm innovation in

Singapore', Technovation, 25(3), 261–268.

198. West, J., & Bogers, M. (2014), 'Leveraging external sources of innovation: A review of research on open innovation', Journal of Product Innovation Management, 31(4), 814–831.

199. West, J., & Gallagher, S. (2006), 'Challenges of open innovation: The paradox of firm investment in open-source software', R and D Management, 36(3), 319–331. 200. West, J., Salter, A., Vanhaverbeke, W., & Chesbrough, H. (2014), 'Open

innovation: The next decade', Research Policy, 43(5), 805–811.

201. Whitaker, J. K., & Nordhaus, W. D. (1970), 'Invention, Growth and Welfare: A Theoretical Treatment of Technological Change.', Economica, 37(148), 443. 202. Williams, R. (2012), 'Using the margins command to estimate and interpret

adjusted predictions and marginal effects', Stata Journal, 12(2), 308–331.

203. Ye, J., & Kankanhalli, A. (2013), 'Exploring innovation through open networks: A review and initial research questions', IIMB Management Review, 25(2), 69–82. 204. Zhou, W. C., & Wang, R. (2020), 'Intellectual property, institutional dynamics,

and firm innovation', Science and Public Policy, 47(3), 299–312.

205. Zhu, Y., Wittmann, X., & Peng, M. W. (2012), 'Institution-based barriers to innovation

in SMEs in China', Asia Pacific Journal of Management, 29(4), 1131–1142.

PHỤ LỤC 1: TỔNG HỢP CÁC KHÁI NIỆM VỀ

ĐỔI MỚI SÁNG TẠO MỞ

STT Nghiên cứu Định nghĩa gốc Tác giả dịch

Open innovation is a ĐMST mở là một mô hình giả paradigm that assumes that định rằng khi các công ty tìm Chesbroug, firms can and should use cách thúc đẩy công nghệ của họ, (2003, tr xxiv): external ideas as well as công ty có thể và nên sử dụng các Open internal ideas, and internal ý tưởng từ bên ngoài và cả bên Innovation and external paths to markets, trong, đồng thời đi theo cả các 1 The new as the firms look to advance con đường bên trong và bên ngoài imperative for their technology. Open để tới các thị trường. ĐMST mở creating and innovation combines internal kết hợp các ý tưởng bên trong và ideas bên ngoài vào các kiến trúc và hệ profiting from technology external and architectures and into systems thống có yêu cầu được xác định requirements are bởi một mô hình kinh doanh whose defined by a business model

Open innovation means that ĐMST mở có nghĩa là công ty

the company needs to open up cần mở ra ranh giới vững chắc

its solid boundaries to let của mình để cho kiến thức có giá

valuable knowledge flow in trị từ bên ngoài tràn vào nhằm tạo Gassmann & from the outside in order to cơ hội cho các quá trình ĐMST Enkel (2004, tr create opportunities for co- hợp tác với đối tác, khách hàng và

operative innovation / hoặc nhà cung cấp. Nó cũng bao 2): Towards a of Theory

2

Core

Open Innovation: Three Process Archetypes

processes with partners, customers and/or suppliers. It also includes the explĐMST mởtation of ideas and IP in order to bring them to market faster than competitors can. Open innovation principles gồm việc khai thác ý tưởng và quyền sở hữu trí tuệ để đưa chúng ra thị trường nhanh hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Do đó, các nguyên tắc ĐMST mở mô tả cách đương đầu tốt nhất với các tài sản chiến lược để đáp ứng nhu cầu thị

to therefore describe how deal best with strategic assets trường và yêu cầu của công ty. Cách tiếp cận ĐMST mở là nhằm

to meet market in order đạt được sự linh hoạt trong chiến

demands and company lược và tạo ra một động lực quan

requirements. The open trọng trong việc phổ biến ĐMST

innovation approach is about để tạo ra sự chấp nhận của khách

gaining strategic flexibility in hàng và tạo ra các tiêu chuẩn

the strategic process and ngành.

creating a critical momentum

in innovation diffusion in order to generate customer

acceptance and create

industry standards.

Chesbrough Open Innovation is the use of ĐMST mở là việc sử dụng có

(2006, tr 1): purposive inflows and mục đích những luồng tri thức từ

outflows of knowledge to bên trong ra và từ bên ngoài vào Open

internal accelerate innovation, and expand the để thúc đẩy ĐMST nội bộ và mở rộng thị trường khai thác bên 3 Innovation: A New Paradigm

markets for external use of innovation, respectively. ngoài của kết quả đổi mới sáng tạo for Understanding

Industrial Innovation

West and Open innovation ĐMST mở khuyến khích và Gallagher systematically encourages khám phá một cách có hệ thống (2006): and explores a wide range of một loạt các nguồn lực bên trong Challenges of internal and external sources và bên ngoài để tìm ra các cơ hội open for innovation opportunities, đổi mới sáng tạo, tích hợp một 4

integrates with

innovation: The paradox of firm investment in consciously that exploration firm capabilities and resources, and broadly exploits those

through cách có ý thức những khám phá đó với khả năng và tài nguyên của công ty, và khai thác rộng rãi các cơ hội đó thông qua nhiều kênh khách nhau open-source software opportunities multiple channels.

An open innovation approach

refers to systematically

relying on a firm’s dynamic

capabilities of internally and

externally carrying out the Cách tiếp cận ĐMST mở đề cập

major technology đến việc dựa vào một cách có hệ

management tasks, i.e., thống các năng lực động của một

technology acquisition and exploitation, technology công ty để thực hiện bên trong hay bên ngoài các nhiệm vụ quản Lichtenthaler 5 lý công nghệ chính, tức là tiếp thu (2008, tr 148): along

Open the innovation process. Thus, công nghệ và khai thác công

innovation in open innovation processes nghệ, cùng với quá trình đổi mới

practice: An involve a wide range of sáng tạo. Do đó, các quá trình

analysis of internal and external ĐMST mở liên quan đến nhiều

strategic technology sources, and a nguồn công nghệ bên trong và

approaches to wide range of internal and bên ngoài, và một loạt các kênh

technology external technology thương mại hóa công nghệ bên

transactions commercialization channels. trong và bên ngoài

innovation can be open viewed as an instance of how

firms make decisions whether ĐMST mở có thể được coi là một

to develop innovations ví dụ về cách các công ty đưa ra

internally or partner with quyết định nên phát triển ĐMST

6 external actors. External trong nội bộ hay hợp tác với các

Dahlander and actors in this broad sense tác nhân bên ngoài. Các tác nhân

be either

Gann (2010, tr700): How open is innovation? could other organizations or individuals that are not employed by the focal firm bên ngoài theo nghĩa rộng này có thể là các tổ chức hoặc cá nhân khác không được thuê bởi công ty đầu mối

t 77):

explo-

Lichtenthaler (2011, Open innovation: Past research, Open innovation is defined as performing systematically ration, knowledge explĐMST retention, and mởtation inside and outside

current an organization’s boundaries

debates, and throughout the innova- tion

future process

directions

a distributed innovation

process based on purposively

managed knowledge flows

across organizational Một quá trình ĐMST phân tán

boundaries using pecuniary dựa trên các luồng kiến thức được

and non-pecuniary quản lý có chủ đích xuyên qua

mechanisms in line with the business organization’s các ranh giới của tổ chức bằng cách sử dụng các cơ chế tiền tệ và

model "These flows of phi tiền tệ phù hợp với mô hình

knowledge may involve kinh doanh của tổ chức. Những

7 Chesbrough knowledge inflows to the focal (leveraging organization luồng kiến thức này có thể là luồng kiến thức từ bên ngoài đi

Bogers and (2014, tr 12) : external knowledge sources through internal processes), vào tổ chức (tận dụng các nguồn kiến thức bên ngoài thông qua

Explicating Open knowledge outflows from a organization focal quá trình nội bộ), hay là luồng kiến thức từ một tổ chức hướng ra

Innovation: (leveraging internal bên ngoài (tận dụng kiến thức nội

Clarifying an knowledge through external bộ thông qua các quy trình

Emerging commercialization processes) thương mại hóa ra bên ngoài)

Paradigm for or both (coupling external hoặc cả hai (kết hợp các nguồn

Understandin knowledge sources and kiến thức bên ngoài và các hoạt

g Innovation commercialization activities) động thương mại hóa)

Nguồn: Tác giả tổng hợp

PHỤ LỤC 2: PHIẾU ĐIỀU TRA KHẢO SÁT

PHIẾU XIN Ý KIẾN DOANH NGHIỆP VỀ ĐMST

Mục tiêu:

Phiếu này được thiết kế với mục đích xin ý kiến doanh nghiệp về thực trạng hoạt động ĐMST và những khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải. Những ý kiến của doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc đề xuất những

giải pháp nhằm nâng cao hoạt động ĐMST và để phục vụ tốt hơn các doanh nghiệp trong quá trình nâng cao năng lực và vị thế cạnh tranh trên thị trường

Các thông tin mà ông/bà cung cấp sẽ được giữ bí mật và chỉ phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu khoa học

Phiếu bao gồm 10 phần, dự kiến ông/ bà sẽ mất khoảng 15 phút cho việc điền các thông tin phiếu này

Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà!

MỤC A: THÔNG TIN CƠ BẢN

A1. Địa chỉ doanh nghiệp: (Cụ thể: TP/tỉnh:………………………………)

o3 DN thuộc miền Nam

o2 DN thuộc miền Trung

o1 DN thuộc miền Bắc

A2.Lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh chính (đem lại tỉ trọng doanh thu lớn nhất) của DN?

o1 Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản o2 Công nghiệp và xây dựng o3 Thương mại và dịch vụ

A3. Năm thành lập của doanh nghiệp : ............................

A4. Tình trạng của doanh nghiệp:

o1 Có giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ (DNKHCN)

o2 Có kế hoạch để xin cấp giấy chứng nhận DNKHCN

o3 Có tiềm năng trở thành DNKHCN (có khả năng tạo ra hoặc ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ)

A5. Loại hình doanh nghiệp

o2 Ngoài nhà nước

o1 Nhà nước

o3 Có vốn đầu tư nước ngoài

A6. Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp là (tỷ đồng)?

o2 Từ 3 - dưới 20 tỷ o3 Từ 20 - dưới 50 tỷ o4 Từ 50 – dưới 100 tỷ

o1 Dưới 3 tỷ

o5 Từ 100 tỷ trở lên

A7. DN hoạt động đa/đơn ngành?

o2 Đa ngành

o1 Đơn ngành

A8. Thị trường chính (mục tiêu) của doanh nghiệp là gì?

o4 Không rõ

o2 Cả nước

o3 Quốc tế

o1 Địa phương

MỤC B: KẾT QUẢ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ & SẢN PHẨM HÌNH THÀNH TỪ

KQKHCN

- Kết quả khoa học và công nghệ (KQKHCN) bao gồm nhiều kết quả đa dạng ở các giai đoạn

khác nhau nhưng chưa trải qua giai đoạn sản xuất đại trà để đưa ra thị trường. KQKHCN có thể là kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học & công nghệ, kết quả nghiên cứu cơ bản, kết quả của nghiên cứu

ứng dụng, kết quả triển khai thực nghiệm hay kết quả sản xuất thử nghiệm.

- Sản phẩm hình thành từ KQKHCN ( bao gồm hàng hoá, dịch vụ) là kết quả của quá trình sản xuất đại trà hoặc cung ứng dịch vụ dựa trên việc áp dụng, ứng dụng hoặc phát triển KQKHCN

B1. Nguồn gốc hình thành các kết quả khoa học và công nghệ của DN?

o3 Hợp tác

o1 Tự nghiên cứu

o4 Khác ( ghi rõ:………………………… ……………….)

o2 Nhận chuyển giao

B2. DN có đưa ra thị trường sản phẩm mới hình thành từ KQKHCN/ sản phẩm được cải tiến đáng kể trong năm vừa qua không?

o3 Không rõ

o2 Không

o1 Có

B3. Xin ông/bà cho ý kiến đánh giá về mức độ “mới” của các sản phẩm ở câu trên (B2)

Chú ý: Nếu câu B2 tích có, vui lòng tích Đồng ý ở B3.1

B3.1 Mới chỉ với doanh nghiệp

o1 Đồng ý

o0 Không đồng ý o2 Không rõ

B3.2 Mới tại Việt Nam

o1 Đồng ý

o0 Không đồng ý o2 Không rõ

B3.3 Mới trên thế giới

o1 Đồng ý

o0 Không đồng ý o2 Không rõ

B4. Hiện tại, danh mục sản phẩm hình thành từ các kết quả khoa học và công nghệ trên có số lượng là:

3-10

sản

o3 10-20 sản phẩm

o1 1-3 sản phẩm

o4 trên 20 sản phẩm, cụ thể……sản phẩm

o2 phẩm

B5. Các sản phẩm mới/ sản phẩm được cải tiến đáng kể ở câu B2 được phát triển bởi:

o3 Hoàn toàn bởi đối tác bên ngoài do doanh nghiệp thuê

o1 Hoàn toàn bởi doanh nghiệp

o4 Không rõ

o2 Đồng thời bởi doanh nghiệp và các đối tác khác

B6. DN có giới thiệu quy trình sản xuất mới/ được cải tiến đáng kể nào trong năm vừa qua không?

Quy trình sản xuất mới/ quy trình được cải tiến đáng kể bao gồm một hoặc nhiều phương thức

mới/ cải tiến đáng kể trong sản xuất cung ứng, phân phối, hỗ trợ các nguồn lực đầu vào và sản

phẩm/ dịch vụ tạo thành.

o3 Không rõ

o2 Không

o1 Có

B7. Các quy trình mới/ được cải tiến đáng kể ở câu B5 được phát triển bởi:

o3 Hoàn toàn bởi đối tác bên ngoài do doanh nghiệp thuê

o1 Hoàn toàn bởi doanh nghiệp

o4 Không rõ

o2 Đồng thời bởi doanh nghiệp và các đối tác khác

B8. DN có giới thiệu hệ thống quản lý và tổ chức mới/ được cải tiến đáng kể nào trong năm vừa qua

không?

o3 Không rõ

o2 Không

o1 Có

B9. DN có giới thiệu phương thức marketing mới/ được cải tiến đáng kể nào trong năm vừa qua không?

o3 Không rõ

o2 Không

o1 Có

MỤC C. ĐMST TRONG DNKHCN

C1. Xin Ông/bà cho ý kiến đánh giá các nhận định sau về tình hình ĐMST tại DN:

ý

Nhận định

ý g n ồ đ

ý g n ồ Đ

n â v n â h P

g n ô h k t ấ R

ý g n ồ đ t ấ R

g n ồ đ g n ô h K

C1.1

o1

o2 o3 o4 o5

Các đối tác bên ngoài, chẳng hạn như khách hàng, đối thủ cạnh tranh, viện nghiên cứu, chuyên gia tư vấn, nhà cung cấp, chính phủ hoặc trường đại học có liên quan trực tiếp đến tất cả các dự án đổi mới của doanh nghiệp

C1.2

o1

o2 o3 o4 o5

Tất cả các dự án đổi mới của doanh nghiệp chúng tôi phụ thuộc rất nhiều vào sự đóng góp của các đối tác bên ngoài, chẳng hạn như khách hàng, đối thủ cạnh tranh, viện nghiên cứu, nhà tư vấn, nhà cung cấp, chính phủ hoặc trường đại học.

C1.3

o1

o2 o3 o4 o5

Doanh nghiệp chúng tôi thường mua các dịch vụ liên quan đến R&D từ các đối tác bên ngoài (outsource R&D), chẳng hạn như khách hàng, đối thủ cạnh tranh, viện nghiên cứu, chuyên gia tư vấn, nhà cung cấp, chính phủ hoặc trường đại

học

C1.4

o1

o2 o3 o4 o5

Doanh nghiệp chúng tôi thường mua tài sản trí tuệ, như bằng sáng chế, bản quyền hoặc nhãn hiệu, từ các đối tác bên ngoài để sử dụng trong các dự án đổi mới của chúng tôi

C1.5

o1

o2 o3 o4 o5

DN chúng tôi thường xuyên đầu tư mua cổ phần của các doanh nghiệp non trẻ/ mới khởi nghiệp hay đầu tư khôi phục tổ chức khác nhằm tiếp cận được nguồn tri thức của họ hay để đạt được những sự cộng hưởng lợi ích khác

C1.6

o1

o2 o3 o4 o5

Doanh nghiệp của chúng tôi thường xuyên bán giấy phép, chẳng hạn như bằng sáng chế, bản quyền hoặc nhãn hiệu cho các tổ chức khác để hưởng lợi triệt để hơn từ những KQKHCN của chúng tôi

C1.7

o1

o2 o3 o4 o5

Doanh nghiệp của chúng tôi thường xuyên có khoản thu phí bản quyền đến từ các tổ chức khác cho những tài sản trí tuệ mà doanh nghiệp của chúng tôi cung cấp cho họ

C1.8

o1

o2 o3 o4 o5

Doanh nghiệp của chúng tôi luôn tích cực khai thác triệt để mọi khả năng sử dụng các tài sản trí tuệ của mình để mang lại lợi ích tốt hơn cho công ty của chúng tôi

C1.9

o1

o2 o3 o4 o5

Doanh nghiệp chúng tôi luôn coi trọng và tận dụng những sáng kiến và tri thức của nhân viên kể cả không thuộc bộ phận nghiên cứu và phát triển

Doanh nghiệp chúng tôi thường thành lập các doanh nghiệp spin-off (doanh nghiệp mới*) để khai thác tốt hơn những KQKHCN mà mình tạo ra.

C1.10

o1

o2 o3 o4 o5

*Doanh nghiệp mới có thể được tác ra từ doanh nghiệp mẹ, tiếp tục phát triển và thương mại hoá các quyền sở hữu trí tuệ được tạo ra và chuyển giao bởi tổ chức mẹ. Doanh nghiệp mới cũng có thể có chủ sở hữu bên ngoài độc lập với doanh nghiệp mẹ, khai thác quyền sở hữu trí tuệ được doanh nghiệp mẹ cấp phép

C1.11

o1

o2 o3 o4 o5

Doanh nghiệp chúng tôi thường xuyên hợp tác cùng với các tổ chức khác để tạo ra các đồng sáng chế

C1.12

o1

o2 o3 o4 o5

Doanh nghiệp chúng tôi thường xuyên tham gia vào các liên minh/ liên doanh R&D để hợp tác nghiên cứu và phát triển

C1.13

o1

o2 o3 o4 o5

Doanh nghiệp chúng tôi thường xuyên tham gia vào các liên minh/ liên doanh sản xuất để hợp tác sản xuất sản phẩm/ dịch vụ

MỤC D. KẾT QUẢ KINH DOANH

D1. Tổng doanh thu năm vừa qua của doanh nghiệp là?

(Tổng doanh thu bao gồm doanh thu từ bán hàng và cung cấp dịch vụ + doanh thu từ hoạt động tài

chính)

o2 Từ 3- dưới 10 tỷ

o1 Dưới 3 tỷ

o3 Từ 10 – dưới 50 tỷ

o5 Từ 100 – dưới 200 tỷ

o4 Từ 50 – dưới 100 tỷ

o6 Từ 200 – dưới 300 tỷ

o7 Từ 300 tỷ trở lên

D2. Tỷ lệ doanh thu từ thương mại hoá KQKHCN hay sản phẩm hình thành từ KQKHCN/ sản

phẩm trên tổng doanh thu của doanh nghiệp là?

o5 Khác, ghi rõ:…….%

o1 0%

o2 Dưới 10%

o3 Từ 10 - dưới 30 %

o4 Từ 30% - 50%

D3. Hiện tại, cơ cấu doanh thu của doanh nghiệp có tỉ trọng ước tính là?

Cơ cấu doanh thu

Tỷ trọng

D3.1 Doanh thu từ sản phẩm hình thành từ KQ KHCN do DN tự nghiên cứu

................%

D3.2 Doanh thu từ sản phẩm hình thành từ KQ KHCN hình thành từ nhận chuyển giao

................%

D3.3 Doanh thu từ sản phẩm hình thành từ KQ KHCN hình thành từ hợp tác

................%

D3.4 Doanh thu từ thương mại hoá KQ KHCN ra bên ngoài ( Vd: bán giấy phép,…)

................%

D3.5

Sản phẩm/ dịch vụ và hoạt động khác

................%

Tổng

100%

D4. Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế của DN trên tổng doanh thu năm vừa qua là?

o5 Từ 30% trở lên

o3 Dưới 10% o4 Từ 10– dưới 30%

o1 Dưới 0% (lỗ) o2 0%

MỤC E: LAO ĐỘNG

E1. Hiện tại, tổng số nhân lực bình quân của doanh nghiệp là?

o2 Từ 10 – 49 người o3 Từ 50 – 99 người o4 Từ 100 – 199 người

o1 Dưới 10 người

o5 Từ 200 người trở lên

E2. Hiện tại, tỷ lệ nhân lực làm việc ở bộ phận R&D trên tổng số nhân lực là?

o1 0% đến dưới 10%

o3 Từ 20% đến dưới 30%

o5 Từ 40% đến dưới 50%

o4 Từ 30% đến dưới 40%

o6 Từ 50% trở lên

E3. Tỉ lệ chi bình quân năm cho hoạt động đào tào và bồi dưỡng nhân lực phục vụ ĐMST của DN năm vừa qua là?

o1 Dưới 1%

o2 Từ 1- dưới 3% o3 Từ 3- dưới 5% o4 Từ 5- dưới 10% o5 Từ 10% trở lên

o2 Từ 10% đến dưới 20%

MỤC F. Hoạt động R&D và sản xuất

o2 Không

o1 Có

F1. Doanh nghiệp có bộ phận R&D không?

o3 Không rõ

F2. Tỉ lệ chi cho R&D nội bộ trên tổng doanh thu năm vừa qua là?

o1 Dưới 1%

o2 Từ 1- dưới 3% o3 Từ 3- dưới 5% o4 Từ 5- dưới 10% o5 Từ 10% trở lên

F3. Lĩnh vực KH&CN mà doanh nghiệp hoạt động là gì? ( có thể tích nhiều lựa chọn)

o2 Khoa học kỹ thuật và công nghệ

o1 Khoa học tự nhiên

o3 Khoa học y, dược

o5 Khoa học xã hội

o4 Khoa học nông nghiệp

o6 Khoa học nhân văn

MỤC G. TÀI SẢN TRÍ TUỆ

G1.Danh mục tài sản trí tuệ của DN phân bổ như thế nào?

Số lượng

Loại hình tài sản trí tuệ

Đơn vị tính

Điền “0” nếu không có

G1.1 Số bằng độc quyền sáng chế

…………..

Bằng

G1.2 Số bằng độc quyền giải pháp hữu ích

…………..

Bằng

G1.3 Số bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp

…………..

Bằng

Số giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu

Chứng

G1.4

…………..

nhận

Số giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch

Chứng

G1.5

tích hợp

nhận

…………..

G1.6 Số bằng bảo hộ giống cây trồng

Bằng

…………..

G1.7 Số sáng kiến được công nhận

Sáng kiến

…………..

Số lượng chương trình máy tính được cấp văn bằng

Chương

G1.8

bảo hộ

trình

…………..

Số sản phẩm, công nghệ đã được ứng dụng trong

Sản

G1.9

thực tiễn

phẩm/ CN

…………..

Nếu tất cả các câu trả lời ở câu G1 là 0, vui lòng chuyển tiếp luôn đến câu G2c

Nếu có 1 trong các câu trả lời ở câu G1 > 0, vui lòng trả lời câu G2a và G2b, sau đó chuyển tiếp đến câu G3

G2a. Hình thức hình thành của các tài sản sở hữu trí tuệ của DN là gì

o1 Tự hình thành o2 Nhận chuyển giao o3 Hợp tác o4 Kết hợp các hình thức o5 Hình thức khác

G2b. Xin ông/bà cho biết ý kiến đánh giá về chất lượng danh mục sở hữu trí tuệ của DN?

Chất lượng danh mục sở hữu trí tuệ

g n ô h K

ý g n ồ đ

ý g n ồ đ

ý g n ồ Đ

n â v n â h P

g n ô h k t ấ R

ý g n ồ đ t ấ R

So với đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp có danh mục sở hữu trí tuệ

G2.1

o1 o2 o3 o4 o5

với số lượng nhiều hơn

So với đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp có danh mục sở hữu trí tuệ

G2.2

o1 o2 o3 o4 o5

lợi thế hơn về tính mới và đột phá của công nghệ

G2.3

o1 o2 o3 o4 o5

So với đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp của tôi có danh mục sở hữu trí tuệ được bảo hộ pháp lý tốt hơn

G2c. Dựa theo kết quả từ câu G1, doanh nghiệp không có tài sản được bảo hộ sở hữu trí tuệ, doanh

nghiệp có ý định đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ trong thời gian tới hay không?

Không,

o1 Có

o2 sao?....................................................................................................................................

.............................................................................................. ............................................

(Ví dụ: Doanh nghiệp có nhiều tài sản trí tuệ nhưng lo lắng về vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ ở Việt Nam nên tạm thời không có ý định đăng ký bảo hộ)

ý

ý g n ồ đ

ý g n ồ Đ

n â v n â h P

g n ô h k t ấ R

ý g n ồ đ t ấ R

g n ồ đ g n ô h K

G3.1

Doanh nghiệp gặp khó khăn, vướng mắc về các thủ tục pháp lý

o1

o2

o3 o4 o5

đăng ký và xác lập bảo hộ sở hữu trí tuệ ở Việt Nam

G3.2

Doanh nghiệp thường gặp phải xâm phạm về quyền sở hữu trí

o1

o2

o3 o4 o5

tuệ

G3.3

Doanh nghiệp gặp khó khăn khi yêu cầu thực thi bảo hộ quyền

o1

o2

o3 o4 o5

sở hữu trí tuệ tại Việt Nam

G3. Xin ông/bà cho biết ý kiến về việc xác lập và thực thi bảo hộ sở hữu trí tuệ tại DN của ông/bà và tại Việt Nam

MỤC H. HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC

H. Doanh nghiệp đã nhận được các hình thức hỗ trợ nào của Nhà nước?

Nếu “Không”, nêu lý do

Hình thức hỗ trợ của Nhà nước

Khôn g

1

2

3

4

5

6

H1.a

H1.b

o1

o0

¡ ¡ ¡ ¡ ¡ ¡

Nhà nước có hỗ trợ DN nghiên cứu hình thành kết quả NCKH không?

H2.a

Nhà nước có hỗ trợ DN xác lập quyền sở

H2.b

o1

o0

¡ ¡ ¡ ¡ ¡ ¡

hữu trí tuệ không?

H3.a

Nhà nước có hỗ trợ DN trong quá trình

H3.b

o1

o0

¡ ¡ ¡ ¡ ¡ ¡

thương mại hoá KQKHCN không?

H4.a

Nhà nước có hỗ trợ DN trong quá trình tìm

H4.b

o1

o0

¡ ¡ ¡ ¡ ¡ ¡

kiếm và mua công nghệ/KQKHCN từ bên ngoài không?

H5.a

Nhà nước có hỗ trợ DN trong quá trình

H5.b

o1

o0

¡ ¡ ¡ ¡ ¡ ¡

nhận chuyển giao và sử dụng KQKHCN từ bên ngoài không?

H6.a

H6.b

o1

o0

¡ ¡ ¡ ¡ ¡ ¡

Nhà nước có ưu đãi DN về thuế thu nhập doanh nghiệp không?

H7.a

H7.b

o1

o0

¡ ¡ ¡ ¡ ¡ ¡

Nhà nước có ưu đãi DN về vay vốn tín dụng không?

H8.a

H8.b

o1

o0

¡ ¡ ¡ ¡ ¡ ¡

Nhà nước có ưu đãi DN về lãi suất tín dụng không?

H9.a

Nhà nước có ưu đãi DN về tiền thuê đất,

H9.b

o1

o0

¡ ¡ ¡ ¡ ¡ ¡

thuê mặt nước không?

Chi tiết lý do không nhận được hỗ trợ của Nhà nước cho các hoạt động ĐMST ( trả lời cho câu

1. Chưa biết về các hình thức hỗ trợ này từ Nhà nước 2. Các hình thức hỗ trợ không có liên quan đến các nhu cầu của doanh nghiệp 3. Doanh nghiệp không biết đầu mối để kết nối với các hình thức hỗ trợ 4. Quy trình xét duyệt hỗ trợ trợ rất phức tạp 5. Doanh nghiệp không đủ năng lực kỹ thuật để có thể xin hỗ trợ 6. Lí do khác: (vui lòng ghi rõ)……………………………………………………… . .....................................................................................................................................

H1.b – H10.b)

MỤC K: THÔNG TIN THÊM

K1. Tên doanh nghiệp ..............................................................................................................................

K2. Địa chỉ email/ SĐT của người cung cấp thông tin:………………………………………../……………………..

Xin cám ơn quý doanh nghiệp!

PHỤ LỤC 3: KIỂM ĐỊNH Ý NGHĨA THỐNG KÊ

CỦA CÁC HỆ SỐ ƯỚC LƯỢNG

Nghiên cứu này sẽ kiểm định đồng thời các hệ số ước lượng. Để kiểm định đồng

thời các hệ số ước lượng, phần sau đây mô tả chi tiết việc sử dụng các câu lệnh:

Sử dụng câu lệnh test

logit PI OIhuongvao OIhuongra OIkethop RDnoibo Hotronhanuoc SHTT Quymo

Danganh Tinhquocte , r

test OIhuongvao OIhuongra OIkethop RDnoibo Hotronhanuoc SHTT

logit PI OIhuongvao OIhuongra OIkethop RDnoibo Hotronhanuoc SHTT Quymo

Danganh Tinhquocte i.region, r

test OIhuongvao OIhuongra OIkethop RDnoibo Hotronhanuoc SHTT

logit PI OIhuongvao OIhuongra OIkethop RDnoibo Hotronhanuoc SHTT Quymo

Danganh Tinhquocte i.region, r

test OIhuongvao

test OIhuongra

test OIkethop

test RDnoibo

test Hotronhanuoc

test SHTT

Kết quả kiểm định của Wald test với giả thuyết H0 là tất cả các hệ số ước lượng

đều = 0, trong trường hợp này các hệ số ước lượng có ý nghĩa thống kê khi giá trị p- value của Wald c2 có ý nghĩa thống kê để có cơ sở bác bỏ H0

Sử dụng câu lệnh lrtest

logit PI OIhuongvao OIhuongra OIkethop RDnoibo Hotronhanuoc SHTT Quymo

Danganh Tinhquocte

lrtest, saving(model9a)

logit PI Quymo Danganh Tinhquocte

lrtest, using(model9a)

logit PI OIhuongvao OIhuongra OIkethop RDnoibo Hotronhanuoc SHTT Quymo

Danganh Tinhquocte i.region

lrtest, saving(model9b)

logit PI Quymo Danganh Tinhquocte i.region

lrtest, using(model9b)

Kết quả kiểm định của LRtest với giả thuyết H0 là tất cả các hệ số ước lượng đều

= 0, trong trường hợp này các hệ số ước lượng có ý nghĩa thống kê khi giá trị p-value của LR c2 có ý nghĩa thống kê để có cơ sở bác bỏ H0

PHỤ LỤC 4: CÂU LỆNH ĐỂ KIỂM TRA HIỆN TƯỢNG ĐA CỘNG TUYẾN

Để tính toán các VIF, nghiên cứu sử dụng cụm câu lệnh sau để kiểm tra:

regress PI OIhuongvao OIhuongra OIkethop Quymo Rdnoibo Danganh Tinhquocte

Hotronhanuoc SHTT

vif

PHỤ LỤC 5: CÁC MÔ HÌNH KIỂM ĐỊNH TÍNH VỮNG

CỦA ƯỚC LƯỢNG HỒI QUY

Để kiểm định các giả thuyết H1 – H6, nghiên cứu đã chạy các mô hình hồi quy

logistic nhị phân để ước lượng tác động của các biến độc lập lên biến phụ thuộc đo lường ĐMST sản phẩm. Mô hình (1) – (5) được chạy để kiểm định các giả thuyết H1 – H4 xây

dựng dựa trên lý thuyết ĐMST đóng – mở. Mô hình (6) – (8) được sử dụng để kiểm

định các giả thuyết H5 và H6 xây dựng dựa trên lý thuyết thể chế IBV. Mô hình (9) xem

xét đầy đủ tác động đồng thời của tất cả 6 biến độc lập và 3 biến kiểm soát lên biến phụ

thuộc ĐMST sản phẩm.

Liên quan đến lý thuyết đổi mới sáng tạo đóng mở, ba mô hình đầu tiên sử

dụng để xem xét tác động riêng lẻ và kết hợp của ba biến số đo lường các cơ chế

khác nhau ĐMST mở lên ĐMST sản phẩm. Mô hình (1) kiểm tra tác động của ĐMST

mở hướng vào, mô hình (2) kiểm tra tác động của ĐMST mở hướng ra và mô hình

(3) kiểm tra tác động của ĐMST mở kết hợp lên biến phụ thuộc ĐMST sản phẩm.

Mô hình (4) đánh giá tác động cơ chế ĐMST đóng đo lường bằng cường độ R&D

nội bộ lên ĐMST sản phẩm. Mô hình (5) đồng thời đánh giá tác động kết hợp của

các ba biến số ĐMST mở và cường độ R&D nội bộ lên biến số ĐMST sản phẩm của

doanh nghiệp.

Kết quả ước lượng cho thấy rằng ĐMST mở hướng vào và ĐMST mở kết hợp

có tác động trực tiếp và tích cực đến ĐMST sản phẩm trong khi bằng chứng thực nghiệm

không chỉ ra mối liên hệ giữa ĐMST mở hướng ra và ĐMST sản phẩm. Bước đầu có

thể thấy rằng các giả thuyết H1, H2, H3 của nghiên cứu này được ủng hộ. Tuy nhiên giả

thuyết H4 lại không được ủng hộ khi mà cường độ R&D nội bộ không có tác động đến

ĐMST sản phẩm

Kết quả chạy mô hình hồi quy logistic nhị phân (1) – (5)

(2) 0,282 (0,632) 2,213** (1,022) 0,687 (0,832) 0,138 (1,236) -0,904 (1.704) YES 106 0,252

(3) 0,927** (0,435) 1,911** (0,833) -0,009 (0,699) -0,131 (1,276) 0,369 (1,627) YES 106 0,308

(4) 0,007 (0,853) 2,242* (1,144) 0,715 (0,853) 0,221 (1,334) (0,853) -1,038 (1,896) YES 106 0,247

(5) 1,407* (0,785) -0,229 (0,472) 0,936** (0,405) -0,131 (1,037) 1,820** (0,824) -0,081 (0,863) -0,782 (0,871) (1,037) 1,668 (1,953) YES 106 0,406

Biến phụ thuộc: PI (1) 1,239 OIhuongvao (0,809) OIhuongra OIkethop RDnoibo 2,220* Quymo (1,210) 0,607 Danganh (0,944) -0,556 Tinhquocte (1,554) -0,197 _cons (1,730) YES Region FE 106 Observations 0,346 Pseudo R2 Robust standard errors are in parentheses *** p<.01, ** p<.05, * p<.1

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Liên quan đến lý thuyết thể chế IBV, ba mô hình (6), (7), (8) được sử dụng để

xem xét tác động riêng lẻ và kết hợp của hai biến số đo lường chất lượng thể chế, bao

gồm Hotronhanuoc và SHTT, lên ĐMST sản phẩm. Kết quả ước lượng chỉ ra rằng giả

thuyết H5 được chấp nhận nhưng giả thuyết H6 bị bác bỏ

Kết quả chạy mô hình hồi quy logistic nhị phân (6) – (8)

Biến phụ thuộc: PI (6) 2,071* (1,156) 2,402*** (0,822) -0,215 (0,954) -0,066 (1,252) -1,327 (1,493) YES 106 0,318

(7) -0,125 (0,555) 2,289** (1,116) 0,663 (0,634) 0,223 (1,185) -1,046 (1,732) YES 106 0,248

(8) 2,121* (1,162) -0,193 (0,520) 2,501** (0,983) -0,363 (0,764) -0,036 (1,249) -1,366 (1,517) YES 106 0,321

Hotronhanuoc SHTT Quymo Danganh Tinhquocte _cons Region FE Observations Pseudo R2 Robust standard errors are in parentheses *** p<.01, ** p<.05, * p<.1

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Mô hình (9) là mô hình có đầy đủ các biến độc lập cùng biến kiểm soát của

nghiên cứu. Có thể thấy rằng các ước lượng tương đối thống nhất về ý nghĩa thống

kê và chiều của tác động giữa các mô hình (1) – (9), vì thế kết quả ước lượng đảm

bảo được tính vững.

PHỤ LỤC 6: CÁC MÔ HÌNH ƯỚC LƯỢNG HỒI QUY VỚI BIẾN PHỤ THUỘC THỨ BẬC

Thống kê mô tả của các biến phụ thuộc thứ bậc

Biến số

GTNN

p25

p75

GTLN

Độ lệch chuẩn

Quan sát 106 106 106

Trung bình 0,934 2,726 1,453

0,250 0,787 0,692

Trung vị 1 3 1

1 2 1

1 3 2

1 5 3

PI RE Radical

0 1 0

Kết quả chạy mô hình hồi quy logistic thứ bậc (ordinal logistic regression)

(9c) RE 0,276 (0,292) -0,058 (0,269) 0,684*** (0,234) 0,752*** (0,246) 1,211** (,498) 0,528** (0,246) 0,129 (0,265) 0,663 (0,486) 0,358 (0,479) YES 106 0,206

(9d) Radical 0,339 (0,291) 0,210 (0,251) 0,200 (0,358) 0,758** (0,300) 1,367** (0,549) 0,263 (0,295) 0,321 (0,276) -0,163 (0,494) 0,583 (0,492) YES 106 0,184

(9b) PI OIhuongvao 3,375** (1,610) OIhuongra 1,472 (0,998) OIkethop 2,300*** (0,885) RDnoibo -2,117** (1,022) Hotronhanuoc 8,335** (3,248) SHTT 1,748 (1,310) Quymo 4,363*** (1,510) Danganh -5,308* (3,167) Tinhquocte -2,867 (2,118) Region FE YES Observations 106 0,618 Pseudo R2 Robust standard errors are in parentheses *** p<.01, ** p<.05, * p<.1

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả