4
cứu vẫn chưa nhiều. Bên cạnh đó, tại Việt Nam, các DN chưa vận
dụng đầy đủ nội dung của từng kỹ thuật SMA, tên gọi của các kỹ
thuật SMA thường ít được biết đến nhưng có tồn tại việc cung cấp
thông tin kế toán định hướng bên ngoài, định hướng thị trường. So
với các quốc gia phát triển, mức độ vận dụng SMA tại Việt Nam
vẫn còn rất thấp (Vân & Lan, 2020). Hung (2016) đã lập luận
những khó khăn lớn trong việc thực hiện SMA có liên quan đến
quan điểm không đầy đủ của nhà điều hành Việt Nam về SMA
cũng như năng lực kế toán viên.
Với tình hình trên, có thể thấy rằng SMA tại Việt Nam cần được
quan tâm nghiên cứu thêm. Trong luận án này, tác giả tiếp tục đi
sâu nghiên cứu, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến vận SMA tại
các DNNY Việt Nam với bối cảnh sau:
-Sự không chắc chắn của MTKD. MTKD tại Việt Nam đã có
những chuyển biến tích cực tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề
như môi trường pháp lý kinh doanh còn chưa minh bạch, chưa
ổn định, không dễ dự báo, hạn chế tiếp cận nguồn lực và thị
trường (Hòa & Yến, 2016).
-Định hướng chiến lược năng động: Đứng trước những thách
thức của MTKD, các DN Việt Nam cũng đã có những nỗ lực
đổi mới sáng tạo khi chú trọng tìm kiếm để tạo ra sản
phẩm/dịch vụ mới, đổi mới quy trình sản xuất, áp dụng khoa
học kỹ thuật mới hướng tới cải tiến chất lượng sản phẩm, thay
đổi chiến lược năng động hơn (Hưng, 2020).
-Phân quyền trong quản lý: Với chiến lược thay đổi năng động,
lĩnh vực kinh doanh cần sự linh hoạt, chủ động, sáng tạo, vì thế
cần có những thay đổi mang tính đột phát trong quản trị như