BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
*********
ĐỖ THỊ THU THẢO
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC VẬN DỤNG KẾ
TOÁN QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số: 9340301
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2023
Công trình được hoàn thành tại
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Huỳnh Đức Lộng
2. TS. Nguyễn Thị Lan Anh
Phản biện 1:.....................................................................................
Phản biện 2:.....................................................................................
Phản biện 3:.....................................................................................
Luận án được trình bày trước hội đồng tại trường Đại học Kinh tế
TP. Hồ Chí Minh vào lúc ngày tháng năm
Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Đại học Kinh tế TP.HCM
3
MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của nghiên cứu
Tình hình cạnh tranh nhiều biến động hiện nay của môi trường
kinh doanh thách thức các nhà quản trị trong việc duy trì phát
triển DN bền vững. Điều này đòi hỏi các DN phải chiến lược
kinh doanh phù hợp để thể thích ứng với những thay đổi của
môi trường kinh doanh. Quá trình ra quyết định chiến lược, thực
thi chiến lược đánh giá chiến lược cần rất nhiều thông tin liên
quan nội bộ bên ngoài DN. Thông tin kế toán quản trị truyền
thống đã không đảm bảo sự p hợp trong hỗ trợ cho quá trình
này. Một sự thay đổi sâu sắc hơn về vai trò kế toán quản trị bắt
đầu vào đầu những năm 1980 khi các công ty lớn còn trở nên lớn
hơn về quy hoạt động, khái niệm toàn cầu hóa đã thu hút
các tập đoàn quốc gia lớn vươn ra quốc tế. Cùng với đó, thời đại
máy tính len lỏi để cách mạng hóa toàn bộ thế giới kinh doanh,
thêm nhiều phát minh mới thay thế các sản phẩm truyền thống,
vòng đời sản phẩm ngắn hơn khách hàng không chỉ ít trung
thành hơn mà còn khó nắm bắt hơn (Li, 2018)
Tại Việt Nam, với sự cạnh tranh ngày càng tăng, sự không chắc
chắn của MTKD, nhu cầu thông tin tối ưu hơn cho quản trị chiến
lược, SMA được quan tâm như một cách tiếp cận nâng cao của
KTQT cho vai trò tư vấn chiến lược (Thiều, 2016). Một số nghiên
cứu tại Việt Nam gần đây đã được thực hiện nhằm tìm hiểu các
nhân tố ảnh hưởng đến SMA tại Việt Nam như nghiên cứu của
Đoàn Ngọc Phi Anh (2012), Bùi Thị Trúc Quy (2020), Thị Mỹ
Nương (2021). Mặc dù đãsự quan tâm hơn của các nhà nghiên
cứu trong nước đối với SMA nhưng nhìn chung số lượng nghiên
4
cứu vẫn chưa nhiều. Bên cạnh đó, tại Việt Nam, các DN chưa vận
dụng đầy đủ nội dung của từng kỹ thuật SMA, tên gọi của các kỹ
thuật SMA thường ít được biết đến nhưng có tồn tại việc cung cấp
thông tin kế toán định hướng bên ngoài, định hướng thị trường. So
với các quốc gia phát triển, mức độ vận dụng SMA tại Việt Nam
vẫn còn rất thấp (Vân & Lan, 2020). Hung (2016) đã lập luận
những khó khăn lớn trong việc thực hiện SMA liên quan đến
quan điểm không đầy đủ của nhà điều hành Việt Nam về SMA
cũng như năng lực kế toán viên.
Với tình hình trên, thể thấy rằng SMA tại Việt Nam cần được
quan tâm nghiên cứu thêm. Trong luận án này, tác giả tiếp tục đi
sâu nghiên cứu, xác định các nhân tố ảnhởng đến vận SMA tại
các DNNY Việt Nam với bối cảnh sau:
-Sự không chắc chắn của MTKD. MTKD tại Việt Nam đã
những chuyển biến tích cực tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề
như môi trường pháp kinh doanh còn chưa minh bạch, chưa
ổn định, không dễ dự báo, hạn chế tiếp cận nguồn lực thị
trường (Hòa & Yến, 2016).
-Định hướng chiến lược năng động: Đứng trước những thách
thức của MTKD, các DN Việt Nam cũng đã những nỗ lực
đổi mới sáng tạo khi chú trọng tìm kiếm để tạo ra sản
phẩm/dịch vụ mới, đổi mới quy trình sản xuất, áp dụng khoa
học kỹ thuật mới hướng tới cải tiến chất lượng sản phẩm, thay
đổi chiến lược năng động hơn (Hưng, 2020).
-Phân quyền trong quản lý: Với chiến lược thay đổi năng động,
lĩnh vực kinh doanh cần sự linh hoạt, chủ động, sáng tạo, vì thế
cần những thay đổi mang tính đột phát trong quản trị như
5
nên tập trung vào quản trị mục tiêu hơn kiểm soát hành
chính, chú ý hơn đến việc phân quyền (Hưng, 2020).
-Sự bùng nổ của CNTT: Tại Việt Nam, việc sử dụng CNTT
trong quản điều hành DN đã những chuyển biến tích
cực, số lượng DN có sử dụng máy vi tính, kết nối internet với tỉ
lệ cao ở các ngành, mặc dù có nhận thức về tầm quan trọng của
CNTT nhưng số lượng DN khai thác sâu tiềm năng của CNTT
còn hạn chế (Hùng & Trang, 2021)
-Theo thống của UBCKNN qua các năm 2010 đến nay, số
lượng DNNY liên tục gia tăng. Hiện nay đã có hơn 400 DNNY
trên sàn HOSE, 338 DNNY trên HNX (tính đến tháng 4/2023),
các DNNY hoạt động SXKD nhiều lĩnh vực, ngành nghề.
Các DNNY đã huy động vốn trên TTCK Việt Nam với nhiều
loại chứng khoán khác nhau cùng với đó rất nhiều các bên
liên quan, do đó họ được yêu cầu công khai thông tin nhiều
hơn, cũng chú ý hơn về vấn đề quản trị công ty, quản trị chiến
lược của DN để duy trì vị thế, tạo điều kiện thuận lợi trong quá
trình kinh doanh cũng như thu hút vốn đầu tư.
Các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng SMA tại
Việt Nam còn chưa nhiều, tập trung vào DNSX nên nhân tố công
nghệ được đề cập đến là công nghệ sản xuất tiên tiến (Anh (2012);
Quy (2020); Nương (2021)). Phân cấp quản lý thể hiện ở cơ cấu tổ
chức DN (Quy, 2020) có thể còn tính hình thức, yếu tố trình độ kế
toán viên (Nương, 2021) được đo lường dựa trên trình độ học vấn
chưa thể hiện được khả năng phối hợp khi tham gia vào các hoạt
động chiến lược. Hiệu quả của việc vận dụng SMA được đánh giá
qua mối quan hệ với thành quả hoạt động được thu thập thông qua