intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các quy định của TRIMs

Chia sẻ: Nguyen Van An | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:16

252
lượt xem
77
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiệp định TRIMs quy định các quyền và nghĩa vụ của các nước thành viên trong việc sử dụng các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại mà cụ thể là thương mại hàng hoá.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các quy định của TRIMs

  1. Các quy định của TRIMs Hiệp định TRIMs quy định các quyền và nghĩa vụ của các nước thành viên trong việc sử dụng các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại mà cụ thể là thương mại hàng hoá. 2.1 Phạm vi áp dụng Hiệp định này chỉ áp dụng đối với các biện pháp đầu tư có liên quan đ ến thương mại hàng hoá. GATT 1994 cấm áp dụng các biện pháp đầu tư vi phạm các nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và hạn chế số lượng. Tuy nhiên, phạm vi này không được xác định rõ ràng. Tại Vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định TRIMs cũng quy định cấm áp dụng TRIMs trái với Ðiều III.4 (Ðãi ngộ quốc gia) hay Ðiều XI.1 (Hạn chế số lượng) của GATT 1994 gần như tương tự GATT 1947 (xem Hộp 22). HỘP 22: Ðãi ngộ quốc gia và hạn chế về số lượng (Hiệp định TRIMs, Ðiều 2) l. Trên nguyên tắc không được làm ảnh hưởng đến các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Hiệp định GATT 1994, không nước thành viên nào được phép sử dụng các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại hàng hoá (TRIMs) nếu các biện pháp này trái với các quy định tại Ðiều III hoặc Ðiều XI của GATT 1994. 2. Bản minh hoạ liệt kê các biện pháp TRIMs trái với nghĩa vụ đãi ngộ quốc gia theo quy định tại Ðiều III.4 của Hiệp định GATT 1994 và nghĩa vụ loại bỏ các hạn chế về số lượng chung theo quy định tại Ðiều XI.1 của Hiệp định GATT 1994 được quy định tại Phụ lục kèm theo Hiệp định này. Có 5 biện pháp đầu tư cụ thể bị cấm áp dụng: Ðiều III.4 cấm các quốc gia đặt ra các biện pháp đối xử với hàng hoá nhập khẩu kém thuận lợi hơn đối với hàng hoá trong nước, nếu làm như thế sẽ vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. Ví dụ như các biện pháp: 1) Yêu cầu tỷ lệ nội địa hoá; và 2) Yêu cầu cân bằng mậu dịch. Ðiều XI.1 quy định không được sử dụng các hạn chế số lượng đối với hàng nhập khẩu và xuất khẩu như các biện pháp. 3) Yêu cầu cân bằng mậu dịch dẫn đến hạn chế nhập khẩu; 4) Hạn chế giao dịch ngoại hối dẫn đến hạn chế nhập khẩu; và 5) Yêu cầu tiêu thụ nội địa dẫn đến hạn chế xuất khẩu. Ngoài ra, cụ thể hơn GATT 1947, Hiệp định TRIMs còn cung cấp một danh sách minh họa chỉ rõ các biện pháp cấm áp dụng (xem Hộp 23); quan niệm về TRIMs trong Hiệp định rộng hơn, bao hàm cả các biện pháp mang tính bắt buộc theo luật pháp sở tại hay theo quy định hành chính và các biện pháp mà nếu tuân thủ nó sẽ được hưởng một số ưu tiên như trợ cấp hay giảm thuế. Trên thực tế, Hiệp định TRIMs không có ý định đặt ra các nghĩa vụ mới mà chỉ làm sáng tỏ hơn các nghĩa vụ đã nêu trong GATT 1947. HỘP 23: Danh sách minh họa các biện pháp TRIMs trái với nghĩa vụ đãi ngộ quốc gia
  2. 1. Các biện pháp đầu tư TRIMs trái với nghĩa vụ đãi ngộ quốc gia theo quy đ ịnh tại Điều IIX.4 của Hiệp định GATT 1994 bao gồm các biện pháp được thi hành theo các quy định của pháp luật trong nước hoặc các quyết định hành chính để nhằm đ ạt được lợi thế và đòi hỏi: Các doanh nghiệp phải mua hoặc phải sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc a. nội địa, hoặc được cung cấp từ các nguồn nội địa, bất kể chủng loại hạn ngạch, giá trị sản phẩm hay tỷ lệ hạn ngạch và giá trị sản xuất nội địa của các sản phẩm đó được quy định như thế nào; Hạn chế đối và hàng hoá nhập khẩu của một doanh nghiệp theo số l ượng và b. giá trị hàng hoá sản xuất trong nước mà doanh nghiệp đó dùng để xuất khẩu. 2. Các biện pháp đầu tư TRIMs trái với nghĩa vụ loại bỏ hạn chế về số lượng chung theo quy định tại Ðiều XI.1 của hiệp định GATT 1994 bao gồm các biện pháp đ ược thi hành theo các quy định của pháp luật trong nước hoặc các quyết đ ịnh hành chính nhằm đạt được lợi thế và để hạn chế: Việc nhập khẩu của một doanh nghiệp đối với các loại sản phẩm có liên quan a. hoặc để sử dụng cho sản xuất trong nước nói chung hay theo số lượng hạn ngạch và giá trị của sản phẩm nội địa liên quan mà doanh nghiệp đó dùng để sản xuất; b. Việc nhập khẩu của một doanh nghiệp đối với các loại sản phẩm có liên quan hoặc để sử dụng cho sản xuất trong nước bằng cách hạn chế việc trao đổi ngoại tệ của doanh nghiệp đó theo số lượng ngoại tệ liên quan mà doanh nghiệp đó được phép nhập vào; hoặc Việc bán hoặc xuất khẩu đối với các sản phẩm của một doanh nghiệp bất kể c. chủng loại, hạn ngạch, giá trị sản phẩm hay tỷ lệ hạn ngạch và giá tr ị sản xuất nội địa của các sản phẩm đó được quy định như thế nào. 3. Theo Hiệp định TRIMs của WTO, các nước phải chỉnh lý các biện pháp trái với hiệp định này trong một khoảng thời gian ấn định và chỉ có một số trường hợp ngoại lệ. 2.2. Các trường hợp ngoại lệ Khi cần thiết, các trường hợp ngoại lệ theo quy định của Hiệp định GATT 1994 được áp dụng đối với các quy định của Hiệp định này. Trong vòng 90 ngày kể từ khi Hiệp định WTO có hiệu lực, các thành viên sẽ phải thông báo cho Hội đồng Thương mại hàng hoá tất cả các biện pháp đ ầu t ư đang được áp dụng không phù hợp với các điều khoản của hiệp đ ịnh TRIMs. Các biện pháp đó dù áp dụng chung hay cho riêng một số lĩnh vực cụ thể đều phải được thông báo về các đặc tính cơ bản của nó. Mỗi thành viên sẽ phải loại bỏ các biện pháp nói trên trong vòng hai năm đối với các thành viên phát triển, 5 năm đối với các thành viên đang phát triển, và 7 năm
  3. đối với các thành viên kém phát triển kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu l ực. Theo yêu cầu, Hội đồng Thương mại hàng hoá có thể kéo dài giai đoạn chuyển đ ổi đ ối với thành yên kém phát triển, kể cả thành viên đang phát triển, nếu thành viên đó bộc lộ các khó khăn trong việc thực hiện các điều khoản của Hiệp định này. Trong khi xem xét yêu cầu, Hội đồng Thương mại hàng hoá sẽ tính đến sự phát triển riêng, nhu cầu thương mại và tài chính của thành viên liên quan. Trong thời gian chuyển tiếp, một thành viên sẽ không được sửa đổi thời hạn của bất cứ biện pháp nào đã thông báo khác với thời hạn đang áp dụng vào ngày Hiệp định WTO có hiệu lực. Các biện pháp được đưa ra trong vòng 180 ngày tr ước khi Hiệp định WTO có hiệu lực sẽ không được hưởng thời gian chuyển đổi nêu trên. Để không gây khó khăn cho các doanh nghiệp đã thành lập là đối tượng của các biện pháp nói trên, các thành viên có thể áp dụng các biện pháp này trong thời gian chuyển đổi đối với các khâu đầu tư mới những lĩnh vực mà sản phẩm sản xuất ra giống sản phẩm của doanh nghiệp đã thành lập và đối với các lĩnh vực cần thi ết để bảo đảm các điều kiện cạnh tranh công bằng giữa các khoản đầu tư mới và các doanh nghiệp đã thành lập. Tuy nhiên, mọi biện pháp áp dụng cho các khoản đầu tư mới sẽ phải thông báo cho hội đồng thương mại hàng hoá. Thời hạn áp dụng TRIMs đối với các khoản đầu tư mới bằng thời hạn áp dụng cho các doanh nghiệp đã thành lập để đảm bảo hiệu quả cạnh tranh và thời hạn áp dụng TRIMs sẽ cùng kết thúc một lúc. Về việc minh bạch hoá, mỗi thành viên sẽ thông báo cho Ban thư ký các ấn phẩm mà trong đó có thể tìm thấy các quy định về TRIMs, kể cả các ấn phẩm do chính phủ và chính quyền địa phương, khu vực áp dụng trong phạm vi đ ịa dư c ủa mình. Mỗi thành viên cần thể hiện thiện chí đối với các đề nghị cung cấp thông tin và cung cấp các cơ hội để tra cứu về bất cứ vấn đề nào do các thành viên khác đ ặt ra liên quan đến Hiệp định này. Phù hợp với Ðiều X của GATT 1994 việc minh bạch hoá, không thành viên nào phải tiết lộ thông tin, nếu sự tiết lộ này có thể c ản trở việc thi hành luật hay nói cách khác trái với lợi ích xã hội, hoặc có thể làm tổn h ại lợi ích thương mại hợp pháp của các doanh nghiệp cụ thể, dù đó là doanh nghiệp quốc doanh hay tư nhân. Một Uỷ ban về TRIMs được thành lập và mọi thành viên đều được tham gia. Uỷ ban có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và họp ít nhất một năm một l ần theo đ ề nghị c ủa bất cứ thành viên nào. Uỷ ban sẽ thực hiện các nghĩa vụ do HộI đồng Thương mại hàng hoá giao và cho phép các thành viên tham kiến về bất cứ vấn đ ề nào liên quan đến hoạt động của Ủy ban và việc thực hiện Hiệp định này. Uỷ ban cũng sẽ hướng dẫn thực hiện Hiệp định này và sẽ báo cáo kết quả hàng năng lên Hội đồng Thương mại hàng hoá. Nhiều nhất là sau 5 năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực, Hội đồng Thương mại hàng hoá sẽ xem xét lại hoạt động của Hiệp định này và sẽ đệ trình các sửa đổi lên Hội nghị bộ trưởng nếu thấy cần thiết. Trong quá trình xem xét này, Hội đồng Thương mại hàng hoá sẽ cân nhắc liệu Hiệp định có cần bổ sung các quy định về chính sách đầu tư và chính sách cạnh tranh hay không.
  4. HIỆP ĐỊNH TRIMS VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO VN Là một trọng 16 Hiệp định đa phương của WTO, Hiệp địnhTRIMs quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại bị cấm sử dụng đối với các nước thành viên. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, việc thực hiện các hiệp định của WTO nói chung và Hiệp định TRIMs nói riêng là nghĩa vụ bắt buộc. Do đó, vấn đề điều chỉnh các chính sách nhằm tăng tính thích nghi của nền kinh tế Việt Nam, các ngành và doanh nghi ệp là rất cần thiết. Hiệp định TRIMs Hiệp định TRIMs đã được ký kết vào cuối vòng đàm phán Urugoay và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1995. Sự ra đời của hiệp định này đ ược coi là b ước thoả hiệp bạn đầu của quan điểm các nước phát triển và đang phát triển về việc đưa ra quy định điều chỉnh hoạt động đầu tư nhằm hạn chế trở ngại cho thương mại quốc tế. Mục tiêu chính của hiệp định là nhằm thúc đẩy việc mở rộng, phát triển tự do hoá đầu tư và thương mại quốc tế để tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả các nước tham gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, trên cơ sở đảm bảo tự do cạnh tranh. Ngoài ra, hiệp định cũng có tính đến các nhu cầu cụ thể về thương mại, phát triển và khả năng tài chính của các nước thành viên đang phát triển, nhất là các nước thành viên kém phát triển. Hiệp định này chỉ áp dụng đối với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại hàng hoál. Trong GATT 1994 cũng đã quy định cấm áp dụng các biện pháp đầu tư vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và nghĩa vụ loại bỏ các hạn chế định lượng, nhưng phạm vi không được xác định rõ ràng. Trong Hiệp định TRIMsm các quy định trở nên rõ ràng hơn bằng việc đưa ra một danh sách minh hoạ các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại cấm áp dụng đối với các nước thành viên WTO (xem bảng). Các biện pháp bị cấm áp dụng theo Hiệp định TRIMs Biện pháp Nội dung 1.Yêu cầu tỷ lệ nộiDoanh nghiệp nước ngoài mua hoặc sử dụng các sản địa hoá (vi phạm điềuphẩm có xuất xứ trong nước hoặc từ một nguồn cung cấp trong nước, dù yêu cầu đó được xác định theo sản III.4, GATT 1994 phẩm nhất định, theo số lượng hoặc giá trị sản phẩm hay theo một tỷ lệ trên khối lượng hoặc giá trị sản lượng sản xuất của doanh nghiệp 2.Yêu cầu cân bằng*Doanh nghiệp nước ngoài chỉ được mua hoặc sử dụng thương mại (vi phạmcác sản phẩm nhập khẩu được giới hạn trong một tổng điều III.4 và XI.1, GATTsố tính theo khối lượng hoặc giá trị sản phẩm nội địa mà doanh nghiệp này xuất khẩu 1994)
  5. 3.Hạn chế về giaoHạn chế doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu sản phẩm dịch ngoại hối (viđể sử dụng trong hoặc có liên quan đến sản xuất của phạm điều XI.1, GATTmình bằng việc hạn chế khả năng tiếp cận và sử dụng ngoại hối đến một mức nhất định so với các nguồn thu 1994) ngoại hối của doanh nghiệp này 4.Hạn chế về xuấtHạn chế doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu hoặc bán khẩu (vi phạm điềuđể xuất khẩu các sản phẩm dưới hình thức sản phẩm cụ thề, hay số lượng hoặc giá trị sản phẩm hay theo một XI.1, GATT 1994) tỷ lệ về số lượng họăc giá trị sản lượng sản xuất trong nước của doanh nghiệp Theo yêu cầu của hiệp định, trong vòng 90 ngày kể từ khi hiệp định có hiệu lực, các nước thành viên sẽ phải thông báo cho Hội đồng Thương mại hàng hoá t ất cả các biện pháp đầu tư đang được áp dụng không phù hợp với quy định của hiệp định này, cho dù chúng được áp dụng chung hay riêng một số lĩnh vực cụ thể. Đ ồng thời, sau một thời gian nhất định phải loại bỏ toàn bộ các biện pháp này. Để mềm hoá các quy định của mình đối với các nước đang và kém phát triển, hiệp định yêu cầu phải loại bỏ các biện pháp nói trên trong vòng 2 năm đ ối với các thành viên phát triển, 5 năm đối với các thành viên đang phát triển và 7 năm đ ối với các thành viên kém phát triển kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực (1/1/1975). Khi được yêu cầu, Hội đồng Thương mại hàng hoá có thể kéo dài giai doạn quá đ ộ đ ể loại bỏ TRIMs đối với các thành viên đang và kém phát triển, nếu những thành viên đó bộc lộ các khó khăn trong việc thực hiện các điều khoản của hiệp định này. Tình hình thực hiện Hiệp định TRIMs tại Việt Nam và vấn đề đặt ra Thực tế cho thấy, TRIMs (các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại) thường được áp dụng tại các nước đang phát triển, những nước mà trong chiến lược phát triển kinh tế của mình, vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đ ược quan tâm hàng đầu. Đặc điểm cơ bản của các nước này là nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp, công nghệ sản xuất lạc hậu và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế kém. Xuất phát từ nhận thức cần phải tránh những hạn chế do hoạt đ ộng của các MNCs gây ra, vì sự phát triển của đất nước, bảo vệ và tăng cường khả năng cạnh tranh của các Công ty nội địa, đồng thời để đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán, Chính phủ các nước đang phát triển thường áp dụng TRIMs. Đó là những công c ụ quan trọng và cần thiết đối với nền kinh tế của các nước này, mặc dù chúng có những ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại và đầu tư quốc tế. Khi gia nhập WTO, các nước phải cam kết loại bỏ TRIMs, điều này đồng nghĩa với việc các nước phải tìm các biện pháp vừa tuân thủ các quy định của WTO, nhưng đồng thời vẫn tạo cơ hội phát triển cho các ngành công nghiệp trong nước. Việt Nam đã có một quá trình áp dụng TRIMs với các mục tiêu cơ bản là vừa thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa đẩy mạnh phát triển sản xuất trong
  6. nước. Các biện pháp Việt Nam đã sử dụng trong thời gian qua là yêu cầu về tỷ l ệ nội địa hoá, yêu cầu cân đối ngoại tệ, yêu cầu phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước và yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc. Trong đó, biện pháp được tập trung áp dụng nhiều nhất là yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá trong các ngành sản xuất, lắp ráp ôtô và phụ tùng ôtô; sản xuất, lắp ráp xe máy và phụ tùng xe máy; sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh và phụ tùng thuộc ngành điện tử, cơ khí-điện. Ngoài ra, các dự án chế biến gỗ, sữa, dầu thực vật, đường mía cũng thuộc đối t ượng các ngành phải thực hiện chương trình nội địa hoá nhằm phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Song, do tính đặc thù nên phần lớn các dự án thuộc ngành này được xây dựng với mục đích sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ, sẵn có trong nước. Do vậy, các nhà đầu tư sẽ tự nguyện thực hiện chính sách nội địa hoá, kể cả trong trường hợp không được khuyến khích hoặc ưu đãi. - Đối với ngành sản xuất, lắp ráp ôtô và phụ tùng ôtô Thời gian qua, chiến lược và chính sách phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đã kêu gọi đầu tư và dành nhiều ưu đãi cho ngành này. Tuy nhiên, đến nay Việt Nam vẫn chưa thể thực sự nội địa hoá ôtô. Nguyên nhân cơ bản là do các ngành công nghiệp phụ trợ cho các ngành công nghiệp nói chung và cho ôtô nói riêng ở Việt Nam còn manh mún, thô sơ, thiếu tính kỹ thuật chuyên sâu, thực tế những năm qua cho thấy tỷ lệ nội địa hoá chỉ đạt được từ 2-10% và chỉ tậph trung chủ yếu vào các công đoạn sản xuất đơn giản như hàn lắp khung, thân xe, sơn, tẩy r ửa, lắp ráp thi ết b ị kiểm tra kèm theo. - Đối với ngành sản xuất, lắp ráp xe máy và phụ tùng xe máy Chương trình nội địa hoá ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp xe máy tại Việt Nam thời gian qua là một ví dụ điển hình về sự thành công và phát triển ban đầu. Tỷ lệ nội địa hoá được quy định ngày trong Giấy phép đầu tư của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã đáp ứng được tiến độ và tỷ lệ nội địa hoá như quy định. Một số Công ty đạt tỷ lệ nội địa hoá cao như Honda Việt Nam (64-66%), VMEP (43-77%)… và một số Công ty có tỷ lệ được coi là thấp như Công ty Vina – Siam 40,8%, Lifan 41,2%... Song, phần lớn sản phẩm nội địa được sử dụng là những chi tiết, linh kiện sản xuất với kỹ thuật công nghệ đơn giản, rất ít bộ phận chính, quan trọng, đòi hỏi kỹ thuật cao thuộc cụm động cơ. - Đối với ngành sản xuất, lắp ráp các sản phẩm và phụ tùng điện tử và cơ khí-điện Trong điều kiện kỹ thuật sản xuất ở nước ta còn lạc hậu, các ngành sản xuất, lắp ráp các sản phẩm và phụ tùng điện tử và cơ khí-điện cần được nội địa hoá để từng bước tạo ra các ngành công nghiệp cơ bản trong nước. Thời gian qua, việc thực hiện chương trình nội địa hoá đối với các ngành công nghiệp này chưa đạt mục tiêu đề ra. Sáu doanh nghiệp đầu tư nước ngoài lớn nhất trong ngành này mới chỉ đạt mức nội địa hoá khoảng 30%. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp trong nước chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật trong việc cung cấp các linh kiện và phụ tùng, đặc biệt là các ngành sản xuất, lắp ráp đòi hỏi công nghệ cao. Mặc dù không thành công như mong đợi, nhưng việc thực hện TRIMs tại Việt Nam đã đạt được một số kết quả như tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài; bảo hộ
  7. được các ngành công nghiệp trong nước, tạo ra sản phẩm có khả năng c ạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế; khuyến khích đầu tư nước ngoài vào những ngành công nghiệp then chốt; phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý; tiếp cận và nhận chuyển giao công nghệ, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý của các đối tác nước ngoài… Tuy nhiên, việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO đã đặt ra những thách thức lớn, trong đó việc áp dụng một “sân chơi” bình đẳng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Song, các doanh nghiệp trong nước cũng gặp không ít khó khăn khi phải cạnh tranh với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có lợi thế hơn về nhiều mặt như vốn, công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý… Cho nên, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có một chiến lược kinh doanh đúng đắn, hiệu quả để đ ứng vững trong c ạnh tranh và phát triển. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ hợp lý về mặt chính sách của nhà nước nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh là rất cần thiết và quan trọng. Yêu cầu của việc thực hiện TRIMs là tạo dựng một số lợi thế nhất định cho các doanh nghiệp Việt Nam, từ cơ hội kinh doanh đến các điều kiện sản xuất kinh doanh khác so với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, cho đến nay, Việt Nam đã xoá bỏ các biện pháp trên theo cam kết gia nhập WTO thì năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn ở tình trạng đáng lo ngại. Bên cạnh một số ít doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao, nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có khả năng thâm nhập các thị trường, khu vực và thế giới, đồng thời luôn chịu sức ép mất thị trường khi hàng rào bảo hộ dần bãi bỏ. Do vậy, để đạt được mục tiêu đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, ngoài những yếu tố khách quan, cơ chế chính sách đóng vai trò quan trọng, mang ý nghĩa quyết định trong giai đoạn hiện nay. Muốn phát triển, Việt Nam phải vừa mở cửa nền kinh tế, phải vừa có cơ chế thúc đẩy nền kinh tế trong nước và có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phù hợp trong điều kiện cho phép. Các chính sách phải phù hợp với các nguyên tắc và thông lệ quốc tế, đảm bảo thực hiện các cam kết song phương và đa phương, các hiệp định của WTO, trong đó có Hiệp định TRIMs. Bên cạnh đó, phải tạo được môi trường đầu tư thuận lợi, ưu tiên một cách hợp lý cho phát triển một số lĩnh vực, ngành nghề trong nước. Giải pháp thực hiện Hiệp định TRIMs ở Việt Nam trong quá trình tham gia WTO Trong điều kiện hiện nay, khi Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO và phải thực hiện Hiệp định TRIMs, những giải pháp mang tính bảo hộ sản xuất trong nước sẽ không thể được áp dụng. Việc hỗ trợ các doanh nghiệp cần tiến hành một cách gián tiếp. Về thực chất, đây là việc tạo dựng một môi trường kinh doanh, mà ở đó các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều được “hưởng lợi” hơn từ môi trường đầu tư mang tính cạnh tranh hơn. Điều này sẽ thu hút được đầu tư nước ngoài và thúc đẩy đầu tư trong nước. Mô hình cho thấy theo lộ trình gia nhập WTO, tại thời điểm gia nhập WTO, các giải pháp liên quan đến bảo hộ (giải pháp áp dụng TRIMs) sẽ nhanh chóng giảm.
  8. Cùng thời điểm đó, các giải pháp thực hiện Hiệp định TRIMs (ở đây là tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh) sẽ tăng lên. Khoảng thời gian quá độ nhằm giúp Chính phủ và các doanh nghiệp dần thích ứng với điều kiện mới. Khoảng thời gian này thường là 5 năm (kể từ khi chính thức gia nhập WTO) đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, nếu không được gia hạn thêm. Nhóm giải pháp liên quan đến đầu vào của các ngành công nghiệp Thứ nhất, xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành kinh tế Điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng quan trọng đến chi phí và rủi ro của các hoạt động đầu tư. Để có thể phát triển cơ sở hạ tầng, Việt Nam cần một lượng vốn rất lớn. Muốn huy động đủ vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng cần có quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, đa dạng hoá các nguồn vốn trong đó cần cố gắng giảm vốn nhà nước, tăng các nguồn vốn từ các thành phần khác như vốn nước ngoài, vốn tư nhân (PPI – Private Participation Infrastrycture) theo phương thức BOT, BT…. Đối với nguồn vốn nhà nước dùng cho phát triển cơ sở hạ tầng, cần tuân thủ nghiêm ngặt quy chế đấu thầu nhằm tránh thất thoát, lãng phí vốn đầu t ư và nâng cao chất lượng hạ tầng cơ sở. Thứ hai, phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Thực tế cho thấy, phát triển các khu công nghiệp và công nghệ cao tỏ ra rất có hiệu quả trong thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư trong các khu vực này, các nhà đầu tư không những được đáp ứng cơ sở hạ tầng kỹ thuật chuyên dụng, dịch vụ thuận lợi… mà sản phẩm của họ còn được tiêu thụ ở thị trường nội địa. Khi đầu tư có quy mô tăng lên thì yêu cầu phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao c ủa Vi ệt Nam cần được quy hoạch và có những chính sách thu hút đầu tư hợp lý cả về xây dựng cơ sở hạ tầng lẫn đầu tư vào khu công nghiệp, khu công nghệ cao từ đó làm giảm giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Thứ ba, Việt Nam cần có chiến lược khuyến khích chuyển giao công nghệ, đầu t ư nghiên cứu và ứng dụng nhằm nâng cao năng lực công nghệ quốc gia Trong điều kiện tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp, khả năng tài chính của các doanh nghiệp trong nước còn hạn hẹp, việc đầu tư vốn đổi mới công nghệ ở quy mô lớn rất khó thực hiện. Do đó, việc hướng đến kỹ thuật và công nghệ từ đầu tư nước ngoài trở thành yêu cầu tất yếu cho quá trình phát triển, nhất là việc ti ếp cận công nghệ nguồn từ các nước phát triển. Qua nghiên cứu Hiệp định TRIMs, có thể nhận thấy việc khuyến khích hoặc yêu cầu chuyển giao công nghệ không bị cấm. Do đó, Việt Nam cần phải triệt đ ể khai thác khía cạnh này. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tạo ra nhu cầu rất lớn về các sản hạn, trung gian hoặc sản phẩm phụ trợ. Đây là cơ hội tốt cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ sẵn sàng chuyển giao các công nghệ nếu việc chuyển giao đem lại lợi nhuận cho họ và được bảo vệ các lợi ích chính đáng. Đi ều này đòi hỏi cần phải có các quy định hợp lý, rõ ràng về quyền lợi mà họ đ ược
  9. hưởng, đồng thời, chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phải được thực thi nghiêm ngặt, vì các yêu cầu này thường dễ bị phản ứng bởi các nhà đầu tư. Thứ tư, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực Đây là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của môi trường đ ầu tư cũng như là điều kiện cần thiết cho việc chuyển giao công nghệ và cải tiến kỹ thuật. Việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề và đội ngũ kỹ sư có trình độ cao, có khả năng ứng dụng và cải tiến công nghệ cao là vấn đ ề cấp bách đ ặt ra đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục – đào tạo hiện nay. Thứ năm, quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu Quy hoạch vùng nguyên liệu có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình vận hành và các dự án đầu tư. Do đó, Việt Nam cần có quy hoạch phát triển ngành, vùng căn c ứ vào các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của ngành, vùng đó. Trong quy hoạch cần xác định rõ quy mô các vùng nguyên liệu để từ đó đề ra các giải pháp đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu phù hợp. Sớm khắc phục triệt để tình trạng “quy hoạch treo”, “đền bù treo”, đặc biệt là khắc phục tình trạng quy hoạch mang tính chủ quan, dàn trải…. như thời gian qua, làm kém hiệu qua đầu tư nói riêng, phát triển kinh tế xã hội nói chung. Nhóm giải pháp liên quan đến phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ Thứ nhất, xây dựng quy hoạch phát triển cho các ngành, trong đó định hướng sự phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Chẳng hạn, khi xây dựng quy hoạch cho ngành sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy, Việt Nam cần có chính sách khuyến khích, định hướng phát triển các doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện; các nhà máy sản xuất phôi thép, thép tấm, thép lá; nhà máy sản xuất các chế phẩm từ cao su tự nhiên. Thứ hai, nhà nước tạo điều kiện cho công nghiệp phụ trợ phát triển bằng cách tạo các điều kiện về đầu vào như đất đai và nguyên vật liệu, hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực, cung cấp thông tin công nghệ, tham gia triển lãm sản phẩm; không phân biệt đối xử doanh nghiệp trong nước với nước ngoài, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Thứ ba,xây dựng các trung tâm đào tạo kinh doanh và công nghệ cũng như các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ tư, đối với các doanh nghiệp trong nước, cần tạo dựng các sản phẩm chủ đạo, nổi trội. Bên cạnh đó, cần tạo dựng hình ảnh sản phẩm của mình nhằm thu hút các nhà đầu tư (người mua) như xây dựng thương hiệu, khuếch trương sản phẩm. Một giải pháp quan trọng nữa là cần nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý cho ngang tầm với các doanh nghiệp nước ngoài cùng loại. Nhóm giải pháp liên quan đến quản lý vĩ mô và chiến lược của doanh nghiệp. Thứ nhất, tăng cường hơn nữa tính min bạch và chiến lược của doanh nghiệp
  10. Để tăng cường tính minh bạch và khả năng dự đoán của pháp luật, ngoài việc công khai lộ trình cam kết gia nhập WTO, Việt Nam cần công bố các chương trình luật pháp có liên quan cho tất cả các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, nhằm toạ điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong lập kế hoạch xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, cần cải cách các chính sách liên quan đến đầu tư theo hướng giảm thiểu, tiến tới xoá bỏ các rào cản trái với quy định của WTO. Thứ hai, xây dựng quy chế phê duyệt và quản lý dự án đầu tư thông thoáng đơn giản và hiệu quả Quá trình thực hiện Hiệp định TRIMs khi gia nhập WTO đòi hỏi cần cải cách mạnh mẽ hành chính, nâng cao năng lực của các cơ quan có thẩm quyền liên quan, tạo dựng môi trường pháp lý ổn định ràng buộc trách nhiệm của cả cơ quan ch ức năng và nhà đầu tư… từ đó giảm được tối đa các rào cản hành chính và cũng đ ồng thời làm giảm chi phí đầu tư, tận dụng được các cơ hội đầu t ư thuận lợi, nâng cao hiệu quả đầu tư cho các nhà đầu tư. Thứ ba, các doanh nghiệp trong nước cần chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để đáp ứng yêu cầu của các đối tác nước ngoài nói riêng và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Hội nhập là con đường phát triển tất yếu nhưng không dễ dàng, bằng phẳng. Để hội nhập thành công, các doanh nghiệp phải chuẩn bị tốt về mọi mặt. Các chính sách biện pháp hỗ trợ (nếu có) của Chính phủ chỉ đóng vai trò là chất “xúc tác”, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả. Bản thân mỗi doanh nghiệp mới thực sự là người đóng vai trò quyết định đối với sự thành bại của chính mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Doanh nghiệp cần xác định đúng đắn chiến lược đầu tư phát triển của mình phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế nói chung của nền kinh tế. Trước hết, cần chú trọng tới việc phát triển nguồn nhân lực, đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị công nghệ sản xuất, thay thế kịp thời các thiết bị công nghệ lạc hậu, tạo nên bước đột phá về chất lượng và giá cả sản phẩm, nânng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đáp ứng tốt yêu cầu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất từ đó phát huy được lợi thế cạnh tranh và có thể tồn tại bền vững trong điều kiện hội nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO là một bước tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Với trình độ phát triển kinh tế thấp, tích luỹ nội bộ yếu, khả năng ngân sách hạn hẹp, công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới, lao động thủ công là chính…., Việt Nam cần phải chú trọng đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nhằm phát huy mọi khả năng nội lực, tranh thủ nguồn ngoại lực để phát triển. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải tuân thủ những quy định chung ràng buộc giữa các nước trong đó có Hiệp định TRIMs. Do đó, để hội nhập đạt hiệu quả cao, Việt Nam cần xoá bỏ TRIMs trái với quy định của WTO, từng bước thực hiện tự do hoá đầu tư và thương mại. Việc làm này phải thực hiện theo một tiến trình hợp lý, tránh gây những biến động lớn đến nền kinh tế.
  11. Những biên phap đâu tư liên quan đên thương mai trong khuôn khổ WTO ̣ ́ ̀ ́ ̣ Những biện pháp do chính phủ tiến hành nhằm thu hút và điều tiết các nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ của một quốc gia bao gồm khuyến khích về tài chính, nguồn vốn vay, giảm thuế, ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu, nguồn ngoại tệ, những điều kiện về sản xuất, chuyển giao công nghệ... có ảnh hưởng đến mậu dịch quốc tế được gọi là những biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs). Xuất phát từ nhận thức cần phải duy trì quyền kiểm soát trực tiếp hoạt động kinh tế của các công ty xuyên quốc gia (TNCs), vì sự phát triển của đất nước, bảo vệ và tăng cường khả năng cạnh tranh các công ty nội địa trên thị trường thế giới, đồng thời để đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán, chính phủ các nước đang phát triển đã đưa ra những biện pháp kể trên. Đó là những công cụ hết sức quan trọng và cần thiết đối với nền kinh tế của các nước này. Vì vậy, không ngạc nhiên khi các nước đang phát triển, thậm chí cả các nước công nghiệp mới cũng kiên quyết chống lại đề nghị thảo luận một cách tổng thể Hiệp định đa phương về hạn chế hoặc cấm sử dụng TRIMs do các nước phát triển đưa ra tại vòng đàm phán Uruguay. TRIMs là một vấn đề mới được đưa vào thảo thuận trong khuôn khổ của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT và sau đó, trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trước hết là do chính quyền Mỹ lo ngại các nước đang phát triển sẽ kiểm soát và hạn chế phạm vi hoạt động của các nhà đầu tư Mỹ. 1. Quá trình đàm phán: Trong quá trình đàm phán luôn có hai xu hướng trái ngược nhau về TRIMs. Xu hướng thứ nhất cho rằng tất cả các biện pháp đầu tư có ảnh hưởng tới thương mại cần được bãi bỏ hoặc phải được xem xét trong từng trường hợp cụ thể. Xu hướng thứ hai cho rằng liệu TRIMs có bị ảnh hưởng hoặc không phù hợp với các điều khoản đang hiện hành của Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại được thông qua năm 1994 (GATT-94) hay không ? Hay là sẽ được nâng lên thành một Hiệp định để áp dụng cho tất cả các nước ? Các nước công nghiệp phát triển, trong đó có Mỹ, Nhật ủng hộ việc thiết lập một Hiệp định đầu tư đa phương, bởi Hiệp định này chỉ quy định quyền lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là đối với các công ty xuyên quốc gia. Các nước nói trên cho rằng TRIMs có những ảnh hưởng không tốt đến thương mại quốc tế vì vậy cần phải có một bộ luật, hoặc một Hiệp định nhằm qui định rõ ràng những nguyên tắc để kiểm soát và hạn chế phạm vi tác động của TRIMs. Trong các đề nghị của Mỹ, Nhật Bản, EU, Thuỵ Sĩ, các nước này đã liệt kê hàng loạt các đòi hỏi mà những nước nhận đầu tư áp đặt, theo họ, có ảnh hưởng tiêu cực tới việc xuất nhập khẩu. Mỹ cho rằng GATT 94 đã đề cập tới các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại, nhưng cần phải cụ thể hoá hơn nữa những nguyên tắc đã có, và một số TRIMs cần phải được loại bỏ, một số khác cần được kiểm tra, đánh giá cụ thể những hậu quả do chúng gây ra. Theo đề nghị của Mỹ cần thiết phải thành lập một uỷ ban theo dõi việc thực hiện TRIMs và định ra thời hạn cụ thể để tiến tới loại bỏ toàn bộ TRIMs, có tính đến lợi ích của các nước đang phát triển.
  12. Nhật Bản lại nhấn mạnh tới phương pháp xác định tác động của TRIMs nhằm phân loại các TRIMs không phù hợp với những nguyên tắc của GATT (loại A). Theo Nhật Bản, loại "A" bao gồm những đòi hỏi về tỷ lệ các phụ kiện sản xuất tại nước nhận đầu tư trong toàn bộ thành phẩm, những qui định về xuất khẩu, cân bằng cán cân thanh toán, khối lượng sản phẩm bán trong thị trường nội địa, chuyển giao công nghệ... cần phải được loại bỏ. Đề nghị của các nước EU và Bắc Âu chỉ tập trung vào những biện pháp có ảnh hưởng trực tiếp đối với thương mại và liên quan trực tiếp với các điều khoản của GATT(1) . Các nước này phân biệt rõ những vấn đề chung của đầu tư trực tiếp và những vấn đề cá biệt liên quan đến thương mại, vì vậy không ủng hộ việc thành lập một uỷ ban như Mỹ đề nghị. Họ cho rằng tác động trực tiếp và gián tiếp của các biện pháp đầu tư cần được xem xét và đánh giá một cách chính xác, khách quan. Những tác động gián tiếp do TRIMs gây ra, theo các nước trên, chủ yếu liên quan đến các loại giấy phép đầu tư, nhập khẩu, những đòi hỏi về chuyển giao công nghệ, chuyển lợi nhuận về nước và những hạn chế khác về ngoại tệ. TRIMs có tác động trực tiếp cần được xem xét tại Cơ quan giải quyết các tranh chấp của WTO. Các nước Bắc Âu còn cho rằng hai TRIMs cần phải loại bỏ là những đòi hỏi về tỷ lệ phụ kiện sản xuất trong nước trong toàn bộ thành phẩm và những qui định về xuất khẩu, nhưng có tính đến lợi ích của các nước đang phát triển. Về phần mình, các nước đang phát triển chỉ muốn thảo luận những biện pháp có ảnh hưởng trực tiếp đáng kể đối với thương mại, vì một số TRIMs khác đối với họ là cần thiết để phân hướng các nguồn đầu tư nước ngoài phù hợp với mục đích phát triển kinh tế đất nước và chống lại sự bành trướng, độc quyền, cạnh tranh của các TNCs. Mặt khác, do muốn có sự đối xử ưu đãi từ phía các nước phát triển, họ đề nghị các nước này trong các cuộc đàm phán cần phải tính đến những điều khoản ưu đãi đã được ghi trong GATT. Malaysia gắn TRIMs với các điều khoản của phần IV, GATT-94, đặc biệt là các điều XXXVI mục b, điều XXXVI khoản 5, 9 và điều XXXVII khoản 3 mục c. Â'n Độ cho rằng chỉ có 2 TRIMs tác động trực tiếp đến thương mại nhưng rất cần thiết để chống lại những hạn chế mà TNCs thường áp dụng. Nhằm sớm đạt được một Hiệp định về TRIMs, Chủ tịch nhóm đàm phán đã cố gắng làm giảm bớt sự khác biệt về lập trường giữa các nước bằng cách đưa ra một dự thảo Hiệp định, ở một mức độ nào đó, thể hiện sự thoả hiệp của các bên, nhưng đã gặp phải sự phản đối của gần như tất cả các nước, vì dự thảo này không thoả mãn được các vấn đề liên quan đến phạm vi áp dụng của Hiệp định. Tháng 12/1991 Tổng giám đốc GATT đã đưa ra dự thảo văn kiện cuối cùng, thực chất là nội dung Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại và đã được các nước thông qua tại Marrkesh tháng 4/1994. Hiệp định này một mặt không cho phép áp dụng một số các TRIMs nhưng mặt khác cũng qui định rõ thời hạn chuyển tiếp cho các nước thành viên thực hiện những điều khoản đã được thoả thuận : đối với các nước phát triển là 2 năm, các nước đang phát triển là 5 năm, các nước có nền kinh tế kém phát triển là 7 năm. 2. Nội dung chính của Hiệp định về TRIMs: Hiệp định về TRIMs gồm phần mở đầu, 9 điều và một phụ lục kèm theo qui định
  13. những biện pháp đầu tư của nước tiếp nhận không phù hợp với các điều III và XI khoản 1 của GATT. Những biện pháp đó là : a. Khối lượng nhập khẩu chỉ được giới hạn ở mức tương đương với khối lượng hàng xuất khẩu của công ty. b. Qui định về tỷ lệ các phụ kiện được sản xuất tại chỗ trong thành phẩm (tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm), đòi hỏi này trái với điều III của GATT là không được phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu. c. Những hạn chế liên quan đến sử dụng nguồn ngoại tệ. Khối lượng ngoại tệ dùng để nhập khẩu chỉ hạn chế ở mức tương đương với khối lượng ngoại tệ mà công ty có được thông qua xuất khẩu hoặc các nguồn khác. d. Những yêu cầu về tỷ lệ xuất khẩu đối với các sản phẩm được sản xuất trên thị trường nội địa. Đối với những nhà kinh doanh của các nước phát triển, Hiệp định này chỉ giới hạn trong những TRIMs nói trên, mà không qui định phải loại bỏ những biện pháp khác có ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại: không loại bỏ tỷ lệ đóng góp vốn của các công ty nội địa trong xí nghiệp liên doanh, hoặc những đòi hỏi về chuyển giao công nghệ... Hiện nay nhiều nước đang phát triển qui định tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm, chẳng hạn như Brasile áp dụng qui định trên đối với ngành lắp ráp ô tô trong nước : năm đầu tiên, nhà máy lắp ráp phải sử dụng 20% phụ kiện sản xuất tại địa phương trong 1 chiếc ô tô, năm thứ hai 40%, năm thứ ba 60%, nếu các công ty nước ngoài không đáp ứng được những điều kiện trên thì phải chịu mức thuế nhập khẩu rất cao (2) . Quyết định này gây nên sự phản đối của nhiều nước trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc và EU. Các nước này đã yêu cầu Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO xem xét và đưa ra phán quyết cuối cùng. 3. Hiệp định Đầu tư đa phương: Những hạn chế của Hiệp định về TRIMs gây nhiều trở ngại cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia (TNCs). Do vậy các nước công nghiệp phát triển đã đưa ra một đề nghị mới nhằm khắc phục những hạn chế đó: Hiệp định đầu tư Đa phương (MAI). Theo họ, Hiệp định này cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư không hạn chế vào hầu hết các ngành kinh tế của các nước (trừ một số ngành liên quan đến an ninh quốc gia), được tự do chuyển vốn và lợi nhuận ra bên ngoài và phải được đối xử bình đẳng như các công ty của nước chủ nhà. Trong các cuộc thảo luận, một bên là các nước công nghiệp phát triển, đại diện cho các công ty xuyên quốc gia, cho rằng quá trình toàn cầu hoá sẽ được thúc đẩy nhanh hơn nếu như MAI được thông qua trong khuôn khổ WTO. Nhưng các nước đang phát triển đã phản đối việc thảo luận MAI trong khuôn khổ của WTO với lý do là đã có Hiệp định về TRIMs, nên không cần thiết phải có MAI. Các nước này cho rằng MAI là công cụ của TNCs vì nó chỉ qui định quyền lợi mà không nói đến nghĩa vụ và trách nhiệm của TNCs, là ý đồ trở lại chính sách thực dân hoá về kinh tế. Indonesia cho rằng họ không thể chấp nhận MAI, còn Â'n Độ bày tỏ quan điểm của họ là các nước phát triển có thể đàm phán với nhau về tất cả những gì họ muốn, nhưng không thể đa phương hoá hay quốc tế hoá vấn đề đầu tư nếu không có sự đồng ý của các nước đang phát triển. Duy nhất chỉ có một nước đang phát triển là Madagasca ủng
  14. hộ đề nghị trên. Đa số các nước đang phát triển như Â'n Độ, Bangladesh, Zambia, Indonesia, Aicập, Ghana lên tiếng phản đối và cho rằng cần phải có thời gian xem xét trước khi thảo luận, nhưng chỉ trong khuôn khổ Hội nghị về Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD). Vì thực tế, tất cả các quyết định của UNCTAD chỉ mang tính chất khuyến nghị đối với các thành viên, không có tính chất bắt buộc phải thực hiện. Trái lại, tất cả các Hiệp định đa phương và các quyết định của WTO có giá trị pháp lý, mà các nước thành viên phải có trách nhiệm thực hiện. Trong trường hợp một nước thành viên nào đó không thực hiện các quyết định của Cơ quan giải quyết các tranh chấp hoặc nghĩa vụ của mình, các nước thành viên khác sẽ được quyền áp dụng các biện pháp trả đũa trong buôn bán. Chính vì lý do này mà các nước đang phát triển không muốn MAI được thảo luận, sau đó thông qua và trở thành Hiệp định đa phương trong khuôn khổ WTO. Ngược lại, các nước phát triển (EU, Nhật Bản, Canada...) không muốn chỉ giới hạn trong khuôn khổ UNCTAD, mà họ chính thức đề nghị đưa ván đề này vào Chương trình nghị sự của Hội nghị cấp Bộ trưởng các nước thành viên WTO, được tiến hành từ 9 đến 13 tháng 12/1996 tại Singapore, nhưng bị các nước đang phát triển phản đối. Trước sức ép của các nước phát triển, các nước đang phát triển đã phải đồng ý tạm thời thành lập Nhóm công tác (Working group-WG) nghiên cứu về MAI. Thực chất đây là sự thoả hiệp của cả hai nhóm nước. Các nước phát triển đã ý thức được, dù các nước đang phát triển muốn hay không, việc đưa MAI vào trong khuôn khổ của WTO chỉ là vấn đề thời gian. Bởi hiện nay các công ty xuyên quốc gia đang tích cực hoạt động tại hầu hết các nước trên thế giới và đó là cơ sở giúp các nước phát triển khẳng định sự tin tưởng của họ. TNCs có sức mạnh về tài chính, nắm giữ những công nghệ hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến và đặc biệt nhanh chóng thích ứng với sự thay đổi của thị trường. Thực tế đã cho thấy, đúng như dự đoán của các nước phát triển, họ đã lấn dần từng bước. Sau Hội nghị cấp Bộ trưởng tháng 12/1996, Nhóm công tác về MAI đã tiến hành kỳ họp đầu tiên vào tháng 6/1997, Mỹ, các nước EU, cố tình tìm mọi cách làm thay đổi chức năng của WG, nhằm biến quá trình nghiên cứu và thảo luận mối liên quan giữa đầu tư và thương mại trong khuôn khổ MAI thành nội dung của một cuộc đàm phán giữa các nước. Một lần nữa các nước Â'n Độ, Pakistan, các nước ASEAN, Tanzania, Ghana, Uganda, Ai Cập, Argentina... đã kiên quyết chống lại ý định trên. Cũng chính tại cuộc họp tháng 6/1997, Phó Trưởng đoàn Đại diện Thường trực của Indonesia, bà Halida Milni, thay mặt các nước ASEAN thành viên WTO tuyên bố "cần phải có một sự cố gắng để tránh tạo ra môi trường của một cuộc đàm phán"(3). 4. Việt Nam với TRIMs và MAI: Như vậy, tại sao các nước đang phát triển nói trên, trong khi vẫn tiếp tục nhận nhiều vốn đầu tư nước ngoài vẫn thường xuyên sửa đổi những điều khoản của các bộ luật đầu tư nhằm tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, và có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường hơn chúng ta lại kiên quyết phản đối đưa MAI vào trong khuôn khổ những nguyên tắc của WTO ? Giải đáp được câu hỏi trên là hết sức cần thiết, vì chúng ta đang trong quá trình chuẩn bị cho kỳ họp đầu tiên của Nhóm công tác (Working party - WP). Nhóm này sẽ xem xét đơn xin gia nhập WTO của Việt
  15. Nam. Thực tế có rất nhiều vấn đề liên quan đến MAI mà chính các nước đang phát triển trực tiếp tham gia nghiên cứu và thảo luận cũng chưa lý giải được một cách rõ ràng, cụ thể. Đó là sự tác động qua lại giữa đầu tư và thương mại, tác động của nó đối với tăng trưởng và ổn định kinh tế ở tầm vĩ mô, đối với sự phân phối và thu nhập, khả năng cạnh tranh, chuyển giao công nghệ và các kỹ năng quản lý, sự di chuyển vốn và sức lao động, đồng thời cần phải rà soát lại để thấy được sự trùng lặp, hoặc sự xung đột giữa các điều khoản về đầu tư có liên quan đến thương mại trong gần 30 Hiệp định của WTO với các điều khoản khác trong các hiệp định song phương, đa phương đã được ký kết giữa các nước thành viên... Việc trở thành thành viên chính thức của WTO là rất khó khăn. Nhưng đối với Việt Nam sẽ còn khó khăn và phức tạp hơn, bởi Bị vong lục về chính sách Ngoại thương của ta đã được tiến hành soạn thảo từ 1994 và chính thức lưu hành cho các nước thành viên WTO năm 1995, trong khi đó Luật Thương mại gồm 264 điều mới chỉ vừa được Quốc hội thông qua vào tháng 5/1997. Nhưng về cơ bản, nội dung của Luật Thương mại vẫn còn cách biệt rất xa với những nguyên tắc và qui định chung của các Hiệp định về WTO, thiếu nhiều điều khoản liên quan đến các vấn đề như các biện pháp bảo hộ, biện pháp đối kháng, mức thuế ưu đãi (MFN)... Điều 8 của Luật Thương mại có đề cập tới vấn đề cạnh tranh lành mạnh và chống bán phá giá nhưng còn quá sơ sài xét theo những nội dung của Hiệp định về Thực hiện điều VI, GATT 94 và cần được cụ thể hoá bằng văn bản dưới luật. Vì nếu như có sự tranh chấp liên quan đến cạnh tranh và đặc biệt là vấn đề bán phá giá trên thị trường Việt Nam thì thực tế, điều 8 chưa đủ cơ sở để giải quyết các tranh chấp nói trên. Như vậy, chúng ta sẽ gặp nhiều trở ngại trong quá trình giao lưu và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Chỉ riêng trong lĩnh vực đầu tư, mặc dầu chúng ta đã nhiều lần sửa đổi và bổ sung Luật đầu tư nước ngoài với mục đích tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn để thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, nhưng còn có những điều khoản mâu thuẫn với những qui định trong Hiệp định về TRIMs. Ví dụ, việc quy định tỷ lệ xuất khẩu, hoặc tiêu thụ hàng hoá trên thị trường nội địa (điều 8 trong Hợp đồng Hợp tác Kinh doanh và điều 14 trong Hợp đồng Hợp tác Liên doanh, trong Nghị định số 12/CP ngày 18 tháng 2 năm 1997 của Chính phủ) ; Hoặc vấn đề sử dụng nguồn ngoại tệ : Thông tư số 02/TT - NH 7 (tháng 7/1997) hướng dẫn cụ thể về quản lý ngoại hối đối với các tổ chức và cá nhân người nước ngoài hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, bao gồm các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, xí nghiệp liên doanh, quy định từ 1/1/1998 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được mua ngoại tệ từ các ngân hàng Thương mại Việt Nam mà phải tự cân đối nhu cầu ngoại tệ bằng cách xuất khẩu sản phẩm hoặc các nguồn ngoại tệ hợp pháp khác. Thực tế qui định này xuất phát từ điều 33 trong Luật đầu tư nước ngoài của ta, nhưng chưa phù hợp với những qui định của TRIMs. Vậy, một câu hỏi được đặt ra là liệu Việt Nam có thể đưa ra những quy định tương tự như trên hay không trong quá trình đàm phán và ngay cả sau khi trở thành thành viên chính thức ? Câu trả lời là hoàn toàn có thể, nếu chúng ta đưa ra được lý do chính đáng phù hợp với những điều khoản ưu đãi, miễn trừ trong các Hiệp định của WTO. So sánh một vài sự khác biệt giữa những qui định của Việt Nam trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, ngân hàng với những quy định và nguyên tắc của các Hiệp định về WTO, người viết chỉ muốn nhấn mạnh tới hai vấn đề sau đây: Một là, cần có sự chuẩn bị hết sức cẩn thận,
  16. ngay từ khi soạn thảo và trả lời các câu hỏi của các nước thành viên WTO liên quan đến các vấn đề được trình bày trong Bị vong lục về Chính sách Ngoại thương nói trên, tránh trả lời dài, không đúng trọng tâm; Hai là, tận dụng tới mức tối đa những điều khoản ưu đãi và miễn trừ tạm thời dành cho các nước đang phát triển khi tham gia đàm phán với các đối tác buôn bán chủ yếu, bởi chính họ sẽ đưa ra những điều kiện hết sức khắt khe cho chúng ta như đối với một nước thành viên, mặc dù Việt Nam chưa là thành viên chính thức. Hơn nữa, WTO là một hệ thống các qui định về mở cửa thị trường và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các nước thành viên, mà không phải là một tổ chức buôn bán hoàn toàn tự do theo quan niệm của một số chuyên gia và học giả, kể cả các chuyên gia và học giả phương Tây, vì bản thân WTO cho phép các nước thành viên được bảo hộ nền kinh tế của mình, nhưng phải thông qua các biện pháp thuế quan. Các điều khoản cấm bán phá giá, quyền được tự vệ, cấm phân biệt đối xử trong thương mại... là nhằm mục đích thực hiện các nguyên tắc trên. Chúng ta cần triệt để khai thác khía cạnh này trong đàm phán. Vì lẽ đó, vấn đề mở cửa thị trường nội địa của ta đến mức độ nào, để vừa bảo vệ nền kinh tế trong nước vừa thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước cũng như doanh nghiệp tư nhân phát triển và đứng vững trong sự cạnh tranh trên thương trường quốc tế là trách nhiệm của các nhà hoạch định chính sách, các cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán. Rõ ràng, cần xác định ưu tiên cho những ngành quan trọng đối với nền kinh tế, nhưng như vậy, không có nghĩa là thả nổi các ngành kinh tế khác. Nền kinh tế của chúng ta có cơ cấu ngành rất đa dạng, tiềm năng kinh tế rất lớn, tài nguyên tương đối phong phú, với thị trường gần 80 triệu dân, tuy vậy, sức mạnh kinh tế còn rất khiêm tốn nếu so sánh với các nước láng giềng xung quanh, khối lượng xuất nhập khẩu còn nhỏ lại tập trung vào một số mặt hàng chủ lực, sức cạnh tranh của hàng nội địa rất yếu, tích luỹ nội bộ và hiệu quả sử dụng vốn thấp, tỷ lệ thất nghiệp còn cao... Vậy điều gì sẽ xảy ra, nếu chúng ta mở cửa thị trường nội địa dưới sức ép và điều kiện của các đối tác buôn bán chủ yếu, mà không có sự cân nhắc tính toán dựa trên cơ sở lợi ích của toàn bộ nền kinh tế ? Như vậy, nếu thiếu cách nhìn sâu xa, tổng thể trong việc mở cửa thị trường thì hậu quả tiêu cực sẽ không chỉ dừng lại trong lĩnh vực kinh tế. Tài liệu trích dẫn: 1. Submision by the EU and Nordic Countries. -MIN.GNG/NG. 12/W/6. 2. Notification by Brasil to the WTO Secretariat, 1995. 3. Third World Economics, 16-30 June 1997. Tài liệu tham khảo: 1. Agreement on Trade-Related Investment Measures (TRIMs). 2. GATT 94. 3. Reports of the Working Group on TRIMs, 6/1997. 4. Luật Thương mại, 1997. 5. Luật Đầu tư nước ngoài 1996./.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2