intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cần một hệ thống ít ngân hàng, nhưng quy mô lớn

Chia sẻ: Bibo Bibo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:3

70
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Điều này phần nào đã dẫn đến sự ra đời một loạt các ngân hàng mới, nhưng quy mô nhỏ, cho vay và hoạt động mang tính đầu cơ trên các thị trường tài sản. Các ngân hàng này có vốn chưa nhiều mà đã phải cho vay ngay một số khách hàng lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ. Thứ hai, thách thức hệ thống khi cả nền kinh tế trong nước và toàn cầu cùng suy yếu. Chúng ta thường chỉ nói là nợ xấu xuất hiện ở cho vay BĐS, cho vay đầu cơ, các...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cần một hệ thống ít ngân hàng, nhưng quy mô lớn

  1. Cần một hệ thống ít ngân hàng, nhưng quy mô lớn Điều này phần nào đã dẫn đến sự ra đời một loạt các ngân hàng mới, nhưng quy mô nhỏ, cho vay và hoạt động mang tính đầu cơ trên các thị trường tài sản. Các ngân hàng này có vốn chưa nhiều mà đã phải cho vay ngay một số khách hàng lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ. Thứ hai, thách thức hệ thống khi cả nền kinh tế trong nước và toàn cầu cùng suy yếu. Chúng ta thường chỉ nói là nợ xấu xuất hiện ở cho vay BĐS, cho vay đầu cơ, các khoản cho vay trá hình... nhưng thực tế, đà tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại, chịu chung bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn mới là thách thức mang tính hệ thống hơn. Các ngân hàng hiện nay sẽ phải đối phó với tình trạng: ngay cả các khoản vay vốn lưu động ngắn hạn của các doanh nghiệp làm ăn tốt cũng khó có khả năng được hoàn trả đúng hạn do các doanh nghiệp này mất thị trường. Do đó, vấn đề không chỉ là chuyện xử lý nợ BĐS hay là giải chấp các khoản cho vay chứng khoán mà rộng hơn, là xử lý những vấn đề mang tính hệ thống của cả nền kinh tế. Thứ ba, thách thức từ những cú “sốc” do vấn đề sở hữu chéo và tính đại chúng rất thấp của ngân hàng. Các ngân hàng TMCP của Việt Nam đều do những nhóm cổ đông nắm giữ thông qua sở hữu chéo để từ đó có thể lách các quy định về đảm bảo hoạt động an toàn. Cụ thể, nhóm cổ đông ngân hàng thành lập các công ty khác và các công ty này cũng góp vốn vào ngân hàng, ngân hàng lại cho các công ty đó vay. Khi gặp khó khăn tài chính thì khó khăn của nhóm cổ đông ấy ảnh hưởng trực tiếp đến ngân hàng.
  2. Trong ba thách thức nói trên, thách thức nào là lớn nhất? Đó là thách thức thứ hai. Hệ thống ngân hàng nên ứng phó bằng cách tự kiểm tra sức đề kháng của mình theo các kịch bản khác nhau khi nền kinh tế suy yếu, phân tích chi tiết đến từng khoản cho vay của ngân hàng, đánh giá trên từng khách hàng, đặc biệt là các khách hàng vay lớn. Phải trả lời được các câu hỏi: Với các khoản nợ giữ lại, khoản dự phòng rủi ro liệu có đủ? Bao nhiêu ngân hàng cần hỗ trợ của NHNN, bao nhiêu ngân hàng sẽ phải tăng vốn? Liệu có thể tăng bằng cách phát hành trái phiếu chuyển đổi, các khoản vốn cấp 2 hay phải tăng vốn điều lệ cấp 1... Vậy, ứng phó với thách thức thứ nhất và thứ ba nên như thế nào? Thách thức thứ nhất liên quan đến vấn đề cho vay tập trung vào một nhóm khách hàng và khoản vay ấy lại ảnh hưởng đến thị trường, làm nợ xấu tăng lên rất cao, lớn hơn vốn chủ sở hữu của ngân hàng, làm ngân hàng mất vốn. Điều thuận lợi là thách thức này vẫn trong tầm kiểm soát vì chỉ tập trung vào các ngân hàng nhỏ, mới thành lập, quy mô tài sản chưa lớn. Do vậy, câu chuyện ứng phó ở đây là tái cấu trúc ngân hàng, xử lý nợ xấu bằng nguồn lực từ bên ngoài. Để ứng phó với thách thức thứ ba, các ngân hàng phải minh bạch hóa, lành mạnh hóa các quan hệ và những hoạt động cho vay liên quan đến cổ đông. Đồng thời, Nhà nước cũng cần mạnh tay trong vấn đề này. Một hệ thống ngân hàng có lợi nhuận tốt hơn rất nhiều so với hệ thống ngân hàng không có lợi nhuận. Không nên chỉ trích việc các ngân hàng có lợi
  3. nhuận quá cao, nhưng vấn đề là lợi nhuận cao ấy phải đi liền với sức mạnh của ngân hàng. Nhà nước nên khuyến khích các ngân hàng có lợi nhuận mà không chia hết cổ tức để đề phòng các rủi ro.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2