CÂU CHUYỆN ĐÊM NÔ-EN
"Quelques piastres, monsieur, donnez-moi quelques piastres" (1).
Hà Ni. Đêm-en. Mới bảy giờ mà những đoàn người qun áo đủ mầu sặc sỡ,
đẹp mt cách phô trương đã đi đầy phố. Năm nay rét sm và kéo dài. Cái rét sắc
ngọt như cm vào da thịt. Bầu trời nặng và thấp. Sương mù cuộn thành tng đám
tròn treo lơ lng dưới ngọn cây hay bay là là sát mt đất. Từ các quán cà phê ánh
đèn xanh đỏ hắt ra, tạo cho chúng một vẻ đẹp huyền ảo rất phù hợp vi những đêm
như đêm nay.
Như phần đông những người quanh tôi,không là tín đồ công giáo, năm nào đêm
Nô-eni cũng ra phố dạo chơi. Tôi lững thững bước dọc bờ hồ Thuyn Quang, rồi
đi ngược lên theo phố Bà Triệu, đến đại sứ quán Pháp thì rẽ phải về phía ngã sáu
Đúc. Ở đây, trên phHàm Long có một nhà thờ nhỏ. Tôi không tch đến Nhà
thờ Lớn vào những dịp thế này khó mà chen vào được bên trong vì hu như cả
thành phđổ xô về đây.
- S'il vous plait, donnez-moi, quelques piastres, monsieur(2).
Lần thứ hai nghe câu ấy bằng tiếng Pháp khi đứng trước cổng nhà thHàm Long,
tôi ngạc nhiên đưa mt nhìn quanh. Bên tôi từng tốp hai, ba người không ngớt vào
ra. Phn ln đó là nhng nam nữ thanh niên vô tư, hoàn toàn không cý đến tôi
cũng như tôi không hề quan tâm đến họ. Thế thì ai đã nói câu kia? Tôi đưa mt
nhìn quanh. Cách chỗ tôi đứng một mét, sát bên cng ra vào, có một người mặc
chiếc áo sĩ quan ka-ki bạc màu đang ngồi, chiếc mũ nan to vành che kín mt.
- Ông hi tôi à? - Tôi cũng hỏi bằng tiếng Pháp, nhưng không ng vào một ai
nhất định.
- Oui, monsieur, - chiếc mũ to vành kia ngng lên, - Donnez-moi quelques piastres,
s'il vous plait.
Tôi thng giật mình ngạc nhiên.
Dưới vành mũ méo mó kia là một khuôn mặt da đen già nua, nhăn nheo. Khuôn
mặt ấy đang cố nở một nụ cười ngượng nghịu, ming đầy những chiếc răng trắng
và chắc khỏe không phù hợp với lứa tuổi. Một tay ông già giữ chiếc túi vải nhựa
căng phng, tay kia mân mê góc tm ni-lông ông trải xuống đất để ngồi. Ông đi đôi
dép nhựa xốp mòn vẹt. Mu bàn chân sưng lên như bị phù, các ngón to và ngn,
chằng chịt những vết nứt sâu ri rỉ mt thnước gì như hỗn hợp của máu và mủ.
Người ông không cao và cũng chẳng đến nỗi gầy lm, khuôn mặt tròn, hai má còn
đầy, đôi môi không y quá, tóc xoăn thành từng túm nhỏ ăn sâu xuống hai thái
dương, cái giúp ta dễ đoán ông là người của một nước nào đó ở miền Bắc châu Phi.
Ông có một đôi mt đặc biệt với hàng mi dày và nhng nếp nhăn hai bên. Đôi mt
ấy chứa đầy một nỗi buồn xa xăm và smệt mi quá sức chịu đựng. Cạnh ông
không có chiếc đĩa, chiếc rcon hay bất cứ cái gì đó để đựng tiền như ở những
người hành khất khác. Ông cũng chẳng chìa tay xin. Và cả cái tiếng Pháp kia nữa.
Ông là ai? Những gì đã xảy ra và s xảy ra trong cuộc đời dài và chắc không lấy gì
làm hạnh phúc này?
- Bác có mun uống một tách cà phê không? - Tôi hi, tay chỉ về phía quán cà phê
đang dập dình tiếng nhạc.
- Không cám ơn, - ông ta đáp, vẫn bằng tiếng Pháp.
Sau một lúc do dự, tôi ngồi xuống cạnh tìm cách bắt chuyện. Chúng tôi nói bằng
tiếng Pháp khe khẽ. Bộ quần áo ka ki cũ và chiếc rộng vành che lấp nước da
đen ca ông tránh được những cặp mt tò mò.
Bất ngờ ông ngắt lời tôi giữa chừng và nói bng một thứ tiếng Việt khá sõi:
- Nếu muốn ông có thể nói với tôi bằng tiếng Việt, thoải mái hơn.
- Vâng, thế thì hay quá, - tôi đáp. - Bác người nước nào?
- Xênêgan. Ông biết đất nước của tôi chứ? Ở Tây Bắc châu Phi. Sát bờ biển, giáp
Xuđăng và Marốc... Xênêgan đẹp lm. Đẹp, nhưng cũng nghèo lm...
- Chắc bác xưa là lính lê dương của Pháp?
- Vâng. Tôi bị đưa sang Việt Nam năm bốn ơi bảy. Trước đó, mười m tôi đi
lính Mađagaxca.
- Nghĩa là hơn năm mươi m nay bác chưa trở lại quê hương?
- Chưa.
- Do bác không mun?
- Muốn chứ. Suốt chừng ấy năm lúc nào tôi cũng muốn về nhà. Nhất là bây giờ,
khii chng còn sống được bao lâu nữa... Nhưng, xin lỗi, ông là nhà báo? - Ông
già da đen ngước nhìn tôi vẻ dò xét.
- Không. Nhưng nghề của tôi cũng gần gần như vậy. Sao bác hỏi thế?
- Chẳng sao cả. Biết đâu là nhà báo, ông có thgiúp tôi được điều gì đó.
- Bác muốn gì?
- Muốn về nước.
- Oui, je veux retourner à mon patrie(1).
- Thế có gì ngăn trở bác?
- Ồ, chuyện dài lm, - ông ngừng nói, thong thả cho tay vào túi áo phía trong ngực,
ln tìm cái đấy một lúc rồi rút ra tay không. Tôi lấy một điếu thuốc, bật lửa mi
ông.
- Cm ơn. - Ông vừa rít một hơi dài, vừa i. - Sau hip định Giơnevơ, tôi có th
về nước nhưng đã không về. Lúc ấyi đang yêu một phụ nữ Việt Nam, vgóa
của một sĩ quan ngụy, tôi yêu và cũng được yêu li. Tất nhiên, bọn lính lê dương
chúng tôi thời ấy thường dùng vũ lực chiếm tình yêu, hay đúng hơn - xác thịt. Tôi
không muốn nói i tốt hơn đồng bn, nhưng qulà tôi đã yêu chân thành. Thì cuối
cùng, một người như tôi cũng có thể yêu lm chứ? Lúc ấy tôi nghĩ cứ ở lại, lấy cô
kia ri đem vợ con về nước cũng chưa muộn. Ai ngờ mấy năm sau, chính phủ khác
lên cm quyền ở Xênêgan, và thế lài không còn được trở về c nữa.
- Vì sao?
- Vì người ta lo tôi về sẽ mang theo chủ nghĩa cộng sản.
- Chắc ở quê hương, bác có nhiều k niệm u sắc...
- Không. Trước hết tôi không có qhương theo nghĩa ông hiểu. Bộ lạc chúng tôi
sống nay đây mai đó trong rừng. Bố mtôi chết sớm. Một m i đang đi săn thì
b người da trắng bắt cho xuống tàu chở sang Pháp, như trước đây người ta từng
bắt người da đen chở sang M làm lệ. cy tôi vừa tròn mưi bảy tuổi, và
theo phong tc ca bộ lạc, tôi sắp được phép lấy vợ.
- Nghĩa là hiện nay bác chẳng còn ai thân thích ở bên ấy?
- Sao li không? Với chúng tôi, cả bộ lc đều là người thân thích. Vả lại ra đi, tôi
n để lại hai thằng con trai... - Thấy tôi có vngạc nhiên, ông già da đen khẽ mỉm
cười: - ng tôihai đứa con thật. Số là bộ lạc chúng i có lệ phụ nữ góa chồng
không được đi bước nữa, nhưng vẫn phải tiếp tục phát triển nòi ging. Thế là h
được giao cho bn trẻ mi ln chúng tôi để chúng tôi tập làm đàn ông... Còn con
thì coi như con chung của toàn blạc. Tôi được giao một bà góa bn mươi tuổi...
Chúng tôi cùng ngồi im hút thuốc.
Thời sinh viên ở Mátxva, tôi có sng chung nhiều năm với một bạn học người
Xênêgan, tên là Ali. Anh ta kể có bố đi lính chết ở Đông Dương. Tôi biết chuyện
này không liên quan đến ông già da đen đang ngồi trước mặt, nhưng nhân tiện,
tôi cũng đem kể cho ông nghe.
- Chắc chn đó không phi con tôi. c anh kia ra đời, tôi đã sang Việt Nam tlâu.
- Thế bà vợ Việt Nam của bác ra sao?
- Chúng tôi sống yên n với nhau năm m, có mt đứa con. Một hôm say rượu,
tôi đánh vợ tôi, thế là bà y ôm con đi mất. Tôi mất công tìm kiếm rất lâu nhưng
không sao tìm thy. Đó là một tội lỗi ln. Một tội li ghê gm mà tôi không bao
giờ tha thứ cho mình.
- Suốt mấy mươi năm qua ông sống ở đâu?
- My năm đầu làm công nhân xây cầu, sau tôi lên mApatít Lào Cai và làm việc
ở đó cho đến khi vhưu. Hiện gii là người hưu trí và có lương hưu như mọi
ngưòi, theo đúng chế độ. Trên ấy tôimột căn nhà nhỏ, một mảnh vườn và my
đám đất vhoang. Tôi được đối xử tốt và nói chung sng cũng tàm tạm. Kể ra tôi
có thyên n sống trọn tui già ở đấy, nhưng thời gian gn đây ý nghĩ trở về Tổ
quc li dày vò tôi hơn bao giờ hết. Càng gần cái chết, cái mơ ước ấy lại càng ln,
và tôi biết tôi không th chết ở một nơi nào khác ngoài mảnh đất đã sinh ra tôi.
Người già là thế, biết làm thế nào được...
- Bác định về nước bằng cách nào?
- Cách nào thì ch nhưngi phải về và sẽ về được, dù bên y người ta không
mong đợi tôi...
- Bác có thể yêu cầu đại sứ quán Pháp ở Hà Nội giúp đỡ, ít nhiều họ phải có trách
nhim với bác chứ, - tôi gi ý.
- Vâng. Và đó là hy vọng cuối cùng của tôi. Tôi đã đến gặp h. Họ tiếp tôi tử tế, và
sau khi phải chờ một tuần, tôi được báo là họ sẽ giúp tôi nhập quốc tịch ớc họ,
đưa về Pari rồi từ đó, với quốc tịch Pháp, tôi có thể trở về Xênêgan của tôi, nhưng
với điều kiện là tôi phi chịu mọi chi p, kể cả tiền máy bay từ đây tới Pari. Ở
đấy, Hội những người Xênêgan sẽ giúp đỡi tiếp. Người Pháp nói tôi là hàng
binh và chiểu theo mục A mục B nào đó trong bộ luật của họ, thìi không thuộc
diện được trợ cấp về tài chính. Biết làm thế nào, nước Pháp giàu và hào hiệp nhưng
rất nguyên tắc. Và nguyên tắc của họ là bắt tôi, một lão già sp chết đã hy sinh tui
trẻ vì họ, nay không đồng xu dính túi, phải trả một khoản tiền lớn để được về chết
trên quê hương mình...
- Ln là bao nhiêu?
- Không ít hơn một nghìn đô-la M.
- Nghĩa là họ đã từ chối bác một cách tế nhị? - Tôi khnhún vai mỉm cười.
- Có thlà thế. Họ nghĩ tôi sẽ không kiếm đâu ra được món tiềny. - Ông già da
đen thở dài, buồn rầu ngồi im một lúc rồi nói tiếp: - Mà quả đúng tôi không biết
kiếm đâu ra thật.
- Bác định làm thế nào bây giờ?
- Còn biết làm thế nào na? Phải kiếm. Phải góp...
- Rồi đem đổi lấy đô-la?
- Đúng thế.
- Bác biết giá một đô-la bao nhiêu tiền Vit Nam chứ?
- Tất nhiên. Đây là chuyn của tôi, tôi phải biết rõ hơn ai hết.
- Và bác sẽ góp cho đến khi đổi được một nghìn đô-la?
- Vâng.