CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ MỘT SỐ KHÓ KHĂN<br />
TRONG HỌC TOÁN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG<br />
TRẦN THÚY HIỀN<br />
Trường Đại học Y Dược – Đại học Huế<br />
Tóm tắt: Thực trạng dạy học toán ở các trường phổ thông cho thấy có một<br />
bộ phận học sinh học toán rất dễ dàng, đạt được những thành công trong học<br />
toán, nhưng đối với phần lớn học sinh, môn toán lại là môn học khó và nhiều<br />
em có xu thế ngày càng ít đam mê môn toán. Tiến hành chẩn đoán một số<br />
khó khăn và đề xuất biện pháp điều trị là việc làm cần thiết và hữu ích nhằm<br />
giúp học sinh tiến bộ hơn trong học toán. Trong bài báo này, chúng tôi muốn<br />
đề xuất một phương pháp chẩn đoán khó khăn, thiết kế công cụ chẩn đoán,<br />
đưa ra một số nhận định về những khó khăn, phân tích kết quả điều tra và<br />
phát hiện ra được một số nguồn gốc của những khó khăn trong học toán. Các<br />
ví dụ minh họa trong bài báo được trích dẫn từ nghiên cứu của chúng tôi về<br />
chẩn đoán khó khăn của học sinh khi học đạo hàm.<br />
<br />
1. GIỚI THIỆU<br />
Những sai lầm của học sinh thể hiện trong học toán có thể bộc lộ những khó khăn của<br />
các em. Ở đây, chúng tôi quan tâm đến những sai lầm về khái niệm, về nhận thức, có<br />
tính bản chất, thể hiện một sự hiểu sai trong toán học. Một trong những nguyên nhân<br />
dẫn đến sai lầm của học sinh là các em có những khó khăn, cản trở về nhận thức trong<br />
quá trình học. Những khó khăn trong quá trình học toán thể hiện bản chất của hiện<br />
tượng học sinh không đủ khả năng để xây dựng được lời giải cho một bài toán, mà<br />
nguyên nhân không phải bắt nguồn từ bất kỳ một sự phát triển chậm về trí tuệ hay do có<br />
sự tổn thương ở phần nào đó của bộ não và cũng không phải bắt nguồn từ một bệnh lý.<br />
Trong bài báo này, chúng tôi muốn đề xuất một phương pháp chẩn đoán khó khăn trong<br />
học toán của học sinh.<br />
2. CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ<br />
Trong lĩnh vực y học, bác sĩ chẩn đoán cho bệnh nhân trước khi kê đơn thuốc điều trị.<br />
Khi một bệnh nhân nói với bác sĩ rằng tôi bị đau ở dạ dày, công việc của bác sĩ là phải<br />
tìm xem bệnh nhân bị đau ở phần nào của dạ dày và nguyên nhân của sự đau đớn đó là<br />
do đâu. Công việc thực sự mà bác sĩ cần phải làm là tìm ra nguyên nhân và loại bệnh mà<br />
bệnh nhân mắc phải, sau đó sẽ kê đơn thuốc để điều trị. Như vậy, chẩn đoán là tìm ra<br />
nguyên nhân, phân loại tính chất của sự vật, hiện tượng, nói cách khác là đi xác định<br />
bản chất của vấn đề.<br />
Trong giáo dục toán, trước khi bắt đầu chẩn đoán, công việc phải làm là đi tìm những<br />
sai lầm, những lỗi mà học sinh thường mắc phải, thông tin thu thập được càng nhiều,<br />
càng chân thực càng tốt và chẩn đoán là quá trình phân tích để tìm ra nguyên nhân dẫn<br />
đến những sai lầm đó. Chẩn đoán khó khăn trong học toán là một quá trình xuất phát từ<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 02(22)/2012: tr. 132-141<br />
<br />
CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRONG HỌC TOÁN…<br />
<br />
133<br />
<br />
những sai lầm mắc phải của học sinh, phân tích làm rõ xem có phải sai lầm đó là biểu lộ<br />
của khó khăn về mặt nhận thức và xác định loại khó khăn đã gây trở ngại cho học sinh<br />
trong quá trình học toán. Sau đó, đề xuất các biện pháp điều trị giúp học sinh vượt qua<br />
những khó khăn đó.<br />
3. THIẾT KẾ CÔNG CỤ CHẨN ĐOÁN<br />
Chúng tôi xây dựng một bài kiểm tra chẩn đoán với sự kết hợp những câu hỏi có kết<br />
thúc đóng (close – ended question) và những câu hỏi có kết thúc mở (open – ended<br />
question). Những câu hỏi kết thúc đóng được dùng là những câu hỏi có nhiều lựa chọn,<br />
thiết kế dựa trên sự hoài nghi những khó khăn về nhận thức với những câu hỏi được làm<br />
thành công thức để có thể tạo ra sự hiểu sai và các lỗi; những câu hỏi có kết thúc mở tạo<br />
cơ hội cho học sinh bày tỏ sự hiểu biết của mình về toán học. Mỗi câu hỏi được biên<br />
soạn dựa trên các mức độ nhận thức của Bloom: nhận biết, thông hiểu, vận dụng và khả<br />
năng bậc cao (KNBC).<br />
Quá trình phân tích đánh giá công cụ chẩn đoán: Tính khách quan và tính hiệu quả của<br />
đề trắc nghiệm chẩn đoán được kiểm định bằng cách kiểm chứng chỉ số độ khó P và độ<br />
phân biệt D theo quy trình “phân tích câu hỏi” của Ebel R.L (1965, [1]) như sau:<br />
(1)<br />
<br />
Sắp bài làm của học sinh theo danh sách thứ tự điểm từ cao xuống thấp.<br />
<br />
(2)<br />
<br />
Theo danh sách thứ tự điểm bài làm, chọn ra 2 nhóm: nhóm trên (H) gồm 27%<br />
số bài làm ở đầu danh sách và nhóm dưới (L) gồm 27% số bài làm ở cuối danh<br />
sách theo thứ tự.<br />
<br />
(3)<br />
<br />
Với mỗi câu hỏi trắc nghiệm khách quan, chỉ số P là một đại lượng để đo lường<br />
n(H) + n(L)<br />
độ khó dễ của một câu hỏi: P =<br />
, trong đó n(H), n(L): số học sinh<br />
N<br />
trả lời đúng ở mỗi nhóm, N: tổng số học sinh của hai nhóm. Chỉ số D biểu thị<br />
mức ý nghĩa của một câu hỏi trắc nghiệm trong việc phân loại học sinh “giỏi”<br />
n(H) - n(L)<br />
và học sinh “yếu”: D = 2.<br />
.<br />
N<br />
<br />
Chúng tôi tiến hành phân tích những câu hỏi xem là đáng tin cậy (0,3 ≤ P ≤ 0,7 và D ≥<br />
0,3).<br />
4. QUÁ TRÌNH CHẨN ĐOÁN KHÓ KHĂN<br />
Chúng tôi sẽ phân tích những lỗi nổi trội trong sự thể hiện của học sinh nhóm (L) để tìm<br />
ra một số khó khăn trong quá trình tư duy của các em.<br />
4.1. Phân tích các lỗi nổi trội<br />
(1) Khái niệm hàm và khái niệm đạo hàm<br />
sinx nếu x ≠ 0<br />
Câu hỏi 1. Cho hàm số f(x) =<br />
<br />
1<br />
<br />
nếu x = 0 , đạo hàm của f(x) là:<br />
<br />
134<br />
<br />
TRẦN THÚY HIỀN<br />
<br />
A. f ʹ′( x) = cosx nếu x ≠ 0 và f ʹ′( x) = −∞ nếu x = 0<br />
B. f ʹ′( x) = cosx nếu x ≠ 0 và hàm số không có đạo hàm tại điểm x = 0<br />
cosx nếu x ≠ 0<br />
C. f ʹ′( x) =<br />
<br />
- cosx nếu x ≠ 0<br />
D. f ʹ′( x) =<br />
<br />
0<br />
<br />
nếu x = 0<br />
<br />
0<br />
<br />
nếu x = 0<br />
<br />
Phân tích<br />
Dự kiến khi xây dựng câu hỏi: Học sinh phải hiểu bản chất đạo hàm của một hàm số tại<br />
mỗi điểm chính là một quá trình lấy giới hạn và vận dụng việc hiểu đó để tìm đạo hàm<br />
của một hàm số được cho dưới dạng không quen thuộc. Học sinh phải biết trường hợp<br />
nào có thể dùng công thức, trường hợp nào phải dùng định nghĩa.<br />
Tại mọi điểm x ≠ 0 , f ( x) = s inx , áp dụng công thức tính đạo hàm cho hàm số lượng<br />
giác này ta có f ʹ′( x) = (sinx)ʹ′= cosx . Tại điểm x = 0 , áp dụng định nghĩa đạo hàm của<br />
f ( x) − f (0)<br />
s inx - 1<br />
f ( x) − f (0)<br />
hàm số tại một điểm ta có lim+<br />
= lim+<br />
=<br />
= −∞ và lim−<br />
x →0<br />
x →0<br />
x →0<br />
x−0<br />
x<br />
x−0<br />
s inx - 1<br />
lim−<br />
= +∞ , suy ra hàm số không có đạo hàm tại x = 0 nên đáp án đúng là B.<br />
x →0<br />
x<br />
Bảng 1. Kết quả tương ứng của câu hỏi 1<br />
Kỳ vọng mức<br />
độ thể hiện<br />
<br />
Nhóm (H)<br />
Nhóm (L)<br />
Chỉ số<br />
<br />
(Vận dụng) Áp dụng việc hiểu khái niệm và các kỹ năng vào các tình huống<br />
không quen thuộc: Kiểm tra sự tồn tại đạo hàm của một hàm số tại mỗi điểm<br />
Các phương án lựa chọn<br />
A<br />
B*<br />
C<br />
D<br />
Bỏ trống<br />
0<br />
20<br />
3<br />
0<br />
0<br />
5<br />
2<br />
14<br />
2<br />
0<br />
P = 0,48 (chấp nhận), D = 0,78 (rất tốt, chấp nhận)<br />
<br />
Chỉ số P = 0,48 có thể xem câu hỏi là tương đối khó đối với học sinh. Câu hỏi ở mức độ<br />
vận dụng nhằm đánh giá việc hiểu của học sinh về bản chất của khái niệm đạo hàm, thể<br />
hiện qua việc xét sự tồn tại đạo hàm của một hàm số tại mỗi điểm. Có 91% nhóm (L)<br />
mắc phải sai lầm khi xét đạo hàm của hàm số f ( x) cho bởi hai biểu thức. Trong số đó có<br />
đến 61% chọn C, điều đó chứng tỏ đa số các em có hướng tin rằng các hàm thường<br />
được xác định bởi một công thức đại số đơn nên với hàm số f ( x) đã cho được xem như<br />
hai hàm tách biệt và có thể áp dụng các quy tắc tính đạo hàm cho mỗi hàm. Những sai<br />
lầm đó biểu hiện khó khăn của các em trong việc hiểu khái niệm đạo hàm của một hàm<br />
số. Xét về bản chất toán học ta thấy khái niệm đạo hàm được định nghĩa dựa vào một<br />
khái niệm trừu tượng đã biết, đó là khái niệm giới hạn, ẩn chứa dưới khái niệm đạo hàm<br />
f ( x0 + Δx) − f ( x0 )<br />
là một quá trình lấy giới hạn của một tỷ số đặc biệt lim<br />
hay<br />
Δx →0<br />
Δx<br />
<br />
CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRONG HỌC TOÁN…<br />
<br />
135<br />
<br />
f ( x) − f ( x0 )<br />
. Ở các lớp dưới, học sinh đã quen với việc cho một khái niệm nghĩa<br />
x → x0<br />
x − x0<br />
là một mặt ta có thể mô tả được khái niệm đó (chẳng hạn, một hình vuông là một đa<br />
giác có bốn cạnh bằng nhau và một góc trong là góc vuông), mặt khác có thể cố gắng đề<br />
ra được các quy tắc (chẳng hạn, “nếu chúng ta gặp một đa giác có bốn cạnh bằng nhau<br />
và một góc trong là góc vuông thì đó là một hình vuông”). Tuy nhiên, theo Tall (2000,<br />
[3]), những tư tưởng trong định nghĩa của một khái niệm toán tiên tiến lại gây ra những<br />
cản trở cho học sinh trong học toán, bởi những định nghĩa này thường khá dài và được<br />
công thức thành một dạng của một quá trình hơn là một sự mô tả trực tiếp về các bộ<br />
phận cấu thành nên đối tượng.<br />
lim<br />
<br />
(2) Ký hiệu và tính toán trên các ký hiệu<br />
Câu hỏi 2. (Nhận biết) Cho hàm số y = 2 x − 5 , tại x0 = 1 cho số gia Δx , khi đó số gia<br />
Δy tương ứng của hàm số là:<br />
A. 2 Δx<br />
<br />
B. 2 Δx −1<br />
<br />
C. 2 Δx −2<br />
<br />
D. 2 Δx −5<br />
<br />
Phân tích<br />
Dự kiến khi xây dựng câu hỏi: Học sinh nhớ được các ký hiệu Δx , Δy quan hệ với nhau<br />
bởi công thức Δy = f ( x0 + Δx) − f ( x0 ) và tính toán đúng, lựa chọn đáp án A.<br />
Chỉ số P = 0,69, D = 0,35 cho thấy câu hỏi tương đối dễ với học sinh nhưng khả năng<br />
phân biệt là tốt. Câu hỏi ở mức độ nhận biết, tuy nhiên đã có tới 48% nhóm (L) sai lầm<br />
với các ký hiệu Δx , Δy và tính toán trên các ký hiệu đó. Chứng tỏ các em không thể<br />
nhớ được mối liên quan giữa các ký hiệu Δx , Δy hoặc các em đã nhớ công thức một<br />
cách máy móc Δy = f ( x0 + Δx) − f ( x0 ) cho nên khi tính toán với các ký hiệu đó đã đưa<br />
đến những kết quả sai. Trong số đó có 35% chọn B, các em đã cho rằng tìm f (1 + Δx)<br />
nghĩa là bằng cách cộng thêm 1 vào biểu thức của f (Δx) mà không phải xem 1 + Δx như<br />
là một giá trị vào của hàm f. Để có thể thao tác chuẩn xác với các ký hiệu Δx , Δy , đòi<br />
hỏi học sinh phải nắm được ý nghĩa tối thiểu của các ký hiệu này (ký hiệu Δy biểu diễn<br />
bởi một công thức) và ý nghĩa của các ký hiệu trong công thức đó lại liên quan đến cách<br />
tính giá trị ra của một hàm. Các ký hiệu toán học là hình thức, ký hiệu này được biểu<br />
diễn qua ký hiệu khác, việc xử lý các ký hiệu đó trong một chuỗi các phép toán đã gây<br />
ra những khó khăn cho học sinh.<br />
(3) Sử dụng các công thức, quy tắc tính đạo hàm để tìm đạo hàm của hàm số<br />
Câu hỏi 3. (Vận dụng) Cho hàm số f ( x) = cos2x , đạo hàm f ʹ′( x) của f ( x) là:<br />
A.<br />
<br />
sin 2 x<br />
2 cos2x<br />
<br />
Phân tích<br />
<br />
B.<br />
<br />
− sin 2 x<br />
2 cos2x<br />
<br />
C.<br />
<br />
− sin 2 x<br />
cos2x<br />
<br />
D.<br />
<br />
sin 2 x<br />
.<br />
cos2x<br />
<br />
136<br />
<br />
TRẦN THÚY HIỀN<br />
<br />
Dự kiến khi xây dựng câu hỏi: Học sinh nhớ được công thức tính đạo hàm các hàm<br />
quen thuộc, áp dụng việc hiểu các quy tắc đó để tính đạo hàm hàm số hợp nhiều lần, đáp<br />
án là C.<br />
Câu hỏi có chỉ số P = 0,52, D = 0,57. Quan tâm đến sự thể hiện của nhóm (L) cho thấy<br />
có đến 57% đã chọn B, chứng tỏ rằng mặc dù các em đã biết trật tự áp dụng các quy tắc:<br />
Đầu tiên, tính đạo hàm của hàm căn bậc 2, sau đó tính đạo hàm của hàm cos , nhưng do<br />
nắm không vững khái niệm hàm số hợp nên các em đã xem u = 2 x như là một đối số<br />
độc lập và do vậy, không nhân − sin 2x với đạo hàm của u. Xem xét sự thể hiện của học<br />
sinh với một bài toán có phần phức tạp hơn, liên quan đến tính đạo hàm của hàm số yêu<br />
cầu vận dụng các công thức tính đạo hàm các hàm số quen thuộc, các quy tắc đạo hàm<br />
của một tổng, hiệu, tích, thương, hàm số hợp theo đúng trật tự, chúng tôi nhận thấy rằng<br />
rõ ràng nhóm (L) kém xa nhóm (H) trong việc xử lý bài toán đòi hỏi vận dụng nhiều<br />
quy tắc. Nhóm (L) thực sự gặp khó khăn khi cần thiết phải phối hợp nhiều quy tắc,<br />
nhiều công thức để giải quyết bài toán.<br />
(4) Lập luận và chứng minh<br />
<br />
ʹ′<br />
x =<br />
<br />
( )<br />
n<br />
<br />
Câu hỏi 4. (KNBC) Chứng minh rằng với mọi số lẻ n, ta luôn có<br />
<br />
n<br />
<br />
x<br />
n.x<br />
<br />
( x ≠ 0) .<br />
<br />
Phân tích<br />
Dự kiến khi xây dựng câu hỏi: Học sinh có khả năng phân chia trường hợp để đảm bảo<br />
điều kiện có thể viết hàm số đã cho dưới dạng lũy thừa và áp dụng đúng định lý đạo<br />
hàm của hàm lũy thừa. Nếu x > 0 :<br />
n<br />
<br />
x<br />
, suy ra<br />
n.x<br />
<br />
ʹ′<br />
<br />
( )<br />
n<br />
<br />
x<br />
<br />
n<br />
<br />
1<br />
n<br />
<br />
x = x với mọi n nên<br />
<br />
( x ) = ( x )ʹ′<br />
n<br />
<br />
n<br />
<br />
=<br />
<br />
x<br />
với mọi n lẻ và x > 0 (*). Nếu x < 0 :<br />
n.x<br />
1<br />
<br />
mọi n lẻ; do − x > 0 nên<br />
<br />
n<br />
<br />
ʹ′<br />
ʹ′<br />
x = − n −x =<br />
<br />
( ) (<br />
n<br />
<br />
)<br />
<br />
n<br />
<br />
n<br />
<br />
1<br />
=<br />
n<br />
<br />
x<br />
<br />
n<br />
<br />
1<br />
−1<br />
n<br />
<br />
=<br />
<br />
x chỉ có nghĩa với<br />
<br />
( −x )ʹ′ = n.(−−xx) . (− x)ʹ′ =<br />
<br />
− x = ( − x ) n với mọi n và<br />
<br />
nên với mọi n lẻ và x < 0 ta có<br />
phải chứng minh.<br />
<br />
1<br />
n<br />
<br />
ʹ′<br />
<br />
n<br />
<br />
−x<br />
,<br />
n.x<br />
<br />
n<br />
<br />
x<br />
(**). Từ (*) và (**) ta có điều<br />
n.x<br />
<br />
Xây dựng câu hỏi nhằm phát hiện những sai lầm của học sinh khi vận dụng định lý đạo<br />
hàm của hàm số lũy thừa để chứng minh công thức đạo hàm của hàm số đã cho. Nắm<br />
bắt việc hiểu về khái niệm chứng minh cũng như quá trình tư duy của học sinh qua<br />
những lời giải thích, những lập luận trình bày trong chứng minh của các em.<br />
Không có học sinh nào của nhóm (L) hoàn thành được chứng minh, chỉ có 30% nhóm<br />
(H) có được một chứng minh đúng, nghĩa là các em đã có những lập luận chắc chắn,<br />
lôgic. Phần lớn học sinh sai lầm ở chỗ sử dụng luận cứ không đúng hay làm sai lệch<br />
<br />