
4
tiến đầu tư có hạn vào những ngành có sự tương quan gần nhất với việc bảo đảm rằng chiến lược
này đạt được kết quả mong muốn.
8. Những ngành đã qua được vòng ‘sơ tuyển’ như trình bày tại Chương 4 được phân thành các nhóm
ưu tiên ngay, ưu tiên ngắn hạn và ưu tiên trung hạn. Trong khi đầu tư “thế hệ mới” sẽ ngày càng tập
trung thu hút nhiều hơn các hoạt động sử dụng nhiều công nghệ và kỹ năng và tối đa hóa giá trị gia
tăng, đầu tư “thế hệ một” vẫn sẽ cần thiết để lấp đầy những lỗ hổng cơ bản trong chuỗi cung ứng
trong nước, tạo ra số lượng lớn việc làm, thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế giữa các tỉnh
thành, làm nền cho tăng trưởng đầu tư “FDI thế hệ mới”.
9. Khi áp dụng phương pháp rà soát ngành và tìm câu trả lời cho câu hỏi về những lĩnh vực mà ở đó
xúc tiến đầu tư chủ động (và trong một số trường hợp làcác cải cách chính sách liên quan) là việc
cần thiết nhất và FDI sẽ đem lại nhiều giá trị nhất,sẽ cho kết quả là danh mục ngành trọng điểm sau
đây theo hướng thực hiện từng bước: công nghiệp ô tô, xe máy và công nghiệp phụ trợ (sản xuất
kim loại/khoáng sản/hóa chất/nhựa phẩm cấp cao và linh kiện công nghệ cao), máy móc, thiết bị
công nghiệp, logistics, sản phẩm nông nghiệp mới giá trị cao, công nghệ môi trường, năng lượng tái
tạo, dịch vụ ứng dụng CNTT cùng với các ngành dịch vụ xuyên suốt quan trọng cần tiếp tục mở cửa
để tạo điều kiện tiếp tục tăng trưởng, chẳng hạn như dịch vụ tài chính và giáo dục, đã được chọn sơ
bộ và được sự tán thành của các bên liên quan. Do tốc độ thay đổi nhanh chóng và liên tục có các
ngành mới xuất hiện, cần thường xuyên nghiên cứu tìm hiểu thị trường cũng như đánh giá lại các
ngành nghề ưu tiênđể xúc tiến đầu tư.
Làm thế nào để hiện thực hóa tác động từ đầu tư? –tác động của chính sách
10. Nghiên cứu và ý kiến phản hồi của các bên liên quan cho thấy các chính sách đầu tư nhiều tham
vọng, thường được hoan nghênh từng công bố vài năm trước đã không được thực hiện hiệu quả.
Hơn nữa, chính sách đầu tư có xu hướng được xây dựng trên cơ sở những thách thức của các loại
hình đầu tư Việt Nam đã thu hút được cho đến nay, chứ không phải để dự báo và đáp ứng nhu cầu
của các nhà đầu tư nhóm tìm kiếmsự hiệu quả và tài sản chiến lược mà Việt Nam muốn thu hút
nhiều hơn trong tương lai.
11. Chiến lược Thu hút FDIThế hệ mới và mô hình phát triển với sự dẫn dắt của chuỗi giá trị toàn cầu
(CGTTC) sẽ kéo theoyêu cầu quản trị thể chế chức, năng lực và điều phối, từ đó làm phát sinh sự cần
thiết phải có một “Cục quản lý đầu tư nước ngoài thế hệ mới”, với một khung thể chế có tính gắn
kết hơn về chức năng và có sự phối hợp nhịp nhàng hơn, cho phép kết hợp tốt nhất các chức năng
hiện đang còn phân tán như xúc tiến FDI, xúc tiến thương mại, phát triển DNVVN,/hoặc xúc tiến đổi
mới/năng lực kinh doanh. Cục ĐTNN có vai trò chính trong việc khởi tạo quy trình này và vận động
để có cho ra những ‘phiên bản tiếp theo’ của Nghị quyết 103 nhằm cung cấp kịp thời cơ sở pháp lý
cho quá trình cải cách thể chế này.
12. Việt Nam hiện phụ thuộc nhiều vào chính sách miễn thuế có thời hạn, miễn thuế có thời hạn một
phần cũng như các chế độ thuế suất ưu đãi và miễn thuế nhập khẩu. Cơ chế ưu đãi này tuy rõ ràng
đã tạo thuận lợi cho hoạt động “đầu tư thế hệ một”, trong đó nhiều nhà đầu tư cho biết chính sách
ưu đãi và chi phí nhân công thấp là những lý do chính để đầu tư, nhưng cơ chế này lại chưa phù hợp
để thu hút FDI mang tính đổi mới sáng tạo và sử dụng công nghệ tiên tiến, đòi hỏi lao động có tay
nghề cao, có thu nhập cao hơn và thúc đẩy đổi mới và năng lực kinh doanh. Rõ ràng cần thay thế
chính sách ưu đãi dựa trên lợi nhuận bằng chính sách ưu đãi dựa trên hiệu quả, cần tiếp tục nghiên
cứu sâu và thực hiện các phân tích chi phí - lợi ích để cải tổ hiệu quả khung chính sách ưu đãi căn cứ
trên các tiêu chí chặt chẽ về bổ sung giátrị và tương xứng giữa giá trị và chi phí.