YOMEDIA
ADSENSE
Chính sách cứu nạn trên biển của nhà Nguyễn đối với người nước ngoài dưới thời vua Gia Long (1802-1820) và Minh Mạng (1820-1841)
62
lượt xem 4
download
lượt xem 4
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết trình bày sự ra đời của chính sách cứu nạn của nhà Nguyễn đối với người nước ngoài, quá trình triển khai và ý nghĩa chính sách cứu nạn dưới triều vua Gia Long - Minh Mạng.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chính sách cứu nạn trên biển của nhà Nguyễn đối với người nước ngoài dưới thời vua Gia Long (1802-1820) và Minh Mạng (1820-1841)
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
CHÍNH SÁCH CỨU NẠN TRÊN BIỂN của NHÀ NGUYỄN<br />
ĐỐI VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI DƯỚI THỜI VUA<br />
GIA LONG (1802 - 1820) VÀ MINH MẠNG (1820 - 1841)<br />
? PHẠM THỊ THƠM *<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
V<br />
ùng biển Đông Việt Nam là khu vực<br />
chịu nhiều thiên tai bão tố, trong<br />
lịch sử cũng đã ghi chép rất nhiều<br />
về vấn đề thiên tai khu vực ven biển<br />
Việt Nam. Đồng thời, trong lịch sử khi mà kỹ thuật đi<br />
biển nói chung còn chưa phát triển, nhất là phương<br />
tiện đi biển còn thô sơ, khó chống đỡ nổi những cơn<br />
bão ngoài biển khơi. Cho nên, thuyền bè các nước<br />
đi qua khu vực Biển Đông thường gặp nạn, chính vì<br />
vậy trong lịch sử Việt Nam các triều đại đã thực hiện<br />
chính sách cứu nạn trên biển, nhất là thời kỳ nhà<br />
Nguyễn. Bài viết này chủ yếu khảo cứu về chính sách<br />
cứu nạn trên biển đối với người nước ngoài dưới hai<br />
thời vua Gia Long (1802 - 1820) và thời Minh Mạng 400 dặm, rộng 20 dặm, ở giữa biển khoảng từ cửa biển<br />
(1820 - 1841). Trong đó chúng tôi muốn nhấn mạnh Đại Chiêm kéo đến cửa biển Quyết Mông. Gió tây nam<br />
rằng, việc cứu nạn trên biển đối với người nước ngoài thuyền đi vào trong sẽ mắc cạn, gió đông bắc mà thuyền<br />
không chỉ thể hiện tính nhân văn của chính quyền đi lại cũng bị tắc lại ở đó. Đều bị chết đói, của cải phải bỏ<br />
nhà Nguyễn, mà còn thể hiện việc thực thi hoạt động lại…”.1 Sau đó trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn viết:<br />
chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông trong lịch sử. “Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này<br />
1. Sự ra đời của chính sách cứu nạn của nhà (Hoàng Sa)”.2 Tuy nhiên thời kỳ này các ghi chép chủ<br />
Nguyễn đối với người nước ngoài yếu ghi lại sự việc các vụ đắm tàu trong khi đó hoạt<br />
động quan trọng là cứu người bị nạn lại không thấy<br />
Trong lịch sử dân tộc, biển luôn giữ một vai trò được ghi chép cụ thể. Trong Đại Nam thực lục tiền<br />
quan trọng đối với các triều đại phong kiến. Từ cư dân biên, các sự việc cứu giúp người bị nạn trên biển được<br />
của các nền văn hóa Đông Sơn, Sa Huỳnh, Champa ghi chép không nhiều và khá sơ lược.3 Những ghi<br />
tới các triều đại phong kiến Đinh, Lý, Trần, Lê đã vươn chép của Đỗ Bá đã cho thấy các chúa Nguyễn chưa<br />
ra làm chủ biển khơi. có “sự can thiệp đáng kể nào” đối với các thuyền buôn<br />
Ở thế kỷ XVII, dưới thời kỳ trị vì của các chúa và thương nhân bị nạn trên vùng quần đảo Hoàng Sa<br />
Nguyễn, các ghi chép về tai nạn trên biển xuất hiện cũng như Trường Sa. Qua đó càng thấy rằng sự quan<br />
còn khá khiêm tốn. Trong bản Toàn tập An Nam lộ tâm và các hoạt động cứu nạn thời kỳ này của triều<br />
do một nhà Nho thời Lê sao chép có ghi rõ niên đại đình đã dần hình thành nhưng chưa trở thành chính<br />
Chính Hòa 7 (1686) phần bản đồ Phủ Quảng Ngãi sách cụ thể, các hoạt động cứu nạn còn lẻ tẻ, chưa<br />
có chú thích bằng chữ Nôm: “Bãi cát vàng phỏng dài tập trung.<br />
*<br />
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.<br />
<br />
48 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
Dưới triều Nguyễn thời kỳ Gia Long - Minh Mạng, Có thể thấy thời kỳ này các ghi chép về những vụ<br />
nhận thức về vị thế biển được nâng lên thêm một đắm tàu và sự giúp đỡ của triều đình xuất hiện nhiều<br />
bước với việc đề ra các chính sách cụ thể và toàn diện hơn so với thời các chúa Nguyễn. Tới thời kỳ trị vì của<br />
dành riêng cho những người bị nạn trên biển. Cả hai vua Minh Mạng, mọi vụ đắm tàu đều được triều đình<br />
vị vua này đều coi trọng biển, ý thức về biển của hai chẩn cấp trừ những người phạm tội, vua yêu cầu các<br />
người không chỉ bó hẹp trong việc phát triển ngoại quan địa phương phải hỏi rõ thông tin về những nạn<br />
thương mà còn bao gồm cả ý thức về chủ quyền trên nhân bị nạn để đưa ra mức chẩn cấp phù hợp. Những<br />
biển, mối quan hệ bang giao với các nước và lòng quy định trong chính sách giúp người bị nạn của vua<br />
nhân đạo giữa con người với con người. Vua Gia Long Gia Long và Minh Mạng đã cho thấy một bước tiến<br />
cho rằng: “thiên tai lưu hành xưa nay đời nào cũng dài kể từ thời chúa Nguyễn. Thời kỳ này, chính sách<br />
có”, vì vậy “giúp người cùng thương kẻ thiếu là việc cứu nạn đã trở thành một bộ phận không thể tách rời<br />
đầu tiên của lòng nhân chính”.4 Năm 1803, Gia Long trong các chính sách hướng về biển khơi, trong hoạt<br />
năm thứ 2 chuẩn định rằng: “Những thuyền buôn bị động xác lập chủ quyền trên biển thông qua chính<br />
bão, vỡ thuyền, của cải mất hết, đó là nhà buôn bị nạn. sách cứu giúp người bị nạn. Bên cạnh đó, Gia Long và<br />
Quan sở tại nên căn cứ vào số nhân khẩu trong thuyền Minh Mạng còn coi các hoạt động cứu nạn là “chính<br />
là bao nhiêu mà cấp phát cho mỗi người một tháng sách ngoại giao gián tiếp” với các nước trên thế giới<br />
lương thực của công để những người buôn bán đó độ qua đó cho thấy tư tưởng nhân đạo “thương người như<br />
nhật, chờ khi thuận gió cho được tùy tiện (ở lại hay thể thương thân” của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Đây<br />
đi)”.5 Tiếp nối những tư tưởng của vua Gia Long, tới là tư tưởng, tầm nhìn chính trị hoàn toàn mới và chưa<br />
đời vua Minh Mạng, các chính sách cứu nạn biển tiếp hề xuất hiện trong các triều đại trước ở nước ta. Tiếp<br />
tục được hoàn thiện. Năm Canh Thìn đời Minh Mạng thu những tư tưởng này của Gia Long - Minh Mạng,<br />
thứ nhất (1820) chiếu rằng: “Thương người bị nạn để rõ từ những đời vua kế vị về sau, thời nào chính sách cứu<br />
chính sách nhân từ. Vả đường biển gian hiểm, sóng gió giúp người bị nạn trên biển cũng được triều đình chú<br />
khó lường, gần đây quan quân dân chúng hoặc đi việc trọng và triển khai hiệu quả. Các ghi chép trong Đại<br />
công hoặc đi buôn bán, lợi hiểm lặn sâu đều là bất đắc Nam thực lục Chính biên đã cho thấy tư tưởng này của<br />
dĩ cả bỗng gặp nạn gió, người sống thì không nơi nương vua Gia Long và Minh Mạng đã thực sự trở thành một<br />
tựa, người chết không ai liệm bọc, xét soi thấy thế, rất phần không thể thiếu trong các chính sách liên quan<br />
đáng xót thương”.6 tới biển của triều Nguyễn suốt 150 năm tồn tại.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
49<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
Địa điểm xảy ra tai nạn dưới thời vua Gia Long ngày 21 tháng 6 đụng phải đá ngầm ở phía tây Hoàng<br />
- Minh Mạng: Qua khảo cứu một số bộ sử của nhà Sa, thuyền bị ngập nước”.12 Sau đó trường hợp bị nạn<br />
Nguyễn và các tư liệu khác thì vùng biển Việt Nam của Thái Đình Lan năm Minh Mạng thứ 16 (1835) trên<br />
trải khắp ba kỳ đều có tàu thuyền bị nạn nhưng nhiều đảo Cù Lao Chàm tiếp tục là minh chứng cho sự nguy<br />
hơn cả là ở khu vực Trung Kỳ và quanh các đảo xa hiểm của thiên tai thời tiết trên các đảo. Ngoài các<br />
bờ. Năm Gia Long thứ 8 (1809), 65 chiếc thuyền vận châu bản và các tập du hí của người nước ngoài, trong<br />
tải của Bắc thành gặp gió ở ngoài phần biển Nghệ các bộ sử chính thống của triều Nguyễn cũng đề cập<br />
An7 hay năm Gia Long thứ 9 (1810) thuyền buôn ở tới các vụ đắm tàu ở Hoàng Sa. Minh Mạng chính yếu<br />
cửa Eo (cửa Thuận An) và cửa Tư Dung bị chìm đắm, năm thứ 17 chép: “Thuyền buôn nước Anh Cát Lợi gặp<br />
nhân dân có người chết đuối.8 Thời vua Minh Mạng gió bão ở vùng đảo Hoàng Sa tạm ghé vào địa phận<br />
khu vực này cũng đã nhấn chìm rất nhiều thuyền bè tỉnh Bình Định, trên thuyền có khoảng hơn 50 người.13<br />
qua lại. Năm Minh Mạng thứ 7 (1826) thuyền vận tải Sau đó, năm Minh Mạng thứ 20 (1837), Đại Nam thực<br />
của Quảng Bình gặp bão bị vỡ ở bờ biển Quảng Trị9, lục chính biên tiếp tục ghi nhận các trường hợp đắm<br />
sang tới năm sau, Đại Nam thực lục chính biên tiếp tục tàu ở Hoàng Sa như trường hợp của Phạm Văn Biện<br />
ghi nhận thêm vụ đắm 16 thuyền vận tải ở vùng biển bị bão, sóng gió đánh chìm thuyền bè ở Hoàng Sa.14<br />
Vũng Chùa (thuộc Quảng Bình) do bão.10 Qua những Nạn nhân bị nạn dưới thời vua Gia Long - Minh<br />
ghi nhận của Quốc sử quán, các thuyền bè sau khi bị Mạng: Trong các thư tịch của triều Nguyễn, chính<br />
bão hay mắc cạn có xu hướng trôi dạt nhiều vào ven sách cứu giúp người bị nạn được quy định rõ ràng với<br />
biển Trung Kỳ.11 từng đối tượng và được thực hiện khá triệt để. Nạn<br />
Trên các đảo xa bờ, nhiều vụ tai nạn do va chạm nhân phần lớn là những người buôn bán trong nước,<br />
phải đá ngầm cũng đã được ghi chép tỉ mỉ và chính các thương nhân người Hoa, người Xiêm, người Chân<br />
xác. Theo Châu bản triều Nguyễn ở Cục Lưu trữ Trung Lạp, người Vạn Tượng, người Anh và người Pháp. Một<br />
ương I hiện nay vẫn còn lưu giữ được một số bản ghi bộ phận nhỏ là những binh lính, dân phu đi làm việc<br />
chép của Quốc sử quán liên quan tới các vụ đắm tàu ở công, các quan lại hay các sứ thần của các nước gặp<br />
Hoàng Sa. Tiêu biểu phải kể đến bản tâu của thủ ngữ nạn và được triều đình cứu giúp.<br />
cảng Đà Nẵng ngày 27 tháng 6 năm 1830 (năm Minh Bổ sung những thiếu sót từ thời vua Gia Long, tới<br />
Mạng thứ 11) do thuyền trưởng Đô-ô-chi-ly (thuyền thời vua Minh Mạng chính sách cứu nạn người trên<br />
trưởng tàu buôn Pháp Ê-đoa) cung cấp thông tin biển đã dần hoàn thiện và tiếp tục được các đời vua<br />
rằng: “Ngày 20 tháng 6 năm 1930 thuyền buôn của triều về sau áp dụng. Các chính sách chuẩn cấp của vua<br />
đình do Lê Quang Quỳnh và các thủy thủ đoàn rời cảng Minh Mạng đã cho thấy các mức rõ ràng đối với từng<br />
Đà Nẵng đi Lữ Tống - Manila - Philippines đến canh hai đối tượng. Với các quan lại binh lính của triều đình<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
50 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
đi làm việc công bao giờ cũng được ưu tiên cấp tuất Đối với nạn nhân là người phương Tây: Năm<br />
nhiều hơn, mức chẩn cấp của dân chúng phụ trách 1804, Chính phủ Anh sai sứ đến xin thông thương ở<br />
việc vận tải của triều đình cũng cao hơn dân buôn. Việt Nam và cho người Anh cư trú ở Đà Nẵng nhưng<br />
Các chính sách cứu nạn đối với các sứ thần quan lại không được vua Gia Long chấp thuận.15 Tương tự với<br />
được triều đình quan tâm và dành nhiều ưu đãi, đôi người Anh, tới cuối thời Gia Long, quan hệ Việt - Pháp<br />
khi còn chuẩn bị từ nơi ăn uống, nghỉ ngơi cho tới đã bị hạn chế chỉ trong phạm vi buôn bán. Năm 1817,<br />
việc hộ tống về nước. Tuy nhiên qua khảo cứu có thể khi chiến hạm Cybèle cập bến Đà Nẵng và liên lạc<br />
thấy rằng quy định chẩn cấp cho từng đối tượng trên với những đại diện của Pháp tại Huế (Chaigneau và<br />
của triều đình được thực hiện mang tính chất tương Vainnier) mong muốn tiếp kiến vua Gia Long nhưng<br />
đối và tùy thuộc vào từng vụ việc cụ thể cũng như đối vua đã lấy cớ phái viên nước Pháp không có quốc thư<br />
tượng bị nạn là người nước nào. Qua các ghi chép của nên không cho gặp.16 Sang đời Minh Mạng, các hoạt<br />
Quốc sử quán triều Nguyễn trong các lần chẩn cấp động giao thiệp với phương Tây càng trở nên hạn chế<br />
cứu giúp người bị nạn triều đình thường được cấp hơn. Hai triều vua Gia Long và Minh Mạng đã thực<br />
nhiều hơn quy định ban đầu đối với các người bị nạn hiện chính sách đối ngoại khá chặt chẽ với phương<br />
nước ngoài, đặc biệt là người Thanh. Tây, họ đã khước từ hơn 30 đoàn ngoại giao và ngoại<br />
thương muốn đặt quan hệ với nước ta. Vua Minh<br />
2. Quá trình triển khai và ý nghĩa chính sách<br />
Mạng từng giải thích về các chính sách này rằng: “Bản<br />
cứu nạn dưới triều vua Gia Long - Minh Mạng<br />
triều ta đối với người Tây phương họ đến cũng không<br />
Phần lớn các nạn nhân trong chính sách cứu nạn cự, họ đi cũng không theo, chỉ đối đãi như người đi dịch<br />
trên biển của triều Nguyễn là các thuyền buôn và thôi. Thuyền Tây dương đến, không cho tiếp xúc với<br />
quan quân nước ngoài. Qua ghi chép về những ân dân địa phương, bán hàng xong thì đi, kiểm soát chặt<br />
cấp của triều Nguyễn đối với người nước ngoài, có chẽ”.17 Tuy vậy dù hạn chế quan hệ trong các hoạt<br />
thể thấy triều đình còn phân biệt rõ đối tượng người động buôn bán, ngoại giao nhưng triều đình vẫn sẵn<br />
nước ngoài là người Thanh, người Xiêm, người Chà Và sàng cứu giúp các thuyền buôn, thuyền công người<br />
hay người phương Tây. Các ghi chép cũng cho thấy Pháp, người Anh bị nạn trên vùng biển Việt Nam bởi<br />
nạn nhân trong các vụ đắm tàu là người Thanh chiếm Gia Long từng nói: “Thương xót kẻ bị nạn là việc phải<br />
1 số lượng đáng kể và triều đình cũng dành nhiều ưu làm trước của chính sách nhân từ”.18 Đối với các nạn<br />
ái hơn với đối tượng này. Sở dĩ có sự khác biệt này là nhân bị nạn là người Anh và người Pháp, dưới thời<br />
do chính sách bế quan tỏa cảng cùng nhu cầu kiểm vua Gia Long và Minh Mạng triều đình đều ban phát<br />
soát chủ quyền biển đảo trong thời kỳ có nhiều biến tiền và gạo rồi cho họ trở về nước, hạn chế việc lên bờ<br />
động phức tạp từ bên ngoài. buôn bán. Vua Minh Mạng năm thứ 7 có chỉ: “Lần ấy<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
51<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
thuyền buôn nước Anh đỗ ở hải phận trấn Bình Thuận cho quan hệ Việt - Xiêm cũng bị ảnh hưởng.22 Mặc dù<br />
chạm phải chỗ nông cạn thuyền bị vỡ mà hàng hóa còn. vậy, những người Xiêm gặp nạn trên biển Việt Nam<br />
Ta nghĩ bọn ấy đã là nhà bị nạn đáng nên thương xót vẫn nhận được sự giúp đỡ của triều đình. Năm 1834,<br />
nhưng nước ở ngoài phương xa cũng không nên để đi vua Minh Mạng xuống chỉ: “Đối với người nước Xiêm<br />
lại tự do. Nay cho thành Gia Định cấp tốc châm chước từ trước đến giờ đường biển có người và thuyền bị nạn,<br />
liệu bắt thuyền to hoặc thuyền đại dịch 1 chiếc hay 2 trên bộ có dân xiêu dạt, hễ xảy ra ở địa phận nước ta thì<br />
chiếc thủy thủ thuyền hộ phải am hiểu đường đi biển tới ta đều giúp đỡ ưu hậu và đưa về”.23 Qua khảo cứu có<br />
Hạ Châu Tân-gia-ba để nước ấy biết triều đình ta có ý thể thấy mức chẩn cấp đối với thuyền buôn và thuyền<br />
thương xót đến thuyền buôn bị nạn”.19 Trường hợp đối sứ của người Xiêm đều bằng nhau, không có sự phân<br />
với người Pháp cũng được triều đình cứu giúp tương biệt; triều đình chủ yếu cấp lương thực và tiền rồi cho<br />
tự. Năm Minh Mạng thứ 11 (1830), thuyền buôn Đô-ô- họ về nước, không có biệt đãi gì đặc biệt đối với các<br />
chi-ly bị bão chìm ở hải phận Đà Nẵng, Minh Mạng sai quan cấp cao nhà Xiêm gặp nạn. Năm Gia Long thứ<br />
tỉnh Quảng Trị cấp cho 100 quan tiền, 50 phương gạo 8, thuyền buôn của Ngô Nghạnh (người Xiêm) gặp<br />
đồng thời tìm cách đưa họ về nước.20 Chỉ có một số gió bão dạt vào bến Đà Nẵng được triều đình cấp cho<br />
ít trường hợp nạn nhân bị nạn trên các đảo hoặc các 200 phương gạo rồi cho về nước.24 Đối với các thuyền<br />
vụ tai nạn nghiêm trọng mới được triều đình cho ở lại sứ nước Xiêm trên đường sang nước Thanh nộp cống<br />
và chẩn cấp có phần ưu hậu hơn. Hội điển ghi chép gặp gió hay bị cháy, Gia Long năm thứ 16 (1817) chuẩn<br />
rất chi tiết về sự kiện thuyền buôn nước Anh bị bão định “thuyền sứ giả bị nạn gió, bị cháy cũng như thuyền<br />
trên đảo Hoàng Sa năm 1836 và sự cứu giúp của triều buôn bị nạn”, sai dinh thần Quảng Nam cấp cho 200<br />
đình như sau: “Nay xét trong tập trình này ở trấn Bình phương gạo.25 Ngoài việc coi thuyền sứ bị nạn cũng<br />
Định, có người Tây dương đi thuyền buôn Tây dương bị như thuyền buôn, triều đình còn cho thấy thái độ đề<br />
gió bão bơi dạt vào hạt ấy lên bờ may được sống sót đã phòng đối với người Xiêm khi họ đi lại trên lãnh thổ<br />
chiếu phát tiền gạo, xin cho bê phái người thông ngôn Việt Nam. Năm Gia Long thứ 14 (1815) thuyền của sứ<br />
đến đó phiên dịch, hỏi han… Và bọn ấy là nước ở mãi thần nước Xiêm sang nước Thanh nộp thuế gặp bão<br />
Tây phương xa thẳm không như người Thanh qua lại, neo đậu ở phận biển Bình Định, khẩn xin đến Kinh<br />
nay không may gặp nạn gió ấy tình cũng đáng thương. chầu. Trấn thần đem việc tâu lên, vua sai thưởng mỗi<br />
Cho tỉnh ấy ở cạnh bờ lựa chọn nơi an trú rồi gia ơn cấp người 3 tháng lương, hộ tống đến Kinh sau đó lại cấp<br />
cho mỗi người đủ 1 quan tiền trong đó có tên thuyền thêm cho mỗi người 5 tháng lương rồi cho về nước.<br />
trưởng cấp cho 3 quan và đầu mục mỗi người 2 quan Khi về sứ giả tâu xin quan Nam Vang muốn tới thăm<br />
để sinh sống. Nay xét lời tâu phúc lại thời đó là thuyền vua Phiên rồi theo đường Châu Đốc, Hậu Giang về<br />
buôn Anh Cát Lợi gặp phải Cát Vàng chỗ nông, thuyền nước. Vua cho rằng “như thế là có ý nhòm ngó” nên<br />
chìm vỡ nhờ được 3 chiếc xam bơi tới bờ, tình lại thương không cho.26 Vấn đề này tới triều vua Minh Mạng có<br />
xót lại thưởng cho người thuyền trưởng ấy áo quần Tây vẻ bớt khắt khe hơn. Năm Minh Mạng thứ 6 (1825),<br />
dương và chăn vải mỗi người đều 1, người đi theo cũng thuyền nước Xiêm bị bão trôi dạt vào vùng duyên hải<br />
thưởng cho áo quần đều 1, lại cho bọn ấy nơi an trú tỉnh Bình Định; thuyền trưởng Hoàng Nghi xin triều<br />
đưa thêm ván gỗ đệm chiếu để họ yên ngủ khỏi phải đình cấp cho 200 quan tiền và 500 phương gạo được<br />
rét mướt. Trong đó có ai mắc bệnh cũng cho thuốc điều vua y cho.27 Tới năm 1828, thuyền Chánh sứ nước<br />
trị, lần ấy lính thủy sư đang thao diễn ở đường biển cho Xiêm vượt biển sang cống nước Thanh bị mắc cạn ở<br />
thuận đường biển đưa những người Tây dương ấy tới hải phận Bình Thuận, thuyền Phó sứ cũng bị vỡ chìm<br />
bến khẩu Hạ Châu để họ về nước. Khi bọn họ trở về cấp ở hải phận Hà Tiên. Vua dụ bộ Lễ rằng: “ta với nước<br />
cho đồ ăn uống một lần nữa để tỏ ý mềm dẻo thương Xiêm vốn giữ tình hữu nghị” bèn hạ lệnh cho trấn thần<br />
người phương xa”.21 Bình Thuận và Hà Tiên mời đến công quán tiếp đãi tử<br />
tế rồi sắc cho Bình Thuận đưa Chánh sứ tới Hà Tiên<br />
Đối với nạn nhân là người Xiêm: Việt và Xiêm là<br />
để gặp Phó sứ, sai Chánh đội trưởng Mạc Hân Hy lấy<br />
hai nước có mối quan hệ giao hiếu thường xuyên với<br />
thuyền công hộ tống về nước.28<br />
nhau và đều là phiên thần của Trung Quốc. Vì vậy dưới<br />
thời Gia Long, mối quan hệ Việt - Xiêm diễn ra tốt đẹp. Đối với nạn nhân là người nhà Thanh: Riêng đối<br />
Sang thời kỳ trị vì của vua Minh Mạng, đều là nước với nhà Thanh, triều đình Gia Long - Minh Mạng vẫn<br />
có thế lực hơn Chân Lạp và Vạn Tượng, từ năm 1927 giữ thái độ thuần phục của nước nhỏ đối với nước<br />
cuộc chiến tranh giữa Xiêm và Vạn Tượng nổ ra khiến lớn bằng các hoạt động bang giao (triều cống),<br />
<br />
52 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
ngoại thương… Trong hoạt động bang giao, ngoài Châu.33 Bên cạnh đó, các hoạt động cứu nạn của triều<br />
việc sai sứ đem lễ phẩm đi tiến cống (4 năm 1 lần) đình Gia Long - Minh Mạng còn được ghi nhận trong<br />
thì mỗi khi có việc chúc mừng (mừng thọ, vua mới các bộ sử của nhà Thanh. Trong Cao Tông thực lục năm<br />
đăng quang…) hay tạ ơn hoặc cầu phong… thì nhà Gia Khánh thứ 6 (1801) chép lại lời dụ của Quân cơ<br />
Nguyễn đều cử đoàn sứ thần sang Trung Quốc. Mỗi Cát Khánh như sau: “Một người dân huyện Thuận Đức<br />
khi có sứ nhà Thanh sang nước ta đều được triều tên là Triệu Đại Nhiệm đi thuyền gặp bão gió trôi dạt<br />
đình coi trọng và chuẩn bị chu đáo. Trong hoạt động đến Nông Nại (Đồng Nai) được Quốc trưởng nước ấy là<br />
buôn bán, nếu như những người Tây phương đi trên Nguyễn Phúc Ánh sai người đưa tới Phú Xuân giúp sửa<br />
thuyền buôn của họ thậm chí đi nhờ trên những chữa lại thuyền, cấp lương thực rồi mang tờ bẩm của<br />
thuyền buôn người Hoa đều không được phép lên bờ viên Quốc trưởng về nước”.34 Sau đó, triều đình nhà<br />
khi cập bến thì mọi người Hoa không phân biệt thành Thanh đáp lại lời bẩm của vua Gia Long bằng thái độ<br />
phần xã hội, tuổi tác, giới tính đều được phép lên bờ cảm kích: “Nay người dân trong nước bị tai nạn trôi dạt<br />
và sinh sống ở Việt Nam trong các bang địa phương đến nước ngươi được giúp đỡ để trở về nước lại mang<br />
của họ.29 Điều đó phần nào lý giải về sự ân cấp đặc theo tờ bẩm, Bản bộ biết rõ tấm lòng cảm tạ của nước<br />
biệt đối với người Hoa bị nạn trên biển Việt Nam. Mức ngươi”.35<br />
chẩn cấp của triều đình có thể chia thành 2 mức cách<br />
Riêng đối với thuyền công của nhà Thanh đi công<br />
biệt đối với dân thường và các quan quân, các trí thức<br />
cán gặp nạn không những được trợ cấp hậu hĩnh mà<br />
nhà Thanh đi làm việc công gặp tai nạn. Tuy nhiên các<br />
còn được triều đình đón tiếp chu đáo. Năm Gia Long<br />
chính sách cứu giúp người Thanh không có mức chẩn<br />
thứ 9 (1810) thuyền của Thiên tổng tỉnh Phúc Kiến<br />
cấp cụ thể, triều đình thường căn cứ vào đối tượng<br />
nước Thanh là Tiêu Nguyên Hầu bị nạn dạt vào cửa<br />
và tính chất vụ việc để chẩn cấp cho họ. Nếu người bị<br />
biển Cam Ranh (Khánh Hòa) được biệt đãi cấp cho<br />
nạn là các quan quân, các trí thức thì họ không những<br />
hơn 30 quan tiền, 4 tấm lụa, 5 tấm vải và 6 phương<br />
nhận được chẩn cấp đầy đủ về tiền, nước uống, nhà<br />
gạo; quân lính đi theo mỗi người được cấp 5 quan<br />
ở, chi phí đi lại sinh hoạt mà còn nhận được sự quan<br />
tiền, 2 tấm vải, 3 phương gạo. Vua còn trực tiếp xuống<br />
tâm của quan lại triều đình Gia Long - Minh Mạng với<br />
dụ rằng: “Thuyền nước ngoài bị nạn, việc giúp đỡ đã có<br />
việc tới hỏi thăm trò chuyện và sau đó đưa họ trở về<br />
lệ định. Duy Tiêu Nguyên Hầu là người công sai của<br />
nước an toàn. Đối với người bị nạn là dân địa phương<br />
nước Thanh cho nên đặc biệt thưởng cấp thêm để tỏ ưu<br />
người Hoa đi buôn bán cũng được triều đình dành<br />
đãi”. Sau đó vua cho mời về Kinh và thưởng thêm 100<br />
cho mức chẩn cấp cao hơn các đối tượng dân buôn ở<br />
quan rồi cho đi đường bộ về nước.36 Về sau việc biệt<br />
các nước khác. Năm Minh Mạng thứ 12 vua dụ Bộ Lại<br />
đãi với quan quân nhà Thanh tiếp tục được duy trì<br />
rằng: “Phê duyệt tập của Lưu Đình Luyện nói rằng người<br />
dưới thời vua Minh Mạng. Năm 1833, một chiếc quân<br />
Thanh bị nạn gió cấp lương ăn 10 ngày, thuyền bè của<br />
thuyền của tỉnh Quảng Đông nhà Thanh vì bị gió bão<br />
họ bị vỡ, của cải không còn gì lẽ ra phải xem xét giúp đỡ<br />
trôi dạt sang vụng Trà Sơn tỉnh Quảng Nam, nghe tin<br />
thêm để tỏ lòng nhân đạo, rộng rãi của vua, thế mà chỉ<br />
vua Minh Mạng xuống dụ rằng: “Đó là thuyền công sai<br />
có chút ít như thế thì ra thể thống gì”.30 Hành động cứu<br />
chẳng ví như thuyền buôn gặp nạn được”. Sau đó vua ra<br />
giúp người Thanh gặp nạn xuất hiện thường xuyên<br />
lệnh cấp cho 300 quan tiền, 300 phương gạo và cho<br />
trong các ghi chép của Quốc sử quán triều Nguyễn.<br />
Lang trung Bộ Hộ Lê Trường Danh đến thăm hỏi an<br />
Theo GS. Lương Chí Minh từ năm 1801 đến năm 1860,<br />
ủi, đem trâu, rượu thịt đến thiết đãi ưu hậu.37 Hay năm<br />
Việt Nam từng 29 lần cứu giúp nhân dân Trung Quốc<br />
Minh Mạng thứ 14, vua trực tiếp ban Chỉ cho Bộ Hộ về<br />
gặp nạn trên biển.31<br />
việc tổ chức tang lễ, chu cấp tiền và lo việc đưa viên<br />
Đối với dân buôn nhà Thanh gặp nạn, triều đình Ngoại ủy Lương Quốc Giản qua đời về nước rằng: “Về<br />
tiến hành chẩn cấp có phần cao hơn các nước khác việc quan quân nước Thanh gặp nạn gió bão trước đây<br />
và cho họ về nước hoặc cho phép cư trú ở Việt Nam. đã giáng dụ điều phái binh thuyền, hẹn ngày hộ tống về<br />
Năm Gia Long thứ 5 (1806) thuyền đánh cá của người nước. Nay nghe tấu trình của phái viên Lê Văn Phú thì<br />
Thanh là Lâm Tiến Hưng bị bão dạt vào Đồ Sơn được viên tướng biền bị nạn ấy là viên Ngoại ủy Lương Quốc<br />
triều đình cấp cho lương ăn và cho về nước.32 Đến Giản bỗng nhiên phát bệnh được điều trị nhưng không<br />
năm Gia Long thứ 9, thuyền dân bị nạn người Thanh khỏi đã mất vào ngày 19 tháng này, xem lời tâu thấy<br />
là Trịnh Thiên Thịnh dạt vào phần biển Yên Quảng cũng rất thương. Vậy truyền lấy một cây gấm Tống, 3<br />
tiếp tục được triều đình chẩn cấp và đưa về Khâm tấm lụa, 10 tấm vải ban cho viên quá cố ấy. Còn áo quan<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
53<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
cùng công việc tang lễ truyền cho các viên đóng giữ ở 2 phương gạo, sau đó cấp thêm cho 50 quan tiền, 20<br />
đài Điện Hải là Phạm Hữu Tâm và Nguyễn Văn Lạng lo phương gạo và cử người tới hỏi thăm chu đáo, cho<br />
liệu cho thỏa đáng. Lại cấp thêm 50 lạng bạc giao cho phép Thái Đình Lan được trở về bằng đường bộ theo<br />
viên Ngoại ủy cùng thuyền là Phàn Diệu Thăng đưa về đề nghị của vị Lẫm sinh này.40 Những ân cấp đặc biệt<br />
cho gia đình”.38 của triều đình trong thời gian gặp nạn cũng đã được<br />
Thái Đình Lan ghi nhận trong tác phẩm Hải Nam tạp<br />
Một đối tượng khác cũng được triều đình dành<br />
trứ của ông.41<br />
cho những ân cấp biệt đãi ngang hàng với những<br />
quan chức cao cấp đó là những bậc trí thức nhà Kết luận<br />
Thanh gặp nạn. Đời vua Minh Mạng, các trường hợp<br />
Là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt<br />
bị nạn xuất hiện khá thường xuyên trong các ghi<br />
Nam, triều Nguyễn đã kế thừa những tri thức, kinh<br />
chép của Quốc sử quán. Năm 1822, có 34 người tỉnh<br />
nghiệm trong xây dựng và bảo vệ đất nước của các<br />
Phúc Kiến gặp bão dạt vào cửa Đà Nẵng, triều đình<br />
triều đại trước để xây dựng một quốc gia thống nhất,<br />
cấp cho viên Vương Khôi Nguyên 5 lạng bạc, 1 bộ áo<br />
có vị trí mạnh trong khu vực. Với tầm nhìn hướng biển<br />
hàng, vạt 2 chiếc ngoài bằng trừu trong bằng vải, 1<br />
trong điều kiện đất nước có vùng biển rộng, nhiều<br />
chiếc quần lụa hàng màu. Sau đó khi biết Vương Khôi<br />
thiên tai, hai vị vua đầu triều Nguyễn đã nhận thấy<br />
Nguyên là người Phúc Kiến đi Đài Loan chấm thi lại<br />
cần phải đưa ra những chính sách cụ thể trong việc<br />
mang theo vợ con gặp bão ở hải phận Quảng Ngãi<br />
giúp đỡ người bị nạn trên biển, giúp họ phần nào<br />
liền sắp xếp đưa về nước bằng đường thủy. Hơn nữa<br />
cảm thấy an tâm hơn khi qua lại vùng biển Việt Nam<br />
“nghĩ người học trò bị nạn này trải qua bao nguy hiểm<br />
cũng như là một cách để xác lập an ninh chủ quyền<br />
tuy đã được ban ơn nhưng đã ở lâu nơi đất khách nay lại<br />
trên biển. Chỉ trong một thời gian cầm quyền chưa<br />
thuê thuyền về nước thời lương ăn đường, lộ phí không<br />
lâu nhưng những chính sách cứu nạn khá toàn diện<br />
khỏi thiếu thốn. Vậy lại ban cho 100 lạng bạc để tỏ cái<br />
và những hệ quả mà nó mang lại đã cho thấy đó là<br />
ý tha thiết của trẫm thương xót kẻ hoạn nạn, quý trọng<br />
một cố gắng rất lớn của vua Gia Long - Minh Mạng.<br />
nhà nho.39 Đến năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà<br />
vua cũng dành những biệt đãi tương tự đối với viên Những hoạt động ấy còn tiếp nối thêm vào truyền<br />
thư viện trưởng giáo huyện Đài Loan nước Thanh là thống “thương người như thể thương thân” của dân<br />
Lẫm sinh Thái Đình Lan (Đại Nam thực lục chép là Thái tộc ta qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ<br />
Đình Hương) cùng 3 tên thư sinh đáp thuyền buôn nước. Sự giúp đỡ của vua Gia Long và Minh Mạng đối<br />
gặp nạn đã được triều đình ban cấp cho 2 quan tiền, với những người bị nạn đã cho thấy tấm lòng nhân<br />
<br />
54 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
đạo của hai vị vua này. Đó là lòng thương người ở Hoàng Sa đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải<br />
không chỉ đối với dân chúng trong nước mà nó còn phận Quỳnh Châu nước Thanh, tổng đốc Thanh hậu cấp<br />
vượt qua ranh giới quốc gia đối với những người dân cho rồi đưa về; năm Bính Tý thứ 18 (1756), mùa thu tháng<br />
7, viên thiên tổng Mân Chiết (Phúc Kiến và Chiết Giang) là<br />
tộc khác, quốc gia khác.<br />
Lê Huy Đức thuyền bị nạn bão đậu vào hải phận nước ta<br />
Thay đổi cái nhìn truyền thống mang nhiều yếu tố [chúa] hậu đãi rồi cho về, nhân tiện cho đưa về Phúc Kiến<br />
“tiêu cực” trong cách nhìn nhận, đánh giá đối với triều những người Thanh bị bắt là bọn Lý Văn Quang gồm 16<br />
Nguyễn nói chung và hai vị vua Gia Long - Minh Mạng người.<br />
nói riêng, những chính sách cứu nạn dưới triều nhà Tất cả các sự kiện trên đều trích trong Quốc sử quán<br />
Nguyễn mang nhiều ý nghĩa chính trị - nhân đạo to triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tiền biên, (Hà Nội: Giáo dục,<br />
lớn. Bên cạnh đó, vấn đề này còn hàm chứa nhiều giá 2004), Tập 1.<br />
trị thực tiễn đối với con người trong thời đại ngày nay, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam<br />
4, 6, 7, 8, 9, 10, 32, 33, 36, 37<br />
<br />
<br />
thấy được những gì triều Nguyễn đã làm với những thực lục chính biên, (Hà Nội: Giáo dục, 2004), Tập 1, 471, 35,<br />
người không may gặp nạn trên biển, là một khai mở 760, 481, 61, 682, 798, 782, 814.<br />
cho quốc tế biết thêm rằng ngày trước khi cha ông 5<br />
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam Hội điển sử<br />
của họ gặp nạn trên biển đã được người Việt giúp lệ, Tập 5, Quyển 63, Sđd, 408.<br />
đỡ như thế nào và đó cũng là góp phần phục vụ cho 11<br />
Đối với các ngư dân, quan lại người Việt bị nạn chủ<br />
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ngày nay. Bên yếu trên vùng biển Việt Nam và Trung Quốc chỉ một số ít<br />
cạnh đó, chúng ta biết rằng người ta chỉ có thể quản các thuyền bị nạn trôi dạt sang các nước Miến Điện, Nhật<br />
lý và thực hiện các hoạt động trên vùng biển do mình Bản,… Theo GS. Lương Chí Minh, các tàu thuyền bị nạn của<br />
người Việt ở Trung Quốc chủ yếu trôi dạt vào Lưỡng Quảng<br />
kiểm soát, cho nên hoạt động cứu nạn trên biển cũng<br />
và đảo Hải Nam, số ít trôi vào Phúc Kiến: Lương Chí Minh,<br />
khẳng định việc quản lý biển một cách có hiệu quả<br />
“Sự phục hồi kinh tế và sự phát triển của quan hệ thương<br />
và là vấn đề rất được chính quyền nhà Nguyễn quan mại giữa hai nước Trung - Việt vào những năm đầu nhà<br />
tâm, cho nên chính sách này còn mang hàm ý khẳng Nguyễn” in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và<br />
định chủ quyền biển rất lớn đối với Việt Nam trong Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến<br />
lịch sử. thế kỷ XIX, (Hà Nội: Thế giới, 2008), 340.<br />
<br />
P.T.T.<br />
12<br />
Dẫn theo Châu bản triều Minh Mệnh, Đỗ Bang, Hệ<br />
thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn, Tập 43, 458,<br />
131.<br />
13, 27<br />
Quốc sử quán triều Nguyễn (Hoàng Văn Hòe -<br />
Nguyễn Quang Tô dịch), Minh Mệnh chính yếu, (Ủy ban dịch<br />
thuật - Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên xuất bản, 1974),<br />
Tập 6, Quyển 25, 266, 238<br />
CHÚ THÍCH 14<br />
Xem thêm Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực<br />
1<br />
Dẫn theo: "Toàn tập An Nam lộ" in trong Thiên hạ lục chính biên, (Hà Nội: Giáo dục, 2007), Tập 5, 532.<br />
bản đồ, Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Nguyễn Quang Ngọc, 15<br />
Gia Long cho rằng: “Tiên vương kinh dịch nước không<br />
Nguyễn Phúc Nguyên - “Vị chúa của những kỳ công mở cõi để người Hạ lẫn với người Di đó thực là cái ý đề phòng từ lúc<br />
đầu thế kỷ XVII” in trong Một chặng đường nghiên cứu lịch việc còn nhỏ. Người Hồng Mao (nước Anh) gian giảo trí trá<br />
sử, (Hà Nội: Thế giới, 2008), 456. không phải nòi giống của ta, lòng họ hẳn khác, không cho ở<br />
2<br />
Lê Quý Đôn, (Viện Sử học dịch), Phủ biên tạp lục, (Hà lại, ban cho ưu hậu mà cho về, khước từ những phương vật<br />
Nội: Văn hóa Thông tin, 2007), 155. mà họ hiến”: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục<br />
chính biên, Sđd, Tập 1, 603.<br />
3<br />
Trong Đại Nam thực lục tiền biên, các chính sách cứu<br />
nạn của chúa Nguyễn được ghi chép khá sơ sài, số lượng 16<br />
Vũ Thị Phương Hậu, Chính sách văn hóa dưới triều<br />
các ghi chép là không nhiều. Thời chúa Nguyễn Phúc Nguyễn (1802 - 1884), (Hà Nội: Chính trị Quốc gia, 2014), 146.<br />
Chu (1691 - 1725): năm Nhâm Ngọ thứ 11 (1702) thuyền 17<br />
Viện Sử học, Trương Thị Yến, Lịch sử Việt Nam, (Hà Nội:<br />
công của Xiêm La bị gió đậu ở hải phận nước ta, ta sửa Khoa học Xã hội, 2014), Tập 6, 56.<br />
sang thuyền lái và giúp đỡ lương thực cho họ rồi sai bọn 18<br />
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam Hội điển sử<br />
Thần Triệt đáp đi; năm Ngâm Ngọ thứ 23 (1714) thuyền bị<br />
lệ, Sđd, Tập 5, Quyển 63, 385.<br />
nạn xứ Nghệ An đậu ở giang phận Lưu Đồn, chúa sai cấp<br />
tiền gạo rồi cho về. Giáp Tuất năm thứ 16 (1754) đời chúa 19<br />
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam Hội điển sử<br />
Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765), mùa thu tháng 7 dân đội lệ, Sđd, Quyển 48, 438.<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
55<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
20<br />
Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mạng chính yếu, 5. Vũ Thị Phương Hậu. 2014. Chính sách văn hóa dưới<br />
Sđd, (1972), Tập 6, Quyển 245, 245. triều Nguyễn (1802 - 1884). Hà Nội: Chính trị Quốc gia.<br />
21<br />
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam Hội điển sử 6. Lãng Hồ. 1974. “Hoàng Sa - Trường Sa, lãnh thổ Việt<br />
lệ, Sđd, Quyển 48, 438. Nam”. Sử Địa. Số 29. Nhà sách Khai Trí bảo trợ.<br />
22<br />
Để hiểu rõ hơn cuộc chiến tranh Xiêm - Vạn Tượng 7. J.B.Piétri. 2015. (Đỗ Thái Bình dịch). Thuyền buồm<br />
(1927) và sự giúp đỡ của triều đình nhà Nguyễn với nước Đông Dương. Thành phố Hồ Chí Minh: Trẻ.<br />
phiên thần Vạn Tượng xin xem thêm mục: Quan hệ giữa 8. Minh Mạng. 2000. (Trần Văn Quyền dịch) Ngự chế<br />
nhà Nguyễn với nước Vạn Tượng và Xiêm, Trương Thị Yến, văn. Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn Quốc gia, Viện<br />
Lịch sử Việt Nam, Sđd, Tập 5, 466 - 480. Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản. Tập 2.<br />
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục<br />
23, 24, 25, 26<br />
9. Lương Chí Minh. 2008. “Sự phục hồi kinh tế và sự phát<br />
chính biên, Sđd, Tập 4, 27, 761, 951, 900 - 901, triển của quan hệ thương mại giữa hai nước Trung - Việt<br />
28<br />
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính vào những năm đầu nhà Nguyễn” in trong Kỷ yếu Hội thảo<br />
biên, Sđd, Tập 2, 771 - 772. khoa học Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử<br />
Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Hà Nội: Thế giới.<br />
29<br />
Về sau quy định này có sự thay đổi do số lượng người<br />
Hoa vào Việt Nam ngày một đông. Vì vậy triều đình Minh 10. Nguyễn Quang Ngọc. 2008. “Nguyễn Phúc Nguyên -<br />
Mạng phải đưa ra các quy định và thủ tục nhập cảnh đối với Vị Chúa của những kỳ công mở cõi đầu thế kỷ XVII” in trong<br />
người Hoa muốn vào Việt Nam sinh sống. Tuy nhiên việc Một chặng đường nghiên cứu lịch sử. Hà Nội: Thế giới.<br />
nhập cảnh dù phải khai báo với quan sở tại và được bang 11. Trần Ích Nguyên. 2009. (Ngô Đức Thọ dịch). Thái<br />
trưởng Minh Hương bảo lãnh thì các dòng người Hoa di cư Đình Lan và tác phẩm Hải Nam tạp trứ. Hà Nội: Lao động -<br />
vào Việt Nam vẫn chiếm số lượng lớn. Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.<br />
30, 38<br />
Minh Mạng, (Trần Văn Quyền dịch), Ngự chế văn, 12. Nội các triều Nguyễn. 1993. Khâm Định Đại Nam Hội<br />
(Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn Quốc gia, Viện điển sử lệ. 8 tập. Huế: Thuận Hóa.<br />
Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, 2000), Tập 2, 322. 13. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2004. Đại Nam thực lục<br />
31<br />
Lương Chí Minh, Sự phục hồi kinh tế và sự phát triển tiền biên. Hà Nội: Giáo dục. Tập 1.<br />
của quan hệ thương mại giữa hai nước Trung - Việt vào những 14. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2004. Đại Nam thực lục<br />
năm đầu nhà Nguyễn, Tlđd, (2014), 340. chính biên. Hà Nội: Giáo dục. Tập 2.<br />
Hồ Bạch Thảo, Cao Tông Thực Lục, Quyển hạ, In tại<br />
34, 35<br />
16. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2004. Đại Nam thực lục<br />
Thư ấn quán, 244. chính biên. Hà Nội: Giáo dục. Tập 3.<br />
39, 40<br />
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam Hội điển 17. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2004. Đại Nam thực lục<br />
sử lệ, Sđd, Tập 5, Quyển 63, 410, 411. chính biên. Hà Nội: Giáo dục. Tập 4<br />
41<br />
Đây có thể coi là những tài liệu ghi chép thực địa về sự 18. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2007. Đại Nam thực lục<br />
quan tâm đặc biệt của triều đình nhà Nguyễn trong những chính biên. Hà Nội: Giáo dục. Tập 5.<br />
ngày Thái Đình Lan gặp nạn trên đất khách, cho thấy tấm<br />
19. Quốc sử quán triều Nguyễn. 1972. (Vũ Quang Khanh<br />
lòng nhân đạo cao cả của người Việt. Đồng thời đây cũng là<br />
- Võ Khắc Văn dịch). Minh Mạng chính yếu. Ủy ban dịch thuật<br />
dịp để Thái Đình Lan đưa ra những quan sát, đánh giá, nhìn<br />
- Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản. Tập 2.<br />
nhận về dân tình phong tục của người dân Việt một cách<br />
sinh động và chân thực nhất. Để hiểu rõ hơn xin xem thêm 20. Quốc sử quán triều Nguyễn. 1974. Hoàng Văn Hòe -<br />
Trần Ích Nguyên, Thái Đình Lan và tác phẩm Hải Nam tạp trứ, Nguyễn Quang Tô dịch. Minh Mạng chính yếu. Ủy ban dịch<br />
Sđd, 2009, 171 - 185. thuật - Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên xuất bản. Tập 6<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO 21. Hồ Bạch Thảo. Cao Tông thực lục. In tại Thư ấn quán.<br />
Quyển hạ.<br />
1. Trịnh Tuấn Anh. 1974. “Phúc trình cuộc thám sát hòn<br />
Nam Yít thuộc quần đảo Hoàng Sa vào mùa thu năm 1973” 22. Trần Nam Tiến. 2014. Đội Hoàng Sa trong lịch sử xác<br />
in trong Sử Địa. Số 29. lập và bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Thành phố<br />
Hồ Chí Minh: Văn hóa - Văn nghệ.<br />
2. Đỗ Bang. 2011. Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới<br />
23. Thích Đại Sán. 1963. Hải Ngoại kỷ sự. Bản dịch Viện<br />
triều Nguyễn. Hà Nội: Văn hóa Thông tin.<br />
Đại học Huế.<br />
3. Lê Quý Đôn. 2007. (Viện Sử học dịch), Phủ biên tạp lục.<br />
24. Viện Sử học. Trương Thị Yến. 2014. Lịch sử Việt Nam<br />
Hà Nội: Văn hóa Thông tin.<br />
Tập 5. Hà Nội: Khoa học Xã hội.<br />
4. Hoàng Xuân Hãn. 1974. “Quần đảo Hoàng Sa”. Sử Địa.<br />
26. Viện Sử học, Trương Thị Yến. 2014. Lịch sử Việt Nam.<br />
Số 29. Nhà sách Khai Trí bảo trợ.<br />
Tập 6. Hà Nội: Khoa học Xã hội.<br />
<br />
<br />
56 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn