ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
* * * * *
NGUYỄN NHẬT HẢI
CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
CHO PHÁT TRIỂN SỰ NGHIỆP Y TẾ CÔNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh, năm 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
* * * * *
NGUYỄN NHẬT HẢI
CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
CHO PHÁT TRIỂN SỰ NGHIỆP Y TẾ CÔNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số chuyên ngành: 62 31 01 02
Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Thanh Tuyền
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Văn Luân
Phản biện 3: PGS.TS. Trần Thị Lan Hƣơng
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1: PGS.TS. NGUYỄN CHÍ HẢI
2: PGS.TS. NGUYỄN MINH TUẤN
Phản biện độc lập 1: PGS.TS. Trần Thị Lan Hƣơng
Phản biện độc lập 2: PGS.TS. Hồ Trọng Viện
TP. Hồ Chí Minh, năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận án là trung thực.
Những kết luận của luận án này chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào.
Nguyễn Nhật Hải
Nghiên cứu sinh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ......................................................................................... 1
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ........................................................ 4
2.1. Các công trình nghiên cứu ngoài nƣớc ............................................................... 4
2.2. Các công trình nghiên cứu trong nƣớc ................................................................ 7
3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ..................................................... 10
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ..................................................... 11
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................................ 12
6. ĐIỂM MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN .................................................. 16
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN ................................................................................... 16
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CHO
PHÁT TRIỂN SỰ NGHIỆP Y TẾ CÔNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG Ở VIỆT NAM ...................................................................................... 18
1.1. TÀI CHÍNH, TÀI CHÍNH CÔNG VÀ TÀI CHÍNH Y TẾ .............................. 18
1.1.1. Tài chính ......................................................................................................... 18
1.1.1.1. Khái niệm tài chính ...................................................................................... 18
1.1.1.2. Các chức năng của tài chính ......................................................................... 19
1.1.1.3. Vai trò của tài chính ..................................................................................... 21
1.1.1.4. Hệ thống tài chính ........................................................................................ 23
1.1.2. Tài chính công ................................................................................................. 24
1.1.2.1. Khái miệm tài chính công ............................................................................ 24
1.1.2.2. Chức năng của tài chính công ...................................................................... 25
1.1.2.3. Vai trò của tài chính công ............................................................................ 26
1.1.2.4. Hệ thống tài chính công ............................................................................... 26
1.1.3. Tài chính y tế ................................................................................................... 28
1.1.3.1. Khái niệm tài chính y tế ............................................................................... 28
1.1.3.2. Các chức năng của tài chính y tế .................................................................. 30
1.1.3.3. Vai trò của tài chính y tế .............................................................................. 32
1.1.3.4. Hệ thống và cơ chế tài chính y tế ................................................................. 33
1.1.4. Kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ............................................................ 36
1.1.5. Tính công bằng xã hội của tài chính y tế ........................................................ 41
1.2. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH Y TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở
VIỆT NAM ....................................................................................................... 44
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, mục tiêu của chính sách tài chính y tế ......................... 44
1.2.1.1. Khái niệm chính sách tài chính y tế ............................................................. 44
1.2.1.2. Đặc điểm của chính sách tài chính y tế ........................................................ 44
1.2.1.3. Mục tiêu của chính sách tài chính y tế ......................................................... 46
1.2.1.4. Những yếu tố cơ bản của chính sách tài chính y tế ...................................... 47
1.2.2. Nội dung của những chính sách tài chính y tế ................................................ 49
1.2.2.1. Nội dung của chính sách huy động các nguồn tài chính y tế ....................... 50
1.2.2.2. Nội dung của chính sách phƣơng thức chi trả dịch vụ y tế .......................... 52
1.2.2.3. Nội dung của chính sách chi công và chi tƣ trong tổng chi xã hội cho y tế 55
1.2.2.4. Nội dung của chính sách chi phí và giá thành các dịch vụ y tế ................... 56
1.3. KINH NGHIỆM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH Y TẾ CỦA CÁC
NƢỚC ............................................................................................................... 58
1.3.1. Kinh nghiệm của nhóm các nƣớc có nền kinh tế chuyển đổi ......................... 58
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Cộng Hòa Estonia ............................................................ 58
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Cộng Hòa Czech .............................................................. 60
1.3.2. Kinh nghiệm của nhóm nƣớc phát triển ở Tây Âu ......................................... 62
1.3.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc ............................................................................ 63
1.3.4. Kinh nghiệm của Thái Lan .............................................................................. 65
1.3.5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................................ 67
TÓM TẮT CHƢƠNG 1 ........................................................................................... 69
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CHO PHÁT
TRIỂN SỰ NGHIỆP Y TẾ CÔNG Ở VIỆT NAM ............................................. 70
2.1. HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Y TẾ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH Y TẾ70
2.1.1. Hệ thống tài chính y tế ở Việt Nam hiện nay .................................................. 70
2.1.2. Chính sách tài chính y tế ở Việt Nam hiện nay............................................... 71
2.1.2.1. Các chính sách liên quan ngân sách nhà nƣớc cho y tế ............................... 71
2.1.2.2. Chính sách bảo hiểm y tế ............................................................................. 76
2.1.2.3. Chính sách tài chính từ nƣớc ngoài .............................................................. 81
2.1.2.4. Chính sách chi tiêu trực tiếp từ tiền túi của hộ gia đình cho y tế ................. 82
2.1.2.5. Chính sách huy động nguồn lực tài chính của xã hội cho y tế và cơ chế tự
chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp y tế..................................................... 86
2.2. NHỮNG KẾT QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH Y TẾ CỦA VIỆT
NAM THỜI GIAN QUA .................................................................................. 92
2.2.1. Kết quả chi ngân sách nhà nƣớc cho sự nghiệp y tế ....................................... 92
2.2.1.1. Ngân sách nhà nƣớc cấp cho sự nghiệp y tế có xu hƣớng tăng ................... 92
2.2.1.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN chi cho sự nghiệp y tế .......................... 96
2.2.2. Về thực hiện chính sách bảo hiểm y tế ........................................................... 99
2.2.2.1. Về diện bao phủ của bảo hiểm y tế .............................................................. 99
2.2.2.2. Về mức phí đóng bảo hiểm y tế ................................................................. 102
2.2.2.3. Về cơ chế chia sẻ rủi ro và cung ứng dịch vụ cho ngƣời bệnh tham gia
BHYT ............................................................................................................... 103
2.2.2.4. Về phƣơng thức chi trả cho ngƣời bệnh tham gia BHYT .......................... 104
2.2.3. Thực trạng về viện trợ tài chính quốc tế cho y tế Việt Nam ......................... 105
2.2.4. Tình hình chi tiêu y tế từ tiền túi của hộ gia đình ......................................... 106
2.2.5. Thực trạng huy động nguồn lực tài chính của xã hội cho y tế ...................... 108
2.2.5.1. Huy động nguồn lực tài chính ở các cơ sở y tế công lập ........................... 108
2.2.5.2. Tình hình phát triển y tế tƣ nhân ................................................................ 113
2.2.6. Tình hình thực hiện chính sách tự chủ tài chính ........................................... 114
CHÍNH CHO SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN Y TẾ CÔNG Ở VIỆT NAM .......... 121
2.3. NHỮNG TỒN TẠI VÀ KHÓ KHĂN TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÀI
2.3.1. Những vấn đề bất cập trong thực hiện chính sách tài chính y tế từ ngân sách
Nhà nƣớc .......................................................................................................... 121
2.3.2. Những vấn đề tồn tại trong chính sách bảo hiểm y tế ................................... 124
2.3.3. Những khó khăn, thách thức và nguyên nhân tồn tại trong quản lý, sử dụng
viện trợ nƣớc ngoài cho y tế ............................................................................. 124
2.3.4. Những tồn tại và nguyên nhân tồn tại đối với chi phí y tế từ tiền túi của hộ gia
đình ................................................................................................................... 126
2.3.5. Khó khăn, thách thức và nguyên nhân tồn tại trong huy động nguồn lực tài
chính của xã hội cho y tế .................................................................................. 127
2.3.6. Những tồn tại và nguyên nhân tồn tại trong thực hiện chính sách tự chủ tài
chính y tế .......................................................................................................... 129
TÓM TẮT CHƢƠNG 2 ......................................................................................... 131
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH CHO PHÁT TRIỂN SỰ NGHIỆP Y TẾ CÔNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM ................................. 133
3.1. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG ....................................................................... 133
3.1.1. Căn cứ để xác định việc hoàn thiện chính sách tài chính y tế ....................... 133
3.1.1.1. Căn cứ vào yêu cầu phát triển của sự nghiệp y tế công trong nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng XHCN ............................................................................... 133
3.1.1.2. Căn cứ vào đánh giá thực trạng các chính sách tài chính cho sự nghiệp phát
triển y tế công ................................................................................................... 134
3.1.1.3. Căn cứ vào dự báo những thuận lợi và khó khăn trong chính sách tài chính
cho sự nghiệp phát triển y tế công ................................................................... 136
3.1.2. Quan điểm hoàn thiện chính sách tài chính y tế cho sự nghiệp phát triển y tế
công trong thời gian tới .................................................................................... 139
3.1.3. Các mục tiêu của sách tài chính cho sự nghiệp phát triển y tế công trong nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN .............................................................. 140
3.1.4. Hƣớng hoàn thiện chính sách tài chính y tế ở Việt Nam trong thời gian tới 142
3.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN
SỰ NGHIỆP Y TẾ CÔNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT
NAM................................................................................................................ 143
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với các cơ quan quản lý nhà nƣớc ................................ 143
3.2.2. Nhóm giải pháp cho tăng nguồn thu. ............................................................ 146
3.2.3. Nhóm giải pháp đổi mới phƣơng thức chi trả ............................................... 153
3.2.4. Nhóm giải pháp đổi mới cơ chế tài chính ..................................................... 155
3.2.5. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực ................................ 160
TÓM TẮT CHƢƠNG 3 ......................................................................................... 162
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 164
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHYT : Bảo hiểm y tế
BHXH : Bảo hiểm xã hội
CNH : Công nghiệp hóa
CNTB : Chủ nghĩa tƣ bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CSSK : Chăm sóc sức khỏe
DVYT : Dịch vụ y tế
ĐCSVN : Đảng Cộng Sản Việt Nam
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products)
HĐH : Hiện đại hóa
KCB : Khám chữa bệnh
NSNN : Ngân sách nhà nƣớc
ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance)
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
WHO : Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization)
YTDP : Y tế dự phòng
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH, SƠ ĐỒ
BẢNG
Bảng 1.1. Các chỉ số tài chính y tế của Cộng Hòa Estonia ....................................... 59
Bảng 1.2. Các chỉ số tài chính y tế của Cộng Hòa Czech ......................................... 60
Bảng 1.3. Các chỉ số tài chính y tế của Cộng Hòa Liên Bang Đức .......................... 62
Bảng 1.4. Các chỉ số tài chính y tế của Hàn Quốc .................................................... 63
Bảng 1.5. Các chỉ số tài chính y tế của Thái Lan ...................................................... 65
Bảng 2.1. Bảng tình hình chi NSNN cho y tế giai đoạn 2001- 2014 ........................ 92
Bảng 2.2. Số liệu NSNN cấp cho một số bệnh viện công giai đoạn 2005-2014 ...... 96
Bảng 2.3. Số ngƣời tham gia BHYT cả nƣớc, 2008- 2009 ..................................... 100
Bảng 2.4. Số ngƣời tham gia BHYT cả nƣớc, 2010- 2013 ..................................... 101
Bảng 2.5. Số thu BHYT giai đoạn 2010-2014 ........................................................ 102
Bảng 2.6. Mức đóng BHYT bình quân năm 2013 theo các nhóm đối tƣợng ......... 103
Bảng 2.7. Tổng kết thu– chi quỹ BHYT giai đoạn 2010 - 2014 ............................. 105
Bảng 2.8. Mức thu nhập và chi tiêu bình quân đầu ngƣời từ năm 2002-2014 ....... 107
Bảng 2.9. Mức chi cho y tế từ tiền túi của hộ gia đình trung bình/hộ/tháng
(theo giá hiện hành và giá so sánh năm 2014), 2002~2014 ........................... 107
Bảng 2.10. Thực trạng nghèo hóa do chi phí y tế tại Việt Nam 2002 – 2014 ........ 108
Bảng 2.11. Bảng tổng hợp kết quả liên doanh, liên kết năm 2011-2013 ................ 111
Bảng 2.12: Nguồn thu hoạt động dịch vụ theo yêu cầu tại một số bệnh viện công
giai đoạn 2005 -2014 ...................................................................................... 112
Bảng 2.13. Tổng hợp các nguồn thu viện phí và BHYT của các bệnh viện công
trong cả nƣớc giai đoạn 2001-2015 ................................................................ 117
Bảng 2.14 Nguồn thu viện phí và viện phí BHYT của một số bệnh viện công lập
giai đoạn 2005 – 2014 .................................................................................... 118
Bảng 2.15 Chi cho con ngƣời tại một số bệnh viện công lập giai đoạn
2005-2014 ....................................................................................................... 119
HÌNH
Hình 2.1. Tỷ lệ gia tăng thực tế chi NSNN chung và cho y tế giai đoạn
2010–2014 ........................................................................................................ 93
Hình 2.2. Tốc độ tăng chi NSNN cho y tế so với tốc độ tăng chi NSNN theo giá
so sánh giai đoạn 2004–2013 ........................................................................... 94
Hình 2.3. Tỷ trọng chi thƣờng xuyên cho y tế từ NSNN so với tổng chi thƣờng
xuyên NSNN và so với GDP từ năm 2008–2013............................................. 95
Hình 2.4. Các mục chi NSNN cho y tế năm 2013 .................................................... 97
Hình 2.5. Chi Ngân sách nhà nƣớc cho y tế bình quân đầu ngƣời giữa các vùng
kinh tế xã hội năm 2013, Chi NSNN cho y tế bình quân đầu ngƣời ................ 98
Hình 2.6. Cơ cấu chi phí y tế giai đoạn 2003 – 2013 ................................................ 99
Hình 2.7. Tỷ lệ ngƣời tham gia BHYT theo nhóm đối tƣợng năm 2013 ................ 100
Hình 2.8. Tỷ lệ các nguồn tại chính y tế tại Việt Nam giai đoạn 2002–2013 ......... 106
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Hệ thống tài chính .................................................................................... 23
Sơ đồ 1.2. Hệ thống tài chính công ........................................................................... 28
Sơ đồ 1.3. Hệ thống và cơ chế hoạt động của hệ thống tài chính y tế ...................... 35
Sơ đồ 1.4. Những yếu tố cơ bản quyết định tới chính sách tài chính y tế ................ 49
Sơ đồ 2.1. Hệ thống tài chính y tế ở Việt Nam ......................................................... 70
Sơ đồ 3.1. Chăm sóc sức khỏe toàn diện ................................................................ 141
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong cuộc sống của con ngƣời và xã hội loài ngƣời, việc chăm lo cho sức
khỏe của cá nhân và cộng đồng xã hội là vấn đề quyết định cho sự tồn vong của con
ngƣời trƣớc sự tác động của tự nhiên, của dịch bệnh. Xã hội loài ngƣời càng phát
triển, nền sản xuất xã hội càng phát triển, cá nhân và xã hội con ngƣời càng quan
tâm đến chăm sóc sức khỏe cho mình. Ngƣời ta ngày càng dành một phần lớn của
cải làm ra để chi trả cho việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của mình. Vì vậy, Chính
phủ các quốc gia trên thế giới đều có chính sách y tế nhằm chăm lo sức khỏe của
dân cƣ sống trên lãnh thổ quốc gia mình. Tùy vào từng quốc gia, chính sách y tế
cũng có khác nhau, có nƣớc đề ra chính sách y tế dựa trên ngân sách nhà nƣớc, toàn
bộ chi phí y tế đều do nhà nƣớc chi trả theo nguyên tắc “chữa bệnh không mất tiền”,
có nƣớc thực hiện chính sách y tế kết hợp ngân sách nhà nƣớc chi trả một phần,
phần còn lại do cá nhân ngƣời bệnh chi trả,….
Trong lịch sử, khi Việt Nam thực hiện chính sách kế hoạch hóa tập trung bao
cấp, chính sách y tế của Việt Nam là Nhà nƣớc đảm bảo chi trả toàn bộ chi phí
khám chữa bệnh cho ngƣời dân. Từ khi Việt Nam chuyển sang cơ chế kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa thì chính sách y tế của Việt Nam cũng có sự
thay đổi. Nhà nƣớc không còn bao cấp hoàn toàn trong chi trả cho khám chữa bệnh
của ngƣời dân mà chuyển sang cơ chế Nhà nƣớc và nhân dân cùng chi trả cho các
dịch vụ khám chữa bệnh. Dựa trên chính sách y tế mới, chính sách tài chính cho
phát triển sự nghiệp y tế ở Việt Nam cũng có sự thay đổi cho phù hợp.
Trong thực tế để thiết kế một chính sách tài chính y tế phù hợp với cơ chế
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa vô cùng khó khăn và phức tạp. Bởi
vì, xuất hiện hai quan điểm trái chiều: Một là, chúng ta quen với cơ chế bao cấp đã
lâu, khi không còn cơ chế bao cấp triệt để, chúng ta đã không nhanh chóng chuyển
đổi tƣ tƣởng và cách suy nghĩ về một cơ chế tài chính y tế thích hợp với cơ chế thị
2
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa; hai là, tồn tại quan điểm cho rằng sức khỏe
cũng là một loại hàng hóa nên khi chuyển đổi sang cơ chế thị trƣờng thì việc chăm
sóc sức khỏe cũng sẽ đƣợc điều tiết đơn thuần bởi thị trƣờng nhƣ các kiểu hàng hóa
khác.
Đứng trƣớc những thử thách này, Đảng ta đã luôn luôn chỉ đạo, xác định
những quan điểm về chiến lƣợc phát triển ngành y tế phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế - xã hội. Những nghị quyết và chỉ thị của Đảng đã trở thành kim chỉ
nam để hƣớng dẫn việc vận hành ngành y tế nƣớc ta hƣớng tới mục tiêu công bằng,
hiệu quả và phát triển. Vì vậy trong những năm qua, y tế Việt Nam đã đạt đƣợc
những thành quả nhất định trong đảm bảo khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho
ngƣời dân. Mạng lƣới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở ngày càng đƣợc củng cố và phát
triển; nhiều dịch bệnh nguy hiểm đƣợc khống chế và đẩy lùi; các dịch vụ y tế ngày
một đa dạng; nhiều công nghệ mới đƣợc nghiên cứu và ứng dụng, nhiều cơ sở khám
chữa bệnh, giảng dạy và nghiên cứu của ngành y tế đƣợc xây dựng mới, việc cung
ứng thuốc và trang thiết bị y tế kỹ thuật cao đã có nhiều tiến bộ vƣợt bậc. Luật Bảo
hiểm y tế ra đời và đã phát huy tác dụng tốt, độ bao phủ bảo hiểm y tế đã đạt
ngƣỡng 70% dân số (theo số liệu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tính đến tháng
6/2015). Ngƣời dân ở hầu hết các vùng, miền đã đƣợc chăm sóc sức khỏe tốt hơn,
phần lớn các chỉ tiêu tổng quát về sức khỏe của nƣớc ta đều vƣợt các nƣớc có cùng
mức thu nhập bình quân đầu ngƣời. Trình độ của các các y, bác sĩ ngày một nâng
cao. Đời sống của viên chức ngành y tế đƣợc cải thiện.
Mặc dù đạt đƣợc nhiều thành tựu, tuy nhiên ngành y tế hiện còn nhiều tồn
tại, khó khăn, thách thức nhƣ: (i) mô hình bệnh tật thay đổi theo hƣớng gia tăng
nhanh chóng gánh nặng các bệnh không lây nhiễm và tai nạn thƣơng tích, đan xen
với bệnh nhiễm trùng; tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, mang tính toàn cầu;
vấn đề kiểm soát yếu tố nguy cơ ảnh hƣởng đến sức khỏe còn gặp nhiều khó khăn
(nhƣ dịch bệnh nguy hiểm, ngộ độc thực phẩm, ô nhiễm môi trƣờng, tai nạn, tệ nạn
xã hội...), trong khi khả năng đáp ứng về dịch vụ y tế còn hạn chế, đặc biệt là ở y tế
cơ sở; (ii) chênh lệch về chỉ số sức khỏe giữa các vùng ngày càng cao; (iii) tình
3
trạng sức khoẻ của nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa tuy đã có cải thiện, nhƣng
tiến bộ chậm hơn so với mức chung của cả nƣớc; (iv) hệ thống y tế cơ sở vẫn bộc lộ
nhiều điểm bất cập; (v) chất lƣợng nguồn nhân lực y tế cơ sở ở nhiều nơi chƣa đáp
ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân, việc thu hút các cán bộ y
tế có trình độ chuyên môn giỏi về công tác tại tuyến cơ sở còn gặp khó khăn do
chính sách đãi ngộ chƣa thỏa đáng; đầu tƣ cho y tế cơ sở cả về cơ sở hạ tầng và
trang thiết bị chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu,....
Bên cạnh đó, những vấn đề do mặt trái của cơ chế thị trƣờng mang lại đã gây
một sức ép mới với ngành y tế. Trong một thời gian dài chúng ta tập trung thực hiện
nhiệm vụ chính là tăng trƣởng kinh tế, coi nhẹ công tác phát triển y tế, chăm sóc sức
khỏe ngƣời dân. Sự phân hóa giàu nghèo trƣớc đây không có, nay đã xuất hiện gây
khó khăn trong việc thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe. Ngƣời có tiền do
có khả năng chi trả nên yêu cầu chăm sóc sức khỏe ngày một cao hơn, ngƣời nghèo
không có tiền để chi trả, nhƣng họ lại là những đối tƣợng hay ốm đau nên nhu cầu
chăm sóc sức khỏe của họ rất lớn. Vì vậy, cần phải có các giải pháp đột phá, khả thi
và hiệu quả cho việc xây dựng ngành y tế về các mặt: nhân lực, cơ sở hạ tầng, cơ
chế tài chính, chính sách thu hút và đãi ngộ cán bộ nhằm đẩy mạnh việc chăm sóc
sức khỏe ban đầu, hƣớng tới bao phủ bảo hiểm y tế (BHYT) toàn dân, tiến tới xây
dựng một nền y tế công bằng, hiệu quả và phát triển.
Một thực tế khác là theo tiêu chuẩn quốc tế thì Việt Nam là nƣớc có tỉ lệ chi
tiêu y tế hộ gia đình rất cao - chi phí bằng tiền túi cho y tế của phần lớn các hộ gia
đình đều vƣợt quá tỉ lệ hợp lý so với thu nhập của họ. Điều này phản ánh hai thực
tế: Một mặt, ngƣời dân Việt Nam đang cần đƣợc chăm sóc y tế; mặt khác, hệ thống
bảo hiểm y tế xã hội chƣa đƣợc bao phủ toàn dân. Mục tiêu và cũng là thách thức
của Việt Nam là phải thực hiện bảo BHYT toàn dân, cải cách các yếu tố của hệ
thống tài chính và cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh để ngƣời dân đƣợc chăm sóc
sức khỏe (CSSK) kịp thời và ngƣời cung cấp dịch vụ đƣợc khuyến khích điều trị
bệnh theo hƣớng chi phí hợp lý và hiệu quả.
4
Trong quá trình thực hiện cơ chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa (XHCN), ngành y tế còn chậm đổi mới, còn lúng túng cả về nhận thức và xây
dựng cơ chế hoạt động, đặc biệt là cơ chế tài chính, nên chƣa phát huy tính chủ
động, sáng tạo của các đơn vị y tế cũng nhƣ của cán bộ y tế, chƣa huy động đầy đủ
nguồn lực xã hội để vừa thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, công bằng
trong CSSK, vừa bảo đảm yêu cầu phát triển hệ thống y tế trong nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng XHCN.
Để có cơ sở cho việc hoạch định chính sách tài chính y tế phù hợp với nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta, tôi chọn đề tài: “Chính
sách tài chính cho phát triển sự nghiệp y tế công trong nền kinh tế thị trƣờng ở
Việt Nam” để làm luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều công trình đã nghiên cứu về chính
sách tài chính quốc gia, tác động của chính sách tài chính quốc gia đến nền kinh tế,
tăng trƣởng và giải quyết việc làm của quốc gia. Đồng thời cũng có nhiều công trình
nghiên cứu chính sách tài chính cho các lĩnh vực hoạt động cụ thể trong nền kinh tế
nhƣ chính sách tài chính cho thị trƣờng bất động sản, chính sách tài chính cho phát
triển công nghiệp, nông nghiệp, chính sách tài chính thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài,
chính sách tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách tài chính cho sự
nghiệp giáo dục - đào tạo, cho phát triển sự nghiệp y tế, ….
Tuy nhiên các tài liệu viết về chính sách tài chính y tế thì không nhiều, một
số giáo trình mà tác giả đã đƣợc tham khảo nhƣ sau:
2.1. Các công trình nghiên cứu ngoài nƣớc
"Healthcare financing for Việt Nam" (2003) của tác giả Jordan. D. Ryan. Tác
giả cho rằng Việt nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề quan trọng trong công tác
y tế. Một thách thức lớn là làm thế nào để bảo vệ các thành quả đạt đƣợc trong quá
khứ, trong khi phải điều chỉnh để thích nghi với thực tế mới. Các vấn đề cần giải
quyết gồm: Chất lƣợng dịch vụ, phát triển nguồn nhân lực, đầu tƣ của Chính phủ
5
còn thấp cho y tế, vai trò của Nhà nƣớc trong điều hành và giám sát y tế công, tƣ,...
bằng chứng thực tiễn chỉ ra rằng trong bối cảnh này các quyết định của Nhà nƣớc về
chiến lƣợc tài chính cho y tế có những ảnh hƣởng quan trọng đến khả năng tiếp cận
các dịch vụ y tế và sức khỏe của ngƣời dân. Tài liệu đóng góp những giải pháp
chung cho tài chính y tế hiện tại và trong tƣơng lai. Hiện tại các chính sách tài chính
y tế ở Việt Nam đã làm tăng sự bất bình đẳng, trong khả năng tiếp cận các dịch vụ
khám chữa bệnh và sự chênh lệch về sức khỏe là nguyên nhân khiến nhiều ngƣời tái
nghèo. Để Việt Nam đạt đƣợc một ngành y tế có hiệu quả và công bằng, thì tài
chính y tế phải là một nội dung chính và khẩn cấp trong chƣơng trình cải cách về
chính sách y tế.
“Health Financing Revisited”, Ngân hàng Thế Giới (2006). Trong tác phẩm
này tập trung nghiên cứu về tài chính tế là một chức năng của hệ thống y tế có liên
quan đến việc huy động, tập hợp và phân bổ các nguồn tài chính để chi trả cho nhu
cầu về chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Mục tiêu của việc cung cấp tài chính cho y
tế là bảo đảm nguồn vốn cho phát triển sự nghiệp y tế, cũng nhƣ khuyến khích cho
cơ sở cung ứng dịch vụ tạo nguồn thu một cách hợp lý và bảo đảm cho mọi ngƣời
dân đƣợc tiếp cận các dịch vụ y tế công cộng và chăm sóc sức khoẻ cá nhân có hiệu
quả.
“Strategy on Health Care Financing for Countries of the Western Pacific and
South-East Asia Regions 2006–2010”, Tổ chức Y tế thế giới (2005). Tổ chức Y tế
Thế giới đã nghiên cứu về chiến lƣợc tài chính y tế cho khu vực Đông Nam Á và
Tây Thái Bình Dƣơng trong đó phân tích các thách thức mà các nƣớc trong khu vực
đang gặp phải nhƣ khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nguồn lực ngày càng khan hiếm.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đề xuất một khung chính sách chiến lƣợc, trong đó
nêu rõ các vấn đề nhƣ: Tăng đầu tƣ và chi tiêu công cho y tế; phát triển hệ thống
CSSK toàn dân và mạng lƣới an sinh xã hội đặc biệt cho ngƣời nghèo và ngƣời dễ
bị tổn thƣơng; phát triển cơ chế chi trả trƣớc thông qua BHYT toàn dân; tăng cƣờng
quản lý và can thiệp theo chức năng; hoàn thiện việc xây dựng và thực hiện các
chính sách tài chính y tế.
6
"Health financing a basic guide" (2006), Tổ chức Y tế thế giới. Tài liệu định
hƣớng cho Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia, nên đầu
tƣ cho cải thiện sức khỏe là rất cần thiết, vì đầu tƣ cho sức khỏe là đầu tƣ cho phát
triển. Mọi ngƣời dân đều khỏe mạnh tạo ra tăng trƣởng đáng kể cho tăng trƣởng
kinh tế. Tuy nhiên các nhà làm chính sách sẽ luôn phải đối mặt với thực tế khắc
nghiệt, là nhu cầu về chăm sóc sức khỏe của con ngƣời gần nhƣ không có giới hạn
và vẫn đang phát triển, trong khi nguồn lực hữu hạn ở mọi quốc gia ngày càng thu
hẹp. Vì vậy khi hoạch định chính sách tài chính cho y tế cần phải trả lời đƣợc các
câu hỏi: Can thiệp của Chính phủ nhƣ thế nào để giải quyết mâu thuẫn trên là tốt
nhất; Can thiệp có tính bền vững về tài chính hay không; Đó có phải là biện pháp
tốt nhất để đáp ứng các mục tiêu chính sách y tế; Cộng đồng ngƣời nghèo sẽ nhận
đƣợc gì từ các chính sách can thiệp của Chính phủ,.... Tài liệu cũng đƣa ra các chỉ
số y tế cơ bản, qua đó có thể đánh giá hiệu quả của các chính sách tài chính y tế của
các nƣớc theo tiêu chuẩn của WHO.
“Health financing policy: A guide for decision makers” (2008), tác giả
Joseph Kutzin, trong tài liệu tác phân tích các chính sách tài chính từ ba khía cạnh:
Một là, đƣa ra các chuẩn mực, mục tiêu của Tổ chức Y tế thế giới về hệ thống tài
chính y tế cho các nƣớc; Hai là, đƣa ra khung khái niệm để phân tích, mô tả, đánh
giá chức năng của chính sách tài chính liên quan đến hệ thống y tế quốc gia; Ba là,
nêu lên các hạn chế về tài chính mà các quốc gia phải đối mặt và sự lựa chọn chính
sách tài chính phù hợp với điều kiện của từng quốc gia, nhằm đảm bảo cho ngƣời
dân có thể tiếp cận với các dịch vụ y tế một cách hiệu quả nhất.
“Health financing strategy for the Asia Pacific region 2010-2015” (2009), Tổ
chức Y tế Thế Giới. Trong tác phẩm này Tổ chức Y tế thế giới y tế đã đƣa ra chiến
lƣợc tài chính y tế cho 37 quốc gia khu vực Tây Thái Bình Dƣơng và 11 quốc gia
Đông Nam Á giai đoạn 2010-2015. Các quốc gia trong khu vực phải đối mặt với
suy thoái kinh tế toàn cầu, đặt ra những thách thức cũng nhƣ cơ hội để cải thiện hệ
thống y tế. Suy thoái kinh tế nảy sinh nhiều khó khăn đè nặng lên ngân sách Nhà
nƣớc cho công tác CSSK. Mức độ chi tiêu tiền túi cho y tế ở khu vực này cao hơn
7
nhiều so với các khu vực khác trên thế giới. WHO khuyến khích Chính phủ các
nƣớc đƣa ra chiến lƣợc tăng cƣờng đầu tƣ và chi tiêu công cho y tế, đồng thời có
hành động để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính công, dựa trên nguyên
tắc và các giá trị của việc CSSK ban đầu. “Chiến lƣợc tài chính cho khu vực Châu
Á Thái Bình Dƣơng 2010-2015” giúp cho Chính phủ các nƣớc trong khu vực phân
tích tình huống tài chính y tế của mình và xác định cụ thể hành động để đạt đƣợc
phổ cập trong CSSK ban đầu cho ngƣời dân với các chỉ tiêu cụ thể: Nguồn tài chính
công phải đạt 5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP); chi tiêu từ tiền túi không đƣợc
vƣợt 30 - 40% tổng chi phí cho y tế, BHYT phải bao phủ 90% dân số; hỗ trợ 100%
ngƣời nghèo, ngƣời dễ bị tổn thƣơng đƣợc Chính phủ mua cho thẻ BHYT. Để đạt
đƣợc các mục tiêu đã nêu, ngành y tế phải xây dựng đồng bộ 8 chiến lƣợc gồm: (i)
tăng cƣờng đầu tƣ công cho y tế; (ii) tăng cƣờng sử dụng hiệu quả các nguồn viện
trợ cho y tế; (iii) hợp lý hóa các chi phí cho y tế; (iv) tiến tới BHYT toàn dân; (v)
cải thiện phƣơng thức thanh toán cho các cơ sở cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh
(KCB); (vi) tăng cơ chế an sinh xã hội cho ngƣời nghèo, ngƣời dễ tổn thƣơng; (vii)
cải thiện các thông tin và bằng chứng khi xây hoạch định chính sách và (viii) cải
thiện việc giám sát và đánh giá các thay đổi của chính sách.
“Health Financing and Delivery in Vietnam”, (2008). Ngân hàng thế giới
nghiên cứu về tài chính y tế Việt Nam, trong đó đã đánh giá thực trạng, những vấn
đề bất cập về các chính sách tài chính y tế ở Việt Nam nhƣ tỷ lệ ngƣời dân tham gia
BHYT còn thấp, tỷ lệ chi tiêu tiền túi cho y tế chiếm hơn 50% tổng chi tiêu cho y tế,
đồng thời đề xuất các giải pháp ngắn hạn và trung hạn về một số chính sách tài
chính y tế của Việt Nam nhằm bảo đảm công bằng về đóng góp tài chính y tế từ các
góc độ khác nhau nhƣ: Bảo đảm tính bền vững trong cung cấp tài chính cho y tế,
thực hiện Bảo hiểm y tế toàn dân.
2.2. Các công trình nghiên cứu trong nƣớc
“Kinh tế y tế” (2001), Phạm Huy Dũng,Trƣơng Việt Dũng chủ biên, Nhà
xuất bản Y học. Trong tác phẩm có nhiều bài liên quan đến các khái niệm, cơ cấu,
mục tiêu của các nguồn thu, chi của tài chính y tế. Các tác giả nêu phƣơng pháp
8
phân tích các chỉ tiêu tài chính, đánh giá tài chính y tế trên cơ sở lý thuyết cũng nhƣ
thực tiễn. Trình bày kinh nghiệm của các nƣớc đang phát triển và rút ra bài học kinh
nghiệm cho tài chính y tế Việt Nam. Đặc biệt có bài "Bảo hiểm y tế" của Vũ Xuân
Phú, tác giả cho rằng BHYT dựa trên những nguyên lý chung về tập hợp và chia sẻ
nguy cơ, rủi ro về sức khỏe và bệnh tật. Hệ thống BHYT chi trả cho các dịch vụ y tế
đƣợc bảo hiểm bằng các nguồn thu của Quỹ bảo hiểm. Cơ sở phổ biến nhất của
đóng phí bảo hiểm của một khách hàng là cả từ phía chủ lao động và ngƣời lao
động, phụ thuộc vào khả năng mua, tiếp cận dịch vụ và nhu cầu sử dụng. Ngƣời
tham gia BHYT đóng góp một mức phí từ trƣớc khi đau ốm và sẽ đƣợc hƣởng các
quyền lợi về chăm sóc y tế khi đến cơ sở KCB. Trong quá trình phát triển BHYT đã
trở thành một trong những phƣơng thức đảm bảo tài chính có nhiều ƣu điểm trong
lĩnh vực y tế.
"Bài giảng quản lý và chính sách y tế” (2002), tác giả Trƣơng Việt Dũng,
Nguyễn Duy Luật chủ biên, Nhà xuất bản Y học Hà Nội. Trong tác phẩm này có
nhiều bài viết của các tác giả khác nhau, mỗi bài đều là cơ sở lý thuyết giúp cho
ngƣời đọc nắm vững nội dung, phƣơng pháp quản lý y tế; phƣơng pháp hoạch định,
xây dựng các chính sách y tế; phƣơng pháp nghiên cứu, đánh giá, điều chỉnh và
theo dõi, giám sát các chính sách y tế. Theo nhóm tác giả, nhiệm vụ của phân tích
chính sách là cung cấp thông tin để cho thấy một số hoạt động thực thi chính sách
nhƣ đã đề ra có phù hợp hay không, có đƣợc chấp nhận hay không. Phân tích chính
sách phải dự báo đƣợc liệu chính sách có thể sẽ gặp phải phản ứng ở đâu, ai sẽ đƣợc
lợi và ai không đƣợc lợi và phản ứng của nhóm không đƣợc hƣởng lợi sẽ ra sao,....
Phân tích chính sách y tế cần thiết phải đề cập tới những vấn đề liên quan tới việc ra
quyết định cũng nhƣ sự phối hợp lồng ghép của các Bộ, Ngành, trong đó Bộ Y tế
giữ vai trò chủ đạo nhằm đạt đƣợc mục tiêu của việc CSSK nhân dân.
“Kinh tế y tế và bảo hiểm y tế” (2007) của tác giả Nguyễn Thị Kim Chúc chủ
biên, Nhà xuất bản Y Học, Hà Nội. Trong tác phẩm này tác giả đi sâu về lý thuyết
kinh tế y tế, đồng thời cũng nêu khái niệm, phân tích tài chính y tế dƣới góc độ lý
thuyết và trình bày các mô hình tài chính y tế cơ bản trên thế giới. Theo quan điểm
9
của tác giả, Chính phủ đƣa ra các chính sách tăng đầu tƣ và tăng trƣởng kinh tế thì
luôn phải quan tâm đến những thách thức cơ bản là: Làm sao để các khu vực, các
tỉnh, các tầng lớp dân cƣ, các dân tộc ít ngƣời đều có cơ hội tham gia và hƣởng lợi
từ tiến trình phát triển, để đất nƣớc đạt đƣợc sự công bằng cao trong CSSK và phát
triển con ngƣời. Bên cạnh sự cải cách kinh tế vĩ mô phù hợp, cần phải có một công
cuộc cải cách hành chính Nhà nƣớc, trong đó vấn đề nổi cộm là chi trả cho các dịch
vụ công. Lƣơng cho ngƣời cung cấp dịch vụ công còn quá thấp so với chi tiêu trung
bình hàng tháng của hộ gia đình, dẫn đến việc cung cấp dịch vụ chất lƣợng kém,
nhiều hiện tƣợng tiêu cực là điều không thể tránh khỏi. Hơn thế cũng cần phải có
pháp luật Nhà nƣớc, cải thiện các biện pháp bảo trợ xã hội và tăng cƣờng sự tham
gia của các tầng lớp xã hội.
"Tài chính y tế: một trong những yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo một nền
y tế mang tính chất công bằng, góp phần an sinh xã hội", tác giả Phạm Mạnh Hùng,
(2010), tác giả viết: "Tài chính y tế là một yếu tố quan trọng để đảm bảo tính công
bằng trong CSSK và đảm bảo an sinh xã hội. Cách huy động các nguồn tài chính và
cách phân bổ tài chính sẽ quyết định việc có giúp ngƣời dân, nhất là ngƣời nghèo
vƣợt qua những khó khăn và rủi ro do chi phí dành cho CSSK gây ra hay không.
Nói một cách khác là việc xác định đƣợc cơ chế tài chính đúng sẽ làm giảm nguyên
nhân gây ra nghèo đói do chi phí dành cho CSSK gây ra và thông qua đó mà ảnh
hƣởng rất lớn đến việc xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội". Tác giả cũng khẳng
định rằng nguồn ngân sách nhà nƣớc (NSNN) thông qua thuế có tính ƣu việt nhất
trong các nguồn ngân sách cho y tế. NSNN là giải pháp tốt nhất trong việc chia sẻ
những khó khăn về tài chính để chăm sóc sức khỏe giữa ngƣời giàu với ngƣời
nghèo, giữa vùng giàu với vùng nghèo, giữa ngƣời đang độ tuổi lao động với trẻ em
và ngƣời già, giữa ngƣời khỏe với ngƣời rủi ro về sức khỏe.
“Đổi mới cơ chế tài chính y tế - Thực trạng và giải pháp”, kỷ yếu hội thảo
khoa học kinh tế y tế lần thứ nhất (12/2010), Hà Nội. Trong tác phẩm này có nhiều
bài viết của các tác giả tập trung vào chủ đề đổi mới cơ chế tài chính y tế ở Việt
Nam, đặc biệt là bài của tác giả Phạm Lê Tuấn với tiêu đề "Tài chính bệnh viện Việt
10
Nam và những vấn đề cần quan tâm", tác giả đã nêu rõ việc xem xét và giải quyết
những vấn đề cần quan tâm trong quá trình đổi mới cơ chế tài chính bệnh viện, theo
chủ trƣơng "xã hội hóa" và "tự chủ". Cần đánh giá toàn diện tình hình của các bệnh
viện công lập, đặc biệt là các hoạt động liên doanh, liên kết, trên cơ sở đó xác định
chủ trƣơng đổi mới toàn diện cơ chế hoạt động của các bệnh viện công lập, đổi mới
quản lý vĩ mô khu vực công và đổi mới vai trò và trách nhiệm của cơ quan BHYT.
Bảo đảm tính thống nhất và gắn kết các tuyến cung ứng dịch vụ y tế, nâng cao chất
lƣợng, hiệu quả các dịch vụ; gắn kết khám chữa bệnh với phòng bệnh và các hoạt
động nâng cao sức khỏe cộng đồng. Nghiên cứu đánh giá các cơ chế khuyến khích
cán bộ, nhân viên các bệnh viện công lập và đề xuất các giải pháp toàn diện tạo
động lực làm việc cho họ, trong đó đề cao giá trị tinh thần vào đạo đức của ngƣời
thầy thuốc, đi đôi với việc tăng cƣờng giám định chất lƣợng và xử lý thích đáng
những vi phạm về tiêu chuẩn chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp. Xây dựng hệ
thống thông tin, giám sát, đánh giá hoạt động của bệnh viện, bảo đảm tính công
khai, minh bạch và sự chỉ đạo, định hƣớng và kiểm soát của Bộ Y tế.
Các nghiên cứu nêu trên đã cung cấp nhiều thông tin và bằng chứng hữu ích
cho việc hoạch định chính sách tài chính y tế, tập trung vào một số lĩnh vực cụ thể
của tài chính y tế nhƣ viện phí, bảo hiểm y tế, cơ chế tài chính bệnh viện, cơ chế chi
trả, đồng thời đề xuất và đƣa ra các giải pháp cho tài chính y tế là huy động nguồn
lực, điều phối nguồn lực và chi trả dịch vụ. Các công trình trên chƣa nghiên cứu
một cách hệ thống về chính sách tài chính y tế và tính tất yếu phải thực hiện chính
sách tài chính y tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc với điều
kiện vừa đảm bảo tính công bằng trong tiếp cận các dịch vụ y tế của các tầng lớp
dân cƣ, vừa đảm bảo các yếu tố thị trƣờng định hƣớng XHCN trong thực hiện các
dịch vụ y tế, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế.
3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của luận án là nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận về tài
chính, tài chính công, tài chính y tế, chính sách tài chính y tế. Phân tích thực trạng
các chính sách tài chính y tế ở Việt Nam. Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới,
11
hoàn thiện chính sách tài chính cho phát triển sự nghiệp y tế công trong nền kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Để đạt đƣợc mục tiêu trên luận án đề ra các
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Thứ nhất, Hệ thống hóa cơ sở lý luận của tài chính, tài chính công, tài chính
y tế và chính sách tài chính y tế.
Thứ hai, Luận giải các chính sách tài chính cho phát triển sự nghiệp y tế
công tại Việt Nam.
Thứ ba, Phân tích thực trạng các chính sách tài chính cho phát triển sự
nghiệp y tế công hiện nay.
Thứ tư, Xác định các căn cứ, quan điểm, từ đó đề xuất giải pháp nhằm đổi
mới, hoàn thiện chính sách tài chính cho phát triển sự nghiêp y tế công trong nền
kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta.
Với các nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, luận án sẽ tập trung vào trả lời các
câu hỏi sau:
Các chính sách tài chính y tế hiện nay có điểm nào còn hạn chế, chƣa phù
hợp với mục đích của ngành là cung cấp dịch vụ y tế chất lƣợng cao với chi phí
thấp?
Thực trạng các chính sách tài chính y tế hiện nay ở nƣớc ta nhƣ thế nào?
Các giải pháp nhằm đổi mới, hoàn thiện việc xây dựng chính sách tài chính y
tế đảm bảo công bằng - hiệu quả - phát triển trong công tác CSSK nhân dân?
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là các chính sách tài chính cho sự nghiệp
phát triển y tế công ở Việt Nam.
Các chính sách tài chính cho phát triển sự nghiệp y tế công liên quan đến
nhiều lĩnh vực nhƣ: Khám chữa bệnh; y tế dự phòng; sản xuất kinh doanh thuốc,
hóa chất, trang thiết bị y tế; y tế trong các lực lƣợng vũ trang; y tế biển đảo; y tế an
sinh xã hội, …. Trong phạm vi không gian của luận án, tác giả chỉ trình bày đến các
chính sách tài chính trong lĩnh vực khám chữa bệnh, và nhấn mạnh đến tình hình
12
thu - chi ở một số bệnh viện công lập. Phạm vi thời gian của luận án là từ khi Việt
Nam chuyển đổi mô hình từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng XHCN. Đặc biệt là giai đoạn đổi mới cơ chế quản lý tài chính, giao quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Số liệu đƣợc sử dụng để phân tích trong
luận án là nguồn số liệu thu thập ở một số bệnh viện công lập, niên giám thống kê y
tế, tài khoản y tế quốc gia và các báo cáo tài chính của Bộ Y tế, Bộ Tài chính trong
10 năm gần đây.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận án đƣợc nghiên cứu dựa trên những nguyên lý của khoa học kinh tế
chính trị Mác - Lê nin, có tham khảo một số lý thuyết của kinh tế học, kinh tế phát
triển, tài chính học, dựa trên những quan điểm và đƣờng lối mới trong các văn kiện
của các Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), các nghị quyết của Đảng, các
nghị định của Chính phủ, các thông tƣ của Bộ Tài chính, Bộ Y tế liên quan đến đề
tài, có tham khảo một số kinh nghiệm về chính sách tài chính y tế của một số nƣớc
trên thế giới.
Luận án thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị, nên tác giả sử dụng phƣơng
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phƣơng pháp chung của mọi
ngành khoa học, để làm rõ nội dung và các yêu cầu của chính sách tài chính cho sự
nghiệp phát triển y tế công trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam.
Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử, tác giả coi chính sách tài chính cho sự
nghiệp phát triển y tế là sự phát triển tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trƣờng
và ở Việt Nam là nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, có sự điều tiết của Nhà
nƣớc. Chính sách tài chính cho sự nghiệp phát triển y tế công tùy thuộc nhiều vào
sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, sự hoàn thiện của quan hệ sản xuất tƣơng ứng
và vai trò của Nhà nƣớc thông qua bản chất và các chính sách pháp luật cụ thể trong
lĩnh vực y tế công. Do đó chính sách tài chính cho sự nghiệp phát triển y tế công
không phải là do ý chí chủ quan, tâm lý, đạo đức, lƣơng tâm mà có thể quyết định
đƣợc.
13
Luận án chú trọng vào các mối liên hệ nội tại tác động qua lại lẫn nhau giữa
các chính sách tài chính cho sự nghiệp y tế công; vai trò quản lý điều tiết tài chính
của Nhà nƣớc, chính sách tài khóa, chính sách giá, sự phát triển của lực lƣợng sản
xuất, quan hệ sản xuất tƣơng ứng trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN.
Chính sách tài chính cho sự nghiệp phát triển y tế công tùy thuộc vào từng
giai đoạn, từng thời kỳ của sự vận động phát triển của kinh tế xã hội, đó là vấn đề
có tính quy luật. Phép biện chứng duy vật thể hiện ở các nguyên lý, các quy luật cơ
bản, quy luật không cơ bản, các cặp phạm trù,....Vận dụng quy luật mâu thuẫn vào
phân tích và trình bày nội dung của đề tài. Chính sách tài chính cho phát triển sự
nghiệp y tế công có nhiều mâu thuẫn, do quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội (CNXH) ở
Việt nam là quá độ gián tiếp, chƣa có nền tảng vật chất do Chủ nghĩa Tƣ Bản
(CNTB) để lại; từ sản xuất nhỏ đi lên nên có nhiều hệ quả để lại, nhất là tƣ duy còn
nặng về bao cấp một phần giá viện phí nên gặp nhiều khó khăn khi xây dựng chính
sách tài chính y tế cho sự nghiệp phát triển y tế công trong nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng XHCN. Vì vậy cần phải huy động toàn dân tham gia, tức là phải xã hội
hóa chính sách tài chính y tế mới có thể giải quyết đƣợc mâu thuẫn lớn này, đồng
thời phải cấu trúc lại hệ thống y tế công. Thông qua các phƣơng pháp nghiên cứu để
xem xét vấn đề quản lý và sử dụng nguồn tài chính y tế công có hiệu quả đến đâu?
Những hạn chế cần khắc phục và giải quyết cho chính sách tài chính công từng
bƣớc đƣợc hoàn thiện, phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển bền vững.
Phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học, là phƣơng pháp đặc trƣng cơ bản
nhất của kinh tế chính trị, thông qua phƣơng pháp này vạch rõ bản chất của đối
tƣợng nghiên cứu: Chính sách tài chính cho sự nghiệp phát triển y tế công trong nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN. Bản chất của nó là vai trò, trách nhiệm, hiệu
quả của quản lý nhà nƣớc trong chính sách tài chính nói chung và chính sách tài
chính cho sự nghiệp phát triển y tế công nói riêng. Việc nhận thức và vận dụng
chính sách tài chính y tế phải gắn liền với chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ,
chính sách giá, … với kế hoạch phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
14
Xem xét các yếu tố ảnh hƣởng trực tiếp, gián tiếp đến chính sách tài chính cho sự
nghiệp phát triển y tế công, thực hiện chính sách tài chính y tế thế nào để góp phần
giải phóng các nguồn lực trực tiếp, nhất là đến sức khỏe con ngƣời, nguồn lực quý
nhất, quyết định nhất trong mọi vấn đề là nguồn nhân lực.
Trừu tƣợng hóa khoa học, quan trọng nhất là điểm xuất phát. Điểm xuất phát
của đề tài chính là vai trò của nhà nƣớc trong việc ra và thực hiện chính sách tài
chính một cách có hiệu quả nhất, phù hợp với từng giai đoạn, góp phần xây dựng
đất nƣớc ta trở thành một nƣớc dân chủ và giàu mạnh. Từ vai trò quản lý, điều tiết
của nhà nƣớc đối với chính sách tài chính y tế, việc xã hội hóa trong chính sách tài
chính là tất yếu. Do vậy phải cấu trúc lại tài chính y tế bao gồm khâu nào, lĩnh vực
nào. Nhà nƣớc không thể bao cấp chung chính sách tài chính y tế nhƣ trƣớc đây, khi
mà nguồn lực chƣa đủ đáp ứng. Mặt khác cũng không thể thị trƣờng hóa trong lĩnh
vực chính sách tài chính y tế, bởi chúng ta quá độ gián tiếp lên CNXH, đi lên từ sản
xuất nhỏ, nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, một bộ phận dân cƣ không nhỏ, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa, vùng kháng chiến cũ đời sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Với nguồn lực hạn chế, việc quản lý, sử dụng tài chính cho y tế, phải bảo đảm hiệu
quả kinh tế - xã hội cao nhất trong chừng mực có thể cho phép. Làm sao cho các
lĩnh vực y tế giữ đƣợc vai trò chủ đạo, chi phối đƣợc những khâu quan trọng, then
chốt trong ngành y tế nói chung.
Phƣơng pháp phân tích logic kết hợp với lịch sử: Lịch sử bắt đầu từ đâu,
logic bắt đầu từ đó. Lịch sử vận động, phát triển không phải theo đƣờng thẳng, có
thể là quá trình tịnh tiến, nhảy vọt hoặc quanh co khúc khuỷu, việc vận dụng
phƣơng pháp logic là tất yếu.Từ những quanh co khúc khuỷu của lịch sử, của thực
tế, phƣơng pháp logic tìm ra những điểm chung xuyên suốt trong sự vận động phát
triển của sự vật. Kinh tế thị trƣờng có những ƣu thế, nhƣng cũng có những khuyết
tật. Để phát huy ƣu thế đã có, tạo những yếu tố góp phần hạn chế những khuyết tật,
đòi hỏi phải có sự quản lý, điều tiết của nhà nƣớc hết sức linh hoạt, mềm dẻo cho
phù hợp từng giai đoạn, từng thời kỳ, từng lĩnh vực. Bên cạnh sự ổn định, trong
những bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh khác nhau, chính sách tài chính y tế cũng đƣợc
15
vận dụng tƣơng thích, vừa góp phần đáp ứng đƣợc yêu cầu CSSK của nguồn nhân
lực, vừa tạo môi trƣờng thuận lợi thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh của các cơ sở y
tế trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN. Khuyến khích mặt tích cực, nâng
cao chất lƣợng y tế phục vụ nhân dân, hạn chế những mặt yếu kém, tiêu cực trong
mọi hoạt động của ngành y tế, từ chủ thể quản lý đến đối tƣợng quản ở các lĩnh vực.
Do vậy, chính sách tài chính cho sự nghiệp y tế phải đáp ứng đƣợc yêu cầu khách
quan đặt ra hiện nay.
Phƣơng pháp khoa học tiếp cận liên ngành, một đối tƣợng ngày nay do nhiều
ngành khoa học khác nhau nghiên cứu, việc đó tùy thuộc vào sự tiếp cận và phƣơng
pháp nghiên cứu để khẳng định thuộc chuyên ngành nào. Mặt khác giữa các ngành
có tác động liên quan chặt chẽ với nhau. Việc tiếp cận liên ngành do vậy là tất yếu.
Đề tài: "Chính sách tài chính cho sự nghiệp phát triển y tế công trong nền kinh tế thị
trƣờng ở Việt Nam" đƣợc xem xét, phân tích dƣớc góc độ chuyên ngành kinh tế
chính trị. Đồng thời cũng đƣợc vận dụng chuyên ngành tài chính và các chuyên
ngành khoa học khác để phân tích về mặt vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, cơ
chế,... nhƣng không đi sâu vào nội dung cụ thể trong hoạt động của lĩnh vực tài
chính cũng nhƣ các ngành khoa học khác. Nếu có đề cập đến nội dung cũng chỉ
nhằm làm nổi bật của chuyên ngành kinh tế chính trị.
Thông qua môn lịch sử các học thuyết kinh tế, để thấy đƣợc vai trò, trách
nhiệm của Nhà nƣớc trong nền kinh tế - xã hội, trong đó có cả sự nghiệp của cộng
đồng dân cƣ. Những vấn đề này đƣợc đề cập từ trƣờng phái kinh tế chính trị tƣ sản
cổ điển của Adam Smith trong tác phẩm "Nguồn của cải của các dân tộc" viết năm
1776; trong tác phẩm "Lý thuyết chung về lãi suất, tiền tệ và việc làm" của John
Maynard Keynes viết năm 1936; Trong lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp của trƣờng
phái chính hiện đại Samuelson; Học thuyết nền kinh tế thị trƣờng xã hội của Cộng
Hòa Liên Bang Đức,.... Tuy nhiên bản chất của nhà nƣớc ở nƣớc ta hiện nay là nhà
nƣớc của dân, do dân, vì dân nên việc kế thừa có chọn lọc đƣợc đặt ra khi tham
khảo kinh nghiệm của một số nƣớc.
16
Phƣơng pháp nghiên cứu định tính, thể hiện ở phần lý luận kinh tế chính trị
đƣợc vận dụng làm công cụ phân tích, để chỉ ra bản chất của quan hệ tài chính nói
chung và tài chính y tế nói riêng, chính sách tài chính y tế trong nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng XHCN, kinh nghiệm của một số nƣớc giải quyết về chính sách
tài chính y tế và những bài học rút ra cho chính sách tài chính y tế ở Việt Nam.
Đánh giá thực trạng chính sách tài chính y tế ở Việt Nam, quan điểm, mục tiêu,
chiến lƣợc phát triển y tế và các giải pháp để hoàn thiện chính sách tài chính cho sự
nghiệp phát triển y tế công trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN.
6. ĐIỂM MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN
Dựa trên cơ sở hệ thống lý thuyết về tài chính, tài chính công, tài chính y tế,
luận án đã xây dựng khung lý thuyết cho chính sách tài chính y tế trong nền kinh tế
thị trƣờng ở Việt Nam
Luận án thu thập, thống kê, các nguồn số liệu về tài chính y tế từ đó sơ đồ
hóa và luận giải bức tranh toàn cảnh về chính sách tài chính cho phát triển sự
nghiệp y tế công trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam và những vấn đề đang đặt
ra cần giải quyết.
Luận án xác định các căn cứ, quan điểm, từ đó đề xuất các nhóm giải pháp
nhằm hoàn thiện các chính sách tài chính y tế ở Việt Nam và nhấn mạnh đến giải
pháp nhằm quy hoạch lại hệ thống các bệnh viện trong toàn quốc theo tiêu chí về cơ
chế tài chính, phân biệt công, tƣ rõ ràng. Bao gồm 4 nhóm bệnh viện: Nhóm bệnh
viện miễn phí, nhóm bệnh viện doanh nghiệp phi lợi nhuận, nhóm bệnh viện hợp
tác công - tƣ và nhóm bệnh viện tƣ nhân.
Luận án cung cấp các luận cứ khoa học để các nhà hoạch định xây dựng
chính sách tài chính cho phát triển sự nghiệp y tế công ở Việt Nam trong thời gian
tới.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận án gồm ba chƣơng sau:
17
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận của chính sách tài chính cho phát triển sự nghiệp y
tế công trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam.
Chƣơng 2. Thực trạng chính sách tài chính cho phát triển sự nghiệp y tế
công trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam.
Chƣơng 3. Quan điểm, định hƣớng và giải pháp hoàn thiện chính sách tài
chính cho phát triển sự nghiệp y tế công trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam
trong thời gian tới.
18
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH
TÀI CHÍNH CHO PHÁT TRIỂN SỰ NGHIỆP Y TẾ CÔNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM
1.1. TÀI CHÍNH, TÀI CHÍNH CÔNG VÀ TÀI CHÍNH Y TẾ
1.1.1. Tài chính
1.1.1.1. Khái niệm tài chính
“Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân
phối và sử dụng dƣới hình thức giá trị nguồn của cải, vật chất xã hội, thông qua đó
các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung đƣợc hình thành và sử dụng nhằm đạt
các mục tiêu về tái sản xuất và thỏa mãn nhu cầu đời sống của các cá nhân và cộng
đồng” [25, trang 236].
Tài chính là phạm trù kinh tế gắn với nền kinh tế hàng hoá, nó ra đời và tồn
tại cùng với sự ra đời và tồn tại của Nhà nƣớc và nhất là với sự xuất hiện của tiền tệ.
Tiền tệ có chức năng là thƣớc đo giá trị của hàng hóa. Khi thực hiện việc phân phối
giá trị của hàng hóa thì hình thành nên các khoản thu nhập bằng tiền của ngƣời sản
xuất hàng hóa và đây cũng là nguồn hình thành nên quỹ tiền tệ của các chủ thể
trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trƣờng cần phải tạo lập ra các quỹ tiền tệ khác nhau,
sau đó chia các quỹ này thành các phần để phân phối và sử dụng nó. Trong đó,
ngoài quan hệ trao đổi, mua bán,… còn hình thành và nảy sinh hàng loạt các quan
hệ khác nhƣ vay mƣợn, tài trợ, phân phối,… đó chính là các quan hệ tài chính. Sự
biểu hiện bề ngoài của quan hệ tài chính liên quan đến ba khu vực kinh tế cơ bản:
Nhà nƣớc, các đơn vị kinh tế và dân cƣ thông qua năm quan hệ, đó là:
Quan hệ giữa nhà nƣớc với các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế: quan hệ này
đƣợc phát sinh khi các đơn vị kinh tế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nƣớc
theo luật định và khi nhà nƣớc cấp phát vốn và tài trợ cho các đơn vị kinh tế thuộc
thành phần kinh tế nhà nƣớc. Quan hệ này gắn liền với việc hình thành nguồn thu
19
ngân sách và các chính sách của Nhà nƣớc trong việc phân phối, sử dụng nguồn
ngân sách Nhà nƣớc.
“Quan hệ kinh tế giữa Nhà nƣớc và các cơ quan quản lý Nhà nƣớc, quản lý
kinh tế - xã hội thông qua việc Nhà nƣớc cấp phát kinh phí từ ngân sách cho sự hoạt
động của các tổ chức đó.
Quan hệ giữa Nhà nƣớc và dân cƣ, quan hệ này nảy sinh trong quá trình phân
phối lại ngân sách và các quỹ tiền tệ trong dân cƣ.
Quan hệ giữa các đơn vị kinh tế với thị trƣờng đƣợc thực hiện thông qua các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, mua, bán giữa các chủ thể tham gia trong thị
trƣờng.
Quan hệ trong nội bộ các đơn vị kinh tế. Quan hệ này hình thành trong quá
trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nội bộ đơn vị, giữa đơn vị với các
thành viên của nó” [77].
Nhƣ vậy, trong nền kinh tế thị trƣờng, tất cả những quan hệ nêu trên trong xã
hội tạo nên bản chất kinh tế của tài chính. Có thể hiểu “ Bản chất tài chính phản ánh
các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể với nhau trong quá trình tạo lập, phân phối
và sử dụng các nguồn tài chính” [50, trang 6].
1.1.1.2. Các chức năng của tài chính
Để làm rõ hơn bản chất của các quan hệ tài chính trong nền kinh tế quốc dân,
cần thiết phải nghiên cứu các chức năng và vị trí, vai trò của quan hệ tài chính.
Trong nền kinh tế, tài chính thực hiện các chức năng: Huy động, phân phối và giám
đốc, cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, “Chức năng huy động nguồn tài chính thể hiện khả năng tổ chức
khai thác các nguồn tài chính, nhằm tạo lập nguồn lực đáp ứng nhu cầu phát triển
của nền kinh tế” [50, trang 7].
Chức năng huy động vốn đƣợc thể hiện trên cơ sở tƣơng tác giữa các yếu tố:
Chủ thể cần vốn; các nhà đầu tƣ; môi trƣờng tài chính và kinh tế; hệ thống tài chính
gồm thị trƣờng tài chính và các định chế tài chính. Sự huy động các nguồn lực chỉ
đặt ra khi các chủ thể không đủ khả năng tự tài trợ, và do vậy phải huy động các
20
nguồn lực đƣợc cung cấp từ hệ thống tài chính. “Huy động vốn phải tuân thủ cơ chế
thị trƣờng, quan hệ cung cầu và giá cả của vốn. Thực hiện chức năng này yêu cầu
các chủ thể phải thiết lập chính sách huy động vốn có hiệu quả trên cơ sở phân tích
các yếu tố nhƣ là tính toán nhu cầu và quy mô vốn cần huy động; lựa chọn các công
cụ tài chính và đòn bẩy kinh tế trong huy động vốn” [50, trang 7].
Thứ hai, “Chức năng phân phối phản ánh bản chất của phạm trù tài chính.
Phân phối trong tài chính là phân phối giá trị dƣới hình thức tiền tệ” [42]. Phân phối
tài chính bao gồm: Quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại, trong đó phân phối
lại giữ vai trò chủ yếu.
“Phân phối lần đầu: Diễn ra trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhằm phân
chia giá trị của hàng hoá tạo ra cho các chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh đó” [42].
“Phân phối lại là quá trình phân phối tiếp tục các quỹ tiền tệ hình thành từ
quá trình phân phối lần đầu nhằm phục vụ các mục đích của các chủ thể kinh tế. So
với phân phối lần đầu, hoạt động phân phối lại trong tài chính phát triển đa dạng và
phức tạp hơn nhiều do tính chất đa dạng và phức tạp của nhu cầu các chủ thể kinh
tế. Phạm vi của phân phối lại cũng rộng hơn so với phân phối lần đầu, bao gồm cả
lĩnh vực phi sản xuất vật chất và dịch vụ” [42]. Phân phối lại đƣợc thực hiện bằng
hai cách: Một là, thuế, tiền gửi ở ngân hàng, bảo hiểm, cổ phiếu, trái phiếu…; Hai
là, việc sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội cho giáo dục, y tế, văn
hóa, nghệ thuật…
Thứ ba, chức năng giám đốc đó là khả năng khách quan để sử dụng tài chính
làm công cụ kiểm tra, giám đốc bằng đồng tiền với việc sử dụng chức năng thƣớc
đo giá trị và phƣơng tiện thanh toán của tiền tệ. “Khả năng này biểu hiện ở chỗ,
trong quá trình thực hiện chức năng phân phối, sự kiểm tra có thể diễn ra dƣới dạng:
Xem xét tính cần thiết, quy mô của việc phân phối các nguồn tài chính, hiệu quả của
việc phân phối qua các quỹ tiền tệ” [77].
21
“Giám đốc tài chính mang tính chất tổng hợp toàn diện, tự thân và diễn ra
thƣờng xuyên vì giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động
tài chính nhằm phát hiện những ƣu điểm để phát huy, tồn tại để khắc phục” [77].
Hoạt động tài chính diễn ra trên mọi lĩnh vực của quá trình tái sản xuất xã
hội trên tầm vĩ mô và vi mô. Trong các hoạt động đó tài chính không chỉ phản ánh
kết quả sản xuất mà còn thúc đẩy phát triển. “Động lực để thúc đẩy nhanh nền sản
xuất xã hội không chỉ phụ thuộc vào sự phân phối cân bằng, hợp lý và cân đối giữa
các bộ phận mà còn trực tiếp phụ thuộc vào sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt mọi
hoạt động tài chính” [77].
“Nội dung giám đốc tài chính là giám đốc sự vận động và chu chuyển của
nguồn vốn tiền tệ với hiệu quả sử dụng vốn, giám đốc việc lập và chấp hành các chỉ
tiêu kế hoạch, các định mức kinh tế tài chính, giám đốc quá trình hình thành và sử
dụng các quỹ tiền tệ, quá trình hạch toán kinh tế và giám đốc việc chấp hành các
chính sách về tài chính” [77].
“Thực hiện quản lý tài chính đã khẳng định, để thực hiện triệt để và có hiệu
quả việc giám đốc tài chính cần phải thƣờng xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế
quản lý tài chính phù hợp với cơ chế chính sách quản lý kinh tế và thực tiễn sản
xuất kinh doanh. Thông qua đó giúp cho việc thực hiện các giải pháp tối ƣu nhằm
làm lành mạnh tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp” [77].
Huy động vốn, phân phối và giám đốc là các chức năng cơ bản của tài chính,
chúng có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau thông qua đó các chủ thể vận dụng để
sử dụng nhƣ công cụ cực kỳ quan trọng phục vụ mục đích đề ra.
1.1.1.3. Vai trò của tài chính
Tài chính có vai trò rất lớn trong nền kinh tế, thể hiện cụ thể nhƣ sau:
Một là, điều tiết nền kinh tế quốc dân. Để điều tiết kinh tế, Nhà nƣớc phải kết
hợp cả ba chức năng: huy động, phân phối và giám đốc. Trên cơ sở kiểm tra, giám
sát bằng đồng tiền, Nhà nƣớc nắm đƣợc thực tế hoạt động của nền kinh tế, từ đó,
phát hiện ra những vấn đề cần can thiệp, điều tiết. Nhà nƣớc điều tiết nền kinh tế
22
theo kế hoạch đã định bằng các chính sách phân phối [77]. Để thúc đẩy sự phát triển
của những ngành, lĩnh vực yếu kém trong nền kinh tế quốc dân Nhà nƣớc có thể
dùng biện pháp tăng thêm vốn và cấp phát bổ sung. Để hạn chế phát triển những
ngành và những khâu nhất định nhà nƣớc cũng có thể dùng biện pháp giảm vốn đầu
tƣ và trợ cấp. Với tác dụng điều tiết kinh tế, tài chính là công cụ chủ yếu thúc đẩy
nền kinh tế quốc dân phát triển một cách cân đối và hợp lý.
Hai là, xác lập và tăng cƣờng các quan hệ kinh tế - xã hội. Các chủ thể kinh
tế đều có các quan hệ với nhau, đặc biệt trong việc vay mƣợn lẫn nhau. Điều này dễ
dẫn đến tình trạng nợ nần dây dƣa, làm trì trệ quá trình vận động, trao đổi hàng -
tiền, hạn chế đầu tƣ, làm rối loạn sản xuất, lƣu thông,... Trƣớc tình hình nhƣ vậy,
“Nhà nƣớc có thể sử dụng luật pháp để điều chỉnh quan hệ tài chính, quan hệ tín
dụng giữa các chủ thể kinh tế, cũng có thể sử dụng các biện pháp cấp bách buộc các
chủ thể kinh tế thanh toán nợ nần theo tiến độ thời gian nhất định. Việc điều chỉnh
các quan hệ tài chính giữa các chủ thể kinh tế sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế và công
bằng xã hội” [77].
Ba là, tập trung, tích lũy và cung ứng vốn cho các nhu cầu xây dựng và bảo
vệ đất nƣớc. “Quá trình di chuyển nguồn tài chính từ lĩnh vực sản xuất sang phi sản
xuất, từ trong nƣớc ra nƣớc ngoài và ngƣợc lại, luôn luôn diễn ra trong nền kinh tế”
[77]. Nếu Nhà nƣớc có chính sách tốt điều chỉnh các quan hệ tài chính nảy sinh
trong các quá trình trên, thì có thể thúc đẩy quá trình dòng vốn cho đầu tƣ phát
triển, giảm bớt các chi phí không cần thiết, thu hút đƣợc đầu tƣ nƣớc ngoài.
Bốn là, hình thành quan hệ tích lũy, tiêu dùng hợp lý và đảm bảo an sinh xã
hội. “Quá trình phân phối này có khả năng dẫn đến sự phân phối bất công, bất hợp
lý” [77]. Chính vì vậy, Nhà nƣớc cần thƣờng xuyên thực hiện việc phân phối lại và
điều chỉnh sự phân phối theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Thông qua việc vận
dụng các chức năng của tài chính, Nhà nƣớc có thể thực hiện tốt điều này. Nhà nƣớc
có thể đánh thuế thu nhập cao đối với ngƣời có thu nhập cao, hỗ trợ ngƣời có thu
nhập thấp; hoặc cũng có thể thành lập các quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ hỗ trợ đào
23
tạo cho ngƣời nghèo, nâng lƣơng cho các ngành có thu nhập thấp; các quỹ bảo hiểm
y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quỹ hƣu trí,….
1.1.1.4. Hệ thống tài chính
Trong nền kinh tế thị trƣờng, các hoạt động chuyển giao nguồn lực tài chính
giữa các chủ thể diễn ra rất đa dạng, phong phú, đan xen, tác động lẫn nhau trong hệ
thống thống nhất, đó là hệ thống tài chính. “Hệ thống tài chính là một hệ thống gồm
có thị trƣờng và các chủ thể tài chính thực hiện chức năng gắn kết cung - cầu về vốn
lại với nhau. Cơ cấu hệ thống tài chính gồm: Thị trƣờng tài chính; các chủ thể tài
chính - tham gia vào kiến tạo thị trƣờng; cơ sở hạ tầng tài chính của hệ thống tài
chính” [50, trang 10].
Sơ đồ 1.1. Hệ thống tài chính
Chức năng cơ bản của hệ thống tài chính là tạo ra kênh chuyển tải vốn từ
ngƣời thừa vốn đến ngƣời cần vốn. Khi hệ thống vận hành có hiệu quả, nó góp phần
thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế và gia tăng phúc lợi xã hội. “Qua hệ thống tài chính,
những chủ thể thừa vốn có nhiều cơ hội để đầu tƣ và gia tăng khả năng sinh lời của
24
đồng vốn; còn những chủ thể thiếu vốn có nhiều cơ hội tiếp cận các nguồn vốn để
thỏa mãn tối đa nhu cầu phát triển. Ngoài ra, hệ thống tài chính còn cung cấp các
dịch vụ tài chính nhƣ: chia sẻ rủi ro, tính lỏng và thông tin các giao dịch tài chính”
[50, trang 11].
1.1.2. Tài chính công
1.1.2.1. Khái miệm tài chính công
“Là các hoạt động thu, chi bằng tiền của nhà nƣớc, phản ánh hệ thống các
quan hệ kinh tế dƣới hình thức giá trị trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ
tiền tệ của nhà nƣớc nhằm phục vụ việc thực hiện các chức năng vốn có (không
nhằm mục tiêu thu lợi nhuận) của nhà nƣớc” [77, trang 23].
Tài chính công gắn liền với các hoạt động kinh tế của khu vực nhà nƣớc. Xét
về tính chất, tài chính công là những quan hệ tài chính gắn với sở hữu tài sản công,
xét về nội dung vật chất là những quỹ tiền tệ thể hiện tài sản công. Các quỹ tiền tệ
thuộc tài chính công phục vụ cho lợi ích chung ở phạm vi lớn, nhỏ khác nhau,
nhƣng không bao giờ vì lợi ích riêng tƣ của một cá nhân, một tƣ nhân.
Tài chính công không những là công cụ để nhà nƣớc huy động các nguồn lực
của xã hội để tài trợ mọi nhu cầu chi tiêu của nhà nƣớc mà còn là công cụ để nhà
nƣớc can thiệp vào hoạt động kinh tế - xã hội.
“Về phƣơng diện kinh tế, nhà nƣớc thực hiện chính sách thuế có phân biệt ƣu
đãi đối với các loại hàng hóa, ngành nghề, các địa phƣơng để điều chỉnh cơ cấu
kinh tế, ổn định giá cả thị trƣờng, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển cân đối.
Đồng thời thông qua các khoản chi tiêu công, nhà nƣớc tiến hành trợ cấp và chia sẻ
những rủi ro với các doanh nghiệp, các nhà đầu tƣ trong các lĩnh vực có lợi cho
quốc kế dân sinh” [48, trang 25].
“Về phƣơng diện xã hội, bằng việc phối hợp chính sách thuế và chính sách
chi tiêu công, nhà nƣớc hƣớng vào thực hiện chính sách điều tiết và phân phối thu
nhập công bằng giữa các đối tƣợng trong xã hội” [48, trang 25].
25
“Về phƣơng diện quản lý, tài chính công không nhất thiết phải luôn có sự
cân bằng giữa thu và chi, mà có thể hy sinh sự cân bằng này để góp phần điều chỉnh
nền kinh tế vận hành theo định hƣớng của nhà nƣớc. Theo đó, khuôn khổ quản lý
thu chi ngân sách không bị giới hạn trong một năm mà phải gắn liền với kế hoạch
phát triển kinh tế trung và dài hạn” [48, trang 25].
Tài chính công phản ánh tổng thể mối quan hệ kinh tế giữa nhà nƣớc và xã
hội trong quá trình phân phối các nguồn lực tài chính. Bản chất kinh tế của tài chính
công bắt nguồn từ sự quan tâm của chính phủ đến quy mô của chiếc bánh kinh tế.
Hoạt động thu, chi của chính phủ phải hƣớng đến làm tối đa hóa hiệu quả của nền
kinh tế. Bản chất chính trị của tài chính công bắt nguồn từ sự quan tâm của chính
phủ đến sự phân phối chiếc bánh kinh tế và các mục tiêu nâng cao phúc lợi xã hội:
An sinh xã hội, giáo dục, y tế,….
1.1.2.2. Chức năng của tài chính công
Bên cạnh các chức năng gắn liền với chức năng của tài chính nói chung nhƣ:
Chức năng huy động vốn, chức năng phân phối các nguồn vốn và chức năng kiểm
tra, giám sát. Tài chính công còn có thêm chức năng điều chỉnh vĩ mô, với đặc điểm
là phục vụ lợi ích công cộng đảm bảo sự phát triển và ổn định xã hội. Tài chính
công phải phát huy chức năng điều chỉnh vĩ mô đó là lợi ích giữa tích tụ và tập
trung, giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa tổng thể các địa phƣơng, vùng lãnh thổ, giữa
nơi có thu nhập cao với nơi có thu nhập thấp, giữa ngƣời giàu với ngƣời nghèo,
giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội,....
Trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, sự điều chỉnh vĩ
mô toàn xã hội trƣớc hết thể hiện sự phân phối và phân bổ các nguồn lực tài chính
công. Bởi vì, muốn có sự ổn định xã hội và phát triển bền vững thì việc điều tiết các
nguồn lực tài chính từ nơi này đến nơi khác, chủ thể này đến chủ thể khác, từ cái
riêng tƣ đến cái công cộng, từ tổng thể đến các tế bào của tổng thể là một điều tất
yếu và sự phát huy chức năng điều chỉnh vĩ mô của tài chính công cũng trở thành
cần thiết đối với sự phát triển và ổn định xã hội.
26
1.1.2.3. Vai trò của tài chính công
Tài chính công là một bộ phận của tài chính quốc dân. Tài chính công cũng
có các vai trò: Điều tiết kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô và khuyến khích kinh tế vi mô
phát triển; huy động các nguồn lực tài chính để đảm bảo tăng trƣởng kinh tế và phát
triển đất nƣớc; điều chỉnh, kiểm soát và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã
hội đảm bảo việc duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc. Ngoài ra tính
cộng đồng của tài chính công là một đặc điểm đặc thù. Các nguồn thu của nó đƣợc
lấy từ mọi lĩnh vực hoạt động, từ mọi chủ thể kinh tế - xã hội; việc sử dụng chúng là
để phục vụ các nhu cầu chung, mang tính chất xã hội rộng lớn mà nhà nƣớc phải
đảm bảo. Vai trò của tài chính công trong hệ thống tài chính quốc dân là do việc
phát huy các chức năng của nó cùng vai trò lãnh đạo của nhà nƣớc và vai trò của
kinh tế nhà nƣớc quyết định cụ thể, nó có vai trò chi phối; vai trò hƣớng dẫn; vai trò
điều chỉnh đối với hoạt động tài chính của các chủ thể kinh tế - xã hội khác. Trong
nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, nhà nƣớc có nhiệm vụ đảm bảo
tính hiệu quả, khuyến khích công bằng; tăng cƣờng và ổn định kinh tế vĩ mô. Tài
chính công là một trong những công cụ quan trọng của nhà nƣớc để đảm bảo đƣợc
những nhiệm vụ đó, cụ thể là tài chính công có vai trò sau đây:
“Một là, tài chính công đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển có hiệu quả” [77, trang 48].
“Hai là, tài chính công đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện công
bằng xã hội” [77, trang 49].
1.1.2.4. Hệ thống tài chính công
Quốc hội quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự
toán ngân sách nhà nƣớc; quyết định phân bổ ngân sách nhà nƣớc; giám sát việc
thực hiện NSNN, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, thực hiện chính sách tài
chính, tiền tệ quốc gia, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn
dân; thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và NSNN.
27
Bộ tài chính là cơ quan có chức năng thống nhất quản lý nhà nƣớc về lĩnh
vực tài chính, kế toán, NSNN trong phạm vi cả nƣớc.
Các bộ ngành phối hợp với Bộ Tài chính, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong
quá trình quản lý NSNN và các quỹ tài chính nhà nƣớc khác thuộc ngành, lĩnh vực
phụ trách.
Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ở các địa phƣơng quyết định dự toán,
phân bổ giám sát việc thực hiện, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phƣơng. Riêng
hội đồng nhân dân còn có nhiệm vụ thu phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân
dân theo quy định của pháp luật.
Các đơn vị dự toán NSNN tổ chức việc lập dự toán thu chi NSNN thuộc
phạm vi đƣợc giao; thực hiện dự toán thu, chi NSNN đƣợc giao theo đúng quy định
và luật pháp.
Hệ thống thu thuế nhà nƣớc đƣợc thành lập trực thuộc Bộ Tài chính, để quản
lý thống nhất trong cả nƣớc công tác thu thuế và các khoản thu khác của NSNN.
Kho bạc Nhà nƣớc là tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức năng
quản lý nhà nƣớc về quỹ NSNN; quỹ dự trữ tài chính nhà nƣớc, tiền, tài sản tạm
thu, tạm giữ, huy động vốn cho NSNN và đầu tƣ phát triển.
Hải quan có nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật về thuế và các khoản thu
khác đối với hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu.
Dự trữ quốc gia có nhiệm vụ lập kế hoạch, dự toán ngân sách dự trữ nhà
nƣớc và phƣơng án phân bổ vốn bổ sung dự trữ nhà nƣớc trong từng thời kỳ và
hàng năm.
28
Sơ đồ 1.2. Hệ thống tài chính công
1.1.3. Tài chính y tế
1.1.3.1. Khái niệm tài chính y tế
Khái niệm tài chính y tế, ở nơi này hay nơi khác chƣa có sự thống nhất, mỗi
tác giả đƣa ra khái niệm theo một góc độ khác nhau cụ thể nhƣ:
Theo tổ chức Y tế thế giới, tài chính y tế là một trong các thành phần kiến
tạo nên toàn bộ hệ thống y tế. Tài chính y tế tác động tới tất cả các mục tiêu của
ngành y tế và đóng vai trò trung tâm trong việc giảm thiểu các rủi ro và nâng cao
tính công bằng cũng nhƣ hiệu quả của ngành y tế [WHO, 2007].
29
Theo tác giả Nguyễn Thị Kim Chúc thì “dòng tiền chi trả cho chăm sóc sức
khỏe gồm 3 nội dung và mỗi nội dung nêu sau đây đều có thể hiểu là tài chính y tế:
Nguồn kinh phí chi trả cho các hoạt động y tế; phân bổ kinh phí cho các cơ sở y tế
khác nhau của hệ thống y tế; việc trả tiền công, tiền lƣơng lao động cho các cá nhân
tham gia vào hệ thống y tế” [29, trang 174].
Theo tác giả Trƣơng Việt Dũng và Nguyễn Duy Luật thì “tài chính y tế là
một bộ phận của hệ thống tài chính quốc gia hoạt động trong lĩnh vực y tế” [35,
trang 76].
Theo tác giả, xuất phát từ việc nghiên cứu bản chất của tài chính, ta có thể
hiểu tài chính y tế là các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hình thành và
phân phối các quỹ tiền tệ phục vụ sự nghiệp y tế trong toàn bộ xã hội, nhằm đáp
ứng nhu cầu đầu tƣ cơ sở vật chất, kỹ thuật và phát triển nhân lực ngành y tế toàn
diện để đảm bảo việc chăm sóc sức khỏe cho ngƣời dân. Các quan hệ kinh tế trong
tài chính y tế là:
Quan hệ giữa Nhà nƣớc với các đơn vị sự nghiệp y tế: Quan hệ này đƣợc
phát sinh khi các đơn vị y tế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nƣớc theo luật
định và khi Nhà nƣớc cấp phát vốn cho các đơn vị y tế công. Quan hệ này gắn liền
với việc hình thành nguồn thu ngân sách và việc sử dụng ngân sách Nhà nƣớc cho
sự nghiệp y tế.
Quan hệ giữa Nhà nƣớc và dân cƣ: Quan hệ này nảy sinh trong quá trình
phân phối lại ngân sách và các quỹ tiền tệ trong dân cƣ phục vụ sự nghiệp y tế, cụ
thể là: NSNN cấp cho các đơn vị y tế Nhà nƣớc và các đơn vị y tế sử dụng ngân
sách để đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, thuốc men, y cụ, … phục vụ ngƣời
dân. NSNN trực tiếp mua thẻ BHYT cho một số đối tƣợng trong các tầng lớp dân
cƣ.
Quan hệ giữa các quỹ bảo hiểm với ngƣời dân mua bảo hiểm y tế: Quan hệ
này nảy phát sinh khi ngƣời dân nộp phí mua thẻ BHYT, hình thành quỹ BHYT và
quỹ BHYT sẽ chi trả các dịch vụ KCB cho ngƣời dân khi đau ốm.
30
Quan hệ giữa các cơ sở KCB và các quỹ bảo hiểm y tế trong việc thực hiện
thanh toán tiền của quỹ bảo hiểm y tế cho các cơ sở KCB khi thực hiện khám chữa
bệnh cho ngƣời dân mua bảo hiểm y tế.
Quan hệ giữa ngƣời có nhu cầu khám chữa bệnh và các cơ sở KCB hình
thành nên các nguồn thu phí dịch vụ của các cơ sở KCB.
Quan hệ giữa các đơn vị y tế với thị trƣờng, quan hệ này đƣợc thực hiện
thông qua các hoạt động mua bán thuốc, vật tƣ y tế, thiết bị y tế,... của các đơn vị sự
nghiệp y tế với các doanh nghiệp, công ty sản xuất, đơn vị cung cấp dịch vụ trên thị
trƣờng.
Quan hệ trong nội bộ các đơn vị y tế, quan hệ này hình thành trong quá trình
hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nội bộ đơn vị sự nghiệp y tế (quỹ tiền
lƣơng, quỹ phát triển sự nghiệp, quỹ phúc lợi, quỹ khen thƣởng,…).
“Tài chính y tế là một bộ phận quan trọng của hệ thống y tế, với các mục tiêu
chính là: (i) huy động đủ nguồn lực tài chính cho công tác phát triển ngành y tế và
chăm sóc sức khỏe nhân dân; (ii) quản lý và phân bổ nguồn lực theo hƣớng công
bằng, hiệu quả và phát triển; (iii) nâng cao chất lƣợng chuyên môn và phát triển kỹ
thuật trong cung ứng dịch vụ y tế; (iv) bảo vệ ngƣời dân trƣớc các rủi ro tài chính
gây ra do chi phí y tế khi ngƣời dân đau ốm” [24].
1.1.3.2. Các chức năng của tài chính y tế
Để đạt đƣợc các mục tiêu trên, hệ thống tài chính y tế phải thực hiện ba chức
năng cơ bản sau đây:
“Tích lũy, tập trung quỹ, quản lý quỹ tài chính tốt, tránh thất thoát các quỹ
đảm bảo đủ tài chính sử dụng cho các mục tiêu phát triển ngành y tế, tiêu ƣu tiên
chăm sóc sức khỏe của ngƣời dân và chia sẻ rủi ro giữa các thành viên trong cộng
đồng” [24].
“Huy động các nguồn tài chính thông qua hệ thống thu thuế của Nhà nƣớc,
hệ thống thu phí bảo hiểm, thu dịch vụ y tế, nguồn vốn xã hội hóa, nguồn vốn từ
31
nƣớc ngoài và các nguồn thu khác từ các tổ chức xã hội,... để có nguồn tài chính đủ
lớn và đƣợc huy động một cách công bằng cho chăm sóc sức khoẻ nhân dân” [24].
“Chi trả dịch vụ hoặc phân bổ nguồn cho đơn vị cung ứng dịch vụ y tế nhằm
tạo nên giá trị sức khỏe cao nhất, thỏa mãn nhu cầu sức khỏe của ngƣời dân với chi
phí thấp nhất, giúp ngƣời dân, đặc biệt là ngƣời nghèo tránh các rủi ro về tài chính;
phƣơng thức chi trả phải tạo ra các khuyến khích tài chính phù hợp, nhằm nâng cao
chất lƣợng và hiệu suất cung ứng dịch vụ” [24].
Trong các chức năng nêu ở trên, chức năng tích lũy tập trung quỹ là chức
năng quan trọng để đảm bảo mục tiêu chia sẻ rủi ro và bảo vệ tài chính hộ gia đình.
Để thực hiện đƣợc chức năng này, ngƣời lao động, doanh nghiệp, hộ gia đình phải
có những khoản đóng góp trƣớc, khi chƣa bị đau ốm, chƣa sử dụng dịch vụ y tế.
Các đóng góp trƣớc từ hộ gia đình, doanh nghiệp thông qua hệ thống thu thuế (sau
đó một phần thuế thu đƣợc sẽ đƣợc phân bổ qua luồng NSNN cho y tế), thu phí
BHYT, đều là các khoản trả trƣớc. Việc trả trƣớc sẽ tạo điều kiện để một đơn vị tài
chính trung gian đứng ra thu phí, tích lũy và tập trung quỹ. Khi đơn vị quản lý quỹ
đứng ra thanh toán cho đơn vị cung ứng dịch vụ, cũng có nghĩa là chi phí tài chính
của một ngƣời đƣợc trả bởi quỹ chung do nhiều ngƣời đóng góp, điều đó cũng có
nghĩa rủi ro đƣợc chia sẻ. Mức độ chi trả trƣớc, khả năng tập trung quỹ là hai yếu tố
cơ bản đảm bảo sự chia sẻ rủi ro và bảo vệ ngƣời dân trƣớc các rủi ro tài chính.
Ngƣợc lại, khi bị đau ốm, bệnh nhân tự trả toàn bộ chi phí KCB, không hề có
tập trung quỹ, cũng không có chia sẻ rủi ro. Khi đơn vị giữ quỹ thanh toán dịch vụ
một cách chiến lƣợc, đại diện cho nhóm dân số khá lớn, cũng có nghĩa đơn vị giữ
quỹ có một quyền lực nhất định để thƣơng lƣợng với bên cung ứng dịch vụ, về số
lƣợng, chất lƣợng, và giá cả dịch vụ. Điều này sẽ không làm đƣợc nếu từng hộ gia
đình đứng ra tự thanh toán cho mình.
Phƣơng pháp thực hiện ba chức năng của hệ thống tài chính y tế tác động sâu
sắc đến hệ thống y tế, bởi hệ thống tài chính y tế sẽ quyết định ai tiếp cận đƣợc dịch
vụ, chất lƣợng dịch vụ đƣợc cung ứng thế nào, bao nhiêu ngƣời có thể bị rơi vào đói
32
nghèo vì chi phí y tế, và liệu chính phủ có thể kiểm soát đƣợc chi phí y tế hay
không.
1.1.3.3. Vai trò của tài chính y tế
Tài chính y tế có vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội
nói chung và sự nghiệp phát triển y tế nói riêng. Một mặt nó huy động và phân bổ
các nguồn tài chính hợp lý cho sự nghiệp y tế, mặt khác nó góp phần đảm bảo công
bằng, hiệu quả trong KCB của xã hội.
Thứ nhất, đảm bảo tập trung, tích lũy và cung ứng vốn nhằm tạo điều kiện
cho công tác phòng, khám, chữa bệnh của ngƣời dân. Để thực hiện đƣợc công việc
phòng, khám, chữa bệnh và các sự nghiệp y tế khác ngành y tế cần phải có những
trang thiết bị y tế đầy đủ đạt trình độ tiên tiến, hiện đại, đồng thời phải có đầy đủ đội
ngũ thầy thuốc có trình độ chuyên môn cao trong tất cả các chuyên khoa. Muốn đạt
đƣợc những điều kiện trên cần phải có nguồn tài chính dồi dào mới đủ sức đầu tƣ.
Trƣớc đây, trong điều kiện của cơ chế tập trung bao cấp, toàn bộ chi phí đầu tƣ cho
sự nghiệp y tế đều do ngân sách Nhà nƣớc cấp. Từ khi chuyển sang cơ chế kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nƣớc, với sự đổi mới
cơ chế quản lý vận hành ngành y tế theo cơ chế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, thì quan hệ tài chính trong y tế cũng có sự đổi mới cho phù hợp nhằm huy
động đƣợc mọi nguồn tài chính phục vụ sự nghiệp phát triển y tế.
Thứ hai, phân bổ nguồn tài chính một cách hợp lý dựa trên các tiêu chí về
nhiệm vụ đƣợc giao, nhu cầu phát triển, dân số, điều kiện kinh tế - xã hội,... có
chính sách ƣu tiên cho vùng nghèo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Sử
dụng các nguồn lực hiệu quả nhất, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ phát triển sự
nghiệp y tế. Trong phân bổ dự toán chi ngân sách bám sát định mức chi, nắm chắc
nhu cầu chi, kết hợp lồng ghép các nhiệm vụ chi của các đơn vị thụ hƣởng ngân
sách để tăng cƣờng tính tiết kiệm và hiệu quả.
Thứ ba, tài chính y tế góp phần đảm bảo tính công bằng trong chính sách
chăm sóc sức khỏe và đảm bảo an sinh xã hội. Nhu cầu tài chính cho y tế ngày một
33
tăng, xuất phát từ việc gia tăng dân số, cơ cấu bệnh tật thay đổi với nhiều bệnh mới
xuất hiện ngày càng nguy hiểm cho con ngƣời, giá các dịch vụ y tế ngày càng đắt
đỏ và xu thế chạy theo lợi nhuận của các đơn vị sự nghiệp y tế (các hãng thuốc,
bệnh viện, phòng khám…). Chi trả cao cho các dịch vụ y tế là một trong những
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến bất bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ y tế chất
lƣợng cao của ngƣời có thu nhập thấp, dẫn đến tính tình hình bị “nghèo hóa trong
chăm sóc sức khỏe” và cuối cùng là nghèo đói. Bởi vì, do tính mạng là cái quý nhất
nên khi đứng trƣớc bệnh tật nguy hiểm đến tính mạng thì dù nghèo hay giàu đều
phải chi phí để duy trì mạng sống của mình. Đối với ngƣời có thu nhập thấp khi
đứng trƣớc yêu cầu này họ phải vay mƣợn, hoặc bán của cải gia đình đi để chi cho
khám chữa bệnh, nghĩa là đổi lấy mạng sống và tất yếu sẽ dẫn đến nợ nần, nghèo
đói. Do đó, nếu có chính sách tài chính y tế hƣớng về ngƣời nghèo sẽ đảm bảo huy
động và phân bổ nguồn tài chính y tế giúp đỡ ngƣời nghèo vƣợt qua những khó
khăn và rủi ro do chi phí khám chữa bệnh mang lại. Cơ chế tài chính y tế hƣớng về
ngƣời nghèo sẽ thực hiện việc hỗ trợ tài chính cho ngƣời nghèo trong việc khám
chữa bệnh, đảm bảo cho họ đƣợc tiếp cận đến các dịch vụ y tế chất lƣợng nhƣ
những dịch vụ y tế mà các thành viên khác của xã hội đƣợc hƣởng. Thông qua đó sẽ
góp phần xóa bỏ tình trạng nghèo hóa và tiến đến bình đẳng trong hƣởng thụ dịch
vụ y tế và hạn chế phân hóa giàu nghèo trong xã hội.
1.1.3.4. Hệ thống và cơ chế tài chính y tế
Trong hệ thống y tế, có ngƣời "mua" dịch vụ y tế và ngƣời "bán" dịch vụ y
tế, có các luật lệ kiểm soát quá trình "mua" và "bán" đó. Điều cơ bản khác nhau
trong việc "mua" và "bán" này với hệ thống thị trƣờng là ngƣời "mua" không biết rõ
"hàng" của mình định mua (ngƣời bệnh khi đi khám bệnh, chƣa biết rõ mình bị
bệnh gì, sẽ phải chữa trị nhƣ thế nào và tốn kém bao nhiêu), còn ngƣời "bán" lại
không có quyền thu lợi nhuận tối đa "hàng" mình bán ra, nhiều khi "hàng" bán ra
không định giá đƣợc. Giữa ngƣời "mua" và ngƣời "bán" dịch vụ y tế có sự ràng
buộc về đạo đức. Y đức là đạo đức của thầy thuốc, là bổn phận, là trách nhiệm đối
với bệnh nhân, không phân biệt giàu nghèo, đều phải khám và điều trị nhƣ nhau.
34
Một hệ thống tài chính y tế dựa trên mua bán dịch vụ y tế rất dễ dàng làm mất đi
bản chất nhân đạo và tính xã hội của ngành y tế. Nên trong hệ thống tài chính y tế từ
"mua" có thể thay thế bằng "sử dụng" và từ bán có thể thay bằng "cung cấp".
Hệ thống tài chính y tế gồm bốn cấu thành cơ bản: “Chính phủ giữ vai trò
trung tâm của hệ thống, ngƣời cung cấp dịch vụ y tế, ngƣời sử dụng dịch vụ y tế và
ngƣời thanh toán trung gian. Mỗi cấu thành trong hệ thống tài chính đều có nhiệm
vụ riêng và chúng quan hệ với nhau rất chặt chẽ” [35, trang 176].
“Chính phủ giữ vai trò ban hành pháp luật, giám sát và điều chỉnh tài chính
giữa ngƣời cung cấp dịch vụ y tế và ngƣời sử dụng dịch vụ y tế thông qua các chính
sách về thuế, các khoản chi từ ngân sách Nhà nƣớc và các quy định về kiểm soát
hoạt động chu chuyển, thanh toán tiền tệ trong hệ thống tài chính y tế. Trong trƣờng
hợp cần thiết Chính phủ sẽ điều chỉnh cơ chế hoạt động của hệ thống tài chính y tế”
[35, trang 176].
“Ngƣời cung cấp dịch vụ y tế giữ vai trò đảm bảo việc cung cấp các dịch vụ
y tế cho ngƣời dân và nhận tiền từ ngƣời sử dụng dịch vụ y tế hay ngƣời thanh toán
trung gian” [35, trang 177].
“Ngƣời sử dụng các dịch vụ y tế giữ vai trò hƣởng thụ các dịch vụ y tế và
thanh toán trực tiếp cho ngƣời cung cấp dịch vụ y tế. Ngƣời sử dụng dịch vụ y tế có
thể thanh toán toàn bộ giá của các dịch vụ y tế hoặc thanh toán một phần giá của
dịch vụ, phần còn lại có thể do nhà nƣớc hay ngƣời thanh toán trung gian thanh toán
theo quy định” [35, trang 177]..
“Ngƣời thanh toán trung gian giữ vai trò nhận tiền từ ngân sách Nhà nƣớc
(thông qua việc mua BHYT cho các nhóm đối tƣợng) và ngƣời sử dụng dịch vụ y tế
để thanh toán cho ngƣời cung cấp dịch vụ y tế. Ngƣời thanh toán trung gian sẽ đại
diện cho ngƣời sử dụng dịch vụ thƣơng lƣợng với ngƣời cung cấp dịch vụ về số
lƣợng, chất lƣợng và giá cả dịch vụ” [35, trang 177].
35
Sơ đồ 1.3. Hệ thống và cơ chế hoạt động của hệ thống tài chính y tế
Trả phí DVYT trực tiếp
Ngƣời sử dụng dịch vụ y tế
Ngƣời cung cấp dịch vụ y tế
Cung cấp dịch vụ tế
Quy định
Quy định
CHÍNH PHỦ
Đòi thanh toán
Nộp phí BHYT
Bảo hiểm cho khách hàng
Quy định
Thanh toán phí dịch vụ y tế
Nộp phí BHYT
Ngƣời thanh toán trung gian (Ngân sách Nhà nƣớc, Cơ quan bảo hiểm Y tế, Các quỹ)
(Nguồn: Kinh tế y tế, NXB Hà Nội, 2001)
Cơ chế hoạt động của hệ thống tài chính y tế do Nhà nƣớc đề ra và đồng thời
triển khai hoạt động thực hiện. Các cơ chế tài chính phổ biến trên thế giới hiện nay
gồm có: Tài chính cho y tế từ nguồn thu thuế của nhà nƣớc - ngân sách Nhà nƣớc
cấp trực tiếp cho hệ thống cung ứng dịch vụ y tế.
Tài chính cho y tế qua hệ thống BHYT xã hội bắt buộc, ngƣời lao động và
chủ sử dụng lao động đóng góp trên cơ sở thu nhập của ngƣời lao động. BHYT
cũng mở rộng cho các nhóm dân số khác trong xã hội nhƣ ngƣời nghèo, ngƣời
hƣởng bảo trợ xã hội, trẻ em,… với sự trợ cấp phí bảo hiểm của Nhà nƣớc hoặc các
đóng góp tự nguyện khác.
36
Tài chính cho y tế thông qua BHYT tƣ nhân, đây là một dạng BHYT tự
nguyện, vì lợi nhuận, do tƣ nhân điều hành. Khác với BHYT xã hội, mức đóng góp
BHYT tƣ nhân dựa trên cơ sở mức độ rủi ro sức khỏe của mỗi cá nhân (ví dụ, ngƣời
già, ngƣời có bệnh mãn tính sẽ phải trả phí bảo hiểm cao hơn, hoặc chi phí cho
những bệnh biết trƣớc không đƣợc thanh toán, hoặc có thể bị từ chối tham gia).
Tài chính y tế cộng đồng (BHYT cộng đồng) thƣờng bao phủ một cộng đồng
nhỏ, quy mô nhỏ, do ngƣời dân tự nguyện tham gia, với mức đóng góp và gói quyền
lợi dựa vào sự đồng thuận trong cộng đồng. Mô hình này phần lớn do cộng đồng tự
quản lý. Vì quy mô nhỏ nên mức độ tập trung quỹ và chia sẻ rủi ro bị hạn chế.
Tài chính cho y tế thông qua chi trả trực tiếp từ tiền túi của hộ gia đình cho
đơn vị cung ứng dịch vụ y tế, khi hộ gia đình sử dụng hoặc mua hàng hóa, dịch vụ y
tế.
Tài chính cho y tế thông qua việc đóng góp của các tổ chức, cá nhân bằng
tiền mặt hoặc thông qua việc đầu tƣ trang thiết bị y tế, cơ sở vật chất,... cho đơn vị
cung ứng dịch vụ y tế vì mục đích lợi nhuận.
Tài chính cho y tế từ nguồn nƣớc ngoài (nguồn vốn vay và viện trợ do nhà
nƣớc điều phối), những nƣớc nghèo có thể phụ thuộc nhiều vào cơ chế này. Nguồn
tài chính này thƣờng đƣợc cấp trực tiếp cho đơn vị cung ứng dịch vụ để thực hiện
các chƣơng trình y tế ƣu tiên.
1.1.4. Kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN
1.1.4.1 Khái niệm kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
Khái niệm “kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa” đã đƣợc định
nghĩa một cách rõ ràng, đầy đủ trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng Sản Việt
Nam: “Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở nƣớc ta là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc,
dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế
thị trƣờng, vừa đƣợc dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH;
trong đó, cơ chế thị trƣờng đƣợc vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ,
37
có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trƣớc pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế nhà nƣớc
giữ vai trò chủ đạo”.
Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII của Đảng Cộng Sản Việt Nam, thể
chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN đƣợc xác định cụ thể hơn theo các tiêu
chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trƣờng hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm
tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa nhà nƣớc và thị trƣờng;
bảo đảm hài hòa giữa tăng trƣởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con
ngƣời, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi
trƣờng, phát triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn
với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
1.1.4.2 Nội hàm của khái niệm “kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa” bao gồm hai cấu thành cơ bản là: Kinh tế thị trƣờng và định hƣớng XHCN
Kinh tế thị trường, là nền kinh tế dựa trên cơ sở sản xuất - trao đổi hàng hóa
ở trình độ cao (CNTB), kinh tế thị trƣờng có mục đích là “lợi nhuận”, đôi khi bất
chấp thủ đoạn để đạt mục đích. Kinh tế thị trƣờng là nền kinh tế vận hành theo các
quy luật của thị trƣờng (quy luật giá trị, quy luật giá trị thặng dƣ, quy luật cạnh
tranh...). Kinh tế thị trƣờng bao hàm những đặc trƣng cơ bản nhƣ sau:
Thứ nhất, độc lập của các chủ thể trong nền kinh tế: Các chủ thể này hoàn
toàn động lập, tự chủ trong việc quyết định: sản xuất cái gì, sản xuất nhƣ thế nào và
sản xuất cho ai? Họ tự chịu trách nhiệm đối với quyết định sản xuất kinh doanh của
bản thân dựa trên những tín hiệu thị trƣờng. Về bản chất, nền kinh tế thị trƣờng thị
trƣờng có cấu trúc đa sở hữu. Trong cấu trúc, sở hữu tƣ nhân luôn luôn là thành tố
tất yếu, bắt buộc. Phủ nhận sở hữu tƣ nhân có nghĩa là bác bỏ kinh tế thị trƣờng trên
thực tế. Bên cạnh sở hữu tƣ nhân, còn có các dạng sở hữu khác là sở hữu nhà nƣớc,
38
sở hữu tập thể và dạng đồng sở hữu của các chủ thể khác. Về nguyên tắc, các chủ
thể sở hữu và các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trƣờng là độc lập và bình
đẳng với nhau trƣớc pháp luật và trong hoạt động kinh doanh. Nhƣng mỗi hình thức
sở hữu và mỗi chủ thể sở hữu lại có vai trò, vị thế và chức năng đặc thù trong sự
vận hành của nền kinh tế thị trƣờng.
Thứ hai, hệ thống đồng bộ các thị trƣờng và thể chế tƣơng ứng: Mọi nền kinh
tế thị trƣờng đều có các yếu tố cấu thành cơ bản là các thị trƣờng, bao gồm các thị
trƣờng yếu tố [các thị trƣờng đầu vào nhƣ thị trƣờng đất đai, thị trƣờng sức lao
động, thị trƣờng tài chính (thị trƣờng tiền tệ, thị trƣờng vốn, thị trƣờng chứng
khoán), thị trƣờng hàng hoá, thị trƣờng khoa học - công nghệ] và thị trƣờng hàng
hóa và dịch vụ tiêu dùng. Để nền kinh tế thị trƣờng hoạt động hiệu quả, phải bảo
đảm hai yêu cầu: Sự hiện diện đầy đủ của tất cả các thị trƣờng nói trên và các thị
trƣờng phải vận hành đồng bộ.
Để đáp ứng hai yêu cầu này, việc hình thành và phát triển các thị trƣờng phải
tuân theo một trật tự bƣớc đi xác định. Việc không tuân thủ trật tự đó thƣờng dẫn
đến sự rối loạn, vận hành kém hiệu quả của từng thị trƣờng chức năng và của cả nền
kinh tế. Bên cạnh đó, sự vận hành đồng bộ của các thể chế thị trƣờng đòi hỏi phải
thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của thị trƣờng trên cơ sở đƣợc sự bảo đảm
của luật pháp. Nếu không đƣợc bảo vệ bằng các đạo luật cơ sở nhƣ luật cạnh tranh,
luật về các quyền sở hữu, luật chống độc quyền, luật chống bán phá giá thì nền kinh
tế không thể hoạt động bình thƣờng.
Thứ ba, hệ thống giá cả đƣợc xác lập thông qua tƣơng quan cung - cầu quyết
định sự vận hành của nền kinh tế thị trƣờng: Giá cả trên các loại thị trƣờng đƣợc xác
định dựa trên tƣơng quan cung và cầu của từng thị trƣờng đó. Tín hiện giá cả là căn
cứ khách quan đối với các chủ thể kinh tế đƣa ra các quyết định sản xuất, kinh
doanh của mình trong môi trƣờng cạnh tranh thị trƣờng. Nền kinh tế thị trƣờng chỉ
vận hành đƣợc một khi hệ thống giá cả đƣợc quyết định khách quan bởi thị trƣờng.
Trong nền kinh tế thị trƣờng, mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận là động lực chủ yếu thúc
đẩy nỗ lực hoạt động và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Để phục vụ
39
mục tiêu đó, giá cả phải đƣợc thiết định trên các cơ sở khách quan và đƣợc điều tiết
bằng cơ chế tự điều tiết.
Thứ tư, cơ chế căn bản vận hành của nền kinh tế thị trƣờng là cạnh tranh tự
do: Cạnh tranh là cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế thị
trƣờng. Thông qua cạnh tranh, các nguồn lực đƣợc rút ra khỏi những ngành, lĩnh
vực và địa điểm đang hoạt động kém hiệu quả, di chuyển đến những nơi có lợi thế
phát triển và thu đƣợc hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận cao hơn.
Thứ năm, vai trò điều tiết kinh tế của nhà nƣớc: Thị trƣờng có những khuyết
tật và cơ chế thị trƣờng có thể bị thất bại trong việc giải quyết một số vấn đề phát
triển, nhƣ khủng hoảng, đói nghèo, công bằng xã hội, môi trƣờng,… Để khắc phục
chúng và tránh khỏi thất bại thị trƣờng, nhà nƣớc phải tham gia quản lý, điều tiết sự
vận hành nền kinh tế. Nhà nƣớc tham gia vào các quá trình kinh tế thị trƣờng vừa
với tƣ cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành
kinh tế. Với các tƣ cách đó, nhà nƣớc thực hiện ba chức năng: Quản lý, định hƣớng
và hỗ trợ phát triển; phân phối lại thu nhập quốc dân; bảo vệ môi trƣờng.
Để thực hiện ba chức năng đó, nhà nƣớc phải giải quyết các nhiệm vụ: Cung
cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù hợp với đòi hỏi
của cơ chế thị trƣờng; Kiến tạo và bảo đảm môi trƣờng vĩ mô ổn định, có tính
khuyến khích kinh doanh; Cung cấp kết cấu hạ tầng (giao thông vận tải, cung cấp
điện nƣớc, dịch vụ thông tin, bƣu chính - viễn thông; tài chính,…) cũng nhƣ các
dịch vụ và hàng hoá công cộng (chăm sóc sức khoẻ, giáo dục - đào tạo, bảo vệ môi
trƣờng, …); Hỗ trợ nhóm ngƣời nghèo các điều kiện tối thiểu để tham gia thị trƣờng
bình đẳng.
Định hướng xã hội chủ nghĩa là sự hợp tác, tính nhân đạo, lợi nhuận chỉ là
phƣơng tiện để đạt đƣợc mục đích vì con ngƣời. Nền sản xuất theo định hƣớng xã
hội chủ nghĩa cần phải: Một là, khuyến khích làm giàu chính đáng, đồng thời tích
cực xóa đói, giảm nghèo (vì nghèo thì không phải là CNXH); Hai là, phát triển kinh
tế song song với thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội, bảo đảm công bằng và an
40
sinh xã hội, chú trọng phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa, làm cho khoảng cách
giữa thành thị và nông thôn ngày càng gần lại; Ba là, Nhà nƣớc do Đảng Cộng sản
lãnh đạo có một trong những chức năng là điều tiết, định hƣớng nền kinh tế, chủ
yếu ở tầm vĩ mô, nhƣ ở các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, ngân hàng, các nguồn lực,…
Trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò
chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt. Đó là những "đài chỉ huy", là huyết mạch
chính của nền kinh tế. Đây là điều kiện có tính nguyên tắc bảo đảm tính định hƣớng
XHCN. Nó thể hiện sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trƣờng định
hƣớng XHCN so với các mô hình kinh tế thị trƣờng khác. Vai trò chủ đạo của kinh
tế nhà nƣớc đƣợc thể hiện trƣớc hết và chủ yếu ở sức mạnh định hƣớng, hỗ trợ phát
triển và điều tiết nền kinh tế.
Tính định hƣớng XHCN đòi hỏi phải bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội;
thực hiện sự thống nhất và gắn liền hữu cơ giữa tăng trƣởng kinh tế với công bằng
và tiến bộ xã hội ở tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta.
Tăng trƣởng kinh tế đồng thời với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục, vì mục tiêu
phát triển con ngƣời và mang đậm bản sắc của đất nƣớc và con ngƣời Việt Nam là
những nội dung cấu thành của phát triển nhanh, hiệu quả, hiện đại và bền vững.
Về nguyên tắc, cần có cách tiếp cận mới đến vấn đề công bằng trong nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, cụ thể: Thứ nhất, cần xác định rõ và giải
quyết tốt mối quan hệ kết hợp giữa mục tiêu tăng trƣởng và phát triển (mục tiêu
thoát khỏi tụt hậu phát triển cho dân tộc Việt Nam) và mục tiêu công bằng xã hội
trong từng giai đoạn cụ thể. Thứ hai, cần quan niệm công bằng xã hội trƣớc hết là
sự bình đẳng về cơ hội phát triển và dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội của mọi
ngƣời dân, mọi chủ thể kinh tế và mọi vùng miền của đất nƣớc. Đồng thời, phải
chấp nhận ở mức độ nào đó sự chênh lệch về trình độ phát triển, thu nhập chính
đáng, về dân trí trong từng thời kỳ, giữa các vùng miền và tầng lớp dân cƣ cụ thể.
Dĩ nhiên, không đƣợc phép để độ dãn của sự chênh lệch này làm tổn hại đến ổn
định chính trị - xã hội. Chấp nhận chênh lệch để từng bƣớc thu hẹp chênh lệch trong
mỗi bƣớc phát triển của đất nƣớc là một thực tế khách quan trong phát triển ở nƣớc
41
ta hiện nay. Thứ ba, Nhà nƣớc phải có các giải pháp cụ thể để thị trƣờng phục vụ
ngƣời nghèo hiệu quả; hỗ trợ các vùng chậm phát triển, và chặn đứng, xoá bỏ nạn
tham nhũng, lãng phí, nhằm nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trƣởng và
công bằng xã hội.
1.1.5. Tính công bằng xã hội của tài chính y tế
Trong nền kinh tế thị trƣờng phân bổ của cải theo khả năng chi trả tiền của
ngƣời tiêu dùng và nhƣ vậy, con ngƣời sẽ không đƣợc CSSK khi có nhu cầu và
thậm chí là chấp nhận “cái chết” nếu họ không có tiền. Chính vì vậy, công bằng
trong CSSK đƣợc xã hội đặc biệt quan tâm cả về lý do đạo đức lẫn thực tiễn. Xét về
khía cạnh đạo đức, những ngƣời bất hạnh vì lý do sức khỏe - điều kiện chính để họ
có khả năng kiếm sống, tồn tại và phát triển đã tác động đến lòng nhân ái con ngƣời.
Vì vậy, sự mất công bằng trong CSSK khó có thể chấp nhận hơn là sự mất công
bằng về thu nhập.
Xét trên quan điểm thực tế vẫn phải đồng ý rằng, mất công bằng trong tiếp
cận dịch vụ y tế có thể ảnh hƣởng đến chính họ. Tác động ngoại ứng tiêu cực của
những bệnh nhân lao, AIDS, … hay tệ nạn xã hội, bất ổn định xã hội nảy sinh do
“bẫy nghèo trong y tế” đều là những nguy cơ không loại trừ ai. Sự không công bằng
cũng gây ảnh hƣởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh do mất hoặc giảm sút sức lao
động, cản trở quá trình phát triển bền vững. Nhƣ vậy, công bằng trong CSSK nhân
dân là một trong những nội dung của công bằng xã hội, nó là mục tiêu phấn đấu của
bất kỳ Nhà nƣớc nào để nhằm đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế
đất nƣớc. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, vấn đề công bằng trong CSSK là rất khác
nhau, nó phụ thuộc vào quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền và khả năng
kinh tế của đất nƣớc.
Công bằng trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ CSSK theo nghĩa hẹp, đó là
sự ngang bằng về địa lý trong tiếp cận cơ sở y tế, theo nghĩa rộng thì nó bao hàm cả
chất lƣợng dịch vụ và khả năng chi trả dịch vụ đến các nhóm khác nhau trong xã hội
(về giới tính, dân tộc, đẳng cấp, tôn giáo).
42
“Công bằng theo chiều ngang có nghĩa là cung cấp các dịch vụ y tế giống
nhau cho những cộng đồng, cá nhân có nhu cầu CSSK nhƣ nhau và thu phí nhƣ
nhau đối với những cộng đồng, cá nhân nào có khả năng trả phí dịch vụ nhƣ nhau”
[35, trang 222].
“Công bằng theo chiều dọc có nghĩa là cung cấp những dịch vụ y tế nhiều
hơn cho những cộng đồng, cá nhân có nhu cầu CSSK nhiều hơn so với cộng đồng,
cá nhân có nhu cầu CSSK ít hơn; mức thu phí sẽ phải cao hơn với những cộng đồng
ngƣời có khả năng chi trả cao hơn” [35, trang 222].
Tuy nhiên, ý tƣởng công bằng tuyệt đối theo kiểu ngang bằng, bình quân,
cào bằng trong CSSK là điều không thể thực hiện, khi chúng ta đối mặt với nguồn
lực có hạn và nhu cầu vô hạn. Một mặt cần đảm bảo quyền tự quyết của ngƣời tiêu
dùng, mặt khác cần tránh sự khác biệt về tiếp cận cũng nhƣ sử dụng dịch vụ y tế đến
mức xã hội khó chấp nhận. Đi cùng với quyền tự quyết của ngƣời tiêu dùng, Nhà
nƣớc rất cần phải chăm lo đến những dịch vụ y tế cơ bản của mọi ngƣời. Khái niệm
của Liên Hiệp Quốc về dịch vụ y tế cơ bản là tất cả các dịch vụ y tế ở các trạm,
trung tâm y tế xã phƣờng; các phòng khám đa khoa khu vực, các bệnh viện và các
trung tâm y tế quận huyện; chăm sóc sức khỏe ban đầu; y tế dự phòng; các chƣơng
trình y tế công cộng, ….
Có thể thấy rằng đây cũng chính là quan điểm chỉ đạo công tác chăm sóc bảo
vệ sức khỏe nhân dân của ngành Y tế, là bản chất nhân đạo và định hƣớng xã hội
chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trƣờng đòi hỏi sự công bằng và hiệu quả trong chăm
sóc sức khỏe. Thực hiện công bằng là đảm bảo cho mọi ngƣời đều đƣợc chăm sóc
sức khỏe cơ bản từng bƣớc và đƣợc nâng cao, phù hợp với khả năng kinh tế của xã
hội. Đồng thời Nhà nƣớc có chính sách khám, chữa bệnh miễn phí và giảm phí đối
với ngƣời có công với nƣớc, ngƣời nghèo, ngƣời sống ở các vùng có nhiều khó
khăn và đồng bào các dân tộc thiểu số.
43
Khi nói đến công bằng nghĩa là đề cập đến những dịch vụ nào đƣợc cung cấp
và ai là ngƣời trả tiền cho dịch vụ đó tại những cộng đồng dân cƣ có điều kiện kinh
tế, văn hóa, xã hội khác nhau, theo các vùng địa lý khác nhau.
Công bằng trong đóng góp tài chính nghĩa là đóng góp theo khả năng chi trả.
Những ngƣời có thu nhập cao thì đóng góp cao và thu nhập thấp thì đóng góp ít.
Nhƣ vậy, đóng góp cho tài chính y tế thông qua nộp thuế thu nhập là một hình thức
đóng góp mang tính công bằng. Đóng góp phí BHYT xã hội, theo tỷ lệ phần trăm
nhất định của thu nhập của ngƣời lao động, cũng đƣợc coi là công bằng. Những
ngƣời thu nhập thấp hoặc không có thu nhập, về danh nghĩa không phải đóng, hoặc
đƣợc NSNN bao cấp. Trong khi đó, “công bằng trong hƣởng thụ dịch vụ nghĩa là
ngƣời hƣởng thụ đƣợc hƣởng dịch vụ y tế theo nhu cầu trong khám, chữa bệnh của
mình. Việc hƣởng thụ không liên quan đến mức độ đóng góp. Việc hƣởng thụ ở đây
bao gồm khả năng tiếp cận dịch vụ và chất lƣợng dịch vụ (chất lƣợng chuyên môn)
đƣợc hƣởng. Đó chính là sự khác biệt của khái niệm công bằng từ góc độ sức khỏe
y tế so với khái niệm công bằng trong kinh tế và cơ chế thị trƣờng” [38].
Hai cơ chế tài chính cho y tế từ nguồn thuế của nhà nƣớc và BHYT xã hội sẽ
công bằng hơn nhiều so với cơ chế chi trực tiếp của hộ gia đình. Hai cơ chế tài
chính trên dựa vào các khoản chi trả trƣớc, có tích lũy và tập trung quỹ, tách bạch
giữa mức độ đóng góp và mức độ hƣởng thụ, do đó có chia sẻ rủi ro. Trong khi đó,
với cơ chế hộ gia đình chi trả trực tiếp (chi trả giá DVYT trực tiếp) thì không có tập
trung quỹ và không chia sẻ rủi ro. Theo cơ chế này, nếu không có sự hỗ trợ của Nhà
nƣớc thì những ngƣời không có khả năng chi trả sẽ không thể tiếp cận đƣợc dịch vụ,
hoặc nhận dịch vụ với chất lƣợng thấp, hoặc trở nên hộ nghèo vì chi phí ốm đau.
BHYT tƣ nhân và BHYT cộng đồng cũng có sự tập trung quỹ và chia sẻ rủi ro, song
mức độ hạn chế hơn, bởi những hộ gia đình nguy cơ cao hoặc không có khả năng
đóng góp có thể bị loại trừ.
44
1.2. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH Y TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG Ở VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, mục tiêu của chính sách tài chính y tế
1.2.1.1. Khái niệm chính sách tài chính y tế
Theo quan điểm của tác giả, chính sách tài chính y tế là một hệ thống các
quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc và các công cụ, biện pháp thích hợp mà Chính phủ
một nƣớc sử dụng để huy động các nguồn lực tài chính, đảm bảo phát triển sự
nghiệp y tế nƣớc mình phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trƣớc đó, đồng thời
phải phù hợp với chiến lƣợc CSSK ngƣời dân và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nƣớc hiện tại và trong tƣơng lai.
Chính sách tài chính y tế bao gồm các bộ phận cơ bản nhƣ: Chính sách về
thuế với các đơn vị sự nghiệp y tế; chính sách giá dịch vụ y tế; chính sách bảo hiểm
y tế; chính sách hỗ trợ viện phí đối với ngƣời có công với nƣớc, ngƣời già yếu, neo
đơn, với trẻ em, với ngƣời nghèo, ….
1.2.1.2. Đặc điểm của chính sách tài chính y tế
Chính sách tài chính y tế của mỗi quốc gia đều phải phù hợp với mô hình y
tế của quốc gia đó, các chính sách tài chính phổ biến hiện nay trên thế giới gồm có:
Chính sách tài chính y tế dựa vào NSNN: Chính sách tài chính y tế này
nguồn chi cho y tế chủ yếu dựa vào NSNN (chủ yếu từ thuế thu nhập). Hệ thống
cung cấp dịch vụ y tế có thể là công hoặc tƣ. Ngƣời dân ở các quốc gia theo chính
sách này đều đƣợc khám chữa bệnh miễn phí. Triết lí của chính sách này là “Xã hội
chăm sóc con ngƣời từ khi sinh ra đến khi chết đi”. Đây là chính sách mang tính
chất thị trƣờng xã hội đề cao CSSK ban đầu, đề cao tính cộng đồng thông qua phát
triển y tế công lập và y tế cộng đồng, đáp ứng chủ yếu theo nhu cầu về bệnh tật và
sức khoẻ (nhu cầu về CSSK của ngƣời nghèo cao hơn so với ngƣời giàu); do đó đề
cao tính chất công bằng xã hội, nhƣng lại dễ ỷ lại vào cộng đồng và thiếu tính năng
động cá nhân và dẫn đến trì trệ trong quản lý và kém hiệu quả. Chính sách tài chính
y tế này đòi hỏi mức thuế thu nhập rất cao (30-50%) và tỷ lệ chi phí công cho y tế
45
cũng rất cao (60-90%). Điều kiện để thực hiện chính sách tài chính y tế này là:
NSNN đủ lớn, nền kinh tế phát triển, hệ thống thu thuế hoàn thiện.
Chính sách tài chính y tế dựa vào thuế, hệ thống cung ứng dịch vụ y tế là
công lập. Mọi dịch vụ y tế đều mang tính xã hội. Mọi ngƣời dân đều không phải trả
tiền khi sử dụng dịch vụ y tế. Chính quyền các cấp có trách nhiệm cung cấp các
dịch vụ y tế. Mọi nguồn lực y tế đều đƣợc kế hoạch hóa trong hệ thống kinh tế kế
hoạch tập trung, do nguồn lực hạn chế nên dành ƣu tiên cho trẻ em, ngƣời già.
Ngƣời dân đƣợc tham gia vào việc hoạch định chính sách y tế. Mọi thành phần của
hệ thống y tế đều đặt dƣới sự điều khiển của Bộ Y tế và các cơ quan hữu quan. Y tế
tƣ nhân đặt dƣới sự kiểm soát chặt chẽ của Chính phủ.
Chính sách tài chính y tế dựa vào BHYT: Ở các quốc gia thực hiện chính
sách tài chính y tế này thì tất cả ngƣời dân đều phải mua BHYT và phải trả tiền túi
cho mọi chi phí y tế theo yêu cầu. Chính phủ chỉ mua BHYT cho ngƣời nghèo.
Ngƣời dân đƣợc quyền lựa chọn bất kỳ quỹ BHYT nào và phải đóng mức phí mua
BHYT. Quỹ BHYT là trách nhiệm đóng góp của cả cá nhân, chủ sở hữu lao động
và Nhà nƣớc. Quyền lợi của ngƣời mua BHYT đƣợc hƣởng là cái “cần” chứ không
phải ngang bằng giữa mọi ngƣời. BHYT là các cơ quan hoạt động không lợi nhuận
mặc dù việc cung ứng dịch vụ y tế chủ yếu do tƣ nhân đảm nhiệm.
Ở nƣớc ta hiện nay đang xây dựng chính sách tài chính theo mô hình y tế phù
hợp với nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN. "Cơ sở của mô hình này là trong
thực tiễn các quy luật của kinh tế thị trƣờng không thể vận dụng nguyên xi trong
quản lý y tế, nhất là quy luật song hành giữa cống hiến và hƣởng thụ" [38]. Trong
quản lý y tế có những đối tƣợng ít làm ra của cải cho xã hội, nhƣng xã hội vẫn phải
đảm bảo các dịch vụ y tế cho họ, khi họ có những rủi ro về sức khỏe, có thể gây ảnh
hƣởng đến sức khỏe của cộng đồng (nhất là những căn bệnh xã hội, bệnh thế kỷ nhƣ
HIV/AIDS, cúm H5N1, bệnh truyền nhiễm gây dịch bệnh…), cả xã hội phải chăm
sóc họ vì việc chăm sóc cho họ ngoài việc thể hiện tính nhân đạo còn là việc bảo vệ
sức khỏe cho cộng đồng.
46
Đồng thời khác với các dịch vụ khác mang tính chất tiêu dùng thông thƣờng,
các dịch vụ y tế, “đặc biệt là dịch vụ mang tính chất cấp cứu liên quan đến sinh
mạng con ngƣời thì chúng ta không thể đa dạng hóa các gói dịch vụ theo kiểu "tiền
nào của đó", không thể thực hiện "dịch vụ rẻ tiền" cho ngƣời nghèo, còn “dịch vụ
đắt tiền” cho ngƣời giàu đƣợc" [38].
Nhƣ vậy, chính sách tài chính y tế cho mô hình y tế trong kinh tế thị trƣờng
của Việt Nam là một mô hình hỗn hợp có đặc điểm: Dựa vào NSNN, dựa vào
BHYT, dựa vào tiền chi trả trực tiếp từ ngƣời dân và dựa vào các nguồn lực khác
trong xã hội. Hệ thống cung cấp dịch vụ y tế có thể là công hoặc tƣ, nhƣng hệ thống
y tế công đóng vai trò chủ đạo nhằm mục tiêu công bằng - hiệu quả - phát triển.
1.2.1.3. Mục tiêu của chính sách tài chính y tế
Mục tiêu tổng quát của chính sách tài chính y tế nƣớc ta là nhằm vào việc
tăng cƣờng hiệu quả hệ thống cung ứng các dịch vụ y tế và đảm bảo công bằng, sao
cho ngƣời nghèo, ngƣời sống tại khu vực khó khăn, khu vực chậm phát triển,...
nhận đƣợc sự ƣu tiên nhiều nhất, phải đƣợc tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản,
thiết yếu. Các mục tiêu cụ thể là:
Chính sách tài chính y tế phải hƣớng tới đích là con ngƣời, sự phát triển của
con ngƣời về cả trí tuệ và thể chất, hƣớng tới toàn cộng đồng xã hội, phải chú ý đến
những đối tƣợng xã hội đặc biệt, tầng lớp yếu thế trong xã hội, những ngƣời thiếu
điều kiện sống bình thƣờng nhƣ ngƣời nghèo, ngƣời cao tuổi,...
Xuất phát từ cơ cấu xã hội, thực trạng phát triển kinh tế xã hội, xây dựng
chính sách tài chính y tế sao cho phù hợp với tình hình mới, tránh các yếu tố kìm
hãm hoặc đi ngƣợc với định hƣớng phát triển của ngành y tế. Cơ cấu xã hội sẽ thay
đổi theo sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, chính sách tài chính y tế cũng luôn
phải tính tới sự thay đổi không ngừng của các quan hệ xã hội, cơ cấu bệnh tật trong
bối cảnh mới, để đạt đƣợc hiệu quả cao.
Phải xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế, để đề ra và vận dụng các chính
sách tài chính y tế phù hợp, cần gắn các chính sách tài chính y tế với các chính sách
47
kinh tế, bởi điều kiện kinh tế là tiền đề cho các chính sách tài chính y tế. Sẽ là
không tốt nếu chính sách tài chính y tế vƣợt quá mức hoặc tụt hậu so với sự phát
triển của lực lƣợng sản xuất, nếu tụt hậu so với sự phát triển của kinh tế sẽ làm kìm
hãm sự phát triển của kinh tế, để lại nhiều hậu quả cho xã hội nhƣ: Bệnh tật, sức lao
động giảm, suy giảm giống nòi, bất công bằng trong xã hội,.... Ngƣợc lại nếu vƣợt
quá sự chịu đựng của tổng thu nhập quốc dân thì đây lại là một gánh nặng, hạn chế
sự phát triển kinh tế. Vì vậy cần xác định mối liên hệ giữa y tế và kinh tế là bền
chặt, cùng nhau phát triển và phối hợp một cách hài hòa.
Xây dựng chính sách tài chính y tế cần đặt trong bối cảnh có sự khác biệt về
trình độ phát triển, lịch sử, văn hóa, bản sắc từng vùng miền. Chính sách tài chính y
tế hƣớng tới con ngƣời, đối tƣợng hƣởng thụ ở các vùng miền với các đặc điểm
kinh tế, văn hóa, tôn giáo, tín ngƣỡng, lịch sử khác nhau, cho nên hoạch định chính
sách tài chính y tế cần có sự linh hoạt để phù hợp với đặc thù của từng khu vực.
Chính sách tài chính y tế là một bộ phận trong hệ thống đồng bộ các chính
sách y tế và các chính sách xã hội, nên cần có sự phối hợp giữa các chính sách để có
thể đạt mục tiêu mang lại lợi ích xã hội cao nhất.
1.2.1.4. Những yếu tố cơ bản của chính sách tài chính y tế
Khi xây dựng chính sách tài chính y tế, cần phải xem xét đến các yếu tố cơ
bản nhƣ: Đặc điểm địa lý dân cƣ, hiện trạng kinh tế - văn hóa - xã hội, các vấn đề về
sức khỏe, các vấn đề trong cung cấp dịch vụ y tế, nguồn lực sẵn có, chính sách phát
triển kinh tế - văn hóa - xã hội, nền tảng chính trị, triết học và đạo đức, luật pháp và
quy chế hành chính. Đặc điểm địa lý, khí hậu quyết định tới việc bố trí mạng lƣới y
tế sao cho dễ tiếp cận với ngƣời dân. Đồng thời liên quan tới tình hình sức khỏe,
bệnh tật của một khu vực. Hiện trạng kinh tế - văn hóa - xã hội là yếu tố quan trọng
tác động tới quá trình phát triển ngành y tế và quá trình sử dụng các cơ sở y tế của
Nhà nƣớc. Các yếu tố và hoàn cảnh không thuận lợi cho con ngƣời sinh sống và làm
việc, nhƣ là chiến tranh, sự bất ổn về kinh tế - xã hội, tình hình an ninh trật tự, an
toàn xã hội, môi trƣờng sinh sống ô nhiễm, khó tiếp cận các dịch vụ chăm sóc y tế,
48
quá nhiều tệ nạn xã hội nhƣ mại dâm, ma túy, thực phẩm chứa nhiều chất độc hại,
kỳ thị chủng tộc, giới tính, vị trí xã hội, quan hệ xã hội, việc làm, mức thu nhập,
mức sống, kinh tế chậm phát triển,.... Những yếu tố này, ngành y tế không giải
quyết hết đƣợc mà đây phải là công việc của tất cả các ngành, cộng đồng, quốc gia.
Vì vậy, cần thiết phải có sự chung tay tất cả các ban ngành, đoàn thể và của toàn xã
hội cùng phối hợp để nâng cao hiệu quả, nhằm giải quyết thật tốt sự ảnh hƣởng các
yếu tố xã hội này. Giải quyết vấn đề các yếu tố xã hội ảnh hƣởng đến sức khỏe, là
phải xây dựng các chính sách kinh tế và xã hội, trong đó có chính sách tài chính y tế
để khắc phục các tác động tiêu cực của các yếu tố này đối với sức khỏe ngƣời dân,
hƣớng tới mục tiêu thực hiện công bằng xã hội, trong đó có công bằng trong chăm
sóc y tế cho mọi ngƣời, nâng cao sức khỏe cộng đồng. Bên cạnh đó yếu tố nguồn
lực y tế bao gồm nhân lực, kinh phí, cơ sở vật chất trong thời gian hiện tại và trong
tƣơng lai là yếu tố quyết định sự phát triển của ngành y tế. Nguồn nhân lực y tế
không chỉ là số lƣợng, mà còn là chất lƣợng và khả năng điều động nhân lực,... vì
vậy các chính sách tài chính y tế phải luôn đảm bảo phân bổ hợp lý để nguồn lực y
tế phát triển đồng bộ. Trong các yếu tố nêu trên sơ đồ (Sơ đồ 1.4) quan trọng nhất là
nền tảng chính trị, triết học và các chủ trƣơng của Nhà nƣớc về công tác y tế.
Chính sách tài chính y tế phải có tính kế thừa những ƣu điểm của các chính
sách trƣớc đó. Chính sách tài chính y tế luôn đảm bảo đúng theo chiến lƣợc phát
triển của ngành y tế và của quốc gia, tuy nhiên chính sách tài chính y tế không bất
biến mà luôn đƣợc đều chỉnh ngay từ trong quá trình thực thi, luôn cần nhận đƣợc
các thông tin phản hồi từ cộng đồng và kết quả đánh giá các thành quả mang lại.
49
Các vấn đề sức khỏe
Nguồn lực sẵn có
Các vấn đề trong cung cấp dịch vụ Y tế
Chính sách phát triển KT - VH - XH
Hiện trạng KT - VH - XH
MỤC TIÊU CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH Y TẾ
Nền tảng chính trị, triết học và đạo đức
Luật pháp và quy chế hành chính
Đặc điểm địa lý dân cƣ
ĐẢM BẢO CUNG CẤP NGUỒN LỰC VÀ GIẢI PHÁP MỘT CÁCH CÔNG BẰNG VÀ CÓ HIỆU QUẢ
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
KẾT QUẢTÁC ĐỘNG TRÊN CÁC CHỈ TIÊU SỨC KHỎE
Sơ đồ 1.4. Những yếu tố cơ bản quyết định tới chính sách tài chính y tế
1.2.2. Nội dung của những chính sách tài chính y tế
Nội dung của chính sách tài chính y tế phải phù hợp với mô hình y tế của
mỗi nƣớc. Chính phủ các nƣớc xây dựng các chính sách tài chính y tế phải phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách tài chính y tế phải phù hợp với
từng thời kỳ, phù hợp với tình hình chính trị, xã hội. Chính sách tài chính y tế
không phải là bất biến mà luôn đƣợc nghiên cứu, điều chỉnh để đạt đƣợc mục tiêu là
mọi ngƣời dân đƣợc CSSK tốt nhất với chi phí thấp nhất.
50
1.2.2.1. Nội dung của chính sách huy động các nguồn tài chính y tế
Tài chính y tế trong mọi thời kỳ đều luôn phải tuân thủ theo quan điểm huy
động tài chính từ các nguồn lực khác nhau, vì nguồn lực là hữu hạn mà nhu cầu
CSSK thì ngày càng tăng cao. Các nguồn tài chính y tế chủ yếu là:
Một là, nguồn NSNN cấp cho y tế nhằm mục đích chăm lo sức khỏe cho
ngƣời dân, đảm bảo sự cần thiết và phát triển của lực lƣợng sản xuất phục vụ cho
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Nguồn cung cấp tài chính cho các
dịch vụ y tế là Chính phủ và chính quyền địa phƣơng các cấp sau khi có sự phê
duyệt của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Trong trƣờng hợp này hoạt động
của hệ thống y tế đƣợc hỗ trợ từ thuế và các khoản thu nhập khác của Chính phủ và
đƣợc gọi là bao cấp công cộng. Bao cấp công cộng hợp lý cho các lĩnh vực CSSK
mang lại lợi ích rộng rãi, nhƣ các chƣơng trình sức khỏe công cộng: kiểm soát ô
nhiễm, vệ sinh thực phẩm, phòng chống lao, phòng chống HIV,.... Ngoài ra bao cấp
công cộng còn rất cần thiết cho dịch vụ điều trị và chăm sóc cá nhân cho những
ngƣời nghèo khó, ngƣời có thu nhập thấp là những ngƣời không có khả năng chi trả
tiền dịch vụ. Trong trƣờng hợp này không thể xem xét tính hiệu quả kinh tế của việc
chi phí mà xem xét về tính công bằng xã hội mà Chính phủ phải đảm bảo.
Nếu xét dƣới góc độ công bằng trong hƣởng thụ các dịch vụ y tế của ngƣời
dân thì huy động nguồn tài chính qua ngân sách nhà nƣớc là ƣu việt nhất. NSNN là
nguồn tài chính tốt nhất trong việc chia sẻ những khó khăn về tài chính để CSSK,
làm giảm sự chênh lệch trong hƣởng thụ các dịch vụ y tế giữa ngƣời nghèo và
ngƣời giàu, giữa vùng nghèo và vùng giàu, giữa ngƣời có thu nhập và ngƣời không
có thu nhập, giữa ngƣời có sức khỏe và ngƣời khiếm khuyết về sức khỏe, giữa
ngƣời trong độ tuổi lao động và ngƣời ngoài độ tuổi lao động.
Hai là, nguồn BHYT là hình thức bảo hiểm đƣợc áp dụng trong lĩnh vực
CSSK, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nƣớc tổ chức thực hiện và các đối
tƣợng có trách nhiệm tham gia theo quy định của luật Bảo hiểm Y tế. BHYT sẽ giúp
con ngƣời khắc phục những khó khăn về tài chính khi bệnh tật xảy ra. Ngoài tính
chất chung của một chế độ an sinh xã hội, BHYT còn có đối tƣợng tham gia rộng
51
rãi, bao gồm mọi thành viên trong xã hội không phân biệt giới tính, tuổi tác, khu
vực làm việc, hình thức quan hệ lao động, …"BHYT không nhằm bù đắp thu nhập
cho ngƣời hƣởng bảo hiểm (nhƣ chế độ BHXH ốm đau, tai nạn lao động, …) mà
nhằm CSSK cho họ khi bị bệnh tật, ốm đau, … trên cơ sở quan hệ BHYT mà họ
tham gia. BHYT là chi phí ngắn hạn, không xác định trƣớc, không phụ thuộc vào
thời gian đóng, mức đóng mà phụ thuộc vào mức độ bệnh tật và khả năng cung ứng
các dịch vụ y tế" [44, trang 147].
Bên cạnh nguồn tài chính từ NSNN cấp, xét dƣới góc độ công bằng trong
hƣởng thụ dịch vụ y tế, còn có nguồn tài chính từ chính sách BHYT bắt buộc.
BHYT bắt buộc là chƣơng trình BHYT mà trong đó mức phí đóng bảo hiểm đƣợc
tính theo tỷ lệ thu nhập của ngƣời lao động, trong khi quyền lợi khám chữa bệnh
đƣợc hƣởng không theo mức phí đóng góp mà theo nhu cầu KCB. BHYT bắt buộc
có tính ƣu việt là thể hiện tính chia sẻ cao trong cộng đồng, nhƣng nó cũng có
nhƣợc điểm là chỉ giới hạn trong nhóm những ngƣời tham gia bảo hiểm. Vì vậy, để
khắc phục nhƣợc điểm của BHYT, Chính phủ đã chi tiền NSNN để mua BHYT cho
ngƣời nghèo và những ngƣời thuộc diện chính sách cần hỗ trợ. Ngoài BHYT bắt
buộc còn có hình thức BHYT tự nguyện cũng là nguồn tài chính y tế quan trọng.
Ba là, nguồn tài chính y tế còn đƣợc huy động từ viện phí. Viện phí đƣợc
xem là giá các dịch vụ y tế, đó là mức giá mà bệnh nhân phải trả cho các cơ sở y tế
sau khi nhận đƣợc các dịch vụ y tế phục vụ cho mình. Viện phí có thể đƣợc xem là
một cơ chế hiệu quả của tài chính y tế, đặc biệt khi giá thành đƣợc tính đầy đủ sẽ
duy trì khối lƣợng và chất lƣợng của dịch vụ y tế. Nhƣ vậy để có dịch vụ y tế hiệu
quả, chất lƣợng đòi hỏi phải trả giá thành đầy đủ, có nghĩa là chi trả viện phí phải
cao. Điều này thƣờng ảnh hƣởng đến ngƣời nghèo, vì nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế
của ngƣời nghèo là rất lớn, trong khi khả năng chi trả của ngƣời nghèo lại hạn chế.
Nếu mức viện phí cao, mặc dù các dịch vụ y tế rất chất lƣợng, hiệu quả nhƣng nhu
cầu sử dụng các dịch vụ đó không đƣợc thỏa mãn cho ngƣời nghèo.
So với nguồn NSNN và BHYT bắt buộc, viện phí ít mang tính công bằng
trong CSSK của cộng đồng. Ngƣời có tiền chi trả viện phí cao sẽ đƣợc hƣởng các
52
dịch vụ y tế cao cấp hơn, còn ngƣời nghèo khi buộc phải chi trả viện phí cao sẽ
không đủ tiền chi trả, phải vay mƣợn và dễ dẫn đến nghèo đói sau khi lành bệnh.
Nếu xét về việc vận hành các cơ sở cung ứng dịch vụ trong điều kiện ngân sách cấp
không đủ và BHYT không đủ chi, thì nguồn viện phí đƣợc xem là nguồn thu quan
trọng, giúp các cơ sở cung ứng dịch vụ có đủ nguồn tài chính, bổ sung trang trải các
chi phí để mua sắm trang thiết bị y tế cần thiết và chi phí thƣờng xuyên của mình.
Trong ba nguồn tài chính y tế ở trên, NSNN cấp và BHYT mang tính chất
công nên thƣờng đƣợc xếp vào nhóm “ngân sách công” và viện phí là nguồn tài
chính mang tính chất tƣ nên đƣợc liệt vào nhóm “ngân sách tƣ”.
1.2.2.2. Nội dung của chính sách phƣơng thức chi trả dịch vụ y tế
Phƣơng thức chi trả phù hợp đƣợc coi là biện pháp tích cực để nâng cao hiệu
quả sử dụng nguồn lực tài chính y tế. "Phƣơng thức chi trả không đơn thuần là cách
hoàn trả chi phí cho ngƣời cung ứng dịch vụ, mà còn đƣợc coi là nút điều khiển hệ
thống y tế, bởi vì nó tác động trực tiếp đến hành vi cung ứng và sử dụng dịch vụ
cũng nhƣ chi phí dịch vụ, có ảnh hƣởng đến tính công bằng, hiệu quả và chất lƣợng
của hệ thống y tế” [12, trang 147]. Phƣơng thức chi trả ở đây đƣợc hiểu theo nghĩa
rộng, bao gồm cơ chế cấp tài chính cho cơ sở KCB, chi trả DVYT, trả thù lao, phụ
cấp cho nhân viên y tế,.... Phƣơng thức chi trả cần phải đƣợc đáp ứng các yêu cầu
kiềm chế gia tăng chi phí không hợp lý, trong đó có sự kết hợp hài hòa các phƣơng
thức chi trả thích hợp cho các nhóm dịch vụ ƣu tiên. Các phƣơng thức chi trả hiện
nay là:
Phân bổ kinh phí theo mục NSNN, "phƣơng thức chi trả này chủ yếu theo
định hƣớng nguồn lực đầu vào dựa trên hai tiêu thức chính: Dân số có phân biệt
theo vùng; theo giƣờng bệnh kế hoạch cho từng tuyến, từng loại hình KCB, khả
năng nguồn thu của từng cơ sở" [77]. Đây là phƣơng thức chi trả thông qua nguồn
ngân sách công, giúp hạn chế bớt sự phụ thuộc của cơ sở vào nguồn thu từ dịch vụ,
thu trực tiếp từ ngƣời sử dụng dịch vụ. Hình thức chi trả này, giúp cho các cơ sở có
đƣợc nguồn lực tƣơng đối ổn định để thực hiện cung ứng dịch vụ CSSK, nhất là với
các nhóm dịch vụ không có tiềm năng phục hồi chi phí. Ở mức độ nhất định, cách
53
thức chi trả này có thể góp phần làm giảm bớt rào cản trong tiếp cận dịch vụ cho
những ngƣời chi trả trực tiếp.
"Hình thức phân bổ kinh phí theo mục ngân sách cũng có những hạn chế về
công bằng trong cơ hội hƣởng thụ hỗ trợ từ NSNN, khi các nhóm thu nhập thấp
không có điều kiện tiếp cận tốt tới các cơ sở dịch vụ ở các tuyến kỹ thuật cao. Ở
phƣơng diện khác, đây là phƣơng thức chi trả theo yêu cầu nguồn lực đầu vào, thiếu
sự gắn kết giữa nguồn lực sử dụng với kết quả đầu ra, cũng nhƣ với chất lƣợng dịch
vụ" [13, trang 143].
Chi trả theo dịch vụ (FFS- fee for service), "phƣơng thức này chi trả theo
từng dịch vụ đơn lẻ (dịch vụ khám bệnh, dịch vụ xét nghiệm, dịch vụ ngày
giƣờng...)" [13, trang 143]. Phƣơng thức chi trả theo dịch vụ cũng có những ƣu
điểm riêng, nếu đƣợc thực hiện với cơ chế định giá để kiểm soát chi phí. "Khi
nguồn thu đƣợc xác lập trực tiếp theo khối lƣợng dịch vụ và có mức chi trả (giá dịch
vụ) cao hơn chi phí cung cấp dịch vụ, cơ chế này thúc đẩy năng suất cung cấp dịch
vụ của cơ sở cung ứng dịch vụ và xa hơn là thúc đẩy công suất hoạt động của cả
mạng lƣới cung cấp dịch vụ y tế" [13, trang 144]. Phƣơng thức này nên đƣợc xem
xét áp dụng cho các nhóm dịch vụ cần đƣợc khuyến khích cung ứng và sử dụng.
Mức chi trả theo dịch vụ cho bên cung ứng, cũng cần đƣợc cân đối hợp lý với chi
phí cần thiết để phục vụ các mục tiêu chính sách, nhằm giảm sự lệ thuộc của nhà
cung cấp vào các chi phí từ tiền túi của ngƣời sử dụng dịch vụ. Điều này là cần thiết
cho mục tiêu giảm thiểu rào cản tài chính trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ.
"Phƣơng thức chi trả theo dịch vụ đƣợc đánh giá là có nhiều bất cập, tạo nên
rào cản tài chính, cản trở khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ CSSK cơ bản cần
thiết của ngƣời dân, nhất là nhóm thu nhập thấp" [13, trang 144]. Thêm nữa khi
thông tin chƣa đầy đủ để tính chi phí chính xác, và khi định giá cao hơn chi phí
cung cấp, nó khuyến khích cơ sở y tế cung cấp nhiều dịch vụ hơn, do khoản thanh
toán phụ thuộc vào số lƣợng dịch vụ, chứ không phải là chất lƣợng chăm sóc.
"Chi trả theo định suất là phƣơng thức chi trả trong đó quỹ BHYT cấp cho cơ
sở y tế một khoản tiền bằng số ngƣời đăng ký KCB theo BHYT tại cơ sở nhân với
54
định suất phí. Ngân sách này đƣợc gọi là quỹ BHYT tại cơ sở y tế và đƣợc sử dụng
để giải quyết các nhu cầu KCB của tổng thể đối tƣợng đăng ký tại cơ sở đó" [27].
Để tính định suất phí, phải sử dụng số liệu về tần suất sử dụng dịch vụ y tế kết hợp
với số liệu tổng hợp về chi phí cung cấp dịch vụ. Điều tra hộ gia đình cung cấp
thông tin đầy đủ về số lần nhập viện, số lần sử dụng dịch vụ ngoại trú, số ngày điều
trị nội trú theo loại cơ sở y tế. Số liệu về tổng chi của bệnh viện kết hợp với tổng số
ca nhập viện, tổng số lần KCB đƣợc sử dụng để tính chi phí đơn vị, tức là chi phí
bình quân một đợt điều trị nội trú và chi phí bình quân một lần KCB.
"Theo quy định áp dụng định suất, các bệnh viện phải chi dƣới tổng số kinh
phí đƣợc cung cấp theo định suất, và không có khoản bổ sung nếu bội chi. Các yếu
tố này khuyến khích cung cấp dịch vụ hiệu quả hơn, giảm nguy cơ tăng chi phí
KCB, thông qua việc tiết giảm chi phí xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh không cần
thiết" [77]. Tuy nhiên, phƣơng thức chi trả này thiết kế thiếu tính hệ thống và chƣa
tuân thủ những nguyên tắc và yêu cầu điều chỉnh theo thực tế mô hình bệnh tật, nhu
cầu CSSK. Suất phí thấp và chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu chi phí cung ứng dịch vụ.
Phƣơng thức định suất sẽ hiệu quả hơn nếu lồng ghép hài hòa các yếu tố khuyến
khích năng suất, chất lƣợng dịch vụ, đồng thời bảo vệ cơ sở cung ứng dịch vụ khỏi
những rủi ro tài chính do phải chi phí nhiều cho các trƣờng hợp bệnh nặng, chi phí
cao nhất là các cơ sở cung ứng dịch vụ ở tuyến cuối.
"Chi trả theo trƣờng hợp bệnh (DRG - Diagnosis Related Group) là phƣơng
thức chi trả mà mỗi bệnh nhân cùng một chẩn đoán sẽ đƣợc hoàn trả chi phí điều trị
ở mức nhƣ nhau" [77]. Khác với định suất là mức hoàn trả cho cơ sở cung cấp dịch
vụ theo trƣờng hợp bệnh, gắn liền với mô hình bệnh tật đƣợc điều trị và chi phí
trung bình của các nhóm bệnh đó. Khác với phí theo dịch vụ, khoản tiền đƣợc hoàn
trả cho bệnh viện là mức trung bình đối với bệnh đó, không phải thực thanh thực
chi, và khoản tiền hoàn trả đƣợc xác định trƣớc khi khám chữa bệnh.
Đánh giá tác động của phƣơng thức chi trả theo trƣờng hợp bệnh đối với hệ
thống y tế, ngƣời bệnh, các cơ sở y tế và thầy thuốc nhận thấy thông tin điện tử cho
phép phân tích chi tiết, xác định hành vi gian lận, xác định những bệnh chiếm tỷ lệ
55
lớn trong ngân sách tổng thể có thể tìm giải pháp phòng bệnh hoặc giảm mức độ
nặng, nhẹ, giảm chi phí điều trị, …."Phƣơng thức chi trả theo trƣờng hợp bệnh đƣợc
mở rộng thì khả năng thu thuế tăng lên, môi trƣờng chính trị thuận lợi cho những
chính sách và điều kiện phù hợp để thành lập cơ chế BHYT toàn dân". Tuy nhiên
phƣơng thức chi trả theo trƣờng hợp bệnh đƣa vào sử dụng rộng rãi, đòi hỏi nỗ lực
rất lớn để tăng cƣờng năng lực trong cả hệ thống BHYT và các các cơ sở cung ứng
dịch vụ, nội dung bao gồm các kỹ năng tính toán xác suất bảo hiểm, phát hiện sự
gian lận qua phân tích dữ liệu,.... Các cơ chế quản lý chất lƣợng phải đƣợc tăng
cƣờng nhƣ hệ thống kiểm định chất lƣợng, quy trình chuyên môn để tạo ra những
tiêu chuẩn an toàn, chất lƣợng có thể sử dụng trong hợp đồng thanh toán theo
phƣơng thức chi trả theo trƣờng hợp bệnh, ….
1.2.2.3. Nội dung của chính sách chi công và chi tƣ trong tổng chi xã hội cho y
tế
“Chi công là khoản chi cho một dịch vụ từ nguồn thu thuế của nhà nƣớc, hay
từ quỹ BHYT xã hội, hay từ nguồn vốn vay, viện trợ nƣớc ngoài (do nhà nƣớc điều
phối)” [48].
“Chi tƣ là các khoản chi do cá nhân, hộ gia đình trả trực tiếp cho nhà cung
ứng dịch vụ khi ốm đau và sử dụng dịch vụ, khi mua thuốc và các vật tƣ thiết bị liên
quan đến sức khỏe. Chi tƣ bao gồm chi trả DVYT và các khoản đồng chi trả (khi
khám chữa bệnh sử dụng thẻ BHYT) do bệnh nhân trả trực tiếp từ tiền túi, dù đƣợc
thu ở bệnh viện công hay bệnh viện tƣ, đều là chi tƣ” [48].
Trên thế giới khi xét về tính chất của nền y tế một quốc gia ngƣời ta thƣờng
xem xét tỷ trọng của ngân sách công và ngân sách tƣ trong tổng chi xã hội cho y tế
của quốc gia đó. Bởi vì đây là chỉ số chủ yếu để đánh giá nền y tế của một nƣớc có
xu thế tài chính nhƣ thế nào để đảm bảo công bằng trong CSSK của ngƣời dân nƣớc
đó. "Theo WHO, nếu ngân sách tƣ chiếm trên 50% tổng chi xã hội cho y tế thì nền
y tế đó có xu thế đi đến mất công bằng trong CSSK ngƣời dân và đƣợc cảnh báo là
nền y tế sẽ dẫn đến những hậu quả sau: (i) nền y tế cực kỳ không công bằng; Mức
khác biệt lớn giữa các tầng lớp dân cƣ, nghĩa là phân hóa xã hội rất cao; (ii) mức
56
đầu tƣ vào sức khỏe thấp; (iii) khác biệt lớn trong khả năng tiếp cận dịch vụ y tế và
khác biệt về chất lƣợng dịch vụ y tế; (iv) bảo hiểm y tế kém phát triển; (v) quản lý
kém các nguồn lực; (vi) thiếu mạng lƣới an sinh xã hội; (vii) nghèo đói gia tăng,…"
[38, trang 10]. Chi tiêu công là một công cụ quan trọng của Chính phủ nhằm cung
cấp nguồn lực tài chính cho việc thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Chi tiêu
công dƣới các hình thức nhƣ chi đầu tƣ, chi thƣờng xuyên tự thân nó đã hƣớng đến
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc, nâng cao thu nhập cho dân cƣ,
trong đó có ngƣời nghèo. Hơn thế nữa, trong bố trí các loại chi nói trên, Chính phủ
đã thể hiện sự quan tâm đến mục tiêu xoá đói giảm nghèo.
Ở đây cần chú ý rằng chính sách tài chính y tế công hay tƣ sẽ ảnh hƣởng
mạnh đến định hƣớng công bằng trong CSSK hơn là cách tổ chức công lập hay tƣ
nhân trong một hệ thống y tế. Nếu áp dụng chính sách tài chính y tế công ngay
trong một bệnh viện tƣ nhân thì nền y tế vẫn giữ đƣợc tính công bằng. Ngƣợc lại,
nếu thực hiện chính sách tài chính y tế tƣ thì dù cho tất cả các cơ sở KCB của Nhà
nƣớc nhƣng chƣa chắc đã có công bằng, vì các cơ sở KCB đó chỉ có thu giá viện
phí để cung cấp các dịch vụ y tế thì chúng sẽ hoạt động nhƣ một bệnh viện tƣ nhân.
1.2.2.4. Nội dung của chính sách chi phí và giá thành các dịch vụ y tế
Sức khỏe của con ngƣời là một bộ phận cấu thành của sức lao động của
ngƣời lao động. Do đó, CSSK của con ngƣời nói chung và đảm bảo tái tạo sức lao
động của ngƣời lao động nói riêng, là một loại hình dịch vụ, đƣợc trao đổi, mua
bán. Sức khỏe đƣợc xem là loại hàng hóa đặc biệt và đƣợc trao đổi trên thị trƣờng
nên nó cũng có giá trị và giá cả. Để tạo ra các dịch vụ CSSK, ngƣời lao động trong
ngành dịch vụ này cũng tiêu hao một thời gian lao động cá biệt nhất định, do đó vẫn
phải xác định hao phí thời gian lao động mà ngƣời lao động trong lĩnh vực này đã
bỏ ra, nghĩa là phải xác định đƣợc giá trị các dịch vụ này. Khi trao đổi trên thị
trƣờng dịch vụ, giá trị dịch vụ y tế cũng phải tuân theo quy luật giá trị và phải dựa
vào giá trị xã hội của dịch vụ đó để các cơ sở y tế thực hiện quá trình cung cấp dịch
vụ y tế đó.
57
Giá cả các dịch vụ y tế cũng là biểu hiện bằng tiền của giá trị của các DVYT.
Giá cả DVYT trên thị trƣờng chịu tác động của nhiều yếu tố, trong đó, cơ sở của giá
cả DVYT là giá trị của dịch vụ y tế. Trên thị trƣờng dƣới tác động của quy luật cung
- cầu, giá cả dịch vụ y tế thay đổi xoay chung quanh giá trị dịch vụ y tế.
Cơ sở để xác định giá trị dịch vụ y tế là chi phí hao phí để cung cấp (sản
xuất) dịch vụ y tế. Chi phí hao phí để sản xuất ra một dịch vụ y tế bao gồm các chi
phí thuần túy y tế và chi phí ngoài y tế. Chi phí thuần túy y tế bao gồm các chi phí
đầu vào cho các dịch vụ mang tính thuần túy y tế, nhƣ các chi phí phục vụ khám
chữa bệnh hay chi phí phục vụ cho y tế dự phòng. Chi phí ngoài y tế là các khoản
chi phí ăn uống cho bệnh nhân, chi phí đi lại, phục vụ của ngƣời nhà bệnh nhân, ….
Việc xác định chi phí hao phí để cung cấp dịch vụ y tế vô cùng khó khăn, do
có nhiều loại hoạt động cấu thành trong một gói dịch vụ. Trong gói dịch vụ y tế, có
hoạt động cấu thành dễ xác định nhƣ chi phí thuốc, dịch truyền, vật tƣ tiêu hao,…
nhƣng cũng có hoạt động cấu thành khó xác định chi phí nhƣ hao phí lao động của
y, bác sỹ, khấu hao trang thiết bị, nhà cửa, ….Việc xác định chi phí tiêu hao cho
dịch vụ y tế có vai trò rất quan trọng, bởi vì nó là cơ sở xác định giá các dịch vụ y
tế. Bên cạnh đó, nó là căn cứ kinh tế để yêu cầu các cơ sở y tế đảm bảo thực hiện
dịch vụ y tế có chất lƣợng. Nó cũng là cơ sở để dự toán tổng chi phí xã hội đã hao
phí cho y tế và lập kế hoạch các nguồn thu đảm bảo bù đắp chi phí cho y tế.
Trong chính sách tài chính y tế, càng tiến đến áp dụng chế độ một giá với
mỗi loại dịch vụ y tế cho tất cả các đối tƣợng thì càng tốt, càng đảm bảo mục tiêu
công bằng xã hội trong hƣởng thụ CSSK của ngƣời dân. Tùy theo đối tƣợng và mục
tiêu an sinh xã hội mà chính sách tài chính y tế sẽ thực hiện, bệnh nhân có thể chi
trả trực tiếp cho đơn vị y tế một phần của giá dịch vụ, thậm chí không phải trả (các
đối tƣợng đƣợc hƣởng chính sách xã hội). Trong trƣờng hợp này các cơ quan an
sinh xã hội, quỹ BHYT,... phải thay bệnh nhân bù đắp chi phí cho cơ sở y tế đã
cung cấp dịch vụ y tế đó.
58
1.3. KINH NGHIỆM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH Y TẾ CỦA
CÁC NƢỚC
Chính sách tài chính y tế ở mỗi quốc gia tùy thuộc vào bối cảnh phát triển
kinh tế - xã hội của mình. Một số nhóm nƣớc có chính sách tài chính tiêu biểu có
thể kể đến là: (i) nhóm các nƣớc có nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu, Liên xô cũ;
(ii) nhóm các nƣớc phát triển ở Tây Âu và nhóm các nƣớc mới công nghiệp hóa
trong khu vực châu Á Thái Bình Dƣơng.
1.3.1. Kinh nghiệm của nhóm các nƣớc có nền kinh tế chuyển đổi
Nhóm này bao gồm các nƣớc XHCN trƣớc đây ở Đông Âu và các nƣớc cộng
hòa tách ra từ Liên Xô cũ. Phần lớn các nƣớc này chuyển đổi từ cơ chế tài chính
dựa trên NSNN sang cơ chế tài chính dựa trên BHYT xã hội ngay trong thập kỷ 90
thế kỷ XX. Sự chuyển đổi đƣợc thực hiện tƣơng đối nhanh, thời gian đạt mức độ
bao phủ toàn dân về BHYT gần nhƣ ngay lập tức, với nguyên tắc ngƣời có thu nhập
từ lao động thuộc khu vực chính quy cũng nhƣ không chính quy và thân nhân của
họ đóng phí BHYT từ thu nhập, ngƣời không có thu nhập từ lao động thì không
đóng phí BHYT và thƣờng đƣợc chính phủ dùng ngân sách từ thuế để đóng phí
BHYT cho họ.
Cùng với thay đổi cơ chế tài chính y tế là sự thay đổi về cấu trúc hệ thống
cung ứng dịch vụ với cải cách lớn về chủ thể sở hữu và cơ chế chi trả dịch vụ y tế,
đảm bảo cho ngƣời dân đƣợc tiếp cận dịch vụ có chất lƣợng, với tỷ trọng chi trả tiền
túi ở mức thấp. Estonia và Cộng hòa Czech đƣợc giới thiệu trong nhóm này.
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Cộng Hòa Estonia
Cơ chế tài chính cho y tế của Estonia hoàn toàn dựa trên BHYT xã hội cùng
với mạng lƣới bác sĩ gia đình bao phủ toàn dân. Nguồn chi công chiếm 78,9% tổng
chi tiêu y tế (trong đó BHYT xã hội đóng góp trên 68,2% và NSNN chiếm 10,7%),
chi tƣ chiếm 20,3% (trong đó chi từ tiền túi chiếm 17,9%) (Bảng 1.1).
59
Bảng 1.1. Các chỉ số tài chính y tế của Cộng Hòa Estonia
Các chỉ số (ƣớc tính năm 2014)
(Nguồn: Thống kê y tế, Tổ chức Y tế Thế giới)
GDP bình quân đầu ngƣời Chi tiêu y tế trên GDP Tổng chi tiêu y tế bình quân đầu ngƣời Chi tiêu từ nguồn tài chính công trên tổng chi tiêu y tế Trong đó: Chi tiêu từ NSNN cho y tế trên tổng chi tiêu y tế Chi tiêu của BHYT cho y tế trên tổng chi tiêu y tế Chi tiêu tƣ nhân trên tổng chi tiêu y tế Trong đó: Chi tiêu tiền túi (OOP) cho y tế trên tổng chi tiêu y tế Khác 16,316 USD 6,3% 898 USD 78,9% 10,7% 68,2% 20,3% 17,9% 2,4%
Theo quy định của Nhà nƣớc, tham gia BHYT là bắt buộc đối với ngƣời dân
Estonia và phí BHYT đƣợc gọi là thuế BHYT (health insurence tax). Ngƣời tham
gia BHYT đƣợc chia thành ba nhóm nhƣ sau:
Nhóm tự đóng phí BHYT: Bao gồm ngƣời lao động hƣởng lƣơng và lao động
tự do, chiếm 51% dân số Estonia. Mức phí BHYT là 13% tiền lƣơng.
Nhóm do Nhà nước đóng phí BHYT: Bao gồm phụ nữ nghỉ sinh con, ngƣời
thất nghiệp, ngƣời tàn tật, lực lƣợng vũ trang, thân nhân phụ thuộc là vợ hoặc chồng
của các nhà ngoại giao. Nhóm này chỉ chiếm 3% tổng số ngƣời tham gia BHYT.
Mức phí Nhà nƣớc đóng cho nhóm này bằng 13% mức lƣơng tối thiểu.
Nhóm được hưởng chế độ BHYT nhưng không đóng phí: Bao gồm trẻ em
dƣới 19 tuổi, ngƣời về hƣu, ngƣời tàn tật có chế độ nghỉ hƣu đặc biệt, sinh viên, vợ
hoặc chồng không có việc làm của ngƣời tham gia BHYT và phụ nữ mang thai
không có việc làm. Nhóm này chiếm 46% tổng số ngƣời tham gia BHYT. Nguồn
thu từ nhóm tự đóng phí BHYT và nhóm Nhà nƣớc đóng phí BHYT đƣợc sử dụng
để đảm bảo quyền lợi cho nhóm này.
Các dịch vụ y tế luôn đảm bảo dựa trên bốn tiêu chí: Hiệu quả y học; Tính
chi phí hiệu quả; Phù hợp và đáp ứng chính sách y tế quốc gia; Phù hợp với khả
năng tài chính của quốc gia.
Phạm vi quyền lợi trong chăm sóc sức khỏe của Estonia rất toàn diện, từ dự
phòng tới điều trị và phục hồi chức năng. Khi điều trị ngoại trú chuyên khoa, ngƣời
dân đƣợc thanh toán theo phí dịch vụ. Khi chi phí điều trị nội trú đƣợc thanh toán
60
bằng cách phối hợp các phƣơng pháp trả theo phí dịch vụ, nhóm chẩn đoán và trần
thanh toán tối đa. Ngoài phần BHYT thanh toán, ngƣời dân vẫn phải cùng chi trả
một phần các loại phí dịch vụ tùy theo từng đối tƣợng và mức độ bệnh tật (Nhà
nƣớc có quy định miễn cùng chi trả cho một số nhóm đối tƣợng).
Estonia đã thành công về chính sách tài chính y tế dựa trên BHYT, song mức
cùng chi trả hiện nay vẫn là gánh nặng tài chính vƣợt quá khả năng chi trả của
khoảng 4% hộ gia đình trong toàn quốc, mặc dù tỷ trọng chi tiền túi trong tổng chi
tiêu y tế của Estonia chƣa tới 18%.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Cộng Hòa Czech
Cộng hòa Czech đã chuyển đổi cơ chế tài chính cho y tế dựa trên ngân sách
Nhà nƣớc sang cơ chế tài chính y tế dựa trên BHYT xã hội từ cuối năm 1992. Tổng
chi tiêu y tế bình quân đầu ngƣời ở mức cao nhất trong các nƣớc Đông Âu (1.043
USD/ngƣời/năm). Nguồn chi công chiếm 83,8% tổng chi tiêu y tế (trong đó BHYT
xã hội đóng góp trên 81,8% và NSNN chỉ chiếm 2%), chi tƣ chiếm 16,2% (trong đó
chi từ tiền túi chiếm 14,8%) (Bảng 1.2).
Bảng 1.2. Các chỉ số tài chính y tế của Cộng Hòa Czech Các chỉ số (ƣớc tính năm 2014)
(Nguồn: Thống kê y tế, Tổ chức Y tế Thế giới)
GDP bình quân đầu ngƣời Chi tiêu y tế trên GDP Tổng chi tiêu y tế bình quân đầu ngƣời Chi tiêu từ nguồn tài chính công trên tổng chi tiêu y tế Trong đó: Chi tiêu từ NSNN cho y tế trên tổng chi tiêu y tế Chi tiêu của BHYT cho y tế trên tổng chi tiêu y tế Chi tiêu tƣ nhân trên tổng chi tiêu y tế Trong đó: Chi tiêu tiền túi (OOP) cho y tế/ tổng chi tiêu y tế Khác 18.608 USD 7,5% 1.403 USD 83,8% 2,0% 81,8% 16,2% 14,8% 1,4%
Tham gia BHYT xã hội là bắt buộc đối với tất cả ngƣời dân. Theo quy định
của Nhà nƣớc, ngƣời dân có quyền tự chọn tham gia BHYT ở bất kỳ quỹ BHYT
nào. Mức phí BHYT là 13,5% tiền lƣơng trƣớc thuế. Ngƣời lao động hƣởng lƣơng
đóng 4,5%, chủ sử dụng lao động đóng 9%; ngƣời lao động tự do đóng đóng 6,75%
lợi nhuận. Luật quy định mức đóng tối thiểu của ngƣời lao động tự do (24
Euro/tháng). Nguồn thu từ thu phí BHYT đạt trên 76% tổng thu của quỹ BHYT.
61
Nguồn ngân sách nhà nƣớc đóng BHYT cho những ngƣời không có thu nhập từ lao
động chiếm 24% tổng nguồn thu BHYT, với tỷ lệ đóng bằng 80% mức lƣơng và
tiền công tối thiểu theo luật định.
Chính phủ đóng phí mua BHYT cho khoảng 56% dân số Czech, gồm các
nhóm đối tƣợng sau: (i) trẻ mồ côi, trẻ không có thu nhập tới 26 tuổi; (ii) ngƣời nghỉ
hƣu; (iii) phụ nữ nghỉ thai sản; (iv) ngƣời chăm sóc cả ngày cho ít nhất 1 trẻ dƣới 7
tuổi, hoặc ít nhất 2 trẻ dƣới 15 tuổi; (v) ngƣời nhận trợ cấp nuôi con; (vi) ngƣời
đăng ký tìm việc làm; (vii) ngƣời đang nhận trợ cấp xã hội; (viii) ngƣời đang thực
hiện nghĩa vụ quân sự; (viiii) ngƣời đang bị giam giữ hoặc bị tù. Mức phí Chính
phủ đóng góp cho các nhóm đối tƣợng trên bằng 1/4 mức phí của nhóm lao động
chính thức.
Các quỹ BHYT tại Cộng hòa Czech là tổ chức công, phi lợi nhuận, có quyền
tự trị, tự quản. Các quỹ tự chịu trách nhiệm tự thu phí BHYT, để đảm bảo sự chia sẻ
rủi ro trên phạm vi toàn quốc, số thu của tất cả các quỹ BHYT đƣợc tổng hợp và
phân bổ lại cho từng quỹ, căn cứ vào nhóm tuổi và tần xuất các bệnh có chi phí đặc
biệt lớn. Công ty bảo hiểm y tế quốc gia là công ty bảo hiểm cuối cùng vẫn đảm bảo
khả năng tiếp cận cho mọi ngƣời dân trong trƣờng hợp công ty bảo hiểm của họ bị
phá sản. Công ty bảo hiểm y tế quốc gia đã phải đƣơng đầu với tình trạng khá khó
khăn về ngân sách: Trong trƣờng hợp bị thâm hụt, các khoản nhà nƣớc cho vay sẽ
chỉ đủ khả năng bù đắp đƣợc một nửa cho khoản thâm hụt này mà thôi. Các quỹ y tế
khác đƣợc tổ chức theo các ngành nghề và theo khu vực là các quỹ tƣ nhân phi lợi
nhuận hợp pháp, phụ thuộc vào luật thƣơng mại và các quy định của luật phá sản.
Quyền lợi của ngƣời tham gia BHYT rất toàn diện và rất rộng rãi: Hầu nhƣ
mọi dịch vụ CSSK đều đƣợc BHYT chi trả, từ y tế dự phòng, đến điều trị nội, ngoại
trú. Ngƣời tham gia BHYT đồng chi trả ở mức rất thấp chƣa tới 15% tổng chi tiêu y
tế (trừ một số nhóm đối tƣợng nhƣ ngƣời nghèo, trẻ sơ sinh, trẻ em mắc bệnh mạn
tính,… đƣợc không phải đồng chi trả). Nếu số tiền cùng chi trả vƣợt quá 200
Euro/năm (100 Euro đối với trẻ em và vị thành niên dƣới 19 tuổi và ngƣời già trên
65 tuổi) thì toàn bộ chi phí khám chữa bệnh sẽ đƣợc quỹ BHYT thanh toán. Cộng
62
hòa Czech là một trong những nƣớc có mức bảo vệ tài chính cho ngƣời dân tốt nhất
ở châu Âu.
1.3.2. Kinh nghiệm của nhóm nƣớc phát triển ở Tây Âu
Quốc gia điển hình trong nhóm các nƣớc phát triển ở Tây Âu là Cộng hòa
Liên bang Đức. Đức là một trong những quốc gia có chi tiêu y tế cao nhất châu Âu,
nhƣng chi tiêu tiền túi của ngƣời dân Đức vẫn ở mức thấp. Tổng chi tiêu y tế bình
quân đầu ngƣời ở mức rất cao (4.654USD/ngƣời/ năm). Nguồn chi công chiếm
76,8% tổng chi tiêu y tế (trong đó BHYT xã hội đóng góp trên 68% và NSNN
chiếm 8,8%), chi tƣ chiếm 23,2% (trong đó chi từ tiền túi chiếm 11,9%) (Bảng 1.3).
Bảng 1.3. Các chỉ số tài chính y tế của Cộng Hòa Liên Bang Đức Các chỉ số (ƣớc tính năm 2014)
(Nguồn: Thống kê y tế, Tổ chức Y tế Thế giới)
GDP bình quân đầu ngƣời Chi tiêu y tế trên GDP Tổng chi tiêu y tế bình quân đầu ngƣời Chi tiêu từ nguồn tài chính công trên tổng chi tiêu y tế Trong đó: Chi tiêu từ NSNN cho y tế trên tổng chi tiêu y tế Chi tiêu của BHYT cho y tế trên tổng chi tiêu y tế Chi tiêu tƣ nhân trên tổng chi tiêu y tế Trong đó: Chi tiêu tiền túi (OOP) cho y tế / tổng chi tiêu y tế Khác 41.514 USD 11,5% 4.654USD 76,8% 8,8% 68,0% 23,2% 11,9% 11,3%
Cơ chế tài chính y tế tại Đức dựa hoàn toàn vào BHYT. Chính phủ bắt buộc
mọi công dân phải tham gia BHYT, trừ những ngƣời có thu nhập cao (trên 49.500
euro/ năm) đƣợc miễn tham gia BHYT bắt buộc. Ngƣời dân có quyền tự do lựa
chọn tham gia BHYT tại bất kỳ quỹ BHYT nào. Mặc dù có nhiều quỹ, nhƣng luật
quy định cơ chế đảm bảo sự chia sẻ rủi ro giữa các quỹ. Tất cả các quỹ đều thu một
mức phí thống nhất, tập trung về một quỹ BHYT quốc gia rồi phân bổ lại cho từng
quỹ căn cứ số ngƣời tham gia và tình trạng sức khỏe. Về bản chất, có thể coi đó là
sự thống nhất nguồn thu quỹ BHYT trên cả nƣớc.
Mức phí BHYT hiện hành là 15,5% tiền lƣơng, ngƣời lao động đóng 8,2%,
chủ lao động 7,3%. Ngƣời thất nghiệp đóng từ nguồn lƣơng bảo hiểm thất nghiệp,
nếu chƣa bao giờ có việc làm thì đƣợc các quỹ bảo trợ xã hội đóng. Thân nhân phụ
63
thuộc của ngƣời lao động đƣợc hƣởng chế độ BHYT mà không phải đóng thêm phí.
Đối với ngƣời lao động tự do, mức đóng tối thiểu là 170 Euro/tháng.
Phạm vi quyền lợi của ngƣời tham gia BHYT bắt buộc theo luật định tại
Cộng hòa liên Bang Đức rất toàn diện, bao gồm các quyền lợi về dịch vụ y tế dự
phòng, điều trị nội trú và điều trị ngoại trú. Ngƣời tham gia BHYT tại Đức phải
cùng chi trả, nhƣng không quá 2% thu nhập hộ gia đình trong năm và không quá
1% thu nhập hộ gia đình trong năm đối với ngƣời có bệnh mãn tính. Bệnh nhân
dƣới 18 tuổi, ngƣời mất sức lao động từ 60% trở lên; Ngƣời mắc một số bệnh mãn
tính cần điều trị lâu dài và các thành viên trong gia đình của họ đƣợc miễn cùng chi
trả chi phí khi khám chữa bệnh.
Mặc dù chất lƣợng dịch vụ y tế tại Đức đƣợc đánh giá cao, thời gian chờ đợi
ngắn, thái độ phụ vụ chu đáo, nhƣng giá các dịch vụ y tế không phải là rẻ.
1.3.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn quốc thực hiện cơ chế tài chính dựa vào BHYT toàn dân. Tổng chi tiêu
y tế bình quân đầu ngƣời ở Hàn Quốc là (1.452 USD/ngƣời/năm). Nguồn chi công
chiếm 58,2% tổng chi tiêu y tế (trong đó BHYT xã hội đóng góp trên 45,1% và
NSNN chiếm 13,1%), chi tƣ chiếm 41,8% (trong đó chi từ tiền túi chiếm 32,1%)
(Bảng1.4).
Bảng 1.4. Các chỉ số tài chính y tế của Hàn Quốc Các chỉ số (ƣớc tính năm 2014)
(Nguồn: Thống kê y tế, Tổ chức Y tế Thế giới)
GDP bình quân đầu ngƣời Chi tiêu y tế trên GDP Tổng chi tiêu y tế bình quân đầu ngƣời Chi tiêu từ nguồn tài chính công trên tổng chi tiêu y tế Trong đó: Chi tiêu từ NSNN cho y tế trên tổng chi tiêu y tế Chi tiêu của BHYT cho y tế trên tổng chi tiêu y tế Chi tiêu tƣ nhân trên tổng chi tiêu y tế Trong đó: Chi tiêu tiền túi (OOP) cho y tế/ tổng chi tiêu y tế Khác 22.590 USD 7,1% 1.452 USD 58,2% 13,1% 45,1% 41,8% 32,1% 9,7%
Hiện tại, BHYT đã bao phủ khoảng 96,3% dân số, số còn lại khoảng 3,7%
dân số là ngƣời thuộc diện nghèo, đƣợc hƣởng chế độ chăm sóc sức khỏe miễn phí
64
theo Luật hỗ trợ chăm sóc y tế, do ngân sách nhà nƣớc bao cấp hoàn toàn. Mức
đóng BHYT khác nhau đối với các nhóm đối tƣợng, ngƣời tham gia BHYT đƣợc
chia thành 2 nhóm lớn nhƣ sau:
Nhóm ngƣời lao động hƣởng lƣơng chiếm khoảng 65,3% tổng số đối tƣợng,
mức đóng hiện tại là 5,89% thu nhập của ngƣời lao động, trong đó ngƣời lao động
đóng một nửa, chủ sử dụng lao động đóng một nửa.
Nhóm lao động tự do: Chiếm khoảng 34,7% số đối tƣợng, đăng ký theo hộ
gia đình. Mức đóng BHYTđƣợc xác định dựa trên giới tính, tuổi, tài sản, thu nhập
của hộ gia đình để tính ra số điểm phải đóng phí và nhân với giá trị bằng tiền của
mỗi điểm đóng phí. Giá trị của mỗi điểm đóng BHYT thay đổi quy định hằng năm.
Chủ hộ gia đình có trách nhiệm đóng phí cho cả gia đình.
Ngoài số tiền thu từ đóng góp của ngƣời tham gia BHYT theo mức phí quy
định, NSNN còn hỗ trợ quỹ BHYT vào khoảng 20% tổng thu từ đóng góp của
ngƣời tham gia BHYT.
Phạm vi quyền lợi của ngƣời tham gia BHYT của Hàn Quốc rất đa dạng, từ
tƣ vấn, giáo dục sức khỏe tới điều trị, phục hồi chức năng với các chi phí về thuốc,
vật tƣ y tế, trang thiết bị chẩn đoán, xét nghiệm cận lâm sàng, phẫu thuật, thủ
thuật,… cho cả điều trị nội trú và ngoại trú, bao gồm cả kiểm tra sức khỏe định kỳ,
khám sàng lọc chẩn đoán sớm một số bệnh,….
Chính sách cùng chi trả đƣợc thực hiện tại Hàn Quốc khá phức tạp, đối với
điều trị nội trú ngƣời bệnh cùng chi trả chung là 20% tổng chi phí, nhƣng không áp
dụng với trẻ sơ sinh và giảm còn 5-10% với một số bệnh nặng, bệnh nan y. Đối với
điều trị ngoại trú, mức cùng chi trả khi KCB ở phòng khám hay trạm y tế là 30%, ở
bệnh viện vùng nông thôn là 45% và thành phố là 50% và với bệnh viện tuyến cuối
là 60%. Tỷ lệ cùng chi trả với thuốc là 30% và tăng lên 50% đối với các bệnh đơn
giản nhƣng do bệnh viện tuyến cuối kê đơn. Hàn Quốc áp dụng mức trần cùng chi
trả theo ba mức: không quá 2 triệu won/năm (tƣơng đƣơng 2.000 USD) với ngƣời
có thu nhập thấp; không quá 3 triệu won/năm với ngƣời có thu nhập trung bình và
không quá 4 triệu won/năm với ngƣời có thu nhập cao.
65
Hàn Quốc là nƣớc rất thành công trong thực hiện BHYT xã hội và đạt đƣợc
mục tiêu bao phủ BHYT toàn dân trong thời gian ngắn nhất so với các nƣớc đã đạt
đƣợc mục tiêu bao phủ BHYT toàn dân. Kết quả đạt đƣợc là do có sự cam kết chính
trị mạnh mẽ; có lộ trình bao phủ đối với từng nhóm đối tƣợng, gắn với hỗ trợ của
nhà nƣớc và có chế tài xử phạt để bảo đảm sự tham gia đầy đủ theo luật định. Tuy
nhiên, Hàn Quốc hiện cũng có những thách thức, đó là chi phí y tế ngày càng gia
tăng so với mức đóng và khả năng hỗ trợ NSNN; số ngƣời phụ thuộc không phải
đóng phí BHYT còn quá nhiều; tỷ lệ chi từ tiền túi còn cao; vấn đề kiểm soát chất
lƣợng dịch vụ cũng nhƣ lựa chọn áp dụng cơ chế thanh toán với cơ sở y tế sao cho
hiệu quả, đảm bảo chất lƣợng.
1.3.4. Kinh nghiệm của Thái Lan
Là một nƣớc đang phát triển có mức thu nhập trung bình, với thu nhập bình
quân đầu ngƣời khoảng 5.474 USD/năm. Hệ thống y tế của Thái Lan đƣợc phân cấp
theo cấp độ chuyên môn và dựa trên nguyên lý chăm sóc sức khỏe ban đầu tại y tế
tuyến huyện, xã và kỹ thuật điều trị chuyên sâu ở tuyến bệnh viện khu vực. Cơ chế
tài chính cho CSSK dựa trên thuế quốc gia và các chƣơng trình BHYT xã hội. Tổng
chi tiêu y tế bình quân đầu ngƣời là 179 USD/ngƣời/năm. Nguồn chi công chiếm
75% tổng chi tiêu y tế (trong đó BHYT xã hội đóng góp trên 67,5% và NSNN
chiếm 7,5%), chi tƣ chiếm 25% (trong đó chi từ tiền túi chiếm 13,9%) (Bảng1.5).
Bảng 1.5. Các chỉ số tài chính y tế của Thái Lan
Các chỉ số (ƣớc tính năm 2014)
(Nguồn: Thống kê y tế, Tổ chức Y tế Thế giới)
GDP bình quân đầu ngƣời Chi tiêu y tế trên GDP Tổng chi tiêu y tế bình quân đầu ngƣời Chi tiêu từ nguồn tài chính công trên tổng chi tiêu y tế Trong đó: Chi tiêu từ NSNN cho y tế trên tổng chi tiêu y tế Chi tiêu của BHYT cho y tế trên tổng chi tiêu y tế Chi tiêu tƣ nhân trên tổng chi tiêu y tế Trong đó: Chi tiêu tiền túi (OOP) cho y tế trên tổng chi tiêu y tế Khác 5.474 USD 3,4% 179 USD 75% 67,5% 7,5% 25,0% 13,9% 11,1%
66
Hệ thống cung cấp tài chính trong y tế của Thái Lan đƣợc phân làm ba cấp:
Thứ nhất, cung cấp tài chính để phục vụ sức khỏe cho ngƣời nghèo, chủ yếu
dựa trên sự cấp vốn của Nhà nƣớc cho việc phục vụ ở các bệnh viện huyện, các
phòng khám ngoại trú và các bệnh viện tỉnh.
Thứ hai, cung cấp tài chính cho ngƣời lao động thuộc tầng lớp trung lƣu,
đƣợc bảo hiểm bởi hệ thống bảo hiểm xã hội và quỹ bồi thƣờng ngƣời lao động.
Những ngƣời thuộc cấp này có thể chọn bệnh viện công hoặc tƣ để đến khám chữa
bệnh.
Thứ ba, tầng lớp thƣợng lƣu có bảo hiểm y tế tƣ nhân hoặc mua dịch vụ trực
tiếp bằng tiền túi bỏ ra. Hầu hết những ngƣời khá giả đi đến những cơ sở y tế tƣ
nhân hay những trung tâm y tế tốt nhất của Chính phủ.
Cung cấp tài chính cho hoạt động y tế ở Thái Lan, chủ yếu đƣợc thực hiện
thông qua bốn hệ thống chính về BHYT và phúc lợi: (i) hỗ trợ công cộng cho học
sinh, ngƣời già và những ngƣời ăn lƣơng có thu nhập thấp; (ii) hệ thống phúc lợi
của Chính phủ cho các công chức và nhân viên các doanh nghiệp nhà nƣớc; (iii)
Bảo hiểm y tế bắt buộc hệ thống bảo hiểm xã hội và quỹ bồi thƣờng của ngƣời lao
động cho nhân viên của các ngành chính thức; (iv) BHYT tự nguyện đƣợc thực hiện
thông qua thẻ sức khỏe (hay thẻ khám chữa bệnh) và bảo hiểm y tế tƣ nhân.
Nhìn chung, ở Thái Lan hoạt động của bảo hiểm y tế khá nhiều, đôi khi dẫm
chân lên nhau, và nó cũng bộc lộ khá nhiều tồn tại nhƣ: Thiếu công bằng giữa các
cá nhân trong hƣởng thụ các phúc lợi y tế, và trong khả năng tiếp cận các dịch vụ y
tế; thiếu hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, việc này đã làm cho chi tiêu y tế tăng
vƣợt cả tốc độ tăng trƣởng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân; chất lƣợng các dịch vụ
y tế còn thấp.
Chính phủ Thái Lan đã đặt ra mục đích cần phải cải cách trong hệ thống y tế,
đó là: (i) cung cấp toàn bộ các dịch vụ thiết yếu và cơ bản cho ngƣời dân; giảm bớt
hiện tƣợng không có hiệu quả cả về mặt hiệu suất và cung cấp nguồn lực tạo sự tiết
kiệm; (ii) cải tiến chất lƣợng dịch vụ ở cả hai hệ thống công và tƣ để đảm bảo quyền
cơ bản của ngƣời dân Thái Lan về chăm sóc sức khoẻ.
67
Những giải pháp tài chính đã đƣợc Chính phủ Thái Lan lựa chọn để đạt đƣợc
mục đích này, đó là:
Thứ nhất, là áp dụng nhiều biện pháp sử dụng các quỹ có hiệu quả hơn,
chẳng hạn nhƣ công nghệ giá và cung cấp các quỹ hiện có cho ngƣời nghèo và
ngƣời cận nghèo.
Thứ hai, đánh thuế vào những lối sống không lành mạnh, chẳng hạn rƣợu,
thuốc lá để hạn chế những tác động xấu đến sức khoẻ từ các hoạt động này, đồng
thời tạo nguồn tài chính bổ sung cho ngân sách y tế.
Thứ ba, xây dựng những khuyến khích về tài chính đối với những cơ sở cung
cấp dịch vụ y tế tốt và tổ chức dịch vụ y tế đúng đắn.
1.3.5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Qua kinh nghiệm thực tiễn của các nƣớc, chúng ta có thể rút ra một số nhận
xét và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nhƣ sau:
Thứ nhất, các nƣớc đều tiến hành chƣơng trình bảo hiểm y tế quốc gia phục
vụ toàn dân. Xét từ góc độ công bằng thì đây là vấn đề quan trọng, không có nhóm
dân nào, đặc biệt là những nhóm có nguy cơ cao nhất bị gạt ra ngoài hệ thống chia
sẻ rủi ro. Đứng trên hiệu quả kinh tế thì điều đó cũng quan trọng, bởi vì phạm vi
phục vụ lớn nhƣ vậy có thể giúp tránh đƣợc những vấn đề nghiêm trọng về sự lựa
chọn rủi ro và bất cập trong hệ thống y tế tự nguyện.
Thứ hai, ngay cả trong hệ thống BHXH thì vai trò to lớn của Nhà nƣớc trong
việc cung cấp tài chính và điều tiết vẫn đƣợc nhấn mạnh. Ngoài việc đầu tƣ cơ bản
cho các cơ sở y tế, Chính phủ của các nƣớc còn đóng góp đáng kể cho các quỹ bảo
hiểm thay cho những ngƣời không có khả năng đóng bảo hiểm. Đây là chiến lƣợc
chủ đạo với việc duy trì khả năng tiếp cận rộng rãi các dịch vụ CSSK trong hệ thống
mới.
Thứ ba, cần từng bƣớc nâng cao tính tự chủ về tài chính của các cơ sở y tế,
bằng cách tách việc cung cấp tài chính ra khỏi cơ chế cứng và bằng cách phân
tuyến, tạo điều kiện cho các cơ sở y tế có đƣợc nguồn thu thông qua việc cung cấp
dịch vụ y tế, nâng cao tính độc lập và tự chủ về tài chính của các cơ sở y tế trƣớc kia
68
vốn phụ thuộc vào NSNN nay đã đƣợc tăng cƣờng một cách đáng kể. Điều này có
thể giúp từng bƣớc giải quyết những vấn đề về ngân sách mềm dẻo, vốn là cốt lõi
của các vấn đề thiếu hiệu quả trong hệ thống kinh tế theo kiểu bao cấp cũ.
Thứ tư, kinh nghiệm của các nƣớc cho thấy không một Nhà nƣớc nào có thể
đảm bảo cung cấp mọi dịch vụ y tế cho xã hội nếu không có sự tham gia của các
thành phần kinh tế ngoài Nhà nƣớc. Vì vậy, Nhà nƣớc cần có chính sách khuyến
khích các thành phần kinh tế ngoài Nhà nƣớc tham gia cung cấp các dịch vụ y tế,
nhằm đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, giảm nhẹ gánh nặng cho Nhà nƣớc đồng
thời thoả mãn nhu cầu khác nhau của các tầng lớp dân cƣ trong xã hội.
69
TÓM TẮT CHƢƠNG 1
Tài chính y tế là các quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành và phân
phối các quỹ tiền tệ phục vụ sự nghiệp y tế trong toàn bộ xã hội, nhằm đáp ứng nhu
cầu đầu tƣ cơ sở vật chất, đội ngũ y, bác sỹ để đảm bảo việc phòng, khám chữa
bệnh cho ngƣời dân. Tài chính y tế có vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời sống
kinh tế - xã hội nói chung và sự nghiệp phát triển y tế nói riêng. Một mặt nó huy
động và phân bổ các nguồn tài chính hợp lý cho sự nghiệp y tế, mặt khác nó góp
phần đảm bảo công bằng trong khám chữa bệnh trong xã hội.
Chính sách tài chính y tế là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nguyên
tắc và các công cụ, biện pháp thích hợp mà chính phủ một nƣớc sử dụng để huy
động các nguồn lực tài chính đảm bảo phát triển sự nghiệp y tế nƣớc mình phù hợp
với chiến lƣợc chăm sóc sức khỏe ngƣời dân và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nƣớc. Chính sách tài chính y tế bao gồm các nội dung cơ bản là chính sách huy
động các nguồn tài chính y tế: Nguồn NSNN, nguồn BHYT, nguồn thu trực tiếp từ
ngƣời nhân, nguồn xã hội hóa; chính sách phƣơng thức chi trả dịch vụ y tế: phân bổ
kinh phí theo mục NSNN, chi trả theo phí dịch vụ, chi trả theo định xuất, chi trả
theo trƣờng hợp bệnh; chính sách chi công và chi tƣ trong tổng chi xã hội cho y tế;
chính sách chi phí và giá thành các dịch vụ y tế.
Nội dung của cơ chế tài chính y tế bao gồm những nội dung nhƣ: (i) xác định
nguồn tài chính huy động cho sự nghiệp y tế; (ii) tỷ trọng giữa ngân sách công và tƣ
trong tổng chi xã hội cho y tế và (iii) xác định mối quan hệ giữa chi phí và giá các
dịch vụ y tế, để đảm bảo chính sách tài chính y tế tiến đến công bằng trong nền kinh
tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta.
Các kinh nghiệm quốc tế về cung cấp tài chính cho y tế nhằm nâng cao tính
công bằng trong sự nghiệp y tế ở Việt Nam đến năm 2020 và hƣớng đến năm 2030
theo mục tiêu chung mà Đảng và Nhà nƣớc.
70
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
CHO PHÁT TRIỂN SỰ NGHIỆP Y TẾ CÔNG Ở VIỆT NAM
2.1. HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Y TẾ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH Y TẾ
2.1.1. Hệ thống tài chính y tế ở Việt Nam hiện nay
Sơ đồ 2.1. Hệ thống tài chính y tế ở Việt Nam
Mua dịch vụ
Phân bổ/ Quản lý quỹ
Tích lũy/ Tập trung quỹ
Nguồn tài chính
Ngân sách nhà nƣớc cho y tế
Viện trợ quốc tế
T
Bộ Y tế/ Sở Y tế/ Bộ ngành khác
T
Các cơ sở cung ứng dịch vụ y tế công lập
Trợ cấp BHYT cho đối tƣợng chính sách
Doanh nghiệp/ chủ sử dụng lao động
BHXH TƢ/ tỉnh
Quỹ BHYT xã hội
Các cơ sở cung ứng dịch vụ y tế tƣ nhân
Quỹ BHYT tƣ nhân
Cá nhân/ hộ gia đình/ ngƣời lao động
Nhà thuốc
Chi tiền túi hộ gia đình
Hệ thống tài chính y tế của Việt Nam bao gồm các luồng tài chính đƣợc mô
tả ở sơ đồ 2.1, trong đó, chỉ ra luồng tài chính chuyển từ ngƣời đóng góp (ngƣời
dân, doanh nghiệp), đến đơn vị thu phí, tập trung thành quỹ, rồi đến đơn vị quản lý
quỹ và cuối cùng đến đơn vị cung ứng dịch vụ. Có hai luồng tài chính công lớn để
71
cung cấp tài chính cho y tế ở Vịệt Nam, đó là luồng từ ngân sách của nhà nƣớc cấp
trực tiếp cho các đơn vị cung ứng dịch vụ y tế, thông qua Bộ Y tế và Sở y tế, Sở tài
chính và luồng từ quỹ BHYT xã hội.
Những năm gần đây, với mục tiêu chăm sóc sức khỏe cho ngƣời nghèo, hằng
năm Chính phủ đã phân bổ NSNN để mua thẻ BHYT cho ngƣời nghèo và một số
đối tƣợng chính sách. Bên cạnh hai luồng tài chính công này, còn một luồng tài
chính khá lớn nữa, đó là ngƣời dân chi trả trực tiếp cho nhà cung ứng dịch vụ hoặc
mua thuốc điều trị khi ốm đau. Kênh tài chính này đƣợc thể hiện bằng đƣờng đậm,
chỉ luồng tiền từ hộ gia đình trực tiếp đến nhà cung ứng dịch vụ (Sơ đồ 2.1). Tài
chính y tế ở Việt Nam hiện tại phụ thuộc khá nhiều vào các khoản chi trả trực tiếp
này. Các kênh tài chính khác (ODA, BHYT tƣ nhân,…) đều ở quy mô nhỏ trong
tổng chi y tế.
2.1.2. Chính sách tài chính y tế ở Việt Nam hiện nay
2.1.2.1. Các chính sách liên quan ngân sách nhà nƣớc cho y tế
Tất cả các khoản đầu tƣ từ NSNN, mặc dù đƣợc biểu hiện bằng những nguồn
khác nhau, nhƣng suy cho cùng đều có nguồn gốc từ các khoản thuế mà ngƣời dân
phải nộp cho Nhà nƣớc. Thực chất đây là một phần thu nhập đƣợc các hộ gia đình
không dùng để mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trƣờng mà nộp vào NSNN để nhờ
Nhà nƣớc thanh toán cho hàng hoá dịch vụ mà họ đƣợc hƣởng (chủ yếu là các hàng
hoá công cộng). Nhƣ vậy, nhân dân nộp thuế cho Nhà nƣớc, bù lại họ phải đƣợc
hƣởng các hàng hoá dịch vụ công cộng. Nhà nƣớc có trách nhiệm tính toán, cung
cấp đầy đủ số hàng hoá dịch vụ công cộng tƣơng ứng với số tiền mà ngƣời dân đã
nộp, không thể sử dụng tuỳ tiện, bao cấp, tràn lan. Nói chung các hoạt động kinh tế
- xã hội sẽ sản xuất cung cấp các hàng hoá, dịch vụ cho các hộ gia đình, Nhà nƣớc
đại diện cho nhân dân sẽ thanh toán các chi phí của hàng hoá, dịch vụ đó. Ở góc độ
này, Nhà nƣớc phải đại diện cho nhân dân, đứng về phía nhân dân yêu cầu các tổ
chức kinh tế, xã hội sản xuất cung cấp dịch vụ cho các hộ gia đình.
Cũng nhƣ nhiều nƣớc có thu nhập thấp và trung bình trên thế giới, hệ thống
tài chính y tế Việt Nam là một hệ thống hỗn hợp, trong đó nguồn từ NSNN có vai
72
trò rất quan trọng để thực hiện các chức năng của nhà nƣớc trong công tác chăm sóc
sức khỏe cộng đồng và đảm bảo công bằng trong CSSK. NSNN cấp trực tiếp cho
ngành y tế là một thành phần của chi tiêu công cho y tế, bao gồm các chính sách:
Thứ nhất, chính sách ƣu tiên đầu tƣ ngân sách nhà nƣớc cho y tế. Nghị quyết
Đại hội Đảng CSVN các khóa VII, VIII, IX, X, XI đều chủ trƣơng tăng đầu tƣ của
Nhà nƣớc và tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cấp mạng lƣới y tế cơ sở
và hệ thống y tế, có chính sách trợ giúp các đối tƣợng chính sách, ngƣời nghèo,
ngƣời có thu nhập thấp đƣợc tiếp cận dịch vụ y tế; phát triển hệ thống y tế dự
phòng, trang bị kiến thức và kỹ năng để mỗi ngƣời dân có khả năng chủ động phòng
bệnh và rèn luyện sức khoẻ. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta chủ trƣơng tăng
đầu tƣ của Nhà nƣớc đồng thời với đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động y tế. Nghị
quyết số 46-NQ/TW, ngày 23/2/2005, của Bộ Chính trị đã nêu rõ: "Bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là một trong những chính sách ƣu tiên hàng đầu
của Đảng và Nhà nƣớc. Đầu tƣ cho lĩnh vực này là đầu tƣ phát triển, thể hiện bản
chất tốt đẹp của chế độ".
Ngày 10/01/2013, Thủ tƣớng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lƣợc quốc gia về
bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011–2020, tầm nhìn
đến 2030 trong đó chỉ rõ mục tiêu “tăng nhanh đầu tƣ công cho y tế” [68].
Năm 2012, Thủ tƣớng ký quyết định số 797/QĐ-TTg nâng mức hỗ trợ đóng
BHYT cho đối tƣợng ngƣời thuộc thuộc hộ gia đình cận nghèo từ 50% lên 70%
mức đóng BHYT [69].
Năm 2013, Thủ tƣớng ký quyết định số 705/QĐ-TTg, theo đó, NSNN tiếp
tục mở rộng hỗ trợ tăng độ bao phủ BHYT đối với nhóm cận nghèo với quyết định
nâng mức hỗ trợ 100% mức đóng BHYT cho một số đối tƣợng ngƣời thuộc hộ gia
đình cận nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia bao gồm: Ngƣời thuộc hộ gia đình cận
nghèo mới thoát nghèo, thời gian hỗ trợ 5 năm sau khi thoát nghèo; Ngƣời thuộc hộ
gia đình cận nghèo đang sinh sống tại các huyện nghèo [71].
Năm 2015, Luật BHYT quy định mở rộng các đối tƣợng đƣợc NSNN hỗ trợ
100% mức đóng BHYT gồm: Ngƣời có công với cách mạng, cựu chiến binh; thân
73
nhân của ngƣời có công với cách mạng là cha, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con liệt sĩ;
ngƣời có công nuôi dƣỡng liệt sĩ; ngƣời đang sinh sống ở xã đảo, huyện đảo,...
Những nội dung này cho thấy quan điểm nhất quán và sự cam kết của Chính
phủ đối với việc thực hiện mục tiêu tăng chi công cho y tế và chủ trƣơng chuyển
dần việc cấp NSNN cho đơn vị cung cấp dịch vụ sang ngƣời hƣởng thụ.
Thứ hai, chính sách ƣu tiên phân bổ ngân sách cho y tế vùng khó khăn, y tế
cơ sở và y tế dự phòng. Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 18/QH12 nêu rõ “Dành ít
nhất 30% ngân sách y tế cho y tế dự phòng”. Định mức phân bổ ngân sách sự
nghiệp y tế theo Quyết định số 59/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tƣớng
Chính phủ cũng thể hiện rõ chủ trƣơng ƣu tiên vùng sâu, vùng xa với “định mức
phân bổ đối với miền núi, vùng đồng bào dân tộc ở đồng bằng, vùng sâu bằng 1,7
lần đô thị; vùng cao, hải đảo bằng 2,4 lần đô thị” [68].
Việc duy trì nguồn NSNN để thực hiện các Chƣơng trình mục tiêu y tế quốc
gia từ năm 1996 đến nay cho thấy rõ sự quan tâm của Đảng và nhà nƣớc đối với
lĩnh vực y tế công cộng và y tế dự phòng. Mạng lƣới y tế cơ sở cũng đƣợc chú trọng
đầu tƣ. Năm 2005, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 225/2006/QĐ-
TTg về nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện và khu vực với tổng số vốn đầu tƣ cho
giai đoạn 2005-2008 là 8.350 tỷ và Quyết định số 950/2007/QĐ-TTg về đầu tƣ xây
dựng trạm y tế xã vùng khó khăn giai đoạn 2008-2010 với tổng kinh phí dự toán
khoảng 500 tỷ đồng từ nguồn trái phiếu chính phủ. Giai đoạn 2006-2014, Nhà nƣớc
đã dành hơn 22.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ cho nâng cấp, sửa chữa hơn 600
bệnh viện tuyến huyện, và nhiều bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến trung ƣơng. Trong năm
2008, Thủ tƣớng cũng đã ban hành các Quyết định số 24, 25, 26, 27 về một số cơ
chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Bắc Trung
bộ, Duyên hải Trung bộ, vùng Tây Nguyên vùng Đồng bằng sông Cửu Long, các
tỉnh vùng trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2010, trong đó quy định nhân viên
y tế thôn, bản ở các vùng này đƣợc hƣởng mức phụ cấp bằng 50% lƣơng tối thiểu.
Năm 2009, Thủ tƣớng ra Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg quy định mức phụ cấp y
tế thôn bản ở những xã vùng khó khăn là 0,5 lần lƣơng tối thiểu với nguồn kinh phí
74
từ NSNN trung ƣơng và ở các xã khác còn lại là 0,3 lần lƣơng tối thiểu với nguồn
kinh phí từ nguồn ngân sách địa phƣơng. Những chính sách này đã thể hiện quyết
tâm của Nhà nƣớc trong ƣu tiên phân bổ ngân sách cho vùng khó khăn, y tế cơ sở
và y tế dự phòng hƣớng tới mục tiêu công bằng trong hƣởng thụ các dịch vụ y tế.
Thứ ba, chính sách ƣu tiên ngân sách nhà nƣớc để hỗ trợ CCSK cho các đối
tƣợng chính sách xã hội. Với định hƣớng chuyển việc cấp NSNN trực tiếp cho các
cơ sở y tế sang trợ cấp cho phía cầu (ngƣời dân thuộc đối tƣợng chính sách xã hội
có nhu cầu KCB), Chính phủ đã ban hành một số chính sách quan trọng. Năm 2002,
Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định 139/2002/QĐ-TTg về thành lập Quỹ
Khám chữa bệnh ngƣời nghèo tại các tỉnh từ nguồn NSNN, tạo bƣớc ngoặt lớn
trong việc trợ cấp cho ngƣời nghèo với diện thụ hƣởng ngày càng rộng và mức độ
thụ hƣởng ngày càng cao. Theo Nghị định số 63/2005/NĐ-CP của Chính phủ, các
đối tƣợng hƣởng lợi từ Quỹ 139 đã đƣợc cấp thẻ BHYT. Nghị quyết 18/2008/QH12
của Quốc hội một lần nữa khẳng định “Quan tâm dành ngân sách cho CSSK ngƣời
có công, ngƣời nghèo, nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, nhân dân ở vùng kinh tế
- xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn,…”.
Đầu năm 2008, Thủ tƣớng Chính phủ đã ra Quyết định số 289/QĐ-TTg ngày
18/3/2008 điều chỉnh mức trợ cấp mua BHYT cho ngƣời nghèo từ 80.000
đồng/ngƣời/năm lên 130.000 đồng/ngƣời/năm và trợ cấp 50% mệnh giá thẻ BHYT
đối với thành viên thuộc hộ cận nghèo tham gia BHYT tự nguyện. Mệnh giá BHYT
của các đối tƣợng chính sách đƣợc nâng lên bằng 4,5% mức lƣơng tối thiểu (từ
01/1/2010).
Ngày 01/3/2012, Chính phủ ban hành Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg sửa
đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg về KCB cho ngƣời
nghèo để phù hợp với tình hình mới, trong đó quy định thêm các đối tƣợng đƣợc
hƣởng chế độ hỗ trợ KCB cho ngƣời nghèo, gồm: ngƣời thuộc diện đƣợc hƣởng trợ
cấp xã hội hằng tháng theo quy định của pháp luật và ngƣời đang đƣợc nuôi dƣỡng
tại các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nƣớc; ngƣời mắc bệnh ung thƣ, chạy thận nhân
tạo, mổ tim hoặc các bệnh khác gặp khó khăn do chi phí cao mà không đủ khả năng
75
chi trả viện phí. Theo Quyết định 14/2012/QĐ/TTg, ngoài việc hỗ trợ tiền điều trị,
các bệnh nhân thuộc đối tƣợng quy định còn đƣợc hỗ trợ cả tiền ăn, tiền đi lại khám
bệnh, ….Đây là một quyết định mang tính nhân văn sâu sắc, đem lại hy vọng và cơ
hội đƣợc KCB cho những ngƣời có hoàn cảnh khó khăn, mắc bệnh hiểm nghèo.
Theo Nghị định số 36/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ, trẻ em
dƣới 6 tuổi đƣợc khám chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập. Từ
1/10/2009, theo quy định của Luật BHYT, trẻ em dƣới 6 tuổi đƣợc cấp thẻ BHYT
miễn phí và đƣợc thanh toán 100% khi sử dụng các dịch vụ y tế nội trú, ngoại trú tại
các cơ sở y tế công lập.
Các chính sách hỗ trợ về tài chính nêu trên đã góp phần thực hiện định
hƣớng quan trọng trong đổi mới cơ chế tài chính y tế ở Việt Nam, đó là "Từng bƣớc
chuyển đổi việc cấp kinh phí hoạt động thƣờng xuyên cho các cơ sở KCB sang cấp
trực tiếp cho đối tƣợng thụ hƣởng dịch vụ y tế do Nhà nƣớc cung cấp thông qua
hình thức BHYT" [64]; "Nhà nƣớc bảo đảm thực hiện các chính sách hỗ trợ trực
tiếp cho ngƣời có công, ngƣời nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số để đƣợc tiếp cận
và hƣởng thụ các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản thiết yếu với chất lƣợng ngày càng
cao hơn" [63].
Thứ tƣ, tập trung nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nƣớc cho sự
nghiệp y tế. Một số chủ trƣơng đã đƣợc ban hành nhằm tăng cƣờng tính hiệu quả
trong sử dụng NSNN, trong đó nổi bật là việc xây dựng kế hoạch chi tiêu trung hạn
và chính sách tự chủ theo Nghị định 10/2002 NĐ/CP, Nghị định 43/2006 NĐ-CP và
đƣợc thay đổi bằng Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015. Thực hiện xây
dựng kế hoạch chi tiêu trung hạn đƣợc xem là một bƣớc thay đổi quan trọng trong
quá trình lập kế hoạch ngân sách, giúp tăng cƣờng tính hiệu quả trong phân bổ và sử
dụng NSNN cho y tế theo các mục tiêu xác định, dựa trên thông tin chính xác, nhất
quán và minh bạch. Việc xây dựng kế hoạch chi tiêu trung hạn sẽ giúp cho phân bổ
nguồn lực hiệu quả hơn theo các ƣu tiên và mục tiêu của ngành y tế nói riêng và
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung của cả nƣớc. Việc giao quyền tự chủ
cho các đơn vị sự nghiệp trong ngành y tế, chủ yếu các bệnh viện công lập, đƣợc
76
thực hiện từ năm 2002, đây đƣợc coi là một bƣớc chuyển biến ban đầu trong việc
phân cấp quyền và trách nhiệm của đơn vị trong sử dụng NSNN, tăng cƣờng công
tác quản lý tài chính chặt chẽ và hiệu quả.
2.1.2.2. Chính sách bảo hiểm y tế
Ngoài ngân sách nhà nƣớc, BHYT là nguồn tài chính y tế rất quan trọng ở
Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu công bằng trong chăm sóc sức khỏe. Diện
bao phủ BHYT ngày càng đƣợc mở rộng, với mục tiêu là BHYT toàn dân. Chính
sách về BHYT bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, chính sách về đối tƣợng tham gia bảo hiểm y tế. Điều lệ BHYT
đầu tiên ban hành theo Nghị định số 299/HĐBT của Hội đồng Bộ trƣởng ngày
15/08/1992, áp dụng trong giai đoạn 1992 – 1998, quy định ngƣời làm công ăn
lƣơng từ NSNN, trong các doanh nghiệp nhà nƣớc, ngƣời nghỉ hƣu, nghỉ mất sức
lao động, ngƣời lao động Việt Nam trong các tổ chức quốc tế tại Việt Nam và lao
động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc có từ 10 lao động trở lên tham gia
BHYT bắt buộc.
Từ năm 1998, Nghị định số 58/1998/NĐ-CP và các thông tƣ hƣớng dẫn đã
bổ sung một số đối tƣợng mới tham gia BHYT bắt buộc. Từ 1/7/2005, Nghị định số
63/2005/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, mở rộng phạm vi áp dụng đối với một số đối
tƣợng đã tham gia BHYT bắt buộc theo một số văn bản quy phạm pháp luật, nhƣng
chƣa có trong Điều lệ BHYT ban hành theo Nghị định số 58/1998/NĐ-CP. Ngoài
ra, Nghị định 63/2005/NĐ-CP cũng bổ sung một số đối tƣợng mới tham gia BHYT
bắt buộc, nhƣ ngƣời lao động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc có dƣới 10
lao động; ngƣời lao động trong mọi tổ chức đƣợc thành lập và hoạt động hợp pháp;
ngƣời thuộc hộ nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số.
Một thay đổi chính sách quan trọng đƣợc quy định trong Nghị định
63/2005/NĐ-CP là ngƣời lao động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc có từ 1
lao động trở lên đều đƣợc tham gia BHYT bắt buộc, thay cho quy định 10 lao động
trƣớc đây và nhóm ngƣời nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số với sự hỗ trợ của
NSNN. Ngày10/12/2007 liên bộ Y tế, Tài chính đã ban hành Thông tƣ số
77
14/2007/TTLB-BYT-BTC “Bỏ điều kiện 100% thành viên trong hộ gia đình, 10%
số hộ gia đình trong phạm vi địa bàn xã và 10% số học sinh, sinh viên trong danh
sách học sinh, sinh viên của nhà trƣờng tham gia”.
Ngoài các chƣơng trình BHYT tự nguyện cho hộ gia đình, cho học sinh, sinh
viên, Chính phủ đã có văn bản hƣớng dẫn thực hiện chƣơng trình BHYT cho hộ cận
nghèo, với hỗ trợ của NSNN tối thiểu bằng 50% mức đóng BHYT.
Năm 2008, khi ban hành Luật Bảo hiểm y tế, tất cả các nhóm dần dần sẽ trở
thành đối tƣợng BHYT bắt buộc theo lộ trình. Nhƣ vậy, những ngƣời tham gia
BHYT tự nguyện trở thành ngƣời đƣợc thực hiện BHYT bắt buộc. Từ 01/7/2009
ngƣời cận nghèo đã trở thành đối tƣợng BHYT bắt buộc. Từ 01/1/2010 học sinh,
sinh viên là đối tƣợng BHYT bắt buộc. Từ 01/1/2012 nông dân trở thành đối tƣợng
BHYT bắt buộc và từ 01/1/2014 tất cả các đối tƣợng dân chúng còn lại là đối tƣợng
BHYT bắt buộc. Luật BHYT sửa đổi đã đƣợc Quốc hội thông qua ngày 13/6/2014
và thực thi từ ngày 1/1/2015, những nội dung mới của Luật bao gồm: (i) quy định
bắt buộc tham gia BHYT; (ii) bổ sung đối tƣợng tham gia BHYT; (iii) quy định
tham gia BHYT theo hộ gia đình; (iv) quy định gói dịch vụ y tế cơ bản; (v) bỏ hoặc
giảm cùng chi trả với một số đối tƣợng (nghèo, cận nghèo, thân nhân ngƣời có công
với cách mạng,...).
Thứ hai, mức đóng bảo hiểm y tế. Trong nhiều năm mức đóng BHYT bắt
buộc ở khu vực ngƣời lao động hƣởng lƣơng duy trì ở mức 3% tiền lƣơng cơ bản
(lƣơng cấp bậc chức vụ, hệ số chênh lệch bảo lƣu và các khoản phụ cấp chức vụ,
khu vực, đắt đỏ, thâm niên) theo quy định của Nhà nƣớc. Đối với những ngƣời
không hƣởng lƣơng thì phí BHYT hoặc bằng 3% mức lƣơng tối thiểu (đối với
ngƣời không có sinh họat phí) hoặc bằng 3% sinh hoạt phí đối với ngƣời hƣởng sinh
hoạt phí. Từ năm 2010, mức đóng BHYT đã tăng lên 4,5 mức lƣơng cơ bản hoặc
lƣơng tối thiểu, riêng học sinh, sinh viên vẫn giữ nhƣ cũ.
Đối với ngƣời nghèo, mức phí BHYT (do NSNN bao cấp) đã tăng từ mức
50.000 đồng/ngƣời/năm lên 80.000 đồng và từ đầu năm 2008 là 130.000 đồng, cuối
năm 2008 là bằng 3% mức lƣơng tối thiểu chung (194.000 đồng), đến năm 2010 là
78
4,5%. Mức đóng này cũng đƣợc áp dụng cho các hộ cận nghèo tham gia BHYT và
đƣợc hỗ trợ 50% mức phí từ ngân sách nhà nƣớc và từ ngày 1/1/2015 NSNN hỗ trợ
tăng lên 70%.
Mức phí BHYT tự nguyện, thực hiện từ cuối năm 2005 theo Thông tƣ liên
tịch số 22/2005/TTLT-BYT-BTC đƣợc quy định theo nhóm đối tƣợng tham gia và
khu vực thành thị, nông thôn, ở mức từ 30.000 đồng đến 50.000 đồng đối với học
sinh, sinh viên và từ 70.000 đồng đến 160.000 đồng cho các nhóm đối tƣợng khác.
Mức phí này đã đƣợc điều chỉnh tăng vào cuối năm 2007 theo Thông tƣ số 14/2007,
theo đó “Mức đóng đối với cá nhân tham gia BHYT tự nguyện: khu vực thành thị là
320.000 đồng/ngƣời/năm; khu vực nông thôn là 240.000 đồng/ngƣời/năm. Đến
01/1/2010 mức đóng đã đƣợc nâng lên bằng 4,5% mức lƣơng tối thiểu chung. Tuy
nhiên, đối với học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện thì chỉ ở mức
3%, do nhóm này là nhóm có nguy cơ thấp phải sử dụng dịch vụ y tế.
Thứ ba, quyền lợi của ngƣời tham gia bảo hiểm y tế. Năm 2005, quyền lợi
của ngƣời tham gia BHYT đƣợc điều chỉnh theo Điều lệ BHYT mới, ban hành kèm
theo Nghị định số 63/2005/NĐ-CP. Những thay đổi về quyền lợi đáng chú ý là: (i)
không thực hiện cùng chi trả 20% chi phí khám chữa bệnh đối với tất cả ngƣời tham
gia BHYT; (ii) đối với dịch vụ y tế kỹ thuật cao, chi phí lớn, ngƣời bệnh BHYT (trừ
các đối tƣợng ƣu tiên) chỉ đƣợc BHYT thanh toán một phần chi phí và tự trả toàn bộ
chi phí khám chữa bệnh còn lại; (iii) chi phí điều trị chấn thƣơng do tai nạn giao
thông đƣợc BHYT chi trả; (iv) ngoài ra, một số đối tƣợng tham gia BHYT đƣợc
thanh toán chi phí vận chuyển trong trƣờng hợp chuyển tuyến.
Đối với BHYT tự nguyện, trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2005, ngƣời
tham gia BHYT tự nguyện cùng chi trả 20% chi phí khám chữa bệnh, nhƣng số tiền
cùng chi trả không quá 1,5 triệu đồng/năm và không cùng chi trả khi chi phí khám
chữa bệnh dƣới 20.000 đồng/lƣợt khám chữa bệnh. Tuy vậy, các chi phí lớn chỉ
đƣợc thanh toán khi đã tham gia đủ 24 tháng và đều có hạn mức thanh toán tối đa
(nhƣ: Phẫu thuật tim hở, BHYT thanh toán không quá 10 triệu đồng/năm, chạy thận
nhân tạo - không quá 12 triệu đồng/năm).
79
Năm 2005, quy định về quyền lợi BHYT tự nguyện đƣợc điều chỉnh (Thông
tƣ liên tịch số 22/2005/TTLT-BYT-BTC), theo đó, quyền lợi của ngƣời tham gia
BHYT tự nguyện về cơ bản là tƣơng tự nhƣ ngƣời tham gia BHYT bắt buộc. Riêng
đối với dịch vụ kỹ thuật cao có mức phí từ 7 triệu đồng trở lên thì đƣợc thanh toán
60% chi phí, nhƣng không quá 20 triệu đồng cho một lần sử dụng dịch vụ kỹ thuật
đó, phần còn lại do ngƣời bệnh tự thanh toán cho cơ sở khám chữa bệnh.
Từ tháng 4/2007, theo Thông tƣ số 06/2007/ TTLT-BYT-BTC hƣớng dẫn
thực hiện BHYT tự nguyện, ngƣời tham gia BHYT tự nguyện thực hiện cùng chi trả
20% chi phí điều trị (miễn cùng trả khi chi phí khám chữa bệnh ngoại trú dƣới
100.000 đồng). Ngƣời có thẻ tự nguyện đã tham gia BHYT đủ 36 tháng đƣợc cơ
quan BHXH thanh toán 50% chi phí cho một số loại thuốc điều trị ung thƣ, thuốc
chống thải ghép ngoài danh mục; ngoài ra, đối với trƣờng hợp sử dụng dịch vụ kỹ
thuật cao có chi phí lớn (do BHYT quy định), tổng số tiền đƣợc quỹ BHYT thanh
toán không vƣợt quá 20 triệu đồng và theo Luật BHYT thì số tiền này đƣợc nâng
lên là 40 tháng lƣơng cơ bản(hiện nay là 46 triệu đồng).
Những quy định về cùng chi trả theo các nhóm đối tƣợng, không theo mức
độ bệnh tật, tiếp tục tạo nên sự không công bằng giữa các nhóm đối tƣợng tham gia
BHYT. Từ khi luật Bảo hiểm y tế có hiệu lực, thì không phân biệt quyền lợi hƣởng
giữa nhóm tham gia BHYT bắt buộc và nhóm tham gia BHYT tự nguyện. Chế độ
cùng chi trả mới đƣợc áp dụng dao động tùy theo đối tƣợng tham gia BHYT. Theo
luật BHYT sửa đổi, từ ngày 01/01/2015, các đối tƣợng thuộc hộ nghèo, bảo trợ xã
hội, các đối tƣợng cựu chiến binh, ngƣời tham gia kháng chiến hƣởng quyền lợi
100% và đƣợc hƣởng thêm chi phí vận chuyển khi khám chữa bệnh; các đối tƣợng
là thân nhân ngƣời có công, hộ cận nghèo đang hƣởng quyền lợi 95% đồng chi trả
5%. Mức hƣởng BHYT cũng đƣợc nâng lên cho ngƣời tham gia BHYT theo hƣớng
quỹ BHYT thanh toán 100% chi phí khám chữa bệnh cho ngƣời đang sinh sống tại
vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, đặc biệt khó khăn, xã đảo, huyện đảo. Các đối
tƣợng còn lại phải đồng chi trả 20% và nếu số tiền đồng chi trả 20% lớn hơn 6 triệu
đồng trong năm, thì ngƣời bệnh không phải đồng chi trả ở những lần KCB tiếp theo
80
tại bất kỳ cơ sở KCB công lập nào. Ngƣời bệnh còn đƣợc hƣởng 100% chi phí cho
một lần khám chữa bệnh nếu chi phí thấp hơn 15% mức lƣơng cơ sở.
Thứ tƣ, phƣơng thức chi trả khám chữa bệnh theo bảo hiểm y tế. Trong nhiều
năm qua, phƣơng thức chi trả chi phí khám chữa bệnh theo BHYT đã đƣợc thay đổi
qua 3 lần ban hành Điều lệ BHYT. Mặc dù vậy, phƣơng thức chi trả là phí theo dịch
vụ, vốn là một phƣơng thức chi trả có nhiều bất lợi trong tài chính y tế, vẫn đang
đƣợc sử dụng rộng rãi trong hệ thống cung ứng dịch vụ cho bệnh nhân BHYT. Nghị
định 63/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định các phƣơng thức chi trả bao gồm chi
trả theo phƣơng thức phí theo dịch vụ, theo định suất, theo nhóm chẩn đoán hoặc
các phƣơng thức thanh toán khác. Thông tƣ liên tịch số 21/2005/TTLT-BYT-BTC,
ngày 27/7/2005, của liên bộ hƣớng dẫn chi tiết hai phƣơng thức thanh toán giữa quỹ
BHYTvà cơ sở y tế là phí theo dịch vụ có trần đối với các dịch vụ kỹ thuật cao, chi
phí lớn và chi trả theo định suất. Cơ sở khám, chữa bệnh lựa chọn phƣơng thức
thanh toán phù hợp để ký hợp đồng với cơ quan BHXH. Đối với BHYT tự
nguyện,Thông tƣ liên tịch số 22/2005/TTLT-BYT-BTC ngày 24/8/2005 cũng quy
định “cơ sở khám, chữa bệnh lựa chọn hình thức thanh toán phí theo dịch vụ hoặc
thanh toán theo định suất theo hƣớng dẫn tại Thông tƣ số 21/2005/TTLT-BYT-BTC
ngày 27/7/2005 của liên Bộ Y tế, Bộ Tài chính hƣớng dẫn thực hiện BHYT bắt
buộc”.
Theo luật Bảo hiểm y tế có thể áp dụng 3 phƣơng thức thanh toán khác nhau.
Đó là: Thanh toán theo định suất; theo trƣờng hợp bệnh và theo giá dịch vụ. Lộ
trình thanh toán theo định suất đƣợc đƣa ra trong Thông tƣ liên tịch số
09/2009/TTLT-BYT-BTC. Các sở y tế chủ trì, phối hợp với Bảo hiểm xã hội tỉnh,
thành chỉ đạo áp dụng thanh toán theo định suất theo lộ trình phù hợp. Đến năm
2011 có ít nhất 30%, đến năm 2013 có ít nhất 60% và đến năm 2015 tất cả các cơ sở
y tế đăng ký khám, chữa bệnh ban đầu tại địa phƣơng thực hiện theo phƣơng thức
này. Thanh toán theo trƣờng hợp bệnh đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu xây
dựng, nhƣng lộ trình đang đƣợc đƣa ra đến năm 2020 sẽ áp dụng thanh toán theo
trƣờng hợp bệnh đối với dịch vụ nội trú.
81
2.1.2.3. Chính sách tài chính từ nƣớc ngoài
Chính phủ Việt Nam, qua nhiều thời kỳ đã có chiến lƣợc và chính sách nhằm
tăng cƣờng hiệu quả của việc sử dụng nguồn hỗ trợ quốc tế. Những điểm mốc quan
trọng là: Năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định 20/CP, văn bản pháp lý đầu tiên
cho hoạt động thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn viện trợ; Năm 1997 và 2001,
Chính phủ ban hành Nghị định 87/CP và Nghị định 17/2001/NĐ-CP bổ sung, sửa
đổi và hoàn thiện khung pháp lý nhằm tăng cƣờng tính công khai, minh bạch, tinh
thần làm chủ, quan hệ đối tác và hài hoà thủ tục; Năm 2006, Chính phủ ban hành
Nghị định 131/2006/NĐ-CP và một loạt các văn bản pháp lý về sử dụng nguồn vốn
ODA ra đời và đi vào cuộc sống, đánh dấu sự nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong
việc nâng cao hiệu quả và hài hoà thủ tục viện trợ. Những thể chế này đƣợc hoàn
thiện trên nguyên tắc đảm bảo tính đồng bộ các văn bản pháp quy, phân cấp mạnh
mẽ trong thực hiện, đồng thời tăng cƣờng trách nhiệm, công khai minh bạch và hài
hoà các quy trình, thủ tục. Hƣớng dẫn thực hiện Nghị định 131 đối với ngành y tế,
Bộ Y tế ra Quyết định số 11/2008/QĐ-BYT ban hành Quy định Quản lý và sử dụng
nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của ngành y tế.
Các chính sách và môi trƣờng pháp lý tốt đã giúp cho Việt Nam, trong đó có
ngành y tế, thu hút đƣợc nguồn vốn hỗ trợ quốc tế tăng lên và giữ một tỷ trọng nhất
định trong ngân sách đầu tƣ. Bên cạnh đó, trong tiến trình hội nhập sâu hơn vào
cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã có những hành động cụ thể cam kết tăng cƣờng
hiệu quả viện trợ.
Bên cạnh các chính sách tạo môi trƣờng pháp lý, các công cụ quản lý nhà
nƣớc cũng không ngừng đƣợc hoàn thiện trên nguyên tắc vốn viện trợ là nguồn
NSNN (Luật Ngân sách). Theo đó, việc quản lý và sử dụng nguồn vốn này phải
nằm trong khuôn khổ chung của hệ thống pháp luật Việt Nam. Các công cụ quản lý
đƣợc thể hiện nhƣ sau:
Ngành y tế đã đẩy mạnh quản lý nhà nƣớc đối với nguồn vốn ODA thông
qua việc làm rõ các chức năng, nhiệm vụ của chủ dự án và lồng ghép chức năng của
hệ thống quản lý nhà nƣớc (Quyết định số 11/2008/QĐ-BYT).
82
Đẩy mạnh phân cấp nhằm nâng cao trách nhiệm của đơn vị tiếp nhận, quản
lý và sử dụng ODA. Việc phân cấp quản lý đƣợc Bộ Y tế thực hiện triệt để ở các
cấp từ trung ƣơng đến địa phƣơng, trong đó xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm
của từng đơn vị tham gia. Theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP, Bộ Y tế tổ chức thẩm
định các dự án của các đơn vị, dự án thuộc Bộ Y tế, UBND tỉnh phê duyệt các dự
án của tỉnh.
2.1.2.4. Chính sách chi tiêu trực tiếp từ tiền túi của hộ gia đình cho y tế
Chi tiêu trực tiếp từ tiền túi cho y tế từ ngân sách gia đình của ngƣời dân là
một chỉ số quan trọng để đánh giá mức độ công bằng của hệ thống y tế. Tại Việt
Nam tỷ lệ chi tiêu từ tiền túi trong tổng chi tiêu y tế của toàn xã hội là khá cao (theo
tiêu chuẩn của WHO > 40% là cao). Chi cho y tế, nhất là chi từ tiền túi, thƣờng
khác với chi cho dịch vụ và hàng hóa tiêu dùng khác, vì đó là khoản chi không
mong muốn và là một phản ứng đối với một sự kiện bất hạnh do sức khỏe, đôi khi
bất ngờ, không dự đoán trƣớc đƣợc, có tác động hoàn toàn tiêu cực tới phúc lợi của
hộ gia đình, làm giảm nguồn lực có thể sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ khác.
Chi phí y tế từ tiền túi đối với hộ gia đình có thể gây ra sự mất công bằng trong
CSSK của ngƣời dân.
Trong cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp, Nhà nƣớc cung cấp các dịch
vụ y tế miễn phí cho toàn dân. Vì vậy chi tiêu từ ngân sách gia đình của ngƣời dân
cho y tế là không đáng kể. Với chủ trƣơng đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp y tế, năm
1989, Chính phủ đã ban hành Quyết định 45-HĐBT về việc thu một phần viện phí,
sau đó đƣợc bổ sung và sửa đổi bằng Nghị định 95/CP năm 1994 và Nghị định 33-
CP năm 1995. Các chính sách này đã có những tác động tích cực nhƣ tăng nguồn
thu cho các bệnh viện, ngân sách của bệnh viện, nhƣng cũng đã buộc ngƣời dân
phải chi trả một phần chi phí dịch vụ, tăng chi trả trực tiếp từ tiền túi của ngƣời dân
cho các dịch vụ y tế.
Từ năm 2002 đến nay, việc thực hiện tự chủ tài chính trong các bệnh viện
công theo Nghị định 10/2002/NĐ-CP năm 2002, Nghị định 43/2006/NĐ-CP năm
2006, Nghị định 16/2015/NĐ-CP năm 2015 và đặc biệt là ngày 15/10/2012, Chính
83
phủ đã ban hành Nghị định số 85/2012/NĐ-CP, thực hiện tự chủ trong các bệnh
viện công lập, trong đó đã đề ra lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ y tế trên cơ sở tình
hình phát triển kinh tế xã hội, tỷ lệ ngƣời dân tham gia BHYT, mức đóng và khả
năng cân đối của Quỹ BHYT, đặt mục tiêu đến sau 2018, giá dịch vụ y tế sẽ đƣợc
tính đủ chi phí. Lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ y tế không phải là tăng chi phí để
thực hiện các dịch vụ y tế vì: chi phí để thực hiện các dịch vụ y tế hiện nay đã đƣợc
quy định trong Nghị định 85/2012/NĐ-CP của Chính phủ gồm 7 yếu tố, hiện nay
mới tính 3/7 yếu tố chi phí trực tiếp trong giá; chƣa tính tiền lƣơng, khấu hao nhà
cửa, khấu hao trang thiết bị, đào tạo chuyển giao kỹ thuật. Việc tính đúng, tính đủ
giá dịch vụ y tế về cơ bản không phải là tăng chi phí mà các khoản trƣớc đây nhà
nƣớc bao cấp, nay phải tính vào giá để chuyển phần ngân sách nhà nƣớc bao cấp
cho các cơ sở y tế sang hỗ trợ ngƣời dân tham gia BHYT.
Việc tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế còn để thực hiện mục tiêu cải cách tài
chính công, đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách theo hƣớng giảm dần việc cấp ngân
sách trực tiếp cho bệnh viện, chuyển sang hỗ trợ cho đối tƣợng thụ hƣởng thông qua
BHYT, BHYT thanh toán cho các bệnh viện theo cơ chế giá dịch vụ đƣợc tính
đúng, tính đủ chi phí để tạo điều kiện để các bệnh viện phát triển, mở rộng việc
cung ứng dịch vụ cho xã hội
Giá dịch vụ y tế không đơn thuần là để ngƣời dân phải chi trả chi phí cho
bệnh viện, mà còn là cơ sở để cơ quan BHXH thay mặt cho ngƣời dân thanh toán
cho bệnh viện; mục tiêu mà Quốc hội đặt ra là thực hiện BHYT toàn dân, đến năm
2020 phải đạt ít nhất 80% dân số tham gia BHYT; do đó giá dịch vụ có vai trò quan
trọng trong việc thực hiện chính sách BHYT; nó không nhƣ giá các hàng hóa, dịch
vụ khác; mà còn là quyền lợi của ngƣời dân đƣợc hƣởng khi tham gia BHYT.
Việc tính đủ giá dịch vụ y tế theo lộ trình là một đòi hỏi thực tế, khách quan.
Nếu đƣợc thực hiện, sẽ mang lại một số hiệu quả kinh tế - xã hội, nhƣ:
Ngƣời bệnh đƣợc thụ hƣởng dịch vụ y tế chất lƣợng tốt hơn. Ngƣời bệnh có
thẻ BHYT đƣợc lợi vì bảo hiểm y tế thanh toán với mức cao hơn, nên giảm bớt sự
đóng góp thêm của ngƣời bệnh đối với các dịch vụ mà trƣớc đây mức giá thấp,
84
BHYT không thanh toán đủ các chi phí. Nhiều dịch vụ do trƣớc đây mức thu thấp,
bệnh viện không có kinh phí để triển khai, nay đƣợc điều chỉnh mức thu nên sẽ triển
khai, ngƣời bệnh BHYT sẽ đƣợc hƣởng do chi phí hầu hết do BHXH thanh toán,
làm tăng quyền lợi của ngƣời có thẻ BHYT. Nhƣ vậy, vừa đảm bảo công khai minh
bạch, giảm phiền hà cho ngƣời bệnh vừa nâng cao chất lƣợng khám chữa bệnh và
đảm bảo quyền lợi ngƣời có thẻ BHYT.
Việc tính đủ giá dịch vụ y tế sẽ đƣa giá dịch vụ y tế về đúng giá trị thật, sẽ
khuyến khích ngƣời dân tham gia BHYT vì thực tế hiện nay, giá thấp nên nhiều
ngƣời không thuộc diện đƣợc hỗ trợ mua thẻ BHYT sẽ không tham gia BHYT mà
bỏ tiền túi ra chi trả, nhƣng khi điều chỉnh giá, ngƣời dân sẽ thấy đƣợc lợi ích, tính
nhân văn của BHYT là hàng năm chỉ phải đóng một mức nhỏ để mua BHYT, khi
đau ốm sẽ đƣợc BHYT thanh toán, giảm bớt rủi ro.
Cơ sở y tế do đƣợc điều chỉnh mức thu, các bệnh viện có điều kiện mua các
loại thuốc, vật tƣ, hóa chất xét nghiệm với chất lƣợng cao hơn, làm tăng chất lƣợng
của dịch vụ y tế; Đồng thời thúc đẩy xã hội hóa y tế, tạo điều kiện để các bệnh viện,
nhất là các bệnh viện tuyến dƣới có kinh phí để triển khai các dịch vụ, nhất là các
dịch mới, kỹ thuật cao hơn, có nhƣ vậy mới phát triển đƣợc kỹ thuật y tế, đƣa dịch
vụ y tế có chất lƣợng cao hơn về gần dân; phát huy đƣợc tính năng động, sáng tạo
của các bệnh viện trong việc huy động các nguồn lực.
Nhà nƣớc đã xác định bảo hiểm y tế là một trụ cột của an sinh xã hội, nên đã
ƣu tiên ngân sách để mua và hỗ trợ mua BHYT cho các đối tƣợng mà nhà nƣớc phải
chăm lo nhƣ ngƣời có công, ngƣời nghèo, dân tộc thiểu số, trẻ em dƣới 6 tuổi,
ngƣời cận nghèo. Việc tính đủ giá dịch vụ y tế sẽ giảm bớt sự bao cấp tràn lan trong
KCB: nếu giá chƣa tính đủ chi phí thì nhà nƣớc vẫn phải cấp các chi phí chƣa kết
cấu vào giá cho bệnh viện, nhƣng do phần lớn ngân sách đã hỗ trợ các đối tƣợng
nêu trên mua thẻ BHYT nên nhiều bệnh viện đƣợc cấp không đủ, có bệnh viện ngân
sách cấp không đủ để chi lƣơng, phụ cấp. Trong khi đó ngƣời không có thẻ, mà
nhiều ngƣời trong số này có khả năng chi trả cũng chỉ phải chi trả cho bệnh viện với
giá thấp, nên vẫn đƣợc bao cấp - đây là tình trạng bao cấp ngƣợc. Các tổ chức quốc
85
tế khi nghiên cứu về y tế tại Việt Nam đã chỉ ra, Nhà nƣớc đáng ra chỉ bao cấp cho
ngƣời không có khả năng chi trả, thì phải bao cấp cho cả ngƣời có khả năng chi trả
toàn bộ chi phí. Tính đủ giá dịch vụ thì ngƣời bệnh có khả năng chi trả phải trả đủ
viện phí cho bệnh viện. Huy động đƣợc sự đóng góp hợp lý của các tầng lớp nhân
dân trong KCB, tạo điều kiện dành ngân sách nhà nƣớc để mua thẻ BHYT cho các
đối tƣợng ƣu tiên với mức hỗ trợ cao hơn. Nhƣ vậy, thực hiện lộ trình BHYT toàn
dân nhanh hơn, phát huy đƣợc tính năng động, sáng tạo của các bệnh viện trong
việc phát triển các dịch vụ, kỹ thuật y tế. Tạo điều kiện để dành ngân sách ƣu tiên
hơn nữa cho y tế dự phòng. Thực hiện đƣợc chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc là
chuyển dần việc cấp ngân sách trực tiếp cho các đơn vị sử dụng ngân sách sang cho
đối tƣợng thụ hƣởng là ngƣời dân thông qua việc hỗ trợ mua thẻ BHYT.
Mặt khác, nếu tính đủ giá dịch vụ y tế thì sẽ khuyến khích các bệnh viện
công vay vốn, thực hiện xã hội hóa để đầu tƣ. Giá DVYT ở bệnh viện công và bệnh
viện tƣ sẽ tƣơng đƣơng nên khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tƣ cho y tế,
tạo cạnh tranh bình đẳng về giá giữa các thành phần kinh tế trong KCB.
Bên cạnh chính sách thu một phần viện phí, Chính phủ cũng đã ban hành các
chính sách hỗ trợ chi phí y tế cho ngƣời nghèo và các đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng,
trẻ em dƣới 6 tuổi bằng cách cấp thẻ BHYT miễn phí. Chính phủ cũng có chính
sách trợ cấp chi phí y tế cho các đối tƣợng xã hội khác nhƣ ngƣời cao tuổi, ngƣời
tàn tật, ngƣời già cô đơn,.... Ngƣời nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng
kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, ngƣời dân sinh sống ở các xã đảo, huyện
đảo theo Luật BHYT sửa đổi từ ngày 1/1/2015, Nhà nƣớc bảo đảm ngân sách để hỗ
trợ 100% phí mua thẻ BHYT. Chính phủ đã hỗ trợ tối thiểu 70% mệnh giá thẻ
BHYT đối với ngƣời cận nghèo, khuyến khích các địa phƣơng sử dụng ngân sách
địa phƣơng, các nguồn vốn khác và Bộ Y tế cũng đã huy động một số dự án ODA
để hỗ trợ thêm cho ngƣời cận nghèo tham gia BHYT. Những chính sách này đã góp
phần rất lớn làm giảm chi phí y tế từ tiền túi của ngƣời dân.
Nghị quyết 46 của Bộ Chính trị, ngày 23/2/2005, đã nêu định hƣớng quan
trọng để bảo đảm công bằng trong chính sách sức khỏe nhân dân, đó là “Đổi mới và
86
hoàn thiện chính sách tài chính y tế theo hƣớng tăng nhanh tỷ trọng các nguồn tài
chính công (bao gồm ngân sách nhà nƣớc, BHYT), giảm dần hình thức thanh toán
viện phí trực tiếp từ ngƣời bệnh”. Chi tiêu công là một công cụ quan trọng của
Chính phủ nhằm cung cấp nguồn lực tài chính cho việc thực hiện mục tiêu xoá đói
giảm nghèo. Chi tiêu công dƣới các hình thức nhƣ chi đầu tƣ, chi thƣờng xuyên tự
thân nó đã hƣớng đến thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc, nâng cao
thu nhập cho dân cƣ, trong đó có ngƣời nghèo.
2.1.2.5. Chính sách huy động nguồn lực tài chính của xã hội cho y tế và cơ chế
tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp y tế
Trong những năm gần đây, “xã hội hoá” đã trở thành một định hƣớng lớn,
một giải pháp quan trọng đặc biệt trong việc đổi mới các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn
hoá ở Việt Nam. Theo Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 của Chính
phủ, “Xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao là vận động và tổ
chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển các sự
nghiệp đó nhằm từng bƣớc nâng cao mức hƣởng thụ về giáo dục, y tế, văn hoá, thể
thao trong sự phát triển về vật chất và tinh thần của nhân dân”.
Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ đã nêu rõ việc
thực hiện xã hội hoá nhằm hai mục tiêu lớn: Thứ nhất, là phát huy tiềm năng trí tuệ
và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục, y tế,
văn hoá, thể dục thể thao; thứ hai, là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối
tƣợng chính sách, ngƣời nghèo đƣợc thụ hƣởng thành quả giáo dục, y tế, văn hoá,
thể dục thể thao ở mức độ ngày càng cao. Chủ trƣơng “Chuyển các cơ sở công lập
đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng tính hành chính bao cấp sang cơ
chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích không bao cấp tràn lan và không nhằm lợi
nhuận (gọi tắt là cơ chế cung ứng dịch vụ)” cũng đƣợc xác định tại Nghị quyết số
05/2005/NQ-CP, ngày 18/4/2005, của Chính phủ.
Nhƣ vậy, các nội dung chính của chủ trƣơng xã hội hoá là huy động các tiềm
năng về nhân lực, vật lực, tài lực của toàn xã hội, trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý,
87
đa dạng hoá các hình thức hoạt động và các nguồn đầu tƣ nhằm tạo điều kiện để
toàn xã hội đƣợc thụ hƣởng thành quả ở mức độ ngày càng cao.
Năm 1996, Đại hội VIII của Đảng khẳng định: Các vấn đề chính sách xã hội
đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nƣớc giữ vai trò nòng cốt đồng thời
động viên mọi ngƣời dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân
và tổ chức nƣớc ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội. Mặc dù đây là
lần đầu tiên thuật ngữ “xã hội hoá” đƣợc ghi trong văn kiện của Đảng, nhƣng ngay
từ năm 1986, Đại hội VI của Đảng đã nêu phƣơng châm “Nhà nƣớc và nhân dân
cùng làm” và khẳng định vấn đề chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ là trách nhiệm và lợi
ích thiết thân của mỗi công dân. Tiếp theo là các chủ trƣơng “Phát triển các hoạt
động y tế bằng khả năng của Nhà nƣớc và của nhân dân”; “đa dạng hoá các hình
thức tổ chức chăm sóc sức khỏe, trong đó y tế nhà nƣớc là chủ đạo”.
Thực hiện chủ trƣơng xã hội hóa của Chính phủ, ngày 12/12/2007 Bộ Y tế
ban hành thông tƣ 15/2007/TT-BYT hƣớng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về việc sử dụng tài sản để liên doanh, liên kết hoặc góp vốn liên doanh,
liên kết để mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động dịch vụ của các cơ sở y tế công
lập. Thông tƣ 15/2007/TT-BYT đã quy định rất cụ thể: Xây dựng đề án; lựa chọn
đối tác, trang thiết bị; xác định giá trị tài sản dùng để liên doanh, liên kết; quy định
hạch toán kế toán và chế độ báo cáo tài chính, … tạo hành lang pháp lý quan trọng
cho việc thực hiện chủ trƣơng xã hội hóa tại các bệnh viện công lập.
Chính phủ chủ trƣơng xã hội hóa các hoạt động y tế nhằm huy động các
nguồn lực của xã hội (trong đó có nguồn lực tài chính) khi mà đầu tƣ công cho y tế
chƣa đủ đáp ứng nhu cầu. Với chính sách này, đầu tƣ tƣ nhân cho y tế đang tăng
lên. Tuy nhiên, vì là đầu tƣ tƣ nhân, nên các khoản đầu tƣ này có sức ép là phải
mang lại lợi nhuận. Việc này dẫn đến những tác động cả về hai mặt tích cực và tiêu
cực trong hệ thống y tế mà Chính phủ đang yêu cầu phải đánh giá đầy đủ hơn để có
những chính sách thích hợp. Trong khi thực hiện chủ trƣơng xã hội hóa y tế, Chính
phủ vẫn khẳng định sẽ tiếp tục tăng ngân sách cho y tế nhằm mục tiêu công bằng và
hiệu quả của ngành y tế.
88
Song song với việc thực hiện chủ trƣơng xã hội hóa, ngành thực hiện tự chủ
về tài chính từ nhừng năm 2002. Theo Ngân hàng thế giới, tự chủ hóa là những cải
cách đem lại cho các cơ quan cung ứng dịch vụ công có quyền tự chủ nhiều hơn và
dựa vào những khuyến khích của thị trƣờng hoặc "tƣơng tự thị trƣờng" để thúc đẩy
việc cải thiện kết quả hoạt động của mình. “Tự chủ hóa làm thay đổi quyền ra quyết
định, quy ƣớc phân bổ phần kết dƣ và mức độ chịu ảnh hƣởng của thị trƣờng.
Những cải cách này cũng tạo nên các quy tắc trách nhiệm gián tiếp, cho phép nhà
quản lý ngày càng có nhiều tự do trong hoạt động điều hành hằng ngày. Trách
nhiệm liên quan tới các dịch vụ bị thua lỗ và các chức năng xã hội khác cũng đƣợc
làm rõ hơn và thƣờng có nguồn vốn để đảm bảo cung ứng dịch vụ liên tục” [87].
Hệ thống tài chính y tế nƣớc ta đã có những thay đổi đáng kể thông qua một
loạt chính sách nhằm huy động nhiều nguồn lực khác nhau cho y tế. Thực hiện chủ
trƣơng tăng cƣờng phân cấp quản lý, trong đó có việc phân cấp cho các đơn vị sự
nghiệp có thu, ngày 16/01/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định
10/2002/NĐ-CP. Nghị định này đã cho phép các đơn vị sự nghiệp chủ động về mặt
tài chính và tổ chức nhân lực, nhằm quản lý thống nhất nguồn thu, khuyến khích
tăng thu, tiết kiệm chi, đảm bảo trang trải kinh phí hoạt động, thực hiện tinh giản
biên chế và tăng thu nhập cho ngƣời lao động trên cơ sở hoàn thành tốt các nhiệm
vụ đƣợc giao và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với NSNN. Để hƣớng dẫn thực hiện
Nghị định 10/2002/NĐ-CP, ngày 21/3/2002, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tƣ số
25/2002/TT-BTC, quy định chi tiết chế độ tài chính áp dụng chung cho
các đơn vị sự nghiệp có thu. Riêng đối với ngành y tế, tháng 2 năm 2004, Bộ Y tế,
Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tƣ liên tịch số
13/2004/TTLT-BYT-BTC-BNV, hƣớng dẫn chi tiết thực hiện cơ chế tự chủ về tài
chính, lao động và tiền lƣơng cho các đơn vị sự nghiệp y tế có thu hoạt động trong
lĩnh vực y tế công lập nhƣ các bệnh viện, viện có giƣờng bệnh, các trung tâm, các
cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu, cơ sở YTDP.
89
Trong quá trình thực hiện, Nghị định 10/2002/NĐ-CP đã bộc lộ một số bất
cập, do các đơn vị mới chỉ đƣợc giao quyền tự chủ về mặt tài chính, chƣa đƣợc giao
quyền tự chủ về mặt biên chế, lao động và tổ chức bộ máy. Để khắc phục hạn chế
của Nghị định 10/2002/NĐ-CP, ngày 25/04/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định
43/2006/NĐ-CP, trong đó mở rộng phạm vi giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với tất cả các đơn
vị sự nghiệp công lập. Tiếp đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tƣ số 71/2006/TT-
BTC hƣớng dẫn thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Bộ Y tế và Bộ Nội vụ đã ban
hành Thông tƣ liên tịch số 02/2008/TTLT-BYT-BNV hƣớng dẫn thực hiện một số
điều của Nghị định 43/2006/NĐ-CP đối với đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh
vực y tế. Theo tinh thần của Nghị định 43/2006/NĐ-CP và các Thông tƣ hƣớng dẫn,
các đơn vị đƣợc quyền tiếp nhận, bổ nhiệm ngạch, chuyển ngạch, nâng bậc lƣơng
đối với viên chức tƣơng đƣơng ngạch bác sỹ chính trở xuống; đƣợc quyền quyết
định thành lập hoặc giải thể, tổ chức lại các khoa, phòng và tổ chức trực thuộc khác
trên cơ sở quy hoạch hoặc phƣơng án đã đƣợc cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Đối với tự chủ về tài chính thì các đơn vị sự nghiệp công lập hoàn toàn đƣợc
chủ động về nguồn thu chi tài chính, đƣợc khuyến khích chuyển sang loại hình
doanh nghiệp hoặc loại hình ngoài công lập. Cho phép các đơn vị đƣợc tự chủ trong
việc trích lập các quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, quỹ phúc lợi, quỹ khen
thƣởng, quỹ dự phòng ổn định thu nhập và chi trả thu nhập tăng thêm cho ngƣời lao
động, …. Đồng thời đƣợc phép sử dụng tài sản để liên doanh, liên kết hoặc góp vốn
liên doanh với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nƣớc đầu tƣ xây dựng, mua sắm
máy móc thiết bị phục vụ hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng nhiệm vụ của
đơn vị theo quy định của pháp luật. Nghị định 43/2006/NĐ-CPđã tạo hành lang
pháp lý rộng rãi cho các đơn vị sự nghiệp có thu phát huy tối đa quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm để phát triển đơn vị, tăng thu nhập cho cán bộ.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, nghị định 43/2006/NĐ-CP đã
bộc lộ những hạn chế, bất cập cần đƣợc sửa đổi: Các đơn vị sự nghiệp chƣa đƣợc
giao quyền tự chủ một cách đầy đủ; chƣa thực sự khuyến khích các đơn vị có điều
90
kiện vƣơn lên tự chủ ở mức cao hơn, …. Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động,
nhiều đơn vị phát sinh các hoạt động liên doanh, liên kết, mở rộng cung ứng dịch vụ
chƣa đƣợc điều chỉnh trong các văn bản pháp luật. Do đó, việc ban hành Nghị định
16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị
sự nghiệp công lập đã kịp thời đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của hoạt động sự
nghiệp công trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Nghị định 16/2015/NĐ-CP có một số điểm mới nổi bật so với Nghị định
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ nhƣ sau:
Thứ nhất, việc phân loại đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc dựa trên mức độ tự
chủ về tài chính của các đơn vị cả về chi thƣờng xuyên và chi đầu tƣ. Theo đó, căn
cứ vào mức độ tự đảm bảo kinh phí chi đầu tƣ và chi thƣờng xuyên, đơn vị sự
nghiệp công lập đƣợc phân chia thành 4 loại: Đơn vị tự đảm bảo chi phí hoạt động
thƣờng xuyên và chi phí đầu tƣ phát triển; đơn vị tự đảm bảo chi phí hoạt động
thƣờng xuyên; đơn vị tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thƣờng xuyên (phần
còn lại do nhà nƣớc cấp); đơn vị sự nghiệp do NSNN đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt
động (nguồn thu đáp ứng dƣới 10% tổng số chi).
Thứ hai, việc tự chủ của các đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy nhân sự và tài chính đƣợc quy định tƣơng ứng với từng loại hình đơn vị sự
nghiệp công lập, trên nguyên tắc các đơn vị tự đảm bảo kinh phí hoạt động càng
nhiều thì mức độ tự chủ càng cao để khuyến khích các đơn vị tăng thu, giảm dần
bao cấp từ ngân sách nhà nƣớc, trong đó có bao cấp tiền lƣơng tăng thêm để dần
chuyển sang các loại hình đơn vị tự đảm bảo chi thƣờng xuyên, đơn vị tự đảm bảo
chi thƣờng xuyên và chi đầu tƣ.
Thứ ba, quy định về giá, phí dịch vụ sự nghiệp công, cách xác định giá dịch
vụ sự nghiệp công không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nƣớc và giá dịch vụ sự
nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nƣớc. Theo đó, đối với dịch vụ sự
nghiệp công không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nƣớc đƣợc xác định theo cơ chế
thị trƣờng; đối với dịch vụ sự nghiệp công sử dụng kinh phí ngân sách nhà nƣớc
đƣợc xác định trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí theo quy
91
định và lộ trình tính giá theo quy định. Quy định này nhằm tạo điều kiện để từng
bƣớc tính đủ giá dịch vụ sự nghiệp công vào chi phí.
Ngày 5/10/2012 chính phủ ban hành nghị định 85/2012/NĐ-CP về cơ chế
hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị y tế sự nghiệp y tế công lập và giá
dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở y tế công lập. Nghị định 85/2012/NĐ-
CP quy định khá chi tiết và cụ thể về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và giá dịch
vụ y tế của các cơ sở y tế công lập. Về cơ chế hoạt động, ngoài các quy định về xây
dựng kế hoạch chuyên môn, tổ chức bộ máy nhân sự nghị định 85/2012/NĐ-CP có
riêng một điều khoản quy định về hoạt động liên doanh, liên kết, dịch vụ trong đó
ghi rõ "việc góp vốn, huy động vốn, liên doanh, liên kết phải đƣợc hạch toán theo
dõi riêng hoặc thành lập cơ sở hạch toán độc lập". Về cơ chế tài chính, Nghị định
tách riêng hai nội dung cơ chế tài chính đối với chi đầu tƣ phát triển và đối với chi
thƣờng xuyên. Về giá dịch vụ y tế, Nghị định 85/2012/NĐ-CP đã quy định rõ lộ
trình thực hiện tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế vào năm 2018, đồng thời từng
bƣớc cơ cấu tiền lƣơng, tiền công vào giá dịch vụ y tế. Nhƣ vậy, có thể nói Nghị
định 85/2012/NĐ-CP đã tạo bƣớc chuyển đổi cơ bản lộ trình về cơ chế hoạt động và
tài chính của các cơ sở y tế công lập. Việc triển khai theo Nghị định 85/2012/NĐ-
CP chắc chắn sẽ đẩy mạnh việc thực hiện tự chủ bệnh viện, tăng cƣờng xã hội hóa
công tác CSSK.
Việc phân cấp quản lý và trao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị cung
ứng dịch vụ y tế đƣợc dự đoán sẽ là đòn bẩy nhằm tăng cƣờng hiệu suất hoạt động,
tiết kiệm chi phí, tăng nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ cho các cơ sở y tế đồng
thời tăng tính sẵn có của dịch vụ y tế để đáp ứng nhu cầu KCB của nhân dân. Song,
nếu việc giao quyền tự chủ không kèm theo các điều kiện nâng cao năng lực quản
lý, tăng cƣờng trách nhiệm, tính minh bạch và vai trò theo dõi, giám sát thích hợp
thì sẽ dẫn đến nguy cơ tăng rào cản đối với ngƣời nghèo và ngƣời cận nghèo trong
tiếp cận dịch vụ y tế.
92
2.2. NHỮNG KẾT QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH Y TẾ CỦA VIỆT
NAM THỜI GIAN QUA
2.2.1. Kết quả chi ngân sách nhà nƣớc cho sự nghiệp y tế
2.2.1.1. Ngân sách nhà nƣớc cấp cho sự nghiệp y tế có xu hƣớng tăng
Ngân sách nhà nƣớc cấp cho y tế từ năm 2001 đến năm 2014 tăng lên về cả số
tƣơng đối lẫn số tuyệt đối, nếu tính về số tƣơng đối thì NSNN cấp cho y tế so với
NSNN nói chung từ năm 2001 đến 2015 tăng từ 4,68% lên 8,2%, nếu tính về số số
tuyệt đối thì tăng từ 4.985 tỷ lên 93.566 tỷ, tăng gấp gần 19 lần. Cơ cấu chi NSNN
cho chi thƣờng xuyên tăng nhanh hơn từ năm 2001 đến năm 2015 tăng hơn 20 lần,
so với chi cho đầu tƣ phát triển trong 15 năm chỉ tăng hơn 14 lần (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Bảng tình hình chi NSNN cho y tế giai đoạn 2001- 2014
(Đơn vị tính: tỷ đồng)
Năm Tổng NSNN cho y tế NSNN cho chi đầu tƣ phát triển của y tế NSNN cho chi thƣờng xuyên của y tế Tỷ lệ NSNN chi cho y tế/ NSNN
(3) (4=2+3) (2) (5) (1)
3.489 4.656 6.157 7.427 11.250 12.685 16.200 16.643 23.360 31.055 42.640 51.100 58.102 65.500 71.940 1.496 1.680 2.212 2.611 3.850 5.020 6.050 7.780 8.560 9.370 8.020 9.880 16.241 20.273 21.626 4.985 6.336 8.369 10.038 15.100 17.705 22.250 24.423 31.920 40.425 50.660 60.980 74.343 85.773 93.566 4.68 4.4 4.6 4.7 5.9 5.5 6.0 6.6 6.6 6.7 6.9 7.5 7.5 8.0 8.1
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 (dự toán)
(Nguồn: Thống kê y tế các năm của Bộ Y Tế)
93
Tỷ lệ gia tăng thực chi NSNN chung và cho y tế giai đoạn 2010–2014 cho
thấy tỷ lệ gia tăng NSNN cho y tế giai đoạn 2010-2011 tăng cao hơn hẳn (14%) so
với tỷ lệ gia tăng NSNN chung (3%), nhƣng giai đoạn 2011-2013 giảm mạnh do
ảnh hƣởng chung từ những khó khăn kinh tế vĩ mô và chính sách thắt chặt tài khóa
theo Nghị quyết của Chính Phủ số 11/2011/NQ-CP ngày 24/2/2011 (Hình 2.1). Giai
đoạn 2013-2014 NSNN cho y tế tăng lên đáng kể do đƣợc bố trí kinh phí bảo đảm
để thực hiện các chƣơng trình hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần mua thẻ BHYT cho các
đối tƣợng theo Luật BHYT, bao gồm ngƣời nghèo, ngƣời cận nghèo, ngƣời dân tộc
thiểu số, trẻ em dƣới 6 tuổi, các đối tƣợng chính sách, học sinh, sinh viên. Bên cạnh
nguồn NSNN chi thƣờng xuyên cho y tế, nguồn kinh phí đầu tƣ từ nguồn trái phiếu
chính phủ để triển khai một loạt các đề án đầu tƣ, nâng cấp mạng lƣới y tế địa
phƣơng theo các Quyết định 225, Quyết định 47, Quyết định 930 của Thủ tƣớng
Chính phủ cũng làm tăng tổng kinh phí từ NSNN cho y tế.
Hình 2.1. Tỷ lệ gia tăng thực tế chi NSNN chung và cho y tế
giai đoạn 2010–2014
(Nguồn: Vụ Kế hoạch – Tài chính, Bộ Y tế, giai đoạn 2010-2014. Điều chỉnh theo
giá thực tế dựa trên chỉ số điều chỉnh GDP của Tổng cục Thống kê)
94
Hình 2.2. Tốc độ tăng chi NSNN cho y tế so với tốc độ tăng chi NSNN theo giá
so sánh giai đoạn 2004–2013
(Nguồn: Bộ Tài chính, số liệu thống kê về chi ngân sách Nhà nước. Giá so sánh là
giá hiện hành điều chỉnh theo chỉ số giảm phát của Tổng cục Thống kê.)
Tỷ lệ chi NSNN cho y tế so với tổng chi thƣờng xuyên ngân sách nhà nƣớc
tăng liên tục từ năm 2008 đến 2012, đạt mức 8,3%. Tuy nhiên, theo dự toán năm
2013, tỷ lệ này giảm chỉ còn 8,1%. So với GDP, tỷ trọng chi NSNN chi thƣờng
xuyên cho y tế tăng từ 2008 đến 2011 đạt mức cao nhất là 1,97% sau đó năm 2012
và 2013 có xu hƣớng giảm đi (Hình 2.3). Chỉ số này phản ánh mức độ ƣu tiên cho y
tế trong bố trí ngân sách chung. “Tại nhiều nƣớc, trong đó có các nƣớc kém phát
triển ở châu Phi, đã đặt mục tiêu tăng chi ngân sách cho y tế lên mức 15% tổng chi
NSNN” [94].
95
Hình 2.3. Tỷ trọng chi thƣờng xuyên cho y tế từ NSNN so với
tổng chi thƣờng xuyên NSNN và so với GDP từ năm 2008–2013.
(Nguồn: Bộ Tài chính, số liệu thống kê về chi ngân sách Nhà nước)
Khảo sát số liệu thực tế tại 05 bệnh viện công lập trong giai đoạn mƣời năm
từ năm 2005 đến năm 2014, NSNN cấp cho các bệnh viện tùy theo mức độ tự chủ
về tài chính của các bệnh viện, tăng về số tuyệt đối, tuy nhiên tốc độ tăng còn rất
khiêm tốn so với tổng các nguồn thu của các bệnh viện. Cụ thể trong năm 2014,
NSNN cấp so với tổng các nguồn thu của bệnh viện Chợ Rẫy chỉ chiếm gần 1,6%,
bệnh viện Từ Dũ là 0,01%, bệnh viện Nhân Dân Gia Định là 15,8%, Bệnh viện Nhi
Đồng I là 17,8%, bệnh viện Nguyễn Trãi là 23,2% (Bảng 2.2).
96
Bảng 2.2. Số liệu NSNN cấp cho một số bệnh viện công giai đoạn 2005-2014
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm
Bệnh Viện
Bệnh Viện
BV Nhân dân
Bệnh viện
Bệnh viện
Chợ Rẫy
Từ Dũ
Gia Định
Nhi Đồng I
Nguyễn Trãi
NSNN
Tổng
NSNN
Tổng
NSNN
Tổng
NSNN
Tổng
NSNN
Tổng
cấp
thu
cấp
thu
cấp
thu
cấp
thu
cấp
thu
34.246
663.311
16.400
229.510
28.803 145.255
26.215
84.275
25.240
91.855
2005
35.702
895.945
18.279
264.043
27.362 175.401
27.338
91.153
36.083 138.922
2006
25.000 1.063.874
1.814
299.362
50.200 215.451
44.837 149.003
41.610 164.135
2007
10.662 1.242.456
260
346.506
52.360 258.979
57.756 193.370
40.012 175.837
2008
13.128 1.557.548
2.274
403.477
60.773 332.656
79.487 234.613
66.950 227.603
2009
36.208 1.858.261
558
449.098
77.085 424.789
104.649 318.604
59.961 270.473
2010
18.759 2.116.260
600
597.439
85.910 510.983
88.922 397.525
62.911 313.818
2011
17.444 2.410.153
282
743.414
100.177 647.580
83.564 441.795
67.174 333.744
2012
55.246 2.982.066
110
823.332
110.848 689.355
87.673 453.583
70.062 344.443
2013
52.708 3.301.989
156 1.157.819
121.283 766.130
96.700 532.877
75.760 327.150
2014
(Nguồn: Thu thập số liệu tại các bệnh viện)
2.2.1.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN chi cho sự nghiệp y tế
Tính hiệu quả về phân bổ ngân sách phụ thuộc rất nhiều vào quá trình lập kế
hoạch ngân sách và phân bổ ngân sách. Bộ Y tế đã tiến hành xây dựng kế hoạch chi
tiêu trung hạn giai đoạn 2009 - 2011 và giai đoạn 2012 - 2014. Theo Bộ Tài chính,
đây đƣợc coi là một thành phần mới trong quá trình xây dựng kế hoạch NSNN.
Hiện nay, việc lập kế hoạch và phân bổ NSNN cho y tế đang thực hiện theo Luật
Ngân sách Nhà nƣớc, thể hiện rõ rệt tính phân cấp. Ngân sách y tế cho địa phƣơng
đƣợc phân bổ cho các địa phƣơng căn cứ theo dân số và có điều chỉnh theo vùng
miền theo Quyết định 151/2006 của Thủ tƣớng chính phủ. Mới nhất là Quyết định
số 59/2010/QĐ-TTg quy định về địa phƣơng, các định mức phân bổ cụ thể nhƣ
phân bổ cho phòng bệnh, điều trị, phân bổ cho từng loại hình bệnh viện, từng đơn vị
y tế dự phòng, do UBND tỉnh, thành phố căn cứ vào định mức phân bổ do Chính
phủ quy định, khả năng tài chính và điều kiện của địa phƣơng để trình Hội đồng
Nhân dân quyết định. Nhƣ vậy, về tổng thể kinh phí y tế cấp cho các địa phƣơng
97
theođầu dân đã dựa trên nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nói chung của ngƣời dân và có
áp dụng hệ số điều chỉnh vùng miền để đảm bảo công bằng giữa các vùng miền.
Năm 2013, NSNN cấp cho chi thƣờng xuyên chiếm 53% ngân sách của toàn
ngành, trong đó NSNN cấp cho địa phƣơng chiếm 46%, cấp cho trung ƣơng chỉ
chiếm có 7% (Hình 2.4).
Hình 2.4. Các mục chi NSNN cho y tế năm 2013
(Nguồn: Số liệu Bộ Y tế, năm 2014)
Chú thích: XDCB (Xây dựng cơ bản; ĐTPT (đầu tƣ phát triển); TPCP (trái phiếu
chính phủ); ĐT (đối tƣợng); TX (thƣờng xuyên); TƢ (trung ƣơng).
Ngân sách nhà nƣớc cấp cho vùng sâu, vùng xa đƣợc áp dụng hệ số ƣu tiên
từ 1,7 - 2,4 lần so với vùng đô thị. Số liệu chi sự nghiệp y tế năm 2013 tại 63 tỉnh,
thành phố theo báo cáo của Bộ tài chính cho thấy 02 vùng Trung du và miền núi
phía Bắc và Tây Nguyên có mức chi ngân sách y tế bình quân đầu ngƣời cao nhất
cả nƣớc (Hình 2.5). Bộ Y tế ƣu tiên ngân sách đầu tƣ cho y tế xã, y tế dự phòng
huyện và đƣợc lồng ghép trong Chƣơng trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới, phát triển y tế nông thôn, trong đó bao gồm một số chính sách ƣu tiên đầu tƣ
cho vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
98
Hình 2.5. Chi Ngân sách nhà nƣớc cho y tế bình quân đầu ngƣời giữa các vùng
kinh tế xã hội năm 2013, Chi NSNN cho y tế bình quân đầu ngƣời
(Nguồn: Bộ Tài chính, số liệu thống kê về ngân sách nhà nước)
Nhà nƣớc tăng tỷ lệ chi tiêu công cho y tế bằng cách chuyển hƣớng cấp ngân
sách từ các đơn vị cung ứng dịch vụ sang cho ngƣời sử dụng dịch vụ y tế, thông qua
việc trợ cấp mua thẻ BHYT đƣợc xem là một phƣơng thức hữu hiệu để đảm bảo
tính công bằng và hiệu quả trong sử dụng NSNN cho y tế. Trong giai đoạn từ năm
2003-2013, tỷ lệ chi công cho y tế đã tăng từ 32,1% năm 2003 lên 45,2% năm 2013,
tuy nhiên tỷ lệ chi tƣ vẫn còn ở mức khá cao 48,5% (Hình 2.6), vì vậy Nhà nƣớc
cần phải tăng chi công cho y tế, để hỗ trợ 100% phí mua thẻ BHYT cho các hộ cận
nghèo và các đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng trong xã hội, tiến tới BHYT toàn dân.
99
100%
90%
27.4 26.4
32.1
32.9
80%
40
34.6 38.9 37.1 39.9 42.6 45.2
70%
60%
Chi Công
50%
Chi Tư
40%
66.5 67.6
62.9
62.1
30%
55.7
60.9 56.9 58.5 56.1 52.3 48.5
20%
10%
0%
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Hình 2.6. Cơ cấu chi phí y tế giai đoạn 2003 – 2013
(Nguồn: Bộ Tài chính, số liệu thống kê về ngân sách nhà nước)
2.2.2. Về thực hiện chính sách bảo hiểm y tế
2.2.2.1. Về diện bao phủ của bảo hiểm y tế
Năm 2013, có 61,76 triệu ngƣời tham gia BHYT, chiếm khoảng 68,8% dân số
trong đó nhóm NSNN đóng toàn bộ và hỗ trợ (ngƣời nghèo và cận nghèo) chiếm
26,1%, nhóm ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động 16.7%, nhóm BHXH đóng
phí (hƣu trí và đối tƣợng bảo trợ xã hội) chiếm 12.4%, học sinh, sinh viên chiếm
18,7%, tự nguyện nhân dân chiếm 10,8% và trẻ em dƣới 6 tuổi chiếm 15,4%. (Hình
2.7). Năm 2014 ƣớc tính độ bao phủ BHYT toàn dân là 70.3%.
100
Hình 2.7. Tỷ lệ ngƣời tham gia BHYT theo nhóm đối tƣợng năm 2013
Bảng 2.3. Số ngƣời tham gia BHYT cả nƣớc, 2008- 2009
(Tính theo đối tƣợng tham gia BHYT)
Năm 2008 Năm 2009 Tiêu chí
Tổng ngƣời tham gia BHYT 39.749.168 50.068.611
Đối tƣợng bắt buộc 13.529.268 19.608.730
Đối tƣợng ngƣời nghèo 15.530.132 15.112.623
Đối tƣợng học sinh, sinh viên 7.555.374 10.700.802
Đối tƣợng tự nguyện nhân dân 3.134.494 4.646.456
85.118.700 86.024.600 Tổng dân số
58% Tỷ lệ ngƣời tham gia BHYT so với 47%
dân số
(Nguồn: Thống kê BHYT 2008 - 2013)
101
Bảng 2.4. Số ngƣời tham gia BHYT cả nƣớc, 2010- 2013
(Tính theo nhóm đóng phí tham gia BHYT)
Tiêu chí
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012 Năm 2013
Năm 2014 (Ƣớc)
52.407.090
57.081.956
58.977.203
61.761.723
64.310.582
8.917.285
9.207.546
9.575.379
10.024.377
6.774.161 14.235.589 7.837.611 10.483.283
8.000.470 16.238.695 8.360.108 10.288.101
8.479.113 16.007.349 8.983.406 10.448.856
8.883.574 15.865.365 9.278.443 11.307.743
4.159.161
4.987.036
5.483.100
6.402.221
86.927.700
87.839.500
88.824.998
89.724.394
91.500.000
60.3%
65.0%
66.4%
68.8%
70.3%
Tổng ngƣời tham gia BHYT Nhóm ngƣời lao động và sử dụng lao động đóng Nhóm BHXH đóng Nhóm NSNN đóng Nhóm NSNN hỗ trợ Nhóm tự nguyện Nhóm các đối tƣợng khác Tổng dân số Tỷ lệ ngƣời tham gia BHYT so với dân số
(Nguồn: Thống kê BHYT 2010-2014, BHXH Việt Nam)
Số ngƣời tham gia BHYT đã tăng nhanh qua các năm, chủ yếu nhờ chính
sách Nhà nƣớc mua thẻ, hỗ trợ mua thẻ BHYT cho các nhóm đối tƣợng ngƣời
nghèo, cận nghèo,... (nhóm NSNN đóng và nhóm NSNN hỗ trợ) (Bảng 2.3 và 2.4).
Phát triển BHYT toàn dân bền vững là một trong những trọng tâm của công
tác y tế. Bộ Y tế đã phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam trình Bộ Chính trị ban
hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 về tăng cƣờng sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác Bảo hiểm xã hội, BHYT giai đoạn 2012–2020. Nghị quyết
này ra đời đánh dấu một bƣớc chuyển biến quan trọng trong công tác lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng và cấp ủy các cấp đối với việc thực hiện mục tiêu phát triển BHYT
toàn dân, tạo tiền đề cho sự vào cuộc mạnh mẽ của chính quyền địa phƣơng các cấp
đối với công tác BHYT. Các đánh giá về công tác BHYT đều nhấn mạnh vai trò của
chính quyền địa phƣơng trong việc thực hiện thành công mục tiêu mở rộng BHYT.
Đề án thực hiện lộ trình tiến tới BHYT toàn dân giai đoạn 2012–2015 và 2020, đã
đƣợc Thủ tƣớng phê duyệt ngày 29/3/2013 tại quyết định số 538/QĐ-TTg. Với đề
án đƣợc phê duyệt, mục tiêu trên 80% dân số tham gia BHYT vào năm 2020 đã
mang tính khả thi và hiện hữu với các giải pháp cụ thể, cùng nguồn lực đầu tƣ cho
từng giai đoạn của lộ trình.
102
2.2.2.2. Về mức phí đóng bảo hiểm y tế
Phân tích sự phân bổ các nhóm đối tƣợng tham gia bảo hiểm y tế có đóng góp
từ lƣơng, nhóm tham gia bảo hiểm y tế đƣợc nhà nƣớc dùng ngân sách từ thuế hỗ
trợ gián tiếp và nhóm đối tƣợng tham gia bảo hiểm y tế đƣợc nhà nƣớc dùng ngân
sách mua cấp toàn bộ mức phí, cho thấy nhóm tự đóng bảo hiểm y tế từ thu nhập
chiếm tỷ trọng không cao. Nhƣ vậy, trong khu vực bảo hiểm y tế bắt buộc, Nhà
nƣớc đang là ngƣời đóng phí bảo hiểm y tế lớn nhất.
Trong tổng số tiền thu đóng phí bảo hiểm y tế trên 48.218 tỷ đồng của năm
2013 (Bảng 2.5), thì số tiền có nguồn gốc từ ngân sách nhà nƣớc (trong đó có tiền
mua thẻ bảo hiểm y tế cho ngƣời nghèo, cho các đối tƣợng ƣu đãi xã hội, cho ngƣời
hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc) chiếm 44,44%, nguồn thu phí bảo hiểm y tế từ
nhóm ngƣời lao động và sử dụng lao động chiếm hơn 37,8% và từ nhóm ngƣời
tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện chỉ chiếm gần 9,86%, tỷ lệ này còn rất thấp.
Bảng 2.5. Số thu BHYT giai đoạn 2010-2014
Đơn vị tính: triệu đồng.
Năm 2011
Năm2012
Năm2013
Tiêu chí
Năm2014 (Ƣớc) 53.383.900
Năm 2010 25.540.580
29.266.383
40.176.004
48.218.181
9.175.128
11.748.118
15.076.099
18.228.691
3.852.318 5.361.834 2.979.720 2.625.625
4.725.936 6.730.323 3.856.198 1.291.611
6.708.375 7.981.700 4.653.313 3.338.894
7.835.418 8.233.367 5.360.435 4.758.975
1.545.955
914.197
2.417.624
3.801.295
Tổng số thu BHYT Nhóm ngƣời lao động và sử dụng lao động đóng Nhóm BHXH đóng Nhóm NSNN đóng Nhóm NSNN hỗ trợ Nhóm tự nguyện Nhóm các đối tƣợng khác
(Nguồn: Thống kê BHYT 2010-2014, BHXH Việt Nam)
Năm 2013, mức phí bình quân của khu vực BHYT bắt buộc cao nhất thuộc
nhóm lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và công chức,
viên chức nhà nƣớc, cán bộ Đảng và các đoàn thể hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà
nƣớc mức phí bình quân trên 1.800.000 đồng/ngƣời/năm. Mức đóng bình quân thấp
nhất thuộc về nhóm đóng BHYT tự nguyện là 420.000 đồng/ngƣời/năm (Bảng 2.6).
103
Bảng 2.6. Mức đóng BHYT bình quân năm 2013 theo các nhóm đối tƣợng
Đơn vi tính: triệu đồng.
Nhóm đối tƣợng Số ngƣời tham gia BHYT Số tiền đóng trung bình/ thẻ Tổng số tiền thu do phát hành thẻ BHYT
18.228.691 10.024.377 1,818
Nhóm ngƣời lao động và sử dụng lao động đóng
7.835.418 8.883.574 0,882 Nhóm BHXH đóng
8.233.367 15.865.365 0,519 Nhóm NSNN đóng
5.360.435 9.278.443 0,578 Nhóm NSNN hỗ trợ
0,420 4.758.975 11.307.743 Nhóm tự nguyện
0,594 3.801.295 6.402.221 Nhóm các đối tƣợng khác
(Nguồn: Thống kê BHYT năm 2013BHXH Việt Nam)
2.2.2.3. Về cơ chế chia sẻ rủi ro và cung ứng dịch vụ cho ngƣời bệnh tham gia
BHYT
Mục tiêu góp quỹ chia sẻ rủi ro của BHYT bị tác động bởi cơ chế quản lý quỹ
BHYT trong những năm gần đây. Ngƣời có thẻ BHYT tại một số tỉnh nghèo, các
tỉnh miền núi thƣờng ít sử dụng dịch vụ y tế (do nhiều yếu tố, trong đó có sự sẵn có
và năng lực của hệ thống cung ứng dịch vụ, yếu tố địa lý, giao thông, văn hóa và
đặc biệt là khả năng tài chính của ngƣời nghèo đối với các khoản chi phí ngoài
BHYT). Nhƣ vậy, mong muốn tăng cƣờng sự hỗ trợ của ngƣời có thu nhập cao cho
ngƣời thu nhập thấp trong tài chính y tế, thông qua cơ chế góp quỹ không những
không thực hiện đƣợc, mà còn dẫn tới hiện tƣợng nguồn quỹ BHYT của vùng
nghèo bao cấp ngƣợc cho khu vực thành phố lớn, tỉnh giàu.
Hệ thống cung ứng dịch vụ y tế đã có những cố gắng lớn tạo thuận lợi cho
ngƣời tham gia BHYT đƣợc khám chữa bệnh. Các thủ tục hành chính tiếp tục đƣợc
104
cải cách, đa số trạm y tế xã đã tiếp nhận khám chữa bệnh thông thƣờng cho ngƣời
tham gia BHYT. Danh mục thuốc BHYT mở rộng và đƣợc cập nhật thƣờng xuyên
hơn, nhiều dịch vụ, kỹ thuật khám chữa bệnh mới đƣợc cung cấp cho ngƣời có
BHYT. Tuy vậy, hệ thống cung ứng dịch vụ vẫn có nhiều khó khăn, ảnh hƣởng bất
lợi tới quyền lợi của ngƣời bệnh BHYT. Đó là tình trạng quá tải không chỉ xảy ra ở
bệnh viện tuyến trên, mà còn ở ngay trạm y tế xã của khu vực đồng bằng có tỷ lệ
bao phủ BHYT cao, là sự thiếu hụt về nhân lực y tế và trang thiết bị kỹ thuật ở
tuyến y tế cơ sở; nguồn tài chính hạn hẹp của các bệnh viện. Ngoài ra, phƣơng thức
chi trả của BHYT làm cho các cơ sở y tế tuyến dƣới hạn chế chuyển ngƣời bệnh lên
tuyến trên.
2.2.2.4. Về phƣơng thức chi trả cho ngƣời bệnh tham gia BHYT
Cơ quan BHXH ký hợp đồng với các cơ sở khám chữa bệnh và chi trả chi phí
khám chữa bệnh bằng phƣơng thức phí theo phí dịch vụ, với khung giá các dịch vụ
đƣợc Nhà nƣớc quy định và đƣợc chính quyền các tỉnh, thành phố quy định giá cụ
thể cho từng loại dịch vụ. Ngƣời bệnh (trừ nhóm có ƣu tiên) cùng chi trả 20% chi
phí chữa bệnh trong danh mục BHYT và 100% các danh mục ngoài BHYT trực tiếp
cho các cơ sở y tế.
Đối với hệ thống y tế công, quỹ BHYT chi trả thông qua phƣơng thức phí theo
dịch vụ có trần cho bệnh nhân khám bệnh ngoại trú và bệnh nhân nằm viện nội trú
dựa trên số lần khám, chữa bệnh. Với phƣơng thức thanh toán phí theo dịch vụ hiện
hành, nguồn tài chính của quỹ BHYT không đƣợc sử dụng có hiệu quả, không tránh
đƣợc sự lạm dụng quỹ từ phía ngƣời cung ứng dịch vụ cũng nhƣ từ phía ngƣời sử
dụng dịch vụ. Khả năng giám sát việc sử dụng quỹ rất hạn chế, do thiếu cơ chế quản
lý. Bên cạnh đó do hạn chế về năng lực chuyên môn y tế và luôn có tâm lý lo sợ vỡ
quỹ BHYT, nên cơ quan BHYT hạn chế chi trả cho ngƣời bệnh các danh mục
thuốc, vật tƣ y tế giá cao và các dịch vụ kỹ thuật sử dụng thiết bị y tế hiện đại, nên
dẫn tới tình trạng chệnh lệch thu - chi khá cao của quỹ BHYT trong các năm gần
đây (Bảng 2.7).
105
Bảng 2.7. Tổng kết thu– chi quỹ BHYT giai đoạn 2010 - 2014
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm Chệnh lệch
2010 2011 2012 2013 2014(ƣớc) Tổng Tổng thu quỹ BHYT 25.540.580 29.266.383 40.176.004 48.218.181 53.383.900 196.585.048 Tổng chi quỹ BHYT 18.895.434 24.902.836 31.792.019 38.408.829 47.000.000 160.999.118 6.645.146 4.363.547 8.383.985 9.809.352 6.383.900 35.585.930
(Nguồn: Thống kê BHYT năm 2013 BHXH Việt Nam)
2.2.3. Thực trạng về viện trợ tài chính quốc tế cho y tế Việt Nam
Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp song nguồn viện
trợ cho y tế vẫn tăng lên và đƣợc duy trì ở mức cao. Năm 2012, Bộ Y tế quản lý 52
dự án viện trợ phát triển chính thức (ODA) với tổng giá trị khoảng 1,5 tỷ USD.
Năm 2013 số dự án giảm xuống còn 41 dự án, nhƣng tổng giá trị vẫn gần 1,5 tỷ
USD. Ngân hàng Thế giới và Quỹ Toàn cầu hiện đang là hai tổ chức cung cấp
nguồn vốn ODA lớn nhất cho y tế, chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn ODA. Hỗ trợ y
tế theo vùng miền và phòng chống HIV/AIDS đang là hai lĩnh vực nhận đƣợc nhiều
nhất nguồn lực từ các đối tác phát triển. Ngoài nguồn hỗ trợ từ các dự án ODA, theo
báo cáo của Bộ Y tế hiện đang có 106 dự án y tế do các tổ chức phi chính phủ tài
trợ với tổng số vốn là 256 triệu USD [16].
Hiện nay, Việt Nam phải đối mặt với thực tế là các nguồn viện trợ ƣu đãi có
xu hƣớng giảm dần, thay vào đó là vốn kém ƣu đãi. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng
nguồn vốn viện trợ vẫn bị hạn chế do một số bất cập trong công tác điều phối, năng
lực thực hiện dự án, vƣớng mắc trong thủ tục hành chính, việc theo dõi, đánh giá
chƣa đầy đủ, … Mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ, song nguồn hỗ trợ từ phía quốc tế vẫn
có ý nghĩa quan trọng, bao gồm hỗ trợ tài chính và hỗ trợ kỹ thuật nhằm giải quyết
các vƣớng mắc, khó khăn trong mở rộng độ bao phủ và chiều sâu BHYT. Mô hình
hỗ trợ chi phí gián tiếp cho ngƣời nghèo khi đi KCB theo chế độ BHYT và hỗ trợ
ngƣời cận nghèo tham gia BHYT sau khi đƣợc thí điểm trong một số dự án từ
106
nguồn viện trợ đang đƣợc tiếp tục thực hiện trong các dự án hỗ trợ y tế của các đối
tác phát triển (Ngân hàng thế giới, EC). Hỗ trợ kỹ thuật giúp Bộ Y tế và BHXH
Việt Nam đổi mới phƣơng thức chi trả dịch vụ y tế cũng đang đƣợc sự quan tâm của
một số đối tác phát triển nhƣ Ngân hàng thế giới, ADB, ….
2.2.4. Tình hình chi tiêu y tế từ tiền túi của hộ gia đình
Các hoạt động y tế tại Việt Nam đang đƣợc bảo đảm bởi 5 nguồn tài chính,
bao gồm ngân sách nhà nƣớc, BHYT, tài trợ nƣớc ngoài, chi phí từ tiền túi của hộ
gia đình và một số nguồn tài chính tƣ khác. Trong số các nguồn tài chính y tế nêu
trên, chi phí từ tiền túi của hộ gia đình luôn luôn chiếm tỷ trọng cao. Mặc dù tỷ
trọng chi phí từ tiền túi của hộ gia đình trong tổng chi cho y tế ở Việt Nam đang có
xu hƣớng giảm trong những năm gần đây, nhƣng con số này vẫn ở mức hơn 48%.
Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới, tỷ lệ chi tiêu từ tiền túi này là khá cao, gây
mất công bằng trong CSSK (Hình 2.8).
Hình 2.8. Tỷ lệ các nguồn tại chính y tế tại Việt Nam giai đoạn 2002–2013
(Nguồn: Thống kê số liệu, Bộ Tài Chính)
Kết quả phân tích số liệu của các cuộc điều tra mức sống dân cƣ từ năm 2002
đến năm 2014 cho thấy, thu nhập bình quân đầu ngƣời tăng từ 440 USD năm 2002
lên 2.028 USD năm 2014 và chi tiêu bình quân đầu ngƣời ở Việt Nam tăng từ 320
USD năm 2002, lên 1.888 USD năm 2014 (Bảng 2.8).
107
Bảng 2.8. Mức thu nhập và chi tiêu bình quân đầu ngƣời từ năm 2002-2014
Năm Thu nhập bình quân đầu ngƣời (USD) Chi tiêu bình quân đầu ngƣời (USD)
440 560 796 1.145 1.273 1.749 2.028 320 397 511 792 1.211 1.603 1.888 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2002 – 2014)
Mức chi phí từ tiền túi của hộ gia đình cho các dịch vụ y tế của năm 1014
cũng tăng lên gấp 2,5 lần so với năm 2002 (Bảng 2.9) và chiếm tỷ lệ khá cao so với
thu nhập bình quân đầu ngƣời ở nƣớc ta. Mặc dù giá các dịch vụ y tế hiện nay chƣa
đƣợc tính đúng tính đủ, còn đƣợc bao cấp bởi Nhà nƣớc, nhƣng giá vật tƣ y tế đầu
vào nhƣ thuốc, y cụ, hóa chất, vật tƣ y tế tiêu hao tăng là nguyên nhân chính dẫn
đến tăng chi phí từ tiền túi của hộ gia đình. Cụ thể năm 2012 chỉ số CPI của nhóm
thuốc và dịch vụ y tế tăng 13,6%, năm 2013 chỉ số CPI của nhóm thuốc và dịch vụ
y tế tăng 45,63%, năm 2014 chỉ số CPI của nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 5,36%.
Bảng 2.9. Mức chi cho y tế từ tiền túi của hộ gia đình trung bình/hộ/tháng
(theo giá hiện hành và giá so sánh năm 2014), 2002~2014
Đơn vị tính: ngàn đồng.
Năm
Chi y tế /tháng, theo giá so sánh năm 2014 119,7 175,4 175,9 220,8 255,2 288,1 300,0 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014 (ƣớc tính)
Chi y tế/tháng, theo giá hiện hành 67,5 126,4 140,0 201,3 243,0 275,5 300,0 (Nguồn: WHO, Đại học Y Hà Nội, 2014)
(Chú thích: Giá so sánh là giá hiện hành điều chỉnh theo chỉ số giá cả dƣợc phẩm)
108
Chi phí từ tiền túi của hộ gia đình có thể gây ra tình trạng nghèo hóa cho các
hộ gia đình, khi chi trả trực tiếp cho y tế làm cho khả năng chi cho các khoản thiết
yếu của hộ gia đình bị giảm xuống dƣới ngƣỡng nghèo đói.
Bảng 2.10. Thực trạng nghèo hóa do chi phí y tế tại Việt Nam 2002 – 2014
Nghèo hóa do chi phí y tế
Năm Hộ gia đình Tỷ lệ (%)
590.446 3,4 2002
769.505 4,1 2004
667.863 3,1 2006
742.587 3,5 2008
563.785 2,5 2010
583.724 2,5 2012
545.500 2,4 2014 (ƣớc tính)
(Nguồn: WHO, Đại học Y Hà Nội, 2014)
Tỷ lệ và số lƣợng các hộ gia đình nghèo hóa do chi phí y tế giảm đi đáng kể
ƣớc tính vào năm 2014, đặc biệt là so với năm 2008 (Bảng 2.10). Kết quả đáng
khích lệ này có thể đƣợc giải thích bởi tác động của hàng loạt các chính sách xã hội
và y tế đƣợc Nhà nƣớc ban hành gần đây. Đặc biệt là Luật Bảo hiểm y tế đã tạo điều
kiện cho ngƣời nghèo, trẻ em dƣới 6 tuổi, ngƣời có công,... và một số lƣợng không
nhỏ ngƣời cận nghèo đƣợc nhà nƣớc hỗ trợ phí mua thẻ BHYT,…
2.2.5. Thực trạng huy động nguồn lực tài chính của xã hội cho y tế
2.2.5.1. Huy động nguồn lực tài chính ở các cơ sở y tế công lập
Để thực hiện chủ trƣơng xã hội hóa, Đề án “Phát triển xã hội hóa bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân” đƣợc Bộ Y tế phê duyệt ngày 21/6/2005 đã đƣa
ra các giải pháp, trong đó có nhóm giải pháp về “Huy động nguồn lực để đầu tƣ
phát triển hệ thống y tế công lập”. Nội dung cụ thể đƣợc đề cập trong giải pháp này
là: “Khuyến khích các cơ sở khám chữa bệnh, điều dƣỡng và phục hồi chức năng
huy động các nguồn vốn ngoài NSNN, hợp tác và liên kết với các doanh nghiệp, cá
109
nhân để đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cấp trang thiết bị và cung cấp các dịch
vụ y tế phù hợp với quy hoạch đã đƣợc phê duyệt” [74].
Việc huy động các nguồn lực để đầu tƣ phát triển các cơ sở y tế công lập, hiện
đang đƣợc thực hiện dƣới hai hình thức chủ yếu: Liên doanh, liên kết để đầu tƣ
trang thiết bị y tế; phát triển các dịch vụ khám, chữa bệnh theo yêu cầu.
Liên doanh, liên kết đầu tƣ thiết bị y tế tại các bệnh viện công, thực tế cho thấy
các hoạt động liên doanh, liên kết tại bệnh viện công đã mang lại nhiều kết quả tích
cực, đáp ứng nhu cầu cấp thiết về đổi mới trang bị kỹ thuật y tế, đặc biệt những
trang thiết bị kỹ thuật cao, phục vụ kịp thời nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân
trong hoàn cảnh kinh phí Nhà nƣớc chƣa cung cấp đủ để mua sắm các trang thiết bị
này. Tuy nhiên, mức độ và hình thức đầu tƣ rất khác nhau giữa các bệnh viện. Các
bệnh viện có mức tự chủ cao thƣờng dựa vào liên doanh, liên kết qua hình thức cho
nhà đầu tƣ đặt máy, thiết bị để cùng khai thác để phát triển trang thiết bị, kỹ thuật
mới. Tính đến cuối năm 2013 toàn ngành y tế triển khai khoảng 883 đề án với tổng
số vốn là 2.796,8 tỷ đồng. Trong đó các bệnh viện địa phƣơng có 724 đề án với số
vốn 1.794,77 tỷ đồng; các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế triển khai 159 đề án với
1.000,02 tỷ đồng.
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là phần lớn nguồn đầu tƣ này là đầu tƣ tƣ nhân,
đƣợc sử dụng để mua sắm trang thiết bị với mục đích thu lợi nhuận, dẫn đến những
hậu quả không mong muốn, nhƣ việc lạm dụng dịch vụ, làm tăng chi phí cho ngƣời
bệnh. Việc tiếp cận và sử dụng vốn vay phi lợi nhuận từ ngân hàng đầu tƣ phát triển
và các tổ chức cho vay phi lợi nhuận khác để bổ sung cho sự thiếu hụt về tài chính
còn rất hạn chế.
Với mức đầu tƣ NSNN cho các bệnh viện công lập còn thấp, kết hợp với việc
đẩy mạnh liên doanh, liên kết tại bệnh viện công từ các nguồn vốn tƣ nhân có thể sẽ
dẫn đến tình trạng tỷ lệ chi phí y tế do ngƣời dân tự chi trả sẽ ngày càng tăng cao,
nếu không có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc chỉ định và sử dụng trang thiết bị kỹ
110
thuật cao sẽ dẫn đến tình trạng hạn chế khả năng tiếp cận của ngƣời nghèo và ngƣời
cận nghèo trong KCB.
Việc triển khai liên doanh, liên kết chỉ thuận lợi với bệnh viện tuyến tỉnh và
trung ƣơng, bởi vì đây là bệnh viện tuyến cuối và có nhiều bệnh nhân. Đối với y tế
tuyến huyện và các đơn vị y tế dự phòng, triển khai xã hội hoá theo hƣớng thu hút
đầu tƣ tƣ nhân và liên doanh, liên kết đang gặp nhiều khó khăn.
Một vấn đề cần quan tâm là các văn bản hƣớng dẫn về đổi mới cơ chế hoạt
động của cơ sở y tế công lập, cũng nhƣ tổ chức KCB theo yêu cầu và liên doanh,
liên kết ở bệnh viện công chƣa đầy đủ. Việc thiếu văn bản hƣớng dẫn cụ thể đã làm
cho nhiều bệnh viện công lúng túng khi triển khai liên doanh, liên kết sử dụng thiết
bị y tế. "Một trong những lúng túng mà các bệnh viện gặp phải là về quyền tự chủ
tài chính cũng nhƣ cho phép liên doanh, liên kết sử dụng thiết bị y tế nhƣ thế nào
(về chủng loại cũng nhƣ về tỷ lệ chia lợi nhuận). Hầu hết các địa phƣơng đều có
vƣớng mắc trong quá trình thực hiện tự chủ do thiếu hƣớng dẫn cụ thể về việc xác
định giá đất trong liên doanh, liên kết. Bên liên doanh chỉ đặt máy, nhƣng đất đai,
nhà cửa là của nhà nƣớc. Cơ sở để tính toán, phân chia lợi nhuận còn nhiều vƣớng
mắc, vì đây là vấn đề quá mới mẻ" [19].
Thực tế hoạt động ở các bệnh viện công đang rất cần những quy định pháp lý
về sử dụng nhà, đất của các bệnh viện công để liên doanh, liên kết, hoặc để xây
dựng các khu điều trị theo yêu cầu, để tránh sự lẫn lộn tài sản công và tƣ.
Nguồn thu từ các hoạt động liên doanh, liên kết tăng nhanh trong các năm gần
đây, đã góp phần phát triển kỹ thuật, nâng cao chất lƣợng chẩn đoán, điều trị; Từng
bƣớc đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng đa dạng của ngƣời dân; Bổ sung
nguồn kinh phí hoạt động cho các đơn vị y tế; góp phần cải thiện thu nhập của nhân
viên y tế (Bảng 2.11).
111
Bảng 2.11. Bảng tổng hợp kết quả liên doanh, liên kết năm 2011-2013
Đơn vị tính: triệu đồng
Địa phƣơng
Trung ƣơng
Năm 2011 444.342 369.735 9.492 95.287 351.699 285.986 3.620 62.357 Năm 2013 748.835 651.862 10.773 119.066 574.666 449.433 10.555 114.480 Thu Chi Nộp thuế TNDN Bổ sung nguồn kinh phí Thu Chi Nộp thuế TNDN Bổ sung nguồn kinh phí
Năm 2012 619.403 514.802 11.278 91.984 445.734 350.945 5.461 89.133 (Nguồn: Vụ Kế hoạch – Tài chính, Bộ Y tế 2014)
Tuy nhiên, hiện nay chƣa có các quy định, hƣớng dẫn cụ thể việc quản lý,
giám sát các hoạt động đầu tƣ của tƣ nhân trong các cơ sở y tế công lập, dẫn đến
những lo ngại liên quan đến vấn đề công bằng và chất lƣợng dịch vụ CSSK, bởi vì
các khoản đầu tƣ này chắc chắn sẽ nhằm mục tiêu đƣợc thu hồi với lợi nhuận cao
lấy từ các nguồn chi trả trực tiếp của ngƣời bệnh.
Phát triển các “dịch vụ theo yêu cầu” trong bệnh viện công, sự thay đổi về đầu
tƣ của các bệnh viện đƣợc thể hiện rõ nét ở các bệnh viện lớn. Các bệnh viện có kế
hoạch xây mới, mở rộng, chủ yếu tập trung theo hƣớng phát triển khu “dịch vụ theo
yêu cầu”. Lĩnh vực đƣợc đầu tƣ nhiều nhất là các máy móc chẩn đoán hình ảnh nhƣ
máy chụp cắt lớp, siêu âm màu, X quang kỹ thuật số, nội soi,... chủ yếu để phục vụ
cho khu vực dịch vụ theo yêu cầu trong bệnh viện.
Hình thức dịch vụ theo yêu cầu phát triển chủ yếu tại các bệnh viện lớn, nhƣ
bệnh viện tỉnh hoặc tại một số bệnh viện quận, huyện nơi đông dân cƣ và có mức
sống khá. Các hình thức dịch vụ theo yêu cầu cũng khác nhau giữa các bệnh viện,
nhƣ “phòng bệnh theo yêu cầu”, “phẫu thuật theo yêu cầu” hoặc “khám bệnh ngoài
giờ”,.... Về giá thu phí dịch vụ theo yêu cầu tại các bệnh viện có sự dao động lớn
giữa các bệnh viện. Điều này cho thấy hình thức dịch vụ theo yêu cầu tại các bệnh
viện công là rất đa dạng và chƣa có quy định cụ thể để việc thực hiện đƣợc thống
112
nhất. Số liệu cụ thể nguồn thu các hoạt động dịch vụ theo yêu cầu ở một số bệnh
viện công nhƣ bệnh viện Chợ Rẫy với số giƣờng bệnh trung bình là 2.200 giƣờng,
trong năm 2005 số tiền thu các dịch vụ theo yêu cầu chiếm gần 3% so với tổng thu,
năm 2014 số tiền thu các dịch vụ theo yêu cầu chiếm gần 6,3% với tổng thu; tại
bệnh viện Từ Dũ với số giƣờng bệnh trung bình là 1.800 giƣờng, trong năm 2005 số
tiền thu các dịch vụ theo yêu cầu chiếm gần 6,2% so với tổng thu, năm 2014 số tiền
thu các dịch vụ theo yêu cầu chiếm gần 54% so với tổng thu; tại bệnh viện Nguyễn
Trãi với số giƣờng bệnh trung bình là 800 giƣờng, trong năm 2005 số tiền thu các
dịch vụ theo yêu cầu chiếm gần 2,2% so với tổng thu, năm 2014 số tiền thu các dịch
vụ theo yêu cầu chiếm gần 7,4% với tổng thu… (Bảng 2.12).
Bảng 2.12: Nguồn thu hoạt động dịch vụ theo yêu cầu tại một số bệnh viện
công giai đoạn 2005 -2014
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm
Bệnh Viện
Bệnh Viện
BV Nhân dân
Bệnh viện
Bệnh viện
Chợ Rẫy
Từ Dũ
Gia Định
Nhi Đồng I
Nguyễn Trãi
(Giƣờng thực
(Giƣờng thực
(Giƣờng thực
(Giƣờng thực
(Giƣờng thực
kê năm 2014:
kê năm 2014:
kê năm 2014:
kê năm 2014:
kê năm 2014:
2.200 giƣờng)
1.800 giƣờng)
1.500 giƣờng)
1.520 giƣờng)
800 giƣờng)
Thu
Tổng
Thu
Tổng
Thu
Tổng
Thu
Tổng
Thu
Tổng
dịch vụ
thu
dịch vụ
thu
dịch vụ
thu
dịch vụ
thu
dịch vụ
thu
19.180
663.311
14.176
229.510
3.849 145.255
7.558
84.275
1.977
91.855
2005
39.754
895.945
13.022
264.043
3.983 175.401
9.113
91.153
1.437 138.922
2006
24.516 1.063.874
19.970
299.362
6.816 215.451
27.988 149.003
3.583 164.135
2007
39.201 1.242.456
25.189
346.506
11.533 258.979
38.451 193.370
4.219 175.837
2008
73.214 1.557.548
64.395
403.477
20.829 332.656
61.207 234.613
3.590 227.603
2009
92.570 1.858.261
145.372
449.098
53.957 424.789
75.360 318.604
12.165 270.473
2010
147.081 2.116.260
220.970
597.439
44.799 510.983
101.698 397.525
19.191 313.818
2011
130.640 2.410.153
287.792
743.414
53.974 647.580
123.859 441.795
21.224 333.744
2012
166.304 2.982.066
337.550
823.332
57.464 689.355
135.794 453.583
25.824 344.443
2013
207.965 3.301.989
627.359 1.157.819
57.080 766.130
159.309 532.877
24.123 327.150
2014
(Nguồn: Thu thập số liệu tại các bệnh viện)
113
Hiện nay vẫn chƣa có sự phân biệt rõ ràng giữa tài sản công với tài sản tƣ tại
các cơ sở dịch vụ theo yêu cầu. Cơ sở vật chất nhƣ nhà cửa và một số trang thiết bị,
giƣờng, tủ vẫn là của bệnh viện. Những hình ảnh bệnh nhân ở khu KCB theo yêu
cầu với đầy đủ tiện nghi, rộng rãi xen lẫn với cảnh bệnh nhân nằm chen chúc 2-3
ngƣời/giƣờng trong cùng một bệnh viện công ở một số nơi, đã tạo ra những phản
ứng trong xã hội liên quan đến công bằng trong CSSK. Vì vậy, ở một số địa
phƣơng, chƣa có sự đồng thuận cao trong việc triển khai khám chữa bệnh theo yêu
cầu và liên doanh, liên kết trong bệnh viện công.
Tóm lại, việc huy động các nguồn tài chính “xã hội hoá” để đầu tƣ phát triển
các cơ sở y tế công lập thông qua liên doanh, liên kết nâng cấp trang thiết bị y tế và
phát triển các dịch vụ theo yêu cầu tại các bệnh viện công đã đem lại một số kết
quả, song cũng đặt ra nhiều vấn đề đáng lo ngại về tính công bằng và hiệu quả.
2.2.5.2. Tình hình phát triển y tế tƣ nhân
Hoạt động y tế tƣ nhân đã chia sẻ một lƣợng lớn bệnh nhân trong khám bệnh
ngoại trú với cơ sở y tế nhà nƣớc, đã tạo thuận lợi hơn cho nhân dân trong khám
chữa bệnh. Một số bệnh viện tƣ nhân đã phát triển kỹ thuật y tế hiện đại, tạo điều
kiện cho bệnh nhân chữa trị bệnh ở trong nƣớc, giảm bớt tốn kém so với việc ra
nƣớc ngoài khám chữa bệnh.
Tuy nhiên, số lƣợng và chất lƣợng y tế tƣ nhân chƣa tƣơng xứng với tiềm
năng. Phần lớn cơ sở y tế tƣ nhân chỉ triển khai các dịch vụ dễ làm, các loại xét
nghiệm và chẩn đoán hình ảnh dễ thu hồi vốn. Đa số bệnh viện tƣ quy mô nhỏ, chủ
yếu tập trung ở các đô thị lớn, tỷ lệ sử dụng giƣờng bệnh thấp. Theo số liệu thông
kê từ 731 bệnh viện tƣ của Vụ Điều trị - Bộ Y tế, công suất sử dụng giƣờng bệnh tại
các bệnh viện tƣ nhân chỉ đạt 74,7%; trong khi đó công suất sử dụng giƣờng bệnh
chung ở bệnh viện công các tuyến là 122,4%. Số lƣợt ngƣời bệnh nội trú đƣợc điều
trị tại các bệnh viện tƣ nhân chiếm một tỷ lệ tƣơng đối thấp so với các bệnh viện
công ở các tuyến.
Các quy định của pháp luật về điều kiện thành lập và hoạt động của cơ sở y tế
tƣ nhân đƣợc đánh giá là phù hợp. Những khó khăn hiện nay chủ yếu liên quan đến
114
mức thuế cao, không có mặt bằng thuận lợi để xây dựng bệnh viện tƣ, hoặc những
khó khăn liên quan đến các thủ tục hành chính trong xây dựng bệnh viện tƣ.
Sự thiếu hụt nhân lực y tế hiện nay ở cả bệnh viện công và bệnh viện tƣ nhân
là khó khăn rất lớn để thực hiện chính sách xã hội hóa công tác y tế. Mặc dù nhu
cầu nhân lực phục vụ cơ sở y tế tƣ nhân đã tăng ngay sau khi Pháp lệnh hành nghề
y, dƣợc tƣ nhân đƣợc ban hành năm 1994, song việc dự báo nhu cầu, tạo điều kiện
và khuyến khích công tác đào tạo nhân lực y tế để đáp ứng nhân lực cho các cơ sở y
tế tƣ nhân còn hạn chế. Đến nay, nguồn nhân lực cho y tế tƣ nhân vẫn chủ yếu đƣợc
cung cấp bằng nguồn nhân lực sẵn có từ các cơ sở y tế công lập. Gần 60% bác sĩ ở
cơ sở y tế tƣ là những ngƣời đang làm việc ở bệnh viện công. Tại một số bệnh viện
công ở tuyến trung ƣơng và thành phố lớn, mỗi ngày 1 bác sĩ khám 50 đến 60 bệnh
nhân, do đó không bảo đảm chất lƣợng khám bệnh.
Quản lý nhà nƣớc đối với khu vực y tế tƣ nhân còn hạn chế. Các cơ sở y tế tƣ
nhân nói chung chƣa đƣợc đƣa vào tổ chức thích hợp để tạo thuận lợi cho việc quản
lý về chuyên môn. Việc thu thập thông tin về khu vực y tế tƣ nhân, quản lý và giám
sát chất lƣợng dịch vụ của y tế tƣ nhân cũng đang có nhiều khó khăn.
2.2.6. Tình hình thực hiện chính sách tự chủ tài chính
Để chỉ đạo thực hiện chính sách tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
y tế, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ ban hành các thông tƣ, quyết
định hƣớng dẫn các đơn vị thực hiện chính sách này, thẩm định các phƣơng án và
phê duyệt quy chế chi tiêu nội bộ của các đơn vị trực thuộc Bộ. Sở Y tế ở các
tỉnh/thành phố giữ vai trò chủ chốt trong việc chọn lựa giao chỉ tiêu cho các đơn vị,
cũng nhƣ hƣớng dẫn, đôn đốc và giám sát quá trình thực hiện chính sách này ở địa
phƣơng. Sở Y tế cũng chịu trách nhiệm thẩm định phƣơng án và xét duyệt quy chế
chi tiêu nội bộ của đơn vị, còn Sở Tài chính đóng vai trò tƣ vấn và góp ý kiến.
Riêng dự toán ngân sách của ngành y tế phải do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân tỉnh/thành phố phê duyệt. Công tác tập huấn và phổ biến chính sách này cũng
đƣợc các địa phƣơng quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế, việc phổ biến các văn bản
115
này còn có nhiều hạn chế, vì vậy nhận thức về tự chủ tài chính của công chức, viên
chức ở hầu hết các đơn vị sự nghiệp y tế còn chƣa đầy đủ và thấu đáo.
“Đến cuối năm 2013 thì 76/76 các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế đã đƣợc giao tự
chủ theo nghị định 43/2012/NĐ-CP gồm: 11 đơn vị tự đảm bảo chi phí hoạt động
thƣờng xuyên (14,7%); 60 đơn vị tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thƣờng
xuyên (80%); 5 đơn vị do ngân sách đảm bảo chi phí hoạt động thƣờng xuyên
(6,7%). Các đơn vị khối địa phƣơng: 40/63 tỉnh có 100% các đơn vị đã đƣợc giao tự
chủ, trong đó: 0,8% số đơn vị thuộc loại tự đảm bảo toàn bộ chi hoạt động thƣờng
xuyên; 53,4% số đơn vị thuộc loại tự đảm bảo một phần chi hoạt động thƣờng
xuyên; 45,8% số đơn vị thuộc loại do ngân sách đảm bảo chi phí động thƣờng
xuyên. Bệnh viện thuộc Bộ Y tế có 39 đơn vị, trong đó: 8 đơn vị thuộc loại tự đảm
bảo chi phí hoạt động thƣờng xuyên; 26 đơn vị thuộc loại tự đảm bảo một phần chi
phí động thƣờng xuyên; 5 đơn vị thuộc loại do ngân sách đảm bảo chi phí động
thƣờng xuyên” [58].
Nhìn chung, mức độ tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp y tế thể hiện rất
khác nhau giữa các loại hình đơn vị, giữa các tuyến và các khu vực khác nhau. Các
đơn vị ở những thành phố lớn, khu vực đông dân cƣ với mức sống cao thì mức độ
tự chủ mạnh hơn. Mức độ tự chủ hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng tài chính, điều
kiện cơ sở vật chất sẵn có của các đơn vị và trình độ chuyên môn của nhân viên y
tế. Đồng thời, còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của ngƣời
đứng đầu đơn vị. Nơi nào giám đốc năng động, chủ động thì nơi đó có mức độ tự
chủ mạnh hơn và ngƣợc lại. Các bệnh viện tuyến trung ƣơng, tuyến tỉnh/thành phố
có mức tự chủ mạnh hơn rất nhiều so với các bệnh viện tuyến huyện. Sự khác biệt
không chỉ thể hiện giữa các bệnh viện tự chủ toàn phần kinh phí thƣờng xuyên với
các đơn vị tự chủ một phần hay giữa các đơn vị thực hiện trƣớc hay là sau, mà còn
thấy ở ngay chính các đơn vị có cùng mức tự chủ hoặc có cùng thời gian thực hiện
tự chủ. Hơn nữa, sự khác biệt càng thấy rõ hơn ở chính các nội dung mà các đơn vị
đƣợc phép tự chủ theo quy định nhƣ: tự chủ về tài chính, đầu tƣ trang thiết bị, phát
triển dịch vụ theo yêu cầu, huy động, góp vốn liên doanh, liên kết,…. Tuy nhiên,
116
việc đánh giá mức độ tự chủ của các đơn vị hiện nay mới chỉ dựa vào kết quả định
tính mà chƣa có tiêu chí cụ thể, rõ ràng để đánh giá.
Việc triển khai chính sách tự chủ tài chính trong ngành y tế trong thời gian qua
đã thu đƣợc kết quả bƣớc đầu đáng ghi nhận, thể hiện ở các mặt chủ yếu sau đây:
Quyền lực và trách nhiệm của lãnh đạo cơ quan đƣợc tăng lên rõ rệt. Khi thực
hiện tự chủ, lãnh đạo cơ quan đã năng động hơn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm đối với các hoạt động của đơn vị với động cơ tăng nguồn thu tài chính
và tăng thu nhập cho cán bộ, nhân viên.
Có sự thay đổi về bố trí sắp xếp bộ máy cũng nhƣ sử dụng hiệu quả hơn nguồn
nhân lực hiện có. Các đơn vị đã chú ý tổ chức lại theo hƣớng tinh gọn, hiệu quả,
nâng cao chất lƣợng tuyển chọn nhân sự và chất lƣợng bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo,
nhất là cán bộ có khả năng quản lý đơn vị. Đồng thời, việc cử cán bộ đi học nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và ứng dụng các kỹ thuật mới đƣợc chú trọng.
Công tác đào tạo về năng lực quản lý bắt đầu đƣợc quan tâm hơn. Tuy nhiên, việc
tự chủ trong quản lý, sử dụng nguồn nhân lực mới chỉ hạn chế trong việc sắp xếp lại
cán bộ trong đơn vị, chứ chƣa đƣợc chủ động trong tuyển dụng và sa thải cán bộ, do
bị ràng buộc bởi nhiều các văn bản pháp luật khác đang tồn tại song hành, chƣa
đƣợc điều chỉnh kịp thời. Mặt khác, ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa hầu
nhƣ không có khả năng, hoặc gặp nhiều khó khăn trong quản lý sử dụng nhân lực,
do sự thiếu hụt trầm trọng về nhân lực chuyên môn ở các khu vực này.
Nguồn thu tài chính của các bệnh viện có thu tăng lên rất nhanh kể sau khi
thực hiện tự chủ tài chính, trƣớc khi nghị định 10/2002/ND-CP nguồn thu của các
bệnh viện công lập là 1.690 tỷ, chỉ sau ba năm thực hiện tự chủ tài chính, nguồn thu
đã tăng lên gần 3 lần và nguồn thu tăng lên theo từng năm và đặc biệt tăng nhanh
sau lần đều chỉnh giá viện phí vào cuối năm 2012 (Bảng 2.13, 12.4).
117
Bảng 2.13. Tổng hợp các nguồn thu viện phí và BHYT của các bệnh viện công
trong cả nƣớc giai đoạn 2001-2015
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Tổng thu Năm
Thu viện phí trực tiếp Thu viện phí qua BHYT
840 850 1.690 2001
950 1.000 1.950 2002
1.161 1.179 2.340 2003
2.900 1.905 4.805 2004
3.020 3.113 6.133 2005
3.370 5.631 9.001 2006
3.899 8.018 11.917 2007
4.464 10.114 14.578 2008
7.200 15.195 22.395 2009
8.813 16.352 25.165 2010
10.734 20.406 31.140 2011
10.930 32.818 43.748 2012
15.000 42.000 57.000 2013
19.655 45.885 65.540 2014
20.282 49.658 69.940 2015 (dự toán)
(Nguồn: Bộ Y Tế, 2015)
Số liệu thu viện phí và thu viện phí BHYT tại các bệnh viện công lập tăng
nhanh qua 10 năm gần, đây đặc biệt là nguồn thu từ viện phí BHYT, do ngƣời dân
ngày càng nhận thức đƣợc tầm quan trọng của BHYT đối với việc CSSK. Cụ thể tại
bệnh viện Chợ Rẫy thu viện phí tăng 2,8 lần, thu viện phí BHYT tăng 10,5 lần; tại
bệnh viện Từ Dũ thu viện phí tăng 2,3 lần, thu viện phí BHYT tăng 8 lần; Tại bệnh
viện Nguyễn Trãi thu viện phí tăng 1,6 lần, thu viện phí BHYT tăng 5,2 lần…
(Bảng 2.14).
118
Bảng 2.14 Nguồn thu viện phí và viện phí BHYT của một số bệnh viện công lập
giai đoạn 2005 – 2014
Đơn vị tính: triệu đồng.
Bệnh Viện
Bệnh Viện
BV Nhân dân
Bệnh viện
Bệnh viện
Chợ Rẫy
Từ Dũ
Gia Định
Nhi Đồng I
Nguyễn Trãi
(Số giƣờng trung
(Số giƣờng trung
(Số giƣờng trung
(Số giƣờng trung
(Số giƣờng trung
bình/ năm: 2.200
bình/ năm: : 1.800
bình/ năm: 1.500
bình/năm: 1.500
bình/năm: 800
Năm
giƣờng)
giƣờng)
giƣờng)
giƣờng)
giƣờng)
Thu
Thu viện
Thu
Thu viện
Thu
Thu viện
Thu
Thu viện
Thu
Thu viện
viện
phí
viện
phí
viện
phí
viện
phí
viện
phí
phí
BHYT
phí
BHYT
phí
BHYT
phí
BHYT
phí
BHYT
450.100
159.604 184.247
14.072
76.750
33.804
41.677
1.644 30.535
34.103
2005
498.820
321.628 193.340
36.883
78.840
64.803
45.403
4.994 30.219
71.183
2006
591.144
423.214 235.708
41.728
91.300
67.104
68.047
5.932 37.689
81.021
2007
678.806
511.348 277.725
43.276 114.688
80.398
97.050
4.607 40.876
86.446
2008
765.103
706.103 285.325
51.476 141.471
108.158 101.888
15.010 46.144
110.919
2009
960.366
769.117 254.976
48.163 142.191
151.556
74.897
95.928 54.028
140.013
2010
902.222 307.211
61.002 189.299
190.975
72.195
152.727 53.679
177.351
2011 1.047.628
88.546 228.208
265.180 100.664
158.732 51.697
193.649
2012 1.044.460 1.124.007 366.794
82.182 259.806
258.995
93.546
132.208 53.132
195.425
2013 1.135.444 1.417.368 403.490
113.288 264.496
323.194 108.655
172.792 49.674
177.593
2014 1.257.220 1.672.610 417.016
(Nguồn: Thu thập số liệu tại các bệnh viện)
Các đơn vị chủ động hơn trong việc sử dụng các nguồn tài chính. Do đƣợc
giao quyền chủ động trong việc sử dụng ngân sách chi thƣờng xuyên đƣợc cấp ổn
định trong ba năm và các nguồn thu, nên các đơn vị đã chủ động điều tiết các khoản
chi hợp lý và hiệu quả hơn. Các đơn vị đã tăng cƣờng tiết kiệm chi bằng cách cắt
giảm những khoản chi tiêu không hợp lý, khoán chi đến tận các khoa phòng (nhƣ
chi phí điện thoại, điện nƣớc, hội họp, công tác phí, …). Do tiết kiệm chi nên tỷ
trọng chi cho hành chính phí có xu hƣớng giảm. Cơ cấu chi cho con ngƣời và phần
lƣơng tăng thêm có xu hƣớng tăng lên ở các đơn vị có nguồn thu lớn (chiếm khoảng
hơn 30% trên tổng chi thƣờng xuyên), đặc biệt là các bệnh viện chuyên khoa, bệnh
viện có nguồn thu dịch vụ theo yêu cầu cao nhƣ bệnh viện Từ Dũ, Nhân Dân Gia
119
Định, Nhi Đồng 1. Trong khi đó các bệnh viện đa khoa tuyến cuối hoặc bệnh viện
không có điều kiện làm dịch vụ theo yêu cầu thì khoản chi này tuy có tăng nhƣng
không đáng kể nhƣ bệnh viện Chợ Rẫy, Nguyễn Trãi.
Bảng 2.15 Chi cho con ngƣời tại một số bệnh viện công lập giai đoạn 2005-2014
Đơn vị tính: triệu đồng.
Bệnh Viện
Bệnh Viện
BV Nhân dân
Bệnh viện
Bệnh viện
Gia Định
Nhi Đồng I
Nguyễn Trãi
Chợ Rẫy
Từ Dũ
(Viên chức
(Viên chức
(Viên chức
(Số viên chức
(Số viên chức
trung bình/ năm:
rung bình/ năm:
trung bình/ năm:
trung bình/ năm:
trung bình/ năm:
Năm
1.700 ngƣời)
1.700 ngƣời)
900 ngƣời)
3.600 ngƣời)
2.200 ngƣời)
Chi cho
Tổng
Chi cho
Tổng
Chi cho
Tổng
Chi cho
Tổng
Chi cho
Tổng
con ngƣời
chi
con ngƣời
chi
con ngƣời
chi
con ngƣời
chi
con ngƣời
chi
165.684
663.313
90.287
229.423
42.700 142.157
30.997
83.223
33.081 109.582
2005
133.319
895.946
102.738
270.031
56.689 171.690
42.062
87.461
34.722 119.502
2006
161.771 1.063.874
108.610
299.612
72.720 215.453
72.776 156.490
48.481 181.691
2007
171.525 1.242.457
134.937
345.329
91.784 258.000
98.591 201.153
51.814 176.314
2008
200.741 1.557.687
169.038
384.771
106.183 332.646
109.254 238.207
60.943 227.475
2009
242.911 1.858.261
189.310
452.163
127.230 424.339
114.964 355.403
74.470 270.148
2010
284.635 2.116.260
223.717
592.047
140.194 511.405
130.565 415.366
79.178 313.755
2011
353.586 2.410.153
294.177
727.352
182.769 647.522
158.968 444.969
100.072 330.825
2012
413.537 2.982.336
305.320
795.974
214.860 689.356
186.339 451.641
103.133 347.274
2013
426.115 3.301.890
414.481 1.088.764
226.364 757.753
211.158 533.410
106.781 322.904
2014
(Nguồn: Thu thập số liệu tại các bệnh viện)
Quyền lợi của các cán bộ công nhân viên đƣợc cải thiện. Từ khi thực hiện tự
chủ tài chính, thu nhập của các cán bộ công nhân viên đƣợc cải thiện rõ rệt. Cơ chế
trả lƣơng và thu nhập tăng thêm đã chú ý đến hiệu suất công việc và trình độ năng
lực cán bộ. Thực tế cho thấy mức thu nhập tăng thêm rất khác nhau giữa các đơn vị,
hệ số lƣơng tăng thêm ở các khu vực trung ƣơng, thành phố thƣờng cao hơn so với
các đơn vị thuộc khu vực nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Ví dụ, ở các bệnh
viện có nguồn thu dịch vụ theo yêu cầu lớn nhƣ các bệnh viện Từ Dũ, Nhi Đồng I,
Nhân Gia Định…, hệ số lƣơng tăng thêm khoảng từ 1,5 - 2,5 lần lƣơng cơ bản. Cụ
120
thể bình quân thu nhập của viên chức trong năm 2014 tại bệnh viện Từ Dũ
là 15,7 triệu đồng/ngƣời/tháng, bệnh viện Nhân Dân Gia Định là 11,1 triệu
đồng/ngƣời/tháng (Bảng 2.15). Trong khi các bệnh viện khó khăn trong việc tạo
nguồn thu dịch vụ theo yêu cầu nhƣ bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Nguyễn Trãi hệ
số lƣơng tăng thêm chỉ tăng từ 0,5 đến 0,8 lần lƣơng cơ bản, thu nhập trung bình
của viên chức năm 2014 tại hai bệnh viện này là 9,9 triệu đồng/ngƣời/tháng (Bảng
2.15). Chênh lệch về thu nhập có nhiều lý do nhƣ điều kiện về cơ sở vật chất, nhân
lực, vị trí địa lý, thực hiện nhiệm vụ chính trị đƣợc giao là bệnh viện tuyến cuối,
tiếp nhận bệnh nhân nặng và bệnh nhân có thẻ BHYT…. Hơn nữa với mức thu viện
phí và BHYT nhƣ hiện nay, họ đã rất khó khăn trong vấn đề trang trải chi tiêu cho
các hoạt động của đơn vị và dành một khoản tiền chi lƣơng tăng thêm không đáng
kể cho cán bộ. Một số bệnh viện có thể đảm bảo mức lƣơng khoảng 4 - 5 lần lƣơng
cơ bản, nhƣng Nghị định 43 chỉ khống chế hệ số tối đa không quá 3 lần quỹ lƣơng
cấp bậc, chức vụ trong năm do nhà nƣớc quy định. Đây cũng là điểm bất cập cần
phải xem xét. Với tình trạng chênh lệch về thu nhập và điều kiện làm việc nhƣ hiện
nay có thể dẫn đến hiện tƣợng di chuyển bác sĩ giỏi từ nông thôn ra thành thị, từ
miền núi xuống miền xuôi hoặc từ khu vực nhà nƣớc sang khu vực tƣ nhân ngày
càng tăng.
Việc thực hiện tự chủ tài chính đã làm tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở y tế
công, kể cả khu vực y tế tƣ nhân, về chất lƣợng, giá cả và phong cách phục vụ
ngƣời bệnh. Các bệnh viện phải phấn đấu tăng hiệu quả hoạt động và tìm cách thu
hút thêm bệnh nhân, đặc biệt là các đối tƣợng có khả năng chi trả cao. Tự chủ hoá
cũng thúc đẩy việc đổi mới tƣ duy quản lý tài chính, phƣơng thức hoạt động cũng
nhƣ văn hóa ứng xử với ngƣời bệnh, tạo sự hài lòng cho bệnh nhân và ngƣời nhà
bệnh nhân. Tuy nhiên, điều này cũng gây nguy cơ mất tính toàn diện và tính hệ
thống trong cung ứng dịch vụ, nhƣ phá vỡ phân tuyến kỹ thuật, thoát ly khỏi sự
quản lý của Nhà nƣớc, nếu không có những giải pháp cần thiết.
121
2.3. NHỮNG TỒN TẠI VÀ KHÓ KHĂN TRONG THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH TÀI CHÍNH CHO SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN Y TẾ CÔNG Ở VIỆT
NAM
2.3.1. Những vấn đề bất cập trong thực hiện chính sách tài chính y tế từ ngân
sách Nhà nƣớc
Mức cấp NSNN cho y tế tăng, nhƣng chƣa đáp ứng nhu cầu thực tế: Mặc dù
NSNN cấp cho y tế tăng nhƣng cũng nhƣ đáp ứng đầy đủ nhu cầu thực tế cho chi
hoạt động thƣờng xuyên cũng nhƣ chi cho đầu tƣ phát triển. Một phần lớn NSNN
cấp cho y tế chỉ đủ để chi lƣơng ngạch, bậc cho nhân viên y tế, chƣa đủ kinh phí để
chi cho các loại phụ cấp của ngành y tế. Vì vậy chƣa tạo sự khuyến khích để nâng
cao hiệu quả làm việc của nhân viên y tế.
Cơ cấu chi NSNN chƣa tập trung cao cho những lĩnh vực ƣu tiên: Theo Luật
Ngân sách, Bộ Y tế chỉ quản lý và điều hành ngân sách của các đơn vị trực thuộc và
phần ngân sách trung ƣơng hỗ trợ có mục tiêu cho các địa phƣơng. Tại các địa
phƣơng, việc phân bổ ngân sách và quản lý tài chính do Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân các cấp quyết định. Với cơ chế quản lý và phân bổ ngân sách theo
Luật Ngân sách, ngành y tế khó điều hành hoạt động một cách có hiệu quả, vì
nhiệm vụ giao cho đơn vị không gắn liền với ngân sách và cấp phát tài chính, đặc
biệt là công tác phòng chống dịch bệnh. Khi phân bổ ngân sách các địa phƣơng đều
phải tập trung cho các ƣu tiên về cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, giáo dục, môi
trƣờng, … nên một số địa phƣơng khó dành ƣu tiên tăng ngân sách cho y tế. Trong
khi đó, các đánh giá kinh tế y tế đã chứng minh chi phí - hiệu quả đầu tƣ cho các
can thiệp dự phòng thƣờng cao hơn nhiều so với can thiệp cho điều trị. Do đó, tỷ lệ
phân bổ giữa khu vực dự phòng và điều trị cần đƣợc cân đối để đảm bảo thực hiện
các mục tiêu của y tế công cộng.
Tỷ lệ NSNN chi cho y tế tuyến huyện và xã chiếm tỷ trọng rất thấp, chỉ chiếm
khoàng 20% tổng chi NSNN cho y tế. Trong khi đó, NSNN là nguồn kinh phí chủ
yếu đảm bảo hoạt động của mạng lƣới y tế cơ sở. Với cách thức phân bổ này, nhiều
122
địa phƣơng không đảm bảo ngân sách hoạt động cho y tế cơ sở, tiền phụ cấp cho y
tế thôn bản không đảm bảo, không đủ ngân sách chi thƣờng xuyên của trạm y tế xã
theo quy định. Điều này dẫn đến tình trạng các cơ sở y tế tuyến huyện xã thƣờng
hoạt động trong điều kiện thiếu thốn về cơ sở vật chất, khó khăn về nhân lực, chế độ
thù lao quá thấp, chi thƣờng xuyên thấp, dẫn đến yếu kém về chất lƣợng chuyên
môn.
Chi NSNN cho y tế theo vùng có sự khác biệt rõ rệt: Ngân sách nhà nƣớc cho
y tế theo vùng vẫn có sự khác biệt khá rõ về mức chi Ngân sách nhà nƣớc cho y tế
bình quân đầu ngƣời giữa các vùng và địa phƣơng, mặc dù trong phân bổ ngân sách
đã áp dụng hệ số điều chỉnh, ƣu tiên cho vùng miền núi, vùng sâu vùng xa nhƣng
trên thực tế ngƣời dân tại các vùng này vẫn hƣởng thụ sự hỗ trợ từ NSNN ít hơn
nhiều so với các vùng có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi hơn.
Bộ Y Tế chƣa có một tiêu chí thống nhất nào quy định cách phân bổ ngân
sách trong nội bộ tỉnh. Trên thực tế, nhiều tỉnh vẫn dựa vào phƣơng pháp phân bổ
theo đầu dân, giƣờng bệnh, hoặc theo số biên chế cán bộ y tế. Luật Ngân sách năm
2002 đã tạo ra thẩm quyền rất rộng cho các tỉnh trong việc phân bổ ngân sách cho
các cấp dƣới, vì vậy nếu không có các tiêu chí phân bổ hợp lý, điều đó có thể còn
làm tăng thêm sự khác biệt trong cách phân bổ ngân sách giữa các tỉnh.
Cơ chế quản lý và sử dụng NSNN cho y tế chậm đổi mới: Ngân sách nhà nƣớc
cấp cho y tế hiện tại vẫn đƣợc sử dụng theo hai phƣơng thức chủ yếu: Cấp ngân
sách cho các cơ sở KCB theo định mức (chủ yếu dựa trên giƣờng bệnh) và chi trả
dịch vụ y tế thông qua phƣơng thức phí theo dịch vụ. Cả hai phƣơng thức này đều
không khuyến khích việc tăng tính hiệu quả kỹ thuật trong sử dụng nguồn NSNN
cho y tế. Việc cấp ngân sách vẫn dựa theo các chỉ tiêu mang tính kế hoạch, hành
chính, nhƣ số giƣờng bệnh, số biên chế, mà chƣa dựa vào thực tế và kết quả hoạt
động của các đơn vị. Việc chi trả dịch vụ y tế thông qua phƣơng thức phí theo dịch
vụ tạo điều kiện cho xu hƣớng lạm dụng xét nghiệm, thuốc từ phía cơ sở cung ứng
dịch vụ, gây ảnh hƣởng trực tiếp đến tính hiệu quả trong cung ứng dịch vụ y tế.
123
Việc phân bổ NSNN cho y tế địa phƣơng đang cho thấy có một số vấn đề nổi
lên. Thứ nhất, ngân sách y tế cho các địa phƣơng đã đƣợc Quốc hội thông qua,
nhƣng phân bổ cụ thể ở từng địa phƣơng nhìn chung chƣa đảm bảo đƣợc tổng mức
đã đƣợc thông qua cho y tế địa phƣơng. Mặc dù định mức phân bổ theo đầu dân còn
thấp, chƣa đáp ứng nhu cầu, nhƣng một số địa phƣơng còn không đảm bảo đƣợc
định mức chi này. Thứ hai, việc phân bổ kinh phí tại các địa phƣơng thƣờng chú
trọng cho khối điều trị, tỷ lệ cho dự phòng thƣờng thấp, nhiều địa phƣơng chỉ dành
12 - 13% tổng chi sự nghiệp y tế cho phòng bệnh. Ngoài ra, định mức phân bổ cho
các bệnh viện cũng vẫn dựa vào số giƣờng bệnh kế hoạch theo từng loại bệnh viện
mà không dựa vào số lƣợng, chất lƣợng dịch vụ và các kết quả phản ánh hoạt động
của bệnh viện. Kinh phí cho các đơn vị dự phòng đƣợc phân bổ theo mức chi quản
lý hành chính, chƣa có chỉ tiêu yêu cầu về số lƣợng các hoạt động y tế dự phòng cần
thực hiện. Nhƣ vậy, trong bối cảnh thực hiện phân cấp tài chính nhƣ hiện nay, vấn
đề điều tiết từ Ngân sách trung ƣơng cũng nhƣ vai trò theo dõi, giám sát của Bộ Y
tế để đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu của ngành cũng nhƣ các chức năng quản
lý của nhà nƣớc trong y tế cần đƣợc đặc biệt chú trọng.
Một phần lớn NSNN cho y tế đƣợc dùng để chi trả lƣơng cho nhân viên y tế.
Tuy nhiên, chế độ thù lao và phụ cấp cho cán bộ y tế vẫn thực hiện theo quy định
chung, trong đó chƣa đề cao việc chi trả tiền công theo kết quả công việc, chƣa tạo
sự khuyến khích để nâng cao hiệu quả làm việc của nhân viên y tế, cả ở khu vực
quản lý, KCB, và y tế dự phòng..
Số liệu về tài chính y tế chƣa đồng bộ, nhất quán: Việc tập hợp và phân tích số
liệu chi NSNN cho y tế đã cho thấy sự khác nhau về số liệu này từ nguồn của Bộ
Tài chính, Bộ Y tế (Tài khoản y tế quốc gia). Việc thống nhất khái niệm, cách tính
và số liệu để có các chỉ số chính xác về NSNN là rất cần thiết, giúp cho công tác dự
toán và phân bổ NSNN có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu CSSK nhân dân.
124
2.3.2. Những vấn đề tồn tại trong chính sách bảo hiểm y tế
Từ hiện trạng thực hiện chính sách BHYT nêu trên, có thể rút ra các vấn đề
chủ yếu có tác động bất lợi tới tính bền vững của BHYT tại Việt Nam, cụ thể nhƣ
sau:
Diện bao phủ và mức độ tuân thủ thấp trong khối lao động chính quy (có
hƣởng lƣơng). Thiếu những quy định pháp luật nhằm đảm bảo sự tuân thủ đóng phí
BHYT. Nhiều doanh nghiệp còn nợ tiền đóng phí BHYT cho ngƣời lao động.
Nhu cầu KCB của ngƣời tham gia BHYT chƣa đƣợc đáp ứng tốt, hệ thống
cung ứng dịch vụ y tế còn nhiều hạn chế. Tình trạng quá tải không chỉ xảy ra ở các
bệnh viện tuyến trên, mà còn cả ở tuyến y tế cơ sở. Chất lƣợng dịch vụ y tế cho
ngƣời tham gia BHYT ở miền núi, vùng sâu, vùng xa có sự khác biệt nhiều so với
các khu vực khác.
Ngƣời bệnh có BHYT vẫn phải tự chi trả nhiều khoản tiền khi KCB. Chi phí
KCB phi chính thức của ngƣời bệnh BHYT, tác động bất lợi lên tiếp cận dịch vụ y
tế của nhóm ngƣời có thu nhập thấp và làm giảm niềm tin của không ít ngƣời có
BHYT.
Tính chuyên nghiệp của tổ chức thực hiện BHYT còn hạn chế: Công tác quản
lý bệnh nhân BHYT, quản lý chi phí KCB còn lỏng lẻo. Quỹ BHYT, quỹ hƣu trí và
một số quỹ BHXH khác đƣợc quản lý trong một tổ chức chung (BHXH Việt Nam),
làm mất đi tính chuyên nghiệp, khả năng điều hành và tác nghiệp cần có trong công
tác quản lý một quỹ rất đặc thù.
2.3.3. Những khó khăn, thách thức và nguyên nhân tồn tại trong quản lý, sử
dụng viện trợ nƣớc ngoài cho y tế
Về các thủ tục hành chính: Thủ tục hành chính liên quan đến quản lý viện trợ
đã đƣợc cải thiện hƣớng đến hài hòa. Tuy nhiên đến nay vẫn còn thiếu thống nhất
giữa các thủ tục của Chính phủ và các quy định của các nhà tài trợ. Mặt khác, cơ
chế và chính sách quản lý nhà nƣớc về ODA vẫn còn nhiều điểm chƣa đồng bộ,
chƣa rõ ràng. Quy trình thẩm định phê duyệt kế hoạch, phê duyệt các bƣớc liên
125
quan đến mua sắm, đấu thầu còn kéo dài. Ngoài năng lực quản lý dự án, đây là
những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ giải ngân thấp, và không kịp tiến độ.
Về năng lực thực hiện: Tổ chức và hoạt động của một số Ban quản lý dự án
còn có những hạn chế về năng lực quản lý. Nhân lực của các Ban quản lý dự án một
phần từ nguồn cán bộ kiêm nhiệm, chƣa dành nhiều thời gian cho công việc quản lý
dự án, một phần từ nguồn thuê tuyển ngắn hạn, trách nhiệm công việc chƣa cao và
năng lực còn hạn chế.
Ngoài ra, sự phân cấp mạnh mẽ trong quản lý dự án cũng đang là một thách
thức đối với cơ quan thực hiện, đặc biệt các địa phƣơng, khi năng lực tổ chức và cá
nhân chƣa đủ đảm bảo tiến độ và chất lƣợng thực hiện dự án. Hiện nay, năng lực
quản lý và thực hiện của một số Ban quản lý dự án trung ƣơng và Ban quản lý dự án
tỉnh còn yếu một phần do thiếu sự theo dõi giám sát của các Vụ, Cục chức năng,
chƣa có những cơ chế động viên khuyến khích cán bộ tại các Vụ, Cục tham gia
giám sát chất lƣợng và hiệu quả dự án. Một số dự án có tình trạng “khoán trắng”
cho Ban quản lý dự án. Việc tuyển dụng các cán bộ có trình độ và kinh nghiệm cho
quản lý các dự án cũng gặp khó khăn, đặc biệt là ở các địa phƣơng.
Về công tác theo dõi và đánh giá: Công tác giám sát và đánh giá đƣợc thực
hiện theo hƣớng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ nhằm theo dõi chặt chẽ các dự án,
giải quyết kịp thời các vấn đề khó khăn gây chậm trễ trong quá trình thực hiện. Mặc
dù đã có những hƣớng dẫn, nhƣng công tác theo dõi, giám sát và đánh giá dự án,
chƣơng trình còn nhiều hạn chế. Hoạt động này mới chỉ dừng lại ở việc quản lý đầu
vào và quy trình thông qua nhiều khâu kiểm soát và thủ tục hành chính.Tuy nhiên
hoạt động giám sát chƣa mang tính tổng thể nhằm theo dõi việc thực hiện các kế
hoạch chiến lƣợc của ngành với sự đóng góp của nguồn viện trợ.
“Thách thức khi trở thành nƣớc có thu nhập trung bình: Theo Tổng cục thống
kê, từ năm 2010 Việt Nam đã đạt GDP bình quân đầu ngƣời trên 1.000 USD/năm.
Theo đó, nguồn viện trợ và vốn vay ODA với ƣu đãi dành cho Việt Nam đã giảm
dần, thay vào đó vốn vay ODA với các điều kiện kém ƣu đãi hơn” [37]. Nhiều nhà
126
tài trợ truyền thống rút khỏi lĩnh vực y tế. Nhƣ vậy, hỗ trợ quốc tế cho y tế đã thay
đổi về cơ cấu, hình thức và nội dung, với các phƣơng thức tiếp cận mới nhằm tăng
cƣờng hiệu quả viện trợ. Tóm lại, trong giai đoạn chuyển tiếp thành nƣớc có thu
nhập trung bình, ngành y tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với những vấn đề chính liên
quan đến nguồn vốn hỗ trợ quốc tế nhƣ: (i) xu hƣớng cắt giảm nguồn viện trợ và
thay đổi cơ cấu; (ii) khó khăn trong thu hút và tìm nguồn trong nƣớc dần dần thay
thế các nguồn viện trợ quốc tế; (iii) áp lực trong việc áp dụng các mô hình hỗ trợ
mới với mục tiêu tăng cƣờng hiệu quả viện trợ; (iv) khó khăn trong cải thiện đáng
kể hiệu quả sử dụng và tỷ lệ giải ngân.
2.3.4. Những tồn tại và nguyên nhân tồn tại đối với chi phí y tế từ tiền túi của
hộ gia đình
Chi phí y tế từ tiền túi đối với hộ gia đình có thể gây ra sự mất công bằng
trong CSSK trên các mặt sau đây:
Một là, việc chi trả viện phí trực tiếp có thể làm hạn chế việc tiếp cận và sử
dụng dịch vụ không chỉ đối với hộ nghèo mà ngay cả hộ không nghèo. Trong
trƣờng hợp ngƣời nghèo có thẻ BHYT thì các khoản chi phí y tế giảm đi đáng kể,
tuy nhiên phải trả thêm các khoản khác do không đƣợc BHYT thanh toán, … thì chi
phí cho y tế vẫn là những gánh nặng không nhỏ đối với ngƣời dân. Vì vậy, khi bị
đau ốm, nếu phải dựa vào chi trực tiếp từ tiền túi, thì sẽ có hộ gia đình không sử
dụng dịch vụ y tế vì không có điều kiện chi trả. Trong trƣờng hợp phải sử dụng dịch
vụ thì nhiều gia đình phải bán nhà cửa, phƣơng tiện sản xuất, để trang trải chi phí
bệnh viện, từ đó sẽ dẫn đến nghèo đói.
Hai là, đối với KCB ngoại trú, dù chi phí một lần không cao, nhƣng tích lũy
nhiều lần trong năm gây gánh nặng không kém gì điều trị nội trú. Trong trƣờng hợp
ngƣời nghèo khi đi KCB không có thẻ BHYT và phải trả bằng tiền túi thì chi phí
cho y tế có thể chiếm đến 75% chi tiêu phi lƣơng thực, thực phẩm trong một tháng
của mỗi ngƣời trong hộ gia đình. Đây vẫn là gánh nặng lớn đối với hộ gia đình
127
nghèo, đặc biệt trong trƣờng hợp có bệnh mạn tính phải điều trị kéo dài và sử dụng
dịch vụ y tế ngoại trú nhiều lần.
Ba là, chi phí trực tiếp từ tiền túi cho y tế cao là một trong các nguyên nhân
gây đói nghèo. Đối với ngƣời nghèo, ngƣời có thu nhập trung bình, thậm chí cả
ngƣời có thu nhập khá chỉ cần một lần phải nằm viện cũng có thể chi cho y tế cao
và điều này dễ dẫn đến cảnh nợ nần túng thiếu và đói nghèo.
2.3.5. Khó khăn, thách thức và nguyên nhân tồn tại trong huy động nguồn lực
tài chính của xã hội cho y tế
Những khó khăn, thách thức trong việc huy động nguồn vốn của xã hội cho y
tế công lập bao gồm:
Nhận thức về xã hội hoá trong lĩnh vực y tế nói chung và huy động nguồn lực
tài chính của xã hội cho y tế nói riêng còn chƣa thống nhất. Chủ trƣơng xã hội hóa
bao hàm nhiều nội dung khác nhau, từ vận động nhân dân giữ gìn sức khoẻ, phát
triển BHYT, đến hoạt động dịch vụ theo yêu cầu, liên doanh, liên kết, thực hiện tự
chủ bệnh viện, phát triển y tế tƣ nhân, thu viện phí,.... Trong khi có khó khăn về tài
chính, việc huy động các nguồn tài chính từ phía xã hội là cần thiết, song nhiều nơi
chỉ quan tâm đến việc huy động vốn nhằm mục đích thu lợi nhuận, nhằm tăng thu
nhập là chủ yếu, đồng thời chƣa phân biệt nguồn tài chính nào là công bằng, hay
không công bằng.
Hệ thống y tế chƣa huy động đƣợc nhiều nguồn tài chính của xã hội từ các tổ
chức cho vay mang tính “phi lợi nhuận”, mà chủ yếu là huy động các nguồn đầu tƣ
tƣ nhân vì lợi nhuận có thể mang lại những hậu quả không mong muốn.
Cơ chế liên doanh, liên kết trong phát triển bệnh viện công và tổ chức KCB
theo yêu cầu chƣa đủ rõ ràng. Thiếu một hệ thống tập hợp thông tin tƣơng đối đầy
đủ và chính xác về các nguồn đầu tƣ tƣ nhân cho y tế, các hình thức liên doanh, liên
kết giữa các bệnh viện công với các nhà đầu tƣ tƣ nhân, các hoạt động dịch vụ theo
yêu cầu ở các bệnh viện công.
128
Hiện tƣợng lạm dụng dịch vụ và kỹ thuật y tế trong các cơ sở y tế (cả công và
tƣ) chƣa đƣợc kiểm soát và hạn chế. Hiện tƣợng này có thể bắt nguồn từ động cơ
“tận thu” của các bệnh viện và cơ sở dịch vụ y tế khi tiến hành liên doanh, liên kết
và đầu tƣ trang thiết bị y tế, hoặc huy động vốn vay “vì lợi nhuận”.
Sự phát triển của khu vực y tế tƣ nhân còn nhiều hạn chế, do thiếu chính sách
ƣu đãi về thuế và mặt bằng xây dựng.
Việc huy động nguồn lực tài chính của xã hội để đầu tƣ phát triển ở các bệnh
viện công có thể có những tác động xã hội không mong muốn, đó là:
Thứ nhất, đối với ngƣời sử dụng dịch vụ y tế: Hoạt động đầu tƣ từ nguồn vốn
tƣ nhân, hoạt động cung ứng dịch vụ theo yêu cầu chủ yếu nhằm cung ứng dịch vụ
y tế cho ngƣời có khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, có thu nhập cao. Tại địa phƣơng có
điều kiện kinh tế - xã hội khá, việc triển khai huy động các nguồn lực tài chính có
thuận lợi. Tuy nhiên ở hầu hết các vùng khó khăn, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng
xa, việc huy động các nguồn tài chính của xã hội hầu nhƣ không thực hiện đƣợc.
Thứ hai, đối với bệnh viện và cán bộ nhân viên bệnh viện: Việc huy động
nguồn lực của xã hội, để phát triển các dịch vụ theo yêu cầu và nâng cấp trang thiết
bị y tế, gắn liền với việc thu hồi vốn và lợi nhuận của tƣ nhân (trong đó ngƣời góp
vốn là cán bộ của bệnh viện), điều này cũng có thể tạo ra sự cách biệt về thu nhập
của cán bộ y tế giữa các tuyến y tế, các chuyên khoa và giữa các địa phƣơng; sự
chuyển dịch cán bộ y tế giỏi từ miền núi về miền xuôi, từ nông thôn về thành thị, từ
tuyến dƣới lên tuyến trên, từ y tế dự phòng sang điều trị, đã ảnh hƣởng không tốt
đến hệ thống y tế, đặc biệt là y tế công. Mặt khác, việc cho phép cơ cở y tế lấy
nguồn thu từ các dịch vụ y tế, để bù vào nguồn tăng lƣơng cho cán bộ y tế có thể
dẫn đến tình trạng lạm dụng kỹ thuật trong chẩn đoán và điều trị để “tận thu”, tạo
gánh nặng về tài chính cho ngƣời bệnh và cả quỹ BHYT.
Thứ ba, đối với hệ thống y tế: Việc phát triển các dịch vụ theo yêu cầu và liên
doanh, liên kết với tƣ nhân để nâng cấp trang thiết bị y tế ở các bệnh viện công có
thể dẫn đến tình trạng “lẫn lộn công tƣ” trong sử dụng nhân lực cũng nhƣ cơ sở vật
129
chất, từ đó làm suy yếu các bệnh viện công lập, gây sự chia tách giữa các tuyến y tế,
phá vỡ tính thống nhất của hệ thống cung ứng dịch vụ y tế. Xu hƣớng này đƣơng
nhiên sẽ thúc đẩy hình thức “phí theo dịch vụ” và chi trả trực tiếp từ tiền túi của
ngƣời bệnh - nhân tố chính làm tăng thêm tình trạng mất công bằng trong tiếp cận
dịch vụ y tế.
2.3.6. Những tồn tại và nguyên nhân tồn tại trong thực hiện chính sách tự chủ
tài chính y tế
Thực hiện tự chủ tài chính ở các bệnh viện đã chỉ ra những hạn chế và tác
động không mong muốn có thể xảy ra khi thực hiện chính sách này, cụ thể là:
Một là, việc triển khai tự chủ đƣợc áp dụng đồng thời và không tính đến sự
phù hợp với khả năng, năng lực thực hiện của các đơn vị, cũng nhƣ điều kiện thực
tế của từng địa phƣơng trong khi lại thiếu các hƣớng dẫn và các quy định cụ thể về
triển khai thực hiện, giám sát và kiểm tra cũng nhƣ chính sách hỗ trợ cần thiết. Điều
này gây rất nhiều khó khăn cho các bệnh viện và ảnh hƣởng đến hoạt động chuyên
môn và đời sống của cán bộ y tế ở phần lớn các bệnh viện tuyến huyện thuộc vùng
nông thôn, vùng miền núi khó khăn.
Hai là, chính sách tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp y tế đƣợc tiến
hành trong điều kiện hệ thống chính sách chƣa đồng bộ: Các văn bản pháp luật liên
quan còn chồng chéo, bất cập, gây hạn chế rất nhiều đến tiến trình tự chủ về tài
chính. Bản thân các quy định của Nghị định 43/2006/NĐ-CP cũng nhƣ các Thông
tƣ hƣớng dẫn chƣa phù hợp với đặc thù của ngành y tế và những tác động tiềm tàng
tới công bằng y tế.
Ba là, xu hƣớng tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị, mở rộng dịch
vụ “theo yêu cầu” để tăng thu, dẫn đến nguy cơ chạy theo lợi nhuận và “thƣơng mại
hóa hệ thống y tế”, trong khi thiếu các cơ chế và giải pháp phù hợp trong việc giám
sát, kiểm tra, dẫn tới một số nguy cơ nhƣ:
Sử dụng nguồn kinh phí không phải để phục vụ mục tiêu phát triển y tế mà
nhằm đáp ứng nhu cầu của các khách hàng có khả năng chi trả. Cơ chế này sẽ dẫn
130
đến tình trạng các bệnh viện đẩy những ca bệnh khó chữa mà tạo ít thu nhập lên
tuyến trên, giữ lại những ca dễ chữa, dễ thu phí. Công tác chỉ đạo, hỗ trợ tuyến ít
đƣợc quan tâm gây phá vỡ hệ thống phân tuyến điều trị, gây quá tải tuyến trên, suy
yếu hệ thống y tế cơ sở.
Ảnh hƣởng bất lợi về công bằng trong CSSK, bệnh nhân sẽ là đối tƣợng để
tăng thu; lạm dụng xét nghiệm, các dịch vụ kỹ thuật đắt tiền, … phân biệt đối xử
đối với nhóm bệnh nhân không nộp phí trực tiếp, dẫn đến hạn chế sự tiếp cận dịch
vụ y tế của ngƣời dân, đặc biệt là ngƣời nghèo, ngƣời cận nghèo, ngƣời không có
thẻ BHYT và nhóm xã hội yếu thế.
Bốn là, năng lực của các lãnh đạo bệnh viện còn chƣa đáp ứng: Thiếu nhận
thức về tự chủ, thiếu kiến thức, kỹ năng về quản lý kinh tế y tế, tài chính y tế, quản
trị bệnh viện, trong khi hệ thống thông tin, giám sát còn yếu kém, dẫn đến việc triển
khai thực hiện ở phần lớn các đơn vị còn nhiều lúng túng. Tính công khai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện tự chủ cũng chƣa cao dẫn đến nguy
cơ thất thoát, lãng phí và thiếu hiệu quả trong sử dụng nguồn lực của bệnh viện.
131
TÓM TẮT CHƢƠNG 2
Trong chƣơng 2 của luận án, tác giả trình bày thực trạng chính sách tài chính y
tế cho sự nghiệp phát triển y tế công ở Việt Nam. Trong đó phân tích về những
thành công cũng nhƣ những hạn chế của các chính sách tài chính y tế hiện nay.
Các chính sách tài chính y tế đã đóng góp một phần quan trong cho sự nghiệp
phát triển y tế. Các chính sách tài chính liên quan đến NSNN luôn đƣợc điều chỉnh
cho phù hợp với tình hình phát triển của ngành y tế. NSNN từng bƣớc chuyển đổi
việc cấp kinh phí hoạt động thƣờng xuyên cho các cơ sở KCB, sang cấp trực tiếp
cho đối tƣợng hƣởng thụ dịch vụ y tế thông qua hình thức BHYT. Các chính sách
liên quan đến NSNN đã đảm bảo đƣợc việc hỗ trợ trực tiếp cho ngƣời có công,
ngƣời nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số để đƣợc tiếp cận và hƣởng thụ các dịch
vụ y tế cơ bản thiết yếu với chất lƣợng ngày càng cao hơn. Tuy nhiên, cũng còn một
số bất cập nhƣ: Mức cấp NSNN cho y tế tăng nhƣng chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu
thực tế, cơ chế quản lý và sử dụng NSNN cho y tế chậm đổi mới, các số liệu về tài
chính y tế chƣa đồng bộ, nhất quán.
Bên cạnh NSNN, Bảo hiểm y tế là nguồn tài chính y tế rất quan trọng góp
phần thực hiện mục tiêu công bằng trong CSSK. Luật BHYT đƣợc ban hành đánh
dấu một bƣớc tiến quan trọng để tiến tới BHYT toàn dân. Chính sách BHYT đã góp
phần tăng nguồn chi công cho y tế, giúp cho ngƣời dân giảm chi tiêu từ tiền túi của
hộ gia đình. Ngƣời nghèo, cận nghèo, ngƣời thuộc diện chính sách,…đƣợc Nhà
nƣớc hỗ trợ phí đóng BHYT. Mặc dù vậy, các chính sách BHYT cũng còn nhiều
hạn chế nhƣ: ngƣời bệnh có BHYT vẫn phải tự chi trả nhiều khoản tiền khi KCB,
hệ thống cung ứng DVYT chƣa đáp ứng nhu cầu, tính chuyên nghiệp của cơ quan
BHYT còn hạn chế.
Về chính sách tài chính từ nƣớc ngoài, các chính sách và môi trƣờng pháp lý
tốt đã giúp cho ngành y tế thu hút đƣợc nguồn vốn hỗ trợ quốc tế tăng lên và giữ
một tỷ trọng nhất định trong ngân sách đầu tƣ. Bên cạnh đó chính sách tài chính từ
nƣớc ngoài cũng còn phải đối mặt với khó khăn về thủ tục hành chính, về năng lực
thực hiện tổ chức và quản lý.
132
Chi tiêu trực tiếp từ tiền túi cho y tế của ngƣời dân là một chỉ số quan trọng để
đánh giá mức độ công bằng của hệ thống y tế. Tại Việt Nam tỷ lệ chi tiêu từ tiền túi
trong tổng chi tiêu y tế của toàn xã hội xấp sỉ 50% là khá cao gây mất công bằng
trong CSSK, là nguyên nhân trực tiếp gây ra tình trạng nghèo hóa cho các hộ gia
đình. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, thì nguồn thu trực tiếp từ tiền túi của các
hộ gia đình cho DVYT, đã góp phần không nhỏ trong việc tăng nguồn cho các hoạt
động của sự nghiệp y tế công.
Chủ trƣơng xã hội hoá và chính sách tự chủ về tài chính là để các đơn vị sự
nghiệp công lập hoàn toàn đƣợc chủ động về nguồn thu chi tài chính, huy động các
tiềm năng về nhân lực, vật lực, tài lực của toàn xã hội, trên cơ sở đổi mới cơ chế
quản lý, đa dạng hoá các hình thức hoạt động và các nguồn đầu tƣ nhằm tạo điều
kiện để toàn xã hội đƣợc thụ hƣởng thành quả ở mức độ ngày càng cao của ngành y
tế. Nguồn thu từ các hoạt động này tăng đã góp phần phát triển kỹ thuật, nâng cao
chất lƣợng chẩn đoán, điều trị; bổ sung nguồn kinh phí hoạt động cho các đơn vị y
tế; góp phần cải thiện thu nhập của nhân viên y tế. Tuy nhiên công tác xã hội hóa
còn nhiều bất cập nhƣ: Việc huy động vốn ở nhiều nơi chủ yếu nhằm mục đích lợi
nhuận, lạm dụng các kỹ thuật cao trong điều trị, còn lẫn lộn trong việc sử dụng tài
sản công và tƣ. Chính sách tự chủ về tài chính giúp các đơn vị hoàn toàn đƣợc chủ
động về nguồn thu chi tài chính, quyền lực và trách nhiệm của cơ quan lãnh đạo
tăng lên rõ rệt, sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả hơn, tăng nguồn thu. Bên cạnh đó
còn nhiều khó khăn: Triển khai tự chủ đƣợc áp dụng đồng thời và không tính đến sự
phù hợp với khả năng, năng lực thực hiện của các đơn vị. Hệ thống chính sách chƣa
đồng bộ, các văn bản pháp luật liên quan còn chồng chéo, bất cập. Tiềm ẩn nguy cơ
nguy cơ chạy theo lợi nhuận và “thƣơng mại hóa hệ thống y tế”.
133
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
CHO PHÁT TRIỂN SỰ NGHIỆP Y TẾ CÔNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM
3.1. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG
3.1.1. Căn cứ để xác định việc hoàn thiện chính sách tài chính y tế
Quan điểm định hƣớng để hoàn thiện chính sách tài chính cho sự nghiệp phát
triển y tế công ở Việt Nam, đƣợc xác định trên cơ sở những yêu cầu phát triển của
sự nghiệp y tế công trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN và việc đánh
giá thực trạng cũng nhƣ các dự báo về thuận lợi, khó khăn trong việc hoàn thiện
chính sách tài chính cho sự nghiệp phát triển y tế công.
3.1.1.1. Căn cứ vào yêu cầu phát triển của sự nghiệp y tế công trong nền kinh
tế thị trƣờng định hƣớng XHCN
Xuất phát từ quan niệm con ngƣời là vốn quý quan trọng nhất trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con ngƣời
và của toàn xã hội; dịch vụ y tế là dịch vụ xã hội đặc biệt, không vì mục tiêu lợi
nhuận, đầu tƣ cho y tế là đầu tƣ phát triển, thể hiện bản chất tốt đẹp của xã hội.
Chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là bổn phận của mỗi ngƣời dân,
mỗi gia đình và cộng đồng; là trách nhiệm của các Bộ, ngành, các cấp ủy Đảng,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội nghề
nghiệp, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt về chuyên môn và kỹ thuật.
Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế Việt Nam theo hƣớng Công bằng - Hiệu
quả - Phát triển; bảo đảm mọi ngƣời dân, đặc biệt ngƣời nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số, trẻ em dƣới 6 tuổi, các đối tƣợng chính sách, ngƣời dân vùng khó khăn,
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và các nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng đƣợc tiếp
cận với dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản có chất lƣợng.
134
Nhà nƣớc thống nhất quản lý vĩ mô, định hƣớng phát triển sự nghiệp chăm sóc
và nâng cao sức khỏe nhân dân thông qua hệ thống pháp luật và chính sách; điều
tiết, phân bổ nguồn lực; quản lý chất lƣợng dịch vụ y tế và giá dịch vụ y tế.
Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính trong các đơn vị y tế gắn với việc
thực hiện lộ trình BHYT toàn dân, kết hợp hài hòa giữa phát triển y tế công lập với
y tế ngoài công lập để nhanh chóng thích ứng với thể chế kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa trong các hoạt động của ngành y tế.
3.1.1.2. Căn cứ vào đánh giá thực trạng các chính sách tài chính cho sự nghiệp
phát triển y tế công
Trong những năm qua, các chính sách tài chính y tế đã góp phần quan trọng
trong thành công của ngành y tế, tuy nhiên các chính sách tài chính y tế còn chƣa
phát huy hết hiệu quả do nhiều các nguyên nhân: Nguồn lực tài chính hạn chế, sử
dụng nguồn lực không hiệu quả.
Nguồn lực tài chính y tế hạn chế: Nguồn ngân sách nhà nƣớc chƣa đáp ứng
đƣợc nhu cầu đầu tƣ và phát triển của ngành y tế; chƣa phát huy hiệu quả của việc
chuyển đổi cách hỗ trợ ngân sách Nhà nƣớc từ đầu tƣ trực tiếp cho đơn vị cung ứng
dịch vụ y tế sang đầu tƣ cho ngƣời hƣởng dịch vụ y tế, ngƣời dân ở vùng sâu, vùng
xa khó tiếp cận đƣợc các dịch vụ y tế có chất lƣợng; hình thức phân bổ NSNN cho
các bệnh viện mang tính chất bình quân, chỉ đơn thuần dựa vào các chỉ số mang tính
hành chính mà không dựa vào các chỉ số hoạt động của bệnh viện.
Nguồn thu bảo hiểm y tế chƣa phát huy hết hiệu quả do BHYT vẫn chƣa đƣợc
một số bộ phận nhân dân hƣởng ứng, do nhận thức của ngƣời dân về vị trí, vai trò,
tầm quan trọng của chính sách BHYT chƣa đầy đủ; tính chia sẻ cộng đồng còn hạn
chế; tỷ lệ nhân dân tham gia BHYT chƣa cao và nhiều doanh nghiệp, tổ chức chƣa
nghiêm túc thực hiện chính sách BHYT cho ngƣời lao động, tình trạng nợ đóng
BHYT ngày càng tăng. Bên cạnh đó, chất lƣợng KCB ở một số cơ sở y tế, nhất là
cơ sở KCB ban đầu chƣa đáp ứng nhu cầu, chƣa tạo đƣợc lòng tin trong nhân dân
dẫn đến tình trạng vƣợt tuyến, khiến chi phí thanh toán đa tuyến tăng cao. Trong khi
đó, công tác tuyên truyền về các chính sách BHYT còn chƣa thực sự đƣợc đẩy
135
mạnh và sâu rộng đến ngƣời dân. Nhiều ngƣời dù tham gia BHYT vẫn chƣa hiểu rõ
các quyền lợi mình đƣợc hƣởng hay nghĩa vụ mình phải thực hiện.
Nguồn thu trực tiếp từ ngƣời dân hiện nay giá thành DVYT chƣa đƣợc tính
đúng, tính đủ. Giá các dịch vụ y tế hiện nay chỉ mới đƣợc tính 3/7 cấu thành giá.
Các cấu thành nhƣ tiền công, tiền lƣơng, các loại phụ cấp của ngành y tế; tiền khấu
hao nhà cửa, trang thiết bị y tế; tiền chi phí sửa chữa lớn; tiền đào tạo, nghiên cứu
khoa học chƣa đƣợc cấu thành vào giá DVYT và đang trong lộ trình sẽ đƣợc đƣa
vào giá thành. Các chi phí nhƣ lƣơng của nhân viên y tế chƣa đƣợc chi trả đúng với
năng lực, sự cống hiến đã ảnh hƣởng đến tâm huyết và mức độ cống hiến của nhân
viên y tế, không đủ chi phí để tái đầu tƣ sức lao động, bệnh viện không đủ kinh phí
để bổ sung biên chế phù hợp với định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế.
Vì vậy, việc điều chỉnh giá viện phí nhằm thúc đẩy nâng cao chất lƣợng khám, chữa
bệnh và đây cũng là việc cần làm để tạo sự cạnh tranh, tự chủ cho các cơ sở khám
chữa bệnh, khi không còn quá lệ thuộc vào sự bao cấp của Nhà nƣớc. Thay vào đó,
sự bao cấp của Nhà nƣớc sẽ chuyển đổi trực tiếp cho bệnh nhân đƣợc hƣởng thụ
thông qua tăng mức thanh toán từ quỹ BHYT.
Nguồn vốn huy động từ xã hội, các chính sách huy động nguồn vốn xã hội hóa
cho y tế chƣa khuyến khích và tạo cơ chế thuận lợi để các thành phần kinh tế bỏ
vốn, bỏ nguồn lực, trí tuệ vào đầu tƣ cho y tế. Các văn bản quy phạm pháp luật về
hoạt động xã hội hóa trong các bệnh viện công còn bất cập; vai trò quản lý nhà nƣớc
của Bộ, Sở Y tế, tài chính chƣa phát huy hết tác dụng, nên chƣa tạo đƣợc môi
trƣờng thông thoáng để thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nƣớc cho sự nghiệp
phát triển y tế.
Sử dụng nguồn lực không hiệu quả: Vai trò của quản lý Nhà nƣớc về mặt tài
chính y tế chƣa thực sự phát huy đƣợc hiệu quả, do mô hình tổ chức y tế liên tục
thay đổi dẫn đến việc phân bổ tài chính, quản lý tài chính y tế cũng thay đổi qua các
đơn vị y tế sang chính quyền và ngƣợc lại.
Chính sách về xây dựng giá dịch vụ y tế không bù đắp đủ chi phí cho các dịch
vụ y tế, nên để tồn tại đƣợc trong nền kinh tế thị trƣờng các cơ sở khám chữa đã tự
136
áp dụng các quy định và hình thức khác nhau nhằm tăng thêm nguồn thu, bù đắp
vào khoản thiếu hụt. Điều này dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực giá dịch vụ y tế tăng
khó kiểm soát.
Chính sách phƣơng thức chi trả theo phí dịch vụ đang đƣợc sử dụng phổ biến
ở Việt Nam. Phƣơng thức thanh toán theo phí dịch vụ đã khuyến khích thầy thuốc
cung cấp dịch vụ quá mức cần thiết vì động cơ lợi nhuận. Hiện tƣợng đƣợc biết đến
nhƣ là tình trạng sử dụng dịch vụ quá mức để đáp ứng cái gọi là “theo yêu cầu của
ngƣời sử dụng”, thƣờng trầm trọng hơn khi phí dịch vụ đƣợc chi trả bởi bên thứ ba
là cơ quan BHYT. Sự lạm dụng chủ yếu nhằm vào những dịch vụ có mức phí chƣa
đƣợc xác lập chính thức, nhất là dịch vụ ứng dụng kĩ thuật cao. Việc sử dụng và
cung cấp dịch vụ quá mức cần thiết có thể làm hài lòng những ngƣời sử dụng và cho
rằng, dịch vụ đắt hơn, nhiều hơn đồng nghĩa với chất lƣợng và thái độ phục vụ tốt
hơn. Trên thực tế, đây là tình trạng lãng phí nguồn lực và trong nhiều trƣờng hợp thì
những dịch vụ không cần thiết còn gây ảnh hƣởng xấu về sức khỏe cho ngƣời sử
dụng (ví dụ nhƣ lạm dụng chụp CT-Scanner, MRI, …).
Chi phí hành chính cho hệ thống thanh toán theo phí dịch vụ trực tiếp là rất
cao. Cả hai phía, cung cấp và thanh toán dịch vụ phải giải quyết những thủ tục tài
chính phức tạp với những định mức chi tiết không cần thiết của hàng nghìn dịch vụ
đơn lẻ. Khi những vấn đề nêu trên chƣa đƣợc giải quyết hợp lý thì tình trạng lạm
dụng dịch vụ, lãng phí nguồn lực sẽ càng trở nên trầm trọng hơn và sự gia tăng chi
phí y tế luôn có thể vƣợt quá khả năng kiểm soát.
Chính sách giao quyền tự chủ cho các bệnh viện và cơ sở y tế đã dẫn đến một
số tác động tiêu cực không mong muốn nhƣ lạm dụng kỹ thuật cao, lẫn lộn tài sản
công - tƣ; tiền lƣơng và phụ cấp lƣơng chƣa tạo động lực để cho đội ngũ cán bộ y tế
làm việc hiệu quả.
3.1.1.3. Căn cứ vào dự báo những thuận lợi và khó khăn trong chính sách tài
chính cho sự nghiệp phát triển y tế công
Những thuận lợi của chính sách tài chính cho sự nghiệp phát triển y tế công:
137
Đảng và Nhà nƣớc luôn quan tâm đến sự nghiệp phát triển ngành y tế, "Chăm
sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Thực hiện
nhiệm vụ chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân là trách nhiệm của tất cả các bộ,
ngành, các cấp ủy đảng và chính quyền địa phƣơng, trong đó Chính phủ đóng vai
trò quan trọng trong chỉ đạo, điều phối và bảo đảm các điều kiện cho các hoạt động
y tế và ngành y tế làm tham mƣu để tổ chức thực hiện. Chúng ta cùng phấn đấu xây
dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và sự phát triển đồng đều giữa các
vùng trong cả nƣớc, góp phần nâng cao sức khoẻ toàn dân, phát triển giống nòi và
phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam" [Chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ Nguyễn
Tấn Dũng tại lễ kỷ niệm ngày Thầy thuốc Việt Nam, năm 2012 tại Hà Nội].
Tăng NSNN cho y tế, phấn đấu tăng tỷ lệ chi ngân sách hàng năm cho y tế để
bảo đảm tốc độ tăng chi cho y tế cao hơn tốc độ tăng chi bình quân chung của
NSNN. Dành ít nhất 30% ngân sách y tế của Nhà nƣớc cho y tế dự phòng, bảo đảm
đủ kinh phí cho hoạt động thƣờng xuyên của trạm y tế xã, phƣờng và phụ cấp cho
nhân viên y tế thôn, bản, ấp. “Xây dựng cơ chế tài chính thích hợp cho hoạt động
CSSK ban đầu, ƣu tiên ngân sách cho CSSK ngƣời có công, ngƣời nghèo, nông
dân, đồng bào dân tộc thiểu số, nhân dân ở vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Phấn
đấu đạt ít nhất 10% tổng chi NSNN dành cho y tế; từng bƣớc thực hiện phân bổ
NSNN cho các cơ sở y tế theo kết quả hoạt động và đầu ra" [68].
Chất lƣợng nhân lực ngành y tế ngang tầm khu vực, hiện nay với đội ngũ gần
500 nghìn cán bộ y tế từ trung ƣơng đến tận thôn, bản có đủ khả năng triển khai
hiệu quả các hoạt động phòng, chống dịch bệnh, khám, chữa bệnh, cũng nhƣ kịp
thời ứng phó với các vấn đề sức khỏe liên quan đến thiên tai, thảm họa, đồng thời
tạo điều kiện thuận lợi để ngƣời dân tiếp cận các dịch vụ y tế trên toàn quốc. Trong
các năm tiếp theo, mỗi năm sẽ đào tạo thêm 6.000 bác sĩ, 1.500 dƣợc sĩ, hơn 10.000
điều dƣỡng và hơn 7.000 cán bộ khác (kỹ thuật viên, hộ lý, hộ sinh, …). Phát triển
nhân lực y tế Việt Nam đảm bảo đủ về số lƣợng, chất lƣợng, cơ cấu, phân bố hợp lý
theo tuyến, ngành, lĩnh vực, vùng miền. Phát triển nhân lực y tế Việt Nam gắn với
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
138
Môi trƣờng đầu tƣ thuận lợi, Việt Nam luôn là một quốc gia ổn định vững
chắc về chính trị-xã hội. Là một trong những nền kinh tế tăng trƣởng năng động, tốc
độ tăng trƣởng kinh tế bình quân của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2014 dù gặp
rất nhiều khó khăn vẫn đạt 5,6%. Nhiều tổ chức quốc tế dự báo GDP của Việt Nam
sẽ tăng trƣởng khả quan hơn trong những năm tiếp theo. Chính phủ Việt Nam luôn
cam kết và hành động nhằm tạo lập môi trƣờng đầu tƣ thông thoáng, thuận lợi và
bình đẳng cho các nhà đầu tƣ trong, ngoài nƣớc cũng nhƣ không ngừng cải thiện
khuôn khổ luật pháp và thể chế phục vụ cho các hoạt động kinh doanh và đầu tƣ.
Những khó khăn của chính sách tài chính cho sự nghiệp phát triển y tế công:
Mô hình bệnh tật thay đổi, mô hình bệnh tật diễn biến phức tạp với sự gia tăng
nhanh chóng bệnh không lây nhiễm và tai nạn thƣơng tích, bệnh nhiễm trùng vẫn
ngày càng phát triển; tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, mang tính toàn cầu
tiếp tục đòi hỏi đầu tƣ nguồn lực lớn; việc kiểm soát yếu tố nguy hại đến sức khỏe
con ngƣời (nhƣ: Ngộ độc thực phẩm, ô nhiễm môi trƣờng, tệ nạn xã hội) còn nhiều
khó khăn.
Nhu cầu CSSK tăng nhanh, tỷ suất tăng dân số trung bình những năm gần đây
của Việt Nam là 1,06%, dân số già hóa nhanh chóng với 9% dân số có độ tuổi > 60
tuổi, dự kiến dân số tại thành thị sẽ tăng 30% đến 40% vào những năm 2030. Kỹ
thuật y học ngày càng phát triển, nhiều thiết bị hiện đại đƣợc phát minh, nhu cầu
của ngƣời dân ngày càng tăng cả về số lƣợng và chất lƣợng dịch vụ làm cho chi phí
y tế gia tăng rất nhanh chóng và tình trạng quá tải tại các bệnh viện Trung ƣơng và
ở các thành phố lớn vẫn diễn ra.
Chênh lệch chỉ số sức khỏe giữa các vùng miền, các nhóm dân tộc, mặt trái
của nền kinh tế thị trƣờng tạo nên sự bất bình đẳng trong thu nhập ở nƣớc ta ngày
càng rõ nét và gay gắt hơn, tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó
khăn, có nhiều yếu tố bất lợi nhƣ điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng
kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai. Đáng chú ý là với
một đất nƣớc liên tục phải gánh chịu thiên tai nhƣ Việt Nam thì ranh giới giữa mức
cận nghèo và nghèo là rất mong manh nên nguy cơ số hộ nghèo tăng lên rất dễ xảy
139
ra. Ngoài ra, còn xuất hiện một số đối tƣợng nghèo mới ở những vùng đang trong
quá trình đô thị hóa và nhóm lao động nhập cƣ vào đô thị, họ thƣờng gặp khó khăn
nhiều hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những
yếu tố làm gia tăng tình trạng tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ
giảm nghèo giữa các vùng trong cả nƣớc. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự
chênh lệch chỉ số sức khỏe giữa các vùng miền, các nhóm dân tộc ngày một cao.
Vƣớng mắc về mặt cơ chế tài chính, cơ chế tự chủ về tài chính giúp các cơ sở
y tế huy động đƣợc mọi nguồn lực trong xã hội để phát triển sự nghiệp y tế. Tuy
nhiên, ngành y tế đang và sẽ phải đối mặt với các thách thức: Chênh lệch về thu
nhập của nhân viên y tế ngày càng cao giữa các bệnh viện tuyến trung ƣơng, thành
phố lớn với các bệnh viện tuyến huyện, vùng nghèo; giá các DVYT ngày một tăng
cao và không đồng bộ khó kiểm soát; việc lạm dụng kỹ thuật cao để tận thu ngày
càng phổ biến; việc sử dụng tài sản công - tƣ còn lẫn lộn,....
3.1.2. Quan điểm hoàn thiện chính sách tài chính y tế cho sự nghiệp phát triển
y tế công trong thời gian tới
Thứ nhất,trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, chính sách tài chính
y tế phải hƣớng tới CSSK bằng những nguồn lực tốt nhất, nhƣng với mức chi phí
ngƣời bệnh phải chi trả là thấp nhất.
Thứ hai, trong chính sách tài chính y tế yếu tố hiệu quả và công bằng xã hội là
yếu tố trung tâm và có vai trò quyết định.
Thứ ba, để thực hiện tốt chính sách tài chính thì nguồn thu phải đƣợc đổi mới
tiệm cận với sự tiến bộ của thế giới.
Thứ tƣ, đối với các chính sách chi tiêu tài chính y tế hƣớng tới phục vụ cộng
đồng gắn với cơ chế thị trƣờng, giảm dần sự bao cấp của nhà nƣớc.
Thứ năm, chính sách tài chính y tế phải điều tiết, phân bổ nguồn lực, quản lý
chất lƣợng dịch vụ y tế và giá dịch vụ y tế hƣớng tới sự phát triển bền vững của sự
nghiệp y tế công.
140
3.1.3. Các mục tiêu của sách tài chính cho sự nghiệp phát triển y tế công trong
nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN
Mục tiêu chung của ngành y tế phấn đấu đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 là:
Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con ngƣời và của toàn xã hội. Chăm sóc và nâng
cao sức khoẻ nhân dân là hoạt động nhân đạo, trực tiếp bảo đảm nguồn nhân lực
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đầu tƣ cho sức khỏe là đầu tƣ phát
triển.
Hƣớng tới bảo đảm mọi ngƣời dân đƣợc hƣởng các dịch vụ CSSK ban đầu;
mở rộng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lƣợng; ngƣời dân đƣợc phải
đƣợc chăm sóc sức khỏe toàn diện theo tuyên ngôn Alma Ata của WHO năm 1978
là: "Sức khỏe là trạng thái hoàn toàn thoải mái về tâm hồn, về thể xác, về xã hội".
CSSK là cho ngƣời dân là phải chăm sóc một cách toàn diện bao gồm chăm sóc y tế
(phòng bệnh, chữa bệnh, giáo dục sức khỏe,...) và chăm sóc ngoài y tế (lƣơng thực,
giao thông, nhà ở,...). Chăm sóc sức khỏe cho ngƣời dân không phải là nhiệm vụ
của riêng ngành y tế mà cần có sự tham gia và phối hợp một cách đồng của các cấp,
các ngành có liên quan nhƣ thể hiện ở sơ đồ 3.1.
Mục tiêu cụ thể, để đạt mục tiêu chung của ngành y tế thì chính sách tài chính
y tế cần phải đạt đƣợc các mục tiêu cụ thể nhƣ sau:
Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập trong ngành y tế,
đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công. Đổi mới cơ chế tài
chính y tế giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cao hơn cho đơn vị sự
nghiệp công lập để phát huy tính dân chủ, chủ động, sáng tạo của ngƣời lao động.
Tăng chi NSNN cho lĩnh vực y tế bảo đảm cao hơn tốc độ tăng chi NSNN nói
chung. Tăng mức hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp cho các đối tƣợng thuộc diện chính
sách, hộ cận nghèo, ngƣời dễ bị tổn thƣơng nhằm đảm bảo cho mọi ngƣời dân đều
có khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản.
Phát triển bảo hiểm y tế toàn dân, đảm bảo cơ chế tài chính y tế mang tính xã
hội cao dựa trên nguyên tắc đoàn kết, tƣơng trợ, chia sẻ rủi ro trong cộng đồng. Tiếp
141
tục duy trì các nhóm đối tƣợng đã tham gia BHYT đạt tỷ lệ 100%; mở rộng các
nhóm đối tƣợng để đến năm 2020 có trên 80% dân số tham gia BHYT.
Giảm tỷ lệ chi trực tiếp từ tiền túi của hộ gia đình cho CSSK phù hợp với khả
năng chi trả của ngƣời dân, phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ chi tiền túi của hộ gia đình
cho y tế giảm xuống 40% trên tổng số chi cho y tế; giảm thiểu số gia đình bị chi phí
y tế dẫn tới nghèo hóa.
Huy động, phân bổ, quản lý, sử dụng các nguồn tài chính một cách hiệu quả
cho phát triển hệ thống y tế.
Chữa bệnh
Dự phòng
Hoạt động của ngành y tế
v.v…
Chăm sóc y tế
Thuốc men
Giáo dục sức khỏe
Sự tham gia của các ngành khác
v.v…
Sơ đồ 3.1. Chăm sóc sức khỏe toàn diện
Lƣơng thực, thực phẩm
Hoạt động chính của các ngành
Giao thông vận tải
Chăm sóc ngoài y tế
Xây dựng nhà ở
Sự tham gia của ngành Y tế
v.v…
Chăm sóc sức khỏe
142
3.1.4. Hƣớng hoàn thiện chính sách tài chính y tế ở Việt Nam trong thời gian
tới
Từ những mục tiêu cụ thể nêu trên, việc xây dựng các chính sách tài chính y tế
ở Việt Nam phải đảm bảo để mọi ngƣời dân đƣợc hƣởng các dịch vụ CSSK ban
đầu, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lƣợng. Nâng cao tính
công bằng trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ CSSK, đăc biệt là các dịch vụ
khám, chữa bệnh. Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển y tế ngoài công lập, thí
điểm hình thành cơ sở khám, chữa bệnh theo hình thức hợp tác công tƣ và mô hình
quản lý bệnh viện nhƣ doanh nghiệp công ích. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện BHYT
toàn dân. Đổi mới cơ chế tài chính, điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo lộ trình, tính
đúng, tính đủ đồng thời hỗ trợ phù hợp cho các đối tƣợng chính sách, ngƣời nghèo.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, ứng ng dụng
các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, áp dụng tiêu chuẩn quản lý và kiểm tra chất lƣợng
dịch vụ, khám, chữa bệnh để ngành y tế nƣớc ta phát triển kịp trình độ các nƣớc tiên
tiến trong khu vực. Trong thời gian tới các chính sách tài chính y tế nên hoàn thiện
theo hƣớng sau:
Một là, tăng cƣờng nhận thức của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc cũng nhƣ
sự hỗ trợ và phối hợp tích cực của các Bộ, ngành liên quan về vai trò và nội dung
của cơ chế tài chính trong hoạch định chiến lƣợc phát triển sự nghiệp y tế. Tăng
cƣờng đối thoại chính sách giữa các cơ quan hoạch định chính sách, cơ quan thực
thi chính sách và ngƣời dân. Đây là điểm quyết định để phát triển sự nghiệp y tế
Việt Nam theo nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Cần xác định
mục tiêu của cơ chế tài chính cho từng giai đoạn và trong giai đoạn trƣớc mắt nên
theo đuổi các mục tiêu sau:
Tạo nguồn thu và phân bổ nguồn thu theo hƣớng đảm bảo công bằng trong
chăm sóc sức khỏe của ngƣời dân trong cả nƣớc.
Làm giảm gánh nặng tài chính cho ngƣời dân trong CSSK, đặc biệt là ngƣời
nghèo, ngƣời có thu nhập thấp, thông qua đó góp phần giảm tỉ lệ hộ nghèo do phải
chi tiền túi khi khám chữa bệnh.
143
Hai là, để góp phần thực hiện công bằng trong CSSK, giảm tỷ trọng ngân sách
tƣ trong chi tiêu cho CSSK, Nhà nƣớc cần tăng chi công cho sự nghiệp y tế.
Ba là, phát triển nhanh và vững chắc BHYT toàn dân và coi đây là nguồn thu
chính thay cho viện phí, nhằm thực hiện chính sách tài chính y tế công bằng. Đẩy
nhanh thực hiện BHYT toàn dân để mọi ngƣời đều có trách nhiệm chia sẻ rủi ro với
ngƣời khác, ai cũng đƣợc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, không có sự phân biệt địa
vị xã hội, nghề nghiệp, thành phần, dân tộc, giới tính, tuổi tác, địa bàn cƣ trú, ….
Bốn là, hạn chế dần hình thức chi trả viện phí trực tiếp từ tiền túi khi sử dụng
dịch vụ y tế của ngƣời dân, trên cơ sở nhận thức rằng viện phí là cái “bẫy nghèo
đói”. Từ đó giảm dần tỷ trọng ngân sách tƣ cho chăm sóc sức khỏe trong tổng chi
toàn xã hội cho chăm sóc sức khỏe.
Năm là, đổi mới cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công cộng theo
hƣớng mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức cung cấp dịch vụ y
tế đối với các cơ sở y tế công lập, xây dựng cơ chế tự chủ tài chính để các đơn vị
này phát huy đƣợc các tiềm năng về trang bị cơ sở vật chất, năng lực cán bộ, tăng số
lƣợng và chất lƣợng các dịch vụ tế cung cấp cho xã hội, tăng thu, thực hiện hạch
toán, giảm dần sự bao cấp của ngân sách nhà nƣớc.
Sáu là, tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hoá về y tế để một mặt phải xác định
đúng trách nhiệm của xã hội, cộng đồng. Mặt khác, huy động mọi nguồn lực từ
cộng đồng để giải quyết những khó khăn mà không một cá nhân, không một ngành
riêng lẻ nào có thể giải quyết đƣợc.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH PHÁT
TRIỂN SỰ NGHIỆP Y TẾ CÔNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở
VIỆT NAM
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với các cơ quan quản lý nhà nƣớc
Thứ nhất, triệt để đổi mới tƣ duy đối với chính sách tài chính y tế công ở
Việt Nam, mỗi công dân và Nhà nƣớc Việt Nam cần phải coi CSSK là nhiệm vụ
quan trọng, bởi vì CSSK là hoạt động trực tiếp đảm bảo nguồn nhân lực chất lƣợng
cho cuộc sống của mỗi gia đình và công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nƣớc. CSSK
144
nhân dân không phải nhiệm vụ riêng của ngành y tế, mà “Nhà nƣớc phải có trách
nhiệm chính trị đối với công tác CSSK cho mọi công dân của mình, không phân
biệt nam, nữ, giàu nghèo, dân tộc, lứa tuổi, vùng miền trên đất nƣớc. Nền tảng của
trách nhiệm đó là chủ nghĩa nhân đạo, là triết lý công bằng xã hội” [33].
Chăm sóc sức khỏe cho ngƣời dân tức là tập trung vào giải quyết các vấn đề
liên quan đến: khả năng tiếp cận, sử dụng dịch vụ y tế; chất lƣợng dịch vụ y tế và
đóng góp hoặc chi trả dịch vụ y tế. Chỉ khi tập trung giải quyết các vấn đề trên bằng
các chính sách đồng bộ thì mới giải quyết một cách triệt để, đem lại công bằng
trong CSSK nhân dân. Về điểm này, Nhà nƣớc phải thực thi trách nhiệm quan trọng
là chỉ đạo, điều hành, phối hợp giữa các bộ ngành và giao cho Bộ Y tế chủ trì thực
hiện.
Bộ Y tế cần phải xây dựng các tiêu chí cụ thể quy định thế nào là chăm sóc
sức khỏe toàn diện chất lƣợng tốt, các dịch vụ nào nằm trong gói dịch vụ y tế cơ bản
mà mọi ngƣời dân đều phải tham gia, định kỳ trong một năm mỗi công dân Việt
Nam phải thực hiện gói dịch vụ cơ bản bao nhiêu lần,…. Sau khi các tiêu chí đƣợc
hoàn thiện, Bộ Y tế tiếp tục xây dựng kế hoạch hành động cụ thể cho toàn ngành.
Phân cấp nhiệm vụ đến từng Sở Y tế, từng bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, giao chỉ
tiêu cụ thể cho mỗi Sở Y tế, bệnh viện trực thuộc Bộ, trong một năm phải tiến hành
thực hiện gói dịch vụ y tế cơ bản cho bao nhiêu ngƣời dân, để đảm bảo toàn dân
đƣợc CSSK ban đầu. Bên cạnh đó, các Bộ ngành có liên quan có trách nhiệm xây
dựng kế hoạch, để xác định các đối tƣợng, số lƣợng ngƣời dân cần có sự hỗ trợ hoặc
cần đƣợc bao cấp toàn bộ kinh phí để tham gia gói dịch vụ y tế cơ bản đầu. Nguồn
kinh phí này sẽ đƣợc NSNN ƣu tiên cấp cho ngành y tế trong kế hoạch ngân sách
hàng năm.
Trong những năm trƣớc mắt, nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan quản lý nhà
nƣớc là phối hợp đồng bộ về nhân lực, vật lực và tài lực để xây dựng, ban hành
chính sách bắt buộc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và phát hành thẻ
BHYT điện tử, nhằm thay đổi chức năng của thẻ BHYT. Thẻ BHYT điện tử có
chức năng lƣu giữ toàn bộ thông tin cá nhân về sức khỏe của chủ thẻ và có giá trị sử
145
dụng thống nhất trên toàn quốc. Thẻ BHYT có chức năng quản lý ngƣời tham gia
BHYT về: Mức phí phải trả khi mua thẻ; thời hạn của thẻ; quyền lợi, mức đƣợc
hƣởng chế độ BHYT; nơi khám chữa bệnh ban đầu; bệnh sử của chủ thẻ; số lần
khám chữa bệnh; các thông số xét nghiệm đã thực hiện,…. Chủ thẻ có nhiệm vụ giữ
thẻ BHYT nhƣ giữ thẻ tín dụng ngân hàng hiện nay, và sử dụng thẻ trong mọi
trƣờng hợp khi tham gia vào việc CSSK. Cơ quan phát hành thẻ có nhiệm vụ theo
dõi, giám sát việc sử dụng thẻ của ngƣời dân, đôn đốc chủ thẻ phải tham gia vào gói
dịch vụ y tế cơ bản. Đồng thời theo dõi, giám sát các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế về
việc tiếp nhận, chăm sóc ngƣời sử dụng thẻ BHYT theo đúng quy định về chuyên
môn và quyền lợi hƣởng của các dịch vụ CSSK.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cƣờng kiểm tra giám sát, để
hoạt động y tế đƣợc lành mạnh ngoài các yêu cầu về công khai hoá, dân chủ hoá,
đòi hỏi hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống văn bản pháp quy về y tế. Pháp luật
cần phải đầy đủ, rõ ràng, phân minh. Các quyền lợi, nghĩa vụ của ngƣời tham gia
BHYT, cơ quan BHYT thanh toán trung gian và đơn vị cung ứng dịch vụ phải đƣợc
xác định rõ ràng. Đặc biệt phải xử lý nghiêm, triệt để các hành vi vi phạm với các
biện pháp cứng rắn, có nhƣ vậy, hoạt động y tế mới phát triển đúng hƣớng đƣợc.
Cần phải khẳng định hoạt động y tế là hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, phi
kinh doanh. Cái lợi to lớn và vô giá mà y tế mang lại là CSSK tốt cho nhân dân nói
chung, cho lực lƣợng lao động xã hội nói riêng. Do đó, đòi hỏi cần phải chống trào
lƣu thƣơng mại hóa, gian lận trong hoạt động y tế, trả lại sự trong sáng, lành mạnh
cho hoạt động này. Tăng cƣờng kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà
nƣớc đối với hoạt động y tế. Nhà nƣớc cần phải phát huy vai trò của mình thông
qua công tác kiểm tra, kiểm soát. Luật pháp là khuôn mẫu cho kiểm tra, kiểm soát.
Ngƣợc lại, kiểm tra, kiểm soát là để việc tuân thủ luật pháp đƣợc nghiêm minh. Tuy
vậy, để có thể kiểm soát chặt chẽ nhƣng không chồng chéo và gây cản trở các hoạt
động, đề nghị các cơ quan quản lý Nhà nƣớc cần xây dựng các quy trình kiểm tra,
kiểm soát hợp lý và khoa học.
146
Thứ ba, thành lập thêm cơ quan giám định chất lƣợng dịch vụ y tế độc lập.
Chính phủ cần thành lập một cơ quan ngang bộ để đánh giá chất lƣợng dịch vụ y tế
một cách độc lập. Cơ quan này có chức năng làm trọng tài cho cơ quan BHYT và
cơ sở cung ứng dịch vụ y tế. Họ có nhiệm vụ giám định toàn bộ hộ hồ sơ đề nghị
thanh toán của các cơ sở cung ứng dịch vụ về chi phí của ngƣời bệnh và tính hợp lý
trong chỉ định điều trị. Kết quả giám định của cơ quan này làm căn cứ để cơ quan
BHYT thanh toán cho cơ sở cung cấp dịch vụ. Cơ quan này đồng thời có nhiệm vụ
phối hợp chặt chẽ với Bộ Y tế, xây dựng các quy định chuẩn cho cơ sở cung ứng
dịch vụ y tế và cơ quan BHYT chất lƣợng dịch vụ, giá dịch vụ và các biện pháp
kiểm soát chi phí, thanh toán quỹ BHYT.
Cơ quan BHYT chỉ có trách nhiệm thu tiền BHYT, cấp thẻ và hƣớng dẫn việc
quản lý, sử dụng thẻ BHYT, cung cấp thông tin về các cơ sở KCB và hƣớng dẫn
ngƣời tham gia BHYT lựa chọn để đăng ký, quản lý quỹ, thanh toán chi phí BHYT
theo yêu cầu của cơ quan giám định đúng theo thời hạn. Không nên để cơ quan
BHYT vừa là ngƣời quản lý quỹ BHYT, vừa là ngƣời giám định hồ sơ thanh toán
BHYT cho cơ sở cung cấp dịch vụ y tế nhƣ hiện nay, để tránh tình trạng thiếu khách
quan và mang màu sắc của cơ chế “xin - cho” giữa cơ quan BHYT và cơ sở cung
cấp dịch vụ, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gian lận trong y tế.
3.2.2. Nhóm giải pháp cho tăng nguồn thu.
Một là, tăng chi ngân sách nhà nƣớc cho y tế gắn liền với việc phân bổ nguồn
lực một cách hợp lý. NSNN cho sự nghiệp y tế ở Việt Nam có tăng lên trong thời
gian qua, nhƣng vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển sự nghiệp y tế. Vì vậy, trong
thời gian tới nhất thiết Nhà nƣớc phải dành ngân sách nhiều hơn cho đầu tƣ phát
triển sự nghiệp y tế. Sự tăng đầu tƣ từ NSNN cho y tế, giảm tỷ trọng chi phí tƣ nhân
của ngƣời dân cho CSSK và điều đó cũng thể hiện tính công bằng trong sự nghiệp y
tế và đảm bảo đúng mục tiêu định hƣớng XHCN mà Đảng đã đặt ra. Đồng thời, để
đảm bảo mục tiêu công bằng trong CSSK nhân dân, song song với việc tăng chi đầu
tƣ NSNN cho y tế, cơ chế phân bổ NSNN cho y tế cũng cần có sự thay đổi theo
hƣớng:
147
Điều chỉnh cơ cấu giữa chi phòng bệnh và chi khám, chữa bệnh, từ thực tế chi
cho y tế trong thời gian qua đã biểu hiện sự bất hợp lý giữa chi phòng bệnh và chi
khám, chữa bệnh. Chi NSNN cho y tế hiện nay vẫn còn nghiêng về chi KCB, điều
trị. Tỷ trọng chi KCB, điều trị trong cơ cấu chi NSNN còn cao so với tỷ trọng chi
phòng bệnh. Điều này không đúng cả về lý thuyết và thực tiễn vì xét dƣới góc độ
kinh tế trong y tế thì chi phòng bệnh có ý nghĩa xã hội lớn hơn so với chi điều trị
(mọi ngƣời dân, đặc biệt là ngƣời nghèo đều đƣợc hƣởng lợi ích từ kết quả của các
chƣơng trình phòng bệnh). Mặt khác, các đối tƣợng thƣờng xuyên sử dụng các dịch
vụ KCB, điều trị lại tập trung chủ yếu vào ngƣời có thu nhập cao trong xã hội. Điều
này có nghĩa là mục tiêu của chi NSNN trong y tế là thực hiện công bằng xã hội, ƣu
tiên cho ngƣời nghèo chƣa thực hiện đƣợc. Vì vậy, trong thời gian tới cần thiết phải
thay đổi cơ cấu chi NSNN theo hƣớng tốc độ tăng chi phòng bệnh phải nhanh hơn
tốc độ tăng chi chữa bệnh và điều trị. Để làm đƣợc việc này thì cần thiết thực hiện
giải pháp:
Tăng định mức chi phòng bệnh trong phân bố dự toán NSNN. Ƣu tiên chi
phòng bệnh và CSSK ban đầu đối với các khu vực nông thôn nơi có tỷ lệ dân số
lớn, nơi nhận thức của nông dân về y tế còn hạn chế và cũng là nơi có tỷ lệ ngƣời
nghèo cao nhất, ƣu tiên chi đầu tƣ phát triển mạng lƣới y tế cơ sở. Ƣu tiên đầu tƣ về
khu vực này sẽ tăng đƣợc số lƣợng dân hƣởng thụ dịch vụ y tế do Nhà nƣớc cung
cấp, đặc biệt là ngƣời nghèo.
Điều chỉnh cơ cấu chi tiêu về y tế giữa các tuyến điều trị, giữa các vùng, địa
phƣơng, các địa phƣơng nghèo có mức đầu tƣ NSNN cho y tế thấp hơn các địa
phƣơng giàu nhƣ TP.HCM, Hà Hội, Đà Nẵng,…. Điều đó cho thấy sự mất công
bằng trong việc hƣởng thụ nguồn NSNN đầu tƣ cho sự nghiệp y tế của ngƣời dân.
Để khắc phục tình trạng trên, cần thiết phải điều chỉnh việc phân phối NSNN giữa
các tỉnh theo nguyên tắc ƣu tiên cho tỉnh nghèo, ƣu tiên cho khu vực khó khăn. Cần
sử dụng NSNN nhƣ một công cụ hữu hiệu để điều chỉnh lại cơ cấu chi tiêu y tế ở
các tỉnh, thành. Việc điều chỉnh cơ cấu này sẽ đảm bảo sự đầu tƣ hợp lý giữa các
tuyến y tế, khắc phục hạn chế là đầu tƣ quá tập trung cho y tế tuyến trên, chƣa quan
148
tâm đúng mức đến đầu tƣ y tế tuyến dƣới, tuyến y tế cơ sở, thực hiện phát triển y tế
đồng đều giữa các vùng địa phƣơng, nâng cao đƣợc tính công bằng, hiệu quả giữa
các địa phƣơng trong việc sử dụng NSNN dành cho y tế. Để thực hiện đƣợc mục
tiêu này, các giải pháp cần thực hiện là:
Giảm tốc độ đầu tƣ trực tiếp từ NSNN đối với y tế tuyến trên, ở những thành
phố, thị xã, nơi tập trung dân cƣ có thu nhập cao và nhiều đối tƣợng có khả năng chi
trả lớn, nơi có điều kiện để thực hiện xã hội hoá y tế. Bên cạnh đó cần nghiên cứu
các biện pháp huy động các nguồn thu viện phí, đóng góp BHYT để bổ sung chi
thƣờng xuyên y tế cho khu vực này, giảm sự bao cấp của NSNN. Thực hiện chính
sách công bằng trong việc phân bổ ngân sách nhằm ƣu tiên và phát triển hệ thống y
tế cơ sở ở các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, cho các hoạt động phòng chống
dịch bệnh, CSSK ban đầu, chữa các bệnh thông thƣờng cho nhân dân ngay tại tuyến
cơ sở.
Hai là, đa dạng hóa các hình thức bảo hiểm và chi trả bảo hiểm y tế.
Đa dạng hoá các loại hình BHYT và mở rộng đối tƣợng tham gia BHYT, đặc
biệt là đối tƣợng nông dân ở nông thôn, ở các khu vực địa lý khó khăn. Với mô hình
bảo hiểm tự nguyện với nhiều mức phí khác nhau và mức độ hƣởng quyền lợi khác
nhau, để ngƣời tham gia BHYT có quyền lựa chọn. Bảo hiểm xã hội Việt Nam cũng
cần có cơ chế khuyến khích, năng động, linh hoạt trong việc đa dạng hóa các sản
phẩm BHYT đến ngƣời dân. Cần quy định rõ về quyền lợi và trách nhiệm của
ngƣời có thẻ BHYT, cơ quan BHYT và cơ sở y tế cần xây dựng cơ chế một cách
nhất quán để thống nhất trong khi thực hiện, tránh tình trạng mất công bằng trong
việc thanh toán chi phí KCB giữa những ngƣời có thẻ BHYT và ngƣời không có thẻ
BHYT, gây tâm lý e ngại cho những ngƣời đang do dự tham gia BHYT.
Tăng phí bảo BHYT phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nƣớc và chi phí
y tế. Mức phí BHYT hiện nay đang rất thấp ở cả hai khu vực bắt buộc và tự nguyện
so với chi phí thực của các dịch vụ y tế. Đây là nguyên nhân chính gây ảnh hƣởng
đến quyền lợi của bệnh nhân tham gia BHYT và tâm lý không muốn đi khám, chữa
bệnh bằng thẻ BHYT, nhất là những ngƣời có thu nhập khá trong xã hội. BHYT tự
149
nguyện cần phải xây dựng đƣợc nhiều mức đóng khác nhau để ngƣời dân có thể lựa
chọn và thu hút những ngƣời có thu nhập cao tham gia BHYT với mức phí phù hợp.
Thực hiện gói dịch vụ y tế cơ bản để đảm bảo công bằng trong CSSK nhân
dân, vì NSNN hoặc quỹ bảo hiểm y tế không thể thanh toán chi phí cho tất cả những
gì mà khoa học y học mang cho loài ngƣời. Nhƣ trên đã trình bày ở phần kinh
nghiệm quốc tế, để thực hiện BHYT toàn dân, các nƣớc điều đã quy định những
dịch vụ y tế cơ bản, gọi là “gói lợi ích” để Quỹ BHYT đảm bảo chăm sóc cho mọi
ngƣời dân tham gia BHYT. Các dịch vụ trong gói dịch vụ cơ bản đƣợc ngân sách
Nhà nƣớc hoặc Quỹ BHYT thanh toán, còn dịch vụ y tế không cơ bản, không thiết
yếu thì cá nhân ngƣời bệnh tự lựa chọn và tự thanh toán chi phí.
Triển khai thực hiện thanh toán BHYT đến tận tuyến xã, phát triển chƣơng
trình BHYT nông dân dựa vào cộng đồng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ
y tế cơ bản của ngƣời dân, tạo nguồn thu cho y tế xã có điều kiện nâng cao chất
lƣợng dịch vụ cung cấp, thu hút tầng lớp nông dân tham gia BHYT.
Về tổ chức thực hiện công tác BHYT cần cải cách và đơn giản hóa thủ tục
mua, thanh toán BHYT, tạo thuận lợi cho ngƣời tham gia BHYT trong việc khám
bệnh, chữa bệnh, tổ chức tốt việc khám, chữa bệnh ở y tế cơ sở bằng các giải pháp
cụ thể về nhân lực, vật lực và tài lực. Tiếp tục triển khai tốt chính sách BHYT cho
ngƣời nghèo, trẻ em dƣới 6 tuổi, ngƣời cao tuổi, đồng bào dân tộc thiểu số vùng
kinh tế - xã hội khó khăn và tăng mức hỗ trợ đóng phí BHYT cho ngƣời cận nghèo
vàcác đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng.
Cần khuyến khích sử dụng cơ sở y tế ngoài công lập tham gia cung ứng dịch
vụ y tế theo chế độ BHYT, điều này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy xã hội hoá lên một
bƣớc mới, thúc đẩy tính cạnh tranh giữa hai khu vực y tế công lập và ngoài công
lập. Đồng thời có các biện pháp chế tài đối với những doanh nghiệp trốn hoặc nợ
tiền phí BHYT không đóng cho ngƣời lao động.
Thực hiện tốt các thông tin, tuyên truyền vận động dƣới nhiều hình thức trên
các phƣơng tiện thông tin đại chúng để mọi ngƣời dân nhận thức rõ quyền lợi và
nghĩa vụ, trách nhiệm của ngƣời dân khi tham gia BHYT. Mỗi ngƣời dân cần phải
150
nhận thức đƣợc là nếu chỉ vì tiết kiệm không tham gia mua BHYT, thì khi bị rủi ro,
bệnh tật sẽ không có điều kiện tiếp cận đƣợc các dịch vụ y tế. Ngƣời có sức khỏe
tốt, rủi ro bệnh tật thấp, cần phải tham gia cơ chế trả trƣớc thông qua đóng bảo hiểm
y tế, coi đây là khoản tiết kiệm dành cho khám, chữa bệnh trong một thời gian dài
trƣớc khi có nhu cầu đƣợc chăm sóc y tế. Cơ chế tài chính hỗn hợp, giữa những
ngƣời trẻ, những ngƣời không bệnh tật và bên kia là ngƣời bệnh và ngƣời già cho
phép chia sẻ tốt hơn các rủi ro tài chính giữa những nhóm xã hội khác nhau. Việc
cùng đóng góp bảo hiểm y tế chính là đóng góp nguồn lực với cơ chế trả trƣớc chi
phí - đƣợc coi là bƣớc tiến có ý nghĩa hƣớng tới sự công bằng trong chăm sóc sức
khỏe. Nguồn thu từ bảo hiểm y tế cần phải đóng vai trò ngày càng lớn trong ngân
sách y tế và dần dần thay thế nguồn thu viện phí trực tiếp.
Bảo hiểm y tế là một trụ cột của chính sách an sinh xã hội, đây đƣợc xem nhƣ
một thẻ hộ mệnh đối với ngƣời bệnh, đặc biệt là ngƣời bệnh nghèo, rất cần sự tham
gia vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận, ủng hộ của cả xã hội. Bên
cạnh tích cực truyền thông, đơn giản hóa thủ tục BHYT, Chính phủ cần ban hành
quyết định giao chỉ tiêu thực hiện bao phủ BHYT giai đoạn 2015 - 2020, bao gồm
đối tƣợng và tỷ lệ bao phủ theo dân số cụ thể cho mỗi tỉnh, thành phố trong cả nƣớc
và coi đây là một trong những chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phƣơng.
Ba là, xây dựng giá dịch vụ y tế theo hƣớng lấy thu bù chi và có tích lũy
Dịch vụ y tế là một trong những loại hình hình dịch vụ cơ bản nhất của hệ
thống an sinh xã hội. Nếu nhƣ ngƣời ta vừa nghèo, vừa ốm đau bệnh tật, sự nghèo
khổ có thể nhanh chóng chuyển thành sự khốn khó. Tình trạng trên có thể trầm
trọng hơn nếu không tiếp cận đƣợc các dịch vụ y tế hoặc nếu có thì cũng mang tính
hình thức, vì hạn chế về mặt phƣơng tiện hoặc chất lƣợng kém. Thu nhập thấp
thƣờng đi kèm với một tình trạng sức khỏe yếu và cùng với dịch vụ y tế không thể
tiếp cận hoặc hoạt động kém hiệu quả. Tài chính công bằng cho một hệ thống y tế là
dịch vụ trong đó, mỗi ngƣời trả tiền dịch vụ y tế tùy thuộc theo phƣơng tiện tài
chính của mình, chứ không phụ thuộc theo nhu cầu của mình. Nhƣ vậy, những rủi
ro tài chính mà mọi ngƣời đƣơng đầu, do chi phí cao của hệ thống dịch vụ sẽ đƣợc
151
phân bổ tùy theo khả năng chi trả chứ không theo rủi ro của bệnh tật. Nhƣ vậy,
phƣơng cách tốt nhất để bảo đảm tính công bằng về tài chính là ƣu tiên cho việc trả
trƣớc chi phí, thay cho việc trả chi phí trực tiếp. Những lập luận mang tính lý thuyết
cùng bằng chứng thực tiễn của các nƣớc chuyển đổi y tế theo định hƣớng thị
trƣờng, trong đó có chiến lƣợc cung cấp tài chính những năm gần đây đã đặt các
nhà hoạch định chính sách của Việt Nam, đi tới một chính sách nhất quán rằng giá
dịch vụ y tế chỉ là giải pháp tình thế, về lâu dài phải thực hiện BHYT toàn dân.
Mức giá DVYT hiện nay đang áp dụng tại các cơ sở khám chữa bệnh đƣợc
Chính phủ ban hành từ rất lâu và chỉ mới đƣợc điều chỉnh có 447 danh mục kỹ thuật
với 3/7 yếu tố cấu thành giá từ tháng 10/2012. Mặc dù giá cả thuốc men, vật tƣ y tế,
điện, nƣớc, xăng, dầu, văn phòng phẩm, … tăng cao và nhiều dịch vụ kỹ thuật mới,
kỹ thuật cao đƣợc áp dụng nhƣng mức viện phí vẫn chƣa đƣợc điều chỉnh phù hợp
và đƣợc coi là quá thấp. Hơn nữa, việc quy định giá DVYT chƣa có sự khác biệt
một cách rõ rệt giữa các loại bệnh viện và tuyến kỹ thuật nên chƣa khuyến khích
đƣợc ngƣời mắc bệnh thông thƣờng điều trị ở tuyến cơ sở. Để có thêm nguồn kinh
phí hoạt động, các cơ sở khám chữa bệnh đã tăng mức thu phí bằng cách tăng số
lƣợng các xét nghiệm chẩn đoán và tăng thời gian điều trị trung bình của bệnh nhân
nội trú. Ngoài ra còn có các khoản “phí ngầm” để tăng thu nhập thực tế của ngƣời
lao động trong các cơ sở này. Xét trên góc độ toàn xã hội đây đều là cách tăng
nguồn tài chính một cách lãng phí, khó quản lý và thiếu đạo đức, vì vậy, tăng giá
DVYT là cách tốt nhất để lấy tiền từ ngƣời có thu nhập cao, bù cho ngƣời nghèo
trong lúc chúng ta chƣa thể điều tiết mạnh qua thuế thu nhập cá nhân và quỹ phúc
lợi xã hội chƣa đủ tích lũy. Ở những vùng, những đối tƣợng có thu nhập cao cần
đƣợc trả viện phí theo cách tính lấy thu bù chi và có tích lũy, xứng đáng với những
gì họ đƣợc hƣởng, loại dần thói quen tìm kiếm các thể chế không chính thức nhƣ:
Tiền bồi dƣỡng, cố gắng tìm ngƣời quen biết khi đến bệnh viện, ….. Do đó, trong
những năm tới, việc thu đủ giá DVYT vẫn phải là một chính sách tài chính quan
trọng cần tiếp tục đƣợc hoàn thiện và sửa đổi nhƣ sau:
152
Điều chỉnh mức thu viện phí phù hợp với chi phí trực tiếp phục vụ ngƣời
bệnh, khả năng chi trả của ngƣời dân ở từng vùng, tránh tình trạng bao cấp tràn lan.
Xây dựng khung giá cho từng tuyến điều trị có tính chất hƣớng dẫn và khuyến
khích ngƣời mắc bệnh thông thƣờng điều trị ở tuyến cơ sở. Xây dựng giá viện phí
đối với ngƣời bệnh là ngƣời nƣớc ngoài hoặc ngƣời có điều kiện thì phải thu đủ các
chi phí cho khám, chữa bệnh, Nhà nƣớc không bao cấp cho đối tƣợng này để tăng
thêm nguồn kinh phí hỗ trợ ngƣời nghèo, ngƣời không có điều kiện thanh toán chi
phí khám chữa bệnh.
Cần xây dựng khung giá viện phí có sự khác biệt cơ bản ở các tuyến điều trị
(cùng một loại bệnh thì mức giá viện phí ở tuyến trên phải cao hơn nhiều so với
tuyến dƣới) nhằm khuyến khích ngƣời mắc bệnh thông thƣờng điều trị ở tuyến dƣới
và tuyến cơ sở, góp phần làm giảm mức độ quá tải ở các bệnh viện tuyến trên và
giảm bớt chi phí xã hội ngoài chi phí khám, chữa bệnh của ngƣời dân nhƣ chi phí đi
lại, thăm nuôi. Thực hiện theo phƣơng án này sẽ thúc đẩy công tác xã hội hóa y tế
của Đảng và Nhà nƣớc, huy động đƣợc sự đóng góp của các đối tƣợng có khả năng
chi trả, tạo đƣợc nguồn kinh phí để bổ sung các bệnh viện đầu tƣ phát triển kỹ thuật,
nâng cao chất lƣợng khám, chữa bệnh. Đảm bảo công bằng trong KCB nhất là cho
ngƣời nghèo vẫn là vấn đề nan giải. Nhà nƣớc cần có chính sách miễn, giảm giá
DVYT cho những đối tƣợng cận nghèo, ngƣời lang thang, ngƣời bị bệnh nặng, bệnh
hiểm nghèo có chi phí điều trị lớn nhƣng họ không có khả năng chi trả toàn bộ viện
phí.
Bốn là, huy động mọi nguồn vốn của xã hội cho sự nghiệp phát triển y tế
công.
Phát triển đa dạng hoá và xã hội hoá các hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe nhân dân. Xây dựng chính sách thu hút các nguồn thu để bổ sung thêm cho y
tế ngoài nguồn ngân sách nhà nƣớc, khuyến khích mở rộng sự tham gia của các
thành phần kinh tế ngoài nhà nƣớc vào cung cấp sản phẩm dịch vụ y tế cho xã hội,
giảm dần sự bao cấp của nhà nƣớc cho khám chữa bệnh. Để thực hiện tốt việc huy
động các nguồn vốn của xã hội cần thực hiện một số giải pháp sau:
153
Tiến hành nghiên cứu đánh giá và dự báo tác động tích cực cũng nhƣ tiêu cực
của tình hình tƣ nhân hoá một phần các bệnh viện công và đƣa ra các đề xuất giải
pháp để kiểm soát tình hình này. Khuyến khích và phát huy vai trò của khu vực y tế
tƣ nhân, xác định chủ trƣơng coi phát triển y tế tƣ nhân là trọng tâm của các chính
sách huy động nguồn lực xã hội cho y tế, thay cho việc huy động đầu tƣ tƣ nhân và
phát triển các dịch vụ theo yêu cầu trong các cơ sở y tế công lập. Cần bảo đảm cho
các cơ sở dịch vụ y tế tƣ nhân với các quy mô, mô hình khác nhau đƣợc phát triển
thành mạng lƣới các bệnh viện tƣ, bệnh viện kết hợp công tƣ theo quy hoạch tổng
thể chung của ngành y tế, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu CSSK
của nhân dân ở từng vùng, từng địa bàn.
Tăng cƣờng các chức năng điều tiết cơ bản của Nhà nƣớc, đồng thời phát huy
vai trò của các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong quản
lý chuyên môn, tăng cƣờng hệ thống thông tin từ khu vực y tế tƣ nhân. Xây dựng hệ
thống thông tin về khu vực y tế tƣ nhân nói chung, cũng nhƣ về các nguồn đầu tƣ tƣ
nhân cho y tế, các hình thức liên doanh, liên kết giữa các cơ sở y tế công lập với các
nhà đầu tƣ tƣ nhân. Hoàn thiện các văn bản pháp quy, văn bản hƣớng dẫn thực hiện
liên doanh liên kết trong cơ sở KCB công lập về trang thiết bị, cơ sở vật chất, đất
đai,... Xây dựng và ban hành quy chế hoạt động, kiểm soát việc chỉ định và sử dụng
trang thiết bị kỹ thuật cao, nhằm đảm bảo chất lƣợng KCB đi đôi với hiệu quả về
kinh tế cũng nhƣ đảm bảo tính công bằng trong CSSK. Tạo điều kiện để y tế tƣ
nhân phát triển trong môi trƣờng thông thoáng, thống nhất về luật pháp.
3.2.3. Nhóm giải pháp đổi mới phƣơng thức chi trả
Hƣớng tới việc thực hiện bao phủ CSSK toàn dân, cần áp dụng phƣơng thức
chi trả với các yếu tố khuyến khích hợp lý, nhằm sử dụng nguồn lực theo cách công
bằng và hiệu quả cao nhất, đồng thời tạo động lực để hạn chế các khoản thu phí
không chính thức với ngƣời bệnh và hƣớng việc cung ứng dịch vụ tới các mục tiêu
bao phủ về chiều rộng, chiều sâu cũng nhƣ bảo vệ tài chính trong CSSK nhân dân.
Cần phải từng bƣớc đổi mới phƣơng thức chi trả dịch vụ y tế, chuyển đổi phƣơng
thức phí theo dịch vụ sang những cơ chế chi trả dịch vụ y tế tiên tiến, phù hợp nhƣ
154
khoán định suất, chi trả trọn gói theo ca bệnh, theo nhóm chẩn đoán và các cơ chế
tài chính khác; tăng cƣờng kiểm soát chi phí, kiểm soát lạm dụng dịch vụ; xây dựng
cơ chế kiểm soát giá dịch vụ của các cơ sở khám, chữa bệnh tƣ nhân. Các giải pháp
để thực hiện mục tiêu trên là:
Thứ nhất, xây dựng chƣơng trình tổng thể về đổi mới phƣơng thức chi trả dịch
vụ KCB, đảm bảo sự đồng bộ các nội dung định hƣớng chính sách, theo lộ trình có
sự kết hợp hài hòa về năng lực công nghệ thông tin, năng lực đánh giá công nghệ y
tế, năng lực giám sát, đánh giá, quản lý chất lƣợng dịch vụ CSSK, để khuyến khích
cung ứng dịch vụ hợp lý, tạo động lực phát triển năng lực y tế. Tạo sự đồng thuận
về chính sách và xác định rõ vai trò, trách nhiệm các bên liên quan. Thúc đẩy tiến
trình áp dụng một hệ thống phƣơng thức chi trả có sự lồng ghép hài hoà các phƣơng
thức chi trả mới, phù hợp hơn (chi trả theo dịch vụ, chi trả theo định suất, chi trả
theo trƣờng hợp bệnh).
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa tiến trình chuyển việc cấp phát NSNN
thông qua các cơ sở cung ứng dịch vụ, sang hỗ trợ trực tiếp cho ngƣời sử dụng dịch
vụ. Tiến hành điều chỉnh, thiết kế quỹ định suất và mức khoán định suất đƣợc thiết
lập với những điều chỉnh cần thiết nhƣ dân số, cơ cấu theo tuổi, giới và nhất là gánh
nặng bệnh tật đặc trƣng theo khu vực. Điều chỉnh mức chi trả (theo dịch vụ, trƣờng
hợp bệnh) theo hƣớng chi trả tƣơng đƣơng cho các dịch vụ (nhóm dịch vụ) có thể
đƣợc cung ứng phù hợp về chuyên môn và về kinh tế tại tuyến cơ sở. Điều chỉnh
mức chi trả theo trần để không khuyến khích cung ứng quá mức dịch vụ. Tiến tới
thực hiện việc dỡ bỏ quy định đồng chi trả với ngƣời sử dụng dịch vụ đối với ngƣời
cận nghèo.
Quan tâm thúc đẩy năng lực nghiên cứu, đánh giá công nghệ y tế phục vụ đổi
mới phƣơng thức chi trả thông qua lựa chọn chi trả thuốc và dịch vụ phù hợp, theo
các phƣơng thức chi trả hợp lý, đồng thời với áp dụng lồng ghép các yếu tố khuyến
khích, cả yếu tố tài chính và phi tài chính cho bên sử dụng dịch vụ để khuyến khích
tăng cƣờng tiếp cận và sử dụng dịch vụ CSSK ngay tại tuyến cơ sở.
155
Thực hiện đồng bộ đổi mới phƣơng thức chi trả với đổi mới tổ chức mạng lƣới
cung ứng dịch vụ và cơ chế tài chính liên quan. Để bảo đảm các điều kiện tiên quyết
để áp dụng phƣơng thức chi trả tiến bộ một cách đồng bộ, cần thực hiện các giải
pháp nhƣ:
Tiến tới thúc đẩy các cơ sở cung ứng dịch vụ hoạt động theo hƣớng càng ít
bệnh nhân, càng ít dịch bệnh thì càng có lợi, thay vì càng nhiều bệnh nhân thì bệnh
viện càng tăng đƣợc nguồn thu nhƣ hiện nay.
Tăng nguồn lực tài chính và vai trò của ngƣời chi trả trung gian (cơ quan
BHYT), giảm tỷ trọng chi trả trực tiếp từ tiền túi của ngƣời dân.
Tạo ra các biện pháp hạn chế tác động tiêu cực của việc thực hiện chính sách
tự chủ tài chính nhƣ hiện nay, từng bƣớc hợp nhất các dịch vụ theo yêu cầu với dịch
vụ KCB thông qua thẻ BHYT.
Sắp xếp nguồn lực đúng mức cho một quá trình liên tục giám sát, đánh giá,
điều chỉnh, hoàn thiện chính sách và các nội dung của chƣơng trình đổi mới tài
chính y tế nói chung, đổi mới phƣơng thức chi trả nói riêng.
3.2.4. Nhóm giải pháp đổi mới cơ chế tài chính
Các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các đơn
vị sự nghiệp phải nâng cao nhận thức về đổi mới cơ chế hoạt động của đơn vị sự
nghiệp y tế. Các cơ quan chức năng ở các cấp tham mƣu cho các cấp ủy đảng cùng
cấp, trong việc ban hành và triển khai các nghị quyết, chỉ thị về chủ trƣơng, kế
hoạch và biện pháp cụ thể nhằm tạo chuyển biến về tƣ tƣởng, nâng cao nhận thức
của xã hội về sự cần thiết, tính cấp bách của việc đổi mới cơ chế hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp y tế. Cần phải nhận thức thật sâu sắc rằng xây dựng chính sách tài
chính y tế theo hƣớng đổi mới toàn diện cơ chế tài chính, phƣơng thức chi trả phí
dịch vụ y tế, thực hiện cải cách, đổi mới quy trình lập dự toán và phân bổ ngân sách
cho y tế theo hƣớng: Quản lý dựa trên kết quả đầu ra, đổi mới cơ chế tài chính trong
lĩnh vực y tế, sử dụng hiệu quả nguồn vốn Nhà nƣớc và nguồn hỗ trợ phát triển
chính thức. Thực hiện điều chỉnh giá dịch vụ theo hƣớng tính đúng, tính đủ, Nhà
nƣớc không phân bổ trực tiếp kinh phí cho các cơ sở y tế, mà chuyển sang hỗ trợ
156
ngƣời thụ hƣởng chính sách y tế bằng việc phân bổ qua BHYT, ƣu tiên cho đối
tƣợng chính sách, ngƣời nghèo, trẻ em dƣới 6 tuổi,.... Tinh gọn bộ máy của các đơn
vị sự nghiệp và bộ máy quản lý nhà nƣớc về y tế từ trung ƣơng đến địa phƣơng.
Sẽ không có sự tiếp cận với chăm sóc y tế nếu không có một cơ chế bảo đảm
nguồn tài chính. Rõ ràng là khả năng tài chính để đầu tƣ vào lĩnh vực dịch vụ y tế
đóng vai trò quyết định để bảo đảm mức chất lƣợng trong chăm sóc y tế. Nhƣng
mức đầu tƣ này không thể bảo đảm đƣợc một tình trạng sức khỏe tốt cho toàn bộ
ngƣời dân. Một hệ thống y tế trong đó ngƣời dân phải trực tiếp trả một phần lớn
trong chi phí khám, chữa bệnh sẽ hạn chế việc tiếp cận với các loại hình dịch vụ y tế
và loại ra ngoài những thành viên nghèo nhất của xã hội. Một hệ thống y tế cần phải
nhắm tới việc bảo đảm cả công bằng dọc và công bằng ngang thông qua việc ứng
xử nhƣ nhau với tất cả những ngƣời có cùng nhu cầu y tế. Nhƣ vậy, hệ thống y tế
không những phải quan tâm đến việc ngƣời khỏe chia sẻ rủi ro cho ngƣời bệnh,
thông qua một cơ chế trả trƣớc chi phí, mà còn phải quan tâm đến gánh nặng tài
chính đƣợc chia sẻ công bằng giữa những ngƣời nghèo nhất và những ngƣời giàu
nhất. Có thể nói đó là mục tiêu bắt buộc phải chi những khoản chi công vì lợi ích
ngƣời nghèo. Đẩy mạnh đổi mới quản lý tài chính các đơn vị hành chính sự nghiệp
bằng các giải pháp sau:
Một là, đổi mới cơ chế quản lý tài chính ở các cơ sở y tế công lập, đổi mới cơ
bản cơ chế quản lý tài chính đối với lĩnh vực cung cấp dịch vụ y tế công trong
ngành y tế, nhằm trƣớc hết nâng cao chất lƣợng công tác CSSK cho nhân dân.
Thống nhất về nhận thức của việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các
cơ sở y tế công lập có thu là hết sức cần thiết và cấp bách, nhằm nâng cao thẩm
quyền và trách nhiệm của thủ trƣởng đơn vị trong quản lý biên chế, tổ chức công
việc và quản lý tài chính. Từ đó tạo môi trƣờng thuận lợi và động lực khuyến khích
các đơn vị và ngƣời lao động phát huy hết tài năng, trí tuệ của mình cung cấp các
dịch vụ y tế ngày càng tốt hơn và hiệu quả cao hơn cho xã hội. Cần quán triệt quan
điểm thực hiện tự chủ tài chính, không làm giảm chất lƣợng hoạt động của các cơ
sở y tế, không làm giảm chi ngân sách Nhà nƣớc cho lĩnh vực y tế và các cơ sở y tế.
157
Trái lại, tổng nguồn tài chính nói chung và tổng chi NSNN nói riêng cho các đơn vị
và lĩnh vực y tế sẽ tiếp tục tăng lên cùng với sự tăng trƣởng NSNN và sự phát triển
của các hoạt động y tế, nhƣng nội dung chi, cơ cấu chi và chính sách chi của NSNN
đối với sự nghiệp y tế sẽ đổi mới phù hợp với cơ chế mới. Đồng thời, chất lƣợng
của hoạt động sự nghiệp cũng đòi hỏi ngày càng cao hơn.
Hai là, duy trì quan điểm nhà nƣớc chỉ bao cấp các đối tƣợng chính sách,
ngƣời có công, trẻ em dƣới 6 tuổi, … còn lại mọi công dân phải xem CSSK là
nhiệm vụ và phải có đóng góp về tài chính cho CSSK. Xây dựng quan niệm đúng
về tiến hành cung cấp dịch vụ công cho xã hội, Nhà nƣớc có trách nhiệm lo đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân, nhƣng không phải vì thế mà mọi công việc
về dịch vụ công đều do cơ quan Nhà nƣớc trực tiếp đảm nhiệm. Theo đó, trong lĩnh
vực y tế cần định rõ những công việc mà Nhà nƣớc phải đầu tƣ trực tiếp nhƣ xây
dựng cơ sở vật chất cho hệ thống khám chữa bệnh; tổ chức các bệnh viện tuyến
Trung ƣơng, địa phƣơng một cách hợp lý; xây dựng các tuyến bệnh viện khu vực để
giảm lƣợng bệnh nhân đổ về các bệnh viện tuyến Trung ƣơng gây tình trạng quá tải;
xây dựng các khu y tế chuyên sâu có công nghệ cao, có thiết bị y tế hiện đại, phát
triển mạng lƣới y học dự phòng trong toàn quốc; nâng cấp mạng lƣới y tế cơ sở ở
vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, tiến hành các chƣơng trình y tế quốc gia, ….
Còn các dịch vụ công gắn với ngƣời bệnh nhƣ chi thƣờng xuyên trong khám chữa
bệnh, điều trị cung cấp thuốc men, hoá chất, vật tƣ y tế để chăm sóc, điều dƣỡng
ngƣời bệnh, … thì ngƣời bệnh tự trả bằng nguồn thu DVYT và tiến dần thay thế
việc chi trả này bằng BHYT toàn dân để các thành phần kinh tế ngoài Nhà nƣớc
đƣợc quyền và có nghĩa vụ tham gia.
Ba là, quy hoạch lại hệ thống y tế cơ sở và các bệnh viện trong toàn quốc theo
tiêu chí về chính sách cơ chế tài chính, nhằm mục tiêu huy động toàn bộ các nguồn
lực cho phát triển ngành y tế, từng bƣớc tiến tới sự công bằng trong việc chăm sóc
và hƣởng thụ các dịch vụ y tế cho toàn bộ các tầng lớp dân cƣ trong xã hội. Phân
loại các bệnh viện theo các loại hình nhƣ sau:
158
Loại hình bệnh viện công lập miễn phí: Là nhóm các bệnh viện do cơ quan
nhà nƣớc quản lý, vận hành theo cơ chế nhà nƣớc bao cấp toàn bộ chi phí vận hành
bệnh viện và chi phí cho bệnh nhân. Bệnh viện phục đối tƣợng bệnh nhân có thẻ
BHYT nhƣng không có khả năng đồng chi trả và các đối tƣợng ngƣời nghèo, ngƣời
tàn tật, không nơi nƣơng tựa, ngƣời không có khả năng chi trả phí dịch vụ y tế, ….
Tại các bệnh viện này, ngoài việc đƣợc NSNN cấp phát toàn bộ còn có chính sách
để các tổ chức, cá nhân có lòng hảo tâm, thiện nguyện tham gia vào công tác chăm
sóc hoặc tài trợ kinh phí cho hoạt động của bệnh viện và nguồn kinh phí tài trợ này
không phải chịu nghĩa vụ nộp thuế theo luật định. Đối tƣợng các bệnh viện chuyển
đổi sang mô hình này là các bệnh viện công lập chƣa tự chủ hoặc tự chủ một phần
kinh phí chi thƣờng xuyên hiện nay.
Loại hình bệnh viện doanh nghiệp phi lợi nhuận: Đối tƣợng để chuyển đổi
sang mô hình này là các bệnh viện công lập tự chủ toàn bộ nguồn kinh phí chi
thƣờng xuyên và các bệnh viện tự chủ toàn bộ kinh phí thƣờng xuyên và kinh phí
phát triển hiện nay. Các bệnh viện này phục vụ cho mọi đối tƣợng bệnh nhân đến
KCB tự chi trả phí dịch vụ KCB hoặc BHYT chi trả. Giá DVYT tại các bệnh viện
này do nhà nƣớc quản lý và đƣợc xây dựng theo tiêu chí lấy thu bù chi và cộng
thêm một phần (có thể là 8% hoặc 10%) để lập quỹ phát triển. Đây là nhóm các
bệnh viện do nhà nƣớc quản lý, hoạt động theo mô hình doanh nghiệp trong cơ chế
thị trƣờng, không phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo luật định, nhƣng phải đảm
bảo đúng định hƣớng XHCN là không nhằm mục tiêu lợi nhuận, không tạo ra giá trị
thặng dƣ và luôn đảm bảo công bằng - hiệu quả - phát triển.
Loại hình bệnh viện hợp tác công tƣ: Nhóm bệnh viện này hoạt động theo mô
hình doanh nghiệp tƣ nhân, bệnh viện công lập chỉ tham gia hỗ trợ về chuyên môn y
tế nhằm giúp các bệnh viện tƣ nâng cao tay nghề, thu hút bệnh nhân để giảm tải cho
các bệnh viện doanh nghiệp phi lợi nhuận. Tại các bệnh viện này giá dịch vụ y tế, tỉ
lệ phân chia lợi nhuận sẽ đƣợc xây dựng theo thỏa thuận giữa bệnh viện công và
nhà đầu tƣ tƣ nhân, theo phƣơng thức hợp tác hai bên cùng có lợi và có sự kiểm tra,
giám sát và khống chế mức giá trần tối đa của nhà nƣớc. Bệnh viện đảm bảo toàn bộ
159
kinh phí hoạt động, không có sự bao cấp của Nhà nƣớc, tham gia đầy đủ nghĩa vụ
nộp thuế theo luật định và phục vụ cho mọi đối tƣợng bệnh nhân đến KCB phải chi
trả phí dịch vụ y tế.
Loại hình bệnh viện tƣ nhân: Là các bệnh viện hoạt động theo mô hình doanh
nghiệp tƣ nhân, Nhà nƣớc chỉ quản lý về chuyên môn nhiệp vụ. Tại các bệnh viện
này giá các dịch vụ y tế sẽ đƣợc xây dựng theo cơ chế thị trƣờng, bệnh viện tự chịu
trách nhiệm về giá dịch vụ y tế và chất lƣợng phục vụ ngƣời bệnh và phải đảm bảo
nộp đầy đủ nghĩa vụ thuế theo luật định.
Bốn là, tạo hành lang pháp lý, ban hành cơ chế, chính sách tạo điều kiện để
doanh nghiệp, tổ chức xã hội và tƣ nhân trực tiếp tham gia cung cấp các dịch vụ y
tế, hành nghề y tế tƣ nhân dƣới sự hƣớng dẫn, hỗ trợ và kiểm tra, kiểm soát của các
cơ quan hành chính Nhà nƣớc. Thực hiện thí điểm một số cơ chế tài chính mới nhƣ:
Các bệnh viện, cơ sở y tế có giƣờng bệnh, trung tâm y tế, … trên cơ sở xác
định nhiệm vụ phải thực hiện để nhận mức hỗ trợ tài chính từ NSNN, phần còn lại
do các đơn vị tự trang trải. Đối với các cơ sở y tế ở miền núi, vùng nghèo, các bệnh
viện chữa các bệnh xã hội nhƣ phong, lao, tâm thần, bệnh viện trẻ em, … NSNN
đảm bảo cấp đủ kinh phí.
Xây dựng các cơ chế khuyến khích các nhà đầu tƣ trong nƣớc, nƣớc ngoài đầu
tƣ phát triển các cơ sở khám chữa bệnh có chất lƣợng cao ở các thành phố, khu
công nghiệp. Khuyến khích liên doanh và đầu tƣ trực tiếp của nƣớc ngoài vào các
cơ sở khám chữa bệnh theo yêu cầu để thu hút dân cƣ có thu nhập cao tự trang trải
chi phí khám chữa bệnh.
Xây dựng mô hình hợp tác công tƣ, với mô hình này nhà nƣớc khuyến khích
các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc xây dựng các bệnh viện hiện đại và hợp tác về
chuyên môn kỹ thuật với các cơ sở khám chữa bệnh công lập uy tín để nhằm giảm
tải cho các cơ sở khám chữa bệnh công lập, đồng thời tăng công xuất khai thác
giƣờng bệnh cho các nhà đầu tƣ.
160
3.2.5. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực
Trong bối cảnh hiện nay khi nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn, chiến lƣợc
về tài chính cần đặc biệt chú trọng tới việc sử dụng hiệu quả nguồn tài chính hiện
có, để mang lại nhiều giá trị về sức khỏe hơn cho ngƣời dân. Giá trị các nguồn lực
hiện có cho CSSK của Việt Nam vẫn có thể đƣợc cải thiện đáng kể nếu giải quyết
đƣợc các vấn đề hạn chế hiệu quả sử dụng của mọi nguồn lực. Một số đề xuất về
các giải pháp để nâng cao hiệu nguồn lực bao gồm:
Thứ nhất, tiến hành nghiên cứu làm rõ tình trạng lãng phí nguồn lực trong
ngành y tế hiện nay và các nguyên nhân chủ yếu, làm cơ sở để đề ra các giải pháp
dài hạn và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cơ quan quản lý y tế ở tất cả các
cấp, từ trung ƣơng đến cơ sở. Thực hiện đổi mới các phƣơng thức thanh toán, kết
hợp ba phƣơng thức thanh toán là thanh toán theo định suất, thanh toán theo dịch vụ
và thanh toán theo trƣờng hợp bệnh một cách phù hợp. Hoàn thiện phƣơng thức
thanh toán theo định suất, để tiếp tục mở rộng việc thực hiện phƣơng thức thanh
toán này cho các cơ sở đăng ký KCB ban đầu. Đẩy nhanh việc thí điểm các phƣơng
thức thanh toán khác nhƣ chi trả theo kết quả, chi trả theo nhóm chẩn đoán. Rà soát
các gói quyền lợi về dịch vụ và danh mục thuốc trên cơ sở các tiêu chí nghiêm ngặt,
chú trọng sử dụng nghiên cứu hiệu quả chi phí trong lựa chọn dịch vụ thanh toán
BHYT.
Thứ hai, tăng cƣờng năng lực nghiên cứu về công nghệ y tế, học hỏi kinh
nghiệm quốc tế trong khu vực và trên thế giới trong lĩnh vực đánh giá và ứng dụng
kết quả đánh giá công nghệ y tế trong cung cấp bằng chứng cho việc lựa chọn thuốc
và trang thiết bị y tế phù hợp, có tính hiệu quả chi phí.
Đẩy mạnh sử dụng thuốc phù hợp: Ban hành hƣớng dẫn điều trị quốc gia,
đào tạo liên tục nâng cao hiểu biết cho cán bộ kê đơn và cán bộ dƣợc, tuyên truyền
kiến thức về sử dụng thuốc an toàn hợp lý cho ngƣời dân.
Tăng cƣờng hiệu quả các biện pháp kiểm soát giá thuốc trong đó có việc
triển khai đồng bộ và mạnh mẽ chính sách thuốc gốc và nghiên cứu mô hình cung
ứng thuốc tập trung. Cần tiến hành minh bạch hóa giá thuốc và giá dịch vụ y tế
161
đồng thời thiết lập hệ thống theo dõi giá thuốc, giá dịch vụ y tế trên toàn hệ thống
thanh toán BHYT.
Thứ ba, nâng cao chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực cho y tế. Đẩy mạnh công
tác nâng cao tay nghề của nhân viên ngành y tế tại các trƣờng đào tạo: Tăng giờ đào
tạo thực hành lâm sàng cho sinh viên; kết hợp đào tạo chặt chẽ giữa hệ thống các
bệnh viện và hệ thống các trƣờng trƣờng y, dƣợc; xây dựng các phòng học mô
phỏng với các thiết bị hiện đại theo kịp khu vực để sinh viên ngành y có điều kiện
học tập và ngay sau khi ra trƣờng có thể hành nghề một cách tự tin và đạt chất
lƣợng theo chuẩn quốc tế.
Công tác đào tạo lại và đào tạo liên tục cho nhân viên y tế tại các cơ sở khám
chữa bệnh phải đƣợc xem nhà nhiệm vụ bắt buộc, thƣờng quy tại các bệnh viện.
Hàng năm các bệnh viện phải trích một nguồn kinh phí nhất định dành cho công tác
đào tạo lại và đào tạo liên tục theo các chƣơng trình trong và ngoài nƣớc, để nâng
cao trình độ chuyên môn cho nhân viên y tế một cách đồng bộ trong toàn quốc,
giảm thiểu sự chênh lệch về chuyên môn theo từng tuyến kỹ thuật nhƣ hiện nay.
Bên cạnh việc đào tạo để hoàn thiện và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, ngành y tế cũng cần phải tiến hành các phong trào học tập, nâng cao y đức của
ngƣời thầy thuốc một cách sâu rộng đến toàn thể viên chức trong ngành. Ngành y tế
cấp thiết phải xây dựng văn hóa tiếp xúc với bệnh nhân; văn hóa ứng xử giữa đồng
nghiệp; văn hóa trong trang phục nhằm tạo vẻ đẹp hình thức, tâm hồn và uy tín của
cán bộ y tế; thành lập ban chỉ đạo thực hiện nâng cao y đức từ các cơ quan Bộ đến
các đơn vị; thành lập hội đồng đạo đức tại các đơn vị để xây dựng phƣơng hƣớng
hành động nâng cao y đức tại đơn vị, đồng thời kịp thời xử lý các trƣờng hợp cụ thể.
162
TÓM TẮT CHƢƠNG 3
Quan điểm định hƣớng để hoàn thiện chính sách tài chính cho sự nghiệp phát
triển y tế công ở Việt Nam, đƣợc xác định dựa trên các căn cứ nhƣ: Yêu cầu phát
triển của sự nghiệp y tế công trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN. Việc
đánh giá thực trạng các chính sách tài chính cho sự nghiệp phát triển y tế công và
dự báo những thuận lợi và khó khăn trong chính sách tài chính cho sự nghiệp phát
triển y tế công trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN.
Từ các quan điểm định hƣớng nêu trên tác giả đƣa ra các quan điểm để hoàn
thiện chính sách tài chính y tế cho sự nghiệp phát triển y tế công trong thời gian tới
là: Chính sách tài chính y tế phải hƣớng tới CSSK bằng những nguồn lực tốt nhất,
nhƣng với mức chi phí ngƣời bệnh phải chi trả là thấp nhất, yếu tố hiệu quả và công
bằng xã hội là yếu tố trung tâm và có vai trò quyết định. Để thực hiện tốt chính sách
tài chính thì nguồn thu phải đƣợc đổi mới tiệm cận với sự tiến bộ của thế giới, các
khoản chi tiêu tài chính y tế hƣớng tới phục vụ cộng đồng gắn với cơ chế thị trƣờng,
giảm dần sự bao cấp của nhà nƣớc. Chính sách tài chính y tế phải điều tiết, phân bổ
nguồn lực, quản lý chất lƣợng dịch vụ y tế và giá dịch vụ y tế hƣớng tới sự phát
triển bền vững của sự nghiệp y tế công.
Mục tiêu chung của ngành y tế là CSSK nhân dân, là hoạt động nhân đạo, trực
tiếp bảo đảm nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đầu tƣ
cho sức khỏe là đầu tƣ phát triển. Nên cần tăng cƣờng nhận thức của các cấp lãnh
đạo Đảng, Nhà nƣớc về vai trò và nội dung của cơ chế tài chính trong hoạch định
chiến lƣợc phát triển sự nghiệp y tế, góp phần thực hiện công bằng trong CSSK,
giảm tỷ trọng ngân sách tƣ trong chi tiêu cho CSSK, Nhà nƣớc cần tăng chi công
cho sự nghiệp y tế. Phát triển nhanh và vững chắc BHYT toàn dân và coi đây là
nguồn thu chính thay cho viện phí, hạn chế dần hình thức chi trả viện phí trực tiếp
từ tiền túi của ngƣời dân. Đổi mới cơ chế tài chính mở rộng quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm trong các cơ sở y tế công lập, đẩy mạnh công tác xã hội hoá về y tế để
xác định đúng trách nhiệm của xã hội, cộng đồng và huy động mọi nguồn lực từ
cộng đồng.
163
Từ hƣớng hoàn thiện chính sách tài chính cho phát triển sự nghiệp y tế công
trong thời gian tới tác giả đề xuất một số giải nhóm giải pháp nhƣ: Nhóm giải pháp
đối với các cơ quan quản lý nhà nƣớc; nhóm giải pháp cho tăng nguồn thu; nhóm
giải pháp đổi mới phƣơng thức chi trả; nhóm giải pháp đổi mới cơ chế tài chính;
nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Tác giả đề xuất năm nhóm giải pháp về chính sách tài chính cho phát triển sự
nghiệp y tế công, với mong muốn sẽ đƣợc góp phần làm tăng sự công bằng và hiệu
quả trong công tác CSSK nhân dân. Đặc biệt là nhóm giải pháp đổi mới cơ chế tài
chính, cần quy hoạch lại hệ thống y tế cơ sở và các bệnh viện trong toàn quốc theo
tiêu chí về chính sách chi trả dịch vụ y tế cho ngƣời bệnh. Việc quy hoạch này
nhằm mục đích huy động đƣợc toàn bộ các nguồn lực trong xã hội cho sự nghiệp
pháp triển y tế và nâng cao tính công bằng về CSSK trong mọi tầng lớp dân cƣ. Các
nhóm bệnh viện đƣợc đề xuất gồm: Bệnh viện công lập không thu phí; bệnh viện từ
thiện; bệnh viện công lập có thu; bệnh viện hợp tác công tƣ; bệnh viện tƣ nhân.
164
KẾT LUẬN
Trong lý luận kinh tế, có thể hiểu bản chất của tài chính là hệ thống các quan
hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hình thành và phân phối các quỹ tiền tệ trong
nền kinh tế quốc dân nhằm đáp ứng nhu cầu tích luỹ và tiêu dùng của các chủ thể
trong nền kinh tế.
Để điều tiết kinh tế, nhà nƣớc phải kết hợp các chức năng của tài chính: Huy
động, phân phối và giám đốc. Từ đó, tài chính có các chức năng cụ thể: Xác lập và
tăng cƣờng các quan hệ kinh tế - xã hội; tập trung, tích lũy và cung ứng vốn cho các
nhu cầu xây dựng và bảo vệ đất nƣớc; hình thành quan hệ tích lũy, tiêu dùng hợp lý
và đảm bảo an sinh xã hội.
Tài chính y tế là các quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành và phân
phối các quỹ tiền tệ phục vụ sự nghiệp y tế trong toàn bộ xã hội nhằm đáp ứng nhu
cầu đầu tƣ cơ sở vật chất, đội ngũ y, bác sỹ để đảm bảo việc phòng, khám chữa
bệnh cho ngƣời dân.
Tài chính y tế có vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội.
Một mặt nó huy động và phân bổ các nguồn tài chính hợp lý cho sự nghiệp y tế, mặt
khác nó góp phần đảm bảo công bằng trong khám chữa bệnh trong xã hội.
Chính sách tài chính y tế là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nguyên
tắc và các công cụ, biện pháp thích hợp mà chính phủ một nƣớc sử dụng để huy
động các nguồn lực tài chính đảm bảo phát triển sự nghiệp y tế nƣớc mình, phù hợp
với chiến lƣợc chăm sóc sức khỏe ngƣời dân và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nƣớc.
Nội dung của những chính sách tài chính y tế bao gồm nội dung chính sách
huy động các nguồn tài chính cho sự nghiệp y tế; nội dung chính sách phƣơng thức
chi trả dịch vụ y tế; nội dung chính sách chi công và chi tƣ trong tổng chi xã hội cho
y tế và nội dung chính sách chi phí và giá thành các dịch vụ y tế.
165
Trong thời gian qua các chính sách tài chính y tế ở Việt Nam đã chuyển từ
cơ chế tài chính kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế tài chính y tế của nền
kinh tế thị trƣờng có sự điều tiết, quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa. Các chính sách tài chính y tế hiện nay gồm: chính sách liên quan đến NSNN,
chính sách BHYT, chính sách tài chính từ nƣớc ngoài, chính sách chi tiêu trực tiếp
từ tiền túi của hộ gia đình, chính sách huy động nguồn vốn trong xã hội và cơ chế tự
chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp của ngành y tế. Các chính sách tài chính y
tế đã mang lại những thành quả đáng tự hào cho ngành y tế nhƣ: Nguồn thu từ các
dịch vụ y tế ngày một tăng, giảm bớt gánh nặng chi thƣờng xuyên cho NSNN. Hầu
hết các bệnh viện công lập đã có thể tự chủ đƣợc phần kinh phí chi thƣờng xuyên,
một số ít các bệnh viện công đã tự chủ đƣợc cả phần kinh phí đầu tƣ phát triển. Đặc
biệt là sự ra đời của luật BHYT đã mang lại nhiều quyền lợi trong CSSK và từng
bƣớc nâng cao tính công bằng trong hƣởng thụ các dịch vụ y tế của ngƣời dân. Tỷ lệ
ngƣời dân tham gia BHYT tính đến đầu năm 2016 là 72% dân số.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc, các chính sách tài chính y tế vẫn còn
còn nhiều hạn chế, nhƣ tỷ trọng chi tiêu trực tiếp tiền túi của hộ gia đình cho y tế
còn khá cao so với ngân sách công trong tổng chi xã hội cho sự nghiệp y tế; BHYT
chƣa bao phủ đƣợc toàn dân, tỷ lệ ngƣời dân tự nguyện tham gia BHYT chƣa cao,
NSNN vẫn còn phải bao cấp mua thẻ BHYT cho nhiều đối tƣợng khác nhau; Nguồn
thu cho sự nghiệp phát triển y tế công có tăng trong các năm gần đây, nhƣng không
đủ để đầu chi cho đầu tƣ phát triển. Đời sống cán bộ, viên chức ngành y tuy đã đƣợc
cải thiện rất nhiều, nhƣng vẫn còn chƣa cao. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải
hoàn thiện hơn nữa chính sách tài chính y tế nhằm gia tăng tỷ trọng ngân sách công
cho sự nghiệp y tế. Giảm tỷ trọng chi tiêu tiền túi của ngƣời dân cho y tế, từng bƣớc
nâng cao tính công bằng trong CSSK cho ngƣời dân theo tinh thần xây dựng xã hội
công bằng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Dựa trên các căn cứ, quan điểm, mục tiêu và hƣớng hoàn thiện chính sách tài
chính y tế ở nƣớc ta trong thời gian tới, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
chính sách tài chính cho phát triển sự nghiệp y tế công theo năm nhóm giải pháp:
166
Nhóm giải pháp đối với cơ quan quản lý nhà nƣớc là tăng cƣờng nhận thức của các
cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc về vai trò và nội dung của cơ chế tài chính trong
hoạch định chiến lƣợc phát triển sự nghiệp y tế; hoàn thiện hệ thống pháp luật và
tăng cƣờng kiểm tra giám sát, chống trào lƣu thƣơng mại hóa trong hoạt động y tế;
thành lập một cơ quan ngang bộ, thực hiện chức năng trọng tài cho các hoạt động
giữa cơ quan BHYT và cơ sở KCB. Nhóm giải pháp tăng nguồn thu: Tăng chi
NSNN cho y tế gắn liền với việc phân bổ nguồn lực một cách hợp lý; đa dạng hóa
các hình thức bảo hiểm và chi trả BHYT; xây dựng giá dịch vụ y tế theo hƣớng lấy
thu bù chi và có tích lũy; huy động mọi nguồn vốn của xã hội cho sự nghiệp phát
triển y tế công. Nhóm giải pháp đổi mới phƣơng thức chi trả: Xây dựng chƣơng
trình tổng thể về đổi mới phƣơng thức chi trả dịch vụ KCB;đẩy mạnh tiến trình
chuyển việc cấp phát NSNN thông qua các cơ sở cung ứng dịch vụ sang hỗ trợ trực
tiếp cho ngƣời sử dụng dịch vụ. Nhóm giải pháp đổi mới cơ chế tài chính, cần quy
hoạch tổng thể lại hệ thống các bệnh viện trong toàn quốc theo hƣớng công, tƣ riêng
biệt. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sự dụng nguồn nhân lực: cần nghiên cứu rõ
tình trạng lãng phí nguồn lực hiện nay; đào tạo nâng cao tay nghề và y đức cho nhân
viên ngành y tế và cả sinh viên các trƣờng y xứng đáng với lời dạy của Bác “Lƣơng
y nhƣ từ mẫu”.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Tác giả luận án (2014). Các giải pháp tài chính nhằm nâng cao tính công bằng
trong sự nghiệp y tế Việt Nam. Tạp chí Phát triển nguồn nhân lực. Số 5 (42),
trang 52 – 55.
2. Tác giả luận án (2015). Bảo hiểm y tế trong tiến trình đổi mới cơ chế tài chính
y tế đảm bảo công bằng, hiệu quả. Tạp chí Kinh tế và Dự báo. Số 18 (9/2015),
trang 45 – 47.
3. Tác giả luận án (2015). Bàn về chính sách tài chính y tế trong sự nghiệp chăm
sóc sức khỏe nhân dân. Tạp chí Kinh tế và Dự báo. Số 19 (10/2015), trang 26 –
28.
4. Tác giả luận án (2015). Giảm chi trả trực tiếp từ hội gia đình hƣớng đến công
bằng trong y tế. Tạp chí Kinh tế và Dự báo. Số 20 (10/2015), trang 6– 8.
i
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Adam Smith, Của cải của các dân tộc (Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội,
1997). Sách dịch từ tác phẩm An inquiry into the nature and causes of the
wealth of nations, Adam Smith, 1776).
2. Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Thống kê Bảo hiểm y tế 2008 - 2012 (2013)
3. Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Số liệu ước tính từ thu chi BHXH 2007 (2007).
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Các phương thức cung cấp nguồn vốn ODA và tăng
cường hiệu quả viện trợ, Các sáng kiến đã, đang và sẽ triển khai tại Việt Nam
theo Phương thức Hỗ trợ Chương trình và Hỗ trợ Ngân sách (tháng 9/2007).
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Cơ sở dữ liệu DAD (Development Assistance Data),
(2008), http://dad.mpi.gov.vn/dad
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Số liệu về tổng nợ quy đổi của Việt Nam hiện nay
(2007).
7. Bộ Tài Chính. Báo cáo trình bày của Bộ Tài chính, Tham luận về Chính sách
tài chính hướng tới mục tiêu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân
(Tài liệu hội thảo tài chính y tế do Ban Khoa giáo Trung ƣơng tổ chức
29/09/2006, 2006).
8. Bộ Y Tế, Báo cáo chung tổng quan ngành y tế Việt Nam (2008).
9. Bộ Y Tế, Báo cáo chung tổng quan ngành y tế Việt Nam (2009).
10. Bộ Y Tế, Báo cáo chung tổng quan ngành y tế Việt Nam (2010).
11. Bộ Y Tế, Báo cáo chung tổng quan ngành y tế Việt Nam (2011).
12. Bộ Y Tế, Báo cáo chung tổng quan ngành y tế Việt Nam (2012).
13. Bộ Y Tế, Báo cáo chung tổng quan ngành y tế Việt Nam (2013).
14. Bộ Y Tế, Báo cáo chung tổng quan ngành y tế Việt Nam (2014).
15. Bộ Y Tế, Báo cáo thực hiện tự chủ theo nghị định 43/2006/NĐ-CP giai đoạn
2006-2013 (2014).
ii
16. Bộ Y Tế, Báo cáo thực trạng và giải pháp tăng cường quản lý ODA do Bộ Y
tế quản lý năm 2013 (2013).
17. Bộ Y Tế, Báo cáo Y tế Việt Nam 2006: Công bằng, hiệu quả, phát triển trong
tình hình mới. (Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 2007).
18. Bộ Y Tế, Chăm sóc sức khỏe nhân dân theo định hướng công bằng và hiệu
quả, (Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 2001).
19. Bộ Y Tế, Đánh giá tác động của việc thực hiện tự chủ tài chính bệnh viện đối
với cung ứng và chi trả dịch vụ y tế (2013).
20. Bộ Y Tế, Đổi mới cơ chế tài chính y tế - Thực trạng và giải pháp (Hội nghị
Khoa học Kinh tế Y tế lần thứ nhất, Hà Nội, 2010).
21. Bộ Y Tế, Kỷ yếu Hội nghị “Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh năm
2012", (Hà Nội, 2012).
22. Bộ Y Tế, Một số bài học kinh nghiệm qua triển khai các dự án tài trợ liên
quan đến chăm sóc sức khỏe ban đầu (2005).
23. Bộ Y Tế, Nhóm sáng kiến chung về y tế (JHPI), Nghiên cứu hệ thống bệnh
viện (2007).
24. Bộ Y Tế, Thực trạng và giải pháp đổi mới tài chính y tế Việt Nam theo hướng
công bằng và hiệu quả (2010).
25. Bộ Y Tế, Tổ chức Y tế Thế giới, Kinh tế y tế (Nhà xuất bản Y học, Hà Nội,
2001).
26. Bộ Y Tế và Tổ chức Y tế Thế giới, Tài khoản y tế quốc gia thực hiện ở Việt
Nam thời kỳ 2008-2010 (Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội 2011).
27. Nguyễn Thị Cành, Tài Chính công (Nhà xuất bản ĐHQG TP.HCM, TP.HCM,
2006).
28. Chính Phủ, Quy hoạch phát triển hệ thống y tế Việt Nam đến năm 2020 và
định hướng đến năm 2030 (Hà Nội, 2012).
29. Nguyễn Thị Kim Chúc, Kinh tế y tế và Bảo hiểm y tế. (Nhà xuất bản Y học,
Hà Nội, 2007).
iii
30. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội (1996).
31. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
(Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1991).
32. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng Thời kỳ đổi mới và hội
nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X) (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội).
33. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc XI (Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội).
34. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khoá X (Nhà xuất bản NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008).
35. Trƣơng Việt Dũng - TS. Nguyễn Duy Luật, Bài giảng quản lý và chính sách y
tế, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội (2002).
36. Hội đồng Trung ƣơng Chỉ đạo biên soạn, Giáo trình Quốc gia các môn khoa
học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (Giáo trình Kinh tế học Chính trị
Mác –Lênin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999).
37. Hội LQ, Định hướng sử dụng ODA (2007).
38. Phạm Mạnh Hùng, Tài chính y tế một trong những yếu tố quan trọng nhất để
đảm bảo một nền y tế mang tính công bằng, góp phần an sinh xã hội. (Bộ Y
tế, 2010).
39. Kornai Janos và Karen Eggleston, Chăm sóc sức khỏe cộng đồng, phúc lợi,
lựa chọn, và đoàn kết trong chuyển đổi, NXB Văn hóa Thông tin (2002).
40. Liên minh nghiên cứu chính sách và hệ thống y tế, Tổ chức Y tế Thế Giới,
Trƣờng Đại học Y tế công cộng, Sự lựa chọn hợp lý - nâng cao năng lực cho
qua trình chính sách y tế dựa trên bằng chứng, (Nhà xuất bản Y học, Hà Nội,
2009).
41. Luật BHYT, Luật số 25/2008/QH12 của Quốc Hội nƣớc Cộng Hòa XHCN
Việt Nam (2008).
iv
42. Ngân hàng Thế giới, Việt Nam Quản lý chi tiêu công để tăng trưởng và giảm
nghèo- Đánh giá tổng hợp chi tiêu công đấu thầu mua sắm công và trách
nhiệm tài chính 2004, Tập 2: Các vấn đề chuyên ngành. (Nhà xuất bản Tài
Chính, Hà Nội, 2004).
43. Nhóm hợp tác hành động vì công bằng sức khỏe ở Việt Nam (PAHE). Công
bằng sức khỏe Việt Nam góc nhìn xã hội dân sự (Nhà xuất bản Lao Động, Hà
Nội, 2011).
44. Nhóm tác giả, Giáo trình tài chính học (Trƣờng cao đẳng Kinh tế - Kế hoạch
Đà Nẵng, 2014).
45. Peter Barnes, Chủ nghĩa tư bản phiên bản 3.0 (Nhà xuất bản Trẻ, 2007).
46. Nguyễn Xuân Phong, Giới thiệu một số tác phẩm của C. Mác, Ph. Ăngghen và
V.I. Lênin về chính trị, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội
(2011).
47. Trình Ân Phú, Kinh tế chính trị học hiện đại (Nhà xuất bản Đại học Kinh tế
quốc dân, Hà Nội, 2007).
48. Nguyễn Thị Kim Phƣơng, Tài chính y tế Việt Nam giai đoạn 1999-2008 (Bộ Y
tế, 2010).
49. Sử Đình Thành, Bùi thị Mai Hoài, Lý thuyết tài chính công.(Nhà xuất bản Đại
Học Quốc Gia, 2009).
50. Sử Đình Thành - Vũ Thị Minh Hằng, Nhập môn Tài chính - Tiền tệ. (Nhà xuất
bản Lao động xã hội, Hà Nội, 2008).
51. Thời báo Kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2012 - 2013, Việt Nam và Thế giới
(2013).
52. Trần Đình Ty, Quản lý tài chính công (Nhà xuấ bản Lao Động, Hà Nội, 2003).
53. Báo cáo của Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội số 118/BC-UBTVQH12 ngày
13/5/2008 về Kết quả giám sát thực hiện chính sách pháp luật về xã hội hóa
công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân (2008).
v
54. Báo cáo của Ủy Ban Thƣờng Vụ Quốc Hội - Viện nghiên cứu lập pháp về Bảo
hiểm y tế toàn dân - thực trạng và kiến nghị (2013).
55. Nghị định của Chính phủ số 95-CP ngày 27/08/1994 về việc thu một phần
viện phí (1994).
56. Nghị định của Chính phủ số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/08/1999 về chính sách
khuyến khích xã hội hóa với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn
hóa, thể dục thể thao (1999).
57. Nghị định của Chính phủ số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài
chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu (2002).
58. Nghị định của Chính phủ số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/05/2005 Ban hành Điều
lệ Bảo hiểm y tế (2005).
59. Nghị định của Chính phủ số 43/2006/NĐ-CP, ngày 25/04/2006, về việc quy
định quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập (2006).
60. Nghị định của Chính phủ số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 ban hành quy
chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (2006).
61. Nghị định của Chính phủ số 105/2008/NĐ-CP, ngày 16/9/2008, Quy định mức
trợ cấp, phụ cấp ƣu đãi đối với ngƣời có công với cách mạng (2008).
62. Nghị định của Chính phủ số 16/2015/NĐ-CP, ngày 14/02/2015 về quy chế tự
chủ của đơn vị sự nghiệp công lập (2015).
63. Nghị quyết của Chính phủ số 90/CP, ngày 21/08/1997 về phƣơng hƣớng và
chủ trƣơng xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao
(1997).
64. Nghị quyết của Chính phủ số 05/2005/NQ-CP, ngày 18/04/2005 về đẩy mạnh
xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao (2005).
65. Nghị quyết của Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 3, số 18/2008/NQ-QH12 ngày
03/06/2008 về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật xã hội hoá để nâng
cao chất lƣợng chăm sóc sức khoẻ nhân dân (2008).
vi
66. Nghị quyết 40/NQ-CP ngày 9/8/2012 Ban hành chƣơng trình hành động của
Chính phủ thực hiện thông báo kết luận của Bộ Chính Trị về đề án "Đổi mới
cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một
số loại hình dịch vụ sự nghiệp công (2012).
67. Pháp lệnh của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội Số 07/2003/PL-UBTVQH11 ngày
25/02/2003 về hành nghề y, dƣợc tƣ nhân (2003).
68. Quyết định 59/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tƣớng Chính phủ về
ban hành định mức phân bổ dự toán chi thƣờng xuyên NSNN năm 2011
(2010).
69. Quyết định 797/QĐ-TTg ngày 26/6/2012 về việc nâng mức hỗ trợ đóng
BHYT cho ngƣời thuộc gia đình cận nghèo (2012).
70. Quyết định 122/2013/QĐ-TTg ngày 10/01/2013 của Thủ tƣớng Chính phủ phê
duyệt chiến lƣợc quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
giai đoạn 2010-2020 tầm nhìn 2030 (2013).
71. Quyết định 705/QĐ-TTg ngày 8/5/2013 về nâng cao mức hỗ trợ đóng BHYT
cho một số đối tƣợng thuộc hộ gia đình cận nghèo (2013).
72. Quyết định của Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ số 1248/2007/QĐ-BKH ngày
30/10/2007 ban hành Khung theo dõi và đánh giá các chƣơng trình, dự án
ODA thời kỳ 2006-2010 (2007).
73. Quyết định của Bộ trƣởng Bộ Y tế số 370/2002/QĐ-BYT ngày 07/02/2002 về
việc ban hành Chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2001-2010, (2002).
74. Quyết định của Bộ Y tế số 2194/QĐ-BYT ngày 21/6/2005 về phê duyệt đề án
phát triển xã hội hóa bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân (2005).
75. Quyết định của Hội đồng Bộ trƣởng số 45-HĐBT ngày 24/04/1989 về việc thu
một phần viện phí (1989).
76. Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ số 117/2008/QĐ-TTg, ngày 27/8/2008,
về điều chỉnh mức đóng bảo hiểm y tế đối với các đối tƣợng thuộc diện chính
sách xã hội (2008).
vii
77. Trang Website: voer.edu.vn/Bản chất, chức năng tài chính doanh nghiệp.
78. Trang Website của Bộ Y Tế, Bộ Tài Chính, http://moh.gov.vn,
http://mof.gov.vn.
79. Trang Website: Quantri.vn/ Lý thuyết quản trị.
Tiếng nƣớc ngoài
80. Braveman P, Gruskin S. Defining Equity in Health. J Epidemiol Community
Health (2003).
81. Brumby J, Robinson M, Does Performance Budgeting Work? An Analytical
Review of the Empirical Literature, (IMF, 2005).
82. John Maynard Keynes, The general theory of employment interest anh money
(Lý thuyết chung về lãi suất, tiền tệ và việc làm), Macmillan and Co., limited
St.Martin’s street London (1936).
83. Jordan. D. Ryan, Healthcare financing for Việt Nam (2003).
84. Joseph Kutzin. Health financing policy: A guide for decision makers (2008).
85. Ke Xu, et al, Household catastrophic health expenditure: a multicountry
analysis (2003).
86. NGO Resource Center. NGO Resource Center Annual Report 2007 (2007) tại
http://www.ngocentre.org.vn/files/docs/NGO_RC_Annual_report_2007_final.
pdf.
87. Preker AS, Harding A, Innovations in Health Service Delivery: The
corporatization of public hospitals (Washington D.C, World Bank, 2003).
88. Van Doorslaer E, et al, Catastrophic payments for health care in Asia (2007).
89. WHO, Strategic Plan for Strengthening Health Systems in the WHO Western
Pacific Region (Manila, 2008).
90. WHO, Strategy on Health care financing for the countries of the Western
Pacific and South – East Asia Regions (2006 – 2010) (Manila, 2005).
viii
91. WHO, The World Health Report 2000, Health Systems: Improving
Performance. Geneva (2000).
92. Word Bank, Health Financing and Delivery in Vietnam (2008).
93. World Bank, Health Financing and Delivery in Vietnam: The Short- and
Medium-Term Policy Agenda (2008).
94. World Health Organization, Health financing a basic guide (2006).
95. World Health Organization, Health financing strategy for the Asia Pacific
region (2010-2015) (2009).
96. World Health Organization, The World Health Report 2010: Health Systems
financing- The Path to Universal Coverage (Geneva, 2010).