Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O

Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n (cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)

NGUYÔN V¡N HåI

CHÝNH S¸CH TRî GIóP X· HéI TRONG CH¡M SãC SøC KHáE T¢M THÇN T¹I VIÖT NAM

Chuyªn ngµnh : khoa häc qu¶n lý

M· sè

: 62340410

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ THỊ VÂN ANH

PGS.TS. NGUYỄN KHẮC BÌNH

Hµ Néi - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam

kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này là tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.

Hà Nội, ngày tháng năm 2017

Xác nhận của Giáo viên hướng dẫn Tác giả luận án

Nguyễn Văn Hồi

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG DANH MỤC HÌN VẼ PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................. 1 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ................. 6 1.1. Các nghiên cứu nước ngoài ............................................................................ 6 1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến sức khỏe tâm thần ........................................ 6 1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần .......... 8 1.1.3. Các nghiên cứu liên quan đến chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần ..... 10

1.2. Các nghiên cứu trong nước .......................................................................... 15 1.2.1. Các nghiên cứu liên quan đến sức khỏe tâm thần ...................................... 15 1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần ........ 16 1.2.3. Các nghiên cứu liên quan đến chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần ..... 18

1.3. Khoảng trống nghiên cứu ............................................................................. 20 1.3.1. Một số vấn đề đạt được sự nhất trí cao ...................................................... 20 1.3.2. Khoảng trống cho các nghiên cứu tiếp theo ............................................... 21

CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE TÂM THẦN ..... 22 2.1. Trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần .................................... 22 2.1.1. Sức khỏe tâm thần và chăm sóc sức khỏe tâm thần ................................... 22

2.1.2. Trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần .................................... 26

2.2. Chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần .................. 31 2.2.1. Khái niệm chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần .. 31

2.2.2. Mục tiêu và tiêu chí đánh giá chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần ..................................................................................................... 33 2.2.3. Chủ thể và đối tượng của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần ..................................................................................................... 36 2.2.4. Các chính sách bộ phận của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần ..................................................................................................... 38 2.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức

khỏe tâm thần ..................................................................................................... 42

2.3. Kinh nghiệm về chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại một số nước trên thế giới ....................................................................... 45 2.3.1. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Mỹ ........................................ 45 2.3.2. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Úc ......................................... 47

2.3.3. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Thụy Điển ............................. 49 2.3.4. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Pháp ...................................... 51 2.3.5. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Châu Phi ............................... 53

2.3.6. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Châu Á .................................. 54 2.3.7. Bài học rút ra cho Việt Nam về chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần ............................................................................................... 55

CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................... 58 3.1. Quy trình nghiên cứu ................................................................................... 58 3.2. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin .................................................... 60 3.2.1. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin thứ cấp ...................................... 60

3.2.2. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin sơ cấp ........................................ 60

CHƯƠNG IV: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE TÂM THẦN TẠI VIỆT NAM ........ 69 4.1. Thực trạng sức khỏe tâm thần và nhu cầu chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam .............................................................................................................. 69 4.1.1. Thực trạng sức khỏe tâm thần tại Việt Nam .............................................. 69 4.1.2. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam ................................... 71

4.2. Thực trạng chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam ......................................................................................................... 74 4.2.1. Chính sách trợ cấp xã hội .......................................................................... 75 4.2.2. Chính sách phát triển cơ sở bảo trợ xã hội ................................................. 84

4.2.3. Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm ................................................... 92 4.2.4. Chính sách phát triển các dịch vụ công tác xã hội ..................................... 96 4.2.5. Chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác trợ giúp xã hội ......... 102

4.3.2. Đánh giá chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam theo các chính sách bộ phận ............................................................. 117

CHƯƠNG V: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE TÂM THẦN TẠI VIỆT NAM ................................................................................................. 130 5.1. Quan điểm hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần của Nhà nước đến năm 2025 ............................................................. 130

5.1.1. Mục tiêu trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần của Nhà nước đến năm 2025 ................................................................................................... 130 5.1.2. Quan điểm hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần của Nhà nước đến năm 2025 .............................................................. 132

5.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam ....................................................................................... 133 5.2.1. Hoàn thiện chính sách trợ cấp xã hội ....................................................... 133

5.2.2. Hoàn thiện chính sách phát triển cơ sở bảo trợ xã hội ............................. 137 5.2.3. Hoàn thiện chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm ................................ 139 5.2.4. Hoàn thiện chính sách phát triển các dịch vụ công tác xã hội .................. 142 5.2.5. Hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác trợ giúp xã hội145

5.2.6. Một số giải pháp khác ............................................................................. 147

5.3. Một số kiến nghị .......................................................................................... 150 KẾT LUẬN ................................................................................................. 153 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Ý nghĩa

AP Tổ chức từ thiện Đại Tây Dương

ASXH An sinh xã hội

BHXH Bảo hiểm xã hội

BHYT Bảo hiểm y tế

BNTT Bệnh nhân tâm thần

BNV Bộ Nội vụ

BTXH Bảo trợ xã hội

BVTT Bệnh viện tâm thần

BYT Bộ Y tế

CSSKTT Chăm sóc sức khỏe tâm thần

CTXH Công tác xã hội

ICD Phân loại quốc tế về Bệnh tật

ICF Hệ thống phân loại quốc tế về Chức năng, Khuyết tật và Sức khỏe

IMF Quỹ tiền tệ quốc tế

INGO Tổ chức phi chính phủ nước ngoài

LĐTBXH Lao động, thương bình - xã hội

NCS Nghiên cứu sinh

NCVĐTT Người có vấn đề tâm thần

NKT Người khuyết tật

Chữ viết tắt Ý nghĩa

NTT Người tâm thần

NGO Tổ chức phi chính phủ

PHCN Phục hồi chức năng

QLNN Quản lý nhà nước

RNTT Rối nhiễu tâm trí

RTCCD Trung tâm nghiên cứu và đào tạo phát triển cộng đồng

SKTT Sức khỏe tâm thần

TCXH Trợ cấp xã hội

TGXH Trợ giúp xã hội

TTBTXH Trung tâm bảo trợ xã hội

UBND Ủy ban nhân dân

UNICEF Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc

VNGO Tổ chức phi chính phủ trong nước

VUSTA Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam

WB Ngân hàng thế giới

WHO Tổ chức Y tế thế giới

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Sự thay đổi nhận thức về chăm sóc sức khỏe ..................................... 25

Bảng 3.1: Mô tả mẫu thứ nhất ......................................................................... 61 Bảng 3.2: Nội dung điều tra đối với cán bộ làm việc tại Cục Bảo trợ xã hội ....... 62 Bảng 3.3: Mô tả mẫu thứ hai ........................................................................... 63

Bảng 3.4: Nội dung điều tra đối với các Trung tâm BTXH và Trung tâm nuôi dưỡng người tâm thần ..................................................................................... 63 Bảng 3.5: Mô tả mẫu thứ ba ............................................................................ 65 Bảng 3.6: Nội dung điều tra đối với các cán bộ, nhân viên làm CTXH ............... 65

Bảng 3.7: Mô tả mẫu thứ tư ............................................................................. 66 Bảng 3.8: Nội dung điều tra đối với các hộ gia đình .......................................... 67 Bảng 4.1: Số người rối loạn tâm trí tại Việt Nam năm 2015 .............................. 70 Bảng 4.2: Tình hình NTT nặng ở Việt Nam năm 2015 ...................................... 71 Bảng 4.3: Tỷ lệ giường bệnh tâm thần: so sánh Việt Nam và một số nước trên thế giới giai đoạn 2010-2015 ................................................................................ 72 Bảng 4.4: Khả năng tham gia công việc nhà và chăm sóc bản thân của đối tượng

bệnh nhân tâm thần ......................................................................................... 73 Bảng 4.5: Chế độ trợ cấp hàng tháng (trợ giúp thường xuyên) dành cho NTT ..... 76 Bảng 4.6: Quy trình thực hiện chi TCXH dành cho NTT ................................... 78

Bảng 4.7: Thống kê tỷ lệ người mắc bệnh tâm thần người được hưởng TCXH thường xuyên giai đoạn 2011-2015 .................................................................. 80 Bảng 4.8: Sự khác biệt giữa “kinh phí được duyệt theo kế hoạch” và kinh phí thực cấp trong dự án CSSKTT cộng đồng của BYT giai đoạn 2011-2015 .................. 81

Bảng 4.9: Định mức chi tiêu trung bình cho cơ sở chăm sóc bệnh nhân tâm thần tuyến tỉnh của một số địa phương trong giai đoạn 2011-2015 ............................ 82 Bảng 4.10: Đánh giá chính sách TCXH đối với NTT theo quan điểm của cán bộ

quản lý ........................................................................................................... 84 Bảng 4.11: Quy hoạch mạng lưới các cơ sở chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT giai đoạn 2012-2020 ............................................................................. 87 Bảng 4.12: Ngân sách đầu tư phát triển các cơ sở chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT giai đoạn 2011-2015 ................................................................... 89 Bảng 4.13: Đánh giá chính sách phát triển cơ sở BTXH theo quan điểm của cán bộ quản lý ...................................................................................................... 92

Bảng 4.14: Ước lượng số bệnh nhân có vấn đề sức khỏe tâm thần được dạy nghề

và tạo việc làm trên phạm vi cả nước giai đoạn 2011-2015 ................................ 94 Bảng 4.15: Đánh giá chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm cho NTT theo quan điểm của cán bộ quản lý .................................................................................. 95 Bảng 4.18: Đánh giá chính sách phát triển các dịch vụ CTXH theo quan điểm của

cán bộ quản lý .............................................................................................. 101 Bảng 4.19: Tình hình cán bộ, nhân viên, cộng tác viên CTXH ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015 ............................................................................................ 104

Bảng 4.20: Đánh giá chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH theo quan điểm của đội ngũ cán bộ, nhân viên làm CTXH ............................... 107 Bảng 4.21: Thu nhập bình quân của cán bộ, nhân viên làm CTXH tại Trung tâm CTXH thuộc Bộ LĐTBXH ............................................................................ 110

Bảng 4.22: Đánh giá chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH theo quan điểm của cán bộ quản lý ................................................................ 111 Bảng 4.23: Tình hình NTT được hưởng chính sách TGXH .............................. 112

Bảng 4.24: Diễn biến bệnh tình của đối tượng được hưởng chính sách TGXH .. 113 Bảng 4.25: Tình hình tạo việc làm cho NTT, người RNTT .............................. 114 Bảng 4.26: Đánh giá Mức độ tuân thủ chính sách của các cơ quan, đơn vị trong tổ chức thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT ................................... 115

Bảng 4.27: Đánh giá mức độ hưởng ứng, tham gia của cộng đồng đối với chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT ................................................................. 116 Bảng 4.28: Đánh giá sự hài lòng của các đối tượng chính sách ........................ 117

Bảng 4.29: Đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách TGXH trong CSSKTT ....... 118 Bảng 4.30: Đánh giá hiệu quả thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT ......... 120 Bảng 4.31: Đánh giá mức độ tiếp cận thông tin chính sách TGXH trong CSSKTT .......... 121 Bảng 4.32: Đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu của chính sách TGXH trong

CSSKTT ...................................................................................................... 122 Bảng 4.33: Đánh giá sự hỗ trợ của cấp trên đối với các cơ sở BTXH trong quá trình thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT .............................................. 124

Bảng 4.34: Đánh giá công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT đến gia đình các đối tượng chính sách ................................... 125 Bảng 4.35: Đánh giá tính kinh tế của chính sách TGXH trong CSSKTT........... 126

DANH MỤC HÌNH VẼ

Hình 2.1: Các yếu tố ảnh hưởng đến SKTT ...................................................... 24

Hình 2.2: Hệ thống TGXH trong CSSKTT ....................................................... 31 Hình 2.3: Cây mục tiêu của chính sách CSSKTT .............................................. 34 Hình 3.1: Quy trình áp dụng phương pháp nghiên cứu ...................................... 58

Hình 3.2: Khung lý thuyết nghiên cứu luận án .................................................. 59 Hình 4.1: Những hỗ trợ từ cộng đồng các gia đình hiện nay nhận được .............. 74 Hình 4.2: Hệ thống dịch vụ CTXH ở Việt Nam ................................................ 98 Hình 4.3: Mô hình các dạng dịch vụ CSSKTT của Tổ chức Y tế Thế giới ........ 100

Hình 4.4: Khó khăn của các cán bộ BTXH ..................................................... 107 Hình 4.5: Tình hình NTT được hưởng chính sách TGXH ................................ 113

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chính sách trợ giúp xã hội (TGXH) trong chăm sóc sức khỏe tâm thần (CSSKTT) là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu và giải pháp về mặt xã hội trong

chăm sóc sức khỏe tâm thần. Việt Nam hiện nay đang thiếu một chính sách quốc gia về chăm sóc sức khỏe tâm thần đúng nghĩa. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trong thời gian qua chưa có được một sự gắn nối chặt chẽ giữa hệ thống do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý với hệ thống do Bộ Y tế quản lý, ở cả tầm

phát triển các hướng dẫn quy chuẩn quốc gia và thực thi cụ thể ở tuyến địa phương. Việc ra đời Đề án 32 và Đề án 1215 của Chính phủ trên cơ sở đề xuất của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tạo một khung cảnh mới thúc đẩy cho sự hợp tác giữa các bên, đặc biệt giữa Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế.

Với định hướng chăm sóc sức khỏe của Đảng Cộng Sản Việt Nam và khuyến cáo của WHO về CSSKTT ở các nước đang phát triển vào thập niên đầu thế kỷ 21, thì toàn bộ hệ thống đều ở trong tình trạng thiếu hụt đáng kể các nguồn lực cơ bản đáp ứng với yêu cầu CSSKTT ở cả hai loại hình cơ sở BTXH và tại cộng đồng. Trong đó loại hình cơ sở BTXH tuyến tỉnh thuộc tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng các nguồn lực. Chất

lượng nhân lực đạt yêu cầu về nhiệt tình nghề nghiệp, nhưng đội ngũ này hoàn toàn không được đào tạo cơ bản về phương pháp làm việc và kiến thức, kỹ năng chuyên môn trong chăm sóc và PHCN cho người bệnh tâm thần. Hạ tầng cơ sở không được

thiết kế, trang bị và vận hành theo nguyên tắc của một cơ sở chăm sóc và PHCN cho bệnh nhân tâm thần, với quan điểm lấy bệnh nhân là trung tâm phục vụ và đảm bảo tôn trọng quyền cơ bản của người bệnh. Toàn bộ các cơ sở đánh giá đều nằm trongtình trạng thiếu các hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc cụ thể, thiếu mối quan hệ và hợp tác

chuyên môn giữa các cấp trong hệ thống cũng như với các hệ thống liên quan, đặc biệt với hệ thống do Bộ Y Tế vận hành. Thêm vào đó, nguồn tài chính ở trong tình trạng chỉ có thể đáp ứng với yêu cầu giữ bệnh nhân hơn là chăm sóc và PHCN cho bệnh nhân.

Trong 5 năm qua, hệ thống do Bộ LĐTBXH quản lý được vận hành với mục tiêu cụ thể là triển khai thực hiện các Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 và Nghị

định 13/2010/NĐ-CP ban hành ngày 27/02/2010 về chính sách trợ giúp các đối tượng BTXH, trong đó có người bệnh tâm thần. Xét đến thời điểm 2011, toàn bộ hệ thống thực hiện tương đối tốt Nghị định 13/NĐ-CP cho bệnh nhân tâm thần. Có khoảng 10.000 người tâm thần nặng đang được chăm sóc và PHCN trong hệ thống các cơ sở BTXH; giải

1

quyết trợ cấp hàng tháng cho 102.210 người năm 2008, tăng lên gần 200.000 người năm 2010. Tuy nhiên, do định nghĩa “người bệnh tâm thần” bị bó hẹp ở đối tượng bệnh nhân

điều trị tại các bệnh viện chuyên khoa tâm thần, nên sự bỏ lọt đối tượng của bên y tế cũng trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của bên hệ thống LĐTBXH quản lý.

Nhìn tổng thể, hệ thống CSSKTT của Bộ LĐTBXH và cả của Bộ Y tế đều mới chỉ tập trung vào nhóm bệnh loạn thần và bỏ lọt các nhóm đối tượng tâm thần phổ biến khác như trầm cảm, lo âu, sang chấn sau stress, rối loạn tâm thần do rượu và đặc biệt các nhóm bệnh tâm thần ở phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ, trẻ em và trẻ vị thành niên. Các nội dung trợ giúp khác đặc thù cho người tâm thần chưa được triển khai vì rất nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính đến từ thiếu vắng hệ thống tuyên truyền hiểu biết trong cả đội ngũ thực thi hệ thống và dân chúng nói chung về kiến thức cơ bản trong dự phòng, điều trị và chăm sóc PHCN cho bệnh nhân tâm thần tại cộng đồng.

Hệ thống chính sách trợ giúp xã hội trong CSSKTT đang được nâng cấp thông

qua hai Đề án quốc gia: “Đề án 32/QĐ-TTg về phát triển nghề công tác xã hội” và “Đề án 1215/QĐ-TTg về trợ giúp xã hội và phục hồi cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020”. Điều này phản ánh một sự chuyển động

tích cực từ Bộ LĐTBXH và một quyết tâm chính trị cao của Nhà nước Việt Nam trong hai năm qua vì mục tiêu công bằng và an sinh xã hội nói chung và vì người bệnh tâm thần nói riêng.

Tuy nhiên, trong hoàn cảnh thiếu hụt trầm trọng các nguồn lực, thiếu sự hợp tác giữa các bộ ngành liên quan và hai Đề án 32 và Đề án 1215 mới ở giai đoạn đầu của tiến trình xác định mô hình, nên tình trạng chung cho đến nay vẫn chưa có gì thay đổi đáng kể so với thời điểm nhóm.

Đứng trước những yêu cầu của đổi mới, đòi hỏi nghiên cứu cũng phải làm rõ các cơ sở khoa học của chính sách trợ giúp xã hội trong CSSKTT tại Việt Nam để có căn cứ rõ ràng cho việc đánh giá thực trạng chính sách.

Như vậy, xuất phát từ những lý do đã nêu trên, NCS đã lựa chọn đề tài “Chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam” làm đối tượng nghiên cứu luận án tiến sĩ với mục tiêu là tìm kiếm giải pháp hoàn thiện nhóm chính sách này tại Việt Nam trong điều kiện phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.

2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1. Mục tiêu chung

2

Trên cơ sở khoa học và thực tiễn đánh giá về thực trạng chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam, luận án đề xuất các giải pháp chủ yếu, có căn cứ khoa học rõ ràng nhằm hoàn thiện chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam định hướng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.

2.2. Mục tiêu cụ thể

Thứ nhất, xây dựng khung lý thuyết cho nghiên cứu về chính sách TGXH trong CSSKTT. Xác định những chính sách cơ bản, những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách, đồng thời làm rõ những tiêu chí để đánh giá chính sách.

Thứ hai, phân tích thực trạng chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2011 (là năm Đề án 1215 của Thủ tướng Chính phủ được ban hành) đến hết năm 2015. Từ đó, chỉ rõ những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của chính sách,

lý giải nguyên nhân dẫn tới những điểm mạnh, điểm yếu của chính sách.

Thứ ba, đề xuất các giải pháp có cơ sở khoa học nhằm hoàn thiện chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam phù hợp với điều kiện nguồn lực trong nước và bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam.

3. Câu hỏi nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án sẽ tập trung trả lời các câu hỏi

nghiên cứu sau:

- Hệ thống chính sách TGXH trong CSSKTT bao gồm những chính sách bộ

phận cơ bản nào?

- Các yếu tố nào tác động đến chính sách TGXH trong CSSKTT?

- Phương pháp nào được sử dụng để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các chính

sách bộ phận thuộc chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam?

- Thực trạng chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam hiện nay như thế nào? Điểm mạnh, điểm yếu của chính sách và nguyên nhân của những điểm mạnh,

điểm yếu?

- Cần phải có những giải pháp và kiến nghị nào nhằm hoàn thiện chính sách

TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam?

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Chính sách TGXH trong CSSKTT tại

Việt Nam.

- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt

3

Nam là một hệ thống các chính sách khá phức tạp, có mối liên hệ khá mật thiết với nhau. Trong phạm vi nghiên cứu, luận án sẽ tập trung đi sâu vào 05 chính sách cơ bản sau:

+ Chính sách trợ cấp xã hội;

+ Chính sách phát triển cơ sở bảo trợ xã hội;

+ Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm;

+ Chính sách phát triển các dịch vụ công tác xã hội;

+ Chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác trợ giúp xã hội.

- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu chính sách

TGXH trong CSSKTT trên phạm vi toàn quốc.

- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Luận án xem xét, đánh giá thực trạng chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2015; đưa ra quan điểm, định hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.

5. Quy trình nghiên cứu

Bước 1: Nghiên cứu tài liệu nhằm xác định khung lý thuyết về chính sách

TGXH trong CSSKTT.

Bước 2: Thu thập tài liệu, số liệu và tiến hành phân tích thực trạng chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2015; đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu và nguyên nhân của những điểm mạnh, điểm yếu trong chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam.

Bước 3: Trên cơ sở kết luận phân tích thực trạng, đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.

6. Tóm tắt phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên

cứu với khung nghiên cứu sẽ được trình bày cụ thể trong chương III.

7. Các kết quả nghiên cứu

7.1. Về mặt khoa học

Luận án bổ sung, làm rõ khung lý thuyết nghiên cứu chính sách TGXH trong CSSKTT dựa trên cơ sở tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước

trước đây về vấn đề này, cụ thể là:

4

Thứ nhất, xác định được 05 chính sách bộ phận cơ bản trong chính sách TGXH trong CSSKTT, bao gồm: Chính sách trợ cấp xã hội; Chính sách phát triển cơ sở bảo

trợ xã hội; Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm; Chính sách phát triển các dịch vụ công tác xã hội; Chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác trợ giúp xã hội. 05 chính sách này là 05 chính sách cơ bản, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của chính sách TGXH trong CSSKTT.

Thứ hai, luận án xác định những tiêu chí để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả, sự phù hợp của chính sách TGXH trong CSSKTT; từ đó làm cơ sở khoa học trong đánh giá chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam.

Thứ ba, luận án xác định 02 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến chính sách TGXH

trong CSSKTT, bao gồm: Nhóm yếu tố khách quan; Nhóm yếu tố chủ quan.

7.2. Về mặt thực tiễn

Luận án đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế của chính sách

TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2015; Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách đến năm 2020.

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho các nghiên

cứu tiếp theo về chính sách TGXH trong CSSKTT tại Việt Nam.

8. Bố cục của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của

luận án được chia thành 05 chương:

Chương I: Tổng quan các công trình nghiên cứu.

Chương II: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về chính sách trợ giúp xã hội

trong chăm sóc sức khỏe tâm thần.

Chương III: Phương pháp nghiên cứu.

Chương IV: Phân tích thực trạng chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức

khỏe tâm thần tại Việt Nam.

Chương V: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội trong

5

chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam.

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì trên thế giới hiện nay cứ 04 người thì có 01 người mắc phải 01 hay nhiều rối loạn tâm thần hoặc rối loạn hành vi trong suốt cuộc đời. Hiện trên thế giới có khoảng 450 triệu có các rối loạn tâm thần, trong đó 120 triệu bệnh nhân trầm cảm, 50 triệu bệnh nhân động kinh và 40 triệu bệnh nhân tâm

thần phân liệt...

Ở Việt Nam với sự phát triển của nền kinh tế thị trường mở cửa, và sự phát triển nhanh của tiến bộ kỹ thuật thông tin đã tác động mạnh mẽ đến SKTT. Chỉ tính riêng 10 bệnh tâm thần thường gặp là tâm thần phân liệt, trầm cảm, động kinh, rối loạn

lo âu, sa sút trí tuệ ở người già, loạn tâm thần sau chấn thương sọ não, chậm phát triển tâm thần, rối loạn hành vi ở thanh thiếu niên, rối loạn tâm thần do rượu, ma túy thì có khoảng 15% dân số, tương đương với khoảng 13 triệu người (Bộ Y tế - 2014). Gần

đây một số nghiên cứu có quy mô nhỏ hơn cho thấy tỷ lệ các rối loạn tâm thần khoảng 20 - 30%. Hiện SKTT được WHO xếp hạng thứ 4 trong các vấn đề sức khỏe, dự kiến đến năm 2020 SKTT sẽ được xếp hạng thứ 2 sau các bệnh về tim mạch. Nguyên nhân theo WHO là do những yếu tố sau: điều kiện cuộc sống (nghèo khổ kéo dài), thiếu

điều kiện giáo dục, ăn ở, triển vọng công ăn việc làm; công việc quá tải; các thay đổi nhanh chóng về kinh tế xã hội, xung đột chính trị; và ảnh hưởng của thiên nhiên đặc biệt là sau các thảm họa.

Tuy nhiên, đối với các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế chưa phát triển một cách toàn diện như Việt Nam thì việc nghiên cứu ban hành và triển khai các chính sách đối với người tâm thần hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập. Vấn đề này cũng được một số nhà nghiên cứu trong và ngoài nước lựa chọn. Trong đó, có thể đề

cập đến các nghiên cứu tiêu biểu sau.

1.1. Các nghiên cứu nước ngoài

1.1.1. Các nghiên cứu liên quan đến sức khỏe tâm thần

(i) “Bản đồ SKTT 2011 (Mental Health Atlas 2011)” của Tổ chức Y tế thế giới - WHO là một công trình lớn tiêu biểu. Atlas là một dự án mà WHO đã triển khai từ nhiều năm, bắt nguồn từ 2001, sau đó được tiếp tục cập nhật 2005. Atlas 2011 là phiên bản mới nhất hiện nay. Dự án này được chủ trì bởi tổng hành dinh của WHO tại

6

Geneva và được giám sát, điều phối bởi Shekhar Saxena - người phụ trách bộ phận

SKTT trong Tổ chức Y tế Thế giới. (WHO, 2011)

Atlas 2011 đã khẳng định những phát hiện từ những công trình trước đó rằng các nguồn lực hiện vẫn không đủ đáp ứng so với sự bùng phát của những rối loạn thần kinh tâm trí. Tuy nhiên, sự thiếu hụt nguồn lực không đồng đều nhau và khoảng cách

giữa nguồn lực và nơi tập trung bệnh là rất lớn tại những nước đang phát triển. Bên cạnh đó, những phát hiện tích cực cho thấy số giường bệnh tại các bệnh viện tâm thần đang giảm đi tại hầu hết các quốc gia. Phát hiện này có thể chỉ ra rằng các nước đang

giảm chăm sóc tập trung mà thay thế bằng chăm sóc tại cộng đồng theo đúng khuyến cáo của WHO.

(ii) “Chương trình hành động SKTT 2013-2020” (công bố tháng 5/2013) của WHO. Trong đó, WHO nhấn mạnh: “Các yếu tố ảnh hưởng tới SKTT không chỉ bao

gồm các đặc điểm cá nhân như khả năng kiểm soát tư duy, cảm xúc, hành vi và tương tác với người khác, mà còn bao gồm các yếu tố xã hội, văn hóa, kinh tế, chính trị, và môi trường, như chính sách quốc gia, bảo trợ xã hội, mức sống, điều kiện làm việc, và

các trợ giúp xã hội từ cộng đồng”. WHO và hầu hết các nước đều thừa nhận sự ưu việt của mô hình CSSKTT dựa vào cộng đồng và ủng hộ việc xây dựng một hệ thống CSSKTT toàn diện trong đó có chăm sóc xã hội song song với chăm sóc y tế, thường thông qua hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu (primary care) và qua hệ thống cơ sở y tế cộng đồng. (WHO, 2013)

(iii) Văn bản “Hướng dẫn về SKTT và trợ giúp tâm lý - xã hội” của WHO năm 2007. WHO đưa ra định nghĩa trợ giúp tâm lý xã hội trong SKTT là “bất cứ hoạt động

hỗ trợ nào từ địa phương hoặc bên ngoài, với mục đích bảo vệ và tăng cường sức khỏe tâm lý - xã hội và/hoặc ngăn ngừa, điều trị các rối loạn tâm thần”. Các chính sách này cung cấp các dịch vụ trợ giúp trong một số lĩnh vực chính: Trị liệu, tư vấn tâm lý - xã hội; Trợ giúp về giáo dục - đào tạo; Lao động - việc làm - thu nhập; Nhà ở - chăm sóc

tại gia; Giao thông - đi lại; Giải trí - nghệ thuật - vui chơi - thể dục thể thao; Hòa nhập xã hội. (WHO, 2007)

(iv) Bài viết “SKTT Thế giới: Một năm nhìn lại”của tác giả Vikram Patel và cộng sự, đăng trên tạp chí Lancet, số 372, năm 2008. Trong bài viết này, các tác giả điểm lại phản ứng của các tổ chức quốc tế, các quốc gia, các nhà nghiên cứu, và người thực hành trong lĩnh vực SKTT một năm sau khi Tạp chí Lancet đăng một loạt 5 bài về tình trạng CSSKTT trầm trọng ở hầu hết các nước trên thế giới. Theo các tác giả, chỉ trong 1 năm,

7

sự chú ý đến SKTT đã tăng nhiều; các tổ chức quốc tế như WHO và các chính phủ đã sử dụng các dữ liệu mà Lancet cung cấp để xây dựng chính sách, chương trình CSSKTT. Một trong các chiến lược mà các xã hội sử dụng để có thể nhân rộng dịch vụ CSSKTT

là các dịch vụ trợ giúp xã hội, bao gồm: thúc đẩy các hình thức hỗ trợ nhà ở, việc làm, liên kết xã hội, hòa nhập người bệnh tâm thần vào cộng đồng, xây dựng các chương trình CSSKTT trong trường học, bao gồm cả các chương trình phát hiện sớm lẫn giáo dục SKTT cho trẻ em, giám sát sự tôn trọng nhân quyền cho người bệnh tâm thần, vận

động quyền cho người bệnh tâm thần... (Vikram Patel, 2007)

(v) Nghiên cứu “Reform of the MOLISA Centres for persons with severe mental disorders”của tác giả Harry Minas năm 2009, đã đề cập rối loạn tâm thần là một bệnh có thể chẩn đoán được, nó gây nên những biến đổi căn bản về tư duy, cảm xúc và hành vi và làm suy yếu năng lực làm việc và năng lực thực hiện các quan hệ cá nhân thông thường của người bệnh. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, có nhiều loại khác nhau của rối loạn tâm thần, một số thể loại thường gặp như các rối loạn trầm cảm, lo âu, một số

không thường gặp lắm như bệnh tâm thần phân liệt hay rối loạn cảm xúc; tuy nhiên tất cả các bệnh tâm thần đều gây suy giảm chức năng trầm trọng đối với người bệnh, điều này thường ít khi được những người chưa bao giờ mắc bệnh tâm thần coi trọng. (Harry

Minas, 2009)

(vi) Bài viết “SKTT và chương trình nghị sự thế giới”của các tác giả Anne Becker và Arthur Kleinman, đăng trên tạp chí New England Journal of Medicine, tháng 7 năm 2013. Bài này là một bản tổng kết các kết quả nghiên cứu mới nhất về

SKTT thế giới trong những năm gần đây và chỉ ra chương trình nghị sự trong thời gian tới. Nổi bật nhất, các tác giả chỉ ra hơn 75% người có các rối loạn tâm thần nặng ở các nước chậm phát triển không được điều trị, đặc biệt ở các nước thuộc nhóm thu nhập

thấp và trung bình. Các tác giả cũng chỉ ra ở các nước này thiếu trầm trọng đội ngũ nhân lực làm việc trong CSSKTT và mô hình chăm sóc tại các bệnh viện (chủ yếu là khám, phát thuốc) vừa “không thực tế” vừa “không hợp lý”. Các tác giả cho rằng cần phát triển mô hình chăm sóc hợp tác (collaborative care) trong cộng đồng, có phân bổ

trách nhiệm, chia sẻ công việc giữa các nhân viên khác nhau - bác sĩ, nhà tâm lý, y tá, trị liệu việc làm, nhân viên CTXH. Đây cũng là các khuyến cáo của WHO và là mô hình mà các nước phát triển đang hướng tới. (Anne Becker và Arthur Kleinman, 2013)

1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần

8

(i) Báo cáo “Lồng ghép SKTT vào hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu” (xuất bản năm 2008) và báo cáo “Cải thiện hệ thống y tế và dịch vụ SKTT” (xuất bản năm 2009) của WHO kết luận rằng có một nghịch lý trong việc cung cấp dịch vụ CSSKTT trên thế giới, đó là: ở các nước có thu nhập thấp và trung bình, lẽ ra người có vấn đề về SKTT nên nhận được điều trị thông qua hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu (primary care) thì họ lại thường được điều trị ở các cơ sở CSSKTT chuyên biệt. Trong khi đó, ở

các nước phát triển (Mỹ, Đức, Ý, Nhật, Tây Ban Nha), số người được chăm sóc trong hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu ngang với số được chăm sóc ở hệ thống chuyên biệt. (WHO, 2008, 2009)

(ii) Tài liệu “Lồng ghép SKTT vào chăm sóc sức khỏe ban đầu”của WHO xuất bản năm 2008. Trong tài liệu này, WHO trình bày các cơ sở lý luận cho việc lồng ghép CSSKTT vào hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu; và minh họa bằng các chương trình lồng ghép ở 11 quốc gia khác nhau (Argentina, Úc, Belize, Brazil, Chile, Ấn Độ,

Uganda, Nam Phi, Anh, Ả Rập Xê Út, vv...). Trong khuyến nghị về cách thức lồng ghép ở mỗi nước, WHO khẳng định rằng CSSKTT qua hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu phải bao gồm cả các dịch vụ y tế lẫn các dịch vụ trợ giúp xã hội, phải có sự phối hợp để chuyển tuyến, giới thiệu người bệnh từ các cơ sở y tế tới các dịch vụ can thiệp tâm lỹ xã hội và dịch vụ cộng đồng khác nhau. (WHO, 2008)

(iii) Nghiên cứu “Mental health, Pearson Education Inc-Allyn and Bacon” của các tác giả Jerry L.Johnson và George Grant, Jr năm 2005. Tại nhiều quốc gia phát

triển trên thế giới như Mỹ, Úc, Pháp đã chuyển hướng xây dựng các Trung tâm tâm thần lớn tập trung hàng mấy ngàn giường thay thế bằng xu hướng phân tán ra nhiều trung tâm quy mô nhỏ ở các địa phương để làm cho việc điều trị, chăm sóc và PHCN cho người bệnh tâm thần gần gũi với cộng đồng và gia đình hơn. Đó là các dịch vụ tư

vấn, trị liệu tâm lý, lao động trị liệu, trợ giúp học nghề, việc làm, giải quyết trợ cấp xã hội và trợ giúp khác tại cộng đồng. (Jerry L. Johnson và George Grant. Jr, 2005)

(iv) Bài viết “SKTT ở Malaysia: Lịch sử, vấn đề hiện tại và hướng phát triển tương lai” của các tác giả Sheu Tsuey Chong, M. S. Mohamad, và A. C. Er, đăng trên tạp chí Asian Social Sciences, Số 9, quyển 6, năm 2013. Các tác giả cho biết, Malaysia đã có các Luật SKTT từ đầu thế kỷ 20 dựa trên các luật của Anh và Ấn Độ. Năm 2001, Bộ Y tế Malaysia đưa ra Luật SKTT Quốc Gia. Trong Luật này, Malaysia bắt đầu đưa

các hoạt động trị liệu tâm lý xã hội vào CSSKTT để bù đắp cho hướng điều trị tập trung chủ yếu vào khám và phát thuốc trước đây. Tuy nhiên, các tác giả không chỉ rõ các dịch vụ trợ giúp xã hội tại cộng đồng là gì, nên được thực hiện như thế nào ở Malaysia. (Sheu Tsuey Chong và ctv, 2013).

(v) Báo cáo “Mental health and integration - Provision for supporting people with mental illness: A comparison of 15 asia pacific countries” theo The Economist Intelligence Unit (EIU) (2016). EIU đã tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá mức độ

9

cam kết của 15 quốc gia trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong vấn đề chăm sóc người tâm thần tại các quốc gia này. Báo cáo tập trung vào kết quả nghiên cứu Chỉ số tích hợp y tế tâm thần Châu Á - Thái Bình Dương. Trên cơ sở các bài học từ Chỉ số

hội nhập sức khoẻ tâm thần Châu Âu năm 2014 của EIU, so sánh mức độ nỗ lực của mỗi nước trong việc thực hiện các chỉ số liên quan đến việc hội nhập các cá nhân mắc bệnh tâm thần vào xã hội.

1.1.3. Các nghiên cứu liên quan đến chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần

(i) Tài liệu “Hướng dẫn xây dựng chính sách SKTT” của WHO (xuất bản năm 2004) đưa ra các hướng dẫn cụ thể cho các nước để xây dựng chính sách SKTT và kế hoạch SKTT. Về chính sách SKTT, tài liệu này chỉ ra 7 bước cơ bản để xây dựng

chính sách là: (1) Đánh giá nhu cầu trong dân số, (2) Thu thập bằng chứng về các chiến lược hiệu quả, (3) Mời tư vấn và thương lượng, (4) Trao đổi với các quốc gia khác, (5) Đặt ra tầm nhìn, giá trị, nguyên lý và mục tiêu cho chính sách, (6) Xác định các lĩnh vực hành động, (7) Xác định vai trò và trách nhiệm chính của các thành phần

khác nhau. Trong tài liệu này, WHO khẳng định rằng chỉ có một vài nước có chính sách xã hội trong đó có đề cập riêng biệt tới SKTT, và thường thì tập trung vào việc thúc đẩy hiểu biết xã hội về SKTT. Ở một số nước, chính sách TGXH nằm dưới dạng

quy định về ngân sách khung ở cấp Trung ương cho các dịch vụ xã hội hoặc dịch vụ y tế; và để cho các cấp địa phương xin ngân sách rồi tự xây dựng chương trình TGXH. Chính vì thế, tuy không có chính sách TGXH rõ ràng nhưng các dịch vụ và chương trình TGXH cho nhóm đối tượng có vấn đề về SKTT thì tồn tại ở hầu hết các nước và rất đa dạng, nhất là các nước có thu nhập cao. (WHO, 2004)

(ii) Báo cáo “Bản đồ SKTT thế giới” của WHO (xuất bản năm 2011) cho biết ở 184 nước thì 110 nước (gần 60%) có chiến lược hoặc chính sách quốc gia về SKTT dù

mức độ phát triển của các chính sách này khác nhau - có nước có chính sách chi tiết và cập nhật, có nước vẫn dùng chính sách đã xây dựng từ thập kỷ 60. Trong tổng số này, khoảng 77% các nước có thu nhập cao có chính sách quốc gia, so với tỷ lệ 50% ở các nước có thu nhập thấp và trung bình thấp. Tương tự, xét về mặt luật pháp, 77% các

nước thu nhập cao có luật về SKTT trong khi chỉ có 38% các nước thu nhập thấp và 47% các nước có thu nhập trung bình thấp có luật về SKTT. Tuy nhiên, trong báo cáo này không đề cập đến chính sách TGXH. Báo cáo này cũng khẳng định nếu xét riêng

về chính sách TGXH trong chăm SKTT, hầu hết các nước không có văn bản pháp luật hay chính sách riêng biệt cho vấn đề này, mà thường nằm rải rác trong các văn bản chung về các vấn đề xã hội có liên quan đến ngườ có vấn đề về SKTT, ví dụ như thông qua luật giáo dục, luật về người khuyết tật, luật ASXH, luật bảo hiểm xã hội, luật trợ giúp người nghèo và người cao tuổi, các văn bản về nhân quyền, v.v... (WHO, 2011)

10

(iii) Bài viết “Cải cách dịch vụ SKTT ở Nhật”của các tác giả Hiroto Ito và Lloyd Sederer, đăng trên tạp chí Harvard Review of Psychiatry, số 7, quyển 4, năm 1999.

Trong bài viết này, các tác giả trình bày các yếu tố kinh tế và xã hội đưa đến cải cách dịch vụ SKTT ở Nhật. Theo các tác giả, Luật CSSKTT đầu tiên ở Nhật là Luật Quản chế và bảo vệ NTT, được thông qua năm 1900. Đến năm 1950, Nhật thông qua Luật vệ sinh tâm thần, theo đó bắt buộc những người có rối loạn tâm thần phải đi viện điều trị,

nhờ đó chấm dứt tình trạng giam lỏng tại nhà đối với người có rối loạn tâm thần. Một loạt các scandal vào những năm 1980 khiến Nhật đưa ra Luật SKTT vào năm 1995. Luật này thúc đẩy khái niệm “bình thường hóa” bằng cách lần đầu tiên thừa nhận người

bệnh tâm thần được coi là có khuyết tật, giống như những người có khuyết tật thể chất. Những biện pháp chăm sóc mới bao gồm phá bỏ trại tâm thần tập trung, phân loại dịch vụ, đảm bảo quyền tiếp cận dịch vụ một cách công bằng, phá bỏ các kỳ thị trong xã hội. Về cơ bản, Nhật cũng đi theo hướng chung của thế giới là tăng cường CSSKTT dựa vào

cộng đồng, tăng cường các hoạt động TGXH thay vì chỉ khám chữa bệnh bằng thuốc hoặc quản thúc bệnh nhân tại các cơ sở. (Hiroto Ito và Lloyd Sederer, 1999)

(iv) Cuốn “Khỏe hơn nhưng không khỏe mạnh: Chính sách SKTT của Mỹ từ năm 1950”của các tác giả Richard Frank và Sherry Glied năm 2006. Cuốn sách này có mục đích tổng kết về chính sách SKTT của Mỹ từ năm 1950 tới 2005. Các tác giả kết luận rằng từ năm 1950, tỷ lệ người có vấn đề về SKTT trong tổng dân số Mỹ tương đối ổn định. Cũng kể từ thập kỷ 1950, nước Mỹ đã phát triển thêm nhiều chính sách và

dịch vụ CSSKTT, đặc biệt phải kể đến việc ứng dụng khoa học và các công nghệ hiện đại vào việc tạo ra các thiết bị trợ giúp cho người có vấn đề về SKTT cũng như các chính sách bảo hiểm khuyết tật và phúc lợi như Medicaid và chương trình Hỗ trợ thu

nhập an sinh SSI trong Bộ Luật ASXH. Ở chương cuối, các tác giả cho rằng nước Mỹ cần cải cách thêm nữa cách tiếp cận chính sách và dịch vụ cho người có vấn đề về SKTT, mà cụ thể là phải dừng việc tách họ thành nhóm đối tượng đặc biệt trong chăm sóc; thay vì thế, nên chăm sóc theo hướng hòa nhập và phải thay đổi các loại hình chăm sóc. (Richard Frank và Sherry Glied, 2006)

(v) Cuốn “Chính sách và thực hành SKTT ở Châu Âu: Hướng đi tương lai trong CSSKTT”của các tác giả Martin Knapp, David McDaif, Elias Mossialos, và Graham Thornicroft năm 2007. Cuốn sách này gồm 18 chương, mỗi chương là một nghiên cứu độc lập có mục đích thảo luận về các vấn đề nổi cộm trong quá trình xây dựng chính sách SKTT ở châu Âu, nhằm tạo ra một hệ thống CSSKTT công bằng và hiệu quả hơn ở châu Âu. Trong các chương này, đặc biệt có Chương 3 (Giải quyết vấn

11

đề cô lập xã hội ở châu Âu), Chương 10 (Các cải cách trong chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng: cân bằng giữa CSSKTT tại bệnh viện và tại cộng đồng), Chương 12 (Nhà ở và việc làm), Chương 13 (Xây dựng chính sách SKTT: một cách tiếp cận từ hướng

nhân quyền), Chương 16 (Gia đình và người chăm sóc của người có vấn đề về SKTT) đề cập trực tiếp tới các chính sách và chương trình TGXH cho người có vấn đề về SKTT ở các nước châu Âu. (Martin Knapp và ctv, 2007)

(vi) Luận án tiến sĩ “Chính sách SKTT và Nhà nước phúc lợi: Nghiên cứu về cách Thụy Điển, Pháp, và Anh phục vụ các nhóm mục tiêu”của tác giả Anna Melke, bảo vệ tại Đại học Gothenburg, năm 2010. Tác giả Melke cho biết năm 2006, Thụy Điển có một làn sóng các chương trình CSSKTT nhằm vào 4 mục tiêu cho năm 2015,

đó là: tất cả những người có vấn đề về SKTT dạng nặng phải (1) có nhà ở hợp lý, (2) phải có một công việc có nghĩa, dù là việc làm có thu nhập, việc làm không thu nhập hay học nghề, (3) phải được chăm sóc và trợ giúp đầy đủ theo nhu cầu, và (4) được hỗ trợ để hòa nhập vào xã hội đẩy đủ và có một mạng lưới quan hệ xã hội như họ mong

muốn. Để thực hiện điều này, Thụy Điển tăng cường các TGXH về nhà ở, quản lý ca, trợ giúp cá nhân, trợ giúp việc làm, đồng thời tăng phúc lợi, đẩy mạng PHCN, các hoạt động điều phối dịch vụ chăm sóc khỏe tâm thần, nghiên cứu, đánh giá, và trợ giá.

Chính quyền trung ương xây dựng các văn bản khung như Luật dịch vụ xã hội, Luật khuyết tật; các tiểu bang (state) và hạt (county) là nơi xây dựng và triển khai các chương trình CSSKTT cũng như tự chi trả cho các dịch vụ này. Ước tính 70% ngân sách cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe được đóng góp từ thuế của hạt và tiểu bang. Người bệnh chỉ phải đóng góp rất ít (khoảng 3%). (Anna Melke, 2006)

(vii) Báo cáo “Thay đổi hướng đi, thay đổi cuộc đời: Chiến lược SKTT của Canada” do Ủy ban SKTT Canada xuất bản năm 2012. Theo báo cáo thì hàng năm, cứ 5 người Canada thì có một người có vấn đề về SKTT. Tuy nhiên, cho đến năm 2007, Canada là nước duy nhất trong khối G8 không có một chiến lược quốc gia về SKTT. Vì thế, năm 2007, Chính phủ Canada thành lập Ủy Ban SKTT Canada, một tổ chức NGO với nhiệm vụ xây dựng chiến lược này. Tháng 5-2012, Ủy Ban này công bố

chiến lược quốc gia về SKTT, theo đó yêu cầu chính phủ tăng ngân sách cho SKTT từ 7% lên 9%, chú trọng đặc biệt vào các chính sách và dịch vụ phòng ngừa. Xét về TGXH trong CSSKTT, Canada không có một chính sách riêng mà chỉ có các chương

trình TGXH được xây dựng dựa trên Chiến lược quốc gia về SKTT. Khi xây dựng các chương trình này, Canada đặc biệt nhấn mạnh vào hai điểm: (1) TGXH ở tất cả các giai đoạn trong vòng đời, tại các môi trường gia đình, trường học, và nơi làm việc; (2) chú trọng phòng ngừa và can thiệp sớm với SKTT. (Mental Health Commission of Canada, 2012)

12

(viii) Bài viết “Luật SKTT mới của Trung Quốc”của tác giả Michael Phillips và các cộng sự, đăng trên tạp chí American Journal of Psychiatry, số tháng 6 năm 2013.

Trong bài báo này, các tác giả bàn về Luật SKTT mới thông qua vào tháng 11-2012 của Trung Quốc. Theo luật này, Trung Quốc áp dụng quyền tự nguyện điều trị cho các bệnh nhân bị tâm thần nặng thay vì cho phép người nhà có thể ép người bệnh tâm thần vào các bệnh viện hoặc trại tâm thần như trước đây. Mặt khác, luật quy định chỉ các

bác sĩ chuyên khoa tâm thần mới được kê đơn, ngay cả các bác sĩ đa khoa thông thường hoặc các nhà tâm lý lâm sàng cũng không được phép. Trung Quốc thông qua luật này để chuyển gánh nặng CSSKTT từ các bệnh viện tâm thần chuyên biệt về hệ

thống chăm sóc sức khỏe ban đầu và hệ thống y tế cộng đồng. Trong bài báo này, các tác giả tiếp cận việc TGXH cho CSSKTT từ góc độ quyền của người bệnh tâm thần trong xã hội. Các tác giả chỉ ra những bất cập trong mô hình CSSKTT hiện tại cho việc trao quyền tự quyết cho người bệnh tâm thần đối với bệnh của chính mình, do đó

vận động Trung Quốc cần có thêm các chính sách hỗ trợ; nhưng các tác giả vẫn khẳng định rằng chủ trương bảm đảo quyền công dân, quyền con người của người bệnh tâm thần là chủ trương đúng, bao gồm cả quyền tự quyết đối với việc điều trị bệnh của bản thân. (Michael Phillips, 2013)

(ix) Báo cáo “Dịch vụ SKTT ở Australia” do Viện Sức khỏe và phúc lợi Australia xuất bản xuất bản năm 2013. Theo báo cáo thì mỗi năm khoảng 3 triệu người (tương đương 1 trong 5 người Úc) có các biểu hiện rối loạn tâm thần, trong số này, chỉ

1/3 những người có vấn đề về SKTT tiếp cận các dịch vụ CSSKTT, chủ yếu thông qua hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu. Ở cấp quốc gia, Australia có hai chương trình chính sách cơ bản về CSSKTT là Chiến lược Quốc gia về SKTT (National Mental

Health Strategy) và Chương trình hành động Quốc gia về SKTT (National Action Plan on Mental Health). Đây là các chương trình khung về chính sách cho CSSKTT. Ngoài ra, Úc có Thỏa thuận Quốc gia về chăm sóc sức khỏe (National Healthcare Aggreement) và Thỏa thuận Quốc gia về hệ thống y tế và bệnh viện để hướng dẫn các

hoạt động của chính phủ trong CSSKTT. Dựa trên các chính sách khung trên, Úc triển khai các chính sách và chương trình TGXH trong CSSKTT cho nhiều đối tượng tham gia vào việc CSSKTT: trợ giúp cho người bệnh (ví dụ, các dịch vụ chi trả toàn bộ hoặc

một phần việc khám chữa bệnh, các loại trị liệu, các dịch vụ giáo dục, việc làm, hòa nhập cộng đồng, vấn đề quyền), trợ giúp cho gia đình người bệnh và cộng đồng, cũng như trợ giúp cho hệ thống CSSKTT (ví dụ trả tiền cho các bác sĩ muốn nâng cao hiểu biết về SKTT). (Australian Institute of Health and Welfare, 2013)

13

Đối với các dịch vụ TGXH trong CSSKTT thông qua kênh chăm sóc sức khỏe ban đầu (tức kênh y tế), chương trình cơ bản nhất của Úc là chương trình Medicare - tức chương trình phúc lợi y tế toàn dân (universal healthcare system). Trong chương

trình này có hai chương trình cơ bản là Chương trình phúc lợi chăm sóc y tế Medicare (Medicare Benefits Schedule - MBS) và Chương trình phúc lợi Dược (Pharmaceutical Benefits Scheme - PhBS). Chương trình Medicare tập trung vào các trợ giúp liên quan tới dịch vụ y tế và xã hội; còn chương trình Dược tập trung vào các trợ giúp liên quan

tới thuốc như kê đơn thuốc, trợ giá thuốc, vân vân... Đối với chương trình Medicare, chính phủ Úc trợ cấp toàn bộ hoặc một phần chi phí cho người có vấn đề SKTT trong một loạt các dịch vụ y tế, mà lớn nhất (43,5%) là các dịch vụ tham vấn và trị liệu tâm

lý - xã hội với các bác sĩ tâm lý và nhân viên trị liệu khác như nhân viên CTXH (trị liệu cá nhân, trị liệu gia đình, các trị liệu chuyên biệt như trị liệu việc làm, trị liệu giao tiếp, vv...). Cụ thể hơn, MBS có 3 chương trình chính: trợ giá toàn bộ hoặc một phần cho các dịch vụ tâm - thần kinh với bác sĩ thần kinh (MBS - subsidized psychiatrist

services) như dịch vụ khám, tham vấn, tâm lý trị liệu, tư vấn ca, và trị liệu sốc điện; trợ giá toàn bộ hoặc một phần cho các dịch vụ tâm lý (MBS - subsidised psychologist services) như dịch vụ tham vấn, trị liệu với các bác sĩ tâm lý có giấy phép trị liệu lâm

sàng (tức có bằng tiếng sỹ về tâm lý học lâm sàng hoặc bằng thạc sỹ về tâm lý học lâm sàng và 1 năm thực tập dưới sự hướng dẫn của một bác sĩ tâm lý lâm sàng); trợ giá toàn bộ hoặc một phần cho các dịch vụ với các chuyên gia SKTT khác như nhà trị liệu việc làm, điều dưỡng SKTT, nhân viên CTXH.

(x) Nghiên cứu “Mental Health in the Asia-Pacific Region: An Overview. International Journal of Behavioral Science 2015” của Alexander Lourdes Samy, ZaIlraFazli Khalaf, và Wah-Yun Low (2015). Các tác giả đánh giá, các vấn đề về sức

khỏe tâm thần đang gia tăng ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương và nó thường bị bỏ qua hoặc không được chú ý. Tỷ lệ mắc các rối loạn và bệnh tật về sức khoẻ tâm thần đang gia tăng, đặc biệt ở các nước đang phát triển và đang phát triển như Nhật Bản, Triều Tiên, Thái Lan, Malaysia, Singapore... Để giảm thiểu vấn đề này, các tác giả cho

rằng, việc phát hiện sớm những người có vấn đề sức khoẻ tâm thần là điều vô cùng quan trọng. Các chính phủ cần chú trọng đến chăm sóc sức khoẻ tâm thần ở khu vực nông thôn, các vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, sự hợp tác giữa các tổ chức chính phủ

và phi chính phủ cần phải được đẩy mạnh nhằm tăng cường hệ thống chăm sóc sức khoẻ tâm thần, tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào các vấn đề sức khoẻ tâm thần và xây dựng các chính sách có hiệu quả hơn nữa để giải quyết vấn đề này.

14

(xi) Nghiên cứu “The Political Economy of Mental Health in Vietnam: Key Lessons for Countries in Transition. Asia and the Pacific Policy Studies” của Kelley Lee et. Al (2015). Nghiên cứu này khẳng định nhu cầu cấp thiết về chăm sóc sức khoẻ tâm thần tại các quốc gia có sự chuyển đổi nhanh chóng do toàn cầu hoá. Kinh

nghiệm của Việt Nam trong những thập kỷ gần đây cho thấy cần phải hiểu rõ hơn bản chất của quá trình chuyển đổi, chứ không chỉ là cách chuyển đổi xã hội, mà còn ảnh hưởng đến nhu cầu sức khoẻ tinh thần của người dân. Nền kinh tế chính trị ở Việt Nam cho đến nay đã đặt ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế thông qua việc hội nhập với

nền kinh tế thế giới và cải cách khu vực công. Bài báo này kết luận quá trình chuyển đổi ở Việt Nam đặt ra cả mối đe dọa tiềm ẩn đối với việc chăm sóc người có nhu cầu sức khoẻ tâm thần, cũng như cơ hội để phát triển mô hình chăm sóc sức khỏe tâm thần

phù hợp với bối cảnh của quốc gia.

Tựu chung lại, các đề tài, nghiên cứu nước ngoài liên quan đến lĩnh vực xã hội trong CSSKTT có nhiều. Hầu hết các nghiên cứu tập trung vào đánh giá mô hình hoạt động của các cơ sở chăm sóc NTT ở những khía cạnh khác nhau, có nghiên cứu thì

nghiên cứu khía cạnh tâm lý phục hồi, có nghiên cứu sâu vào hệ thống quản lý tổng hợp, chưa có nghiên cứu nào chuyên sâu về chính sách TGXH trong CSSKTT.

1.2. Các nghiên cứu trong nước

Từ trước đến nay các tài liệu trong nước nghiên cứu lĩnh vực xã hội trong CSSKTT không nhiều. Một vài năm trở lại đây, cùng với sự phát triển của kinh tế kéo theo đó là hệ lụy như tệ nạn xã hội, bệnh tật, nghèo đói và đặc biệt là tình trạng người mắc bệnh tâm thần, người rối nhiễu tâm trí ngày càng gia tăng. Do đó gần đây trong

nước cũng xuất hiện một số các nghiên cứu liên quan đến công tác quản lý, chăm sóc người tâm thần cũng như chính sách TGXH trong CSSKTT như:

1.2.1. Các nghiên cứu liên quan đến sức khỏe tâm thần

(i) Dự án “Phụ nữ chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc sức khỏe tâm trí từ các ví dụ điển hình tích cực tại cộng đồng” do Grand Challenges Canada tài trợ với sự hợp tác của Hội phụ nữ tỉnh Bắc Giang - năm 2012-2013. Dự án tập trung củng cố phương pháp “chăm sóc không chính thức” (không sử dụng ngân sách nhà nước), qua việc hỗ

trợ hội phụ nữ vận động người dân học hỏi những điển hình tích cực về tự chăm sóc và chăm sóc dựa vào cộng đồng. Mục đích của hệ thống chăm sóc không chính thức là sàng lọc sớm, chăm sóc, PHCN và dự phòng tại cộng đồng. Ba mục tiêu chính của dự

15

án là: (1) tăng cường áp dụng phương pháp chăm sóc sức khoẻ tâm trí không chính thức tại cộng đồng; (2) Giảm kỳ thị và ngược đãi đối với người mắc bệnh tâm thần/người rối nhiễu tâm trí; (3) Duy trì mô hình chăm sóc sức khoẻ không chính thức có chất lượng bởi Hội phụ nữ tại cộng đồng sau khi dự án kết thúc. (Grand Challenges Canada và Hội phụ nữ tỉnh Bắc Giang, 2012)

(ii) Một số nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Phát triển Cộng đồng (RTCCD): (1) Tỷ lệ rối nhiễu tâm trí ở bà mẹ và trẻ em tại năm tỉnh dự án Young Lives (2001-02) (Dự án Young Lives tại Việt Nam - DFID); (2) Gánh nặng rối nhiễu tâm trí trong dân chúng Đà Nẵng, Khánh Hòa (2006-07) (Dự án phát triển hệ thống CSSKTT dựa vào cộng đồng tại Đà Nẵng, Khánh Hòa (tài trợ AP/VVAF); (3) Rối nhiễu tâm trí ở bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS, Quảng Ninh (2009-2010) (Nghiên cứu đánh giá can thiệp chăm sóc giảm nhẹ tại Quảng Ninh, FHI 360 - kinh phí USAID); (4) Rối nhiễu tâm trí ở mẹ thời kỳ chu sinh và ảnh hưởng đên sức khỏe và phát triển của con (2008-2010) - Dự án hợp tác đại học Melboume - RTCCD; kinh phí Hội đồng nghiên cứu Australia (ARC). Những nghiên cứu này đã đạt được những kết quả như: (RTCCD, 2006, 2008, 2009, 2011)

Xác định gánh nặng rối nhiễu tâm trí trong các nhóm đối tượng nằm ngoài can

thiệp của hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm trí hiện hành;

Xác định bằng chứng dịch tễ học phụ vụ hình thành chính sách can thiệp phòng

chống rói nhiễu tâm trí cho phụ nữ trong thời gian mang thai.

(iii) Bên cạnh đó còn có một số bài viết trên các tạp chí khoa học trong nước như: (1) tác giả Nguyễn Khắc Viện với bài viết “Tâm lý học lâm sàng trẻ em Việt Nam” Nxb Y học năm 1999; (2) tác giả Nguyễn Công Khanh với bài viết “Tâm lý học trị liệu” NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2000; (3) tác giả Nguyễn Minh Tuấn với bài viết “Các rối loạn tâm thần: Chẩn đoán và điều trị” NXB Y học năm 2002. Tuy nhiên các nghiên cứu chỉ tập trung vào các kỹ thuật đơn lẻ để cải thiện sức khỏe tinh

thần, cải thiện các vấn đề cảm xúc và hành vi của các cá nhân. Tâm lý trị liệu chữa trị các vấn đề tâm lý chủ yếu bằng phương pháp sử dụng lời nói hoặc các công cụ giao tiếp khác giữa nhà trị liệu và thân chủ. Trong khi đó, nghiên cứu về tâm lý học lâm sàng lại tìm hiểu, phòng tránh và giải toả tâm trạng buồn bực và hoạt động sinh lý bất

bình thường dựa trên cơ sở tâm lý, đồng thời đẩy mạnh sự phát triển lành mạnh của con người. Các chủ đề ví dụ bao gồm: tâm lý liệu pháp và đánh giá mức độ tâm lý. Tâm lý học lâm sàng tập trung vào các khía cạnh trí tuệ, tình cảm, sinh học, xã hội,

hành vi của chức năng tâm lý con người trong suốt cuộc đời, ở các nền văn hoá khác nhau và ở các tầng lớp xã hội khác nhau. (Nguyễn Khắc Viện, 1999; Nguyễn Công Khanh, 2000)

1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần

16

(i) Báo cáo “Khảo sát các mô hình CSSKTT phát triển bởi các tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam” được thực hiện bởi Cục BTXH-Trung tâm RTCCD năm 2010. Nghiên

cứu được thiết kế trong khuôn khổ đề tài cấp Bộ duyệt bởi hội đồng khoa học MOLISA và được triển khai phối hợp giữa Cục BTXH (MOLISA) và Trung tâm Nghiên cứu & Đào tạo phát triển cộng đồng (RTCCD) thuộc Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Nghiên cứu đưa ra 10 kết luận thuộc ba mảng: (1) phạm vi và loại hình

dịch vụ cung cáp bởi các NGOs; (2) Tính sáng tạo, sư đâp ứng với nhu cầu thực tế, và sự phù hợp với điều kiện của Việt Nam; (3) chất lượng và khả năng tư duy trì, phát triển. Nghiên cứu cũng đưa ra 5 khuyến cáo chính sách phát triển CSSKTT ở Việt Nam, trong

đó có 2 khuyến cáo đặc thù cho mảng CSSKTT cho trẻ em và sự phát triển đề án BTXH cho người bệnh tâm thần của MOLISA. (RTCCD, 2010)

(ii) Dự án “Đánh giá thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm trí thuộc quản lý của Bộ Lao động, Thương binh & Xã hội” doWHO tài trợ với sự hợp tác của Bộ LĐTBXH năm 2010. Hướng tới mục tiêu “công bằng, hiệu quả và bền vững” của hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm trí, Bộ LĐTBXH hợp tác cùng UNICEF và WHO, đã phát triển một kế hoạch hành động vì sức khỏe tâm trí giai đoạn 2011-2015. Bước đầu

tiên là tiến hành phân tích để trả lời cho câu hỏi chiến lược và chính sách “nên tập trung vào việc nâng cấp hoặc mở rộng một cách bền vững mạng lưới các trung tâm BTXH hay tập trung vào sự phát triển hệ thống điều trị, chăm sóc và PHCN dựa vào cộng đồng”. Với thỏa thuận chung của Bộ LĐTBXH-UNICEF-WHO, nhiệm vụ của

nghiên cứu này đã được giao cho Cục BTXH (CBTXH, Bộ LĐTBXH) cùng với sự hỗ trợ kỹ thuật của RTCCD. Trong nghiên cứu này, RTCCD đóng vai trò là cơ quan tư vấn, thiết kế kỹ thuật, đào tạo, thu thập số liệu, quản lý và phân tích số liệu, viết báo

cáo và phối hợp cùng CBTXH triển khai cấu phần A (nghiên cứu các luật định liên quan đến việc điều trị và hỗ trợ người mắc các rối loạn tâm thần; phân tích quá trình hình thành chính sách quốc gia, và đánh giá các quy tắc quản lý hệ thống của Bộ LĐTBXH trong mối liên hệ với hệ thống của Bộ Y tế về việc điều trị và hỗ trợ người

mắc các rối loạn tâm thần), cấu phần B (đánh giá thực trạng các trung tâm chăm sóc và bảo trợ NTT nặng của Bộ LĐTBXH), và giám sát triển khai cấu phần C (đánh giá nhu cầu chăm sóc của bệnh nhân tâm thần/ gia đình và năng lực cộng đồng trong việc cung

cấp các dịch vụ chăm sóc và BTXH đối với bệnh nhân tâm thần dựa vào cộng đồng). (Bộ LĐTBXH, 2010)

17

(iii) Nghiên cứu “Đánh giá thực trạng Hệ thống CSSKTT thuộc quản lý của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội” của WHO tại Việt Nam năm 2011. Một kết quả đạt được quan trọng của nghiên cứu này chính là đề xuất và áp dụng chính sách CSSKTT tại Việt Nam giai đoạn sau năm 2011. Theo đó, ưu tiên của giai đoạn này là cần thống nhất được tầm nhìn và khung mục tiêu quốc gia về CSSKTT ở Việt Nam, nhằm tạo cơ

sở định hình cho các hoạt động thiết kế tiếp theo của hai Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế trong các đề án 32 và 1215, dự án CSSKTT cộng đồng của chương trình mục tiêu quốc gia và đề án 930/QĐ-TTg ngày 30/6/2009 về củng cố và xây dựng bệnh viện chuyên khoa tâm thần tại các tỉnh hiện còn thiếu (do Bộ Y tế quản lý). Đối

với sự hỗ trợ từ tổ chức quốc tế, đặc biệt từ UNICEF và WHO cần được tiếp tục và đẩy mạnh theo ba hướng: (1) Hỗ trợ để các bên thống nhất được cách tiếp cận đa ngành (holistic), dựa vào cộng đồng trong CSSKTT, ưu tiên hỗ trợ cho những mô hình, sáng

kiến giải quyết khoa học và phù hợp với điều kiện nguồn lực thực tế của Việt Nam; (2) Hỗ trợ thực hiện sự tạo lập và vận hành nhóm hỗ trợ kỹ thuật và các hoạt động vận động chính sách ở tầm vĩ mô nhằm nhanh chóng tạo ra khung chính sách và pháp lý về CSSKTTở Việt Nam; (3) Hỗ trợ VUSTA tổ chức và vận hành nhóm Think - tank dành

cho CSSKTT đảm bảo vai trò khoa học và độc lập trong tư vấn phản biện chính sách cho các bên liên quan chủ yếu (Ủy ban các Vấn đề Xã hội của Quốc hội, Vụ các Vấn đề Xã hội thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ LĐTBXH, Bộ Y tế, Bộ Tài chính).

(WHO, 2011)

(iv) Dự án “Xây dựng mô hình điểm về TGXH và PHCN cho người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng tại tỉnh Bến Tre và Thanh Hóa” do Atlantic Philanthropies tài trợ với sự hợp tác của Sở LĐTBXH & Sở Y tế tỉnh Bến Tre và tỉnh Thanh Hóa -

năm 2013-2015. RTCCD đang tiến hành nghiên cứu và xây dựng mô hình điểm về TGXH và PHCN cho người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng tại tỉnh Bến Tre và tỉnh Thanh Hóa. Từ mô hình điểm này Cục BTXH và các tỉnh, thành sẽ có cơ sở khoa

học và bằng chứng thực tiễn để nhân rộng mô hình CSSKTT dựa vào cộng đồng trong cả nước. Dự án hướng tới 4 mục tiêu chính, đó là: (1) có các nghiên cứu về nhu cầu CSSKTT và các kinh nghiệm thực hành tốt trong CSSKTT để làm cơ sở cho việc phát triển mô hình CSSKTT dựa vào cộng đồng; (2) Tạo dựng một mô hình điểm về

CSSKTT toàn diện, dựa vào cộng đồng phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam tại hai tỉnh Bến Tre và tỉnh Thanh Hóa. (3) Đội ngũ cán bộ cung cấp dịch vụ CSSKTT tại hai tỉnh tham gia dự án, có đủ năng lực để vận hành và duy trì mô hình một cách bền vững

sau giai đoạn 2013-2015. (4) Các hướng dẫn kỹ thuật tạo lập và vận hành mô hình ở các tỉnh được xây dựng và điều chỉnh có sử dụng các bằng chứng khoa học từ việc tạo lập mô hình ở hai tỉnh điểm. (RTCCD, 2013)

1.2.3. Các nghiên cứu liên quan đến chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần

18

(i) Dự án “Đánh giá chi phí - lợi ích mô hình chăm sóc sức khoẻ tâm trí dựa vào cộng đồng tại Hà Tây và Hà Nam” doWHO Hà Nội tài trợ với sự hợp tác của Tổng hội Y học Việt Nam, Bệnh viện Tâm thần TW I - năm 2007. Đây là một nghiên

cứu định hướng chính sách được thực hiện trong nỗ lực nhằm đo lường thiết kế, triển khai và lợi ích nhận được từ Mô hình Chăm sóc Sức khỏe Tâm trí Dựa vào Cộng đồng (CSSKTTDVCĐ) do Bộ Y tế xây dựng và thực hiện thông qua Chương trình Sức khỏe Tâm trí Quốc gia. Có sử dụng cả phương pháp định tính và định lượng trong thu thập

dữ liệu tại 2 tỉnh Hà Tây và Hà Nam, nghiên cứu này đã đưa ra 6 kết luận chính và 15 kết luận cụ thể mô tả mô hình, nguyên nhân và tác động đối với công tác dự phòng và quản lý sức khỏe tâm trí cũng như những khuyến nghị đối với công tác hoạch định chính sách. (WHO, Tổng hội Y học Việt Nam, Bệnh viện Tâm thần TW I, 2007)

(ii) Hội nghị triển khai Đề án TGXH và PHCN cho NTT, người rối nhiễu tâm trí giai đoạn 2011-2020. Ngày 22 tháng 7 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án TGXH và PHCN cho NTT, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn

2011-2020 (gọi tắt là đề án 1215), giao cho Bộ Lao động Thương binh chủ trì. Để triển khai Đề án này, ngày 27 tháng 11 năm 2012,tại Đà Nẵng, Bộ Lao động Thương binh và xã hội phối hợp với tổ chức Atlantic Philanthropies và Quỹ Nhi đồng Liên hợp

quốc, tổ chức Hội nghị triển khai Đề án. Theo đó, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách chăm lo đời sống các đối tượng BTXH, trong đó có người mắc bệnh tâm thần. Đến nay, có khoảng 10.000 NTT nặng đang được chăm sóc và PHCN tại 26 cơ sở BTXH ở 20 tỉnh, thành phố; Nghị định số 67/2007/NĐ-CP và

Nghị định số 13/2010/NĐ-CP của CP đã giải quyết trợ cấp hàng tháng cho gần 200.000 NTT nặng sinh sống tại gia đình và cộng đồng.

Mục tiêu của Hội nghị triển khai Đề án bao gồm (1) Triển khai Đề án TGXH và

PHCN cho NTT, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020; (2) Nâng cao nhận thức của các Bộ, ngành, địa phương về việc TGXH và PHCN cho NTT, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng; (3) Khuyến nghị mô hình chăm sóc và PHCN cho NTT, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng; tại trung tâm BTXH

và tại bệnh viện; (4) Khuyến nghị hợp tác liên ngành trong lĩnh vực CSSKTT và Đề án quy hoạch mạng lưới các cơ sở chăm sóc và PHCN cho NTT, người rối nhiễu trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020; (5) Định hướng giáo dục và đào tạo về CSSKTT.

(iii) Báo cáo “Đánh giá kết quả thực hiện Đề án TGXH và PHCN cho NTT, người rối nhiễu tâm trí giai đoạn 2011-2015 và định hướng giai đoạn 2016-2020” của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội năm 2015. Báo cáo đã trình bày tình hình NTT và người rối nhiễu tâm trí ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và đưa ra dự báo đến năm

19

2020: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các Bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai vào 5 nhóm công việc chính sau: (1) Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về SKTT; (2) Xây dựng, nâng cấp mở rộng, trang thiết bị và

mô hình cơ sở phòng và trị liệu rối nhiễu tâm trí cho các cơ sở TGXH và PHCN cho NTT; (3) Phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH và PHCN cho NTT, người rối nhiễu tâm trí; (4) Truyền thông, nâng cao nhận thức về trách nhiệm của gia đình, cộng đồng và toàn xã hội về chăm sóc và PHCN cho NTT; (5) Vận động tài trợ từ các tổ

chức quốc tế. Trong giai đoạn 2015-2020, báo cáo xác định mục tiêu huy động sự tham gia của xã hội nhất là gia đình, cộng đồng trợ giúp về vật chất, tinh thần, PHCN cho NTT để ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng, phòng ngừa người rối nhiễu tâm

trí bị tâm thần góp phần bảo đảm ASXH. Theo đó, định hướng nội dung hoạt động của Đề án trong thời gian tới tập trung vào 07 nhóm công việc: (1) Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật huy động sự tham gia đóng góp nguồn lực TGXH và PHCN cho người rối nhiễu tâm trí, NTT dựa vào cộng đồng; (2) Xây dựng cơ sở vật chất và trang

thiết bị cho các cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT; (3) Phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH và PHCN cho người rối nhiễu tâm trí, NTT dựa vào cộng đồng; (4) Hỗ trợ nhân rộng mô hình phòng và trị liệu rối nhiễu tâm trí tới quận, huyện,

thị xã, thành phố thuộc tỉnh có đông đối tượng để cung cấp dịch vụ trị liệu tâm lý, PHCN cho những người rối nhiễu tâm trí, NTT, người trầm cảm, tự kỷ; (5) Truyền thông, nâng cao nhận thức về trách nhiệm của gia đình, cộng đồng và toàn xã hội về chăm sóc và PHCN; nâng cao kiến thức, kỹ năng TGXH và PHCN cho người rối

nhiễu tâm trí, NTT dựa vào cộng đồng; (6) Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trên các lĩnh vực phòng ngừa, phát hiện và can thiệp sớm, trị liệu tâm lý, PHCN cho người rối nhiễu tâm trí, NTT; điều tra, khảo sát, xây dựng cơ sở dữ liệu TGXH và PHCN cho

người rối nhiễu tâm trí, NTT dựa vào cộng đồng; (7) Tăng cường hợp tác với các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm và nguồn lực để phát triển TGXH và PHCN cho người rối nhiễu tâm trí, NTT. (Bộ LĐTBXH, 2015)

Như vậy tính đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam

đề cập một cách tổng thể, toàn diện về phân tích chính sách TGXH trong CSSKTT. Do đó, đề tài nghiên cứu của luận án đảm bảo tính mới, độc lập với những công trình nghiên cứu hiện có ở trong và ngoài nước.

1.3. Khoảng trống nghiên cứu

1.3.1. Một số vấn đề đạt được sự nhất trí cao

Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số nội dung liên quan đến chính sách CSSKTT và chính sách TGXH trong CSSKTT trên nhiều góc độ khác

20

nhau. Nhưng nhìn chung, các công trình đều cho thấy một số vấn đề cơ bản sau đây đã được đa số các tổ chức, tác giả có quan điểm, kết luận giống nhau:

Một là, khẳng định sự cần thiết của công tác CSSKTT và TGXH trong CSSKTT với xu hướng đa dạng hóa đội ngũ nhân lực thực hiện chính sách cũng như khẳng định xu hướng

thực hiện chính sách dựa trên sự hỗ trợ của cộng đồng (dựa vào cộng đồng).

Hai là, xác định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước trong việc ban

hành, tổ chức thực thi chính sách CSSKTT và chính sách TGXH trong CSSKTT.

Ba là, nhất trí về sự thay đổi cơ chế, chính sách đối với NTT, người rối nhiễu

tâm trí phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế của đất nước.

1.3.2. Khoảng trống cho các nghiên cứu tiếp theo

Bên cạnh những kết quả nêu trên, căn cứ và nhiệm vụ của luận án cho thấy còn

có một số vấn đề liên quan tới chính sách TGXH trong CSSKTT ở nước ta:

Một là, làm rõ thêm các vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách TGXH trong CSSKTT. Trong đó làm rõ: khái niệm, mục tiêu, các chủ thể, đối tượng của chính sách, các chính sách bộ phận (5 chính sách cơ bản) và các yếu tố ảnh hưởng đến chính

sách TGXH trong CSSKTT.

Hai là, xác định những vấn đề cần giải quyết của chính sách TGXH trong CSSKTT như: Trị liệu, tư vấn tâm lý - xã hội; Trợ giúp về giáo dục - đào tạo; Lao động - việc làm - thu nhập; Nhà ở - chăm sóc tại gia; Giao thông - đi lại; Giải trí - nghệ

thuật - vui chơi - thể dục thể thao; Hòa nhập xã hội.

Ba là, khảo sát, đánh giá thực trạng chính sách TGXH trong CSSKTT ở Việt Nam trong giai đoạn 2010-2015, làm rõ những điểm mạnh, điểm yếu và rút ra nguyên

21

nhân của những điểm mạnh, điểm yếu đó. Trên cơ sở đó đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách TGXH trong CSSKTT trong giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025.

CHƯƠNG II

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

VỀ CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE TÂM THẦN

2.1. Trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

2.1.1. Sức khỏe tâm thần và chăm sóc sức khỏe tâm thần

2.1.1.1. Quan điểm về sức khỏe tâm thần

Trong Hiến chương của WHO cho rằng: Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng không có bệnh hay thương tật (WHO, 2006). Mặc dù định nghĩa này là chủ đề của nhiều cuộc tranh cãi, đặc biệt là việc thiếu giá trị hoạt động và vì vấn đề được tạo ra bởi từ “toàn diện”, nên đây vẫn là vấn đề còn kéo dài. Các định nghĩa khác cũng đã được đưa ra,

trong số đó định nghĩa gần đây nhất là mối quan hệ giữa sức khỏe và sự thỏa mãn các nhu cầu cá nhân. Các hệ thống phân loại như Phân loại quốc tế về Gia đình của WHO, bao gồm Hệ thống phân loại quốc tế về Chức năng, Khuyết tật và Sức khỏe (ICF) và Phân loại quốc tế về Bệnh tật (ICD), thường được sử dụng để định nghĩa và để đo đạc

các thành phần của sức khỏe.

Theo tác phẩm “The determinants of health” của WHO thì nhìn chung, tùy từng ngữ cảnh mà theo đó nhiều cá nhân xem trọng tình trạng sức khỏe và chất lượng của

sống của họ. Người ta ngày càng nhận ra rằng sức khỏe được duy trì và cải thiện không chỉ qua những thành tựu và ứng dụng của khoa học y tế, mà còn qua những cố gắng và những lựa chọn cách sống thông thái của một cá nhân hay xã hội. Theo WHO, các yếu tố chính quyết định đến sức khỏe như môi trường kinh tế và xã hội, môi trường vật lý, và đặc điểm và ứng xử của mỗi cá nhân. (WHO, 2011)

Cụ thể hơn, các yếu tố chính đã được phát hiện là có ảnh hưởng đến sức khỏe bao gồm: (i) Thu nhập và địa vị xã hội; (ii) Mạng lưới hỗ trợ xã hội; (iii) Giáo dục và

biết chữ; (iv) Tình trạng việc làm; (v) Môi trường xã hội; (vi) Môi trường vật lý; (vii) Chăm sóc sức khỏe và kỹ năng ứng phó; (viii) Phát triển của trẻ tốt; (ix) Sinh học và di truyền; (x) Dịch vụ chăm sóc sức khỏe; (xi) Giới tính; (xii) Văn hóa.

22

Cũng theo WHO, không có định nghĩa chính thức cho sức khỏe tâm thần. Các nền văn hóa khác nhau, các đánh giá chủ quan và các giả thuyết khoa học khác nhau đều có ảnh hưởng tới định nghĩa về khái niệm “sức khỏe tâm thần”. Mặt khác, tình

trạng thoải mái, không có rối loạn nào về tinh thần chưa chắc đã được coi là sức khỏe tinh thần.

Sức khoẻ tâm thần không chỉ là không bị mắc rối loạn tâm thần. Sức khoẻ tâm thần được định nghĩa bởi WHO “là trạng thái hoàn toàn thoải mái mà ở đó mỗi cá nhân nhận thức rõ khả năng của mình, có thể đối phó với những căng thẳng bình thường trong cuộc sống, làm việc hiệu quả và năng suất và có thể đóng góp cho cộng đồng”. SKTT bao gồm “Khỏe mạnh, nhận thức, tự chủ, năng lực, sự phụ thuộc liên thế hệ, và tự chủ tiềm năng trí tuệ và tình cảm của một người. (WHO, 2014)

Như vậy qua các khái niệm đã có, chúng ta có thể rút ra khái niệm SKTT như sau: Sức khoẻ tâm thần là một trạng thái không có rối loạn hay dị tật tâm thần mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái, cần phải có chất lượng nuôi sống tốt, có được sự cân bằng và hòa hợp giữa cá nhân, người xung quanh và môi trường xã hội.

Theo đó, có thể được mô tả bởi 5 khía cạnh cơ bản sau:

Khả năng tận hưởng cuộc sống: đó là khả năng sống với hiện tại, và trân trọng những gì mình có; khả năng học được kinh nghiệm từ quá khứ, và lên kế hoặch cho tương lai mà không trăn trở, dấn sâu vào những kỉ niệm đau buồn sự nối tiếc hay những điều không thể thay đổi hoặc dự đoán đuợc trong tương lai.

Khả năng phục hồi: khả năng bình phục sau những trải nghiệm khó khăn hoặc những sự kiện đau buồn trong cuộc sống như trải qua mất mát, đổ vỡ, thất nghiệp... mà không mất đi sự lạc quan cũng như niềm tin của bạn.

Khả năng cân bằng: khả năng thiết lập một sự cân bằng trước rất nhiều phương

diện của cuộc sống như thể chất, tâm lý, tinh thần, xã hội và kinh tế.

Khả năng phát triển cá nhân: khả năng tự nhận biết năng lực và sở thích của cá

nhân, nuôi dưỡng những tài năng của mình để đạt được sự phát triển tối đa.

23

Sự linh hoạt: khả năng thích nghi trong những tình huống mới, khả năng tự điều chỉnh mong đợi của mình về cuộc sống, về chính bản thân mình và về người khác - để giải quyết vấn đề gặp phải và để cảm thấy dễ chịu hơn.

SKTT chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố được thể hiện trong hình vẽ sau:

Các yếu tố sinh học - Mất cân bằng hóa chất ở não - Gen - Tổn thương não - Bệnh mãn tính

Các yếu tố tâm lý

- Lòng tự trọng thấp - Suy nghĩ tiêu cực Sức khỏe tâm thần

Các sự kiện thời thơ bé - Bạo lực và lạm dụng - Bị bỏ mặc - Cha mẹ chết sớm

Các yếu tố xã hội

- Xung đột gia đình - Nghèo đói - Thất nghiệp - Vô sinh

Hình 2.1: Các yếu tố ảnh hưởng đến SKTT

Nguồn: Tổng hợp của NCS

2.1.1.2. Chăm sóc sức khỏe tâm thần

a) Khái niệm chăm sóc sức khỏe tâm thần

Chăm sóc sức khỏe tâm thần là sự chung tay của Nhà nước, cộng đồng xã hội và mỗi cá nhân trong việc thực hiện một tập hợp các công việc có tính chất hệ thống nhằm nâng cao tình trạng SKTT của người dân.

Từ sau Hội nghị Alma Ata (Hội nghị Quốc tế về Chăm sóc sức khỏe ban đầu- năm 1978), vấn đề chăm sóc sức khỏe đã có sự thay đổi quan trọng về nội dung, về đối

tượng cần chăm sóc sức khoẻ, về trách nhiệm của người cán bộ y tế, về vai trò của từng người nhân, từng ban ngành trong xã hội trong việc phấn đấu không ngừng nâng cao sức khoẻ cho cá nhân, cho cộng đổng và cho xã hội. Sự khác biệt cơ bản về nhân

24

thức chăm sóc sức khoẻ được tóm tắt như sau:

Bảng 2.1: Sự thay đổi nhận thức về chăm sóc sức khỏe

Nội dung Nhận thức cũ về CSSK Nhân thức mới về CSSK

Quan niệm về sức khoẻ Không có bệnh

Thoải mái về thể chất, tinh thần, xã hội và không có bệnh tật.

Nội dung CSSK Nặng về chữa bệnh Dự phòng tích cực, chăm sóc toàn diện.

Đối tượng CSSK Cá thể: người ốm là chính Cộng đổng: người khoẻ và người ốm

Trách nhiệm của CSSK Y tế Toàn dân, toàn xã hội

Vai trò của người dân Thụ động: ỷ lại vào y tế Chủ động;

Tự bảo vệ mình;

Cùng tham gia bảo vệ cộng đổng

Tính chất hoạt động Y tế là một bộ phận lồng ghép trong hệ thống kinh tế - xã hội Hoạt động của y tế tách rời với hệ thống kinh tế - xã hội

Nguồn: Tổng hợp của NCS

Vấn đề CSSKTT hiện nay được tiếp cận một cách bao quát hơn, trách nhiệm Nhà nước, của cộng đồng xã hội và gia đình được xác định rõ hơn trong CSSKTT. Các mô hình CSSKTT dần được xây dựng và ngày càng hoàn thiện.

b) Mô hình CSSKTT đối với NTT và RNTT

CSSKTT đối với NTT và RNTT có nhiều mô hình khác nhau, bao gồm CSSKTT tập trung tại bệnh viện chuyên khoa tâm thần hay tại các cơ sở BTXH đang nuôi dưỡng, chăm sóc và PHCN cho người có vấn đề tâm thần (NCVĐTT), chăm sóc

và điều trị ngoại trú do cán bộ chuyên khoa tâm thần đảm nhiệm, và CSSKTT dựa vào cộng đồng.

Mô hình chăm sóc, điều trị tập trung tại bệnh viện tâm thần hay cơ sở BTXH phù hợp đối với những NCVĐTT nặng trong giai đoạn bắt đầu điều trị, đang có những

25

hành vi nguy hiểm, hoặc NCVĐTT mãn tính không còn khả năng phục hồi. Đối với những NCVĐTT đã ổn định cũng như những NCVĐTT ở thể nhẹ, mô hình này có hạn chế trong việc hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho người có rối loạn tâm thần. Ngoài ra,

cán bộ chuyên khoa tâm thần còn thiếu, cơ sở điều trị tập trung ở xa, và việc kì thị nặng nề khi điều trị tại cơ sở là những yếu tố dẫn đến sự tiếp cận, và sử dụng dịch vụ CSSKTT còn rất ít so với nhu cầu thực tế.

CSSKTT dựa vào cộng đồng được coi là mô hình phù hợp và hiệu quả với

những lý do sau:

CSSKTT dựa trên chính nền tảng cộng đồng mà người rối loạn tâm thần đang

sinh sống nên giúp họ hòa nhập trở lại với cộng đồng tốt hơn;

Không phải tất cả những người có rối loạn tâm thần đều có thể tiếp cận điều trị tại các cơ sở tập trung, đặc biệt các bệnh viện chuyên khoa tâm thần. Còn rất nhiều người rối loạn tâm thần đang sống trong cộng đồng, và họ cần được điều trị. Vì thế, cần có một mô hình điều trị tại cộng đồng để họ có thể tiếp cận được dễ hơn;

Rối loạn tâm thần bao gồm những cấp độ khác nhau, ở mỗi cấp độ lại có những cách thức can thiệp riêng. Đối với những người ở thể nhẹ, cần phát hiện và can thiệp sớm tại cộng đồng thông qua trị liệu tâm lý; tham vấn gia đình cách thức

chăm sóc và phòng ngừa biến chứng nặng hơn. Những người đã được điều trị ổn định tại cơ sở chuyên khoa cũng cần được phục hồi và tái hòa nhập trong môi trường sống bình thường.

2.1.2. Trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

2.1.2.1. Khái niệm trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

a) Khái niệm, quan điểm tiếp cận, phân loại và vai trò của trợ giúp xã hội

(i) Khái niệm trợ giúp xã hội:

Trợ giúp xã hội được hiểu theo một số quan điểm tiếp cận, tính chất, chức năng, hình thức và mô hình khác nhau. Phần lớn các tài liệu nghiên cứu chưa lý giải một cách toàn diện về khái niệm TGXH, nhưng cũng đã giải thích thuật ngữ, từ ngữ gần với TGXH (BTXH, CTXH, phúc lợi xã hội, ASXH, cứu tế xã hội, cứu trợ xã hội,

BTXH, dịch vụ xã hội):

Theo Bộ LĐTBXH: Bảo trợ xã hội là hệ thống các chính sách, chế độ, hoạt động của chính quyền các cấp và hoạt động của cộng đồng xã hội dưới các hình thức

và biện pháp khác nhau, nhằm giúp các đối tượng thiệt thòi, yếu thế hoặc gặp bất hạnh trong cuộc sống có điều kiện tồn tại và có cơ hội hoà nhập với cuộc sống chung của cộng đồng, góp phần bảo đảm ổn định và công bằng xã hội. (Bộ LĐTBXH, 1997)

26

Công tác xã hội là sự thúc đẩy thay đổi trong xã hội, thúc đẩy việc giải quyết

các vấn đề trong quan hệ giữa con người, trao quyền và giải phóng con người đem lại sự bình yên cho xã hội. Vận dụng lý thuyết về hành vi của con người và các hệ thống xã hội, CTXH can thiệp vào các mặt mà ở đó con người tác động trực tiếp tới môi trường sống của họ. Nguyên tắc về quyền con người và công bằng xã hội là cốt lõi của

CTXH. (UNICEF Việt Nam, 2006)

Phúc lợi xã hội là một bộ phận thu nhập quốc dân của xã hội được sử dụng nhằm thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong xã hội,

chủ yếu được phân phối ngoài thu nhập theo lao động. Phúc lợi xã hội bao gồm: những chi phí xã hội như trả tiền hưu trí, các loại trợ cấp bảo hiểm xã hội, học bổng cho học sinh, những chi phí cho học tập không mất tiền, những dịch vụ y tế, nghỉ ngơi an dưỡng, nhà trẻ, mẫu giáo. (Từ điển bách khoa Việt Nam, 2003)

An sinh xã hội là một hệ thống các cơ chế, chính sách, các giải pháp của Nhà nước và cộng đồng nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho họ suy giảm, hoặc mất nguồn thu nhập do bị ốm

đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn khả năng lao động, hoặc vì các nguyên nhân khách quan khác rơi vào cảnh nghèo khổ, bần cùng hoá và cung cấp dịch vụ chăm sức khoẻ cho cộng đồng, thông qua các hệ thống chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, TGXH và trợ giúp đặc biệt. (Nguyễn Hải Hữu, 2007)

Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của xã hội bằng nguồn tài chính của Nhà nước và của cộng đồng đối với các thành viên gặp khó khăn, bất hạnh và gặp rủi ro trong cuộc sống như thiên tai, hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu... dẫn đến mức sống quá thấp, lâm vào

cảnh neo đơn túng quẫn nhằm giúp họ bảo đảm được điều kiện sống tối thiểu, vượt qua cơn nghèo khốn và vươn lên cuộc sống bình thường. (Nguyễn Văn Định, 2008)

Với quan điểm TGXH không chỉ là hoạt động của cộng đồng và xã hội mà phải là trách nhiệm của Nhà nước, không những thế còn là hoạt động có tính chất về CTXH,

không dành riêng cho một, hoặc một số đối tượng xã hội, đồng thời TGXH không phải là giải pháp toàn diện về ASXH, mà chỉ là một hợp phần của ASXH. Qua đó, chúng ta có thể khái quát khái niệm TGXH như sau: Trợ giúp xã hội là các biện pháp, giải pháp đảm bảo của Nhà nước và xã hội đối với các đối tượng bảo trợ xã hội (người thiệt thòi, người yếu thế hoặc bất hạnh trong cuộc sống) nhằm giúp họ khắc phục những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài trong cuộc sống. Việc đảm bảo này thông qua các hoạt động cung cấp tài chính, vật phẩm, các điều kiện vật chất khác cho đối tượng.

27

(ii) Quan điểm tiếp cận TGXH: TGXH được xây dựng trên cơ sở quan điểm phát triển hệ thống TGXH của mỗi quốc gia. Với quan điểm tiếp cận đúng, sẽ có được

hệ thống chính sách hiệu quả, phát huy được vai trò hỗ trợ các chính sách kinh tế và ổn định xã hội. Ngược lại quan điểm không phù hợp, dẫn đến lựa chọn chính sách không phù hợp, gây tốn kém nguồn lực mà không hiệu quả, đôi khi còn gây nên hậu quả xấu cho xã hội.

Tiếp cận theo quan điểm quyền: Quan điểm này lấy con người làm trung tâm của mục tiêu các chính sách. Theo quan điểm này, chính sách TGXH xây dựng trên cơ sở bảo đảm cho bộ phận dân cư khó khăn thực hiện các nhu cầu về đời sống (lương

thực, thực phẩm), có nước sạch sinh hoạt, có nơi ở, bảo đảm vệ sinh cá nhân và môi trường, được chăm sóc y tế, được tiếp cận giáo dục, giao tiếp, các hoạt động cộng đồng. Quan điểm tiếp cận này còn được các tổ chức xã hội vận dụng để huy động nguồn lực và thực hiện cung cấp dịch vụ TGXH tác động là giảm bớt (i) sự thiếu thốn

vật chất, (ii) sự tách biệt với môi trường và (iii) sự tổn thương cá nhân.

Tiếp cận theo quan điểm quản lý rủi ro: Cơ sở của quan điểm này là mọi thành viên trong xã hội luôn có nguy cơ bị rủi ro. TGXH là công cụ quản lý rủi ro và thực

hiện các chức năng phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro. Với quan điểm này TGXH bao gồm hệ thống nhiều cấp độ chính sách khác nhau và tạo ra các loại hình dịch vụ riêng.

Tiếp cận theo quan điểm phổ cập: Quan điểm này dựa trên cơ sở cho rằng, mọi thành viên xã hội đều có nhu cầu được bảo đảm về ASXH. Ưu điểm của mô hình này là tiêu chí xác định đối tượng rất đơn giản do vậy, chi phí quản lý thấp. Hạn chế của quan điểm này là do đông đối tượng hưởng trợ cấp, nên mức trợ cấp thường thấp

không gắn với bảo đảm mức sống tối thiểu, nhưng tổng kinh phí chi TCXH hàng năm thì vẫn lớn. Theo quan điểm này, thường ít quan tâm đến chất lượng, hiệu quả của chính sách mà chỉ quan tâm đến số người được hưởng.

Tiếp cận theo quan điểm mục tiêu: Với quan điểm này tiêu chí xác định đối tượng thường phức tạp hơn, phải gắn những điều kiện giới hạn đối tượng hưởng lợi như nghèo, không tự bảo đảm được cuộc sống; chi phí bộ máy quản lý tốn kém hơn, bỏ sót đối tượng; độ bao phủ thấp hơn khoảng 1,5% so với dân số. Nhưng ưu điểm là

chính sách cho nhóm đối tượng ưu tiên thường gắn với bảo đảm mức sống tối thiểu, cao hơn các chính sách phổ cập. Nguồn lực thường thấp hơn mô hình chính sách phổ cập, vì độ bao phủ so với dân số thường thấp hơn.

28

Tiếp cận theo quan điểm tổng thể: Quan điểm này dựa trên các quan điểm tiếp cận khác nhau để lựa chọn mô hình TGXH vừa kết hợp bảo đảm quyền, thực hiện chức năng chính sách, phổ cập hoặc mục tiêu ưu tiên chính sách. Việc lựa chọn mô

hình, hướng đi phù hợp với không gian, thời gian và các nhóm đối tượng cụ thể.

(iii) Phân loại TGXH:

Phân loại theo phương thức thực hiện, TGXH bao gồm:

Trợ giúp xã hội đột xuất: là hình thức trợ giúp tức thì cho các cá nhân hoặc nhóm

dân cư do các nguyên nhân khách quan bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh dẫn đến không có đồ ăn, nước uống, nhà ở... trong một khoảng thời gian xác định.

Trợ giúp xã hội thường xuyên: Trợ giúp thường xuyên hàng tháng cho các cá

nhân hoặc hộ gia đình trong khoảng thời gian dài.

Phân loại theo đối tượng cần trợ giúp chính sách, TGXH bao gồm:

Người cao tuổi: Bao gồm người không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã

hội, NCT cô đơn nghèo...

Người tàn tật: Không có khả năng lao động, không có khả năng tự phục vụ nhu

cầu sinh hoạt cá nhân, hộ có từ hai người tàn tật nặng...

Trẻ em mồ côi: Mồ côi cả cha và mẹ, bị bỏ rơi, mô côi cha, mô côi mẹ...

Người nhiễm HIV/AIDS: Nghèo, không có khả năng lao động...

Đối tượng khó khăn khác...

Phân loại theo nơi ở của đối tượng hưởng lợi, TGXH bao gồm:

Trợ giúp tại cộng đồng: Thực hiện trợ giúp tại hộ gia đình, cộng động nơi đối

tượng sinh sống và do cấp xã quản lý, tổ chức thực hiện.

Chăm sóc, nuôi dưỡng trong các cơ sở BTXH: Thực hiện nuôi dưỡng tập trung

đối tượng trong các trung tâm BTXH.

Phân loại theo chủ thể thực hiện trợ giúp, TGXH bao gồm:

Trợ giúp của Nhà nước; Trợ giúp của cộng đồng.

Phân loại theo nguồn lực thực hiện trợ giúp:

Trợ giúp từ ngân sách nhà nước: Nguồn kinh phí trợ cấp do ngân sách nhà nước

hoặc các nguồn hỗ trợ khác do các cơ quan nhà nước thực hiện.

Trợ giúp từ nguồn quỹ do đóng góp của các thành viên thông qua các quỹ bảo

hiểm, quỹ rủi ro của các tổ chức đoàn thể, xã hội.

29

Trợ giúp từ các nguồn quỹ vận động xã hội: Khoản trợ giúp này được thực hiện thông qua các tổ chức đoàn thể, xã hội hoặc cá nhân đứng ra vận động, nhằm giúp đỡ

cho các đối tượng quỹ ngày vì người nghèo, quỹ nạn nhân chất độc da cam, quỹ vận động trợ giúp các bệnh nhân bị bệnh hiểm nghèo...

(iv) Vai trò của TGXH:

Thứ nhất, TGXH thực hiện chức năng bảo đảm ASXH của Nhà nước: Thông qua luật pháp, chính sách, các chương trình TGXH, Nhà nước can thiệp và tác động giữ ổn định xã hội, ổn định chính trị, phân hoá giàu nghèo và giảm phân tầng xã hội, tạo sự đồng thuận xã hội giữa các nhóm xã hội trong quá trình phát triển.

Thứ hai, TGXH thực hiện chức năng tái phân phối lại của cải xã hội: Với chức năng này TGXH sẽ điều tiết phân phối thu nhập, cân đối, điều chỉnh nguồn lực để tăng cường cho các vùng nghèo, vùng chậm phát triển, tạo nên sự phát triển hài hoà giữa các vùng, giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng; giữa các nhóm dân cư.

Thứ ba, TGXH có vai trò phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu và khắc phục rủi ro và giải quyết một số vấn đề xã hội nẩy sinh: TGXH trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến giảm thiểu rủi ro, hạn chế tính dẽ bị tổn thương và khắc phục hậu quả của rủi

ro thông qua các chính sách và chương trình cụ thể nhằm giúp cho các thành viên xã hội ổn định cuộc sống, tái hoà nhập cộng đồng, bảo đảm mức sống tối thiểu cho dân cư khó khăn.

b) Khái niệm trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tân thần:

Qua việc làm rõ những vấn đề có liên quan đến TGXH, chúng ta có thể rút ra khái niệm TGXH trong CSSKTT như sau: Trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần là các biện pháp, giải pháp của Nhà nước đối với những người gặp các vấn đề về sức khoẻ tâm thần thông qua các chính sách, chương trình, đề án, nhằm giúp họ điều trị, khắc phục những khó khăn hiện tại, tạo điều kiện cho họ ổn định cuộc sống trong tương lai; từ đó, làm giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội.

2.1.2.2. Hệ thống trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

Trong thực tế, các yếu tố của hệ thống không phải là những điểm trừu tượng mà là những hệ thống phức tạp. Mỗi yếu tố cũng có nhiều nhiều mặt, nhiều thuộc tính, khi tác động lẫn nhau với các yếu tố khác của hệ thống không phải tất cả các mặt, các

thuộc tính của nó đều tham gia mà chỉ một số mặt, một số thuộc tính nào đó mà thôi. Như vậy, những mặt và thuộc tính của các yếu tố tham gia tác động lẫn nhau càng lớn thì kết cấu của hệ thống càng phức tạp. Cùng một số yếu tố, khi tác động lẫn nhau bằng những mặt khác nhau có thể tạo nên các hệ thống khác nhau.

30

Như vậy, có thể hiểu: Hệ thống TGXH trong CSSKTT là tập hợp của các cơ

quan, đơn vị có liên quan, cùng với các chính sách, chương trình, dự án và cơ sở dữ liệu công nghệ, kỹ thuật,... nhằm thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước về CSSKTT trong nhân dân.

Nhà nước Người có vấn đề về sức khỏe tâm thần

Các đơn vị (Cơ sở bảo trợ xã hội; Cơ sở y tế; Trung tâm chăm sóc sức khỏe; Các tổ chức phi chính phủ; Các đơn vị phối hợp; Các lực lượng tư nhân...) - Thực thi các chính sách; các chương trình, dự án Các cơ quan quản lý nhà nước - Hoạch định các chính sách; - Xây dựng các chương trình, dự án Mục tiêu TGXH trong chăm sóc SKTT

Hỗ trợ

Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về ASXH

Hình 2.2: Hệ thống TGXH trong CSSKTT

Nguồn: Tổng hợp của NCS

2.2. Chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

2.2.1. Khái niệm chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, qua tìm hiểu các tài liệu, các nghiên cứu cho thấy khái niệm chính sách được thể hiện khác nhau:

Chính sách theo nghĩa rộng thể hiện tập hợp các nội dung định hướng chính trị

của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bao gồm mục tiêu, biện pháp và công cụ thực hiện mục tiêu. Chính sách công của Nhà nước (public policy) thể hiện các nội dung trên nhằm thực hiện nhiệm vụ quản lý xã hội. Chính sách công là chuỗi những hoạt động mà chính quyền chọn làm hay không làm với tính toán và chủ đích rõ ràng,

có tác động đến người dân. (Đoàn Thị Thu Hà và ctv, 2012)

Theo Từ điển tiếng Việt thì: Chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt

một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra.

Bên cạnh đó còn có nhiều tác giả khác cũng đưa ra những khái niệm khác nhau

31

về “chính sách” nói chung và chính sách công (public policy) nói riêng:

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì: Chính sách công là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của Chính phủ nó bao gồm các mục tiêu mà Chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội -

môi trường.

Theo Tạ Ngọc Hải - Viện Khoa học tổ chức nhà nước thì: Chính sách công được tiếp cận nghiên cứu từ những giác độ khoa học khác nhau theo đó có những cách

hiểu, xác định không hoàn toàn giống nhau về khái niệm và các thuộc tính của chính sách công, cụ thể như:

(i) Chính sách công là những hoạt động mà chính quyền lựa chọn làm và không làm. Theo cách tiếp cận này thì các hoạt động mà chính quyền làm hoặc không làm phải

có tác động, ảnh hưởng lâu dài và sâu sắc đến nhân dân thì mới là chính sách công.

(ii) Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của chính quyền trực tiếp hay gián tiếp tác động đến cuộc sống của mọi người. So với quan niệm trên, quan niệm

này mở hơn, rộng hơn ở việc xem cả xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách của chính quyền đều là chính sách công. Nhưng lại hẹp hơn ở chỗ không coi những việc chính quyền không làm là chính sách công (thực tế ở các nước cho thấy chính quyền không thể và không nhất thiết phải làm tất cả mọi việc đối với xã hội);

Tác giả Lê Chi Mai cho rằng “Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách công vẫn là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi” tuy vậy theo bà chính sách công có những đặc trưng cơ bản nhất như: chủ thể ban hành

chính sách công là Nhà nước; chính sách công không chỉ là các quyết định (thể hiện trên văn bản) mà còn là những hành động, hành vi thực tiễn (thực hiện chính sách); chính sách công tập trung giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định; chính sách công gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan

lẫn nhau. Như vậy, so với các quan niệm đã nêu ta thấy có những điểm tương đồng trong quan niệm về chính sách công như: tính nhà nước, tính công cộng, tính hành động thực tiễn (coi quá trình thực hiện là một phần của chính sách công).

Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về chính sách, chính sách công, nhưng tựu chung lại, chúng ta có thể khát quát được một số những điểm chung trong quan điểm của các tác giả như sau:

(i) Chính sách là do một chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra;

(ii) Chính sách được ban hành căn cứ vào đường lối chính trị chung và tình hình

32

thực tế;

(iii) Chính sách được ban hành bao giờ cũng hướng đến một mục đích nhất định; nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó; chính sách được ban hành đều có sự tính toán và chủ đích rõ ràng.

Như vậy, kết hợp với khái niệm về TGHX trong CSSKTT đã đưa ra, chúng ta

có thể khái quát khái niệm về Chính sách TGXH trong CSSKTT như sau, đây cũng chính là quan điểm về chính sách được tiếp cận nghiên cứu trong luận án:

Chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần - một bộ phận của chính sách an sinh xã hội, là tổng thể các quan điểm, giải pháp,công cụ mà Nhà nước sử dụng để giúp đối tượng BTXH mắc các rối loạn tâm thần khắc phục khó khăn và hỗ trợ họ hòa nhập với cuộc sống. Việc bảo đảm này thông qua việc cung cấp nguồn tài chính hàng tháng, dịch vụ hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, tạo việc làm và các dịch vụ trợ giúp xã hội khác.

2.2.2. Mục tiêu và tiêu chí đánh giá chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

2.2.2.1. Mục tiêu của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

Mục tiêu của một chính sách công là nhằm hướng mọi nội dung vào việc thực hiện ý chí của chủ thể hoạch định chính sách, làm cho chính sách được thực hiện theo mong muốn của Nhà nước, thỏa mãn được mong muốn của các đối tượng chính sách

và cả xã hội.

Đối với chính sách TGXH trong CSSKTT, mục tiêu của chính sách được thể

hiện như sau:

Mục tiêu của tổng thể của chính sách TGXH trong CSSKTT là cải thiện tình trạng SKTT cộng đồng, đảm bảo công bằng, ổn định và phát triển bền vững về chính trị, kinh tế và xã hội của quốc gia.

Mục tiêu cụ thể của chính sách TGXH trong CSSKTT bao gồm:

Thứ nhất, tăng cường khả năng phòng ngừa và giảm nguy cơ mắc bệnh tâm

thần trong nhân dân;

Thứ hai, tăng cường khả năng điều trị, phục hồi chức năng và hòa nhập cộng

33

đồng đối với người mắc bệnh tâm thần

Mục tiêu tổng thể của chính sách: Cải thiện tình trạng SKTT cộng đồng, đảm bảo công bằng, ổn định và phát triển bền vững về chính trị, kinh tế và xã hội của quốc gia

Mục tiêu cụ thể của chính sách

Mục tiêu của chính sách phát triển NNL làm công tác TGXH

Mục tiêu của chính sách phát triển các dịch vụ CTXH Phát triển các dịch vụ hỗ trợ cho công tác CSSKTT

Đảm bảo NNL cả về chất và lượng, thực hiện thành công chính sách TGXH trong CSSKTT

Mục tiêu của chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm Tạo điều kiện cho NTT, người RNTT có đủ điều kiện, khả năng được tham gia lao động, tạo thu nhập, cải thiện đời sống

Mục tiêu của chính sách phát triển cơ sở BTXH Đầu tư xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp các cơ sở BTXH nhằm tăng cường năng lực phục vụ của các cơ sở BTXH

Mục tiêu của chính sách TCXH Giảm thiểu khó khăn, đảm bảo điều kiện sống cơ bản cho các đối tượng BTXH

Hình 2.3: Cây mục tiêu của chính sách CSSKTT

Nguồn: NCS xây dựng

2.2.2.2. Tiêu chí đánh giá chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

Trong quá trình hoạch định, tổ chức thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT, nhà quản lý cần phải đánh giá chính sách để điều chỉnh và hoàn thiện chính sách. Mục đích đánh giá là làm rõ kết quả các tác động tích cực và tác động tiêu cực của chính

sách, phát hiện những nội dung chính sách không phù hợp, dự kiến xu hướng kết quả và tác động tiếp theo của chính sách.

Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã xây dựng được một số phương pháp tốt để

34

đánh giá một chính sách công. Theo đó, có nhiều quan điểm về các tiêu chí có thể sử dụng để đánh giá một chính sách công, bao gồm: Tính hiệu lực; Tính hiệu quả; Sự phù hợp; Sự công bằng; Tính khả thi;... Tuy nhiên, chính sách TGXH trong CSSKTT là một chính sách khá đặc thù, nguồn vốn thực thi của một số chính sách bộ phận không

được lượng hóa ngay khi xây dựng chính sách. Do đó, tiêu chí “Tính khả thi” rất khó để đánh giá. Mặt khác, để tránh việc phức tạp hóa công cụ nghiên cứu, luận án quyết định gộp các tiêu chí đánh giá thành 03 tiêu chí sau đây mà vẫn đảm bảo được tính khách quan, chính xác trong đánh giá: Tính hiệu lực; Tính hiệu quả; Sự phù hợp.

(i) Đánh giá tính hiệu lực của chính sách tức là sự so sánh giữa kết quả đạt được của chính sách với mục tiêu của chính sách. Cụ thể là phạm vi ảnh hưởng của chính sách đến đời sống của đối tượng thụ hưởng chính sách. Theo nghĩa hẹp, là xem

xét mức độ hoàn thành mục tiêu, bao gồm cả các yếu tố ảnh hưởng. Trên góc độ nghiên cứu của luận án, NCS đánh giá hiệu lực của chính sách thông qua những tiêu chí định tính (những tiêu chí này sẽ được đánh giá thông qua phương pháp điều tra khảo sát và sẽ được đề cập sâu hơn ở những nội dung được phân tích và đánh giá ở

phần sau:

Thứ nhất, mức độ tuân thủ chính sách của các cơ quan, đơn vị trong thực thi

chính sách TGXH trong CSSKTT.

Thứ hai, mức độ hưởng ứng, tham gia của gia đình các đối tượng được hưởng

chính sách và của cộng đồng đối với chính sách TGXH trong CSSKTT.

(ii) Đánh giá tính hiệu quả của chính sách chính là việc so sánh giữa đầu ra (kết quả đạt được của chính sách) với đầu vào của chính sách, hay đo lường giữa đầu vào với quá trình chuyển hóa thành đầu ra như thế nào. Theo đó, tính hiệu quả của chính sách có thể đánh giá thông qua kết quả thực thi các chính sách bộ phận, thể hiện ở bảng sau:

Bảng 2.2: Tiêu chí đánh giá hiệu quả của chính sách TGXH trong CSSKTT

Stt Tiêu chí đánh giá hiệu quả của chính sách

1 Chính sách TCXH - Tổng số đối tượng được hưởng chính sách

- Mức trợ cấp bình quân

- Tỷ lệ giữa đối tượng được hưởng chính sách so với tổng số người có vấn đề về SKTT

2

Chính sách phát triển cơ sở BTXH - Số lượng cơ sở BTXH được xây mới, nâng cấp và năng lực phục vụ của chúng

- Ngân sách đầu tư cho phát triển cơ sở BTXH

35

- Số lượng đối tượng được hưởng chính sách

Stt Tiêu chí đánh giá hiệu quả của chính sách

có bệnh tình chuyển biến tích cực

3 Chính sách đào tạo nghề và - Số lượng lao động mới cung cấp cho xã hội

tạo việc làm

- Mức thay đổi về thu nhập bình quân của các đối tượng được hưởng chính sách

- Tỷ lệ đối tượng chính sách có sự cải thiện về

chất lượng cuộc sống

4 - Số lượng các đơn vị cung cấp dịch vụ CTXH

Chính sách phát triển các dịch vụ CTXH

- Chất lượng của các đơn vị cung cấp dịch vụ CTXH

5

làm công Chính sách phát triển nguồn tác nhân lực - Số lượng cán bộ, nhân viên, công tác viên làm CTXH

TGXH

- Thu nhập bình quân của cán bộ, nhân viên, công tác viên làm CTXH

Nguồn: NCS xây dựng

(iii) Đánh giá sự phù hợp của chính sách là xem xét chính sách được thực thi trong thực tiễn có thật sự phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội của đất nước, của các địa phương và hoàn cảnh của những đối tượng thụ hưởng chính sách hay không. Theo đó, để đánh giá sự phù hợp của chính sách TGXH trong CSSKTT, luận án sử dụng tiêu chí: Sự hài lòng của gia đình các đối tượng được hưởng chính sách TGXH trong CSSKTT.

2.2.3. Chủ thể và đối tượng của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

2.2.3.1. Chủ thể của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

Chủ thể của chính sách TGXH trong CSSKTT bao gồm các cơ quan từ Trung ương đến địa phương với các chức năng, nhiệm vụ khác nhau từ: hoạch định, tổ chức

36

triển khai chính sách. Bao gồm: Chính phủ; Bộ LĐTBXH; Các Sở, Phòng LĐTBXH ở cấp tỉnh, huyện. Bên cạnh đó, chủ thể của chính sách còn bao gồm các đơn vị phối hợp thực hiện chính sách: Cơ sở BTXH; Cơ sở y tế; Trung tâm chăm sóc sức khỏe; Các tổ chức phi chính phủ; Các lực lượng tư nhân, Các đơn vị phối hợp khác.

2.2.3.2. Đối tượng của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

Đối tượng của chính sách TGXH trong CSSKTT bao gồm:

(i) Tổ chức, đơn vị cung cấp dịch vụ CSSKTT;

(ii) Nhân lực thực hiện các dịch vụ CSSKTT;

(iii) Những đối tượng BTXH có vấn đề về SKTT, bao gồm:

NTT phân liệt: Tâm thần phân liệt là một loại bệnh tâm thần nặng. Cứ trong 100 người dân thì có 1 người mắc bệnh này. Bệnh có thể biểu hiện dưới nhiều dạng khác

nhau nhưng đều có chung đặc điểm là ảnh hưởng đến các hoạt động tinh thần và về lâu dài có thể làm thay đổi nhân cách của bệnh nhân. Các triệu chứng chính của bệnh là hoang tưởng, ảo thanh, rối loạn khả năng suy nghĩ, mất đi ý muốn làm việc, giảm sự biểu lộ tình cảm và cách ly xã hội.

Người rối loạn trầm cảm: Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp bao

gồm nhiều triệu chứng nhưng hay gặp nhất là sự buồn bã một cách sâu sắc.

Người rối loạn lưỡng cực: Rối loạn cảm xúc lưỡng cực là một rối loạn trong đó cảm xúc của bệnh nhân thường thay đổi từ giai đoạn trầm cảm sang hưng cảm hoặc ngược lại. Tuy nhiên cũng có những giai đoạn khí sắc bình thường nhưng nếu cứ để tiếp tục không điều trị thì tình trạng cảm xúc này sẽ chuyển từ cực này sang cực đối nghịch.

Người bệnh Alzheimer: Bệnh Alzheimer là một loại bệnh tiến triển ngày càng

nặng dần với đặc điểm là sự hủy diệt từ từ các tế bào thần kinh trong não.

Người rối loạn ám ảnh cưỡng chế:Đây là một loại rối loạn lo âu có thể xuất

hiện ở bất kỳ tuổi nào nhưng thường bắt đầu trong thời kỳ thơ ấu.

Người rối loạn tâm thần do rượu hay ma túy: Những người nghiện rượu hay chất gây nghiện là những người không thể kiểm soát việc sử dụng các chất này, họ cần phải dùng liện tục mỗi ngày với liều lượng ngày càng tăng. Nếu không có các chất này thì họ sẽ không thể làm việc bình thường và sẽ xuất hiện các triệu chứng rất khó chịu

như là đổ mồ hôi, mạch nhanh, run tay, mất ngủ, ói mửa, kích động, lo âu, co giật... (nếu là nghiện rượu) hoặc nôn, đau nhức bắp thịt, chảy nước mắt nước mũi, giãn đồng tử, dựng lông, toát mồ hôi, tiêu chảy, ngáp, mất ngủ...(nếu là nghiện thuốc phiện hay

37

heroin). Về lâu dài họ có thể bị thêm nhiều loại rối loạn tâm thần khác như sa sút tâm thần, rối loạn trí nhớ, loạn thần, rối loạn khí sắc, rối loạn lo âu, rối loạn giấc ngủ... Các đối tượng này cần được điều trị tại cơ sở chuyên khoa.

Người chậm phát triển trí tuệ: Là một tình trạng bệnh lý có đặc điểm là khả năng trí tuệ chung thấp hơn bình thường một cách rõ rệt kèm theo suy giảm đáng kể khả năng thích nghi (khả năng tự lập và thực hiện các trách nhiệm của xã hội tương ứng với tuổi) và khởi phát bệnh trước tuổi 18. Tuy nhiên khả năng thích nghi của trẻ

có thể được cải thiện nếu cho trẻ đi học tại các trường đặc biệt dành cho trẻ chậm phát triển trí tuệ và điều trị tốt các tình trạng bệnh lý kèm theo.

2.2.4. Các chính sách bộ phận của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

Mặc dù kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng hệ thống chính sách TGHX của Việt Nam từng bước được hoàn thiện và phát triển. Nhà nước đã xây dựng được hệ thống văn bản pháp luật, chính sách tạo cơ sở pháp lý cho thực hiện tốt chính sách TGXH.

Đến nay, đã có trên 10 bộ luật, luật; 7 pháp lệnh và hơn 30 nghị định, quyết định của Chính phủ; hơn 40 thông tư, thông tư liên tịch và nhiều văn bản có nội dung liên quan quy định khuôn khổ pháp luật, chính sách TGXH, trong đó bao gồm các chính sách

TGHX trong CSSKTT.

Chính sách TGXH trong CSSKTT bao gồm một hệ thống chính sách bộ phận với các giải pháp và công cụ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các đối tượng của chính sách. Tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau, có thể có các chính sách bộ phận

khác nhau khi đề cập đến hệ thống chính sách TGXH trong CSSKTT. Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận án, để đảm bảo tính khả thi, luận án sẽ tập trung đi sâu vào nghiên cứu 05 chính sách bộ phận:

2.2.4.1. Chính sách trợ cấp xã hội

TCXH là việc Nhà nước hỗ trợ bằng vật chất (thường là tiền) cho các đối tượng BTXH hàng tháng. Mức hỗ trợ được quy định chi tiết đối với từng nhóm đối tượng khác nhau và được thể hiện rõ trong các chính sách ASXH của Nhà nước.

Như vậy, chính sách TCXH trong CSSKTT có bản chất là việc Nhà nước cấp cho đối tượng chính sách một khoản tiền hàng tháng để mua lương thực, thực phẩm và các chi tiêu cần thiết khác phục vụ cho nhu cầu cuộc sống. Các chế độ trợ cấp

được tính toán dựa vào các mức chi tiêu tối thiểu để bảo đảm duy trì cuộc sống cho các đối tượng mắc các vấn đề về SKTT, khoản trợ cấp này bao gồm cả chi phí nuôi dưỡng và chi phí cho người chăm sóc (trong những trường hợp không tự chăm sóc được bản thân).

38

Các nhóm đối tượng khác nhau được hưởng các mức trợ cấp khác nhau dựa vào theo nguyên tắc bảo đảm không thấp hơn mức chuẩn chung và khó khăn nhiều hỗ trợ

nhiều, khó khăn ít hỗ trợ ít. Chế độ trợ cấp được điều chỉnh phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước và khả năng ngân sách Nhà nước.

2.2.4.2. Chính sách phát triển cơ sở bảo trợ xã hội

Chính sách phát triển cơ sở BTXH có bản chất là việc Nhà nước cấp kinh phí

cho đầu tư xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp các cơ sở BTXH nhằm tăng cường năng lực phục vụ của các cơ sở BTXH.

Ở Việt Nam, cơ sở BTXH bao gồm cơ sở BTXH công lập và cơ sở BTXH

ngoài công lập: Cơ sở BTXH công lập do cơ quan nhà nước quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên của cơ sở BTXH; Cơ sở BTXH ngoài công lập do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên của cơ sở

BTXH.

Nhà nước luôn khuyến khích các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; tổ chức tôn giáo;

các tổ chức, cá nhân trong nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thành lập cơ sở BTXH để chăm sóc đối tượng BTXH trên lãnh thổ Việt Nam, trong đó có các đối tượng mắc các vấn đề về SKTT; thành lập và tham gia Hiệp hội Giám đốc cơ sở BTXH để trao đổi kinh nghiệm chăm sóc, nuôi dưỡng, chỉnh hình

- PHCN và hoà nhập cộng đồng cho đối tượng BTXH.

Với sự gia tăng ngày một nhanh của các đối tượng BTXH nói chung, các đối tượng mắc các rối loạn tâm thần nặng nói riêng không thể điều trị tại cộng đồng thì

việc phát triển các cơ sở BTXH là một yêu cầu thiết yếu đối với các địa phương.

2.2.4.3. Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm

Chính sách đào tạo nghề có bản chất là việc Nhà nước phối hợp với các cơ sở BTXH, các đơn vị dạy nghề ở các địa phương tạo điều kiện để các đối tượng chính

sách tiếp cận và sử dụng dịch vụ đào tạo, bình đẳng như các thành viên khác trong xã hội. Chính sách đào tạo nghề được thực hiện cho các nhóm đối tượng có khả năng tiếp thu và có năng lực làm việc sau khi được đào tạo nghề, được triển khai bằng cách

miễn, giảm học phí, TCXH, hỗ trợ ăn trưa, giảm các khoản đóng góp xây dựng trường lớp... Trong những trường hợp đặc biệt hỗ trợ sách giáo khoa, vở viết và đồ dùng học tập. Phương thức thực hiện có thể thực hiện bằng cách nhà nước ấn định các cơ sở cung cấp dịch vụ miễn phí là các cơ sở của Nhà nước. Nhưng cũng có thể áp dụng

39

phương thức nhà nước mua dịch vụ của các tổ chức cung cấp dich vụ giáo dục. Đây là phương thức linh hoạt cả cho các đối tượng của chính sách và các đơn vị cung cấp

dịch vụ đào tạo nghề.

Chính sách tạo việc làm có bản chất là việc Nhà nước phối hợp với các đơn vị, doanh nghiệp để tạo điều kiện cho những đối tượng của chính sách TGXH đủ điều kiện, khả năng được tham gia lao động, tạo thu nhập để đáp ứng nhu cầu bản thân và

gia đình của đối tượng, đồng thời còn giúp PHCN, có cơ hội giao tiếp với xã hội, hoà nhập cộng đồng và hơn hết là đảm bảo quyền công dân của các đối tượng chính sách.

2.2.4.4. Chính sách phát triển các dịch vụ công tác xã hội

Theo Liên đoàn CTXH chuyên nghiệp quốc tế (họp ở Canada 2004) cho rằng: “CTXH là hoạt động chuyên nghiệp nhằm tạo ra sự thay đổi của xã hội bằng sự tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề xã hội (vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ xã hội) vào quá trình tăng cường năng lực và giải phóng tiềm năngcủa mỗi cá nhân,

gia đình và cộng đồng. CTXH đã giúp cho con người phát triển đầy đủ và hài hòa hơn và đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người dân”.

Theo Hiệp hội Quốc gia các nhân viên xã hội Mỹ - NAW (1970) thì: “CTXH là

hoạt động mang tính chuyên môn nhằm giúp đỡ những cá nhân, các nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hoặc khôi phục năng lực thực hiện chức năng xã hội của họ và tạo ra những điều kiện thích hợp nhằm đạt được những mục tiêu ấy”.

Như vậy, dịch vụ CTXH hướng đến việc trợ giúp cho các cá nhân, gia đình,

cộng đồng, đặc biệt là các đối tượng xã hội “yếu thế” giúp họ phát triển khả năng của bản thân, gia đình cùng với cộng đồng và sự trợ giúp của nhà nước, để họ tự vươn lên hòa nhập đời sống cộng đồng.

Ở Việt Nam, CTXH được biết đến từ những năm 1970 nhưng chỉ diễn ra ở miền Nam với một số trường đào tạo bậc cử nhân. Đến năm 2007, Bộ Lao động- TBXH đã chính thức tham gia tổ chức kỷ niệm ngày CTXH. CTXH trở thành một nghề chuyên nghiệp là một quá trình tất yếu, vì theo quy luật, khi kinh tế càng phát

triển thì càng nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Để giải quyết có hiệu quả và bền vững các vấn đề đó, đòi hỏi phải phát triển CTXH như một nghề chuyên nghiệp.

Qua đó có thể thấy rằng, các dịch vụ CTXH là các dịch vụ hỗ trợ hết sức đắc

40

lực cho vấn đề CSSKTT. Để phát triển các dịch vụ CTXH, Nhà nước khuyến khích các địa phương thành lập các Trung tâm Cung cấp dịch vụ CTXH với những chức năng, nhiệm vụ thiết thức gắn kết chặt chẽ với tình hình của các đối tượng BTXH của từng địa phương.

Nội dung cơ bản của chính sách phát triển các dịch vụ CTXH trong CSSKTT

như sau:

(i) Ban hành tiêu chuẩn, quy trình cung cấp dịch vụ CTXH;

(ii) Mở rộng các dịch vụ CTXH trợ giúp các đối tượng theo hướng linh hoạt và

gia tăng mức trợ giúp phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất nước;

(iii) Củng cố, phát triển mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH.

2.2.4.5. Chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác trợ giúp xã hội

Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, TGXH đã phát triển trở thành một nghề chuyên nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam nghề TGXH mới chỉ ở bước đầu hình thành, chưa được phát triển theo đúng ý nghĩa của nó trên tất cả các khía cạnh. Thực tế cho

thấy, đa phần nhân viên làm TGXH chưa được đào tạo cơ bản. Họ làm việc chủ yếu theo kinh nghiệm, chưa được đào tạo kỹ năng khoa học xã hội, kỹ năng nghề cần thiết về TGXH.

Để đảm bảo thực hiện thành công chính sách TGXH nói chung, chính sách TGXH trong CSSKTT nói riêng, Nhà nước ban hành các chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH. Mục tiêu của chính sách là phát triển CTXH trở thành một nghề ở Việt Nam. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về nghề CTXH; xây dựng

đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên CTXH đủ về số lượng, đạt yêu cầu về chất lượng gắn với phát triển hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH tại các cấp, góp phần xây dựng hệ thống ASXH tiên tiến.

Nội dung cơ bản của chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH

trong CSSKTT như sau:

(i) Tăng số lượng cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên CTXH làm việc ở các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến tỉnh, huyện và cấp xã, các tổ chức

sự nghiệp cung cấp dịch vụ CTXH, các trường đại học có đào tạo về CTXH và cán bộ nhân viên CTXH hoạt động độc lập;

(ii) Tổ chức đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ và tập huấn kỹ năng để nâng cao năng lực cho cán bộ, nhân viên và cộng tác viên CTXH;

(iii) Tuyên truyền, thông tin nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức,

41

viên chức và nhân dân về nghề CTXH.

2.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

2.2.5.1. Nhóm nhân tố thuộc về các đơn vị tham gia cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần

Hiện nay ở Việt Nam, các đơn vị cung cấp dịch vụ CSSKTT không phong phú, mới chỉ bao gồm: các trung tâm BTXH và các đơn vị dịch vụ CTXH. Theo đó, khi xét đến nhóm tổ chức này, những người làm chính sách cần lưu ý đến một số nhân tố sau:

(i) Năng lực quản lý của các đơn vị:

Đây là nhân tố mang tính quyết định đến khả năng tiếp nhận và triển khai các chính sách của cấp trên liên quan đến công tác CSSKTT tại các đơn vị. Những đơn vị có người quản lý có năng lực tốt sẽ có được các phương án triển khai thực hiện các

chính sách CSSKTT một cách khoa học, hiệu quả trong cơ sở nguồn lực hiện có của Trung tâm và ngược lại. Ngoài ra, năng lực quản lý còn thể hiện ở đạo đức, ở cái tâm với về của những người lãnh đạo. Mặc dù các yếu này không phải là nhân tố “chính

thống” trong quản lý nhưng chúng lại có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực thi đối với một chính sách đặc thù như chính sách CSSKTT. Thực tế cho thấy, nhân tố này hiện nay vẫn là một nhân tố “yếu” cố hữu trong nhiều đơn vị của ngành nói chung, của các đơn vị cung cấp dịch vụ CSSKTT nói riêng.

(ii) Cơ sở vật chất của các đơn vị:

Điều kiện cơ sở vật chất là nhân tố cơ bản đảm bảo cung cấp dịch vụ CSSKTT tại các đơn vị. Ở đây có 02 loại hình đơn vị cung cấp dịch vụ CSSKTT là các cơ sở chăm sóc

(các trung tâm BTXH) và các đơn vị cung cấp dịch vụ CTXH (các trung tâm CTXH): Thứ nhất, đối với các trung tâm BTXH, cơ sở vật chất ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc người bệnh tâm thần sống tại các trung tâm này; thứ hai, đối với các trung tâm CTXH, cơ sở vật chất lại chính là một “nhân tố sản xuất” hay nhân tố đầu vào của hoạt động, do

đó, nó ảnh hưởng đến năng lực cung ứng dịch vụ CTXH của các trung tâm này.

(iii) Nguồn nhân lực:

Bên cạnh đội ngũ quản lý đã đề cập ở trên, đội ngũ nhân viên cũng là nhân tố

có tầm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả triển khai thực thi các chính sách CSSKTT. Đơn vị có đội ngũ nhân viên có năng lực tốt sẽ đảm bảo thực hiện các công việc nhanh chóng, hiệu quả và ngược lại. Bên cạnh nhiệm vụ thực hiện các công việc trong quyền hạn, trách nhiệm của mình, đội ngũ nhân viên còn là nguồn sáng tạo của các đơn vị, giúp

42

đơn vị có những sáng kiến, cải tiến quy trình làm việc để đạt được hiệu quả cao hơn.

2.2.5.2. Nhóm nhân tố thuộc về đối tượng thụ hưởng chính sách

(i) Quy mô của đối tượngthụ hưởng:

Đây là một trong những nhân tố quyết định đến quan điểm tiếp cận chính sách theo hướng mục tiêu hay phổ cập. Nếu quy mô đối tượng ít thì có thể lựa chọn hướng

nâng cao chất lượng chính sách, nhưng nếu quy mô đối tượng đông, nguồn lực có hạn thì phải lựa chọn hướng phổ cập chính sách. Nhân tố này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả và hiệu lực, tính công bằng của chính sách.

(ii) Nhu cầu trợ giúp của các đối tượng:

Nhu cầu của đối tượng cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách. Chính sách có hiệu quả cao phải là những chính sách hướng tới nhu cầu cá nhân cho đối tượng hưởng lợi. Nghĩa là đối tượng có nhu cầu gì, thì ưu tiên hỗ trợ vào nhu

cầu đó. Chính vì vậy mà trong quá trình nghiên cứu xây dựng chính sách cần đánh giá về nhu cầu và mong muốn của đối tượng thụ hưởng chính sách.

(iii) Năng lực cá nhân của đối tượng thụ hưởng:

Năng lực cá nhân ở đây được xem xét ở hai khía cạnh. Thứ nhất là khả năng tự bảm đảm các nhu cầu cá nhân của mình và khía cạnh thứ hai là khả năng tiếp cận các chính sách của Nhà nước. Mặc dù nhân tố này nằm ngoài của quá trình hoạch định, xây dựng chính sách, nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực thi chính sách.

2.2.5.3. Nhóm nhân tố thuộc về cơ quan quản lý nhà nước

(i) Năng lực hoạch định chính sách và tổ chức thực thi của các cơ quan:

Năng lực này thể hiện bằng việc ban hành các văn bản có phù hợp không, có

khả thi thực hiện không, có đúng với quy định không và có bảo đảm tính khách quan và thực tiễn không. Năng lực được đánh giá cả bằng hệ thống tổ chức bộ máy, chuyên môn của cán bộ thực thi chính sách từ Trung ương đến cấp cơ sở.

Sự hoàn thiện tổ chức bộ máy và năng lực đội ngũ cán bộ trong việc thực thi

chính sách đóng vai trò nòng cốt, quyết định thành công hay thất bại của chủ trương, chính sách, biện pháp của Nhà nước trong việc thực thi chính sách ở địa phương. Trong đó, đội ngũ cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng: đội ngũ cán bộ tốt, có chuyên

43

môn sẽ áp dụng, triển khai, vận dụng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cấp trên hiệu quả, năng động, sáng tạo. Ngược lại, đây sẽ là nhân tố cản trở việc thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT.

(ii) Nhận thức của các cấp, ngành về sự cần thiết của TGXH trong CSSKTT:

ASXH nói chung, TGXH trong CSSKTT nói riêng có vai trò rất to lớn trong việc đảm bảo sự phát triển bền vững của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của quốc gia, địa phương, nhưng lại là vấn đề rất phức tạp và đa dạng nên nhận thức về vấn đề

TGXH trong CSSKTT của các cấp, các ngành là một trong những nhân tố then chốt giúp cho việc thực thi các chính sách của Nhà nước một cách hiệu quả. Sự nhận thức của các cấp, các ngành, nhất là đội ngũ cán bộ trong TGXH trong CSSKTT và đảm

bảo ASXH sẽ là nền tảng quan trọng trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách, phát triển kinh tế xã hội gắn với đảm bảo ASXH ở địa phương.

2.2.5.4. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường của chính sách

(i) Thể chế, pháp luật, chính sách, quy định của Nhà nước

Mức độ thể chế, chính sách dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật, sự phù hợp, tương đồng của các văn bản với hệ hệ thống luật pháp và yêu cầu của thực tiễn. Thể chế hoá phải bảo đảm quy định cả về đối tượng, chính sách, nguyên tắc và các

công, điều kiện tổ chức thực thi như: Ngân sách, cán bộ, kỹ thuật nghiệp vụ... Nếu thể chế hoá thiếu một trong các nội dung thì cũng sẽ dẫn đến chính sách ban hành cũng khó có thể thực hiện có hiệu quả được.

Pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về đảm bảo ASXH nói

chung bao gồm những chủ trương, chính sách về BHXH, BHYT; TGXH; XĐGN;... Những chủ trương, chính sách này tập trung hướng đến việc đảm bảo ASXH cho người dân. Đây được coi là kim chỉ nam cho việc xây dựng chiến lược phát triển bền

vững của mỗi địa phương, là nhân tố hết sức quan trọng, nó có tác dụng định hướng để các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội có căn cứ để triển khai thực hiện. Ngoài ra, thông qua các chủ trương hỗ trợ bằng vật chất, tinh thần tới các đối tượng thụ hưởng ASXH giúp họ sớm ổn định cuộc sống, từng bước được nâng lên

nhằm đảm bảo điều tiết, tạo công bằng xã hội, thúc đẩy sự phát triển bền vững.

(ii) Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội đất nước (bối cảnh của chính sách)

Các nhân tố kinh tế, văn hoá, xã hội là các nhân tố quan trọng quyết định đến

hiệu quả và hiệu lực của chính sách TGXH trong CSSKTT. Hệ thống chính trị và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội sẽ quyết định quan điểm và định hướng phát triển chính sách, đến các giải pháp, biện pháp và các công cụ phù hợp để đưa chính sách vào cuộc sống. Có thể khẳng định rằng, điều kiện kinh tế sẽ quyết định đến tính khả thi

44

và kết quả của chính sách trong quá trình thực hiện.

(iii) Môi trường quốc tế

Quá trình hợp tác quốc tế cũng sẽ chi phối hệ thống chính sách quốc gia và ảnh hưởng đến những định hướng chính sách trong dài hạn. Do đó, trong quá trình nghiên cứu xây dựng chính sách nói chung, chính sách TGXH trong CSSKTT nói riêng, Nhà

nước cần xem xét đến các nhân tố môi trường quốc tế, đảm bảo tính khả thi và sự phù hợp của chính sách trong sự biến động của môi trường hội nhập.

2.3. Kinh nghiệm về chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại một số nước trên thế giới

2.3.1. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Mỹ

Lịch sử của vấn đề bệnh tâm thần tại Hoa Kỳ là một trường hợp hay về những cách thức mà các xu hướng trong tâm thần học và sự hiểu biết văn hóa của bệnh tâm

thần ảnh hưởng đến chính sách và thái độ đối với SKTT quốc gia. Mỹ được coi là có một hệ thống CSSKTT tương đối tiến bộ.

Theo Knapp, M., Beecham, J., McDaid, D., Matosevic, T., Smith, M. (2011),

trước đây, mô hình chăm sóc bệnh nhân theo mô hình chăm sóc nội trú, trong đó có nhiều bệnh nhân sống trong bệnh viện và được điều trị bởi các nhân viên chuyên nghiệp, được coi là cách hiệu quả nhất để chăm sóc cho người bệnh tâm thần. Mặc dù mô hình chăm sóc được thể chế hóa nâng cao khả năng tiếp cận của bệnh nhân với các

dịch vụ SKTT, song các bệnh viện nhà nước thường thiếu nhân lực và vốn, và vì thế hệ thống chăm sóc được thể chế hóa đã bị chỉ trích gay gắt sau khi một loạt những báo cáo toàn diện đã đưa ra những bằng chứng về điều kiện chăm sóc tồi tàn và sự vi phạm

nhân quyền tại những cơ sở này. Nỗ lực phi thể chế hóa đã phản ánh một phong trào quốc tế chủ yếu là nhằm cải cách hệ thống CSSKTT và hướng đến chăm sóc tại cộng đồng, dựa trên niềm tin rằng bệnh nhân tâm thần sẽ có một chất lượng cuộc sống cao hơn nếu được điều trị tại cộng đồng của họ chứ không phải là trong một bệnh viện tâm

thần lớn nào đó, và do đó họ sẽ không bị cô lập và chịu sự phân biệt.

Mặc dù bệnh viện tâm thần nội trú là một hình thức phổ biến nhất ở một số nước, đặc biệt là ở Trung và Đông Âu, phong trào phi thể chế hóa đã lan rộng, thay đổi

đáng kể về bản chất của chăm sóc tâm thần hiện đại. Việc đóng cửa bệnh viện tâm thần nhà nước ở Hoa Kỳ đã được hệ thống hóa theo Đạo luật trung tâm y tế Cộng đồng tâm thần (Community Mental Health Centers Act) năm 1963, và các tiêu chuẩn nghiêm ngặt được thông qua để chỉ có những cá nhân “đặt ra một mối nguy hiểm cho

45

bản thân hoặc người khác” mới được đưa vào các viện tâm thần liên bang của nhà nước. Vào giữa những năm 1960 ở Mỹ, nhiều người mắc chứng bệnh tâm thần nặng

đã được di chuyển từ viện tâm thần về cơ sở SKTT tại địa phương hoặc các cơ sở tương tự. Số lượng bệnh nhân bị bệnh tâm thần được thể chế hóa đã giảm từ đỉnh điểm 560.000 trong năm 1950 lên 130.000 vào năm 1980. Đến năm 2000, số lượng giường bệnh nhà nước tại viện tâm thần được tính là với 100.000 dân là 22 giường bệnh, so

với 339 giường bệnh năm 1955. Ở những cở sở CSSKTT được thể chế hóa, CSSKTT dựa vào cộng đồng đã được phát triển và bao gồm một loạt các cơ sở điều trị, từ các trung tâm SKTT cộng đồng cho đến những nhóm CSSKTT dựa vào cộng đồng.

Mental Health America (MHA), ban đầu được thành lập bởi Clifford Beers năm 1909 là Ủy ban Quốc gia về vệ sinh tâm thần, làm việc để cải thiện cuộc sống của người bệnh tâm thần tại Hoa Kỳ thông qua nghiên cứu và vận động hành lang nỗ lực. Một số sáng kiến của chính phủ cũng đã giúp cải thiện hệ thống CSSKTT Mỹ. Năm

1946, Harry Truman thông qua Đạo luật SKTT Quốc gia, trong đó tạo ra Viện SKTT và phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng nghiên cứu về nguyên nhân, điều trị bệnh tâm thần. Năm 1963, Quốc hội thông qua “Mental health retardation facilities” và

Trung tâm Y tế Luật Xây dựng cộng đồng, nơi đã tài trợ liên bang cho sự phát triển của các dịch vụ SKTT dựa vào cộng đồng. Liên minh Quốc gia vì bệnh tâm thần được thành lập vào năm 1979 để cung cấp “hỗ trợ, giáo dục, vận động, và các dịch vụ nghiên cứu cho những người bị bệnh tâm thần nghiêm trọng”. Can thiệp khác của

chính phủ và các chương trình, bao gồm các chương trình phúc lợi xã hội, đã giúp để cải thiện tiếp cận CSSKTT.

Đạo Luật Affordable Act năm 2010 hay còn gọi là “Obamacare” có những

bước tiến xa hơn nữa. Nó mở rộng độ bao phủ với những cá nhân nhận bảo hiểm từ các doanh nghiệp nhỏ và những người mua nó trên thị trường cá nhân (ví dụ, trao đổi bảo hiểm y tế liên bang). Nó cũng định nghĩa SKTT như là một lợi ích chăm sóc sức khỏe thiết yếu và dịch vụ phải được cung ứng đầy đủ cho người dân. Cuối cùng nhưng

không kém phần quan trọng, đạo luật tất nhiên cũng cung cấp bảo hiểm cho người dân không có bảo hiểm, trong đó có một tỷ lệ cao những người mắc chứng rối loạn tâm thần. Hơn 60 triệu người Mỹ sẽ nhận được những lợi ích từ những cải thiện đưa ra từ

Đạo Luật Affordable Act.

Với một số lượng lớn những nhà cung cấp, cơ sở điều trị, và các cơ chế thanh toán khác nhau, hệ thống phân phối CSSKTT tại Hoa Kỳ thực sự rất phức tạp, và một số nhà lập sách và các bên liên quan khác, tin rằng hệ thống có những khoảng trống

46

gây khó khăn cho việc điều phối và tiếp cận những dịch vụ CSSKTT đối với một số cộng đồng. Theo quan điểm tập trung gần đây về cải cách hệ thống chăm sóc sức khỏe nói chung, Quốc hội có thể xem xét các cơ hội để chuyển đổi hệ thống phân phối

CSSKTT. Thảo luận chính sách đưa ra một số những phát hiện:

Trong khi đã có những tiến bộ trong việc phát hiện và thực hành điều trị dựa trên bằng chứng (evidence - based treatment practices), các ứng dụng thực tế của những phát hiện này vẫn còn được tiến hành khá chậm.

Khả năng tiếp cận với nhà cung cấp SKTT chuyên nghiệp là khan hiếm trong

khu vực nông thôn và thậm chí ở ngay một số khu vực đô thị.

Bảo hiểm y tế của bệnh tâm thần thường ít được bao phủ toàn diện so với các

bệnh thể chất

Những biện pháp đo lường chất lượng CSSKTT chưa đủ để cải thiện chất lượng và

mang lại những biến đổi cho hệ thống CSSKTT. (Nguyễn Ngọc Hường, 2015)

2.3.2. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Úc

Ở cấp quốc gia, Úc có hai chương trình chính sách cơ bản về CSSKTT là Chiến Lược Quốc Gia Về SKTT (National Mental Health Strategy) và Chương Trình Hành Động Quốc Gia Về Về SKTT (National Action Plan on Mental Health). Đây là các

chương trình khung về chính sách cho CSSKTT. Ngoài ra, Úc có Thỏa Thuận Quốc Gia Về Chăm Sóc Sức Khỏe (National Healthcare Aggreement) và Thỏa Thuận Quốc Gia Về Hệ Thống Y Tế Và Bệnh Viện để hướng dẫn các hoạt động của chính phủ trong chăm sóc SKTT. Chiến Lược Quốc Gia Về SKTT của Úc bao gồm Chính Sách

SKTT Quốc Gia và Kế Hoạch SKTT Quốc Gia; và cả hai đều dựa trên nền tảng là Tuyên Bố Về Quyền Và Trách Nhiệm Trong SKTT mà chính phủ Úc phê chuẩn lần đầu vào năm 1992 và phê chuẩn lại nhiều lần sau đó. Chính Sách Quốc Gia về SKTT

được sửa đổi lần gần đầy nhất vào năm 2008. Chính sách này đưa ra tầm nhìn chiến lược về cải cách chính sách SKTT ở Úc; theo đó nước Úc sẽ xây dựng một hệ thống CSSKTT có đặc điểm:

Đảm bảo việc phục hồi

Ngăn ngừa và phát hiện sớm với các vấn đề SKTT

Đảm bảo tất cả người dân Úc có vấn đề về SKTT đều có thể tiếp cận dịch vụ điều trị hiệu quả và thích hợp và đảm bảo các trợ giúp trong cộng đồng nhằm giúp

người dân Úc có vấn đề về SKTT có thể tham gia đầy đủ vào cộng đồng.

Dựa trên các chính sách khung trên, Úc triển khai các chính sách và chương trình TGXH trong CSSKTT cho nhiều đối tượng tham gia vào việc CSSKTT: trợ giúp cho người bệnh (ví dụ, các dịch vụ chi trả toàn bộ hoặc một phần việc khám chữa bệnh, các

47

loại trị liệu, các dịch vụ giáo dục, việc làm, hòa nhập cộng đồng, vấn đề quyền), trợ giúp

cho gia đình người bệnh và cộng đồng, cũng như trợ giúp cho hệ thống CSSKTT (ví dụ trả tiền cho các bác sĩ muốn nâng cao hiểu biết về SKTT). Úc cũng triển khai TGXH thông qua nhiều kênh: lớn nhất là kênh chăm sóc sức khỏe ban đầu, tiếp đến là các kênh dịch vụ chăm sóc trong cộng đồng và tại gia. Các hình thức TGXH chủ yếu là trợ giúp các

dịch vụ tham vấn, trị liệu tâm lý-xã hội thông qua kênh chăm sóc sức khỏe ban đầu; dịch vụ nhà ở; dịch vụ việc làm; và các dịch vụ hòa nhập vào cộng đồng.

Đối với các dịch vụ TGXH trong CSSKTT thông qua kênh chăm sóc sức khỏe

ban đầu (tức kênh y tế), chương trình cơ bản nhất của Úc là chương trình Medicare - tức chương trình phúc lợi y tế toàn dân (universal healthcare system). Trong chương trình này có hai chương trình cơ bản là Chương trình phúc lợi chăm sóc y tế Medicare (Medicare Benefits Schedule - MBS) và Chương trình phúc lợi Dược (Pharmaceutical

Benefits Scheme - PhBS). Chương trình Medicare tập trung vào các trợ giúp liên quan tới dịch vụ y tế và xã hội; còn chương trình Dược tập trung vào các trợ giúp liên quan tới thuốc như kê đơn thuốc, trợ giá thuốc, vân vân... Đối với chương trình Medicare,

chính phủ Úc trợ cấp toàn bộ hoặc một phần chi phí cho người có vấn đề SKTT trong một loạt các dịch vụ y tế, mà lớn nhất (43,5%) là các dịch vụ tham vấn và trị liệu tâm lý-xã hội với các bác sĩ tâm lý và nhân viên trị liệu khác như nhân viên CTXH (trị liệu cá nhân, trị liệu gia đình, các trị liệu chuyên biệt như trị liệu việc làm, trị liệu giao tiếp,

vv...). Cụ thể hơn, MBS có 3 chương trình chính: trợ giá toàn bộ hoặc một phần cho các dịch vụ tâm-thần kinh với bác sĩ thần kinh (MBS-subsidized psychiatrist services) như dịch vụ khám, tham vấn, tâm lý trị liệu, tư vấn ca, và trị liệu sốc điện; trợ giá toàn

bộ hoặc một phần cho các dịch vụ tâm lý (MBS-subsidised psychologist services) như dịch vụ tham vấn, trị liệu với các bác sĩ tâm lý có giấy phép trị liệu lâm sàng (tức có bằng tiếng sỹ về tâm lý học lâm sàng hoặc bằng thạc sỹ về tâm lý học lâm sàng và 1 năm thực tập dưới sự hướng dẫn của một bác sĩ tâm lý lâm sàng); trợ giá toàn bộ hoặc

một phần cho các dịch vụ với các chuyên gia SKTT khác như nhà trị liệu việc làm, điều dưỡng SKTT, nhân viên CTXH.

Ngoài Medicare - theo đó các dịch vụ chủ yếu được cung cấp qua hệ thống

chăm sóc sức khỏe ban đầu, Úc có nhiều chương trình TGXH trong CSSKTT qua các kênh khác, ví dụ như trợ giúp chăm sóc tại gia, trợ giúp chăm sóc trong cộng đồng. Các dịch vụ TGXH này có thể được quy định trong văn bản liên quan tới SKTT hoặc các văn bản luật khác. Ví dụ như các dịch vụ trợ giúp tại gia cho người già có vấn đề

48

về SKTT có một phần quy định trong Chính sách quốc gia về SKTT, một phần trong Luật Chăm Sóc Người Già 1997 (Aged Care Act 1997). Dưới đây là một số chương trình chính:

Các dịch vụ chăm sóc tại gia (residental mental health care): chính phủ trợ giá toàn bộ hoặc một phần cho các dịch vụ chăm sóc tại nơi ở (ở nhà mình, ở viện dưỡng lão, ở group homes cho người già, vv...)

Đối với người có khuyết tật về tâm thần (psytriachic disability), Luật Khuyết

Tật Quốc Gia (National Disability Aggreement) quy định chính phủ chi trả các dịch vụ hỗ trợ tại gia (residential services) và phi tại gia (non-residential services). Dịch vụ tại gia chủ yếu dùng cho những người khuyết tật sống phần lớn thời gian trong nhà, dù là

nhà riêng, các cơ sở chăm sóc tập trung, trại tế bần, hay nhà dưỡng lão. Với đối tượng này, chính phủ có trợ cấp khuyết tật hàng tháng, trả tiền nhà ở, và các dịch vụ chăm sóc khác.

Dịch vụ trợ giúp vô gia cư (specialist homelessness services - SHS): dịch vụ

này chủ yếu có mục đích ngăn ngừa người có vấn đề SKTT trở thành người lang thang, vô gia cư.

Thông qua Chương trình hỗ trợ nhà ở (Supported Accomondation Assistance Program) dựa trên Luật Trợ Giúp Nơi Ở 1994, theo đó chính phủ liên bang và tiểu bang của Úc sẽ trợ cấp toàn bộ hoặc một phần cho những người vô gia cư hoặc có nguy cơ trở thành vô gia cư bằng cách cung cấp các dịch vụ nhà ở ngắn hạn và dài hạn cho các đối tượng này. Các dịch vụ này bao gồm trả tiền ở tại nhà trọ, cơ sở tạm trú,

nhà tạm lánh trong cộng đồng, tiền ăn, việc tắm giặt cho những người này. Đối với các đối tượng có vấn đề về SKTT, ngoài việc nhận các dịch vụ hỗ trợ nhà ở trên, chính phủ Úc trả tiền để những người này nhận được dịch vụ chăm sóc SKTT.

Dịch vụ trợ lý cá nhân và đỡ đầu (Personal Helpers and Mentors - PhaMs): đây là một chương trình của chính phủ Úc, thuộc quản lý của Bộ Gia Đình, Nhà Ở, Dịch Vụ Cộng Đồng và Các Vấn Đề Dân Tộc. Trong năm 2011-2012, chương trình này trợ giúp khoảng hơn 13000 người và có mục đích hỗ trợ người vừa điều trị các rối loạn

tâm thần hồi phục nhanh, hòa nhập trở lại cộng đồng. Người tham gia vào dịch vụ này được lượng giá và tư vấn cá nhân về các hoạt động trong cộng đồng, về việc xây dựng và duy trì quan hệ cá nhân, về lao động - việc làm; về nơi tìm kiếm hỗ trợ, vv...

(Nguyễn Ngọc Hường, 2015)

2.3.3. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Thụy Điển

Theo tác giả Melke (2010), là quốc gia dân chủ với sự phân quyền cao độ, Thụy Điển chỉ có một số cơ quan trung ương làm công việc quản lý chung về CSSK, là Bộ

49

Y Tế và Hội Đồng Quốc Gia về Y Tế và Phúc Lợi (National Board of Health and Welfare). Chính quyền trung ương xây dựng các văn bản khung như Luật Dịch Vụ Xã

Hội, Luật Khuyết Tật; các tiểu bang (state) và hạt (county) là nơi xây dựng và triển khai các chương trình CSSKTT cũng như tự chi trả cho các dịch vụ này. Ước tính 70% ngân sách cho các dịch vụ CSSK được đóng góp từ thuế của hạt và tiểu bang. Người bệnh chỉ phải đóng góp rất ít (khoảng 3%).

Một cách cụ thể, Thụy Điển áp dụng chế độ phúc lợi toàn dân nên tất cả công dân Thụy Điển đều được hưởng trợ cấp chăm sóc sức khỏe, bao gồm cả sức khỏe thể chất lẫn tâm thần, nếu có nhu cầu (Melke, 2010). Xét về các dịch vụ y tế, đối với các

dịch vụ điều trị ngoại trú, họ chỉ phải tự chi trả một phần nhỏ và Nhà nước có quy định chung về mức trần đối với khoản tự chi trả này (thường không vượt qua 100 euro mỗi năm); nếu vượt quá mức trần này, hệ thống ASXH sẽ chi trả. Đối với các dịch vụ nội trú, các hạt khác nhau có quy định về trợ cấp dịch vụ ở mức khác nhau, tùy vào thu

nhập, tuổi, và thời gian điều trị nội trú. Những người có thu nhập thấp hoặc có khuyết tật chỉ phải trả 50% phí bệnh viện so với những đối tượng khác. Về cơ bản, mức chi trả cho điều trị nội trú không được vượt quá một mức trần (thường là khoảng 9 euro

mỗi ngày).

TGXH cho người có vấn đề về SKTT tồn tại dưới hai dạng: các trợ cấp thu nhập và các trợ giúp khác (nhà ở, việc làm, chăm sóc tại gia, hòa nhập cộng đồng, vv...). Trợ cấp thu nhập được cung cấp thông qua hai dạng: trợ cấp thu nhập cho người phải nghỉ việc vì SKTT (gọi là sick pay) và trợ cấp khuyết tật. Trong những năm qua, các rối nhiễu tâm thần chiếm 1/3 trong tất cả các nguyên nhân xin trợ cấp; là nguyên nhân thứ nhất hoặc thứ hai đối với người lao động xin nghỉ ốm; và chiếm 40% số

người xin trợ cấp khuyết tật. Với người phải nghỉ việc vì SKTT, người xin trợ cấp thu nhập phải mất ít nhất 25% khả năng làm việc; và sẽ được nhận trợ cấp tương đương một số % của lương trước khi phải nghỉ việc, thường là 80% trong một khoảng thời gian nhất định. Sau khoảng thời gian này, nếu họ được giám định là không thể trở lại

làm việc thì họ có thể xin chuyển sang dạng trợ cấp khuyết tật. Trợ cấp này chia theo nhóm tuổi: từ 19-29 và từ 30-64 (người ngoài 65 sẽ chuyển sang hưởng trợ cấp hưu trí hoặc tuổi già - là trợ cấp toàn dân). Người xin trợ cấp khuyết tật phải mất ít nhất 25%

khả năng làm việc trong vòng ít nhất 1 năm đối với nhóm tuổi 19-29 hoặc mất khả năng làm việc lâu dài với nhóm tuổi 30-64; khi đó, họ sẽ được trợ cấp 64% thu nhập dựa trên thu nhập trước khi nghỉ việc; hoặc nếu chưa bao giờ làm việc thì sẽ được hưởng một mức do Nhà nước quy định.

50

Về nhà ở, Luật Dịch Vụ Xã Hội 1982 (Social Service Act 1982) và Luật Khuyết Tật 1994 đều quy định chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm trợ giúp cho người có vấn đề về SKTT trong vấn đề nhà ở. Người muốn xin trợ giúp về nhà ở

phải có trách nhiệm chứng minh rằng mình có nhu cầu nhà với trang thiết bị hỗ trợ đặc biệt hoặc nơi ở hiện tại không đảm bảo chất lượng sống cho họ. Trong trường hợp đó, Sở dịch vụ xã hội ở địa phương sẽ chi trả tiền nhà cho người được hưởng chính sách; người này có thể tự tìm nhà thuê theo ý mình, hoặc tới ở một trong những nhà xây

chuyên biệt cho người thuộc quản lý của Sở (group homes, shelters), hoặc ở các nhà thuê tư nhân có hợp tác với Sở. Nếu họ cần thiết bị hỗ trợ đặc biệt trong nhà, họ có thể làm đơn xin được cung cấp các thiết bị này.

Về việc làm, gần 90% những người thuộc dạng có “khuyết tật tâm thần” (mental disability) bị giảm năng lực lao động và chỉ có 35% đang có một dạng công việc nào đó. Các ủy ban điều tra về tình trạng lao động - việc làm của Thụy Điển cho rằng người có vấn đề về SKTT khó tham gia lao động vì thị trường lao động được thiết

kế cho những người không có vấn đề. Vì vậy, chính phủ đưa ra một số chính sách hỗ trợ người có vấn đề về SKTT trong tìm kiếm và duy trì việc làm. Trước hết, họ có các trung tâm việc làm (jobcenters) chịu trách nhiệm đăng ký những người có vấn đề về

SKTT và giới thiệu họ vào các việc phù hợp. Các trung tâm này cũng có các dịch vụ PHCN lao động hoặc trả tiền cho các cơ sở tư nhân cung cấp dịch vụ đào tạo và PHCN lao động cho người có vấn đề về SKTT. Đối với người đang làm việc nhưng có vấn đề về SKTT, chính phủ có các chương trình cung cấp dịch vụ PHCN lao động; tuy nhiên,

gánh nặng chi trả trong trường hợp này được san sẻ giữa bảo hiểm xã hội và chủ lao động. Đối với người không có khả năng tìm việc làm trên thị trường lao động bình thường, theo Luật Dịch Vụ Xã Hội, các sở địa phương có trách nhiệm đảm bảo những

người này có “một công việc có ý nghĩa” nếu như họ có nhu cầu. Luật không chỉ rõ thế nào là “một công việc có ý nghĩa” nhưng thường thì chính quyền địa phương bố trí cho những người có vấn đề về SKTT làm một số công việc nhẹ, trong môi trường bảo trợ, hoặc tham gia một số hoạt động PHCN liên quan đến lao động, ví dụ làm vườn, nấu

ăn, v.v...

2.3.4. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Pháp

Cũng theo tác giả Anna Melke, Pháp phá bỏ các trại tâm thần vào thập kỷ 60

51

của thế kỷ 20 nhưng tương đối chậm trong việc xây dựng một chính sách chung cho những người có vấn đề về SKTT. Là quốc gia theo mô hình quản lý tập trung, hầu hết các chính sách của Pháp được ban hành ở chính quyền trung ương; trong khi chính quyền địa phương chỉ có nghĩa vụ triển khai. Ở cấp độ quốc gia, Luật ASXH1945 (Sécurité sociale) đặt gánh nặng hỗ trợ lên chủ lao động và người lao động bằng cách quy định họ phải cùng đóng góp mua bảo hiểm cho người lao động, nhằm chi trả các chi phí CSSKTT khi cần. Đối với người lao động tự túc hoặc các dạng lao động không

thuộc quản lý của Luật ASXH, người lao động tự hình thành cơ chế bảo hiểm riêng (Melke, 2010).

Trong CSSKTT, đứng về dịch vụ y tế, Pháp cũng áp dụng mô hình toàn dân, theo đó tất cả các công dân có quyền đi khám bệnh ở một bác sĩ đa khoa hoặc bác sĩ

chuyên về SKTT, dù họ có thu nhập hay không có thu nhập để chi trả chi phí khám bệnh này. Người muốn khám bệnh và điều trị ngoại trú có thể đến các cơ sở khám chữa bệnh do Nhà nước bảo trợ và được khám chữa bệnh miễn phí hoặc trả một khoản

phí nhỏ đã được quy định sẵn. Đối với người muốn điều trị nội trú, bệnh nhân sẽ phải trả tiền, thường là từ hệ thống bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, nếu họ thuộc diện có thu nhập nhấp thì họ sẽ được điều trị miễn phí.

Cần lưu ý rằng hệ thống bảo hiểm của Pháp được xây dựng từ lâu, dựa trên mặc

định rằng 100% người trong độ tuổi lao động đều có việc làm có thu nhập, dù là làm công ăn lương hay tự kinh doanh. Vì thế Nhà nước xây dựng và quản lý các quỹ bảo hiểm để chủ lao động và người lao động đóng góp tiền vào quỹ, nhằm chi trả cho các

dịch vụ y tế. Trong các quỹ này, có những quỹ bao gồm 85% người lao động Pháp. Bên cạnh đó, trên 92% người Pháp cũng mua thêm bảo hiểm tư nhân, theo thỏa thuận giữa chủ lao động và các công ty bảo hiểm.

Với các dịch vụ TGXH ngoài y tế cho người có vấn đề về SKTT, Pháp chỉ có

một số dịch vụ. Thứ nhất là hỗ trợ thu nhập cho người phải nghỉ việc vì vấn đề về SKTT (sick pay). Tuy nhiên, Pháp chỉ hỗ trợ những người từng làm việc ít nhất 6 tuần trong 3 tháng vừa qua - trong trường hợp đó, họ có thể được hưởng hỗ trợ một khoản

tiền tương đương 6 tháng lương để nghỉ ốm liên quan đến SKTT tối đa 180 ngày, trải trong thời gian tối đa là 3 năm. Mức trợ cấp thu nhập là 50% lương. Vì mức trợ cấp thu nhập thấp nên người Pháp mua thêm bảo hiểm tư nhân để hỗ trợ, đề phòng phải nghỉ ốm lâu dài vì các vấn đề SKTT. Đối với các đối tượng có vấn đề về SKTT ở dạng

được coi là có “khuyết tật tâm thần” (mất ít nhất 2/3 khả năng làm việc), họ được hưởng lương khuyết tật (disability pension) dựa trên hồ sơ làm việc trước khi phải nghỉ việc vì khuyết tật. Thông thường, mức lương tương đương 30%-50% lương trước

đó, nhưng cũng bị chặn bởi một mức trần và mức sàn và không vĩnh viễn. Đối với người chưa từng lao động và có khuyết tật, nước Pháp có chế độ trợ cấp khuyết tật (disability allowance). Hiện tại chế độ này đang hỗ trợ khoảng 750 ngàn người khuyết tật Pháp, trong đó 28% có khuyết tật tâm thần. Để được hưởng chế độ này, người xin

trợ cấp thường phải chứng minh mình mất ít nhất 80% khả năng làm việc và hầu như không thể tìm được việc làm.

52

Về nhà ở, Hiến pháp và một số văn bản luật của Pháp quy định các công dân có

quyền có nhà ở và chính quyền địa phương có trách nhiệm cung cấp nhà ở cho các nhóm dễ tổn thương; tuy nhiên, hiện nay, hầu như không có thông tin về các chương trình cụ thể để triển khai các văn bản này mặc dù có tới 3 triệu người vô gia cư ở Pháp.

Về việc làm, vì tỷ lệ thất nghiệp ở Pháp thấp nên những người đã được giám

định là có rối loạn tâm thần ở mức ảnh hưởng đến khả năng làm việc trên thị trường lao động thông thường sẽ được hưởng hình thức “việc làm đảm bảo” (sheltered employment) hoặc được hỗ trợ để có việc làm ổn định theo Luật khuyết tật 2005.

Chính phủ chi một phần ngân sách để hỗ trợ cho các chủ lao động trả lương cho những người lao động có vấn đề về SKTT. Trên thực tế, chính phủ quy định các chủ doanh nghiệp phải thuê tối thiểu 6% nhân công là người khuyết tật (gồm cả khuyết tật thể chất và tâm thần); nếu không thực hiện điều này, họ phải chịu nộp phạt. Hiện tại

khoảng 50% các cơ sở tư nhân và 90% cơ sở Nhà nước hoàn thành chỉ tiêu tuyển dụng này. (Nguyễn Ngọc Hường, 2015)

2.3.5. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Châu Phi

Đối với khu vực Châu Phi, những nhà nghiên cứu trên thế giới cũng rất quan tâm tới những chính sách SKTT đã được triển khai tại đây. Trong tóm lược chính sách về “Phát triển những chính sách và kế hoạch SKTT hiệu quả tại Châu Phi: 7 bài học chính” đã đưa ra những vấn đề tổng hợp để cải tổ chính sách SKTT tại những quốc gia

khu vực này. Báo cáo này đã nhận diện được rằng SKTT đòi hỏi một môi trường chính sách hỗ trợ và việc lập kế hoạch cẩn thận để điều phối và phân loại dịch vụ SKTT và đánh giá trị liệu. Thực tế, đa số những nước châu Phi chưa có một chính sách SKTT

toàn diện. Đề tài nghiên cứu này chú trọng tới việc rà soát lại các chính sách SKTT tại 4 nước tham gia dự án “SKTT và nghèo đói” (MhaPP), một dự án nhận diện các bước cần có để củng cố hệ thống SKTT tại những nước nghèo. Công trình này cũng sử dụng danh sách của WHO về chính sách và kế hoạch SKTT cũng như những chính sách của

Ghana, Nam Phi, Uganda và Zambia để phân tích. 7 bài học được đưa ra trong nghiên cứu này được khái quát như sau:

(i) Cam kết rõ ràng và chắc chắn từ chính phủ: Phát triển và thi hành chính sách

thành công đòi hỏi sự tham gia, gắn kết của chính phủ trong đó. Mặc dù các nước này đều báo cáo sự tham gia chính thức trong phát triển chính sách về SKTT nhưng chỉ có Zambia thể hiện cam kết rõ ràng về sự thay đổi. Các nước khác chỉ đưa ra những tuyên bố chung chung.

(ii) Sự tham gia của các bên tham gia: Các nước, trừ Nam Phi đều thất bại trong

53

tư vấn rộng rãi cho những bên liên quan quan trọng trong phát triển chính sách. Nam

Phi cho thấy sự tham gia của nhiều bên trong phát triển chính sách, khác với Zambia,

người sử dụng dịch vụ không được tham gia vào quá trình này.

(iii) Thực tế về những gì có thể đạt được và như thế nào: Phân tích chính sách

đều cho thấy các nước châu Phi đều quá tham vọng trong mô tả kết quả đầu ra. Họ kì

vọng quá cao với những thông tin chung chung, không rõ ràng và không chỉ ra được sẽ

đạt được như thế nào, sử dụng nguồn lực gì.

(iv) Gắn kết chính sách vào hành động: Cải tổ SKTT đòi hỏi hành động đa dạng

tại những lĩnh vực liên quan như phát triển nhân lực, phát triển dịch vụ, biện hộ, tiếp

cận thuốc,... Tại các quốc gia Châu phi hầu hết đều thiếu những yếu tố này.

(v) Thi hành dựa trên những phương thức được thừa nhận là tốt nhất trên thế

giới: Cần sử dụng bằng chứng quốc tế hỗ trợ cho nhu cầu cải tổ dịch vụ từ mô hình tập

trung sang chăm sóc tại cộng đồng.

(vi) Tiêu chuẩn quyền con người quốc tế: Các chính sách cần thúc đẩy quyền

con người cho những người có khuyết tật tâm thần và hành động đúng như những gì

đã mô tả.

(vii) Thiết lập kế hoạch chiến lược SKTT trong thi hành chính sách: Chính sách

SKTT không tự động được ứng dụng tương thích vào dịch vụ CSSKTT nếu không

được hướng dẫn rõ ràng bằng một kế hoạch chiến lược và ngân sách. Hầu như các

nước bị thiếu phần này. (Nguyễn Ngọc Hường, 2015)

2.3.6. Chính sách chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Châu Á

Theo Chee Ng, Helen Herrman, Edmond Chiu, Bruce Singh (2009), khi trình

bày trong công trình “CSSKTT cộng đồng tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương: Sử

dụng những mô hình thực hành tốt nhất hiện tại vào thông tin chính sách tương lai” đã

tổng kết rằng những kinh nghiệm lớn từ mô hình CSSKTT cộng đồng tại khu vực

Châu Á - Thái Bình Dương có thể được sử dụng như những bài học giá trị và là cảm

hứng cho những phát triển trong tương lai. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng với những

thay đổi có thể diễn ra, rõ ràng cách thức chú ý tới nhạy cảm văn hóa và bền vững kinh

tế trong những mô hình trị liệu cộng đồng cần được khám phá và phát triển. Công trình

nghiên cứu này vốn thuộc dự án Phát triển SKTT cộng đồng Châu Á - Thái Bình

Dương (APCMHD) và triển khai với mục tiêu khám phá những mô hình hướng đến sự

đa dạng hay những cách thức tiếp cận tới cách cung cấp dịch vụ SKTT cộng đồng tại

54

khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Dự án này dựa trên công trình của một mạng lưới

những lãnh đạo trong lĩnh vực CSSKTT từ 14 quốc gia và tiểu vùng thuộc Châu Á -

Thái Bình Dương để xây dựng những khung chính sách phù hợp văn hóa và đội ngũ

làm việc trong triển khai các dịch vụ SKTT cộng đồng.

Khu vực nghiên cứu gồm 15 nước (4 tại Đông Á và 11 tại Đông Nam Á), với

những đặc trưng về đa dạng văn hóa, kinh tế xã hội, tôn giáo. Tất cả những nước này

chỉ đóng góp một phần nhỏ tổng ngân sách vào SKTT (ít hơn 1% tại những nước thu

nhập thấp, dưới 5% tại những nước thu nhập cao). Do bối cảnh lịch sử đa dạng và

những di sản thực dân, hệ thống chăm sóc sức khỏe cũng phân tách trong các nước

thành viên cạnh nhau.

Nhìn chung, những bài học và khuyến nghị từ nghiên cứu này tập trung vào các

khía cạnh: Quá trình pháp lý và chiến lược chống kì thị; Hòa nhập vào hệ thống chăm

sóc sức khỏe nói chung; Ưu tiên hóa của những nhóm mục tiêu; Lãnh đạo và xây dựng

chính sách; Ngân sách và những khía cạnh kinh tế.

Tóm lại, sau một lịch sử dài tập trung, sự phi thể chế trong chăm sóc diễn ra

chậm chạp tại Đông và Đông Nam Á. Hiện nay khu vực này đang trong thời kì chuyển

đổi từ chăm sóc tập trung sang chăm sóc tại cộng đồng. Để đảm bảo chất lượng chăm

sóc sẽ là thử thách tiếp theo cho CSSKTT tại cộng đồng. Chúng ta có thể học từ những

khu vực khác trong xây dựng CSSKTT tương lai tại Đông và Đông Nam Á. (Nguyễn

Ngọc Hường, 2015)

2.3.7. Bài học rút ra cho Việt Nam về chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức

khỏe tâm thần

Dựa trên việc rà soát CSTGXH trên thế giới và các đặc thù trong SCSKTT ở

Việt Nam, có thể rút ra một số bài học sau cho việc xây dựng chính sách TGXH trong

CSSKTT ở Việt Nam:

(i) Trong xây dựng chính sách này, để phù hợp với các chuẩn và xu hướng quốc

tế, Bộ LĐTBXH có thể sử dụng các văn bản mẫu của WHO như “Hướng dẫn Xây dựng

hệ thống SKTT” và “Gói hướng dẫn xây dựng chính sách và dịch vụ SKTT”. Nếu không

theo hướng này, thì Việt Nam vẫn nên phát triển một nội dung TGXH trong CSSKTT

thống nhất, và lồng ghép vào các văn bản có liên quan; ví dụ như vào Luật khuyết tật,

Luật giáo dục, Luật bảo hiểm xã hội, Luật ASXH, Luật khám-chữa bệnh, vv...

(ii) Là một nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa nhưng lại có nền kinh tế thị

55

trường và có một phần dân số khá lớn là lao động tự do, độc lập (ví dụ nông dân, tiểu

thương, thường không có bảo hiểm và các chế độ phúc lợi từ lao động), chính sách

TGXH nên chia các cấp độ phủ khác nhau: phủ toàn dân ở một số mảng, cho một số

đối tượng; phủ cho đối tượng có tham gia lao động ở một số mảng; và chỉ phủ cho đối

tượng chính sách ở một số mảng. Ví dụ, các vấn đề hỗ trợ sàng lọc, phát hiện sớm, can

thiệp sớm, cung cấp dịch vụ trị liệu xã hội về SKTT ở trẻ em và thanh thiếu niên, hoặc

với người bị các bệnh tâm thần nặng, hoàn toàn mất khả năng lao động thì nên phủ

toàn dân... Đối với người có khả năng lao động, hoặc từng lao động thì các chính sách

hỗ trợ thu nhập, nhà ở, việc làm nên được tính toán tùy theo tình trạng mất sức lao

động, khả năng phục hồi lao động, và thu nhập.

(iii) Khi xem xét xây dựng chính sách TGXH trong CSSKTT, để có một chính

sách toàn diện, trước tiên nên xây dựng một mô hình chăm sóc hệ thống (systems of

care framework) cho người có vấn đề về SKTT và gia đình họ; sau đó, phát triển các

chính sách, chương trình, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của từng tiểu hệ thống trong hệ

thống lớn. Đây đang là mô hình tiên tiến nhất mà các nước theo đuổi. Tại Việt Nam,

khi xây dựng mô hình này, cần tính tới các đặc điểm của người có vấn đề về SKTT ở

Việt Nam cũng như điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của Việt Nam.

(iv) Chính sách TGXH phải nhằm vào cả hai đối tượng: người có vấn đề SKTT

và các đối tượng xung quanh người có vấn đề về SKTT như chủ lao động, đồng

nghiệp, gia đình, giáo viên, nhà trường, và cộng đồng.

(v) Chính sách TGXH phải dựa vào cộng đồng và triển khai ở cộng đồng, thông

qua nhiều kênh - gồm có kênh chăm sóc sức khỏe ban đầu (primary care), kênh trường

học, hệ thống hành pháp - tư pháp, các tổ chức lao động, các tổ chức tôn giáo - xã hội,

và các trung tâm cộng đồng.

(vi) Trẻ em và thanh thiếu niên cần được ưu tiên đặc biệt khi xây dựng chính

sách và chương trình TGXH trong CSSKTT, với mục tiêu ngăn ngừa từ xa, nhất là với

các nhóm có nguy cơ cao như trẻ em thuộc gia đình nghèo, trong cộng đồng có điều

kiện vệ sinh và đời sống thấp, mới trải qua thiên tai hoặc sang chấn, trẻ có bố mẹ có

vấn đề về SKTT ...vv...

(vii) Chính sách cần dựa trên các kết quả nghiên cứu về nhu cầu TGXH của

những đối tượng có liên quan tới chính sách chứ không nên duy ý chí hoặc áp dụng

nguyên của nước ngoài.

(viii) Để có thể triển khai thành công chính sách và chương trình TGXH trong

56

CSSKTT, Việt Nam cần đào tạo nhân viên CTXH, đặc biệt là nhân viên CTXH làm

việc trong lĩnh vực CSSKTT, để có nhân lực hoạt động trong các dịch vụ TGXH, vv...

Hoặc trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam chưa có điều kiện đào tạo nhiều nhân viên

CTXH có chuyên môn về SKTT (tại các nước, những nhân viên CTXH này phải thi

lấy chứng chỉ hành nghề và phải thực hành dưới sự giám sát trong 2 năm mới được bắt

đầu thực hành độc lập) thì Việt Nam có thể đi theo con đường mà WHO và nhiều nước

phát triển từng trải qua: đào tạo kỹ năng CTXH cho nhân viên y tế hiện tại ở các cơ sở

CSSKTT. Nhưng để triển khai mô hình này và lồng ghép vào hệ thống CSSKTT tại

các bệnh viện và ở cơ sở thì Việt Nam cần có các nghiên cứu cụ thể để thử nghiệm mô

57

hình lồng ghép hiệu quả nhất, hợp lý nhất.

CHƯƠNG III

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Quy trình nghiên cứu

Luận án vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan

điểm của Đảng, Chính phủ và các chính sách của Nhà nước.

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ đặt ra, đề tài sử dụng phương

pháp định lượng và phương pháp định tính để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.

Bước 1: Phát hiện lỗ hổng nghiên cứu

Bước 2: Xác định câu hỏi nghiên cứu

Bước 3: Thu thập dữ liệu

Bước 4: Phân tích dữ liệu

Bước 5: Xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu luận án

Hình 3.1: Quy trình áp dụng phương pháp nghiên cứu

Nguồn: NCS xây dựng

Bước 1: Phát hiện lỗ hổng nghiên cứu Về mặt lý luận, qua tham khảo các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước

về chính sách TGXH trong CSSKTT cũng như nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong việc ban hành và tổ chức thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT, NCS nhận thấy rằng:

Các tác giả đều khẳng định tầm quan trọng của các chính sách TGXH trong CSSKTT đối với việc phát triển bền vững về kinh tế - xã hội của một quốc gia, một địa phương. Các nội dung trợ giúp cơ bản cũng đã được khẳng định, tuy nhiên, sự nhất trí giữa các tác giả chưa cao.

Về mặt thực tiễn: Đề tài luận án được lựa chọn thuộc lĩnh vực công tác của NCS. Bằng kinh nghiệm thực tế qua quá trình công tác cùng với sự đánh giá một cách khách quan về hiệu quả đạt được của các chính sách TGXH trong CSSKTT ở Việt

58

Nam trong những năm qua, đặc biệt là từ khi Chính phủ ban hành và đưa vào thực thi Đề án 32 và Đề án 1215, NCS nhận thấy rằng, các chính sách TGXH trong CSSKTT đã được triển khai khá đồng bộ từ Trung ương đến mỗi địa phương trong cả nước. Song, kết quả đạt được của các chính sách còn hạn chế do nhiều nguyên nhân, từ

nguyên nhân chủ quan về nguồn nhân lực, nguồn vốn, đến những nguyên nhân khách quan xuất phát từ điều kiện môi trường cũng như xuất phát từ phía các đối tượng của chính sách.

Chính vì vậy, cùng với sự định hướng của giáo viên hướng dẫn, NCS lựa chọn

nghiên cứu một đề tài mới và với cách tiếp cận nghiên cứu mới: đánh giá hiệu lực, hiệu quả của chính sách TGXH trong CSSKTT ở Việt Nam.

Bước 2: Xác định câu hỏi nghiên cứu.

Câu hỏi nghiên cứu đã được trình bày ở Phần mở đầu của luận án. Bước 3. Thu thập dữ liệu và Bước 4. Phân tích dữ liệu sẽ được trình bày cụ thể

ở mục tiếp theo.

Bước 5. Xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu luận án

Nghiên cứu về chính sách TGXH trong CSSKTT là vấn đề rất phức tạp và khó, bởi vì phạm vi thu thập dữ liệu lẫn phạm vi tác động, ảnh hưởng của cácchính sáchcông là rất rộng, liên quan đến nhiều các ngành, lĩnh vực khác và có ảnh hưởng

trực tiếp hoặc gián tiếp đến các mặt của đời sống kinh tế - xã hội.

Xuất phát từ lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, khung lý thuyết nghiên

Mục tiêu của chính sách TGXH trong CSSKTT

Các chính sách bộ phận củachính sách TGXH trong CSSKTT

Những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách TGXH trong CSSKTT

Đối tượng của chính sách TGXH trong CSSKTT

Chính sách trợ cấp xã hội

Những người có vấn đề về SKTT

Chính sách phát triển cơ sở BTXH

Nhóm nhân tố thuộc về các đơn vị tham gia cung cấp dịch vụ CSSKTT

Các cơ sở BTXH

Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm

Nhóm nhân tố thuộc về đối tượng thụ hưởng

Tổ chức, đơn vị cung cấp dịch vụ CTXH

Chính sách phát triển các dịch vụ CTXH

Nhóm nhân tố thuộc về cơ quan QLNN

Nhân lực làm CTXH

Chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH

Nhóm nhân tố thuộc về môi trường của CS

Mục tiêu tổng thể: cải thiện tình trạng SKTT cộng đồng, đảm bảo công bằng, ổn định và phát triển bền vững về chính trị, kinh tế và xã hội của quốc gia Mục tiêu cụ thể: - Tăng cường khả năng phòng ngừa và giảm nguy cơ mắc bệnh tâm thần trong nhân dân; - Tăng cường khả năng điều trị, phục hồi chức năng và hòa nhập cộng đồng đối với người mắc bệnh tâm thần.

cứu luận án được xây dựng như sau:

Hình 3.2: Khung lý thuyết nghiên cứu luận án

59

Nguồn: NCS xây dựng

3.2. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin

3.2.1. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin thứ cấp

Số liệu thứ cấp phục vụ cho phương pháp nghiên cứu được luận án thu thập từ

các nguồn sau:

(i) Số liệu tổng hợp tại Cục Bảo trợ xã hội (thuộc Bộ Lao động - Thương binh

và Xã hội).

(ii) Báo cáo đánh giá thực hiện các Đề án, Chương trình, Dự án liên quan đến

TGXH trong CSSKTT.

(iii) Báo cáo phân tích tình hình CSSKTT ở Việt Nam của WHO và một số tổ

chức phi chính phủ.

(iv) Số liệu trong các bài báo, tham luận... cũng được tham khảo trong quá trình

phân tích của luận án.

Sau khi thu thập số liệu, luận án thực hiện việc sắp xếp, phân loại theo thời gian, theo từng nội dung cụ thể có liên quan đến các phần, mục trong luận án để thuận

tiện cho việc sử dụng các dữ liệu này trong các phân tích, đánh giá.

3.2.2. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin sơ cấp

3.2.2.1. Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp

Việc thu thập dữ liệu sơ cấp phục vụ cho nghiên cứu được thực hiện bằng cách 02 phương pháp: một là, phát phiếu điều tra đến các đối tượng với hệ thống bảng hỏi được thiết kế theo thang đo Likert với 5 bậc, trong đó, bậc 5 tương ứng với mức độ “rất hài lòng” và bậc 1 tương ứng với mức độ “rất không hài lòng” đối với mỗi câu hỏi hoặc tiêu chí đưa ra; hai là, phương pháp phỏng vấn trực tiếp (phương pháp chuyên gia), phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong quá trình điều tra khảo sát đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước làm việc tại Cục Bảo trợ xã hội (thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội).

Thời gian thu thập dữ liệu sơ cấp được tiến hành trong 02 tháng: tháng 03/2016

và tháng 04/2016.

a) Chọn mẫu thu thập dữ liệu

60

Luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài: Luận án sử dụng phương pháp này để điều tra thu thập ý kiến rộng rãi của nhiều đối tượng có liên quan đến thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT ở Việt Nam, bao gồm:

(i) Nhóm thứ nhất:

Điều tra 50 cán bộ làm việc tại Cục Bảo trợ xã hội (thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội). Đối với nhóm đối tượng điều tra này, luận án tập trung hỏi ý kiến đánh giá của họ về mức độ tuân thủ chính sách TGXH trong CSSKTT của các cơ

quan, đơn vị trong quá trình thực thi chính sách; đồng thời, luận án cũng điều tra về đánh giá của các cán bộ này đối với hiệu quả thực thi chính sách chính sách TGXH trong CSSKTT nói chung cũng như từng chính sách bộ phận nói riêng.

Bảng 3.1: Mô tả mẫu thứ nhất

Học vấn Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Tổng Tiêu chí

Số lượng (người) 3 27 20 50

Trong đó:

3 8 1 12 - Cán bộ quản lý

0 19 19 38 - Nhân viên

Tỷ lệ (%) 6,0 54,0 40,0 100

Thâm niên Dưới 5 năm 5-10 năm Trên 10 năm Tổng Tiêu chí

Số lượng (người) 12 30 8 50

Tỷ lệ (%) 24,0 60,0 16,0 100

Nguồn: Khảo sát của NCS

Số phiếu phát ra là 50, số phiếu thu về là 50. Như vậy, tỷ lệ phản hồi đối với

nhóm thứ nhất (cán bộ làm việc tại Cục Bảo trợ xã hội) là 100%, trong đó, 100% phiếu trả lời hợp lệ.

Bên cạnh phần thông tin người trả lời, những câu hỏi khảo sát đối với nhóm thứ

61

nhất như sau:

Bảng 3.2: Nội dung điều tra đối với cán bộ làm việc tại Cục Bảo trợ xã hội

Tiêu chí Mã hóa TT

1 TT Mức độ tuân thủ chính sách của các cơ quan, đơn vị trong tổ chức thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

1.1 TT1 Mức độ nhận thức của lãnh đạo các cơ quan, đơn vị đối với công tác chăm sóc SKTT

1.2 TT2 Mức độ chấp hành của các cơ quan, đơn vị trong thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

1.3 TT3 Mức độ đóng góp xây dựng, hoàn thiện chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT của các cơ quan, đơn vị

HQ 2 Hiệu quả thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

2.1 HQ1 Mức độ phối hợp (giữa Trung ương và địa phương) trong thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

2.2 Tính khả thi của các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT HQ2

2.3 HQ3 Mức độ thực hiện mục tiêu trong tổ chức thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

KT 3 Tính kinh tế của chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

3.1 KT1 Mức độ chi tiết của kế hoạch kinh phí thực hiện các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

3.2 KT2 Tính hiệu quả trong sử dụng kinh phí thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

KT3 3.3 So sánh kết quả đạt được với kinh phí sử dụng của các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

4 Đánh giá kết quả của các chính sách bộ phận

4.1 Chính sách TCXH CSTCXH

4.2 Chính sách phát triển cơ sở BTXH CSPTCS

4.3 Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm CSDTVL

4.4 Chính sách phát triển các dịch vụ CTXH CSDVCTXH

4.5 Chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGCH CSPTNNL

62

Nguồn: Khảo sát của NCS

(ii) Nhóm thứ hai:

Điều tra 30 Trung tâm BTXH và Trung tâm nuôi dưỡng người tâm thần (điều tra người đại diện của trung tâm). Đối với nhóm đối tượng điều tra này, luận án tập trung hỏi ý kiến đánh giá của họ về: Tình hình thực hiện tiêu chí về lĩnh vực sức khỏe

tâm thần; Tình hình dịch vụ chăm sóc và phục hồi chức năng cho người tâm thần tại Trung tâm; đánh giá về sự hỗ trợ mà các Trung tâm nhận được trong quá trình triển khai thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT, cũng như kết quả triển khai

thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT tại các Trung tâm.

Bảng 3.3: Mô tả mẫu thứ hai

Học vấn Thạc sĩ Đại học Tổng

Tiêu chí Số lượng (người) Tỷ lệ (%) 2 6,67 5 16,67 Cao đẳng/ Trung cấp 23 76,66 30 100

Thâm niên Dưới 5 năm 5-10 năm Trên 10 năm Tổng

Tiêu chí Số lượng (người) Tỷ lệ (%) 12 40,0 11 36,7 7 23,3 30 100

Nguồn: Khảo sát của NCS

Số phiếu phát ra là 30, số phiếu thu về là 30. Như vậy, tỷ lệ phản hồi đối với nhóm thứ nhất (cán bộ làm việc tại Cục Bảo trợ xã hội) là 100%, trong đó, 100% phiếu trả lời hợp lệ.

Bảng 3.4: Nội dung điều tra đối với các Trung tâm BTXH và Trung tâm nuôi dưỡng người tâm thần

TT Tiêu chí Mã hóa

1 TCTT Mức độ tiếp cận thông tin chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

1.1 TCTT1 Trung tâm có nhận được hướng dẫn triển khai thực thi chính sách của các đơn vị cấp trên hay không

1.2 TCTT2 Nội dung hướng dẫn có cụ thể, rõ ràng và giúp ích cho việc triển khai thực hiện các chính sách hay không

63

TCTT3 1.3 Ngoài việc hướng dẫn triển khai thực thi chính sách, Trung tâm còn nhận được những hỗ trợ thông tin chính sách khác từ

TT Tiêu chí Mã hóa

các đơn vị cấp trên hay không

2 HT

Đánh giá về sự hỗ trợ mà các Trung tâm nhận được trong quá trình triển khai thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

2.1 HT1 Mức độ đầy đủ, kịp thời trong việc giải ngân nguồn lực tài chính phục vụ cho việc thực thi các chính sách

2.2 HT2

Mức độ hỗ trợ của các đơn vị (Sở LĐTB&XP; Phòng LĐTB&XH) ở địa phương trong việc phát triển nguồn nhân lực làm CTXH tại Trung tâm

2.3 HT3

Mức độ hỗ trợ của các đơn vị vị (Sở LĐTB&XP; Phòng LĐTB&XH) ở địa phương trong việc tạo liên kết giữa Trung tâm với các tổ chức, doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện làm việc cho các đối tượng chính sách

3 KQ Đánh giá về kết quả triển khai thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

3.1 KQ1 Mức độ thực hiện mục tiêu của chính sách hàng năm tại Trung tâm

3.2 KQ2 Mức độ hưởng ứng, tham gia chính sách của cộng đồng và gia đình các đối tượng chính sách

3.3 KQ3 Các chính sách có thực sự thiết thực đối với địa phương không

Nguồn: Khảo sát của NCS

(iii) Nhóm thứ ba:

Điều tra 100 cán bộ, nhân viên làm CTXH (làm việc tại các cơ sở BTXH và các Trung tâm CTXH ở một số địa phương trên cả nước). Đối với nhóm đối tượng điều tra

64

này, luận án tập trung hỏi ý kiến đánh giá của họ về chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH, đây là chính sách tác động trực tiếp đến những cán bộ, nhân viên này, do đó, việc lấy ý kiến cảm nhận của họ là khách quan nhất.

Bảng 3.5: Mô tả mẫu thứ ba

Học vấn Thạc sĩ Đại học Tổng

Tiêu chí Số lượng (người) Trong đó: - Cán bộ quản lý - Nhân viên Tỷ lệ (%) 12 3 9 12,0 25 7 18 25,0 Cao đẳng/ Trung cấp 63 0 63 63,0 100 25 5 100

Thâm niên Dưới 5 năm 5-10 năm Trên 10 năm Tổng

Tiêu chí Số lượng (người) Tỷ lệ (%) 59 59,0 31 31,0 100 100

10 10,0 Nguồn: Khảo sát của NCS

Số phiếu phát ra là 100, số phiếu thu về là 100. Như vậy, tỷ lệ phản hồi đối với nhóm thứ nhất (cán bộ làm việc tại Cục Bảo trợ xã hội) là 100%, trong đó, 100% phiếu trả lời hợp lệ.

Bảng 3.6: Nội dung điều tra đối với các cán bộ, nhân viên làm CTXH

TT Tiêu chí Mã hóa

TD 1 Đánh giá chính sách tuyển dụng

1.1 Mức độ hấp dẫn của công việc hiện nay TD1

1.2 Mức độ hấp dẫn của chính sách tuyển dụng TD2

1.3 Mức độ hài lòng về chính sách tuyển dụng TD3

DTBD 2 Đánh giá chính sách đào tạo, bồi dưỡng

DTBD1 2.1 Mức độ thường xuyên được tham gia đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn

2.2 Mức độ hỗ trợ của đơn vị công tác dành cho việc đào tạo, bồi dưỡng DTBD2

2.3 Mức độ hài lòng về chính sách đào tạo, bồi dưỡng DTBD3

DN 3 Đánh giá chính sách đãi ngộ

3.1 Mức độ hài lòng về lương, thưởng, phụ cấp DN1

65

Nguồn: Khảo sát của NCS

(iv) Nhóm thứ tư:

Điều tra 500 hộ gia đình có người thân mắc vấn đề về SKTT nhận được trợ giúp của chính sách TGXH trong CSSKTT. Nhóm đối tượng này được NCS lựa chọn thực hiện điều tra tại Hà Nội và một số tỉnh phía Bắc, cụ thể như sau:

- Điều tra tại 03 huyện: huyện Thường Tín, huyện Thạch Thất, huyện Quốc

Oai; số lượng gia đình được điều tra tại 02 huyện này là 100 gia đình.

- Điều tra tại 02 huyện: huyện Kim Bảng, huyện Lý Nhân, và tại thành phố Phủ

Lý, tỉnh Hà Nam; số lượng gia đình được điều tra ở Hà Nam là 100 gia đình.

- Điều tra tại 03 huyện: huyện Yên Mỹ, huyện Văn Lâm, huyện Phù Cừ của

tỉnh Hưng Yên; số lượng gia đình được điều tra ở Hà Nam là 100 gia đình.

- Điều tra tại huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ; số lượng gia đình được điều tra ở

Hà Nam là 50 gia đình.

- Điều tra tại huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang; số lượng gia đình được điều tra

ở Hà Nam là 50 gia đình.

- Điều tra tại huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn; số lượng gia đình được điều tra ở

Hà Nam là 50 gia đình.

- Điều tra tại huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang; số lượng gia đình được điều tra

ở Hà Nam là 50 gia đình.

Đối với nhóm đối tượng điều tra này, luận án tập trung hỏi ý kiến đánh giá của họ về: Hiệu quả trợ giúp của các chính sách đối với gia đình; Sự hài lòng của các hộ gia đình đối với việc thực thi các chính sách TGXH trong CSSKTT của chính quyền

địa phương.

Bảng 3.7: Mô tả mẫu thứ tư

Học vấn Đại học và Cao đẳng/ Phổ thông Tổng sau đại học Trung cấp Tiêu chí

Số lượng (người) 52 109 339 500

Tỷ lệ (%) 10,4 21,8 67,8 100

66

Nguồn: Khảo sát của NCS

Số phiếu phát ra là 500, số phiếu thu về là 500. Như vậy, tỷ lệ phản hồi đối với nhóm thứ nhất (cán bộ làm việc tại Cục Bảo trợ xã hội) là 100%, trong đó, 100% phiếu trả lời hợp lệ.

Bảng 3.8: Nội dung điều tra đối với các hộ gia đình

TT Tiêu chí Mã hóa

1 TTGD Mức độ tiếp cận thông tin chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

1.1 TTGD1 Gia đình có thường xuyên nhận được thông tin tuyên truyền từ phía cơ quan chức năng thông báo về các chính sách mới được triển khai dành cho người mắc vấn đề về SKTT

1.2 TTGD2 Gia đình có nhận được hỗ trợ từ phía cơ quan chức năng về việc thực hiện các thủ tục nhận hỗ trợ từ các chính sách

2 HTGD Mức độ hỗ trợ của các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

2.1 Các chính sách có giúp đỡ được gia đình nhiều không HTGD1

2.2 Các chính sách có giúp đỡ được người bệnh nhiều không HTGD2

3 GDHL Mức độ hài lòng của gia đình đối với các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

Nguồn: Khảo sát của NCS

Việc chọn mẫu và sử dụng phương pháp này đã đảm bảo yếu tố khách quan,

diện rộng cho quá trình kết luận những thông tin nêu trong luận án.

3.2.2.2. Phương pháp xử lý thông tin sơ cấp

Số liệu sơ cấp thu thập được qua quá trình điều tra, khảo sát sẽ được mã hóa và sử dụng phần mềm phân tích thống kê SPSS 22 - là phần mềm được giới nghiên cứu

khoa học xã hội và thống kê tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới biết đến như một trong những phần mềm hữu ích và thuận tiện nhất giúp người sử dụng làm việc với dữ liệu định lượng có được từ phương pháp điều tra xã hội học.

Giá trị điểm bình quân (mean) thu được từ phân tích SPSS được đánh giá theo

quy ước sau:

0 < mean < 2,5: Tiêu chí được đánh giá ở mức yếu;

2,5 ≤ mean < 3,5: Tiêu chí được đánh giá ở mức trung bình;

67

3,5 ≤ mean ≤ 5: Tiêu chí được đánh giá ở mức tốt.

3.3. Các phương pháp phân tích

(i) Phương pháp nghiên cứu phân tích - tổng hợp: Thông qua phương pháp nghiên cứu này, tác giả đi từ cái chung, cái tổng hợp (khái niệm, hệ thống của TGXH, bản chất, mục tiêu, nội dung của các chính sác) để đi đến cái chi tiết của vấn đề nghiên

cứu của luận án. Sau đó, tác giả đi từ cái riêng, những đặc tính riêng của các vấn đề nghiên cứu tạo thành một hệ thống những nội dung mang tính chất hệ thống phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi của vấn đề nghiên cứu.

(ii) Phương pháp nghiên cứu trừu tượng hóa khoa học: Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu này để tạm thời gạc bỏ khỏi đối tượng nghiên cứu những biểu hiện ngẫu nhiên cá biệt để đi sâu vào những vấn đề cơ bản nhất thuộc đối tượng nghiên cứu (luận án đi sâu vào nghiên cứu các tác động của các chính sách TGXH trong

CSSKTT).

(iii) Phương pháp nghiên cứu thống kê - so sánh: Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu kinh tế hiện đại. Luận án sử dụng phương pháp thống

68

kê để thu thập số liệu; tiến hành so sánh, đối chiếu giữa các giai đoạn, các khu vực khác nhau để rút ra sự khác nhau giữa những số liệu thống kê. Từ đó, rút ra được những kết luận quan trọng, tìm ra nguyên nhân, đưa ra giải pháp cho vấn đề mà luận án nghiên cứu.

CHƯƠNG IV

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP

XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE TÂM THẦN

TẠI VIỆT NAM

4.1. Thực trạng sức khỏe tâm thần và nhu cầu chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam

4.1.1. Thực trạng sức khỏe tâm thần tại Việt Nam

Theo số liệu thống kê của WHO thì trên thế giới cứ 4 người thì có 1 người rối loạn tâm thần hoặc có hành vi rối loạn tâm thần trong suốt cuộc đời. Hiện nay trên thế giới có khoảng 450 triệu người có các rối loạn tâm thần, trong đó 120 triệu bệnh nhân trầm cảm, 50 triệu bệnh nhân động kinh, 40 triệu bệnh nhân tâm thần phân liệt, 1 triệu người tự sát.

Ở nước ta với sự phát triển của nền kinh tế mở cửa, và sự phát triển nhanh của tiến bộ kỹ thuật thông tin đã tác động mạnh mẽ đến SKTT. Chỉ tính riêng 10 bệnh tâm

thần thường gặp là tâm thần phân liệt, trầm cảm, động kinh, rối loạn lo âu, sa sút trí tuệ ở người già, loạn tâm thần sau chấn thương sọ não, chậm phát triển tâm thần, rối loạn hành vi ở thanh thiếu niên, rối loạn tâm thần do rượu, ma túy thì có khoảng 10% dân số, tương đương với khoảng 09 triệu người. Gầnđây một số nghiên cứu có quy mô nhỏ

hơn cho thấy tỷ lệ các rối loạn tâm thần khoảng 20 - 30%. Hiện SKTT được WHO xếp hạng thứ 4 trong các vấn đề sức khỏe, dự kiến đến năm 2020 SKTT sẽ được xếp hạng thứ 2 sau các bệnh về tim mạch. Nguyên nhân theo WHO là do những yếu tố sau: điều

kiện cuộc sống (nghèo khổ kéo dài), thiếu điều kiện giáo dục, ăn ở, triển vọng công ăn việc làm; công việc quá tải; các thay đổi nhanh chóng về kinh tế xã hội, xung đột chính trị; và ảnh hưởng của thiên nhiên đặc biệt là sau các thảm họa.

Trong số những người mắc vấn đề về SKTT ở Việt Nam, số NTT nặng ước tính

2,5% số người RNTT (tương đương 200 ngàn người). Trong đó, số người có hành vi nguy hiểm cho gia đình, cộng đồng khoảng 154.000 người (đập phái tài sản, đánh người, gây án mạng, đi lang gây rối, mất trật tự an toàn xã hội).

Thực tế cho thấy, áp lực về NTT, người RNTT đối với các cơ quan quản lý cũng như đối với các gia đình có người bị NTT, người bị RNTT ở Việt Nam hiện nay là rất lớn. Số lượng những người này có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây do những áp lực của cuộc sống, áp lực kinh tế, tác động của khủng hoảng tài chính,

69

suy thoái kinh tế và hàng loạt những nguyên nhân khác.

Bảng 4.1: Số người rối loạn tâm trí tại Việt Nam năm 2015

Rối loạn tâm trí Tỉ lệ trong dân số (%) Số lượng (người)

Tâm thần phân liệt 0,24% 217.000

Các dạng rối loạn tâm thần nghiêm trọng khác 2,80% 2.534.000

Các dạng rối loạn thường gây hậu quả về SKTT

0,33% 298.600 Chứng động kinh

0,63% 570.000 Khuyết tật thần kinh

0,51% 461.500 Tổn thương não

5,30% 4.796.000 Lạm dụng rượu

0,30% 271.500 Nghiện ma túy

9.148.600 Tổng cộng

Nguồn: [24]

Thời gian gần đây, số lượng đối tượng bị rối loạn tâm trí lớn; sự biến động số lượng ở mỗi nhóm đối tượng tâm trí rất khác nhau. Theo điều tra của Dự án bảo vệ sức

khoẻ tâm trí tại cộng đồng trên 08 vùng sinh thái năm 2010 và số liệu điều tra của Bộ LĐTBXH năm 2015, bệnh tâm thần phân liệt: 0,47% dân số; bệnh động kinh: 0,33% dân số; rối loạn trầm cảm: 2,8% dân số; chậm phát triển trí tuệ: 0,63% dân số; lo âu: 2,7% dân số; mất trí tuổi già: 0,9% dân số; rối loạn hành vi ở thanh thiếu niên: 0,9% dân số; chấn thương sọ não: 0,51% dân số; lạm dụng rượu: 5,3% dân số; nghiện ma tuý: 0,3% dân số. Như vậy, việc chăm sóc và PHCN cho người có vấn đề về SKTT là

một thách thức lớn và là một gánh nặng đối với cộng đồng và toàn xã hội.

Đối với công tác chăm sóc và PHCN cho người RNTT, bao gồm nhiều liệu pháp kết hợp với nhau: đối với người RNTT, cần tư vấn, trị liệu phục hồi tại cộng đồng bởi các nhân viên CTXH, có tác dụng phòng ngừa trở thành bệnh tâm thần mãn

70

tính; số còn lại khoảng 0,24% dân số hay 2,5% số người bị RNTT rơi vào tâm thần mãn tính cần liệu pháp dược hoá tức là cho người bệnh uống thuốc, tiêm thuốc kết hợp chặt chẽ với liệu pháp tư vấn, trị liệu tâm lý, lao động trị liệu và các dịch vụ CTXH khác có thể PHCN cho phần lớn người bệnh.

Bảng 4.2: Tình hình NTT nặng ở Việt Nam năm 2015

Phân loại Tỷ lệ (%) Số lượng ước tính (người)

Số NTT nặng 200.000 100% Trong đó:

154.000 77%

1. Số NTT có hành vi nguy hiểm đến cộng đồng (đập phá tài sản, đánh người, tự đánh bản thân, đi lang thang, không mặc quần áo hoặc ăn thực phẩm sống, ôi thiu) bị nhốt, xích tại gia đình

6.000 3% 2. Số NTT được chăm sóc và PHCN trong các cơ sở BTXH

3. Số NTT không có hành vi nguy hiểm sống tại gia đình 40.000 20%

Nguồn: [24]

Số liệu điều tra NTT năm 2015 do Bộ LĐTBXH tiến hành tại các tỉnh, thành

phố cho thấy: Nhiều trường hợp NTT đánh trọng thương người thân và hàng xóm, thậm chí gây ra những vụ án nghiêm trọng như giết người, đốt nhà, gây sợ hãi, hoang mang trong gia đình và cộng đồng.

Dự báo đến năm 2020: Do sự thay đổi lối sống, phát triển kinh tế, thiên tai và ô nhiễm môi trường, cùng với sự hạn chế của hệ thống dịch vụ cụng tác xã hội, nên số

người RNTT, người bị tâm thần gia tăng đến năm 2020. Số người RNTT ở Việt Nam ước tính khoảng 10% dân số, tương đương 10 triệu người, trong đó số người mắc bệnh tâm thần thuộc diện BTXH ước tính khoảng 2,5% số người RNTT, tương đương

250.000 người. Điều này tạo sức ép rất lớn về TGXH và PHCN cho NTT, người RNTT ở Việt Nam.

Trong hai thập kỷ vừa qua, Việt nam cũng đã có những nỗ lực đáng kể trong lĩnh vực CSSKTT. Với Chương trình mục tiêu quốc gia về SKTT, chúng ta đã xây dựng mô hình chăm sóc sức khỏe dựa vào cộng đồng bao phủ 63 tỉnh thành với khoảng 70% xã phường, đã lồng ghép SKTT vào chăm sóc sức khỏe ban đầu. Mạng

lưới CSSKTT trong cả nước với 33 bệnh viện chuyên khoa tâm thần (trong đó có 2 bệnh viện chuyên khoa khu vực), hàng chục khoa tâm thần trong các bệnh viện đa khoa và trung tâm phòng chống bệnh xã hội.

4.1.2. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam

71

Ở Việt Nam, nếu tính cả số giường bệnh tâm thần của Bộ LĐTBXH quản lý thì có khoảng 19 giường bệnh tâm thần trên 100.000 dân, nếu tính riêng số giường bệnh

tâm thần của BYT quản lý thì khoảng 12,2 giường bệnh tâm thần trên 100.000 dân. Như vậy tỷ lệ giường bệnh tâm thần ở Việt Nam còn rất thấp so với các nước trên thế giới.

Bảng 4.3: Tỷ lệ giường bệnh tâm thần: so sánh Việt Nam và một số nước

trên thế giới giai đoạn 2010-2015

Nước

Pháp Nga Đức Đơn vị tính Hà Lan Việt Nam Thụy Điển

Chiếc Chiếc Chiếc Chiếc Chiếc Chiếc 165 167 168 170 173 178 125 126 126 129 131 133 85 86 88 91 94 95 57 59 63 66 67 71 12,2 12,4 12,3 12,4 12,6 12,6 60 60 62 63 66 67

63 Chiếc 170,2 128,3 89,8 63,8 12,4 Số giường/ 100.000 dân Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Trung bình giai đoạn 2011-2015

Nguồn: [25] và tổng hợp của NCS từ nhiều nguồn khác nhau

Tuy nhiên, việc điều trị hiện nay mới chỉ tập trung vào các đối tượng động kinh,

tâm thần phân liệt và các bệnh rối loạn tâm thần nặng. Nhóm bệnh có tỷ lệ mắc cao trong cộng đồng và các bệnh có khả năng điều trị được như các rối loạn tâm thần dạng trầm cảm, lo âu, mất ngủ, nghiện rượu... chiếm đến 80% gánh nặng bệnh tâm thần cộng

đồng chưa là trọng tâm của chương trình CSSKTT cộng đồng. Chăm sóc sức khoẻ tâm trí phụ nữ mang thai, trẻ em và thanh thiếu niên vẫn chưa được quan tâm và có dịch vụ sẵn có tại cộng đồng.

Như vậy, để đạt được mục tiêu “Đến năm 2025, đạt ít nhất 15 giường bệnh nội

trú về tâm thần trên 100.000 dân, trong đó có giường bệnh nội trú tâm thần cho trẻ em, vị thành niên và người cao tuổi” theo như định hướng của “Dự thảo Quyết định phê duyệt Chiến lược quốc gia về SKTT giai đoạn 2016-2025” thì Việt Nam cần phải nỗ

lực nhiều hơn nữa trong thời gian tới trong việc ban hành, thực thi các chính sách phát triển các cơ sở BTXH và các Trung tâm CSSKTT.

72

Trong “Đánh giá Thực trạng hệ thống CSSKTT thuộc quản lý của Bộ LĐTBXH” được thực hiện với sự phối hợp giữa Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo phát triển cộng đồng (RTCCD) và Cục BTXH - Bộ LĐTBXH năm 2011, các đơn vị đã thực hiện một cuộc khảo sát hộ gia đình, sử dụng mẫu phiếu phỏng

vấn cấu trúc (định lượng) - mẫu điều tra bệnh nhân tâm thần tại cộng đồng - bao gồm 27 câu hỏi, tìm hiểu thông tin về chẩn đoán, quá trình điều trị, tình trạng hiện tại của bệnh nhân, chi phí chữa bệnh, nhu cầu của gia đình, tiếp cận thông tin, những khó khăn gặp phải (trong tiến trình khám phát hiện bệnh và điều trị, và duy trì điều trị bệnh

tại nhà), cũng như nhận xét của người nhà bệnh nhân về hoạt động BTXH dành cho người bệnh tâm thần. Đối tượng trả lời phỏng vấn là người chăm sóc chính cho bệnh nhân, phần lớn là cha mẹ và anh chị em ruột của bệnh nhân. Tổng cộng 244 hộ gia

đình đã được lựa chọn ngẫu nhiên tại 8 tỉnh để điều tra. Kết quả điều tra được thể hiện ở bảng sau:

Bảng 4.4: Khả năng tham gia công việc nhà và chăm sóc bản thân của đối tượng bệnh nhân tâm thần

Mức độ

ĐVT Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ Nội dung

Đi làm để kiếm tiền % 1,7 1,2 97,1

Làm các công việc nhà % 14,1 24,5 61,4

Có khả năng chăm sóc bản thân % 35,0 16,3 48,7

% 50,6 22,6 26,8 Phải có người thường xuyên chăm sóc, quản lý

% 18,8 0 84,2 Phải sử dụng biện pháp mạnh (nhốt, cùm, trói) để quản lý

Nguồn: [5]

Qua đó cho thấy, 14,8% bệnh nhân hiện phải sử dụng thuốc để điều trị bệnh (63/242) và 79% trong số đó đã từng được nhận thuốc miễn phí. Với các đối tượng đã

từng phải mua thuốc 21% (43/206), tính trung bình gia đình phải chi 300.000 đồng mỗi tháng cho tiền thuốc (95% CI: 277.000đ - 377.000đ). Đây là một số tiền rất lớn đối với các hộ gia đình khu vực nông thôn. Trong số 244 hộ gia đình điều tra, 97% được xếp loại nghèo hoặc trung bình theo phân loại của chính quyền địa phương

73

(nghèo 56% và trung bình 41%). Trong số các gia đình có NTT được điều tra, chỉ có 3% số hộ gia đình thuộc nhóm khá hoặc giàu.

Hình 4.1: Những hỗ trợ từ cộng đồng các gia đình hiện nay nhận được

Nguồn: [5]

Kết quả điều tra định lượng 244 hộ gia đình cho thấy, khi được hỏi “Hiện tại, bệnh nhân đã nhận được những hỗ trợ gì từ cộng đồng?”, 63% gia đình cho biết bệnh nhân đã được khám chữa bệnh miễn phí và 54% hiện đang được hỗ trợ kinh tế từ

chính quyền (trợ cấp hàng tháng theo nghị định 13). Chỉ có 32% gia đình được tư vấn chăm sóc tại nhà.

4.2. Thực trạng chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam

Hiện nay, do các dịch vụ SKTT đang tích cực phát triển trên khắp đất nước với nhiều khoảng trống còn tồn tại, các nhu cầu đa dạng cần được quan tâm. Khi các nhu cầu CSSKTT hiện đang cạnh tranh về mức độ ưu tiên, thông thường Nhà nước thường

gặp khó khăn để xác định các ưu tiên cao nhất và làm sao để phân bổhiệu quả ngân sách và nguồn nhân lực.

Nhìn chung, đã có sự vận động tích cực đặc biệt trong 5 năm qua của cả hệ thống Đảng, Quốc hội, Nhà nước, và các tổ chức độc lập hướng đến lĩnh vực

CSSKTT. Sự gia tăng về nguồn tài chính đặc thù cho bộ máy và các cơ sở tham gia CSSKTT của cả hai Bộ LĐTBXH và Y tế là một minh chứng rõ ràng. Chính sách TGXH dành cho các đối tượng yếu thế nói chung, những bệnh nhân tâm thần nói

riêng đã tạo được sự khởi sắc về chất lượng phục vụ và mục tiêu công bằng trong chính sách ASXH.

Tuy nhiên ba Đề án quốc gia liên tiếp đưa ra trong ba năm vừa qua trực tiếp tác động đến công tác CSSKTT ở Việt Nam (đề án 930 năm 2009; đề án 32 năm 2010; và đề

74

án 1215 năm 2011) lại dường như đưa Việt Nam đứng trước ngã ba đường. Sự huy động

nguồn lực tài chính cao độ từ Chính phủ của ba đề án này đang tạo ra sự gia tăng nhanh chóng yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực ở cả cấp vĩ mô và vi mô cho việc thực hiện các mục tiêu của đề án. Trong khi đó, ba đề án, quản lý bởi Bộ LĐTBXH và Bộ Y tế, lại dường như tạo ra hai chiều vận động khác nhau cho hệ thống CSSKTT của Việt Nam.

Trong khi đề án 930 có xu hướng đẩy hệ thống này đi theo hướng điều trị tập trung, thì đề án 32 và nhất là đề án 1215 lại đẩy hệ thống đi theo khuyến cáo của WHO, tập trung vào chăm sóc tại cộng đồng, với phần cơ sở điều trị tập trung chỉ làm một công

đoạn hỗ trợ. Rõ ràng với Việt Nam, cả hai mảng của hệ thống CSSKTT: mảng cơ sở điều trị tập trung (gồm hệ thống các bệnh viện chuyên khoa tâm thần, đặc biệt bệnh viện cấp tỉnh - thuộc quản lý của BYT) và các trung tâm BTXH và PHCN của Bộ LĐTBXH) và mảng dự phòng, phát hiện sớm, điều trị sớm và chăm sóc phục hồi tại

cộng đồng, đều cần đầu tư, hỗ trợ khẩn cấp.

Trong bối cảnh như vậy, cần đến một tác động điều chỉnh giúp cho các đề án đều hướng đến tạo lập một hệ thống cân bằng, hài hòa, thiết kế khoa học, đáp ứng yêu

cầu của đất nước và nằm trong khả năng vận hành của đất nước. Hiện nay, ở Việt nam đã có 10 Bộ luật; 7 Pháp lệnh và hơn 30 Nghị định, Quyết định của Chính phủ; hơn 40 Thông tư, thông tư liên tịch và nhiều văn bản có nội dung liên quan quy định khuôn khổ pháp luật, chính sách TGXH.

4.2.1. Chính sách trợ cấp xã hội

Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam chưa có Luật cũng như các quy phạm pháp luật quy định riêng về TCXH dành cho người mắc vấn đề về SKTT, mà các quy

định này được lồng ghép trong các quy định của chính sách trợ giúp chung đối với các đối tượng BTXH. Cụ thể, chính sách TCXH dành cho người mắc vấn đề về SKTT được thể hiện trong:

(i) Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ về chính sách

trợ giúp các đối tượng BTXH;

Sau hơn hai năm triển khai, Nghị định 67 đã thể hiện sự quan tâm tới một bộ phận dân cư có điều kiện, hoàn cảnh khó khăn, giúp các đối tượng này giảm bớt khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, trước những tác động bất lợi của khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu cộng với lạm phát, Chính phủ đã có sự điều chỉnh, bổ sung

Nghị định 67 với Nghị định số 13/2010/NĐ-CP.

75

(ii) Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng BTXH.

Theo đó, mức trợ cấp được quy định trong 02 Nghị định trên như sau:

Bảng 4.5: Chế độ trợ cấp hàng tháng (trợ giúp thường xuyên) dành cho NTT

Đơn vị: nghìn đồng

Nghị định Nghị định số 67/2007/NĐ-CP Nghị định số 13/2010/NĐ-CP Nội dung

Đối tượng

Người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm

Người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm và có kết luận bệnh mãn tính, sống độc thân không nơi nương tựa hoặc gia đình thuộc diện hộ nghèo

Mức TCXH hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng BTXHsống tại cộng đồng do xã, phường quản lý

Hệ số 1,5 1,5

Trợ cấp 180 270

Thành tiền 270 405

Mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng BTXH sống tại các cơ sở BTXH

Hệ số 2,5 2,5

Trợ cấp 300 450

Thành tiền 750 1.125

Trợ cấp khác ngoài tiền

76

1. Các đối tượng đang học văn hoá, học nghề được miễn, giảm học phí, được cấp sách, vở, đồ dùng học tập theo quy định của pháp luật. 2. Khi chết được hỗ trợ kinh phí mai táng 2.000.000 đồng/người. 3. Các đối tượng ở cơ sở BTXH thuộc Nhà nước quản lý còn được: a) Trợ cấp để mua sắm tư trang, vật dụng phục vụ cho sinh hoạt đời sống thường ngày; 1. Các đối tượng đang học văn hoá, học nghề được miễn, giảm học phí, được cấp sách, vở, đồ dùng học tập theo quy định của pháp luật. 2. Khi chết được hỗ trợ kinh phí mai táng 3.000.000 đồng/người. 3. Các đối tượng ở cơ sở BTXH thuộc Nhà nước quản lý còn được: a) Trợ cấp để mua sắm tư trang, vật dụng phục vụ cho sinh hoạt đời sống thường ngày;

Nghị định Nghị định số 67/2007/NĐ-CP Nghị định số 13/2010/NĐ-CP Nội dung

b) Trợ cấp để mua thuốc chữa bệnh thông thường; riêng người nhiễm HIV/AIDS được hỗ trợ điều trị nhiễm trùng cơ hội mức 150.000 đồng/người/năm; c) Trợ cấp vệ sinh cá nhân hàng tháng đối với đối tượng nữ trong độ tuổi sinh đẻ. b) Trợ cấp để mua thuốc chữa bệnh thông thường; riêng người nhiễm HIV/AIDS được hỗ trợ điều trị nhiễm trùng cơ hội mức 250.000 đồng/người/năm; c) Trợ cấp vệ sinh cá nhân hàng tháng đối với đối tượng nữ trong độ tuổi sinh đẻ.

Nguồn kinh phí

1. Ngân sách nhà nước 2. Kinh phí do các tổ chức, cá nhân đóng góp và giúp đỡ từ thiện 1. Ngân sách nhà nước 2. Kinh phí do các tổ chức, cá nhân đóng góp và giúp đỡ từ thiện

Nguồn: [29] và [30]

Theo Nghị định 67/2007/NĐ-CP thì điều kiện để hưởng TCXH hàng tháng của đối tượng người tàn tật nặng và người bị mắc bệnh tâm thần nặng phải là hộ nghèo. Điều này trở nên không còn phù hợp, vì thực tế hầu hết những hộ có người bị tàn tật nặng hoặc bị tâm thần đều là các hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc gia đình không thuộc

hộ nghèo, nhưng khi có người bị tàn tật nặng hoặc bị tâm thần nặng thì đời sống cũng rất khó khăn. Những đối tượng này trước đây đều được các địa phương xét trợ cấp hàng, nay do gắn với tiêu chí hộ nghèo nên nhiều người bị cắt không được hưởng

TCXH nữa. Nếu xét quyền của người khuyết tật theo Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật mà Việt Nam đã tham gia, thì việc gắn với tiêu chí hộ nghèo mới được hưởng trợ cấp là không phù hợp.

Bởi vậy, tại Điều 1 Nghị định 13/2010/NĐ-CP đã sửa đổi Điều 4 Nghị định 67/2007/NĐ-CP bằng việc bỏ tiêu chí hộ nghèo trong điều kiện để hưởng TCXH hàng tháng của đối tượng người mắc bệnh tâm thần.

Bên cạnh đó, mức TCXH tối thiểu hàng tháng theo Nghị định 67/2007/NĐ-CP

là 270 nghìn đồng dành cho các đối tượng BTXH sống tại cộng đồng do xã, phường quản lý và 750.000 đồng dành cho các đối tượng BTXH sống tại các cơ sở BTXH, được tính trên cơ sở giá tiêu dùng các mặt hàng bảo đảm nhu cầu về lương thực, thực phẩm ở mức tối thiểu tại thời điểm năm 2006. Đến thời điểm 2010, mặt bằng giá cả

77

các mặt hàng bảo đảm nhu cầu về lương thực, thực phẩm đã tăng gấp 3 lần so với thời điểm năm 2006. Do đó, mức trợ cấp này cũng chỉ bằng 60% của chuẩn nghèo. Chính vì vậy, mức TCXH hàng tháng của Nghị định 67 không còn phù hợp. Chính phủ đã

nâng mức TCXH tại Nghị định 13/2010/NĐ-CP lên 1,5 lần so với mức trợ cấp tại Nghị định 67. Cụ thể là, mức TCXH tối thiểu hàng tháng là là 405.000 đồng dành cho đối tượng BTXH sống tại cộng đồng do xã, phường quản lý và 1.125.000 đồng dành cho các đối tượng BTXH sống tại các cơ sở BTXH.

Mặc dù ngày 21 tháng 10 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2013/NĐ-CP Quy định chính sách TGXH đối với đối tượng BTXH nhưng Nghị định này lại không đề cập đến nhóm đối tượng NTT. Do đó, tính đến thời điểm hiện tại, mức TCXH hàng tháng dành cho người gặp vấn đề về SKTT vẫn căn cứ trên quy định của Nghị định 13/2010/NĐ-CP. Tuy nhiên, điều 20 Nghị định 136 có quy

định trợ cấp nhận chăm sóc, nuôi dưỡng người khuyết tật đặc biệt nặnglà thành viên gia đình, người nuôi dưỡng dựa vào cộng đồng.

Tính từ ngày Nghị định 13/2010/NĐ-CP có hiệu lực đến nay (ngày13 tháng 4 năm 2010), Nghị định này đã trải qua 06 năm thực hiện và tình hình kinh tế, tình hình giá cả tiêu dùng các mặt hàng lương thực, thực phẩm cơ bản của đất nước đã có nhiều

biến động. Như vậy, nếu tính chung cả giai đoạn 2011-2015 thì tốc độ tăng trưởng của tiêu dùng đạt 6,24%/năm.Chính yếu tố này là nguyên nhân căn bản dẫn đến mức sống của NTT giảm sút, đặt ra yêu cầu về sự thay đổi mức trợ cấp thường xuyên hàng tháng cho các đối tượng NTT sống tại cộng đồng cũng như sống tại các cơ sở BTXH trên cả

nước trong thời gian tới.

Đề cập đến thủ tục hành chính để người mắc vấn đề về SKTT theo quy định của luật có thể nhận được TCXH thì hiện nay ở Việt Nam, hầu hết các địa phương trên cả nước đã áp dụng cơ chế một cửa trong việc thực hiện các thủ tục hành chính. Mỗi địa phương có thể có sự khác biệt nhất định, song để nhận được TCXH hàng tháng, NTT (người thân của NTT) phải nộp: Hồ sơ đối tượng BTXH và Đơn đề nghị hưởng TCXH.

Bảng 4.6: Quy trình thực hiện chi TCXH dành cho NTT

Bước 1: Tổ chức, cá nhân chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, thủ tục theo quy định của pháp luật. Bước 2: Phòng LĐTBXH cấp quận/ huyện tiếp nhận hồ sơ do UBND cấp xã/ phường chuyển đến.

- Công chức tiếp nhận hồ sơ kiểm tra tính pháp lý và nội Trình tự thực hiện dung hồ sơ.

+ Nếu hồ sơ đầy đủ thì vào sổ tiếp nhận, đưa cán bộ xã

ký ngày giao hồ sơ.

+ Trường hợp không đúng thì công chức hướng dẫn làm

78

lại hồ sơ kịp thời.

Bước 3: Thẩm định hồ sơ cụ thể cho từng trường hợp, phân loại đối tượng hưởng theo từng mức quy định. Trình UBND cấp quận/ huyện ra quyết định cho từng trường hợp cụ thể hưởng TCXH. Bước 4: Tiếp nhận Quyết định từ UBND cấp quận/ huyện giao cho UBND cấp xã/ phường lập danh sách chi trả trợ cấp cho đối tượng.

- Đơn đề nghị hưởng TCXH(xem ở Phụ lục luận án) có xác nhận của trưởng thôn, khóm, ấp và của UBND cấp xã/ phường nơi đối tượng cư trú.

- Sơ yếu lý lịch của đối tượng có xác nhận của UBND

cấp xã/ phường nơi cư trú. Hồ sơ gồm có

- Văn bản xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về

tình trạng tâm thần.

- Biên bản hội đồng xét duyệt cấp xã/ phường. - Photo sổ hộ nghèo (nếu có).

Thời hạn giải quyết 10 - 15 ngày sau khi nộp hồ sơ.

- Cơ quan có thẩm quyền quyết định: UBND cấp quận/

huyện. Cơ quan thực hiện - Cơ quan trực tiếp thực hiện thủ tục hành chính: Phòng

LĐTBXH.

Lệ phí Không

Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính Người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm và có kết luận bệnh mãn tính.

Căn cứ Nghị định số: 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số: 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng BTXH;

Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính

Thông tư số: 24/2010/TTLT-Bộ LĐTBXH-BTC ngày 18/8/2010 của Bộ LĐTBXH - Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Nghị định số: 67/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng BTXH và Nghị định số: 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số: 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng BTXH.

79

Nguồn: Thông tin website Cục BTXH - http://btxh.gov.vn

Tuy nhiên, thực tế chính sách đề ra là thế nhưng mức độ thực hiện được bao nhiêu (bao quát được bao nhiêu phần trăm) đối tượng chính sách và mức độ hỗ trợ đối với các đối tượng chính sách như thế nào thì còn phụ thuộc rất lớn vào năng lực của từng địa phương, thậm chí là đạo đức của những người thực thi chính sách.

Thứ nhất, về vấn đề khả năng bao quát đối tượng chính sách trong quá trình tổ

chức thực thi chính sách:

Trong hồ sơ yêu cầu đối tượng chính sách phải nộp có một văn bản là: “Văn

bản xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về tình trạng tâm thần”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải gia đình nào cũng có điều kiện đưa người bệnh tâm thần đi khám để được chứng nhận y tế, do có thể là vì điều kiện địa lý (vùng núi, vùng sâu, vùng xa) hoặc cũng có thể do gia đình khó khăn, có NTT khiến gia đình càng kiệt quệ.

Có thể khẳng định rằng, đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến cho tỷ lệ người mắc bệnh tâm thần người được hưởng chế độ chính sách theo quy định của Nhà nước không đạt được như mong đợi của những người hoạch định chính sách. Điều này

có thể thấy được phần nào qua bảng số liệu sau đây:

Bảng 4.7: Thống kê tỷ lệ người mắc bệnh tâm thần người được hưởng TCXH thường xuyên giai đoạn 2011-2015

Đơn vị: %

Năm 2011 2012 2013 2014 2015 Khu vực

Khu vực thành thị 62,84 65,11 66,20 68,12 70,63

38,43 38,59 39,05 41,27 37,58 Khu vực nông thôn (đồng bằng)

22,26 22,32 22,48 23,04 23,59 Khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa

Nguồn: [25] và tính toán của NCS

Qua số liệu bảng 4.7 có thể thấy những con số rất không khả quan về tỷ lệ người mắc bệnh tâm thần được hưởng chính sách TCXH so với tổng số người thực tế

80

mắc bệnh. Đặc biệt con số này chưa đạt được 25% tại các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa là những nơi có số lượng người mắc bệnh rất cao. Điều này cho thấy những “lỗ hổng” lớn trong các chính sách TGXH trong CSSKTT ở Việt Nam hiện nay, nó khiến cho tác động lan tỏa của các chính sách bị hạn chế rất nhiều.

Thứ hai, về vấn đề đạo đức của những người thực thi chính sách:

Vấn đề tham nhũng xảy ra ở nhiều lĩnh vực, lĩnh vực TGXH trong CSSKTT cũng không ngoại lệ khiến cho các đối tượng chính sách đôi khi không nhận được đầy đủ trợ cấp của Nhà nước, khiến cho mục tiêu ASXH của Nhà nước không đạt được

một cách trọn vẹn.

Về nguồn kinh phí dành cho hệ thống CSSKTT ở Việt Nam thì được chia

thành 03 cấp như sau:

Thứ nhất, ngân sách quốc gia:

Cho đến nay, nguồn kinh phí của Nhà nước cho hệ thống CSSKTT tập trung

theo hai nhánh: qua BYT và qua Bộ LĐTBXH. Trong đó:

BYT quản lý kinh phí cấp cho hệ thống bệnh viện, cộng với kinh phí dành cho

dự án bảo vệ SKTT cộng đồng, và gần đây là kinh phí từ Đề án 930 nâng cấp và xây mới Bệnh viện tâm thần (BVTT);

Bộ LĐTBXH quản lý nguồn kinh phí cấp cho hệ thống trung tâm BTXH dành

cho người bệnh tâm thần và kinh phí bảo trợ người bệnh tâm thần theo Nghị định 13 của chính phủ, cùng với nguồn kinh phí đang đến từ Đề án 1215. Nhìn chung, cả hai nhánh kinh phí nêu trên đều được vận hành theo NSNN, mức cấp kinh phí tính theo số giường bệnh kế hoạch, các mức thu - chi thuộc hệ thống NSNN chỉ có thể đảm bảo cho các cơ sở này tồn tại ở dạng hoạt động trên danh nghĩa.

Bảng 4.8: Sự khác biệt giữa “kinh phí được duyệt theo kế hoạch” và kinh phí thực cấp trong dự án CSSKTT cộng đồng của BYT giai đoạn 2011-2015

Năm % so với kế hoạch

Kế hoạch duyệt (triệu đồng) 150.000 170.000 215.000 240.000 255.000 1.030.000 Thực cấp (triệu đồng) 72.000 75.000 89.000 110.000 120.000 466.000 48,00 44,12 41,40 45,83 47,06 45,24 2011 2012 2013 2014 2015 Chung 5 năm

Nguồn: [26]

Cho đến nay, không có một báo cáo chính thức nào đưa ra số liệu khả dĩ cho phép nhận định về tổng kinh phí có từ mỗi Bộ dành cho CSSKTT (gồm BYT và Bộ

81

LĐTBXH), và phân theo các tuyến Trung ương, địa phương. Điểm cơ bản ảnh hưởng đến việc không đưa ra được số liệu chính thức, bởi các lý do như: (i) Có sự khác biệt

lớn giữa kinh phí theo kế hoạch và kinh phí thực cấp; (ii) Kinh phí vận hành các cơ sở lại đến từ nhiều nguồn, trong đó có nguồn “ba lợi ích”, nguồn kinh phí quốc tế... tất cả đều chung tình trạng khác biệt giữa kế hoạch và thực thi... điều này làm cho việc nắm đúng số liệu về kinh phí cho một cơ sở chỉ để dành cho người quản lý của cơ sở đó, hơn là để dành cho quản lý hệ thống. Nguyễn Văn Hồi, Trần Tuấn, 2011)

Thứ hai, ngân sách cấp tỉnh:

Ta có thể hình dung phần nào thực trạng trên thông qua bảng số liệu về định

mức chi tiêu trung bình cho các cơ sở chăm sóc bệnh nhân tâm thần:

Bảng 4.9: Định mức chi tiêu trung bình cho cơ sở chăm sóc bệnh nhân tâm thần tuyến tỉnh của một số địa phương trong giai đoạn 2011-2015

Loại hình cơ sở

Định mức tại các tỉnh (triệu đồng/năm/giường nội trú)

Khánh Hòa 25

Đà Nẵng 32

Bệnh viên đa khoa tỉnh Hà Nội 41

Long An 43

Quảng Ninh 76

Khánh Hòa 23

Đà Nẵng 28,5

Bệnh viện tâm thần tỉnh Hà Nội 41

Long An 40

Quảng Ninh 67

Nguồn: [26]

Thực trạng về kinh phí cho công tác CSSKTT ở địa phương cũng rơi vào tình trạng tương tự. Các báo cáo được chính thức công bố đều không có phần kinh phí. Dường như thông tin về kinh phí được quản lý theo một kênh riêng. Mặc dù các cơ sở công đều có chung quy định vận hành tài chính công, nhưng định mức cấp kinh phí khác

nhau giữa các địa phương, và trong một địa phương định mức cấp cũng khác nhau giữa các cơ sở, trong đó, cơ sở chăm sóc bệnh nhân tâm thần chịu phần yếu thế hơn.

Thứ ba, ngân sách cấp cơ sở:

82

Chi phí cho công tác CSSKTT ở nhánh Bộ LĐTBXH hoàn toàn không có khoản nào khác ngoài chế độ BTXH dành cho bệnh nhân tâm thần theo Nghị định 13.

Nghị định này nêu chi tiết cho từng loại đối tượng sống tại cộng đồng, tại nhà BTXH tuyến huyện/xã, và cơ sở BTXH dành cho bệnh nhân tâm thần tuyến tỉnh. Các mức đi từ thấp nhất 180.000 đồng/người-tháng, tới 450.000 đồng/bệnh nhân-tháng. Trên thực tế, ngoại trừ khối bệnh viện tuyến Trung ương, các bệnh viện chuyên khoa tâm thần

tỉnh đều có tình trạng kinh phí ở mức tối thiểu. Thu nhập cán bộ nhân viên tính cả lương và phụ cấp đem lại từ mọi nguồn thu của bệnh viện, chỉ đạt trung bình bằng một nửa so với bệnh viện đa khoa.

Kinh phí từ nguồn viện trợ cho hệ thống CSSKTT ở các tỉnh hầu như không có. Đối với tuyến Trung ương, kinh phí viện trợ chủ yếu đến từ Tổ chức Atlantic Philanthropies (AP), trong đó, 95% chuyển sang các tổ chức phi chính phủ quốc tế thực hiện dự án thí điểm mà cũng chưa quyết toán dự án. (RTCCD, MOLISA,

UNICEF, 2010)

Việc phân bổ kinh phí cho hoạt động cụ thể cũng là một vấn đề được xem xét. Ở mảng điều trị tập trung, cơ cấu chi chủ yếu cho con người (lương, phụ cấp chế độ,

thưởng...) chiếm khoảng 2/3 tổng thu (66,5%), tiếp đến là thuốc cho bệnh nhân khoảng ¼ (27,5%), còn lại là chi vận hành cơ sở (khoảng không quá 10%). Với cơ cấu chi như vậy, rõ ràng, các cơ sở này khó thực hiện được các yêu cầu chuyên môn chăm sóc và phục hồi cơ bản cho bệnh nhân tâm thần. Do vậy, tình trạng phổ biến ở các trung tâm

là chỉ giữ bệnh nhân chứ chưa hẳn là chăm sóc, điều trị phục hồi. (RTCCD, MOLISA, UNICEF, 2010)

Ở mảng cộng đồng, dự án CSSKTT cộng đồng do BYT quản lý chi một phần

kinh phí đáng kể cho truyền thông (10%) và đào tạo (20%), còn lại là cho chuyên môn, trong đó chủ yếu là thuốc (70%). (RTCCD, MOLISA, UNICEF, 2010)

Tóm lại, bức tranh về tài chính cho hệ thống CSSKTT ở Việt Nam hoàn toàn do NSNN đảm nhiệm. Trong 5 năm 2011-2015, đã có sự cải thiện đáng kể với mức tăng

trung bình ước tính 13% cho nguồn chi thường xuyên, và xấp xỉ 53% với dự án CSSKTT cộng đồng. Ngoài ra, nguồn kinh phí địa phương khác nhau theo từng tỉnh. Hỗ trợ từ các nguồn khác hầu như không có. Nguồn kinh phí từ ngân sách mới chỉ đáp

ứng duy trì dịch vụ ở mức tối thiểu, chủ yếu cho khâu điều trị tập trung bằng thuốc. Mảng chăm sóc cộng đồng có nguồn kinh phí tăng nhanh, nhưng chủ yếu lại cũng dành cho thuốc (70%). Phần của hệ thống do Bộ LĐTBXH quản lý có đặc điểm tương tự như bên y tế xét về mảng cơ sở tập trung bệnh nhân, còn phần kinh phí cho mảng

83

bảo trợ BNTT tại cộng đồng thì tuyệt đại đa số ngân sách dành cho bệnh nhân. Mảng lương và trợ cấp đội ngũ cán bộ thực hiện không được tách riêng, vì tích hợp trong chức năng chung mà người cán bộ LĐTBXH cơ sở thực hiện (chung cho các đối tượng

yếu thế và chính sách khác trong xã hội). (RTCCD, MOLISA, UNICEF, 2010)

Bảng 4.10: Đánh giá chính sách TCXH đối với NTT theo quan điểm của

cán bộ quản lý

TT

Mức độ cảm nhận

Điểm

Ý kiến đánh giá

Điểm bình quân

Đánh giá

Trung bình

Tốt và rất tốt

(lượt)

(Mean)

(%)

(%)

Không tốt và rất không tốt

Yếu tố

(%)

16,0

60,0

24,0

50

2,92

1

Trung bình

Chính sách TCXH (CSTCXH)

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Theo đánh giá từ 50 cán bộ làm việc tại Cục BTXH, chính sách TCXH đối với NTT của Việt Nam áp dụng trong thời gian qua mặc dù đã đạt được những thành công bước đầu trong việc hỗ trợ đối tượng này và gia đình cải thiện khó khăn trong cuộc

sống, nhưng thực tế vẫn còn rất nhiều khó khăn, vướng mắc cần phải được nghiên cứu khắc phục trong thời gian tới. Điểm bình quân đánh giá đối với chính sách TCXH chỉ đạt 2,92 điểm, tức là đạt mức trung bình.

4.2.2. Chính sách phát triển cơ sở bảo trợ xã hội

Theo một số nghiên cứu của World Bank năm 2015thì Việt Nam thiếu đầu tư xã hội thể hiện qua xu hướng cấp ngân sách cho hệ thống y tế; tỷ lệ phần trăm GDP chi cho y tế công đã giảm còn 2,5% trong năm 2012 cùng tỷ lệ tự chi trả tăng đến 49,4% trong

năm 2013.So với các quốc gia láng giềng, Việt Nam trong lịch sử đã đầu tư rất ít cho cung ứng dịch vụ SKTT. Ví dụ, theo Niemi (2014) chính phủ Việt Nam trước đây chi tiêu xấp xỉ 2 triệu USD hàng năm cho chi phí chăm sóc SKTT so với Thái Lan đã chi 46

triệu USD, dù nước này có dân số nhỏ hơn Việt Nam. Tuy nhiên, đầu tư của Chính phủ Việt Nam cho dịch vụ SKTT đã tăng lên trong những năm gần đây.

Ngoài trợ cấp cho gia đình đối tượng BTXH mắc rối loạn tâm thần, Bộ LĐTBXH còn vận hành các cơ sở điều trị nội trú với các mức độ lưu trú, PHCN, dịch vụ điều trị khác nhau; đó là các Trung tâm BTXH (TTBTXH) và Trung tâm Điều dưỡng. Các cơ sở này đã bảo trợ cho các đối tượng BTXHcó khuyết tật trí tuệ hoặc

84

tâm thần và những đối tượng khác có nhu cầu hỗ trợ xã hội và lưu trú. Bộ LĐTBXH hiện có mạng lưới quốc gia với 30 TTBTXH điều trị và chăm sóc chuyên biệt cho

người mắc rối loạn tâm thần với trên 10.000 bệnh nhân trong các cơ sở này.

Về nhiều mặt, các TTBTXH giống BVTT nội trú dài ngày, nơi bệnh nhân có

chỗ ở thô sơ và bữa ăn đạm bạc và được cung cấp thuốc hướng thần. Một số TTBTXH có các hoạt động PHCN giải trí và/hoặc dạy nghề cho người lưu trú. Theo đó, tại một số TTBTXH tiến bộ có một số sự kiện bệnh nhân đàn hát cùng nhau, còn có các chương trình PHCN hướng nghiệp thành công như trồng nấm giúp bệnh nhân có kỹ năng đồng thời mang lại nguồn thu cho TTBTXH và giúp nâng cao chất lượng sống của người được chăm sóc.

Về chính sách phát triển các cơ sở BTXH:

* Đề án 1215/QĐ-TTg

Ở Việt Nam, công tác TGXH trong CSSKTT mới chỉ được đẩy mạnh và đi vào nề nếp từ khi Đề án 1215 của Chính phủ được ban hành ngày 22 tháng 07 năm 2011. Trong Đề án này, Chính phủ xác định rõ mục tiêu phát triển các cơ sở BTXH như sau:

Thứ nhất, hỗ trợ các địa phương đầu tư nâng cấp, mở rộng và nâng công suất

các cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT từ 300 lên 500 đối tượng mỗi cơ sở;

Thứ hai, đầu tư xây dựng ít nhất 3 cơ sở BTXH khu vực để chăm sóc và PHCN

cho NTT;

Thứ ba, hỗ trợ đầu tư xây mới 20 cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT tại

những tỉnh, thành phố có đông đối tượng;

Thứ tư, hỗ trợ đầu tư trang thiết bị cho các cơ sở BTXH chăm sóc, PHCN luân

phiên cho NTT.

* Quyết định số 1364/QĐ-LĐTBXH

Để hiện thực hóa mục tiêu này, năm 2012, Chính phủ ban hành Quyết định số 1364/QĐ-LĐTBXH Phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT dựa vào cộng đồng giai đoạn 2012-2020. Quy hoạch này đã

thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc đảm bảo cơ sở vật chất cho công tác ASXH nói chung, công tác CSSKTT nói riêng. Theo quy hoạch này, trong giai đoạn 2012-2020, quan điểm phát triển mạnh lưới cơ sở BTXH của Việt Nam như sau:

Thứ nhất, phát triển cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT là thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đến những người nghèo khó nhất trong xã

hội; góp phần thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020; góp phần ổn định xã hội và bảo đảm ASXH.

85

Thứ hai, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc phát triển mạng lưới các cơ sở

BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT và người RNTT; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia đầu tư phát triển mạng lưới các cơ sở.

Thứ ba, quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT tại mỗi tỉnh, thành phố phù hợp với quy mô, phân bố của đối tượng, đảm bảo các đối tượng đều có cơ hội được chăm sóc, chữa trị, phục hồi và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội đến năm 2020 của cả nước và mỗi tỉnh, thành phố.

Thứ tư, đổi mới cơ chế và phương thức quản lý, vận hành cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT theo phương châm cơ sở hỗ trợ chăm sóc, PHCN cho đối tượng tại gia đình, cộng đồng là chính, trường hợp cấp tính mới đưa vào cơ sở BTXH; tổ chức cung cấp dịch vụ trị liệu tâm lý tại cơ sở kết hợp với tổ chức lao động trị liệu và phục hồi sinh thái cho đối tượng.

a) Quy hoạch mạng lưới các cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT đến năm

2020 đạt công suất phục vụ là 20.000 đối tượng:

Thứ nhất, quy hoạch 50 cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT, người

RNTT của tỉnh, thành phố, gồm:

Nâng cấp, mở rộng 26 cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT, người

RNTT, trong đó 01 cơ sở có quy mô 200 - 300 đối tượng; 25 cơ sở có quy mô 300-500 đối tượng mỗi cơ sở;

Xây dựng 24 cơ sở BTXH chăm sóc và phục phồi chức năng cho NTT, người RNTT, trong đó: 12 cơ sở có quy mô 200 - 300 đối tượng mỗi cơ sở; 12 cơ sở có quy mô 300-500 đối tượng mỗi cơ sở;

Thứ hai, quy hoạch 36 cơ sở BTXH tổng hợp có bộ phận phòng và trị liệu RNTT.

b) Phân bố mạng lưới các cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT:

Phân bố mạng lưới các cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT theo 6 vùng kinh tế như sau: Vùng Trung du và miền núi phía Bắc 9 cơ sở; Vùng đồng bằng sông Hồng 11 cơ sở; Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung

14 cơ sở; Vùng Tây Nguyên 4 cơ sở; Vùng Đông Nam Bộ 8 cơ sở; Vùng đồng bằng Sông Cửu Long 10 cơ sở.

c) Đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và trang thiết bị:

Đảm bảo cho các cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho đối tượng đạt tiêu chuẩn

86

chăm sóc theo quy định tại Thông tư số 04/2011/TT-BLĐTBXH ngày 25/2/2011của Bộ LĐTBXH về tiêu chuẩn chăm sóc tại các cơ sở BTXH; từng bước hiện đại hoá bảo đảm có các phân khu chức năng, các hạng mục công trình đáp ứng hoạt động chăm sóc, PHCN, trị liệu tâm lý và lao động trị liệu toàn diện.

Bảng 4.11: Quy hoạch mạng lưới các cơ sở chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT giai đoạn 2012-2020

Hiện trạng (tính đến hết năm 2011)

Quy hoạch (đến năm 2020)

Stt

Vùng

Độ phủ sau quy hoạch(%)

Tổng số đối tượng tâm thần

Số đối tượng(người)

Xây mới

Số lượng cơ sở BTXH

Nâng cấp, mở rộng

1

29.645

9

376

3

3

78,57

Trung du và miền núi phía Bắc

2 Đồng bằng Sông Hồng

51.980

11

2.187

8

4

100

3

61.626

15

2.348

7

5

92,86

Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung

4 Tây Nguyên

9.525

4

170

0

3

80,00

5 Đông Nam Bộ

21.874

8

3.238

3

3

100

6

36.419

10

1.037

4

6

92,31

Đồng bằng Sông Cửu Long

7

4

226

1

0

-

Trung tâm thuộc Bộ LĐTBXH

Nguồn: [22]

Trong đó:Tiêu chí “Độ phủ sau quy hoạch” được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa

số tỉnh/thành phố có cơ sở BTXH trên tổng số tỉnh/thành phố của vùng.

Theo Nghị định Số: 68/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 05 năm 2008 của Chính

phủ Quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở BTXH

thì các cơ sở BTXH phải đảm bảo các điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất như sau:

Diện tích đất tự nhiên: Bình quân 30 m2/đối tượng ở khu vực nông thôn,

10m2/đối tượng ở khu vực thành thị;

Diện tích phòng ở của đối tượng: Bình quân 6 m2/đối tượng. Đối với đối tượng phải chăm sóc 24/24 giờ một ngày, diện tích phòng ở bình quân 8 m2/đối tượng. Phòng

ở phải được trang bị đồ dùng cần thiết phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân;

Đối với cơ sở BTXH chăm sóc, nuôi dưỡng từ 25 đối tượng trở lên phải có khu

nhà ở, khu nhà bếp, khu làm việc của cán bộ nhân viên, khu vui chơi giải trí, hệ thống

87

cấp, thoát nước, điện, đường đi nội bộ, khu sản xuất và lao động trị liệu (nếu có điều

kiện). Đối với cơ sở BTXH chăm sóc, nuôi dưỡng từ 10 đến dưới 25 đối tượng phải

đảm bảo điều kiện cơ bản về nhà ở, nhà bếp, nhà làm việc của cán bộ nhân viên, điện,

nước phục vụ sinh hoạt hàng ngày;

Các công trình, các trang thiết bị phải bảo đảm cho người tàn tật, người cao tuổi

và trẻ em tiếp cận và sử dụng thuận tiện.

Tuy nhiên, trên thực tế, cơ sở vật chất của các Trung tâm BTXH chưa đáp ứng

được mọi tiêu chí của Nghị định 68 nêu trên. Khuôn viên tổng thể của các trung tâm

thường rộng và sạch sẽ, các trung tâm có khu vực sân chơi, chia làm 2 khu (một khu

cho bệnh nhân nhẹ và một khu cho bệnh nhân nặng). Tuy nhiên, diện tích phòng ở của đối tượng bình quân không đủ 6m2/đối tượng. Một phòng nhỏ 12m2 thường có 4 bệnh nhân ở, phòng lớn 30m2 kê khoảng 10 giường. Tình trạng chung phòng ở của bệnh

nhân là ẩm thấp, cửa sổ không đủ kín để che gió mùa đông, thiếu hệ thống nước nóng

để tắm cho bệnh nhân trong mùa rét, kể cả hệ thống nước nóng tập trung và hoàn toàn

không có hệ thống nước nóng đến phòng ở của bệnh nhân.

Trên cả nước, Đà Nẵng là tỉnh duy nhất mà Trung tâm BTXH có điều kiện cơ sở

vật chất tốt hơn các tỉnh khác do có hỗ trợ của dự án quốc tế và đầu tư của UBND tỉnh.

Bộ LĐTBXH đã ban hành văn bản số 462/LĐTBXH-BTXH ngày 19/2/2013

hướng dẫn các địa phương triển khai Đề án Quy hoạch mạng lưới các cơ sở BTXH

chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT dựa vào cộng đồng giai đoạn 2012-2020

với các nội dung sau:

(i) Đối với trung tâm BTXH chuyên biệt chăm sóc và PHCN cho NTT: UBND

tỉnh, thành phố (gọi tắt là UBND cấp tỉnh) giao Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

chủ trì, phối hợp với Sở, ngành liên quan xây dựng, trình UBND cấp tỉnh phê duyệt

ngay đề án tổ chức lại trung tâm và dự án nâng cấp, mở rộng trung tâm.

(ii) Đối với trung tâm BTXH tổng hợp có chăm sóc và PHCN cho NTT thuộc

diện quy hoạch tại Quyết định số 1364/QĐ-LĐTBXH, UBND cấp tỉnh giao Sở

LĐTBXHchủ trì, phối hợp với các Sở, ngành liên quan xây dựng, trình UBND cấp tỉnh

phê duyệt ngay đề án tổ chức lại nhiệm vụ chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT

của trung tâm và phê duyệt dự án mua sắm trang thiết bị phục vụ chăm sóc và PHCN

luân phiên cho NTT theo lộ trình quy định tại Quyết định số 1364/QĐ-LĐTBXH và

Đềán Quy hoạch phát triển mạng lưới các cơ sở TGXH giai đoạn 2016-2025.

88

(iii) Đối với tỉnh, thành phố có đông đối tượng tâm thần, đã được quy hoạch

xây dựng mới trung tâm chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT theo Quyết định

số 1364/QĐ-LĐTBXH, UBND cấp tỉnh giao Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

chủ trì, phối hợp các Sở, ngành liên quan xây dựng, trình UBND cấp tỉnh phê duyệt đề

án thành lập trung tâm và phê duyệt dự án đầu tư xây dựng trung tâm theo lộ trình quy

định tại Quyết định số 1364/QĐ-LĐTBXH.

(iv) Đối với những tỉnh, thành phố có đông đối tượng bức xúc, trung tâm thuộc

diện quy hoạch xây dựng trung tâm chăm sóc và PHCN cho NTT giai đoạn 2016-2020

theo quy định tại Quyết định số 1364/QĐ-LĐTBXH nhưng địa phương có khả năng bố

trí kinh phí để xây dựng mới hoặc nâng cấp, mở rộng trung tâm trong giai đoạn 2013-

2015 thì UBND cấp tỉnh có văn bản gửi Bộ LĐTBXH, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài

chính xin ý kiến thống nhất phê duyệt đề án và dự án đầu tư trước thời hạn quy định.

Mặc dù mức đầu tư hàng năm cho xây mới, nâng cấp, mở rộng cũng như

phát triển nguồn nhân lực cho các cơ sở chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT

(hay các TTBTXH) trên cả nước không hề nhỏ, nhưng kết quả mang lại vẫn còn

khá hạn chế.

Bảng 4.12: Ngân sách đầu tư phát triển các cơ sở chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT giai đoạn 2011-2015

Đơn vị: triệu đồng

1

Stt Vùng 2011 2012 2013 2014 2015

Trung du và miền núi phía Bắc

2 Đồng bằng Sông Hồng

18.750 18.700 22.500 30.230 28.540

3

27.900 25.490 29.300 33.380 35.130

Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung

4 Tây Nguyên

22.400 20.530 25.100 26.310 28.920

5 Đông Nam Bộ

5.420 5.100 11.020 12.050 15.480

6 Đồng bằng Sông Cửu Long

15.920 14.000 15.440 17.900 22.700

7

18.750 18.010 23.840 33.820 40.750

Trung tâm thuộc Bộ LĐTBXH

0 0 300 0 0

Tổng số

109.140 101.830 127.500 153.690 171.520

Nguồn: [22]

89

Thực tế cho thấy, hầu hết các Trung tâm chăm sóc và PHCN cho NTT được xây dựng từ rất lâu, cơ sở vật chất xuống cấp trầm trọng. Để hướng dẫncác tỉnh, thành

phố nâng cấp, mở rộng hoặc xây mới nhằm nhanh chóng đáp ứng yêu cầuchăm sóc NTT, người RNTT, Bộ LĐTBXH đã ban hành công văn số 3559/LĐTBXH-BTXH ngày 30/10/2015 về việc bố trí vốn đầu tư phát triển thực hiện Đề án TGXH và PHCN cho NTT, người RNTT dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020.

Dù công suất tiếp nhận bệnh nhân của các TTBTXH ở Việt Nam hiện nay khá lớn, tuy nhiên, theo thông tin từ Bộ LĐTBXH và một số nghiên cứu độc lập thì các TTBTXH hiện chỉ đáp ứng 5% số bệnh nhân có các nhu cầu sức khoẻ chuyên biệt. Bộ

LĐTBXH đang cải thiện chất lượng của các TTBTXH hiện có và lập kế hoạch xây dựng thêm các cơ sở mới để tiếp nhận nhiều bệnh nhân hơn cũng như phục vụ cho các tỉnh thành chưa có TTBTXH.

Thực hiện hướng dẫn của Bộ LĐTBXH, các tỉnh, thành phố tăng cường Xây dựng, nâng cấp, mở rộng và mua sắm trang thiết bị cho các cơ sở TGXH nhằm đáp

ứng, bảo đảm điều kiện tốt cho việc chăm sóc, ăn, ở, hướng nghiệp, PHCN và thực hiện cung cấp cấp dịch vụ CTXH cho NTT và gia đình đối tượng tại cộng đồng.

Tiêu chí lựa chọn tỉnh, thành phố được hỗ trợ từ ngân sách Trung ương dựa trên các tiêu chí sau: (i) Cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT và người RNTT thuộc danh mục quy hoạch.; (ii) đối với cơ sở nâng cấp, mở rộng: Cơ sở đã bị xuống cấp, trang thiết bị cũ nát, không bảo đảm chăm sóc và PHCN cho đối tượng; cơ sở đang

chăm sóc nuôi dưỡng đối tượng quá đông; các tiêu chuẩn chăm sóc và PHCN cho đối tượng không bảo đảm; (iii) đối với cơ sở xây mới: Tỉnh, thành phố có số lượng đối tượng lớn; tỉnh, thành phố chưa có cơ sở chuyên biệt hoặc có cơ sở nhưng quá tải.

Tiêu chí lựa chọn ưu tiên: UBND các tỉnh, thành phố có kế hoạch thực hiện Đề án 1215; Đề án cung cấp dịch vụ chăm sóc và PHCN cho NTT và người RNTT của cơ sở; số lượng đối tượng lớn;đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên có năng lực tốt; địa phương chủ động bố trí ngân sách, huy động các nguồn lực và bố trí đất đai xây dựng cơ sở để thực hiện Đề án; các tỉnh, thành phố có cơ sở nhưng quá tải, cơ sở vật chất

xuống cấp.

Tính đến hết năm 2015, đã có 45 cơ sở BTXH có chăm sóc và PHCN cho NTT;

trong đó có 26 cơ sở chăm sóc chuyên biệt, 10 cơ sở tổng hợp. Một số tỉnh, thành phố đã xây dựng mô hình tốt về lao động trị liệu và PHCN luân phiên cho NTT nặng như Trung tâm BTXH tỉnh Sơn La, Thừa Thiên Huế; Trung tâm điều dưỡng và PHCN NTT Việt Trì. Các trung tâm bước đầu thực hiện mô hình kết hợp tư vấn, trị liệu tâm

lý và các dịch vụ CTXH với điều trị y tế để phòng và trị liệu RNTT. Cụ thể:

(i) Nâng cấp, mở rộng 17 trung tâm chăm sóc và PHCN cho NTT, người

90

RNTT, tại các tỉnh, thành phố: Bến Tre, Ninh Thuận, Long An, Ninh Bình, Thái Bình,

Hải Dương, Hải Phòng, Thái Nguyên, Phú Thọ, Nghệ An, Quảng Nam, Yên Bái, Vĩnh Phúc, Hà Nội...

(ii) Xây mới trung tâm chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT 02 tỉnh,

thành phố: Thanh Hóa và Bắc Giang.

(iii) Hỗ trợ mua sắm trang thiết bị cho 7 trung tâm thuộc Bộvà một số tỉnh, thành phố: Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Quảng Ngãi, Thừa Thiên Huế, Cần Thơ, Bắc Giang.

(iv) Xây dựng mô hình cơ sở phòng và trị liệu RNTT tại một số Trung tâm, Bệnh viện thuộc Bộ và một số tỉnh, thành phố, gồm: Đắk Nông, Quảng Ninh, Thanh

Hóa. Các mô hình này tập trung vào việc cung cấp các dịch vụ, tư vấn, tham vấn, kết nối nối chuyển tuyến cho đối tượng bị RNTT, sang chấn tâm lý, khủng hoảng tâm lý, có nguy cơ cao bị bệnh tâm thần.

(v) Hướng dẫn, tổ chức lại chức năng, nhiệm vụ của cơ sở chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT. Chủ yếu chăm sóc và PHCN cho đối tượng tâm thần nặng,

người cao tuổi, trẻ em... và chuyển tuyến đối tượng về cộng đồng

(vi) Phối hợp với tổ chức AP thí điểm mô hình CSSKTT toàn diện tại tỉnh

Thanh Hóa và Bến Tre. Mục tiêu của mô hình là xây dựng cơ chế hợp tác liên ngành, CSSKTT toàn diện, lấy đối tượng làm trung tâm, PHCN luân phiên cho đối tượng và tăng cường cơ chế phòng ngừa: tư vấn, trị liệu tâm lý, đường dây tư vấn điện thoại (hotline); hỗ trợ truyền thông nâng cao nhận thức người dân về SKTT.

(vii) Phối hợp với tổ chức FHI thí điểm mô hình Trung tâm CTXH hỗ trợ điều

trị trầm cảm tại tỉnh Quảng Ninh và Thái Nguyên. Mô hình tập trung cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho người bị trầm cảm tại cộng đồng như tham vấn, tư vấn, trị liệu và chuyển tuyến; lồng ghép dịch vụ SKTT với hệ thống dịch vụ xã hội tại cộng đồng; thiết lập một hệ thống chuyển gửi, trao đổi thông tin giữa dịch vụ xã hội (ngành

LĐTBXH) và dịch vụ SKTT (ngành y tế); truyền thông giáo dục về chống kỳ thị đối với người bệnh trầm cảm tại khu phố; hỗ trợ nghiên cứu, xây dựng chương trình tài liệu tập huấn giảng viên nguồn về lĩnh vực SKTT; đào tạo CTXH trong lĩnh CSSKTT

cho cán bộ quản lý.

Về theo dõi, giám sát chất lượng của các TTBTXH:

Hiện nay, Việt Nam chưa có hệ thống giám sát độc lập về chất lượng điều trị và việc thực hiện quyền bệnh nhân. Hệ thống giám sát chủ yếu dựa vào giám sát nội bộ do ban

91

giám đốc trung tâm thực hiện. Thanh tra Sở LĐTBXH đến thanh tra 1 lần/năm, tập trung chủ yếu vào giám sát thu chi và nhiệm vụ chính trị, không giám sát chuyên môn. Hệ thống giám sát chỉ đạo tuyến về chuyên môn từ trung ương xuống tỉnh chưa hình thành.

Bảng 4.13: Đánh giá chính sách phát triển cơ sở BTXH theo quan điểm của cán bộ quản lý

Điểm

TT

Đánh giá

Mức độ cảm nhận

Ý kiến đánh giá (lượt)

Tốt và rất tốt (%)

Trung bình (%)

Điểm bình quân (Mean)

Yếu tố

Không tốt và rất không tốt (%)

Chính sách phát triển

Trung

34

48

18

1

cơ sở BTXH

50

3,16

bình

(CSPTCS)

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Mặc dù chính sách phát triển cơ sở BTXH trong giai đoạn 2011-2015 được Bộ LĐTBXH quan tâm khá sát, thành quả đạt được cũng không nhỏ, tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều cán bộ thì mặc dù lượng ngân sách bỏ ra để đầu tư, nâng cấp, xây mới hệ thống các cơ sở BTXH trên cả nước hằng năm rất lớn, nhưng số lượng cũng như tỷ lệ NTT được điều trị tại các cơ sở cũng như hiệu quả điều trị, PHCN cho NTT không cao, không như mong đợi của Bộ LĐTBXH. Chính vì vậy, điểm bình quân đánh giá đối với chính sách này cũng chỉ dừng lại ở 3,16 điểm và đạt mức trung bình.

4.2.3. Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm

Ở Việt Nam, công tác dạy nghề và giải quyết việc làm cho người khuyết tật (NKT) được biệt quan tâm, tạo điều kiện thuận từ phát triển hạ tầng cơ sở cho đến chính sách trợ giúp đối tượng tham gia học nghề cũng như giáo viên dạy nghề.

Luật Dạy nghề năm 2006 đã dành toàn bộ Chương VII quy định dạy nghề cho NKT, với mục tiêu giúp đối tượng có năng lực thực hành nghề phù hợp với khả năng lao động của mình để tự tạo việc làm hoặc tìm được việc làm, ổn định đời sống. Đồng

thời, Nhà nước cũng khẳng định, hỗ trợ về tài chính và các chính sách ưu đãi khác đối với các cơ sở dạy nghề cho NKT nhằm khuyến khích công tác dạy nghề cho NKT.

Trong Bộ Luật Lao động năm 2012, tại Điều 176 cũng nêu rõ: Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm của lao động là người khuyết tật, có chính sách

92

khuyến khích và ưu đãi người sử dụng lao động tạo việc làm và nhận lao động là người khuyết tật vào làm việc, theo quy định của Luật người khuyết tật; Chính phủ quy định chính sách cho vay vốn ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm đối với người sử dụng lao động sử dụng lao động là người khuyết tật. (Quốc hội, 2012)

Tại điều 27 Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 cũng nêu: Nhà nước khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển người khuyết tật vào học hòa nhập; khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho người khuyết tật; Cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho người khuyết tật được hưởng các chính sách hỗ

trợ về tài chính để đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo; được giao đất, cho thuê đất để xây dựng công trình sự nghiệp ở nơi thuận lợi cho việc học của người khuyết tật. (Quốc hội, 2014)

Tuy nhiên, người mắc bệnh tâm thần là nhóm đối tượng đặc biệt vì nhận thức của họ rất thấp, thậm chí là không có. Do đó, việc dạy nghề, tạo việc làm cho nhóm đối tượng này không phải là một công việc đơn giản và không thể thể thực hiện một cách đại trà trên mọi đối tượng.

Cũng chính vì vậy mà tính đến thời điểm hiện tại, nước ta chưa có Luật hay quy định nào riêng biệt dành cho công tác dạy nghề, tạo việc làm cho người mắc vấn đề về SKTT, mà công tác này chủ yếu mới chỉ là: (i)Các cơ quan quản lý thuộc Bộ

LĐTBXH khuyến khích các Trung tâm BTXH, các tổ chức nghề nghiệp trong xã hội tự triển khai, phối hợp triển khai các hoạt động dạy nghề, tạo việc làm cho người bệnh tâm thần khi bệnh tình của họ đã có sự tiến triển nhất định sau một thời gian điều trị với mục đích chủ yếu là giảm tình trạng “ăn không ngồi rồi” của người bệnh, khiến họ

có thể lao động để tự cải thiện bữa ăn, cuộc sống của mình; (ii) Các bệnh viên tâm thần thuộc BYT tự tổ chức các “Lớp dạy nghề” trong bệnh viện với mục tiêu sau khi ổn định tâm lý và trước khi tái hòa nhập cộng đồng, các bệnh nhân tại bệnh viện được

phục hồi chức năng xã hội và được hướng nghiệp rất thiết thực.

Theo báo cáo mới nhất của Bộ LĐTBXH đánh giá kết quả thực hiện Đề án TGXH và PHCN cho NTT, người RNTT giai đoạn 2011-2015 và định hướng giai đoạn 2016-2020 thì hiện nay trên cả nước mới chỉ có một số Trung tâm BTXH thực

hiện việc dạy nghề, tạo việc làm cho NTT. Phần lớn các cơ sở này liên kết với tiểu thương, tổ chức, cá nhân, tổ chức lao động sản xuất, hướng nghiệp và dạy nghề, tạo việc làm cho NTT thông qua các nghề như: chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng nấm, sản

93

xuất hương, vàng mã, giấy bản, trồng cây cảnh... tạo thu nhập, góp phần nâng cao chất lượng đời sống và tinh thần cho đối tượng như Trung tâm Điều dưỡng và PHCN tâm thần tỉnh, thành phố: Thái Nguyên, Sơn La, Việt Trì, Ninh Bình, Hà Nội và Trung tâm PHCN trẻ tàn tật Thụy An... Một số trung tâm BTXH đã tự bảo đảm thực phẩm hàng ngày cho đối tượng và còn cung cấp thực phẩm, sản phẩm ra ngoài thị trường.

Bảng 4.14: Ước lượng số bệnh nhân có vấn đề sức khỏe tâm thần được dạy nghề và tạo việc làm trên phạm vi cả nước giai đoạn 2011-2015

Năm 2011 2012 2013 2014 2015 Tiêu chí

Số bệnh nhân có vấn đề sức khỏe tâm thần được dạy nghề

834 1.048 1.290 1.423 1.722

Số bệnh nhân có vấn đề sức khỏe tâm thần được tạo việc làm

117 120 138 189 301

Nguồn: Tổng hợp thông tin từ một số báo cáo thống kê của Cục Bảo trợ xã hội

Tuy nhiên, việc tổ chức dạy nghề, tạo việc làm của các cơ sở chăm sóc NTT chưa theo một hệ thống nhất định, hầu hết là tự phát do năng lực quản lý, lãnh đạo của lãnh đạo các cơ sở. Do đó, chưa có cơ sở mang tính khoa học, khách quan để có thể

đánh giá vấn đề này.

Xét về nguồn ngân sách dành cho đào tạo nghề và tạo việc làm cho NTT, người RNTT thì có thể thấy, tại Điều 03 của Thông tư liên tịch Số: 115/2012/TTLT-BTC- BLĐTBXH ngày 18 tháng 07 năm 2012 của Bộ tài chính - Bộ LĐTBXH Quy định

quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020 (Đề án 1215) thì nội dung chi ngân sách thực hiện Đề án này bao gồm:

(i) Chi hỗ trợ cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các cơ sở BTXH chăm sóc và

PHCN cho NTT từ nguồn vốn sự nghiệp đảm bảo xã hội thuộc NSNN;

(ii) Chi phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH và PHCN cho người

RNTT, NTT dựa vào cộng đồng;

(iii) Chi hỗ trợ xây dựng thí điểm cơ sở phòng và trị liệu RNTT từ nguồn vốn

sự nghiệp đảm bảo xã hội thuộc ngân sách trung ương;

(iv) Chi cho truyền thông, nâng cao nhận thức về trách nhiệm của gia đình,

cộng đồng và toàn xã hội về chăm sóc và PHCN; nâng cao kiến thức, kỹ năng TGXH và PHCN cho người RNTT, NTT dựa vào cộng đồng;

94

(v) Chi xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật;

(vi) Chi nghiên cứu khoa học trên các lĩnh vực phòng ngừa, phát hiện và can

thiệp sớm, trị liệu tâm lý, PHCN cho người RNTT, NTT.

(vii) Chi điều tra, khảo sát, xây dựng cơ sở dữ liệu TGXH và PHCN cho người

RNTT, NTT dựa vào cộng đồng;

(viii) Chi cho công tác kiểm tra giám sát, sơ kết, tổng kết, đánh giá tình hình

thực hiện các nội dung hoạt động của Đề án;

(ix) Chi hợp tác với các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc hỗ trợ kỹ thuật,

kinh nghiệm và nguồn lực để phát triển TGXH và PHCN cho người RNTT, NTT dựa vào cộng đồng

(x) Chi hoạt động thường xuyên của cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT,

cơ sở phòng và trị liệu RNTT theo phân cấp ngân sách của Luật NSNN.

Như vậy, ngân sách dành cho công tác đào tạo nghề và tạo việc làm cho NTT, người RNTT tại các cơ sở BTXH được lồng ghép trong ngân sách dành cho các mô hình PHCN. Mặc dù vậy thực tế đã cho thấy, công tác đào tạo nghề và tạo việc làm cho NTT,

người RNTT mới chỉ mang tính chất hình thức, cục bộ, chưa được đảm bảo thực hiện rộng khắp trên cả nước. Chính điều này đã dẫn tới khả năng NTT, người RNTT được ra khỏi cơ sở BTXH và hòa nhập cộng đồng còn rất thấp và thiếu bền vững.

Bảng 4.15: Đánh giá chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm cho NTT theo quan điểm của cán bộ quản lý

Mức độ cảm nhận

Điểm

Ý kiến đánh giá

TT

Điểm bình quân

Đánh giá

Trung bình

Tốt và rất tốt

(lượt)

(Mean)

(%)

(%)

Không tốt và rất không tốt

Yếu tố

(%)

0

82

18

1

50

1,98

Yếu

Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm (CSDTVL)

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

95

Kết quả đánh giá của 50 cán bộ làm việc tại Cục BTXH một lần nữa khẳng định những nhận định phía trên của luận án. Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm dành cho đối tượng là NTT hiện nay của Việt Nam được đánh giá không tốt với mức điểm bình quân chỉ đạt 1,98 điểm. Nhiều cán bộ cũng có cùng quan điểm với NCS cho rằng,

chính sách này hiện nay không được quan tâm phát triển một cách có hệ thống từ trung ương đến địa phương, mà hầu như mới chỉ có một số Trung tâm BTXH mạnh dạn triển khai, phối hợp với cơ sở bên ngoài trong việc thực hiện, và coi đó như là một phương pháp điều trị, PHCN cho NTT, đồng thời, tạo điều kiện cải thiện đời sống cho người bệnh cũng như tăng khả năng tự chủ về tài chính cho phía trung tâm.

4.2.4. Chính sách phát triển các dịch vụ công tác xã hội

Trên thế giới, dịch vụ CTXH thường phát triển theo hướng trở thành dịch vụ tại

cộng đồng và góp phần cải thiện tính hiệu quả của dịch vụ ASXH. Cơ cấu các dịch vụ CTXH có sự kết hợp của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ. Mối quan hệ này khác nhau giữa các nước do lịch sử phát triển của hệ thống ASXH, yếu tố văn hóa, xã hội và kinh tế chính trị của mỗi nước.

Việt Nam hiện nay đã công nhận CTXH là một nghề chuyên nghiệp. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/03/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển Nghề CTXH giai đoạn 2010-2020 (sau đây gọi là Đề án 32) với mục tiêu tổng quát là: Phát triển CTXH trở thành một nghề ở Việt Nam. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về nghề CTXH; xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên CTXH đủ về số lượng, đạt yêu cầu về chất lượng gắn với phát triển hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH tại các cấp. góp phần xây dựng hệ thống ASXH tiên tiến. (Thủ tướng Chính phủ, 2010)

Ngay sau khi Đề án được ban hành, các Bộ, Ngành chức năng đã ban hành các văn bản quy định về tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức CTXH, chức danh, mã

số các ngạch viên chức CTXH: Thông tư liên tịch hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg; Thông tư liên tịch hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH công lập...

Đề án 32 được ra đời sau khi các Bộ LĐTBXH và BYT nhận ra sự thiếu hụt mang tính hệ thống do CTXH chưa được nhìn nhận như là một nghề có chuyên môn, kỹ năng, và đối tượng phục vụ đặc thù, nhất là ở các ngành liên quan đến khoa học xã

hội, trong đó có y tế. Chính BYT đã nhận ra nhu cầu đổi mới quan niệm về chăm sóc y tế trong ngành mình và nhu cầu cần có cán bộ CTXH trong hệ thống điều trị nhằm nâng cao chất lượng phục vụ.

Các bài viết về “CTXH trong chăm sóc y tế”, và “CTXH trong CSSKTT” tại

96

hội thảo về chủ đề này do BYT tổ chức vào tháng 7/2010 với sự trợ giúp của UNICEF một lần nữa đã củng cố thêm cơ sở khoa học và niềm tin cho Bộ LĐTBXH về tính phù

hợp của Đề án 32. Từ đó, mảng CTXH liên quan đến NTT đã được chọn làm xuất phát điểm cho công cuộc đổi mới, đó là sự ra đời Đề án 1215.

Trong một chừng mực nhất định, những điểm mới trong cách đề cập của Đề án 1215 có thể nói là được “khởi nguồn” từ phía BYT, trong khi bản thân ngành tâm thần

của BYT lại chưa tự đổi mới mình. Sự “chậm trễ” này có nguồn gốc sâu xa từ sự “thống trị” của đội ngũ chuyên gia tâm thần đến từ Viện, trường Đại học và các bệnh viện đầu ngành trong định hình tầm nhìn của BYT về CSSKTT. Công tác CSSKTT ở

Việt Nam - một lĩnh vực chắc chắn đòi hỏi cách đề cập đa ngành, sẽ dễ dàng được đổi mới hơn, nếu do Bộ LĐTBXH cầm trịch, trong khi, vai trò của BYT sẽ dừng lại ở việc chỉ đạo thực hiện tốt công tác chuyên môn, cụ thể là khâu điều trị bệnh - một khâu quan trọng nhưng không phải là tất cả trong tiến trình dự phòng RNTT, chăm sóc, điều

trị, PHCN cho người bệnh tâm thần ở Việt Nam.

Bảng 4.16: Nguồn kinh phí thực hiện Đề án 32

Số lượng (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) Stt Nguồn kinh phí

1 Ngân sách nhà nước 1.617,3 96,14

497,3 30,75 Ngân sách Trung ương

1.120 69,25 Ngân sách địa phương

2 Vốn ODA và viện trợ quốc tế 65 3,86

1.682,3 100 Tổng

Nguồn: [43]

Tổng kinh phí thực hiện Đề án do ngân sách nhà nước đảm bảo là 1.682,3 tỷ đồng, trong đó, ngân sách trung ương phân bổ trong dự toán hàng năm của Bộ LĐTBXH là 497,3 tỷ đồng; ngân sách địa phương là 1.120 tỷ đồng. Vốn ODA và các nguồn viện trợ quốc tế là 65 tỷ đồng. Vì đối tượng NTT, RNTT được xác định là một nhóm yếu thế trong xã hội nên họ là đối tượng trực tiếp của CTXH. Do đó, việc thực hiện Đề án 32 sẽ giúp thiết lập khung cơbản cho sự phát triển công tác CSSKTT ở tuyến cộng đồng.

Về hệ thống dịch vụ CTXH:

Hiện nay ở Việt Nam, hệ thống dịch vụ CTXH bao gồm các đơn vị của Chính

97

phủ tổ chức từ trung ương đến địa phương và các tổ chức phi chính phủ. Hệ thống này được thể hiện trong sơ đồ dưới đây:

Hệ thống dịch vụ CTXH ở Việt Nam

Hệ thống cung cấp dịch vụ CTXH của Chính phủ

Các tổ chức phi chính phủ (thực hiện thông qua các dự án, chương trình cung cấp dịch vụ CTXH)

Cấp tỉnh/thành phố:

- Trung tâm CTXH tỉnh/thành phố - Trung tâm BTXH tỉnh/thành phố

Cấp quận/huyện:

- Văn phòng CTXH quận/huyện - Trung tâm BTXH quận/huyện

Cấp xã/phường:

- Điểm CTXH xã/phường

Hình 4.2: Hệ thống dịch vụ CTXH ở Việt Nam

Nguồn: NCS tổng hợp

Thứ nhất, hệ thống cung cấp dịch vụ CTXH của Chính phủ:

Bên cạnh các Trung tâm BTXH các cấp thực hiện chăm sóc, điều trị, PHCN cho NTT, người rối nhiễu tâm chí kết hợp với cung cấp các dịch vụ CTXH khác, thì hiện nay ở Việt Nam, Chính phủ chỉ đạo Bộ LĐTBXH và Bộ Nội vụ thành lập các

trung tâm CTXH cấp tỉnh/ thành phố trực thuộc Trung ương, các trung tâm này tiếp tục thành lập các Văn phòng CTXH ở cấp quận/ huyện và các điểm CTXH ở cấp xã và các đơn vị như các trường học.

Để hướng dẫn các địa phương thành lập và vận hành mô hình trung tâm CTXH,

98

Bộ LĐTBXH đã phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư Liên tịch số 09/2013/TTLT/BLĐTBXH-BNV ngày 10/6/2013 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH công lập.

Trung tâm CTXH có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ trợ giúp cho NTT, người

RNTT như sau:

(i) Đánh giá các nhu cầu của đối tượng, bảo đảm sự an toàn và đáp ứng các nhu

cầu khẩn cấp của đối tượng, cung cấp dịch vụ điều trị y tế ban đầu;

(ii) Tham vấn, trị liệu RNTT, khủng hoảng tâm lý và phục hồi thể chất cho

đối tượng;

(iii) Tư vấn và trợ giúp đối tượng thụ hưởng các chính sách TGXH;

(iv) Xây dựng kế hoạch can thiệp và trợ giúp đối tượng;

(v) Thực hiện các biện pháp phòng ngừa đối tượng rơi vào hoàn cảnh khó khăn

và bị xâm hại, bạo lực, ngược đãi;

(vi) Hỗ trợ đối tượng hòa nhập cộng đồng;

(vii) Quản lý đối tượng được cung cấp dịch vụ CTXH.

Tính đến hết năm 2015, Việt Nam đã có 34 tỉnh, thành phố xây dựng mô hình trung tâm CTXH. Rất nhiều mô hình trung tâm CTXH đã vận hành rất hiệu quả như

Trung tâm CTXH tỉnh, thành phố Quảng Ninh, Đà Nẵng, Bến Tre, Long An, Thanh Hóa, Hồ Chí Minh.... Các Trung tâm này cung cấp dịch vụ CTXH cho hàng ngàn lượt đối tượng NTT và người RNTT và các đối tượng khác.

Bảng 4.17: Tình hình phát triển của các Trung tâm CTXH ở Việt Nam

giai đoạn 2011-2015

Năm 2011 2012 2013 2014 2015 Tiêu chí

12 15 21 27 34 Số tỉnh/thành xây dựng mô hình Trung tâm CTXH (tỉnh/thành phố)

Tăng trưởng so với năm trước (%) - 25,0 40,0 28,57 25,93

Độ phủ (%) 19,05 23,81 33,33 42,86 53,97

Nguồn: NCS tổng hợp

Thực hiện Thông tư số 07/2013/TT-BLĐTBXH ngày 24/5/2013 của Bộ LĐTBXH về việc quy định tiêu chuẩn nghiệp vụ cộng tác viên CTXH xã, phường, thị trấn và các văn bản liên quan. Tính đến hết năm 2015, đã có 50 tỉnh, thành phố phê

99

duyệt kế hoạch thành lập mạng lưới cộng tác viên CTXH với hàng 10 ngàn cộng tác viên. Một số tỉnh, thành phố như: Quảng Ninh, Long An, Bến Tre, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, An Giang, Khánh Hòa, Phú Yên đã bước đầu hình thành mạng lưới cộng

tác viên và nhân viên CTXH, góp phần trợ giúp cho NTT, người RNTT và các đối tượng xã hội khác tiếp cận, thụ hưởng các chính sách phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, học nghề, tìm việc làm để ổn định cuộc sống.

Thứ hai, mô hình CSSKTT vận hành bởi các tổ chức phi chính phủ - NGO:

Mô hình CSSKTT vận hành bởi NGO được định nghĩa là bất cứ dự án hoặc chương trình nào thực hiện cung cấp dịch vụ tập trung vào thúc đẩy công tác CSSKTT, dự phòng, điều trị, PHCN ở bất kì cấp độ cá nhân, gia đình, nhà trường,

cộng đồng hoặc tổ chức.

Mô hình các dạng dịch vụ CSSKTT của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO 2005)

CHI PHÍ CAO

NHU CẦU THẤP

Cơ sở nội trú dài ngày & dịch vụ chuyên khoa

Dịch vụ CSSKTT cộng đồng

Phòng bệnh tâm thần trong bệnh viện đa khoa

Dịch vụ CSSKTT ở tuyến ban đầu

CHI PHÍ THẤP

NHU CẦU CAO

Chăm sóc tại cộng đồng (không thuộc nhân viên y tế)

Tự chăm sóc

CAO

THẤP

(hình 4.3 phía dưới) được sử dụng làm khung phân tích xác định và phân loại các mô hình CSSKTT do NGO vận hành trong điều kiện của Việt Nam.

CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ CUNG CẤP

Hình 4.3: Mô hình các dạng dịch vụ CSSKTT của Tổ chức Y tế Thế giới

Nguồn: [39]

Theo khung này, các mô hình CSSKTT của các tổ chức NGO sẽ bao gồm cả

những hoạt động hỗ trợ gia đình và cộng đồng thực hiện việc CSSKTT cho bệnh nhân tâm thần, cho đến các hoạt động hỗ trợ chính quyền và nhân dân địa phương thiết lập và vận hành các dịch vụ CSSKTT tại cộng đồng đó, bao gồm việc thành lập các phòng khám CSSKTT hoặc các nhóm/đội chuyên môn thực hiện CSSKTT cộng đồng.

100

Mặc dù hiện nay chỉ có 6 NGO thực sự có mô hình sáng kiến thiết lập dịch vụ

CSSKTT ở Việt Nam (gồm: Tổ chức sức khỏe gia đình quốc tế - FHI360; Quỹ Cựu Chiến binh Mỹ tại Việt Nam - VVAF; Trung tâm Sao Mai - Hà Nội; Phòng khám TuNa - thuộc RTCCD; Trung tâm RTCCD - Hà Nội; Trung tâm N-T - Hà Nội; Cơ sở Trăng Non - TP.HCM), nhưng các tổ chức này đã cung cấp một cách đa dạng các loại hình dịch vụ, thích ứng nhu cầu của nhiều loại đối tượng, của cả người dân lẫn các tổ chức trong nước và quốc tế.

Đối tượng sử dụng các loại hình dịch vụ CSSKTT do các NGO cung cấp trải rộng từ cấp vĩ mô ra chính sách đến người dân có nhu cầu CSSKTT. Tuy nhiên, có sự khác nhau giữa nhóm các tổ chức NGO quốc tế INGO và nhóm các tổ chức NGO

trong nước VNGO. Trong khi các INGO thực hiện các mô hình thí điểm tìm kiếm phương thức đổi mới hệ thống y tế công về CSSKTT, thì các VNGO lại tập trung cung cấp dịch vụ đáp ứng trực tiếp nhu cầu của người dân, nhất là các đối tượng mà hệ

thống y tế công chưa hướng tới.

Trong số 06 NGO tham gia cung cấp dịch vụ CTXH ở Việt Nam thì 04 tổ chức

VNGO đều tạo lập dịch vụ CSSKTT có thu phí cung cấp trực tiếp cho bệnh nhân, chủ yếu là trẻ em, và bao gồm cả tư vấn dự phòng, sàng lọc, điều trị, giáo dục PHCN. Các tổ chức như trung tâm Sao Mai, phòng khám TuNa, còn cung cấp dịch vụ tư vấn cho các tổ chức quốc tế và chính phủ về phát triển dịch vụ CSSKTT. Riêng RTCCD còn

phát triển phương pháp Dưỡng sinh TuNa phòng và điều trị RNTT tại tuyến chăm sóc sức khỏe ban đầu.

Mặc dù còn ở quy mô rất nhỏ, sự năng động và sáng tạo của các tổ chức VNGO trong CSSKTT đã có ảnh hưởng đến sự phát triển hệ thống chăm sóc SKTT ở Việt Nam trong những năm qua, đáp ứng trực tiếp các nhu cầu phổ biến và căn bản về CSSKTT của người dân, đặc biệt ở các mảng mà hệ thống y tế công chưa với tới được.

Bảng 4.18: Đánh giá chính sách phát triển các dịch vụ CTXH theo quan điểm của cán bộ quản lý

TT

Đánh giá

Ý kiến đánh giá (lượt)

Điểm bình quân (Mean)

Tốt và rất tốt (%)

Điểm Trung bình (%)

Mức độ cảm nhận

Yếu tố

Không tốt và rất không tốt (%)

34

58

8

1

50

3,26

Trung bình

Chính phát triển các dịch vụ CTXH (CSDVCTXH)

101

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Như vậy, theo đánh giá của 50 cán bộ làm việc tại Cục BTXH thìChính sách phát triển các dịch vụ CTXH ở Việt Nam trong thời gian qua vẫn chỉ đạt được ở mức trung bình khá. Việc phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ CTXH của Chính phủ còn chậm, độ phủ chưa đến 60% tỉnh/ thành phố trên cả nước. Mặc dù có các tổ chức phi

chính phủ tham gia cung cấp dịch vụ CTXH nhưng chính sách của Nhà nước hỗ trợ các tổ chức này còn khá hạn chế:

(i) Hỗ trợ trực tiếp cho NGO tham gia phát triển CSSKTT của Chính phủ Việt

Nam ước tính không quá 10 triệu USD trong 15 năm qua (2000-2015), trong đó, 90% cho INGO thông qua hai dự án của tổ chức VVAF và FHI.Ước tính cũng khoảng 90% của tổng kinh phí này đến từ AP.

(ii) Tổng kinh phí hỗ trợ trong 15 năm qua cho VNGO phát triển CSSKTT ở

Việt Nam ước tính vào khoảng không quá 800 ngàn USD, và 80% trong số đó đến từ AP, trực tiếp cho trung tâm Sao Mai (khoảng 400 ngàn USD) xây dựng hạ tầng cơ sở. 10% còn lại cho các hoạt động tự vấn, hỗ trợ kỹ thuật của các chuyên gia thuộc

VNGO, và cho các tổ chức trong nước, quốc tế liên quan đến phát triển CSSKTT ở Việt Nam.

(iii) Đã có sự nhìn nhận của quốc tế và chính phủ Việt Nam về vai trò của VNGO đối với sự phát triển CSSKTT tại Việt Nam, tuy nhiên mới ở mức sử dụng tư

vấn kỹ thuật và tập trung vào một số chuyên gia đang công tác tại VNGO. Chưa có một chính sách hoặc một bài viết nào định hướng cho sự phát triển mảng dịch vụ CSSKTT do các tổ chức VNGO cung cấp nói riêng, và rộng ra bởi các NGO nói

chung, đang triển khai ở Việt Nam.

4.2.5. Chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác trợ giúp xã hội

Ở Việt Nam hiện nay, số cán bộ, nhân viên trực tiếp làm việc ở các cơ sở BTXH, số lao động tự do trực tiếp chăm sóc người già ở các gia đình, bệnh viện cũng

lên tới gần chục nghìn người; số cộng tác viên làm công tác dân số ở các thôn, bản lên tới 162.000 người. Trừ số cán bộ được đào tạo ở trình độ đại học và cao đẳng, còn lại hầu hết chưa qua đào tạo cơ bản. Họ chỉ được tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn

nâng cao kỹ năng và hiểu biết về nghề CTXH.

Từ năm 2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình khung đào tạo ngành CTXH bậc đại học và bậc cao đẳng, nhưng phải tới năm 2010 khi Đề án 32 được ban hành, mới tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành, phát triển nghề CTXH.

102

Nghề CTXH ở Việt Nam ngày càng được chuẩn hóa và đào tạo một cách bài bản. Bộ Nội vụ đã ban hành chức danh, mã ngạch viên chức CTXH tại Thông tư Số:

08/2010/TT-BNV ngày 25 tháng 08 năm 2010 (Bộ Nội vụ, 2010). Đây được coi là bước khởi đầu mở ra một nghề mới đầy triển vọng trên thị trường lao động.

Như vậy, số lượng, chất lượng đào tạo nhân lực ngành CTXH đáp ứng nhu cầu xã hội ở Việt Nam hiện đang là thách thức lớn. Cả nước hiện có chưa tới 40 trường đại

học, cao đẳng đào tạo chuyên ngành này, mỗi năm tuyển sinh chỉ khoảng 2.000 sinh viên chuyên ngành CTXH. Đội ngũ giảng viên CTXH có bằng tiến sĩ và thạc sĩ rất ít, chỉ khoảng 30-40 người. Thậm chí có trường chưa có giảng viên nào. Bên cạnh đó,

công tác đào tạo nghề CTXH còn một số bất cập như: chương trình nặng về lý thuyết, thiếu đội ngũ giảng viên thực hành chuyên nghiệp, thiếu cơ sở thực hành chuyên nghiệp... Nếu so sánh tính chuyên nghiệp của CTXH ở nước ta với các nước phát triển và ngay cả những nước trong khu vực, chúng ta còn một khoảng cách khá lớn.

Về đặc điểm của nghề CTXH có thể khái quát như sau:

Nhân viên CTXH làm việc với những người dễ bị tổn thương (bao gồm mọi lứa tuổi, từ trẻ em đến người già), hỗ trợ họ vượt qua những thời điểm khó khăn trong

cuộc sống và bảo vệ họ tránh khỏi bị tổn hại. Mối quan hệ giữa người nhân viên CTXH và người dễ bị tổn thương được gọi là mối quan hệ giữa nhân viên CTXH và thân chủ (hay còn gọi là khách hàng hoặc người sử dụng dịch vụ).

Vai trò của nhân viên CTXH là hỗ trợ cho người sử dụng dịch vụ có thể tự giúp

chính mình (điều này hoàn toàn khác với quan điểm làm từ thiện). Nhân viên CTXH duy trì mối quan hệ chuyên nghiệp với người sử dụng dịch vụ, hoạt động như người hướng dẫn và người biện hộ cho thân chủ. Đôi khi, nhân viên CTXH cần phải sử dụng

khả năng đánh giá chuyên môn của mình để đưa ra những quyết định khó khăn mà không phải thân chủ sử dụng dịch vụ nào cũng muốn đón nhận.

Các lĩnh vực hoạt động tiêu biểu:

(i) Công tác xã hội với gia đình và trẻ em.

(ii) CTXH với người cao tuổi.

(iii) CTXH với người khuyết tật (khó khăn về học tập và về thể chất).

(iv) CTXH trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần.

(v) CTXH trường học.

(vi) CTXH trong bệnh viện.

(vii) CTXH với những người lạm dụng rượu và ma túy.

103

(viii) CTXH với những người vô gia cư.

(ix) Xây dựng và quản lý Dự án CTXH.

(x) Xây dựng và quản lý các dự án phát triển cộng đồng.

Từ những nội dung miêu tả ở trên cho thấy nhân viên CTXH có thể làm việc trong một môi trường rất đa dạng, thuộc các lĩnh vực xã hội khác nhau, từ các cơ quan

hành chính sự nghiệp, các trung tâm, cơ sở xã hội trực thuộc nhà nước; đến các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước; các công ty, doanh nghiệp xã hội; các cơ sở của tôn giáo, tư nhân hoạt động trong các lĩnh vực hỗ trợ và phát triển con người. Cụ

thể hơn, các cử nhân viên CTXH có thể làm việc tại các cơ quan thuộc ngành LĐTBXH các cấp, hoặc tại cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội cho các đối tượng xã hội khác nhau thuộc các lĩnh vực như y tế, giáo dục, pháp luật, phúc lợi xã hội. Bên cạnh đó, họ cũng có thể làm việc độc lập với vai trò là nhân viên xã hội, nhà nghiên cứu,

hay cán bộ hoạch định chính sách xã hội.

Bảng 4.19: Tình hình cán bộ, nhân viên, cộng tác viên CTXH ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015

Đơn vị: người

2011 2012 2013 2014 2015 Cấp công tác

Stt 1 Trung ương 2 Cấp tỉnh/ thành phố 3 Cấp quận/ huyện 4 Cấp xã/ phường Tổng 230 2.000 3.000 30.000 35.230 350 3.000 4.000 48.000 55.350 456 4.000 5.000 71.000 80.456 561 5.000 6.000 99.000 110.561 625 6.000 7.000 132.000 145.625

Nguồn: NCS tổng hợp từ một số báo cáo thống kê tại Cục Bảo trợ xã hội

Để thúc đẩy các hoạt động nghề nghiệp CTXH chuyên nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực TGXH và PHCN cho NTT, người RNTT, Bộ LĐTBXH phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư Liên tịch số 30/2015/TTLT-BLĐTBXH-BNV ngày 19/8/2015 quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành CTXH [27], trong đó quy định mã số và phân hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành CTXH, gồm: CTXH viên chính (hạng II) - Mã số: V.09.04.01; CTXH viên (hạng III) - Mã số: V.09.04.02; Nhân viên CTXH (hạng IV) - Mã số: V.09.04.03.

Đồng thời, cũng quy định rõ tiêu chuẩn chung về đạo đức nghề nghiệp của viên chức chuyên ngành CTXH; tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và việc thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành CTXH; việc xếp lương các chức danh viên chức CTXH.

104

Bộ Nội vụ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 17/2013/NĐ-CP ngày

19/02/2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Trong đó, có bổ sung quy định tiền lương cho đội ngũ công chức, viên chức CTXH; hiện đang xây dựng trình ban hành Nghị định

về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề CTXH trong đó có lĩnh vực TGXH và PHCN cho NTT.

Giai đoạn 2011-2015, Bộ LĐTBXH cũng tích cực chỉ đạo xây dựng và phát triển mạng lưới cộng tác viên CTXH cấp xã là nhiệm vụ hết sức cấp thiết nhằm tăng

cường số lượng cũng như chất lượng cho đội ngũ cán bộ, nhân viên CTXH và gia tăng hiệu quả TGXH và PHCN cho NTT, người RNTT tại cộng đồng. Bộ LĐTBXH đã ban hành Thông tư số 07/2013/TT-BLĐTBXH ngày 24/5/2013 hướng dẫn tiêu chuẩn cộng tác viên CTXH cấp xã/phường (Bộ LĐTBXH, 2013). Theo đó, đội ngũ cộng tác viên

CTXH cấp xã có nhiệm vụ trợ giúp đối tượng là NTT, người RNTT với các nhiệm vụ, cụ thể: thu thập, tiếp nhận thông tin, yêu cầu trợ giúp của đối tượng trên địa (sàng lọc, phân loại đối tượng); theo dõi, đánh giá diễn biến tình trạng sức khỏe, quan hệ gia

đình, xã hội và các nhu cầu trợ giúp của đối tượng như tư vấn, tham vấn, trị liệu... tham gia triển khai thực hiện các chính sách, chương trình trợ giúp cho đối tượng.

Bộ LĐTBXH cũng đã xây dựng, hoàn thiện chương trình, giáo trình và đào tạo

lĩnh vực SKTT:

Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện chương trình đào tạo lĩnh vực SKTT

Bộ LĐTBXH phối hợp với các trường đại học đào tạo CTXH xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo về lĩnh vực sức khẻo tâm thần và biên soạn bộ 06 cuốn giáo

trình về lĩnh vực chăm sóc SKTT gồm: Đại cương chăm sóc SKTT; quản lý ca về; tâm lý học lâm sàng; tham vấn; CTXH trong lĩnh vực chăm sóc SKTT, quy trình chăm sóc và PHCN cho NTT.

Thứ hai, về đào tạo, tập huấn

Bộ LĐTBXH hỗ trợ kinh phí cho các tỉnh, thành phố không tự cân đối được ngân sách để tổ chức, đào tạo tập huấn cho 10.000 (năm 2012-2015) lượt cán bộ, nhân viên CTXH; tập huấn cho gia đình đối tượng về lĩnh vực SKTT các kiến thức, kỹ

năng, phương pháp trị liệu, chăm sóc và PHCN cho đối tượng.

Năm 2013-2015 đào tạo cán bộ quản lý, nhân viên về lĩnh vực SKTT với khoảng hơn 450 người (mỗi khóa hơn 100 cán bộ, chia làm 3 miền Bắc, Trung, Nam), thời gian học 33 ngày/lớp/miền. Các cán bộ, nhân viên được đào tạo, tập huấn chuyên sâu về lĩnh

105

vực chăm sóc sức SKTT với các chuyên gia trong nước và quốc tế giảng dạy.

Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều khó khăn bất cập:

Hiện nay, các cán bộ chuyên môn trong ngành xem làm việc tại các TTBTXH là không hấp dẫn do điều kiện hoạt động nghèo nàn tại một số TTBTXH, cũng như vị thế thấp kém của nghề CSSKTT. Vấn đề này càng trầm trọng hơn do mức lương của

cán bộ ở Sở LĐTBXH thấp hơn so với cán bộ của Sở Y tế cũng như ít đãi ngộ hơn trong thu hút nhân viên mới. Nhiệm vụ khuyến khích các bác sĩ đa khoa và chuyên khoa tâm thần và cán bộ y tế khác đến làm việc tại TTBTXH rất khó khăn do rất ít cán

bộ y tế mong muốn nhận nhiệm sở tại đây. Hiện có số ít cán bộ y tế làm qua việc tại các TTBTXH như y sĩ đã được đào tạo chính quy về chẩn đoán và điều trị SKTT.

Theo Công cụ Đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới (2011), một trong những điểm yếu kém chính liên quan đến hệ thống SKTT Việt Nam là “Hệ thống SKTT cung

cấp các dịch vụ của BVTT hơn là dịch vụ tại cộng đồng”. Dù các TTBTXH không được phân loại tương đương các BVTT, các trung tâm này rất giống BVTT dài ngày về mọi phương diện do các cơ sở này chăm sóc nội viện với cơ sở khép kín, tập trung

vào cấp phát thuốc tâm thần và kiểm soát rối loạn hành vi. Điều quan trọng là Bộ LĐTBXH phải cải tổ việc cung ứng dịch vụ SKTT cho đối tượng BTXH theo hướng giảm phụ thuộc vào chăm sóc nội viện và tăng cường hoàn thiện các dịch vụ lưu trú và hỗ trợ dạy nghề dựa vào cộng đồng.

Giai đoạn 2011-2015, Bộ LĐTBXH đã bắt đầu phát triển một loạt các TTCTXH trên khắp cả nước. Sự phát triển các TTCTXH gắn liền với kế hoạch gia tăng mạnh mẽ nhân lực CTXH tại Việt Nam trong những năm sắp đến. Tuy nhiên,

hiện vẫn còn chưa rõ là nhân viên CTXH sẽ nắm giữ vai trò nào có ý nghĩa bên cạnh cán bộ y tế khác hiện có như là bác sĩ và điều dưỡng.

Hiện nay, ở cấp quận huyện và ở cộng đồng, số nhân viên CTXH còn ít và thậm chí ít hơn nhiều nếu tính nhân viên CTXH có kinh nghiệm về chăm sóc SKTT. Hiện

tại, số nhân viên CTXH đang đào tạo không đủ cho hỗ trợ chăm sóc SKTT. Để Bộ LĐTBXH đạt được mục tiêu đào tạo 60.000 nhân viên CTXH trước năm 2020, cần phải hoàn thiện và triển khai chương trình, vật liệu giảng dạy và địa điểm thực tập.

Trong quá trình điều tra khảo sát với các lãnh đạo và nhân viên các trung tâm này, NCS nhận thấy họ đã nỗ lực xây dựng kiến thức và kỹ năng cho các cán bộ mới tuyển dụng. Tuy nhiên, nhiệm vụ này rất thách thức do nhiều cán bộ chưa được đào tạo thỏa đáng về CTXH và chưa được đào tạo thực hành và có kinh nghiệm làm việc với bệnh

106

nhân và gia đình người rối loạn tâm thần. Các cán bộ mô tả cảm giác họ chưa được chuẩn bị đầy đủ cho nhiệm vụ và thiếu tự tin về năng lực cung ứng các dịch vụ và trợ

giúp cần thiết.

Tình trạng các cán bộ cơ sở ở huyện và xã phụ trách dịch vụ CTXH hiểu biết sai về SKTT, bệnh tâm thần, các rối loạn tâm thần và nguyên lý cơ bản về chăm sóc sức khoẻ còn phổ biến. Có lẽ đào tạo về SKTT và các bệnh lý tâm thần cần phải được

phổ cập rộng rãi cho cán bộ và nhân viên thuộc Bộ LĐTBXH.

Hình 4.4: Khó khăn của các cán bộ BTXH

Nguồn: [24]

Theo báo cáo: “Đánh giá thực trạng Hệ thống CSSKTT của ngành LĐTBXH 2011” thì nguyên nhân dẫn tới những yếu kém trên một phần là do công tác Tập huấn chuyên môn nghiệp vụ còn nhiều hạn chế. Các nội dung được tập huấn thường về

hướng dẫn thực hiện các chế độ chính sách. Không có bất kỳ cán bộ BTXH nào được tập huấn chuyên môn nghiệp vụ liên quan đến nhận biết sớm đối tượng bệnh, quy trình thực hiện, cách phối hợp với các ban ngành để giải quyết các trường hợp cần quan tâm

(gây rối, bị bỏ mặc, bị đối xử tàn tệ,...).

Bảng 4.20: Đánh giá chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH theo quan điểm của đội ngũ cán bộ, nhân viên làm CTXH

Mức độ cảm nhận

Điểm

Ý kiến đánh giá

TT

Điểm bình quân

Đánh giá

Trung bình

Tốt và rất tốt

Không tốt và rất không tốt

(lượt)

(Mean)

(%)

(%)

(%)

Yếu tố

1 Đánh giá chính sách tuyển dụng

5,0

42,0

53,0

1.1

100

2,52

Mức độ hấp dẫn của công việc hiện nay

Trung bình

18,0

51,0

31,0

1.2

100

2,87

Mức độ hấp dẫn của chính sách tuyển dụng

Trung bình

107

Mức độ cảm nhận

Điểm

Ý kiến đánh giá

TT

Điểm bình quân

Đánh giá

Trung bình

Tốt và rất tốt

Không tốt và rất không tốt

(lượt)

(Mean)

(%)

(%)

(%)

Yếu tố

13,0

53,0

34,0

100

2,79

1.3

Trung bình

Mức độ hài lòng về chính sách tuyển dụng

2

Đánh giá chính sách đào tạo, bồi dưỡng

1,0

68,0

31,0

2.1

100

2,70

Trung bình

Mức độ thường xuyên được tham gia đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn

6,0

73,0

21,0

2.2

100

2,85

Trung bình

Mức độ hỗ trợ của đơn vị công tác dành cho việc đào tạo, bồi dưỡng

7,0

70,0

23,0

2.3

100

2,84

Trung bình

Mức độ hài lòng về chính sách đào tạo, bồi dưỡng

2 Đánh giá chính sách đãi ngộ

3,0

67,0

30,0

2.1

100

2,73

Trung bình

Mức độ hài lòng về lương, thưởng, phụ cấp

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Để có được cái nhìn khách quan nhất về kết quả đạt được của chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH trong CSSKTT, luận án sử dụng kết quả

điều tra khảo sát 100 cán bộ, nhân viên làm CTXH như bảng 4.20 phía trên:

Thứ nhất, đối với chính sách tuyển dụng nhân viên CTXH:

Trong số 03 tiêu chí được hỏi để đánh giá chính sách này thì cả 03 tiêu chí đều được đánh giá ở mức trung bình với giá trị điểm bình quân rất thấp (dưới 3,0) điểm. Điều này cho thấy những bất cập đã và đang tồn tại trong chính sách tuyển dụng nhân viên CTXH của ngành LĐTBXH.

Ngay từ việc định hướng học tập, nghề nghiệp từ khâu tuyển sinh sinh viên

108

ngành CTXH tại các trường Đại học, Cao đẳng đã bộc lộc sự thiếu chi tiết, khá mơ hồ và tính hấp dẫn không cao. Ví dụ, thông tin tuyển sinh của một trường Đại học lớn ở thành phố Hà Nội đối với ngành nhân viên CTXH như sau:

“Làm việc trong những cơ sở có liên quan tới việc trợ giúp những người yếu thế trong xã hội với tư cách là những người tham gia vào quá trình vận động chính sách, hoạch định chính sách có liên quan tới truyền thống và văn hoá, giáo dục cá nhân, cộng đồng thay đổi hành vi.

* Nhiệm vụ và công việc phải làm:

Tiếp nhận những đối tượng yếu thế;

Tìm hiểu vấn đề của thân chủ;

Hỗ trợ thân chủ giải quyết vấn đề, liên kết các nguồn lực cho thân chủ;

Khai thác tiềm năng, nâng cao năng lực cho thân chủ (thông qua hoạt động

nhóm, tham vấn...);

Đánh giá, theo dõi, chuẩn đoán phát hiện ở cộng đồng, tìm kiếm thông tin về những vấn đề mình quan tâm, chuyển tải những thông tin mình đã biết đến cộng đồng, sau đó huy động sự tham gia của cộng đồng về vấn đề này, dần dần vận động xây dựng chính sách.

* Các yêu cầu về năng lực, tính cách, kĩ năng mềm: Khả năng tư duy, phán

đoán; Nhạy cảm và Kiên trì; Khả năng lắng nghe, giao tiếp; Khả năng giữ bí mật.

* Các đơn vị tuyển dụng:

Các trung tâm hỗ trợ đối tượng yếu thế của nhà nước (trung tâm bảo trợ xã hội,

các mái ấm, nhà mở, nhà tình thương...)

Các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực trẻ em, người khuyết tật.

Các cơ quan của Nhà nước: Trường học, Bệnh viện, Cục bảo vệ trẻ em.

Triển vọng phát triển nghề nghiệp: Hiện nay nhu cầu tuyển dụng nhân viên công tác xã hội trong lĩnh vực công tác xã hội cá nhân, nhóm là rất lớn. Tại các tổ chức phi chính phủ Việt Nam, quốc tế như: Rồng Xanh, CEPHAD... đã có những sinh viên công tác xã hội đã tốt nghiệp và làm việc trong công tác chăm sóc bảo vệ trẻ em nhưng số lượng này vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu thực tế”.

Đến khi sinh viên tốt nghiệp ra trường, do tính hấp dẫn của công việc của ngành CTXH thấp, do đó, có rất nhiều sinh viên đã lựa chọn làm việc trái ngành, trái nghề.

109

Ngoài ra, công tác tuyển dụng nhân viên CTXH hiện nay ở các Trung tâm CTXH thuộc Bộ LĐTBXH còn tồn tại nhiều bất cập, không có sự ưu tiên tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp chính quy trong ngành này mà hầu như lại tuyển nhân lực ở địa phương, thậm chí tuyển dụng cả những người chưa được đào tạo cơ bản.

Thứ hai, đối với chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân viên CTXH:

Theo kết quả khảo sát cho thấy, kết quả này thể hiện sự không hài lòng của đội ngũ cán bộ, nhân viên CTXH đối với chính sách, theo họ đánh giá: họ ít có cơ hội được học tập, nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng

chủ yếu tại các trung tập là các lớp tật huấn khá “thưa thớt” về CTXH mà các trung tâm tự tổ chức hoặc có phối hợp với một số cơ sở đào tạo tổ chức. Chất lượng của các lớp tập huấn không được đánh giá cao, phần lớn vẫn chỉ là trao đổi thông tin mang tính

lý thuyết chung, thiếu thực tế.

Thứ ba, đối với chính sách đãi ngộ nhân viên CTXH:

Chính sách này được đánh giá thông qua một tiêu chí chung, đó là “Mức độ hài lòng về lương, thưởng, phụ cấp”, kết quả khảo sát cho thấy, với mức điểm bình quân chỉ đạt 2,73 điểm.Có thể khẳng định rằng, đội ngũ cán bộ, nhân viên CTXH nước ta hiện nay chưa cảm thấy hài lòng về chính sách đãi ngộ của Nhà nước. Phần lớn thu nhập của họ đều từ lương cơ bản được quy định theo ngạch, bậc lương công chức nhà

nước được quy định tại Nghị định Số 204/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 12 năm 2004 về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Còn lại, thưởng và phụ cấp khá hạn chế, đôi khi chỉ mang tính hình thức tại các thời điểm lễ, Tết...

Bảng 4.21: Thu nhập bình quân của cán bộ, nhân viên làm CTXH tại Trung tâm CTXH thuộc Bộ LĐTBXH

Đơn vị: triệu đồng/người/tháng

2011 2012 2013 2014 2015 Năm

Phân loại

TNBQ của quản lý 2,64 3,35 3,65 3,79 4,15

TNBQ của nhân viên 1,81 2,25 2,45 2,75 3,10

Nguồn: NCS tổng hợp từ một số báo cáo thống kê tại Cục Bảo trợ xã hội

Như vậy, so sánh tương quan với mức sống hiện tại của xã hội thì mức thu nhập bình quân của của cán bộ, nhân viên làm CTXH tại Trung tâm CTXH thuộc Bộ

110

LĐTBXH được đánh giá là thấp.

Bảng 4.22: Đánh giá chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH theo quan điểm của cán bộ quản lý

TT

Điểm

Trung bình

Tốt và rất tốt

(%)

(%)

Mức độ cảm nhận

Đánh giá

Ý kiến đánh giá (lượt)

Yếu tố

Điểm bình quân (Mean)

Không tốt và rất không tốt

(%)

28

54

18

50

3,10

1

Trung bình

Chính phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH

(CSPTNNL)

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Qua đánh giá của 50 cán bộ làm việc tại Cục BTXH thì chính sách phát triển

nguồn nhân lực làm công tác TGXH của Việt Nam thời gian gần đây cũng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên, cộng tác viên CTXH ở các cấp có sự tăng trưởng khá. Tuy nhiên, mức độ đáp ứng nhu cầu của công tác BTXH nói chung, công tác CSSKTT nói riêng của đội ngũ này còn thấp, đòi hỏi Chính phủ cần có những biện pháp tích cực hơn trong tương lai. Theo đó, chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH chỉ được đánh giá mức trung bình với 3,10 điểm bình quân.

Đánh giá chung: Như vậy, trong số 05 chính sách bộ phận cơ bản của chính sách TGXH trong CSSKTT ở Việt Nam được đề cập nghiên cứu thì có 01 chính sách được đánh giá ở mức kém (đó là: Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm), 04 chính sách còn lại được đánh giá ở mức trung bình. Do đó, xét về tổng thể, chính sách TGXH trong CSSKTT chưa thật sự hiệu quả và cần được Chính phủ, Bộ LĐTBXH, Bộ Y tế quan tâm nghiên cứu, điều chỉnh hoàn thiện trong giai đoạn tiếp theo nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu ASXH nói chung của Việt Nam.

4.3. Đánh giá chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam

4.3.1. Đánh giá chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam theo các tiêu chí

111

Đánh giá chính sách là xem xét, nhận định về giá trị các kết quả đạt được khi ban hành và thực thi chính sách. Để có thể đi vào cuộc sống, chính sách công được thể

chế hóa thành các quy định pháp luật. Việc nhìn nhận và đánh giá chính sách do đó thường gắn với sự đánh giá những quy định pháp luật này. Tuy nhiên, chính sách công không chỉ thể hiện trong các quy định pháp luật, chúng còn nằm trong các chương trình, kế hoạch, chủ trương hoạt động của nhà nước.

4.3.1.1. Đánh giá tính hiệu quả của chính sách

Trong phần lý luận, luận án đã xây dựng một số tiêu chí định lượng để đánh giá tính hiệu quả của chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT. Tuy nhiên, trong quá trình

phân tích thực trạng các chính sách bộ phận (tại mục 4.2), luận án đã lồng ghép một số tiêu chí nhằm phục vụ cho việc phân tích, đánh giá. Do đó, ở phần này, luận án chỉ xem xét đánh giá các tiêu chí còn lại. Các tiêu chí này được bao gồm:

a) Đối với chính sách TCXH

Qua số liệu từ bảng và hình vẽ dưới đây, có thể rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, số lượng người mắc các chứng bệnh tâm thần nặng ở Việt Nam ngày một lớn do nhiều nhóm nguyên nhân như: nguyên nhân tự nhiên (do người mắc bệnh tâm thần ở cộng đồng lập gia đình và sinh con cũng mắc bệnh; do sức ép của cuộc sống; do những thói quen, tệ nạn xã hội; v.v...

Bảng 4.23: Tình hình NTT được hưởng chính sách TGXH

2011

2012

2013

2014

2015

ĐVT

Số lượng NTT được hưởng CS người 17.462

19.058

23.439

26.801

31.190

Tổng số người mắc bệnh tâm

người 211.069 212.013 212.117 212.584 212.402

thần nặng

Tỷ lệ NTT được hưởng CS KV

%

62,84

65,11

66,2

68,12

70,63

thành thị

Tỷ lệ NTT được hưởng CS KV

%

37,58

38,43

38,59

39,05

41,27

nông thôn

Tỷ lệ NTT được hưởng CS KV

%

22,26

22,32

22,48

23,04

23,59

miền núi, vùng sâu, vùng xa

112

Nguồn: NCS tổng hợp từ một số báo cáo thống kê tại Cục Bảo trợ xã hội

Hình 4.5: Tình hình NTT được hưởng chính sách TGXH

Nguồn: NCS tổng hợp từ một số báo cáo thống kê tại Cục Bảo trợ xã hội

Thứ hai, Kết quả cải thiện tình trạng SKTT trên cả nước đạt được còn khá khiêm tốn. Điều này thể hiện ở tỷ lệ số lượng NTT được hưởng chính sách của Nhà nước còn thấp trong tổng số người mắc bệnh tâm thần nặng (mặc dù về mặt số tuyệt

đối thì số lượng NTT được hưởng chính sách TGXH có sự tăng trưởng tốt).

Thứ ba, chính sách TGXH trong CSSKTT được triển khai tích cực ở khu vực thành thị, khu vực đồng bằng, còn ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa là nơi tập

trung lượng NTT không hề nhỏ thì chính sách chưa phát huy được hiệu quả tốt nhất.

b) Đối với chính sách phát triển cơ sở BTXH

Bảng 4.24: Diễn biến bệnh tình của đối tượng được hưởng chính sách TGXH

2011

2012

2013

2014

2015

ĐVT

19.058

23.439

26.801

31.190

người

17.462

Số lượng NTT được hưởng CS TGXH

người

1.259

1.512

1.908

2.320

2.785

Số lượng NTT có bệnh tình chuyển biến tích cực

7,93

8,14

8,66

8,93

%

7,21

Tỷ lệ NTT có bệnh tình chuyển biến tích cực trên tổng số NTT được hưởngCS TGXH

Số người tái phát

người

337

412

318

465

510

Tỷ lệ tái phát

%

26,77

27,25

16,67

20,04

18,31

113

Nguồn: NCS tổng hợp từ một số báo cáo thống kê tại Cục Bảo trợ xã hội

Số lượng NTT có bệnh tình chuyển biến tích cực trong giai đoạn 2011-2015 không nhiều, đây là thực trạng chung phản ánh tình trạng các cơ sở BTXH hay thậm chí tại cộng đồng, việc quản lý người bệnh hầu như chỉ là “nuôi nhốt”, còn việc điều trị, PHCN cho họ còn rất hạn chế.

Qua bảng số liệu có thể thấy, số người bệnh tái phát sau khi bệnh tình có

chuyển biến tích cực luôn đạt xấp xỉ 20%.

Một trong số những bệnh tâm thần được ghi nhận có tỷ lệ tái phát cao nhất, đó là

bệnh “Tâm thần phân liệt”. Căn bệnh này có tỷ lệ tái phát cao. Sau một đợt bệnh cấp diễn rầm rộ, nếu được điều trị sớm và hợp lý, bệnh nhân có thể nhanh chóng trở nên gần như bình thường. Trong giai đoạn ổn định ấy có thể xuất hiện một đợt tâm thần phân liệt cấp diễn khác, đó chính là đợt tái phát, do đó, nếu không có một phác đồ điều trị hiệu

quả thì việc bệnh nhân tái phát mà không có sự kiểm soát sẽ là điều rất nguy hiểm với những người xung quanh và chi phí cho việc điều trị sau tái phát cũng không nhỏ.

c) Đối với chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm

Theo số liệu bảng 4.25 phía dưới, có thể rút ra một số nhận xét như sau:

Thứ nhất, mặc dù số lượng NTT được tạo việc làm có sự gia tăng qua các năm trong giai đoạn 2011-2015, nhưng do tốc độ tăng của số lượng NTT được hưởng chính sách TGXH trong CSSKTT nhanh hơn tốc độ tăng của số lượng NTT được tạo việc

làm, nên tiêu chí “Tỷ lệ NTT được tạo việc làm trên tổng số NTT được hưởng chính sách TGXH” lại có xu hướng sụt giảm trong giai đoạn này.

Bảng 4.25: Tình hình tạo việc làm cho NTT, người RNTT

2011 2012 2013 2014 2015 ĐVT

người 1.058 1.193 1.265 1.295 1.326 Số lượng lao động mới cung cấp cho xã hội

% 6,06 6,26 5,40 4,83 4,25 Tỷ lệ NTT được tạo việc làm trên tổng số NTT được hưởng chính sách TGXH

0,75 1,12 1,30 1,47 1,56 Thu nhập bình quân của các đối tượng sau khi được tạo việc làm Tr.đ/ người/ tháng

9,79 9,58 10,03 11,45 % 8,83 Tỷ lệ đối tượng chính sách có sự cải thiện về chất lượng cuộc sống

114

Nguồn: NCS tổng hợp từ một số báo cáo thống kê tại Cục Bảo trợ xã hội

Thứ hai, thu nhập bình quân của NTT sau khi được tạo việc làm thể hiện sự tăng trưởng khá trong giai đoạn 2011-2015, tuy nhiên, so với mức trung bình của xã hội thì còn rất thấp.

Thứ ba, tiêu chí “Tỷ lệ đối tượng chính sách có sự cải thiện về chất lượng cuộc sống” là tiêu chí quan trọng nhất trong nhóm tiêu chí đánh giá định lượng hiệu quả chính sách TGXH trong CSSKTT, tiêu chí này cũng có sự tăng trưởng tốt trong giai đoạn 2011-2015, nhưng xét về mặt số tuyệt đối thì chỉ có khoảng hơn 10% NTT có sự

cải thiện về chất lượng cuộc sống so với trước khi được hưởng chính sách TGXH trong CSSKTT đã cho thấy hiệu quả của các chính sách này chưa cao.

4.3.1.2. Đánh giá tính hiệu lực của chính sách

a) Đánh giá mức độ tuân thủ chính sách của các cơ quan, đơn vị

Mức độ tuân thủ chính sách TGXH trong CSSKTT của các cơ quan, đơn vị

được thể hiện ở bảng sau:

Bảng 4.26: Đánh giá Mức độ tuân thủ chính sách của các cơ quan, đơn vị trong tổ chức thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

Điểm

Mức độ cảm nhận

TT

Đánh giá

Ý kiến đánh giá (lượt)

Trung bình (%)

Tốt và rất tốt (%)

Điểm bình quân (Mean)

Không tốt và rất không tốt (%)

Yếu tố

54

46

0

50

3,56

Tốt

1

Mức độ nhận thức của lãnh đạo các cơ quan, đơn vị đối với công tác chăm sóc SKTT

36

64

0

2

50

3,38

Trung bình

Mức độ chấp hành của các cơ quan, đơn vị trong thực thi chính trong sách TGXH chăm sóc SKTT

20

68

12

3

50

3,08

Trung bình

Mức độ đóng góp xây dựng, hoàn thiện chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT của các cơ quan, đơn vị

115

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Thứ nhất, mức độ nhận thức của lãnh đạo các cơ quan, đơn vị đối với công tác CSSKTT được đánh giá tốt với 3,56 điểm bình quân. Như vậy có thể rút ra kết luận rằng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của các cơ quan, đơn vị tham gia thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT đã có nhận thức khá đầy đủ về các chủ trương, chính

sách của cấp trên, đây được coi là nền tảng ban đầu cho việc triển khai có hiệu quả các chính sách trên thực tế.

Thứ hai, tiêu chí “Mức độ chấp hành của các cơ quan, đơn vị trong thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT” chỉ được đánh giá ở mức trung bình, tuy nhiên mức điểm bình quân đạt được khá sát với mức đánh giá tốt (3,38 điểm). Đối với

tiêu chí này, các cán bộ ở Cục BTXH đánh giá rằng: đối với nhóm các cơ quan, đơn vị hành chính (như: Sở LĐTBXH; Sở Y tế;...) thì mức độ chấp hành và sự tích cực trong triển khai chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT được đảm bảo tốt; tuy nhiên, đối

với nhóm các cơ sở BTXH thì các tiêu chí này đạt được còn thấp. Nguyên nhân được một số cán bộ giải thích là do tính hấp dẫn của công việc và động lực làm việc của đội ngũ cán bộ, nhân viên của các cơ sở này cũng không cao.

Thứ ba, tiêu chí “Mức độ đóng góp xây dựng, hoàn thiện chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT của các cơ quan, đơn vị” được đánh giá ở mức trung bình với 3,08 điểm bình quân. Trong số 50 cán bộ được hỏi có tới 12 người đánh giá không tốt

về tiêu chí này. Đây là một tiêu chí khá quan trọng giúp các nhà hoạch định chính sách có căn cứ đánh giá, điều chỉnh chính sách trong tương lai, tuy nhiên, thực tế cho thấy mức độ đóng góp, xây dựng chính sách của các cơ quan, đơn vị trong ngành còn thấp.

b) Đánh giá mức độ hưởng ứng, tham gia của cộng đồng

Bảng 4.27: Đánh giá mức độ hưởng ứng, tham gia của cộng đồng đối với chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

Điểm

TT

Đánh giá

Mức độ cảm nhận

Ý kiến đánh giá (lượt)

Tốt và rất tốt (%)

Trung bình (%)

Điểm bình quân (Mean)

Yếu tố

Không tốt và rất không tốt (%)

63,3

36,7

0

30

3,90

Tốt

1

Mức độ hưởng ứng, tham gia chính sách của cộng đồng và gia đình các đối tượng chính sách

116

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Qua kết quả có được ở bảng 4.27 có thể khẳng định rằng, tiêu chí này được đánh giá rất cao, đồng nghĩa với việc khẳng định ý nghĩa quan trọng của việc hoạch định và triển khai các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT. Do đó, việc nghiên cứu, cải tiến, hoàn thiện các chính sách này là cần thiết trong tiến trình phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước.

4.3.1.3. Đánh giá sự phù hợp của chính sách

Như đã trình bày ở chương 2, sự phù hợp của chính sách TGXH trong CSSKTT

được đánh giá thông qua tiêu chí: Sự hài lòng của gia đình các đối tượng được hưởng chính sách TGXH trong CSSKTT.

Bảng 4.28: Đánh giá sự hài lòng của các đối tượng chính sách

Điểm

TT

Đánh giá

Mức độ cảm nhận

Ý kiến đánh giá (lượt)

Trung bình (%)

Tốt và rất tốt (%)

Điểm bình quân (Mean)

Yếu tố

Không tốt và rất không tốt (%)

37,4

50,4

12,2

500

3,25

1

Trung bình

Mức độ hài lòng của gia đình đối với các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Tiêu chí mức độ hài lòng của các đối tượng chính sách được đánh giá ở mức trung bình với 3,25 điểm. Theo kết quả khảo sát thì phần lớn các hộ gia đình ở khu vực thành thị và nông thôn vùng đồng bằng đều đánh giá tiêu chí này ở mức tốt hoặc trung

bình; ngược lại, phần lớn các hộ gia đình ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa thì đánh giá tiêu chí này ở mức trung bình hoặc không tốt. Điều đó càng khẳng định nhận định đánh giá về độ phủ của chính sách chưa cao, các vùng, miền khác nhau nhận được sự hỗ trợ chưa thật đồng đều.

4.3.2. Đánh giá chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam theo các chính sách bộ phận

4.3.2.1. Điểm mạnh của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam

Thứ nhất, chính sách TCXH là một nguồn lực tốt giúp giảm thiểu khó khăn, cải

117

thiện đời sống cho NTT, người RNTT và gia đình

Việc điều chỉnh phạm vi đối tượng được hưởng chính sách cũng như mức hỗ trợ của Nghị định 13 so với Nghị định 67 được các chuyên gia trong ngành đánh giá là hợp lý, có tác dụng tốt trong việc nâng cao hiệu quả của chính sách TCXH trong CSSKTT ở Việt Nam.

Bảng 4.29: Đánh giá mức độ hỗ trợ của chính sách TGXH trong CSSKTT

Mức độ cảm nhận

Điểm

Ý kiến đánh giá

TT

Điểm bình quân

Đánh giá

Trung bình

Tốt và rất tốt

(lượt)

(Mean)

(%)

(%)

Không tốt và rất không tốt

Yếu tố

(%)

46,6

48

5,4

1

500

3,41

Trung bình

Các chính sách có giúp đỡ được gia đình nhiều không

53,4

46,6

0

2

500

3,53

Tốt

Các chính sách có giúp đỡ được người bệnh nhiều không

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Mặc dù tiêu chí “Các chính sách có giúp đỡ được gia đình nhiều không” mới

chỉ được các hộ gia đình có người thân mắc bệnh tâm thần đánh giá ở mức trung bình, nhưng mức điểm bình quân cũng rất sát với mức 3,5 điểm. Do đó thông qua 02 tiêu chí được đánh giá ở bảng 4.29 ta có thể khẳng định rằng, chính sách TCXH dành cho

NTT, người rối nhiễn tâm trí thời gian qua ở Việt Nam đã có tác động tốt đến việc cải thiện cuộc sống cho người bệnh cũng như giúp đỡ phần nào cho gia đình người bệnh, giảm thiểu gánh nặng cho xã hội.

Thứ hai, chính sách phát triển cơ sở BTXH đã củng cố, tăng cường năng lực

chăm sóc, điều trị, PHCN cho NTT, người RNTT

Tính đến hết năm 2015, năng lực phục vụ của hệ thống cơ sở BTXH đã có sự cải thiện đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Theo ước tính của Cục BTXH, năng lực phục vụ của hệ thống này hiện nay đã tăng khoảng 30% so với năm 2010, đây là tín hiệu tốt cho các đối tượng NTT, người RNTT cũng như gia đình của họ có thể dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với các chính sách TGXH trong CSSKTT của Nhà nước.

118

Thứ ba, chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm đã bắt đầu được quan tâm

Bộ LĐTBXH thời gian qua đã khá tích cực trong việc khuyến khích các cơ sở BTXH phối hợp với các đơn vị nghề nghiệp ở địa bàn để dạy nghề đơn giản và tạo việc làm cho đối tượng này. Kết quả ban đầu cũng rất khả quan khi đã có một số Trung tâm BXTH (ở các địa phương: Thái Nguyên, Sơn La, Việt Trì, Ninh Bình, Hà

Nội) đã có thể tự chủ được phần nào bằng kết quả lao động của chính các đối tượng NTT đang sống tại trung tâm, đồng thời, cải thiện đời sống vật chất cho người bệnh.

Thứ tư, chính sách phát triển các dịch vụ CTXH đã được triển khai tích cực, trở thành hệ thống phối hợp hiệu quả với hệ thống các cơ sở BXTH trong quá trình thực hiện CSSKTT trên phạm vi cả nước

Số tỉnh/thành xây dựng mô hình Trung tâm CTXH hàng năm luôn tăng trưởng khoảng 30%. Theo đánh giá của nhiều cán bộ tham gia khảo sát thì hệ thống các cơ sở

cung cấp dịch vụ CTXH là một kết hợp hoàn thiện cho hệ thống các cơ sở BTXH. Ưu điểm của hệ thống này là khả năng tiếp xúc với các đối tượng chính sách tốt hơn, dễ dàng hơn, khắc phục hạn chế của hệ thống các cơ sở BTXH.

Thứ năm, chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH đã góp

phần củng cố, cải thiện cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ này

Từ khi Bộ LĐTBXH xây dựng và triển khai thực thi đề án 32 về phát triển nghề CTXH thì nhận thức về vai trò của nhóm nghề này trong xã hội đã có sự thay đổi tích

cực. Một số trường đại học, cao đẳng đã đưa vào giảng dạy chương trình CTXH, đây hứa hẹn sẽ là một nguồn bổ sung nhân lực có chất lượng cho nghề CTXH ở Việt Nam ở hiện tại và tương lai.

Thứ sáu, chính sách TGXH trong CSSKTT đã thể hiện được tính hiệu quả trên

thực tế

Theo ý kiến của 50 cán bộ làm việc ở Cục BTXH, mặc dù 03 tiêu chí thành phần đánh giá hiệu quả thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT ở Việt Nam giai

đoạn 2011-2015 chỉ đạt mức trung bình, nhưng điểm bình quân đạt được rất sát với mức đánh giá tốt. Điều đó chứng tỏ các chính sách TGXH trong CSSKTT được xây dựng cơ bản đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai từ Trung ương đến

119

địa phương cũng như có sự đóng góp ý kiến điều chỉnh chính sách từ phía cơ sở; các chính sách TGXH trong CSSKTT đã cơ bản đảm bảo tính khả thi trong thực hiện mục tiêu của các chính sách.

Bảng 4.30: Đánh giá hiệu quả thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT

Điểm

Mức độ cảm nhận

Ý kiến đánh giá

TT

Điểm bình quân

Đánh giá

Trung bình

Tốt và rất tốt

(lượt)

(Mean)

(%)

(%)

Không tốt và rất không tốt

Yếu tố

(%)

40

60

0

1

50

3,44

Trung bình

Mức độ phối hợp (giữa Trung ương và địa phương) trong thực thi chính sách trong chăm TGXH sóc SKTT

Trung

42

58

0

2

50

3,42

bình

Tính khả thi của các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

trong

36

64

0

3

50

3,38

Trung bình

thực hiện Mức độ mục tổ tiêu chức thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Thứ bảy, hiệu quả tuyên truyền, phổ biến chính sách TGXH trong CSSKTT từ

Trung ương đến cơ sở được đánh giá tốt

Theo ý kiến đánh giá của 30 cơ sở BTXH tham gia khảo sát, mức độ tiếp cận thông tin chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT của các cơ sở là rất tốt. Điều này được thể hiện cả 03 tiêu chí thành phần được đưa ra khảo sát đều đạt mức tốt với điểm

120

bình quân khá cao, lần lượt là 3,73; 3,6 và 3,6. Trong đó, các đại diện cơ sở BTXH đều khẳng định rằng, cơ sở luôn nhận được hướng dẫn triển khai thực thi chính sách mới của các đơn vị cấp trên - Sở LĐTBXH của cấp tỉnh và Phòng LĐTBXH ở cấp huyện.

Bảng 4.31: Đánh giá mức độ tiếp cận thông tin chính sách TGXH trong CSSKTT

Điểm

Mức độ cảm nhận

Ý kiến đánh giá

TT

Điểm bình quân

Đánh giá

Trung bình

Tốt và rất tốt

(lượt)

(Mean)

(%)

(%)

Không tốt và rất không tốt

Yếu tố

(%)

73,3

26,7

0

1

30

3,73

Tốt

Trung tâm có nhận được hướng dẫn triển khai thực thi chính sách của các đơn vị cấp trên hay không

63,3

33,3

3,4

2

30

3,60

Tốt

Nội dung hướng dẫn có cụ thể, rõ ràng và giúp ích cho việc triển thực hiện các khai chính sách hay không

thực

60

40

0

3

30

3,60

Tốt

Ngoài việc hướng dẫn triển khai thi chính sách, Trung tâm còn nhận được những hỗ trợ thông tin chính sách khác từ các đơn vị cấp trên hay không

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Thứ tám, các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT được ban hành, triển

khai trong giai đoạn 2011-2015 có tính thực tiễn cao

Tính thực tiễn (hay thiết thực) của chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT được đánh giá thông qua 02 tiêu chí thành phần cho ở bảng 4.32 với sự đánh giá của

121

đại diện 30 cơ sở BTXH. Theo đó, tiêu chí “Mức độ thực hiện mục tiêu của chính sách hàng năm tại Trung tâm”được đánh giá tới 3,7 điểm, chứng tỏ kế hoạch triển khai chính sách được các trung tâm đảm bảo thực hiện tốt và có tỉnh khả thi.

Bảng 4.32: Đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu của chính sách TGXH

trong CSSKTT

Điểm

Mức độ cảm nhận

Ý kiến đánh giá

TT

Điểm bình quân

Đánh giá

Trung bình

Tốt và rất tốt

(lượt)

(Mean)

(%)

(%)

Không tốt và rất không tốt

Yếu tố

(%)

20

30

50

1

30

3,70

Tốt

Mức độ thực hiện mục tiêu của chính tại sách hàng năm Trung tâm

53,3

46,7

0

2

30

3,53

Tốt

Các chính sách có thực sự thiết thực đối với địa phương không

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

4.3.2.2. Điểm yếu và nguyên nhân điểm yếu của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam

a) Điểm yếu của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

tại Việt Nam

Thứ nhất, mức độ trợ cấp của chính sách TCXH dành cho NTT, người RNTT

còn thấp và chậm thay đổi.

Thực tế cho thấy, với mức trợ cấp còn khiêm tốn, chất lượng cuộc sống của các

đối tượng chính sách khá bấp bênh, nhiều nơi được đánh giá là rất thấp, đặc biệt là các đối tượng được nuôi dưỡng tại các cơ sở BTXH. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách TCXH trong chăm sóc SKTT của Bộ LĐTBXH không được triển khai tích cực, do đó, chính sách TCXH nói riêng, các chính sách bộ phận khác của chính sách

TGXH trong CSSKTT thường chậm thay đổi so với yêu cầu mới đặt ra của thực tiễn.

Thứ hai, hiệu quả lan tỏa của chính sách phát triển cơ sở BTXH thấp.

122

Cụ thể là, giai đoạn 2011-2015, Bộ LĐTBXH đã có Quy hoạch phát triển các

cơ sở BTXH với lượng vốn đầu tư hàng năm rất lớn. Tuy nhiên, số lượng đối tượng NTT nặng được nhận vào điều trị, PHCN tại các cơ sở BTXH vẫn rất thấp so với tổng số đối tượng NTT nặng ở cộng đồng. Ngoài ra, chất lượng chăm sóc, điều trị, PHCN ở các cơ sở BTXH còn nhiều hạn chế.

Thứ ba, chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm cho NTT, người RNTT chưađược hình thành một cách có hệ thống mà mới chỉ có một số Trung tâm BTXH điển hình thực hiện mô hình chăm sóc, điều trị, PHCN có kết hợp với dạy nghề và tạo việc làm với mục tiêu trước mắt là cải thiện chất lượng cuộc sống cho NTT sống tại các trung tâm này.

Thứ tư, Chính phủ chưa thật sự quan tâm một cách hợp lý đến việc khuyến

khích phát triển các dịch vụ CTXH.

Hệ thống cung cấp dịch vụ CTXH do Chính phủ vận hành phần lớn mới được

xây dựng ở cấp tỉnh, một số địa phương có văn phòng ở cấp huyện, còn cấp xã thì mới chỉ mới hình thành một số điểm CTXH, do đó, khả năng bám sát với thực tiễn của hệ thống này chưa cao; còn đối với hệ thống cung cấp dịch vụ CTXH do các tổ chức phi chính phủ vận hành thì sự hỗ trợ của Chính phủ bằng nguồn NSNN cho việc triển khai

các chương trình, dự án hàng năm thấp.

Chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH chưa đột phá, chưa

tạo được động lực làm việc tốt cho đội ngũ nhân lực này khiến cho, ngành CTXH vẫn là một ngành “ảm đạm” trong mắt của nhiều người.

Thứ năm, sự hỗ trợ của cấp trên đối với các cơ sở BTXH trong quá trình thực

thi chính sách còn nhiều hạn chế.

Tình hình giải ngân thực hiện các chính sách TGXH trong CSSKTT còn chậm, điều này thể hiện ở tiêu chí “Mức độ đầy đủ, kịp thời trong việc giải ngân nguồn lực tài chính phục vụ cho việc thực thi các chính sách” được đánh giá ở mức trung bình

123

với điểm bình quân đạt 3,2 điểm.

Bảng 4.33: Đánh giá sự hỗ trợ của cấp trên đối với các cơ sở BTXH trong quá trình thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT

Mức độ cảm nhận

Điểm

Ý kiến đánh giá

TT

Điểm bình quân

Đánh giá

Trung bình

Tốt và rất tốt

(lượt)

(Mean)

(%)

(%)

Không tốt và rất không tốt

Yếu tố

(%)

20

80

0

1

30

3,20

Trung bình

Mức độ đầy đủ, kịp thời trong việc giải ngân nguồn lực tài chính phục vụ cho việc thực thi các chính sách

20

66,7

13,3

30

3,07

2

Trung bình

Mức độ hỗ trợ của các (Sở đơn vị LĐTB&XP; Phòng địa ở LĐTBXH) phương trong việc phát triển nguồn nhân tại lực làm CTXH Trung tâm

vị

vị

26,7

60

13,3

30

3,13

3

Trung bình

Mức độ hỗ trợ của các (Sở đơn LĐTB&XP; Phòng LĐTBXH) địa phương trong việc tạo liên kết giữa Trung tâm với các tổ chức, doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện làm việc tượng cho các đối chính sách

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Thực tế cho thấy, các đơn vị Sở, phòng LĐTBXH ở địa phương chỉ triển khai các chính sách TGXH trong CSSKTT một chiều, tiếng nói của các cơ sở BTXH còn chưa được xem trọng. Ngoài ra, công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách tại

124

các cơ sở BTXH cũng không được tích cực thực hiện, khiến cho kết quả đạt được không như mong muốn.

Thứ sáu, công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách TGXH trong chăm sóc

SKTT đến gia đình các đối tượng chính sách còn nhiều hạn chế.

Bảng 4.34: Đánh giá công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT đến gia đình các đối tượng chính sách

Mức độ cảm nhận

Điểm

Ý kiến đánh giá

TT

Điểm bình quân

Đánh giá

Trung bình

Tốt và rất tốt

(lượt)

(Mean)

(%)

(%)

Không tốt và rất không tốt

Yếu tố

(%)

4

48,2

47,8

500

2,56

1

Trung bình

Gia đình có thường xuyên nhận được thông tin tuyên truyền từ phía cơ quan chức năng thông báo về các chính sách mới được triển khai dành cho người mắc vấn đề về SKTT

41

54,2

4,8

500

3,36

2

Trung bình

Gia đình có nhận được hỗ trợ từ phía cơ quan chức năng về việc thực hiện các thủ tục nhận hỗ trợ từ các chính sách

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Theo ý kiến đánh giá của 500 hộ gia đình có người thân mắc bệnh tâm thần được hưởng chính sách của nhà nước thì: Các gia đình cho biết không thường xuyên nhận được thông tin tuyên tuyền, phổ biến chính sách từ phía các cơ quan chức năng.

Hầu như, họ phải trực tiếp đến các cơ quan khi có nhu cầu thì mới nhận được những sự trợ giúp cần thiết như: giải thích về chính sách, giải thích về thủ tục hành chính. Cá biệt, có một số gia đình còn phản ánh về thái độ làm việc không tích cực của một số cán bộ công chức làm việc tại các cơ quan hành chính. Điều này được thể hiện ở 02

tiêu chí thành phần chỉ được đánh giá ở mức trung bình, là một điểm số rất thấp, gần sát với mức yếu.

125

Thứ bảy, chính sách TGXH trong CSSKTT chưa thật sự đạt hiệu quả về mặt kinh tế. Điều này được thể hiện qua đánh giá của của 50 cán bộ làm việc tại Cục BTXH tại bảng 4.35:

Bảng 4.35: Đánh giá tính kinh tế của chính sách TGXH trong CSSKTT

Điểm

Mức độ cảm nhận

Ý kiến đánh giá

TT

Điểm bình quân

Đánh giá

Trung bình

Tốt và rất tốt

(lượt)

(Mean)

(%)

(%)

Không tốt và rất không tốt

Yếu tố

(%)

42

58

0

1

50

3,42

Trung bình

Mức độ chi tiết của kế hoạch kinh phí thực hiện các chính sách trong chăm TGXH

sóc SKTT

36

64

0

2

50

3,38

Trung bình

Tính hiệu quả trong sử dụng kinh phí thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

38

62

0

3

50

3,38

Trung bình

So sánh kết quả đạt được với kinh phí sử dụng của các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

Nguồn: Kết quả tác giả phân tích số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS 22

Một là, tiêu chí “Mức độ chi tiết của kế hoạch kinh phí thực hiện các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT” được đánh giá ở mức trung bình với điểm bình quân đạt 3,42 điểm. Tuy rằng điểm bình quân của tiêu chí này không quá thấp nhưng cũng phần nào cho thấy việc chi tiết hóa kế hoạch kinh phí thực hiện các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT chưa được thực hiện tốt. Thực tế thì kinh phí thực hiện các đề

án, chương trình của Chính phủ, Bộ LĐTBXH mới chỉ là các dự toán tổng thể, việc xây dựng chi tiết kế hoạch được giao cho địa phương (cấp tỉnh) lên kế hoạch mà không có sự kiểm soát từ phía Bộ. Do đó, tình trạng thất thoát, lãng phí do dự toán

126

chưa hợp lý hoặc do tham ô, tham nhũng tiền NSNN dành cho thực hiện các chính xách TGXH trong chăm sóc SKTT vẫn còn là vấn đề nan giải ở Việt Nam hiện nay.

Hai là, tiêu chí “Tính hiệu quả trong sử dụng kinh phí thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT” được đánh giá ở mức trung bình với 3,38 điểm bình quân. Kết quả đánh giá tiêu chí này tiếp tục khẳng định cho nhận định phía trên về tiêu chí “Mức độ chi tiết của kế hoạch kinh phí thực hiện các chính sách TGXH trong

chăm sóc SKTT”.

Ba là, tiêu chí “So sánh kết quả đạt được với kinh phí sử dụng của các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT” phụ thuộc khá lớn vào năng lực đánh giá của các

cán bộ tham gia khảo sát. Tuy nhiên theo quan điểm của NCS, với 3,38 điểm bình quân thì vẫn có thể thấy kết quả đạt được của các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT là khá khả quan, nhất là trong điều kiện nguồn lực của ngân sách dành cho các hoạt động CSSKTT còn hạn chế như hiện nay.

Những điểm yếu của chính sách TGXH trong CSSKTT nêu trên được giải thích

bởi những nguyên nhân chủ yếu sau:

b) Nguyên nhân điểm yếu của chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức

khỏe tâm thần tại Việt Nam

(i) Nhóm nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, Thể chế, pháp luật, chính sách, quy định của Nhà nước đối với phát triển ASXH nói chung, CSSKTT nói riêng còn chưa được hoàn thiện, tầm nhìn của

các chính sách còn hạn chế, cùng với việc hạn chế về các nguồn lực thực thi chính sách nên ảnh hưởng đến mức độ bao phủ các đối tượng và hạn chế tác động lan tỏa của các chính sách.

Thứ hai, Sự bất cập trong Luật ngân sách nhà nước: Luật Ngân sách nhà nước quy định nhiệm vụ chi ngân sách địa phương gồm 5 mục chi và trong mục chi thường xuyên đã quy định khoản chi thứ 5 là chi thực hiện các chính sách xã hội do địa phương quản lý (Điều 33, Luật NSNN năm 2002), trong đó có chi TGXH do địa

phương bố trí và quản lý. Đối với những địa phương khó khăn, thì ngân sách Trung ương (Quy định tại khoản 7 Điều 31) cấp bổ sung cho địa phương. Với cơ chếnày dẫn đến tình trạng khó khăn trong huy động nguồn lực đối với các tỉnh nghèo, thu không

bảo đảm chi. (Quốc hội, 2002)

Thứ ba, tình hình phát triển Kinh tế-xã hội-văn hoá và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội nhiều mặt còn hạn chế. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao; khoảng cách

127

giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, nhất là trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao (một số huyện, xã lên đến 50%). Một

số chính sách về ASXH, giảm nghèo còn chồng chéo, kém hiệu quả.

(ii) Nhóm nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, trong quá trình tổ chức thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT,

công tác kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh chính sách chưa được chú trọng đúng mức.

Thực tế cho thấy, một hạn chế khá lớn trong quá trình tổ chức thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT ở Việt Nam đó là công tác kiểm tra, đánh giá, tổng hợp báo cáo làm chưa thường xuyên, mang nặng tính hình thức. Hiện nay, Bộ LĐTBXH

mới thiết lập các chỉ tiêu báo cáo thống kê về số lượng đối tượng, kết quả thực hiện trợ cấp, trợ giúp, chưa có được các chỉ số, chỉ tiêu đánh giá chất lượng và các mức độ chính sách, cũng như tác động thực hiện chính sách. Đồng thời sự tham gia của các cơ quan, tổ chức đôi khi cũng chỉ có tính chất hình thức, phong trào. Công tác tổng hợp

báo cáo của các địa phương làm chưa thường xuyên, thiếu số liệu, thiếu thông tin...

Thứ hai, hạn chế về bộ máy thực thi chính sách

Xét về tổng thể, bộ máy tổ chức thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT ở

Việt Nam hiện nay chưa đủ mạnh để có thể đáp ứng với yêu cầu thực tiễn. Trong giai đoạn 2011-2015, Nhà nước mới chỉ quan tâm đến việc tăng cường năng lực cho hệ thống tổ chức các cơ quan quản lý hành chính ở các cấp, các ngành có chức năng nhiệm vụ đến thực hiện chính sách; chưa quan tâm đến hệ thống các đơn vị sự nghiệp

chăm sóc NTT ở cộng đồng và ở cấp cơ sở. Chính vì chưa có hệ thống dịch vụ sự nghiệp chăm sóc đủ với nhu cầu đòi hỏi đã dẫn đến hầu hết các dịch vụ hỗ trợ kém chất lượng. Cán bộ cơ sở ít được đào tạo, hoạt động thiếu tính chuyên nghiệp. Điều

này đã dẫn đến việc tổ chức thực hiện chế độ chính sách chưa đạt được kết quả như mong muốn.

Thứ ba, nguồn tài chính cho chính sách TGXH trong CSSKTT còn hạn hẹp.

Thực tế cho thấy, nguồn tài chính thực hiện chính sách TGXH trong CSSKTT

còn thiếu,việc sử dụng ngân sách cũng còn tồn tại nhiều bất cập: lãng phí, tham nhũng,... Tỷ lệ NSNN hàng năm dành cho chính sách TGXH trong CSSKTT thấp, quản lý lỏng lẻo đã dẫn đến nhiều tiêu cực xảy ra.

Thứ tư, sự tách biệt tương đối rõ của hệ thống quản lý tài chính và cơ quan tổ chức thực hiện đã ảnh hưởng đến việc lập dự toán, duyệt dự toán, phân bổ ngân sách và chi tiêu thực tế.

Việc lập dự toán phải căn cứ vào nguồn thu ngân sách của địa phương và số đối

128

tượng hưởng lợi. Biểu tổng hợp dự toán ngân sách địa phương chỉ dùng một chỉ tiêu

tổng hợp duy nhất là chi bảo đảm xã hội, thiếu chi tiết các khoản chi cụ thể, thiếu quy định trách nhiệm phối kết hợp của ngành quản lý và UBND cấp dưới (Sở LĐTBXH và UBND cấp huyện) hoặc là trách nhiệm phối hợp giữa cơ quan quản lý đối tượng (ngành LĐTBXH) với cơ quan quản lý tài chính cùng cấp (Sở Tài chính); cấp huyện

và cấp Trung ương cũng có tình trạng như vậy. Sự phối kết hợp chưa chặt chẽ này dẫn đến tình trạng dự toán chi ngân sách và phân bổ ngân sách chi bảo đảm xã hội nói chung, chi thực hiện chính sách TGXH trong CSSKTT không đủ theo yêu cầu thực tế

129

là khá phổ biến ở các địa phương nghèo. Việc cấp bổ sung ngân sách không căn cứ vào quy mô, nhu cầu của chính sách TGXH ở địa phương mà căn cứ theo định mức phân bổ chi bảo đảm xã hội, dẫn đến chưa minh bạch trong tạo nguồn cho các địa phương trong việc thực thi chính sách. (Nguyễn Ngọc Toản, 2010)

CHƯƠNG V

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE TÂM THẦN TẠI VIỆT NAM

5.1. Quan điểm hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần của Nhà nước đến năm 2025

5.1.1. Mục tiêu trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần của Nhà nước đến năm 2025

5.1.1.1. Mục tiêu chung

Huy động sự tham gia của xã hội nhất là gia đình, cộng đồng trợ giúp về vật chất, tinh thần, PHCN cho người tâm thần để ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng,

phòng ngừa người rối nhiễu tâm trí bị tâm thần góp phần bảo đảm ASXH.

5.1.1.2. Mục tiêu cụ thể

Thứ nhất, 90% số người tâm thần có hành vi nguy hiểm đến gia đình, cộng

đồng và số người tâm thần lang thang được PHCN luân phiên tại các cơ sở BTXH;

Thứ hai, 90% số người rối nhiễu tâm trí có nguy cơ cao bị tâm thần, người tâm

thần được tư vấn, trị liệu tâm lý và sử dụng các dịch vụ công tác xã hội khác;

Thứ ba, 100% gia đình có người tâm thần, 70% người rối nhiễu tâm trí có nguy cơ cao bị tâm thần được nâng cao nhận thức về trợ giúp và PHCN cho người tâm thần dựa vào cộng đồng;

Thứ tư, hình thành các nhóm cán bộ, nhân viên và cộng tác viên CTXH kết hợp với nhân viên y tế trợ giúp và PHCN cho người tâm thần tại xã, phường, thị trấn có

đông đối tượng.

5.1.1.3. Trách nhiệm của các cơ quan trong thực hiện mục tiêu của chính sách

Thứ nhất, Bộ LĐTBXH có trách nhiệm: xây dựng kế hoạch triển khai các chính sách, chương trình, đề án; tổng hợp kinh phí đề nghị hỗ trợ của các tỉnh, thành phố gửi Bộ Tài chính trình cấp có thẩm quyền quyết định; triển khai các hoạt động truyền thông; xây dựng các cơ chế, chính sách, văn bản pháp luật để TGXH, PHCN cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí; phát triển các cơ sở phòng và trị liệu rối nhiễu

130

tâm trí; các cơ sở BTXH để chăm sóc, PHCN cho người tâm thần; nâng cao năng lực

đội ngũ công chức, viên chức và cộng tác viên làm công tác TGXH và PHCN cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng.

Thứ hai, Bộ Y tế có trách nhiệm lồng ghép nghiên cứu, hướng dẫn nghiệp vụ y tế trong điều trị và PHCN cho người tâm thần dựa vào cộng đồng và trong các cơ sở

BTXH; nâng cao năng lực đội ngũ nhân viên, cộng tác viên y tế về CSSKTT.

Thứ ba, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, đoàn thể triển khai lồng ghép các chương trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên,

học viên; triển khai các chương trình phòng ngừa, can thiệp sớm các trường hợp học sinh, sinh viên có biểu hiện rối nhiễu tâm trí trong các cơ sở giáo dục và đào tạo; hoàn thiện chính sách và chỉ đạo các cơ sở giáo dục và đào tạo phối hợp với các cơ sở y tế có liên quan thực hiện công tác chăm sóc, phục hồi khả năng học tập và học nghề cho

học sinh, sinh viên, học viên bị mắc bệnh tâm thần.

Thứ tư, Bộ Tài chính có trách nhiệm bố trí kinh phí để triển khai các chính sách, chương trình, đề án theo qui định của pháp luật về NSNN; xây dựng văn bản quy

phạm pháp luật hướng dẫn quản lý, sử dụng kinh phí thực hiện các chính sách, chương trình, đề án.

Thứ năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư bố trí nguồn vốn đầu tư phát triển thực hiện các chính sách, chương trình, đề án; tranh thủ vốn viện trợ cho công tác TGXH và

PHCN cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng.

Thứ sáu, Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan thông tin và truyền thông đẩy mạnh công tác tuyên truyền về TGXH và PHCN cho người tâm thần dựa

vào cộng đồng.

Thứ bảy, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm:

Xây dựng kế hoạch thực hiện các chính sách, chương trình, đề án TGXH và PHCN

cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng của địa phương mình.

Chỉ đạo, triển khai các nội dung, giải pháp của các chính sách, chương trình, đề

án trên địa bàn tỉnh, thành phố;

Bố trí ngân sách, nhân lực, cơ sở vật chất thực hiện các chính sách, chương

trình, đề án.

131

Thứ tám, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vận động các tổ chức thành viên và quần chúng nhân dân tham gia TGXH và PHCN cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng.

5.1.2. Quan điểm hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần của Nhà nước đến năm 2025

Thứ nhất, ưu tiên của giai đoạn 2016-2025 này là cần thống nhất được tầm nhìn và khung mục tiêu quốc gia về CSSKTT ở Việt Nam, tạo cơ sở định hình cho các hoạt

động thiết kế tiếp theo của Bộ LĐTBXH và BYT trong các đề án 32 và 1215, dự án CSSKTT cộng đồng của chương trình mục tiêu quốc gia và đề án 930/QĐ-TTg ngày 30/6/2009 về củng cố và xây dựng bệnh viện chuyên khoa tâm thần tại các tỉnh hiện

còn thiếu (do BYT quản lý ).

Thứ hai, Bộ LĐTBXH và BYT cần tiến đến sự thống nhất trong việc tạo lập và vận hành mô hình một hệ thống “CSSKTT cộng đồng” ở tuyến địa phương. Trong đó, các đề án 32 và 1215 của Bộ LĐTBXH, chương trình mục tiêu quốc gia/ dự án

CSSKTT cộng đồng và đề án 930 của BYT phải được thiết kế tập trung vào mục tiêu chung là đổi mới hệ thống CSSKTT và PHCN cho bệnh nhân tâm thần theo khuyến cáo của WHO và chủ trương về một nền y tế công bằng, hiệu quả và bền vững.

Thứ ba, từ đề án 32, 1215, 930 và dự án CSSKTT cộng đồng, phối hợp thiết kế mô hình hệ thống CSSKTT tuyến tỉnh theo khuyến cáo của WHO, trong đó có hai nhánh đi song song phối hợp với nhau: nhánh nền tảng là mảng CSSKTT cộng đồng, với các hoạt động dự phòng, phát hiện sớm, can thiệp điều trị sớm, hỗ trợ chăm sóc và PHCN tại gia đình được thực hiện và quản lý bởi đội ngũ đa ngành; mảng hỗ trợ chăm sóc, phục hồi chức năng đặt ở tỉnh, là sự phối hợp lồng ghép của BVTT với trung tâm BTXH dành cho BNTT.

Thứ tư, thành lập nhóm hỗ trợ kỹ thuật gồm các chuyên gia đa ngành trong nước chuyên về CSSKTT thực hiện chức năng kết nối hỗ trợ cho cả Bộ LĐTBXH và BYT. Vai trò tổ chức thành lập và vận hành nhóm này nên giao cho VUSTA đảm nhiệm với mô hình Think - tank. Đây là cơ sở chính thức được Quốc hội và nhà nước

giao trọng trách tư vấn kỹ thuật và phản biện khoa học cho các chương trình, dự án phát triển.

Thứ năm, từng bước hoàn thiện hệ thống TGXH. Xây dựng hệ thống TGXH trong CSSKTT trong tổng thể hệ thống ASXH đa tầng, linh hoạt và hỗ trợ lẫn nhau, có khả năng bảo vệ mọi thành viên trong xã hội, nhất là những nhóm dễ bị tổn thương. Quy hoạch và đầu tư phát triển mạng lưới cơ sở dịch vụ TGXH theo từng địa bàn, đảm bảo về cơ sở vật chất, thiết bị đồng bộ đủ điều kiện nâng cao chất lượng dịch vụ; cơ

cấu lại trên 402 cơ sở BTXH theo hướng cung cung cấp các dịch vụ CTXH.

132

Thứ sáu, nghiên cứu mở rộng chính sách trợ cấp, trợ giúp xã hội. Theo đó,

chính sách trợ giúp đã được mở rộng thêm các nhóm đối tượng, nâng mức chuẩn trợ cấp, trợ giúp xã hội. Mức TCXH chuẩn trong giai đoạn 2016-2020 sẽ tương đương với 40% mức sống tối thiểu.

5.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam

5.2.1. Hoàn thiện chính sách trợ cấp xã hội

Theo đánh giá thì hiện hay, chính sách TCXH trong CSSKTT đã được áp dụng

từ năm 2013 (từ Nghị định số136/2013/NĐ-CP), do đó, theo đánh giá của luận án thì mức trợ cấp hiện nay đã không còn phù hợp nữa, Chính phủ sửa đổi, bổi sung mức TCXH dành cho NTT, người rối nhiễu tâm trí trên cơ sở tính toán lại mức sống tối thiểu ở thời điểm hiện tại.

Cụ thể, hiện nay, mức hỗ trợ theo tháng (thường xuyên) cho NTT hiện còn thấp do số tiền ít hơn 2% thu nhập theo đầu người trung bình. Trợ cấp hằng tháng không thỏa đáng thường gây trở ngại cho trị liệu hóa dược, thiếu dinh dưỡng đầy đủ và mất

nhiềuthời gian ra viện khỏi TTBTXH. Tiêu chuẩn tối thiểu theo Nghị định 136 đề ra là tiền TCXH hàng tháng là tùy theo tỉnh, thành phố đề ra; do đó có khả năng mức trợ cấp phân bố không đồng đều giữa các đối tượng BTXH vốn có điều kiện tương tự ở các tỉnh thành khác nhau. Để hỗ trợ xã hội hiệu quả và công bằng, các chính sách quy

định mức hỗ trợ lý tưởng cần điều chỉnh để đảm bảo chất lượng sống thỏa đáng và khuyến khích chăm sóc và điều dưỡng tại gia đình và dựa vào cộng đồng.

Về tỷ lệ tự chi trả phí tổn CSSKTT còn lớn tại Việt Nam, BLĐTBXH có thể

xem xét hoàn thiện các chính sách giúp cho các đối tượng NTT tiếp cận nhiều hơn các dịch vụ SKTT chuyên khoa và dịch vụ hỗ trợ tại cộng đồng, bao gồm thuốc men và dịch vụ tâm lý xã hội. Như vậy, trong giai đoạn tiếp theo, chính sách TCXH trong CSSKTT ở Việt Nam cần được hoàn thiện theo những hướng sau:

Thứ nhất, Chính phủ xem xét điều chỉnh mức trợ cấp thường xuyên tối thiểu

hàng tháng dành cho NTT ở cả các cơ sở BTXH và ở tại cộng đồng:

Theo quan điểm của luận án, việc điều chỉnh mức trợ cấp thường xuyên tối

thiểu hàng tháng vào thời điểm năm 2016 là hợp lý do tình hình diễn biến của thị trường, giá cả tiêu dùng trong 05 năm giai đoạn 2011-2015 khá phức tạp, lạm phát, giá cả luôn có xu hướng leo thang nhanh. Đồng thời, thu NSNN ở Việt Nam giai đoạn này cũng có nhiều dấu hiệu tốt. Đặc biệt, trong 03 năm trở lại đây, nền kinh tế có sự phục

133

hồi nhanh chóng sau khủng hoảng, chúng ta hoàn toàn có đủ nguồn lực để điều chỉnh mức trợ cấp tối thiểu cho các đối tượng BTXH.

Để thực hiện định hướng đó, Chính phủ cần xem xét cập nhật các yếu tố trong mô hình xây dựng mức trợ cấp dành cho các đối tượng BTXH tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP. Việc tính toán và đưa ra mức hỗ trợ mới cần đảm bảo nâng cao mức sống cho NTT, người rối nhiễu tâm trí.

Song song với việc ban hành mức trợ cấp mới, Chính phủ cần giao cho Bộ LĐTBXH xây dựng kế hoạch triển khai ra thực tiễn, đảm bảo cân đối hài hòa việc sử dụng NSNN các cấp. Trong đó, khuyến khích vai trò chủ đạo của ngân sách địa

phương, ngân sách Trung ương giữ vai trò hỗ trợ, cân đối dành cho những địa phương khó khăn, chưa thể tự cân đối được khoản chi BTXH này.

Ngoài ra, Chính phủ cũng cần có những biện pháp thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài dành cho lĩnh vực BTXH nói chung, lĩnh vực CSSKTT nói riêng. Các nguồn vốn

này có thể huy động từ các tổ chức NGO, các cá nhân hảo tâm, các nguồn viện trợ ODA.

Thứ hai, giao cho UBND tỉnh xây dựng mức trợ cấp thường xuyên hàng tháng

cho NTT phù hợp với điều kiện của địa phương:

Sau khi xây dựng mức trợ cấp tối thiểu thường xuyên hàng tháng, Bộ LĐTBXH cần yêu cầu các tỉnh/thành phố trên cả nước xây dựng quy định mức TCXH hàng tháng cho các đối tượng BTXH (trong đó có NTT) sống tại cộng đồng và tại các BTXH thuộc Sở LĐTBXH. Trong đó, xác định rõ một số vấn đề cơ bản:

(i) Quy định mức chuẩn để xác định mức TCXH hàng tháng cho các đối tượng

BTXH của địa phương: đây là mức chuẩn mới do Chính phủ ban hành.

(ii) Hệ số để xác định mức TCXH hàng tháng đối với từng nhóm đối tượng

BTXH: hệ số này phân biệt giữa các đối tượng BTXH sống tại cộng đồng do xã, phường, thị trấn quản lý và các đối tượng sống tại các cơ sở BTXH do Sở LĐTBXH tỉnh/thành phố quản lý.

(iii) Nguồn kinh phí đảm bảo, cần xác định hướng cụ thể như sau:

Kinh phí trợ cấp cho các đối tượng BTXH sống tại cộng đồng do ngân sách quận, huyện, thị xã đảm bảo, được cân đối trong dự toán giao ngân sách hàng năm cho các quận, huyện, thị xã.

Kinh phí trợ cấp cho các đối tượng BTXH sống tại các cơ sở BTXH thuộc Sở LĐTBXH quản lý do ngân sách tỉnh/ thành phố đảm bảo và được bố trí trong dự toán giao cho Sở LĐTBXH hàng năm.

Thứ ba, Chính phủ tăng cường thu hút các nguồn vốn hỗ trợ chính sách trợ cấp

134

trong CSSKTT từ bên ngoài:

Đối với nguồn vốn ODA và tài trợ nước ngoài

Ngày 17/2/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 251/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài thời kỳ 2016-2020” nhằm cụ thể hóa các chủ

trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài hỗ trợ thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội 5 năm 2016-2020.

Đề án này được phê duyệt là cơ sở để các ngành, các cấp huy động và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài thời kỳ 2016 - 2020 và làm căn cứ để các nhà tài trợ sử dụng trong quá trình hoạch định chính sách, xây

dựng các chương trình hợp tác phát triển với Việt Nam ở cấp khu ực, quốc gia, cấp Bộ, ngành và địa phương. Đồng thời cũng nhằm mục đích minh bạch hóa chính sách của Chính phủ Việt Nam trong việc thu hút, quản lý và sử dụng các nguồn vốn này đối

với dư luận rộng rãi trong nước và quốc tế. Theo đó, để thu hút nguồn vốn ODA và viện trợ nước ngoài hỗ trợ thực hiện chính sách TGXH trong CSSKTT nói chung, chính sách TCXH nói riêng, nước ta cần chú trọng đến một số nội dung sau:

(i) Tiếp tục thực hiện cả bề rộng lẫn chiều sâu công cuộc “Đổi mới”, trong đó

có một số chính sách mà nhà tài trợ thường nhấn mạnh và coi là thông điệp để xem xét việc cam kết cung cấp viện trợ phát triển, đó là:

Phát triển kinh tế nhanh và bền vững đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội và bảo

vệ môi trường, thu hẹp khoảng cách về thu nhập và xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi và đồng bằng, giữa các nhóm xã hội, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số.

Hoàn thiện môi trường đầu tư, tạo ra sân chơi bình đẳng đối với mọi thành phần

kinh tế.

Quản lý tài chính công một cách minh bạch, có trách nhiệm giải trình và có thể

dự báo trước.

Những chính sách bảo đảm tự do, dân chủ và quyền con người.

(ii) Cải tiến hơn nữa Hội nghị CG (Hội nghị CG là diễn đàn đối thoại giữa Chính phủ với cộng đồng các nhà tài trợ tạo cơ chế, chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế) để Hội nghị này trở thành diễn đàn đối thoại đi vào thực chất hơn theo các

135

định hướng:

Giảm bớt các báo cáo tại Hội nghị CG và tăng cường trao đổi ý kiến về những

vấn đề các bên cùng quan tâm.

Phát hành Kỷ yếu của Hội nghị CG và phổ biến rộng rãi giữa các cơ quan

Việt Nam và các nhà tài trợ.

(iii) Tăng cường vận động ODA ở cấp địa phương, nhất là vận động ODA của các vùng nhằm cung cấp cho các nhà tài trợ cách nhìn tổnghợp hơn và tạo điều kiện để phối hợp tốt hơn các nguồn lực.

(iv) Ban hành hệ thống các tiêu chí làm cơ sở vận động ODA cho các tỉnh,

thành phố, bảo đảm công bằng, công khai và minh bạch.

(v) Tăng cường phối hợp với các nhà tài trợ đi thực tế, nhất là tới các địa

phương có nhiều khó khăn và nhiều vấn đề bức xúc về kinh tế và xã hội.

Song song với đẩy mạnh thu hút ODA và tài trợ nước ngoài, Chính phủ cần thực hiện đồng bộ các giải pháp quản lý hiệu quả nguồn vốn này cho thực hiện chính sách TGXH trong CSSKTT:

(i) Cần xem nguồn vốn ODA đã được ký kết như nguồn thu ngân sách của các bộ liên quan (Bộ LĐTBXH, Bộ Y tế), địa phương và cơ sở BTXH và cân đối trong quá trình xây dựng kế hoạch sử dụng ngân sách, bảo đảm các điều kiện (vốn đối ứng) cho việc thực hiện các dự án, chương trình CSSKTT cũng như tính công khai, minh bạch.

(ii) Các bộ, ngành, địa phương, cơ sở BTXH chủ động đề xuất nội dung các chương trình, dự án ODA, tránh tình trạng phụ thuộc vào nhà tài trợ và tư vấn, trên cơ sở kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, thu hút và sử dụng ODA chung

của cả nước, của ngành, địa phương và đơn vị mình.

Đối với nguồn vốn, vật chất từ phía các tổ chức, cá nhân hảo tâm

Với nguồn vốn này, theo quan điểm của luận án thì khả năng huy động hiệu quả nhất là tại cơ sở BTXH. Sở LĐTBXH nên hướng dẫn các cơ sở BTXH thành lập các

“Quỹ vì bệnh nhân tâm thần nghèo” để tuyên truyền, huy động sự đóng góp tiền, vật chất khác từ các doanh nghiệp trên địa bàn, từ các nhà hảo tâm để có thể có thêm điều kiện vật chất phục vụ cho công tác chăm sóc, điều trị, PHCN cho NTT sống tại các cơ

sở này.

Nhằm thu được lợi ích lớn nhất trong điều kiện cho phép với ngân sách eo hẹp dành cho các dịch vụ và trợ giúp SKTT, ngành lao động và xã hội cần đảm bảo các khoản đầu tư vào dịch vụ phải tạo ra tác động và thành tựu to lớn. Điều quan trọng lớn

136

nữa là cần có chiến lược giúp đạt mức độ bao phủ rộng rãi và công bằng đối với các

nhu cầu của toàn dân.

Tiếp theo, một điều cần lưu ý là cần tránh nhân rộng các mô hình chăm sóc đã từng áp dụng từ các nước thu nhập cao bởi vì những mô hình này thường rất tốn kém và khả năng tiếp cận cũng như mức độ bao phủ tương đối kém. Các mô hình chăm sóc

sáng tạo áp dụng cách chuyển giao nhiệm vụ và ứng dụng sáng kiến giản tiện rất hứa hẹn khi triển khai.

5.2.2. Hoàn thiện chính sách phát triển cơ sở bảo trợ xã hội

5.2.2.1. Cải thiện và phát triển các Trung tâm Bảo trợ xã hội

Các kế hoạch đã được hoàn thiện nhằm đầu tư hạ tầng cơ sở vật chất của các TTBTXH để tăng phân bố địa lý các trung tâm trong cả nước, tăng công suất để phục vụ cho người dân và cải thiện chất lượng sống của bệnh nhân. Các TTBTXH khác

nhau về chất lượng của cơ sở hạ tầng và các dịch vụ, tuy nhiên một số trung tâm theo như thực tế hoạt động thì lại có vẻ giống “trại giam” hơn là các trung tâm trị liệu và PHCN. Đôi khi, bệnh nhân trong các TTBTXH chưa được đáp ứng thỏa đáng về dinh

dưỡng do thiếu thực phẩm và nguồn nước kém chất lượng vì thiếu NSNN và không thể huy động thêm nguồn lực bổ sung. Hậu quả, bệnh nhân không có người nhà hoặc người nhà không sẵn sàng trợ giúp chăm sóc thì sẽ không thể ra viện được. Do đó, Chính phủ cần triển khai soạn thảo bộ quy phạm hướng dẫn và quy định vận hành chặt

chẽ các TTBTXH mà thể hiện sự hợp tác mạnh mẽ giữa ngành lao động xã hội và y tế, kèm theo các chính sách hỗ trợ, nếu bệnh nhân có các nhu cầu chăm sóc và điều trị. (Bộ LĐTBXH, UNICEF, 2015)

Theo Quyết định 1364/QĐ-LĐTBXH ban hành ngày 02/12/2012, BLĐTBXH có kế hoạch đưa vào hoạt động 50 TTBTXH. Đề án này gồm 24 trung tâm mới xây dựng cũng như nâng cấp 26 trung tâm hiện có để chăm sóc và PHCN cho người bệnh tâm thần. Hơn nữa, 36 TTBTXH không chuyên biệt hiện chăm sóc nhiều nhóm đối tượng

BTXH khác nhau sẽ có kế hoạch thực hiện dự phòng và điều trị các rối loạn tâm thần.

Diện tích đất và không gian dành cho các cơ sở này sẽ rộng hơn so với các cơ sở trước đây được quy định tại Nghị định 68/NĐ-CP, nhờ vậy cho phép các cơ sở cải

tạo lại tiếp nhận nhiều đối tượng BTXH hơn trước, đạt 200-500 người mỗi trung tâm. Điều này dự kiến gia tăng gấp 10 lần công suất các cơ sở hiện có.

Nhận định về các kế hoạch cải tạo các TTBTXH hiện có và xây mới nhiều TTBTXH khác, điều quan trọng là Chính phủ cần chống lại tình trạng đầu tư quá mức

137

vào chăm sóc nội viện. Đầu tư quá mức vào phát triển các cơ sở nội trú gây cạn kiệt nguồn lực tài chính, đặc biệt là vì chăm sóc nội viện tương đối đắt đỏ và là hướng tiếp

cận có hiệu quả kinh tế thấp khi cung ứng dịch vụ cho bệnh nhân tâm thần. Việc cải tạo nâng cao công suất các TTBTXH nên được xem là kế hoạch chuyển tiếp tạm thời và chỉ tiến hành để thay đổi thực trạng và nên bắt đầu phát triển các dịch vụ dựa vào cộng đồng thay cho chăm sóc nội viện trong giai đoạn phát triển tiếp theo.

Điều quan trọng nữa là đảm bảo triển khai các nội dung đã dự định trong Quyết Định 1364/QĐ-LĐTBXH về tích hợp hoạt động tư vấn, tâm lý trị liệu, liệu pháp hoạt động, CTXH và PHCN phải trở thành hoạt động cốt lõi của TTBTXH. Hiện nay, việc

chuẩn hóa các dịch vụ SKTT nên bổ sung trong quá trình cải tiến toàn bộ các cơ sở bảo trợ nhằm bù đắp những thiếu hụt phổ biến tại Việt Nam. Hơn thế nữa, Điều 1 Quyết định 1364 về tái cấu trúc các TTBTXH còn là mở rộng nhiệm vụ trước đây đối với người khuyết tật tâm thần nay còn có trách nhiệm vượt ra ngoài khuôn khổ trung

tâm. Theo Quyết định1364, nhiệm vụ của các cơ sở này là vươn tầm quản lý xa hơn ở cộng đồng, cung ứng các dịch vụ bao gồm chẩn đoán, CSSKTT, CTXH và chương trình tiếp cận tại chỗ. Nếu dự định cải tổ các TTBTXH hoàn thiện, đây sẽ mở ra cơ hội

lớn phát triển các dịch vụ cộng đồng, giúp cho người sử dụng dịch vụ tăng năng suất lao động và sống có ý nghĩa, giảm lệ thuộc quá mức vào các mô hình chăm sóc nội viện cho người rối loạn tâm thần.

Điều 1 Quyết định 1364 còn mở rộng phân bổ NSNNCSSKTT cho người sử

dụng dịch vụ thuộc diện hộ nghèo, đồng thời cho phép TTBTXH tạo nguồn thu từ các hoạt động nông nghiệp và công nghiệp khác. Các TTBTXH có tiềm năng cầntạo nguồn vốn dựa trên cơ sở kết hợp chính sách tạo việc làm theo các Điều 33-35 luật

người khuyết tật, hình thành các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này có thể tuyển dụng người khuyết tật tâm thần đang lưu trú tại trung tâm bảo trợ và tại cộng đồng. Từ đó, các TTBTXH có thể hình thành doanh thu mà vẫn hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu là cung ứng hoạt động PHCN và triển khai hòa nhập cộng đồng cho người có các vấn

đề sức khoẻ tâm thần.

5.2.2.2. Phát triển chương trình Nhà ở dựa vào cộng đồng

Nhằm giúp Việt Nam giảm sự quá lệ thuộc vào các mô hình chăm sóc nội viện

cho người rối loạn tâm thần, BLĐTBXH cần chú trọng hoàn thiện dịch vụ phát triển cộng đồng. Sự lo ngại về an toàn xã hội đã tô vẽ nên hình ảnh người bệnh tâm thần như những mối đe dọa với xã hội, trở thành mục tiêu ưu tiên của can thiệp về chính sách. Tất nhiên là cần có cơ chế phù hợp đảm bảo chăm sóc cấp cứu cho người bệnh

138

trong cơn cấp tính có phối hợp giữa công an, y tế và các dịch vụ xã hội. Tiếp đó điều cốt yếu là ngành lao động và xã hội cần tăng cường phát triển nhà ở bảo trợ tại cộng đồng cũng như tạo cơ hội cho đối tượng phát triển kỹ năng nghề nghiệp và tham gia

hoạt động lao động sản xuất thật có ý nghĩa.

Hoàn thiện chương trình hỗ trợ nhà ở tại cộng đồng có thể thực hiện bằng việc ký kết các hợp đồng quy mô nhỏ với các công ty phát triển nhà được công nhận. Các thỏa thuận này có thể giao dịch qua các TTBTXH, giúp cơ sở bảo trợ nâng cao tỷ lệ ra

viện về cộng đồng để giảm thời gian lưu trú, tối ưu hóa dòng luân chuyển hệ thống các dịch vụ.

5.2.2.3. Phát triển mô hình chăm sóc nuôi dưỡng dựa vào cộng đồng

Một cơ chế khác có thể xem xét nhằm tạo nguồn hỗ trợ từ cộng đồng đó là sử dụng mô hình chăm sóc nuôi dưỡng dựa vào cộng đồng như là hình thức CSSKTT, theo Nghị định 136 điều 18-24 người nhận chăm sóc nuôi dưỡng ngoài tiền hỗ trợ chăm sóc hàng tháng còn được khoản khuyến khích bằng tiền, được hướng dẫn và đào

tạo về chăm sóc nuôi dưỡng. Do đó, hệ thống chăm sóc nuôi dưỡng có tiềm năng với chức năng là một kênh giúp đỡ chuyển giao người khuyết tật tâm thần từ TTBTXH về phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. Đạt mục tiêu này là kế thừa các chính sách hỗ

trợ ra viện và đòi hỏi phải tích hợp đào tạo về phục hồi chức năng trong hướng dẫn toàn diện cho người nhận chăm sóc nuôi dưỡng.

5.2.3. Hoàn thiện chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm

Hiện nay tại các Điều 33 và 35 của Luật người khuyết tật, mô tả các chính sách

hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật, bao gồm cả người rối loạn tâm thần. Các chính sách này đã động viên người khuyết tật có nỗ lực làm việc cho bản thân, gia đình và doanh nghiệp. Như đã phân tích, các TTBTXH còn có thể tạo nguồn thu từ các chính

sách này nhờ tích lũy các dòng thu nhập độc lập khi điều hành và tạo cơ hội dạy nghề, giới thiệu việc làm cho NTT sống tại trung tâm.

Theo quan điểm của luận án, việc xây dựng một bộ luật riêng dành cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí trong thời gian tới là không khả thi. Do đó, đối với

vấn đề dạy nghề và tạo việc làm cho nhóm người này nên được thực hiện ở cấp cơ sở. Ngoài ra, việc lồng ghép chính sách dạy nghề và tạo việc làm cho nhóm NTT, người RNTT và những NKT nói chung là không hợp lý vì đặc thù của nhóm NTT, người

RNTT là nhận thức kém, khả năng lao động thấp và không ổn định do quá trình diễn biến bệnh tình phức tạp, mức độ tái phát của bệnh là rất cao.

Chính vì vậy trong thời gian tới, nhiệm vụ đặt ra cho các cơ quan, đơn vị trong việc xây dựng chính sách dạy nghề và tạo việc làm cho NTT, người RNTT được đặt ra

139

như sau:

Thứ nhất, đối với Bộ LĐTBXH cần chỉ đạo các Sở LĐTBXH tổ chức khuyến khích, tạo điều kiện với các cơ sở BTXH ở các địa phương đẩy mạnh phát triển vấn đề dạy nghề và tạo việc làm cho NTT, người RNTT sống tại các cơ sở BTXH. Vấn đề này cần được đưa vào mô hình chăm sóc, điều trị, PHCN cho NTT, người RNTT của

các cơ sở BTXH.

Thứ hai, đối với Sở LĐTBXH, Phòng LĐTBXH cần có kế hoạch triển khai chỉ đạo của Bộ LĐTBXH về đề dạy nghề và tạo việc làm cho NTT, người RNTT. Trong

đó, phải có kế hoạch tài chính rõ ràng cho việc triển khai các công việc:

(i) Phối hợp với các cơ sở BHXH tổ chức đề dạy nghề và tạo việc làm tại chỗ cho NTT, người RNTT. Việc phát triển dạy nghề và tạo việc làm cho NTT, người RNTT cần được xác định mục tiêu rõ ràng theo các nhóm người bệnh, có sự thay đổi

về mức độ áp dụng theo thời gian căn cứ trên tình hình điều trị và khả năng nhận thức của NTT, người RNTT. Cụ thể:

Đối với những NTT mới được nhận vào cơ sở BTXH, hoặc những người có bệnh

tình còn nặng nhưng có khả năng nhận thức một mức độ nào đó thì mục tiêu chính sách đặt ra là kết hợp những dạy nghề đơn giản, dễ nhớ, dễ làm để tránh tình trạng người bệnh chỉ biết ăn không ngồi dồi, thậm chí quậy phá, đồng thời tạo thêm vật chất phục vụ cho bữa ăn của bản thân người bệnh. Việc đào tạo nghề gì thì còn phụ thuộc vào cơ sở vật chất

của mỗi địa phương, mỗi cơ sở BTXH. Các địa phương có thể học hỏi kinh nghiệm từ các trung tâm Tâm thần Thái Nguyên, Trung tâm điều dưỡng tâm thần Việt Trì, trung tâm CTXH quảng Ninh, bệnh viện tâm thần Khánh Hòa... đây là các đơn vị đã tiến hành thí

điểm và đã bước đầu đạt được kết quả khá khả quan trong mô hình trợ giúp xã hội, phục hồi chức năng, giải quyết việc làm cho người tâm thần giai đoạn 2011-2015.

Đối với những NTT có bệnh tình thuyên giảm, có khả năng trở về cộng đồng, việc dạy nghề và tạo việc làm cho họ cần chú trọng hơn đến các công việc có mức độ

phức tạp cao hơn. Đặc biệt là các nghề có khả năng làm việc tại địa phương (như công việc ở các làng nghề; thậm chí là công việc ở các doanh nghiệp).

(ii) Tạo cơ hội làm việc cho NTT, người RNTT giúp họ hòa nhập với cộng

đồng. Có thể khẳng định đây là công việc khó vì người NTT, người RNTT có tâm lý tự ti rất lớn. Đó là một rào cản của không ít người NTT, người RNTT khi muốn hòa nhập cộng đồng. Do vậy, để xóa bỏ tâm lý này, rất cần sự sẻ chia từ cộng đồng. Cho tới nay, mọi người đều thừa nhận nguyên nhân chính của những bất lợi mà NTT,

140

người RNTT đang phải đối mặt, cũng như việc họ thường xuyên bị tách biệt khỏi xã hội không phải do tình trạng bệnh tật của từng cá nhân, mà chính là hậu quả của những

phản ứng tiêu cực từ xã hội đối với những người này.

Vì vậy, để xóa bỏ được tình trạng này, cần phải xóa bỏ rào cản tâm lý. Ngoài việc NTT, người RNTT xóa bỏ rào cản từ chính bản thân mình bằng những suy nghĩ và hành động tích cực thì xã hội cũng phải có những nhìn nhận công bằng và nhân văn

hơn từ góc độ tiếp cận quyền con người đối với nhóm NTT, người RNTT.

Qua đó có thể khẳng định rằng, tác động từ phía chính quyền là yếu tố then chốt trong việc tạo việc làm cho NTT, người RNTT khi họ đã ổn định, có kỹ năng cần thiết

và có thể làm việc. Để thực hiện điều đó, chính quyền các cấp cần chỉ đạo các tổ chức kinh tế, xã hội ở cơ sở như: Hội khuyến nông, Hội phụ nữ, Hội người cao tuổi, v.v... tuyên truyền, vận động thay đổi tâm lý kỳ thị đối với NTT, người RNTT ở cộng đồng, tạo cơ hội cho họ có thể hòa nhập cuộc sống bình thường.

Đồng thời, chính quyền các cấp cần khuyến khích các doanh nghiệp, các hợp tác xã sản xuất, dịch vụ trên địa bàn nhận NTT, người RNTT vào làm việc bằng cách ưu đãi cho họ về tiền thuê đất đai, ưu đãi về thuế, phí...

Đối với nguyên tắc dạy nghề và tạo việc làm cho NTT, người RNTT, các cơ sở

BTXH, các địa phương cần lưu ý một số điểm như sau:

Tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội của từng địa phương và thói quen lao động của người dân mà tổ chức lựa chọn loại hình lao động cho phù hợp.Ở nước ta, trên

80% dân số làm nông nghiệp, do vậy loại hình lao động chính là trồng trọt, chăn nuôi và lao động thủ công. Đối với NTT, người RNTT công việc bắt đầu trở lại là những công việc đơn giản, nhẹ nhàng, không đòi hỏi chi tiết phức tạp.

Tại cộng đồng, có thể tổ chức một nhóm lao động PHCN như trồng trọt, chăn nuôi hoặc gia công, sản xuất các sản phẩm thủ công, đồ dùng vật dụng công đoạn thô cho các nhà máy, xưởng sản xuất tư nhân...Có thể gửi người bệnh vào các hợp tác xã, xưởng bảo trợ, nhà máy...

Cần lưu ý một số nguyên tắc sau: Lao động phải có người hướng dẫn kèm cặp nhằm hỗ trợ vàđảm bảo sự an toàn cho người bệnh; luôn ưu tiên những công việc mà trước đây người bệnh đã làm, có năng khiếu và niềm ham thích; Lao động với hình

thức tập thể là chủ yếu; Có sự đánh giá, động viên khen thưởng; nhưng phải có trả công thích hợp cho từng người bệnh.

Điều kiện đảm bảo thực hiện thành công giải pháp này là phải có các nguồn lực, trong đó 02 nguồn lực quan trọng nhất là: nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực để hỗ

141

trợ cho các cơ sở BTXH, các tổ chức kinh tế, xã hội, nghề nghiệp.

5.2.4. Hoàn thiện chính sách phát triển các dịch vụ công tác xã hội

5.2.4.1. Phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ công tác xã hội công lập

Một vấn đề quan trọng trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ sở BTXH là cần đẩy mạnh việc phát triển các trung tâm CTXH đóng vai trò

là “xương sống” của hệ thống, làm nhiệm vụ kết nối, đánh giá nhu cầu, phân loại và chuyển tuyến dịch vụ CTXH cho các đối tượng có nhu cầu. Đối với những dịch vụ chuyên sâu như phục hồi chức năng cho NTT, người RNTT thì cần hình thành các cơ

sở chuyên biệt.

Nhà nước cần xây dựng cơ chế phối hợp, liên kết giữa cơ sở BTXH với các trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH, các cơ sở chuyên biệt, các nhà xã hội, nhà bán trú, mô hình chăm sóc nhận nuôi, cơ sở trợ giúp khác và chính quyền cơ sở. Trong đó,

mạng lưới các trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH, nhà xã hội, nhà bán trú, mô hình chăm sóc nhận nuôi và các cơ sở trợ giúp khác tại cộng đồng chủ yếu chăm sóc, nuôi dưỡng ngắn hạn, tư vấn và trị liệu phục hồi tâm lý; các cơ sở BTXH là nơi cuối cùng

của hệ thống trợ giúp đối tượng BTXH có nhiệm vụ chính là tiếp nhận chăm sóc, nuôi dưỡng và PHCN những ca khó do mạng lưới các cơ sở trợ giúp chuyển gửi; đào tạo, tập huấn cán bộ, nhân viên cho các khác cũng như tăng cường khả năng kết nối với chính quyền cơ sở và hệ thống các cơ quan phúc lợi xã hội tại địa phương.

Các cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH cần chú trọng cung cấp những dịch vụ sau: (i) tư vấn qua điện thoại cho người bệnh tâm thần và gia đình họ; (ii) đánh giá các lĩnh vực xã hội của người có nhu cầu để cung ứng hỗ trợ tâm lý xã hội, chăm sóc và quản

lý ca phù hợp; (iii) trị liệu tâm lý xã hội và hỗ trợ để tiếp cận các dịch vụ xã hội theo luật định; (iv) huy động hỗ trợ của cộng đồng để có nhiều quần chúng tham gia; (v) xây dựng năng lực cho cán bộ, nhân viên công tác xã hội và cộng tác viên làm việc với người bệnh tâm thần; (vi) cung ứng chăm sóc và hỗ trợ cho nhóm chuyên biệt; và (vii)

cung cấp hỗ trợ khẩn cấp liên quan đến stress và sang chấn.

Khi thành lập các cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH (các Trung tâm CTXH ở cấp tỉnh; Văn phòng CTXH ở cấp huyện; các điểm CTXH ở cấp xã), các đơn vị phải chú

trọng đảm bảo chất lượng của đội ngũ cán bộ, nhân viên, cộng tác viên CTXH. Trong đó, chú trọng đến một số tiêu chí như sau:

Thứ nhất, những giá trị và nguyên tắc đạo đức: Nhân viên CTXH phải hoạt động phù hợp với những giá trị, nguyên tắc đạo đức và những tiêu chuẩn nghề nghiệp,

142

nhận thức được những cách thức mà những giá trị cá nhân và nghề nghiệp có thể mâu thuẫn hoặc ăn khớp với nhu cầu của khách hàng khác nhau như thế nào.

Thứ hai, tự nhận thức: Nhân viên CTXH cần tìm kiếm sự hiểu biết về những giá trị và niềm tin cá nhân và văn hóa của riêng họ như một cách đánh giá đúng tầm quan trọng của những sự đồng nhất đa văn hóa trong cuộc sống của con người.

Thứ ba, kiến thức giao thoa văn hóa: Nhân viên CTXH cần phải có và phát triển kiến thức chuyên biệt và hiểu biết về lịch sử, truyền thống, phong tục tập quán, giá trị, hệ thống gia đình và những thể hiện về thẩm mĩ của những nhóm khách hàng chủ yếu mà họ phục vụ.

Thứ tư, những kỹ năng giao thoa văn hóa: Nhân viên CTXH phải sử dụng cách tiếp cận, kỹ năng và kỹ thuật phù hợp phản ánh hiểu biết của họ về vai trò của văn hóa trong quá trình trợ giúp.

Thứ năm, cung cấp dịch vụ: Nhân viên CTXH phải hiểu và sử dụng thành thạo những dịch vụ sẵn có trong cộng đồng và xã hội và có khả năng giới thiệu những dịch vụ phù hợp đến với những khách hàng khác nhau.

Thứ sáu, trao quyền và vận động: Nhân viên CTXH phải nhận thức được tác động của các chương trình và chính sách xã hội lên các nhóm khách hàng khác nhau, vận động chính sách cho và với khách hàng bất cứ khi nào phù hợp.

Thứ bảy, lực lượng lao động đa dạng: Nhân viên CTXH cần ủng hộ và vận động cho những nỗ lực tuyển dụng, tiếp nhận, thuê và sử dụng trong những chương

trình CTXH và tổ chức để đảm bảo sự đa dạng trong nghề nghiệp.

Thứ tám, giáo dục chuyên môn: Nhân viên CTXH phải vận động cho và tham gia vào các chương trình giáo dục và đào tạo giúp nâng cao năng lực văn hóa trong

phạm vi nghề nghiệp.

Thứ chín, sự đa dạng ngôn ngữ: Nhân viên CTXH cần cố gắng cung cấp và vận động cho việc cung cấp thông tin, giới thiệu và những dịch vụ cho khách hàng với ngôn ngữ phù hợp, có thể bao gồm cả người phiên dịch.

Nhằm phát triển một mô hình cho nghề CTXH phù hợp với Việt Nam điều rất quan trọng là chúng ta phải nhận ra được sự khác biệt về văn hoá, cấu trúc về chính trị và xã hội cũng như con đường phát triển kinh tế của đất nước. Do đó trong thời gian

tới, chính quyền các địa phương cần đẩy mạnh phát triển dịch vụ CTXH tại cấp độ xã/ phường. Thực tế cho thấy hiện nay, có rất ít nhân viên CTXH làm việc tại các cấp này có bằng cao đẳng và đại học chính quy, phần đông trong số họ không có bằng cấp chính quy. Trên thực tế ở rất nhiều nơi việc can thiệp trực tiếp nhằm hỗ trợ giúp đỡ các

143

cá nhân, gia đình và cộng đồng được thực hiện bởi các tình nguyện viên hoặc là những

người đang làm việc bán thời gian với mức lương rất thấp. Vì thế trong giai đoạn hiện nay một mục tiêu rất thiết thực là tất cả các nhà nhân viên CTXH chưa được đào tạo sẽ được hỗ trợ các kỹ năng từ những người đã được đào tạo đầy đủ và bài bản. Các loại hình đào tạo phù hợp cho những người chưa qua đào tạo này bao gồm các cách tiếp

cận hệ thống hơn cho các khoá học tại chức ngắn hạn và điều này nên được nhìn nhận như một phần thiết yếu trong việc đảm bảo chất lượng phòng ngừa vấn đề xã hội ở cấp xã, phường.

Trong rất nhiều lĩnh vực, các cán bộ hiện tại đang làm những công việc của CTXH nhưng lại có những bằng cấp đa dạng khác nhau. Một vài người có bằng cấp liên quan sẽ trở thành nhà nhân viên xã hội nếu có thêm một số các bằng cấp hoặc khoá đào tạo khác, trong khi một vài cán bộ khác thì muốn tập trung hơn vào các công

việc chuyên môn mà họ đã được đào tạo. Cũng như trong một số các dịch vụ như Trung tâm Bảo trợ Xã hội, một số nhân viên xã hội hay phần lớn những người lãnh đạo như giám đốc hay phó giám đốc cũng có thể trở thành những nhà nhân viên xã hội

chuyên nghiệp.

Cần đẩy mạnh tuyển dụng cán bộ, nhân viên CTXH có chất lượng tốt ở các cấp huyện, tỉnh và trung ương. Ở cấp huyện, tỉnh và trung ương với các vài trò thực hành chuyên môn, họ sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong việc tuyển dụng một số lượng đông

đảo các nhà nhân viên xã hội làm công tác lập kế hoạch, hỗ trợ và quản lý cho các chương trình công tác xã hội thực tiễn. Những chuyên gia khác cũng tham gia vào lĩnh vực cung cấp các dịch vụ an sinh xã hội như kế toán và kinh tế nhưng họ lại không hề

có các kỹ năng cơ bản về CTXH. Tuy nhiên tại thời điểm này có rất ít cán bộ làm việc trong các dịch vụ trên có bằng cấp chính quy về CTXH. Thêm vào đó một số lượng nhỏ các nhà nhân viên xã hội được đào tạo có thể đóng góp vào việc lập kế hoạch chương trình, phát triển chính sách và nghiên cứu.

5.2.4.2. Phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ công tác xã hội vận hành bởi các tổ chức phi chính phủ

Mở rộng tạo cơ hội cho các NGO và tổ chức khác đóng góp cho các dịch vụ và

trợ giúp sức khoẻ tâm thần dựa vào cộng đồng:

Hoàn thiện các chính sách xác định các NGO và các tổ chức khác (bao gồm các tổ chức đoàn thể, các hiệp hội phi lợi nhuận và các cơ quan nghiên cứu) là những nhà cung ứng dịch vụ phù hợp đồng thời chính phủ tạo cơ chế tài trợ cho các tổ chức này.

Xúc tiến phát triển các dịch vụ và trợ giúp nhà ở bảo trợ do các NGO và các tổ

144

chức khác cung ứng.

Xúc tiến phát triển các dịch vụ và trợ giúp giáo dục tâm lý gia đình do các NGO

và các tổ chức khác cung ứng.

Xúc tiến phát triển các dịch vụ tư vấn và phục hồi chức năng.

Tăng cường nguồn ngân sách trợ giúp các tổ chức NGO thực hiện các chương

trình, dự án vì cộng đồng nói chung, trong lĩnh vực CSSKTT nói riêng.

5.2.5. Hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác trợ giúp xã hội

Như đã đề cập phân tích, nghề CTXH ở Việt Nam có tính hấp dẫn thấp, việc

phát triển nguồn nhân lực của ngành CTXH gặp nhiều khó khăn. Do đó, thời gian tới, Nhà nước cần có những giải pháp mạnh mẽ hơn, đầu tư quyết liệt hơn cho các định hướng sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh đào tạo ngành CTXH trong các trường Đại học, Cao Đẳng. Với mã ngành CTXH đã được Bộ giáo dục và đào tạo phê chuẩn, một chương trình đào tạo CTXH bốn năm ở cấp quốc gia đã được hình thành dựa trên những khả năng khác nhau theo các nhu cầu đã được xác định ở một số trường đại học cụ thể. Những

sinh viên học ở cấp độ đào tạo này sẽ được học tất cả các khía cạnh của CTXH với mức độ chuyên sâu để có thể có được những đóng góp chuyên nghiệp vào lĩnh vực CTXH, hoặc là sẽ hỗ trợ các đồng nghiệp chưa qua đào tạo chính quy và cũng để có được những công việc ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

Chương trình của Bộ giáo dục và đào tạo định rõ rằng hai môn trong thực hành CTXH nên được xem như là những phần thiết yếu cốt lõi trong các chương trình. Các môn học về tham vấn, CTXH cá nhân, nhóm và phát triển cộng đồng là những môn tạo nên tính đặc thù của các bằng cấp này.

Tuy nhiên, còn tồn tại nhiều khó khăn trong đào tạo ngành CTXH ở các trường Đại học, Cao đẳng. Khó khăn đầu tiên là đội ngũ giảng viên còn chưa hoàn thiện. Đa số giảng viên đều “tay ngang” vào nghề như xã hội học, tâm lý học. Cơ sở thực hành

còn yếu và thiếu. Chính vì vậy, việc khuyến khích các trường Đại học, Cao đẳng quan tâm hơn nữa đến việc nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên là điều cần thiết mà Bộ Giáo dục và đào tạo cần phải thực hiện trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, việc chuẩn hóa chương trình đào tạo cũng cần phải được tính đến bởi vì hiện nay, mỗi trường dạy theo một kiểu khác nhau,nhiều nơi có giảng viên ngành xã hội học dạy thì sẽ bị ảnh hưởng theo kiểu định tính của ngành xã hội học chứ không thực hành. Trong khi đó, ngành CTXH đòi hỏi thực hành theo nhóm,cộng đồng,

145

gia đình nhiều.

Thứ hai, cần có chính sách tuyển dụng nhân lực ngành CTXH vào làm việc tại các cơ sở BTXH. Thực tế ngành CTXH Việt Nam còn thiếu rất nhiều nhân lực, nhưng đa phần sinh viên tốt nghiệp ngành này ra lại không có cơ hội làm việc tại các cơ sở xã hội. Mặc dù hệ thống tiêu chuẩn chức danh ngành CTXH đã được ban hành và đưa

vào thực hiện, song dường như hiệu quả thực tế thì không cao. Theo quan điểm của luận án, để giải quyết mâu thuẫn trên, đòi hỏi Bộ LĐTBXH cần có biện pháp quyết liệt hơn trong việc tuyển dụng nhân lực cho các cơ sở xã hội. Ví dụ như, Bộ yêu cầu đội ngũ cán bộ làm việc tại các cơ sở xã hội phải có trình độ được đào tạo phù hợp với chức danh mà họ đảm nhiệm thì khi đó, các cơ quan quản lý, cơ sở xã hội của Nhà nước, hay cơ sở cung cấp dịch vụ mới tuyển dụng người có chuyên môn CTXH để phục vụ người dân. Từ đó, tránh được tình trạng người học không đúng nghề thì được

nhận vào làm, còn người được đào tạo thì không thể chen chân, gây lãng phí.

Thứ ba, đào tạo, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, nhân viên hiện có của các cơ sở BTXH. Để đào tạo bài bản nhân viên CTXH, chúng ta có thể tham khảo một

vài mô hình rất hay đã được các tổ chức như là UNICEF đưa ra. Cụ thể, ngoài những khoá đào tạo đã được tiến hành cần phải được mở thêm các khóa đào tạo khác. Đối với những người đã và đang được đào tạo thì chúng ta nên cung cấp cho họ những khoá học liên thông lên cấp độ cao đẳng hoặc cao hơn nữa. Cấp độ đào tạo cơ bản này, có

thể được tính như là cấp độ tiền chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, trong 10 năm tới sẽ được đào tạo với một số lượng lớn nhất. Đặc biệt là ở các địa phương, các tổ chức như là Sở LĐTBXH, Trung tâm CTXH, cơ sở BTXH sẽ không thể cung cấp các

loại hình dịch vụ của họ nếu không có đội ngũ được đào tạo này. Những khoá đào tạo như vậy nên được tiến hành liên tục qua hình thức đào tạo tại chức ngắn hạn và với các nội dung có thể là tập trung vào những chủ đề cụ thể về CSSKTT.

Thứ tư, phát triển đội ngũ cộng tác viên CTXH. Với đội ngũ cộng tác viên CTXH thì nên có một sự thoả thuận cho việc học tập chuyển tiếp nâng cao về các kiến thức kỹ năng để có thể tiến tới đạt được mức độ chuyên nghiệp.

Thứ năm, cần có chiến lược hoặc kế hoạch trợ giúp những người không thích hợp với nghề CTXH và họ cần phải chuyển sang làm việc ở một lĩnh vực khác khi mà CTXH đã thực sự trở thành một nghề chuyên nghiệp.

Thứ sáu, xây dựng năng lực cho trung tâm đạo tạo cấp tỉnh để có thể xác định các nhu cầu đào tạo ưu tiên cao, thiết lập tiêu chí lựa chọn vật liệu giảng dạy, hoàn

146

thiện mô hình đào tạo (Ví dụ: đào tạo trực tuyến, cấp chứng nhận) và xác định vật liệu giảng dạy chi phí thấp, chất lượng cao và dễ dàng triển khai.

Phổ cập đào tạo cách thăm khám và xử trí về tâm thần và y khoa cơ bản cho cán bộ TTBTXH và TTCTXH, đảm bảo xác định chính xác bệnh nhân về chẩn đoán và xử trí đúng các triệu chứng

Tạo dựng các đoạn video dùng cho đào tạo giúp cán bộ phát hiện đúng bệnh lý

loạn thần, trầm cảm, rối loạn lo âu, sa sút trí tuệ, động kinh và khuyết tật trí tuệ

Tổ chức đào tạo thực hành xử trí và kỹ năng trị liệu, như các can thiệp tâm lý xã hội, xử trí cơn cấp tính, phục hồi chức năng dạy nghề, can thiệp nhận thức hành vi và

dịch vụ nhà ở bảo trợ

Để đào tạo một số lượng lớn các nhân viên CTXH tại Việt Nam và đạt được lợi ích như dự định, cần phải hoạch định chính sách rất cẩn trọng để làm thế nào mà triển khai tốt nhất các nhân viên này trong lực lượng lao động. Cần phải có kế hoạch nguồn

nhân lực đối với nhân viên CTXH mới đào tạo để bảo đảm phát triển và hoàn thiện các cơ hội việc làm và thực tập. Kế hoạch này sẽ hỗ trợ cho việc lập kế hoạch đào tạo thực hành nhằm đảm bảo cho nhân viên CTXH phát triển nhóm kỹ năng chuyên ngành cần

để đảm nhiệm vai trò hiệu quả trong cung ứng dịch vụ. Cần phát triển chương trình giảng dạy cho các nhân viên CTXH được tuyển dụng vào các vị trí cung ứng dịch vụ SKTT, chương trình này cần hoàn thiện và đạt tiêu chuẩn quốc gia. Điều quan trọng nữa là các nhân viên CTXH phải bảo đảm được đào tạo tốt về các kỹ năng PHCN để

có thể hỗ trợ sự phát triển các dịch vụ gia tăng tại cộng đồng.

5.2.6. Một số giải pháp khác

5.2.6.1. Đẩy mạnh thực hiện chăm sóc sức khỏe tâm thần tại cộng đồng

Chính sách TGXH trong CSSKTT phải hướng vào việc tạo ra môi trường chăm sóc tại gia đình cho đối tượng. Cùng với chính sách hỗ trợ trực tiếp đối với từng đối tượng, cũng cần có chính sách hỗ trợ đối với những hộ gia đình. Với điều kiện cụ thể từng giai đoạn nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách theo hai hướng:

Thứ nhất, đối với gia đình của đối tượng thì trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ thuộc về trách nhiệm của các thành viên gia đình. Nhưng do khó khăn kinh tế (hộ nghèo, hộ cận nghèo...), không có người chăm sóc, không có kiến thức, kinh nghiệm nuôi

dưỡng chăm sóc... thì rất cần có chính sách hỗ trợ của Nhà nước, có thể là trợ cấp hàng tháng, hỗ trợ y tế, hướng dẫn cách làm ăn, tập huấn phương pháp, kỹ năng chăm sóc...

Thứ hai, hỗ trợ hộ gia đình chăm sóc thay thế đối với những trường hợp không có gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng, hoặc có gia đình nhưng thành viên lại là trẻ em,

147

người cao tuổi, những người đang hưởng chính sách TGXH. Chính sách này hiện mới

chỉ thực hiện đối với những cá nhân và hộ gia đình nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, chưa áp dụng đối với NTT, người RNTT. Những NTT nặng không có khả năng tự phục vụ cũng có rất nhiều trường hợp cần đến hộ gia đình chăm sóc, giúp đỡ. Trong giai đoạn tới, cần từng bước mở rộng mô hình gia đình, cá nhân nhận nuôi

và chăm sóc NTT, người RNTT không có khả năng tự phục vụ. Tuy nhiên, việc mở rộng chính sách đối với hộ gia đình theo hướng này cũng cần có kế hoạch, lộ trình thực hiện phù hợp vì đây không phải là vấn đề đơn giản.

5.2.6.2. Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các cơ quan, đơn vị và cộng đồng về chăm sóc sức khỏe tâm thần

Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong khâu tổ chức thực hiện chính sách là do nhận thức. Bao gồm cả nhận thức của các cấp, các ngành, của người

dân và của cả chính bản thân đối tượng hưởng lợi. Điều này đòi hỏi song song với việc hoàn thiện chính sách cần tăng cường tuyên truyền. Đối tượng tuyên truyền bao gồm cả các cơ quan quản lý nhà nước, gia đình, xã hội và nhà nước cần bố trí kinh phí để

thực hiện truyền thông của các cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương với những giải pháp cụ thể:

Thứ nhất, quy định rõ về trách nhiệm các cơ quan, tổ chức phải thực hiện công tác giáo dục, truyền thông về chính sách TGXH trong CSSKTT. Cụ thể về trách nhiệm

gồm: (i) Tất cả các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình đều phải có trách nhiệm giáo dục, truyền thông về TGXH; (ii) UBNX các cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác giáo dục, truyền thông vềTGXH trong

CSSKTT cho nhân dân trên địa bàn địa phương; (iii) Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm ưu tiên về thời điểm, thời lượng phát sóng thông tin, giáo dục, truyền thông về TGXH trong CSSKTT trên đài phát thanh, đài truyền hình; dung lượng và vị trí đăng trên báo in, báo hình, báo điện.

Thứ hai, về nội dung giáo dục, truyền thông bao gồm: Quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của NTT, người RNTT và trách nhiệm của gia đình, nhà nước và xã hội trong việc bảo vệ chăm sóc và giúp đỡ NTT, người RNTT. Quan điểm chủ trương, đường

lối, của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về TGXH trong CSSKTT. Các biện pháp, giải pháp hỗ trợ hiệu quả đối với đối tượng.

5.2.6.3. Nâng cao năng lực tổ chức thực thi chính sách của các đơn vị

Thứ nhất, tăng cường năng lực cán bộ và tổ chức bộ máy thực thi chính sách:

148

(i) Tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện chính sách TGXH trong CSSKTT từ trung ương đến cơ sở, ưu tiên bảo đảm cấp xã có một cán bộ CTXH để

thực hiện nhiệm vụ của ngành LĐTBXH, trong đó có việc thực hiện chính sách TGXH trong CSSKTT.

(ii) Tăng cường phân cấp QLNN về việc tổ chức thực hiện các chính sách TGXH. Việc phân cấp quản lý được thể hiện thông qua phân cấp quản lý đối tượng, cơ

chế phân cấp về tài chính và tổ chức thực hiện chính sách trợ cấp, trợ giúp và giám sát thực hiện chính sách. Thông qua bộ chỉ số giám sát đánh giá cấp trung ương có thể đánh giá địa phương nào thực hiện tốt và địa phương nào thực hiện chưa tốt, qua đó

điều chỉnh chính sách cơ chế thực hiện cho phù hợp.

(iii) Tăng cường số lượng cán bộ để đủ người làm công tác TGXH trong CSSKTT. Cán bộ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, là điều kiện cần và đủ để thực hiện chính sách. Cán bộ bao gồm cả các chuyên gia nghiên cứu hoạch định, xây dựng

chính sách cho đến cán bộ tổ chức thực hiện chính sách ở cơ sở và những nhân viên xã hội giúp đỡ đối tượng.

(iv) Giải quyết tình trạng yếu của cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ cấp xã, cấp huyện

bằng cách tiếp tục tăng cường đào tạo ngắn hạn thông qua việc tổ chức tập huấn theo từng chuyên đề, tập huấn triển khai thực hiện chính sách, thămquan các mô hình... đây là những giải pháp cấp thiết và phù hợp trong thời gian ngắn, nhằm đáp ứng nâng cao năng lực cán bộ cơ sở.

(v) Phát triển nguồn nhân lực cán bộ xã hội và hệ thống mạng lưới tổ chức sử dụng nhân viên CTXH, mạng lưới nhân viên CTXH; hình thành hiệp hội CTXH ở cấp quốc gia để có được đội ngũ nhân viên CTXH chuyên nghiệp, hoạt động có

hiệu quả hơn.

Thứ hai, tăng cường hệ thống theo dõi, giám sát đánh giá thực thi chính sách:

Việc giám sát đánh giá thực hiện chính sách TGXH trong CSSKTT là một nội dung quan trọng trong quá trình đổi mới chính sách và cơ chế TGXH. Trong giai đoạn

tới cần nghiên cứu hoàn thiện trên các phương diện sau:

(i) Thiết lập hệ thống chỉ số, thông tin báo cáo hợp lý ở từng cấp và có phương pháp thu thập thông tin khoa học để bảo đảm có thể thu thập đầy đủ thông tin báo cáo

một cách trung thực nhất. Chỉ tiêu cảnh báo cho các thực hiện chính sách và đo lường mức độ tiến bộ của hệ thống chính sách. Chỉ tiêu gồm: (i) độ bao phủ, bao gồm cả việc so sánh tổng số đối tượng với dân số; (ii) chỉ số tác động (so sánh mức trợ cấp, trợ giúp bình quân với mức sống trung bình của dân cư; (iii) chỉ số về tài chính (so tổng

149

nguồn chi với GDP hoặc ngân sách Nhà nước hoặc chi tiêu của Chính phủ).

(ii) Đổi mới về thủ tục thực hiện, theo dõi giám sát, xác định đối tượng. Thủ tục đơn giản, phân cấp triệt để cho địa phương. Thống nhất quy trình xác định đối tượng thụ hưởng từ cấp xã theo quy trình nhất định. Xã là đơn vị hành chính xác định đối tượng thụ hưởng, cấp huyện, cấp tỉnh cơ quan giám sát huy động nguồn lực thực hiện.

Quá trình xác định đối tượng cần phải bảo đảm được tính đồng thuận của cộng đồng. Từng bước hoàn thiện quy trình quản lý đối tượng theo hồ sơ, danh sách thông qua hệ thống máy tính, hạn chế quản lý thủ công như hiện nay. Để hoàn thiện được các quy

trình quản lý này cần đòi hỏi tăng cường cán bộ cho cấp cơ sở, đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng và đặc biệt là từng bước đầu tư trang thiết bị máy tính cho cấp huyện, xã.

(iii) Tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính sách

và tổ chức thực hiện, nhất là việc xác định đối tượng hưởng trợ cấp, trợ giúp, bảo đảm tính công khai minh bạch trong quá trình tổ chức thực hiện; cần thông báo công khai những người được hưởng trợ cấp trợ giúp, cũng như những người không đủ điều kiện

hưởng chính sách trợ giúp để tạo đồng thuận cao trong nhân dân.

(iv) Duy trì chế độ thông tin báo cáo trung thực và đầy đủ. Cần thiết lập chế độ thông tin báo cáo định kỳ hàng tháng, hàng quý và hàng năm giữa cấp xã/phường với cấp huyện/quận; chế báo cáo hàng quý, 6 tháng, 1 năm giữa cấp huyện/quận với

cấp tỉnh/thành phố; chế độ báo cáo 6 tháng, 1 năm giữa cấp tỉnh/thành phố với cấp trung ương.

(v) Từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đối tượng xã hội và

chi trả trợ cấp, TGXH, nâng cao hiệu quả quản lý và hạn chế sai sót trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách TGXH trong CSSKTT.

5.3. Một số kiến nghị

Dựa trên việc rà soát CSTGXH trên thế giới và thực trạng, đặc thù trong

CSSKTT ở Việt Nam, luận án đưa ra một số kiến nghị sau cho việc xây dựng CSTGXH trong CSSKTT ở Việt Nam.

150

Kiến nghị 1: Do Việt Nam là một xã hội có tính thống nhất tương đối cao, đã quen với quản lý tập trung, và có văn hóa đoàn kết, tương trợ, lá lành đùm lá rách từ lâu đời nên việc xây dựng một chính sách toàn quốc về TGXH trong CSSKTT dựa vào cộng đồng sẽ là hợp lý. Trong xây dựng chính sách này, để phù hợp với các chuẩn và xu hướng quốc tế, Bộ LĐTBXH có thể sử dụng các văn bản mẫu của WHO như “Hướng dẫn Xây dựng hệ thống SKTT” và “Gói hướng dẫn xây dựng chính sách và dịch vụ SKTT”. Nếu không theo hướng này, thì Việt Nam vẫn nên phát triển một nội

dung TGXH trong CSSKTT thống nhất, và lồng ghép vào các văn bản có liên quan; ví dụ như vào Luật khuyết tật, Luật giáo dục, Luật bảo hiểm xã hội, Luật an sinh xã hội, Luật khám - chữa bệnh, v.v...

Kiến nghị 2: Là một nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa nhưng lại có nền kinh tế thị trường và có một phần dân số khá lớn là lao động tự do, độc lập (ví dụ nông dân, tiểu thương, thường không có bảo hiểm và các chế độ phúc lợi từ lao động), Việt Nam nên xây dựng một chính sách TGXH theo mô hình như sau: chính sách TGXH nên

chia các cấp độ phủ khác nhau: phủ toàn dân ở một số mảng, cho một số đối tượng; phủ cho đối tượng có tham gia lao động ở một số mảng; và chỉ phủ cho đối tượng chính sách ở một số mảng. Ví dụ, các vấn đề hỗ trợ sàng lọc, phát hiện sớm, can thiệp sớm, cung cấp dịch vụ trị liệu xã hội về SKTT ở trẻ em và thanh thiếu niên, hoặc với

người bị các bệnh tâm thần nặng, hoàn toàn mất khả năng lao động thì nên phủ toàn dân, nghĩa là không phân biệt đối tượng thuộc diện hộ gia đình nghèo hay không, bao nhiêu tuổi. Đối với người có khả năng lao động, hoặc từng lao động thì các chính sách

hỗ trợ thu nhập, nhà ở, việc làm nên được tính toán tùy theo tình trạng mất sức lao động, khả năng phục hồi lao động, và thu nhập.

Kiến nghị 3: Khi xem xét xây dựng chính sách TGXH trong CSSKTT, để có một chính sách toàn diện, trước tiên nên xây dựng một mô hình chăm sóc hệ thống

(systems of care framework) cho người có vấn đề về SKTT và gia đình họ; sau đó, phát triển các chính sách, chương trình, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của từng tiểu hệ thống trong hệ thống lớn. Đây đang là mô hình tiên tiến nhất mà các nước theo đuổi.

Tại Việt Nam, khi xây dựng mô hình này, cần tính tới các đặc điểm của người có vấn đề về SKTT ở Việt Nam cũng như điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của Việt Nam.

Kiến nghị 4: Chính sách TGXH nên hướng tới việc ngăn ngừa, can thiệp sớm

và hỗ trợ, chứ không thay thế vĩnh viễn, trừ với một số đối tượng đặc biệt.

Kiến nghị 5: Chính sách TGXH phải nhằm vào cả hai đối tượng: người có vấn đề SKTT và các đối tượng xung quanh người có vấn đề về SKTT như chủ lao động, đồng nghiệp, gia đình, giáo viên, nhà trường, và cộng đồng.

Kiến nghị 6: Chính sách TGXH phải dựa vào cộng đồng và triển khai ở cộng đồng, thông qua nhiều kênh - gồm có kênh chăm sóc sức khỏe ban đầu (primary care), kênh trường học, hệ thống hành pháp - tư pháp, các tổ chức lao động, các tổ chức tôn giáo - xã hội, và các trung tâm cộng đồng.

151

Kiến nghị 7: Nhà nước nên phát triển cả các chính sách và chương trình trong đó Nhà nước chỉ tạo lập các nguồn ngân sách chung cho các hoạt động TGXH trong

CSSKTT; còn để cho các tổ chức ở địa phương, bao gồm cả tổ chức Nhà nước lẫn tư nhân, chính phủ và phi chính phủ được viết đề án xin ngân sách để cung cấp dịch vụ. Đồng thời, nên khuyến khích phát triển các hình thức TGXH thông qua các kênh không chính thức và phù hợp với văn hóa Việt Nam N liên quan đến SKTT (informal

social support systems), ví dụ thông qua hệ thống chùa.

Kiến nghị 8: Trẻ em và thanh thiếu niên cần được ưu tiên đặc biệt khi xây dựng chính sách và chương trình TGXH trong CSSKTT, với mục tiêu ngăn ngừa từ xa, nhất

là với các nhóm có nguy cơ cao như trẻ em thuộc gia đình nghèo, trong cộng đồng có điều kiện vệ sinh và đời sống thấp, cộng đồng phải di rời, trong vùng xung đột, mới trải qua thiên tai hoặc sang chấn, trẻ có bố mẹ có vấn đề về SKTT, trong gia đình đang trải qua các đứt gãy tình cảm, vv...

Kiến nghị 9: Chính sách cần dựa trên các kết quả nghiên cứu về nhu cầu TGXH của những đối tượng có liên quan tới chính sách chứ không nên duy ý chí hoặc áp dụng nguyên của nước ngoài. Ít nhất, cần nghiên cứu sâu về một số mảng như: nhu

cầu các dịch vụ xã hội của người bệnh tâm thần và thân nhân của họ; năng lực cung cấp các dịch vụ xã hội của cộng đồng; các con đường tìm kiếm trợ giúp xã hội chính thức và không chính thức của người bệnh tâm thần và gia đình họ; vv...

Kiến nghị 10: Để có thể triển khai thành công chính sách và chương trình TGXH trong CSSKTT, Việt Nam cần đào tạo nhân viên CTXH, đặc biệt là nhân viên CTXH làm việc trong lĩnh vực CSSKTT, để có nhân lực hoạt động trong các dịch vụ TGXH. Ở hầu hết các nước, nhân viên CTXH là lực lượng chủ yếu làm các công việc

này, bao gồm cả trị liệu tâm lý - xã hội, tới trợ giúp tại gia, trợ giúp tìm việc, nhà ở, giáo dục người bệnh, gia đình và cộng đồng về SKTT, vận động chính sách, vận động quyền của người có vấn đề về SKTT, vv... Hoặc trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam chưa có điều kiện đào tạo nhiều nhân viên CTXH có chuyên môn về SKTT (tại các

nước, những nhân viên CTXH này phải thi lấy chứng chỉ hành nghề và phải thực hành dưới sự giám sát trong 2 năm mới được bắt đầu thực hành độc lập) thì Việt Nam có thể đi theo con đường mà WHO và nhiều nước phát triển từng trải qua: đào tạo kỹ năng

CTXH cho nhân viên y tế hiện tại ở các cơ sở CSSKTT. Trong lịch sử của Mỹ, nhân viên CTXH trong các bệnh viện bắt đầu từ y tá được đào tạo thêm về kỹ năng CTXH để cung cấp các dịch vụ TGXH. Đây sẽ là một hướng khả thi cho Việt Nam. Nhưng để triển khai mô hình này và lồng ghép vào hệ thống CSSKTT tại các bệnh viện và ở cơ

152

sở thì VN cần có các nghiên cứu cụ thể để thử nghiệm mô hình lồng ghép hiệu quả nhất, hợp lý nhất.

KẾT LUẬN

Tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam cơ bản đã xây dựng được khá đầy đủ hệ

thống CSSKTT từ cấp Trung ương đến địa phương. Chúng ta cũng đã dần xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chính sách TGXH trong CSSKTT theo xu hướng quốc tế và phù hợp với điều kiện nguồn lực của Việt Nam. Kết quả đạt được của các chính sách là

không thể phủ nhận, một bộ phận NTT, người RNTT và gia đình họ đã có cuộc sống dễ chịu hơn. Các chính sách TGXH trong CSSKTT góp phần tích cực vào việc hoàn thành mục tiêu ASXH của đất nước. Song, bên cạnh những kết quả đạt được thì hệ thống chính sách TGXH trong CSSKTT của Việt Nam vẫn còn tồn tại khá nhiều điểm hạn chế, hạn

chế từ việc hoạch định đến tổ chức thực thi chính sách; nguồn lực cho chính sách hạn hẹp, nhân lực thiếu thốn và chất lượng thấp, tính hấp dẫn của ngành thấp. v.v... Chính vì vậy, việc nghiên cứu nhằm tìm kiếm các giải pháp đổi mới, hoàn thiện chính sách TGXH trong CSSKTT theo hướng trị liệu tâm lý kết hợp với phát triển dịch vụ trợ giúp CTXH cho đối tượng là điều cần thiết.

Luận án “Chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam” được tiến hành nghiên cứu với mục đích sau cùng là tìm kiếm các giải pháp có căn cứ khoa học nhằm đổi mới, cải thiện, nâng cao hiệu quả của các chính sách TGXH trong CSSKTT. Từ đó, đảm bảo thực hiện thành công mục tiêu của công tác ASXH ở Việt Nam, đồng thời góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Qua quá trình nghiên cứu, luận án đã đạt được những kết quả cụ thể như sau:

Thứ nhất, luận án đã khái quát hóa các vấn đề về chính sách TGXH trong CSSKTT, xây dựng khung lý luận cho nghiên cứu về chính sách TGXH trong CSSKTT dựa trên những kiến thức thực tế đã được công nhận trong các công trình

nghiên cứu khoa học có liên quan cả ở trong và ngoài nước. Trong đó, luận án đi sâu vào làm rõ: 05 chính sách TGXH trong CSSKTT cơ bản; làm rõ các tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả và các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách TGXH trong CSSKTT. Có

thể khẳng định rằng, nội dung lý luận mà luận án đã xây dựng là sự kế thừa có chọn lọc và phát triển của NCS.

153

Thứ hai, luận án vẽ bức tranh tổng thể về thực trạng chính sách TGXH trong CSSKTT ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015 với nguyên tắc đảm bảo tính thời sự, logic và khoa học. Trong quá trình phân tích, đánh giá, luận án sử dụng hệ thống số liệu thực tế có độ chính xác cao, kết hợp với việc tham khảo ý kiến của 03 nhóm đối tượng có liên quan đến hoạch định và tổ chức thực thi chính sách TGXH trong CSSKTT,

gồm:50 cán bộ làm việc tại Cục Bảo trợ xã hội (thuộc Bộ LĐTBXH), 30 đại diện của các cơ sở BTXH trong cả nước, 500 hộ gia đình có người tâm mắc bệnh tâm thần và có nhận được hỗ trợ từ phía chính sách. Mục đích của việc làm này là để luận án có được cái nhìn đánh giá chính xác và khách quan nhất về thực trạng chính sách TGXH

trong CSSKTT. Kết quả đạt được đó là luận án đã xác định được: điểm mạnh, điểm yếu cũng như xác định rõ các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách TGXH trong CSSKTT ở Việt Nam.

Thứ ba, luận án tiến hành đề xuất quan điểm, mục tiêu hoàn thiện chính sách TGXH trong CSSKTT ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến 2025 và tập trung đề xuất 06 nhóm giải pháp dựa trên kết quả phân tích thực trạng cùng với việc đánh giá các điều kiện nguồn lực cho thực hiện chính sách TGXH trong CSSKTT ở Việt Nam.

Trong quá trình thực hiện luận án, mặc dù NCS đã cố gắng tỉ mỉ sàng lọc, lựa chọn, xử lý thông tin phục vụ cho việc phân tích, đánh giá. Tuy nhiên, do năng lực nghiên cứu của bản thân NCS còn hạn chế, cũng như hạn chế về nguồn lực nghiên

cứu, do đó, thiếu sót trong luận án là khó có thể tránh khỏi. Chính vì vậy, NCS rất mong muốn nhận được những nhận xét, góp ý quý báu của thầy, cô giáo, các chuyên gia, đồng nghiệp,... để bản luận án có thể được hoàn thiện hơn.

Luận án được hoàn thành dưới sự giúp đỡ lớn lao từ phía giáo viên hướng dẫn, anh

chị em đồng nghiệp và gia đình, bạn bè. NCS một lần nữa bày tỏ sự cảm ơn chân thành!

154

Trân trọng!

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Văn Hồi (2012), “Công tác trợ giúp sức khỏe người rối loạn

tâm trí và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Lao động và Xã hội, Số 437

từ 16-31/8/2012, trang 46.

2. Nguyễn Văn Hồi (2015), “Kết quả 4 năm thực hiện Đề án 1215 và

một số định hướng”, Tạp chí Lao động và Xã hội, Số 516 từ 01-

15/12/2015, trang 02.

3. Nguyễn Văn Hồi, “Đề án bảo trợ xã hội và phục hồi chức năng cho

người tâm thần dựa vào cộng đồng”, Kỷ yếu Hội nghị triển khai đề

án phát triển nghề công tác xã hội, Quảng Ninh.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Alexander Lourdes Samy, ZaIlraFazli Khalaf, và Wah-Yun Low (2015), Mental Health in the Asia-Pacific Region: An Overview. International Journal of

Behavioral Science 2015, Behavioral Science Research Institute 2015, Vol. 10, Issue 2, 918.

2. Anindya Das (2014), The context of formulation of India's Mental Health

Program: implications for global mental health, Asian Journal of Psychiatry.

3. Anna Melke (2006), Mental health policy and the welfare state: A study on how Sweden, France and England have addressed a target group at the margins, Doctoral thesis University of Gothenburg, Gothenburg, Sweden.

4. Anne Becker, Arthur Kleinman (2013), Mental Health and the Global Agenda,

NEJM.org.

5. Australian Institute of Health and Welfare (2013), Mental health services in

Australia, Australia.

6. BasicNeeds (2011), Báo cáo đánh giá: “Phân tích thực trạng ban đầu” thuộc Dự án: Hỗ trợ phát triển mô hình Sức khoẻ tâm thần cộng đồng và phát triển tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Hà Nội.

7. Bộ LĐTBXH (1997), Thông tư số 06/LĐTBXH ngày 20/081997 về việc Cấp phát,

sử dụng, thanh toán tiền chân tay giả và dụng cụ chỉnh hình, Hà Nội.

8. Bộ LĐTBXH (2010), Dự án Đánh giá thực trạng hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm

trí thuộc quản lý của Bộ LĐTBXH, Hà Nội.

9. Bộ LĐTBXH (2012), Quyết định số 1364/QĐ-LĐTBXH Phê duyệt quy hoạch mạng lưới cơ sở BTXH chăm sóc và PHCN cho NTT, người RNTT dựa vào cộng đồng giai đoạn 2012-2020, Hà Nội.

10. Bộ LĐTBXH (2013), Thông tư số 07/2013/TT-BLĐTBXH ngày 24/05/2013 về việc quy định tiêu chuẩn nghiệp vụ cộng tác viên công tác xã hội xã, phường, thị trấn, Hà Nội.

11. Bộ LĐTBXH (2015), Báo cáo Đánh giá kết quả thực hiện Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí giai đoạn 2011- 2015 và định hướng giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.

12. Bộ LĐTBXH (2015), Báo cáo Kết quả thực hiện dự án bảo vệ SKTT cộng đồng

giai đoạn 2011-2015, Hà Nội.

13. Bộ LĐTBXH, Bộ Nội Vụ (2015), Thông tư Liên tịch số 30/2015/TTLT-BLĐTBXH- BNV ngày 19/08/2015 Quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành CTXH, Hà Nội.

14. Bộ LĐTBXH, UNICEF (2015), Đánh giá hệ thống dịch vụ sức khoẻ tâm thần

Ngành Lao động Xã hội, Hà Nội.

15. Bộ Nội vụ (2010), Thông tư Số: 08/2010/TT-BNV ngày 25/08/2010 Ban hành chức

danh, mã số các ngạch viên chức công tác xã hội, Hà Nội.

16. Bộ Y tế (2010), Chương trình mục tiêu quốc gia Ngành Y tế giai đoạn 2011-2015,

Hà Nội.

17. Bộ Y tế, Nhóm đối tác y tế (2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016), Báo cáo

chung tổng quan Ngành Y tế các năm từ 2010 đến 2016, Hà Nội.

18. Chính phủ (2000), Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09/03/2000 về chính sách

cứu trợ xã hội, Hà Nội.

19. Chính phủ (2007), Nghị định Số: 67/2007/NĐ-CP Về chính sách trợ giúp các đối

tượng bảo trợ xã hội, Hà Nội.

20. Chính phủ (2010), Nghị định Số: 13/2010/NĐ-CP Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, Hà Nội.

21. David Kiima, Rachel Jenkins (2010), Mental health policy in Kenya -an integrated approach to scaling up equitable care for poor populations, International Journal of Mental Health Systems, UK.

22. Department of Health and Human Services (1999), Mental Health: A report of the surgeon general, Pearson Education Inc-Allyn and Bacon-US.Public Health Service, USA.

23. Dinsa Sachan (2013), Mental health bill set to revolutionise care in India, The

Lancet, UK.

24. Donna R. Kemp (1993), International Handbook on Mental Health Policy,

Greenwood Publishing Group, USA.

25. Đoàn Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2012), Giáo trình Chính sách kinh tế,

Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

26. Đông Thị Hồng (2015), Đảm bảo An sinh xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội,

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

27. Grand Challenges Canada, Hội phụ nữ tỉnh Bắc Giang (2012), Dự án Phụ nữ chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc sức khỏe tâm trí từ các ví dụ điển hình tích cực tại cộng đồng, Bắc Giang.

28. Harry Minas (2009), Reform of the system of MOLISA centres for persons with severe mental disorders, Briefing nots for meeting at MOLISA ong 16 July 2009; Preliminary thoughts.

29. Hiroto Ito, Lloyd Sederer (1999), Mental Health Services Reform in Japan,

Harvard Review of Psychiatry, Japan.

30. Hồ thị Hải Yến (2007) Các nhân tố quốc tế ảnh hưởng và hệ thống an sinh xã hội ở

một số nước, Chuyên đề tham gia đề tài KX02.02/06-10.

31. Jean-Pierre Cling, Mireille Razafindrakoto, François Roubaud (2008), Đánh giá tác động của các chính sách công: thách thức, phương pháp và kết quả, Khóa học Tam Đảo.

32. Jerry L. Johnson và George Grant. Jr (2005), Mental health, Pearson Education

Inc-Allyn and Bacon, USA.

33. Jose Miguel Caldas de Almeida, Helen Killaspy (2011), Long-term mental health

care for people with severe mental disorders, European Union.

34. K S Jacob (2007), Mental health systems in countries: where are we now?, The

Lancet, UK.

35. Kelley Lee et. Al (2015), The Political Economy of Mental Health in Vietnam: Key Lessons for Countries in Transition. Asia and the Pacific Policy Studies, Vol. 2,

Issue 2, pages 266-279.

36. Mai Ngọc Anh (2009), An sinh xã hội đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

37. Martin Knapp, David McDaif, Elias Mossialos, Graham Thornicroft (2007), Mental health policy and practice across Europe. The future direction of mental health care, Open University, UK.

38. Maye A Omar (2010), Mental health policy process: a comparative study of Ghana, South Africa, Uganda and Zambia, International Journal of Mental Health Systems, UK.

39. Mental Health Commission of Canada (2012), Changing directions, changing

lives: The mental health strategy for Canada, National Library of Canada.

40. Michael Phillips (2013), China’s New Mental Health Law: Reframing Involuntary

Treatment, American Journal of Psychiatry, USA.

41. Nguyễn Công Khanh (2000), Tâm lý học trị liệu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

42. Nguyễn Hải Hữu (2007), Giáo trình nhập môn An sinh xã hội, Nxb Lao đông - Xã

hội, Hà Nội.

43. Nguyễn Khắc Viện (1999), Tâm lý học lâm sàng trẻ em Việt Nam, Nxb Y học, Hà

Nội.

44. Nguyễn Minh Tuấn (2002), Các rối loạn tâm thần: Chẩn đoán và điều trị, Nxb Y

học, Hà Nội.

45. Nguyễn Ngọc Hường (2015), Báo cáo Tổng quan nghiên cứu chính sách trợ giúp

xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần trên thế giới, MOLISA.

46. Nguyễn Ngọc Toản (2010), Chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên cộng đồng ở

Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

47. Nguyễn Thị Lan Hương, Đặng Kim Chung, Lưu Quang Tuấn, Nguyễn Bích Ngọc, Đặng Hà Thu (2013), Phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội.

48. Nguyễn Văn Định (2008), Giáo trình An sinh xã hội, Nxb Đại học Kinh tế Quốc

dân, Hà Nội.

49. Nguyễn Văn Hồi, Trần Tuấn (2011), Đánh giá các mô hình CSSKTT do các tổ

chức phi chính phủ tại Việt Nam vận hành, Hà Nội.

50. Nguyễn Văn Hồi, Trần Tuấn (2011), Đánh giá Thực trạng Hệ thống CSSKTT của

nghành LĐTBXH, Hà Nội.

51. Quốc hội (2002), Luật Ngân sách nhà nước Số: 01/2002/QH11, Hà Nội.

52. Quốc hội (2012), Luật Lao động số: 10/2012/QH13, Hà Nội.

53. Quốc hội (2014), Luật Giáo dục nghề nghiệp số: 74/2014/QH13, Hà Nội.

54. Quốc hội khóa XIII (2015), Báo cáo Kết quả giám sát việc thực hiện chính sách,

pháp luật về người khuyết tật, Hà Nội.

55. Rachel Jenkins, Ahmed Heshmat, Nasser Loza, Inkeri Siekkonen, Eman Sorour (2010), Mental health policy and development in Egypt - integrating mental health

into health sector reforms 2001-9, International Journal of Mental Health Systems, UK.

56. Rachel Jenkins, Florence Baingana, Raheelah Ahmad, David McDaid, Rifat Atun (2011), International and national policy challenges in mental health, Mental

Health in Family Medicine, USA.

57. Richard Frank, Sherry Glied (2006), Better But Not Well: Mental Health Policy in

the United States since 1950, Johns Hopkins University, USA.

58. Robert Desjarlais, Leon Eisenberg, Byron Good, Arthur Kleinman (1995), World Mental Health: Problems and priorities in low-income countries, Oxford University, USA.

59. RTCCD (2006), Gánh nặng rối nhiễu tâm trí trong dân chúng Đà Nẵng, Khánh

Hòa, Hà Nội.

60. RTCCD (2008), Rối nhiễu tâm trí ở mẹ thời kỳ chu sinh và ảnh hưởng đên sức

khỏe và phát triển của con, Hà Nội.

61. RTCCD (2009), Rối nhiễu tâm trí ở bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS, Quảng Ninh, Hà Nội.

62. RTCCD (2010), Báo cáo Khảo sát các mô hình CSSKTT phát triển bởi các tổ chức

phi chính phủ ở Việt Nam, Hà Nội.

63. RTCCD (2011), Tỷ lệ rối nhiễu tâm trí ở bà mẹ và trẻ em tại năm tỉnh dự án Young

Lives, Hà Nội.

64. RTCCD (2013), Dự án Xây dựng mô hình điểm về TGXH và PHCN cho người rối

nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng tại tỉnh Bến Tre và Thanh Hóa, Hà Nội.

65. RTCCD, MOLISA, UNICEF, (2010), Đánh gá mô hình/sáng kiến chăm sóc SKTT và phục hồi chức năng người bệnh tâm thần do các tổ chức phi chính phủ vận hành tại Việt Nam, Hà Nội.

66. Sheu Tsuey Chong, M. S. Mohamad, A. C. Er (2013), The Mental Health Development in Malaysia: History, Current Issue and Future Development, Asian Social Sciences, Canada.

67. Từ điển bách khoa Việt Nam (2003), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

68. The Economist Intelligence Unit (2016), Mental health and integration - Provision for supporting people with mental illness: A comparison of 15 asia pacific countries, London, New York, Hongkong, and Geneva, The Economist Intelligence Unit.

69. Thủ tướng Chính phủ (1994), Quyết định 167/TTg ngày 08/04/1994 về việc sửa

đổi, bổ sung một số chế độ trợ cấp đối với đối tượng cứu trợ xã hội, Hà Nội.

70. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/03/2010

Phê duyệt Đề án phát triển Nghề CTXH giai đoạn 2010-2020, Hà Nội.

71. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định Số: 1215/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020, Hà Nội.

72. UNICEF (2005), Nghiên cứu nguồn nhân lực và nhu cầu đào tạo cho phát triển

công tác xã hội ở việt Nam, Hà Nội.

73. UNICEF Việt Nam (2006), Tổng quan về công tác xã hội ở Việt Nam, Hà Nội.

74. Ủy ban các Vấn đề Xã hội của Quốc Hội (2011), Báo cáo của BYT tại Ủy ban các Vấn đề Xã hội của Quốc Hội về đề xuất Chương trình Mục tiêu Quốc gia (trong đó có dự án CSSKTT cộng đồng); Hà Nội.

75. Vikram Patel (2007), Treatment and prevention of mental disorders in low-income

and middle-income countries, The Lancet, UK.

76. Vikram Patel (2007), Treatment and prevention of mental disorders in low-income

and middle-income countries, The Lancet, UK.

77. Vikram Patel(2008), The Lancet's Series on Global Mental Health: 1 year on, The

Lancet, UK.

78. Võ Văn Bản (2002), Thực hành điều trị tâm lý, Nxb Y học, Hà Nội.

79. WHO (2004), Hướng dẫn xây dựng chính sách SKTT, Geneva, Switzerland.

80. WHO (2006), Constitution of the World Health Organization - Basic Documents,

Forty-fifth edition, Supplement.

81. WHO (2007), Guidelines on Mental Health and Psychosocial Support in

Emergency Settings, Agency standing committee IASC.

82. WHO (2008), Integrating mental health into primary care: A global perspective,

Singapore.

83. WHO (2009), Improving health systems and services for mental health, Geneva,

Switzerland.

84. WHO (2011), Đánh giá thực trạng Hệ thống CSSKTT thuộc quản lý của Bộ

LĐTBXH, Hà Nội.

85. WHO (2011), Mental Health Atlas 2011, Italy.

86. WHO (2011), The determinants of health, Geneva, Switzerland.

in mental health: Evidence 87. WHO (2013), Investing for action, Geneva,

Switzerland.

88. WHO (2013), Mental health action plan 2013-2020, The WHO Document

Production Services, Geneva, Switzerland.

89. WHO (2014), The world health report 2001 - Mental Health: New Understanding,

New Hope, Geneva, Switzerland.

90. WHO, Tổng hội Y học Việt Nam, Bệnh viện Tâm thần TW I (2007), Dự án Đánh giá chi phí - lợi ích mô hình chăm sóc sức khoẻ tâm trí dựa vào cộng đồng tại Hà Tây và Hà Nam, Hà Nội.

Các trang web:

http://btxh.gov.vn

http://www.moj.gov.vn

http://www.molisa.gov.vn

http://thuvienphapluat.vn

http://www.nhandan.com.vn

http://legal.moit.gov.vn

http://m.giadinhvatreem.vn

http://www.congtacxahoiquangninh.vn

http://moh.gov.vn

http://nld.com.vn

http://infonet.vn

http://www.ncseif.gov.vn

http://www.sggp.org.vn

https://www.nami.org

www.hanoi.gov.vn

v.v...

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

Phiếu khảo sát đối với cán bộ làm việc tại Cục Bảo trợ xã hội

Tên tôi là Nguyễn Văn Hồi, là NCS tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hiện

nay, tôi đang thực hiện nghiên cứu luận án đề tài: “Chính sách trợ giúp xã hội trong

chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam”. Mục tiêu nghiên cứu là phân tích thực

trạng chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam trong

giai đoạn 2011-2015, qua đó, đánh giá hiệu lực, hiệu quả, điểm mạnh, điểm yếu của

chính sách; đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách này trong

giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025.

Tôi rất mong quý Ông/Bà dành chút thời gian tham gia nghiên cứu này bằng

việc trả lời các câu hỏi trong phía khảo sát dưới dây. Những thông tin mà quý Ông/Bà

cung cấp sẽ là tài liệu quý giá cho việc hoàn thành nghiên cứu và sẽ được đảm bảo bí

mật, chỉ dành cho mục đích nghiên cứu.

Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Ông/Bà!

I. Phần thông tin về người trả lời

1. Họ và tên: .....................................................................................

2. Giới tính: 1. Nam 2. Nữ

3. Độ tuổi: 1. Dưới 30 tuổi 2. Từ 30-40 tuổi

4. Trên 50 tuổi 3. Từ 40-50 tuổi

4. Thâm niêm công tác: 1. Dưới 05 năm 2. Từ 05 đến 10 năm

3. Trên 10 năm

5. Học vấn: 1. Cao đẳng 2. Đại học 3. Trên đại học

6. Vị trí công tác: ................................................................................

Phần II: Phần câu hỏi

Xin ông/bà cho biết mức độ đánh giá của ông/bà đối với các phát biểu dưới đây

với quy ước như sau:

1 2 3 4 5

Không tốt Bình thường Tốt Rất tốt

Rất không tốt

Sau đây là bảng câu hỏi:

Mức độ đánh giá

Nội dung đánh giá

TT 1 2 3 4 5

1

Mức độ tuân thủ chính sách của các cơ quan, đơn vị trong tổ chức thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

Mức độ nhận thức của lãnh đạo các cơ quan, đơn vị đối với công tác chăm sóc SKTT

1.1 1 2 3 4 5

Mức độ chấp hành của các cơ quan, đơn vị trong thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

1.2 1 2 3 4 5

Mức độ đóng góp xây dựng, hoàn thiện chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT của các cơ quan, đơn vị

1.3 1 2 3 4 5

2 Hiệu quả thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

Mức độ phối hợp (giữa Trung ương và địa phương) trong thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

2.1 1 2 3 4 5

2.2 Tính khả thi của các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT 1 2 3 4 5

Mức độ thực hiện mục tiêu trong tổ chức thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

2.3 1 2 3 4 5

3 Tính kinh tế của chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

Mức độ chi tiết của kế hoạch kinh phí thực hiện các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

3.1 1 2 3 4 5

Tính hiệu quả trong sử dụng kinh phí thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

3.2 1 2 3 4 5

3.3 So sánh kết quả đạt được với kinh phí sử dụng của các chính 1 2 3 4 5

Mức độ đánh giá

Nội dung đánh giá

sách TGXH trong chăm sóc SKTT

TT 1 2 3 4 5

4 Đánh giá kết quả thực hiện các chính sách bộ phận

4.1 Chính sách TCXH 1 2 3 4 5

4.2 Chính sách phát triển cơ sở BTXH 1 2 3 4 5

4.3 Chính sách đào tạo nghề và tạo việc làm 1 2 3 4 5

4.4 Chính sách phát triển các dịch vụ CTXH 1 2 3 4 5

1 2 3 4 5 4.5 Chính sách phát triển nguồn nhân lực làm công tác TGXH

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của ông/bà./.

Phụ lục 2

Phiếu khảo dành cho các Trung tâm BTXH và Trung tâm nuôi dưỡng

người tâm thần

Tên tôi là Nguyễn Văn Hồi, là NCS tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hiện

nay, tôi đang thực hiện nghiên cứu luận án đề tài: “Chính sách trợ giúp xã hội trong

chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam”. Mục tiêu nghiên cứu là phân tích thực

trạng chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam trong

giai đoạn 2011-2015, qua đó, đánh giá hiệu lực, hiệu quả, điểm mạnh, điểm yếu của

chính sách; đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách này trong

giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025.

Tôi rất mong quý Ông/Bà dành chút thời gian tham gia nghiên cứu này bằng

việc trả lời các câu hỏi trong phía khảo sát dưới dây. Những thông tin mà quý Ông/Bà

cung cấp sẽ là tài liệu quý giá cho việc hoàn thành nghiên cứu và sẽ được đảm bảo bí

mật, chỉ dành cho mục đích nghiên cứu.

Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Ông/Bà!

I. Phần thông tin về người trả lời

1. Họ và tên: ..............................................................................................................

Nam Nữ 2. Giới tính:

3. Tuổi: ......................................................................................................................

4. Đơn vị/bộ phận công tác: .......................................................................................

5. Địa chỉ nơi Ông/Bà làm việc: .................................................................................

6. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao nhất đạt được

6.1 Trình độ đào tạo

- Chưa qua đào tạo

- Sơ cấp, Trung cấp

- Cao đẳng

- Đại học

- Trên Đại học

6.2. Chuyên ngành đào tạo: ............................................................................

7. Chức danh (ghi đầy đủ, rõ ràng tên gọi, chức vụ được phân công làm việc):

..................................................................................................................................

8. Thời gian làm việc tại đơn vị: ...............................................................................

Phần II. Thông tin về Trung tâm

9. Ông/Bà có biết diện tích đất của Trung tâm?

9.1. Diện tích đất tự nhiên: ................................ m2 Bình quân/đối tượng: ........................................ m2/đối tượng 9.2. Diện tích đã xây dựng: ............................... m2 9.3. Diện tích bình quân phòng ở của một đối tượng: ................ m2/đối tượng

9.4. Cơ sở có những công trình nào sau đây:

STT Các công trình m2

Khu nhà ở 1

Khu nhà bếp 2

Khu làm việc cho cán bộ 3

Khu vui chơi, giải trí 4

Hệ thống cấp, thoát nước 5

Hệ thống điện 6

Đường đi nội bộ 7

8 Khu sản xuất và lao động

9 Đường đi dành cho người khuyết tật

10 Khu/nhà trị liệu, phục hồi chức năng

11 Cảnh quan môi trường

12 Khác, cụ thể: › › › › › › › › › › › ›

10. Tình hình về cán bộ, nhân viên của cơ sở

10.1. Tổng số cán bộ, công nhân viên: ........................ người

Trong đó, nữ có: .......................................................... người

10.2. Trình độ đào tạo

Trình độ đào tạo Số TT Số lượng (người)

Số lượng đào tạo chuyên ngành phù hợp với công tác xã hội (công tác xã hội, tâm lý, xã hội học, giáo dục đặc biệt...)

1 Trên đại học

2 Đại học

3 Cao đẳng

4 Trung cấp

5 Sơ cấp, công nhân kĩ thuật

6 Chưa qua đào tạo

11. Định biên cán bộ theo vị trí công việccủa cán bộ viên chức tại cơ sở:

Stt Chức danh Số lượng (người) Trong đó nữ

1 Giám đốc

2 Phó giám đốc

3 Trưởng/phó phòng (ban)

4 Nhân viên chăm sóc trực tiếp các đối tượng

5 Nhân viên tư vấn, tham vấn đối tượng

6 Cán bộ cộng tác viên CTXH

7 Nhân viên làm công tác dinh dưỡng (tiếp phẩm, nấu ăn)

8 Kỹ thuật viên phục hồi chức năng

9 Y tá, bác sỹ

10 Giáo viên dạy văn hoá, dạy nghề

11 Nhân viên hành chính, văn thư

12 Kế toán

13 Lái xe

14 Nhân viên phụ trách điện, nước

15 Bảo vệ

16 Nhân viên khác, cụ thể:

Tổng cộng

12. Hiện nay Trung tâm đang nuôi dưỡng bao nhiêu đối tượng có vấn đề về sức khỏe

tâm thần: ................................................. người

Trong đó, số đối tượng được gia đình đưa về chăm sóc ở cộng đồng: ............. người

13. Hiện nay ở Trung tâm người bị tâm thần, người bị rối nhiễu tâm trí có được tư vấn

không?

Có Không

14. Trung tâm có hoạt động phục hồi chức năng cho bệnh nhân tâm thần không?

Có Không

15. Hình thức phục hồi chức năng?

Vận động Trị liệu tâm lý Lao động liệu pháp

16. Cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện tại:

- Đáp ứng nhu cầu chăm sóc, điều trị bệnh nhân tâm thần nặng

- Chưa đáp ứng được nhu cầu hiện tại

17. Ý kiến của Trung tâm về cơ sở vật chất trong thời gian tới

- Cấp trang thiết bị y tế để điều trị

- Cấp trang thiết bị, dụng cụ để phục hồi chức năng

- Cấp kinh phí để sửa chữa, xây mới phòng bệnh

- Cấp kinh phí để sửa sang môi trường: Sân, đường, cây cối...

- Cấp kinh phí để sửa chữa hệ thống điện đảm bảo an toàn

- Cấp kinh phí để lắp đặt hệ thống nước máy/ xây dựng bể lọc nước

- Khác: ...........................................................................................................

18. Ông/Bà cho biết hiện nay Trung tâm mình đang sử dụng các loại trang thiết bị

phục vụ cho việc chăm sóc và PHCN cho người tâm thần?

Mức độ đáp ứng để phục vụ

STT Rất tốt Tốt Số trang thiết bị hiện có Giá trị (ước tính) triệu đồng Nhu cầu trang thiết bị Bình Thường

19. Ông/Bà thấy khó khăn, vướng mắc gì trong việc chăm sóc và PHCN cho đối tượng

tâm thần, rối nhiễu tâm trí ở trung tâm của anh chị?

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

20. Kiến nghị

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

Phần III. Câu hỏi khảo sát

Xin Ông/Bà cho biết mức độ đánh giá của ông/bà đối với các phát biểu dưới

đây với quy ước như sau:

1 2 3 4 5

Không tốt Bình thường Tốt Rất tốt

Rất không tốt

Sau đây là bảng câu hỏi:

Mức độ đánh giá TT Nội dung đánh giá 1 2 3 4 5

1 Mức độ tiếp cận thông tin chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

1 2 3 4 5 1.1 Trung tâm có nhận được hướng dẫn triển khai thực thi chính sách của các đơn vị cấp trên hay không

1.2 1 2 3 4 5 Nội dung hướng dẫn có cụ thể, rõ ràng và giúp ích cho việc triển khai thực hiện các chính sách hay không

1.3 1 2 3 4 5

Ngoài việc hướng dẫn triển khai thực thi chính sách, Trung tâm còn nhận được những hỗ trợ thông tin chính sách khác từ các đơn vị cấp trên hay không

2 Đánh giá về sự hỗ trợ mà các Trung tâm nhận được trong quá trình triển khai thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

2.1 1 2 3 4 5 Mức độ đầy đủ, kịp thời trong việc giải ngân nguồn lực tài chính phục vụ cho việc thực thi các chính sách

2.2 1 2 3 4 5

Mức độ hỗ trợ của các đơn vị (Sở LĐTB&XP; Phòng LĐTB&XH) ở địa phương trong việc phát triển nguồn nhân lực làm CTXH tại Trung tâm

2.3 1 2 3 4 5

Mức độ hỗ trợ của các đơn vị vị (Sở LĐTB&XP; Phòng LĐTB&XH) ở địa phương trong việc tạo liên kết giữa Trung tâm với các tổ chức, doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện làm việc cho các đối tượng chính sách

3 Đánh giá về kết quả triển khai thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

Mức độ đánh giá TT Nội dung đánh giá 1 2 3 4 5

3.1 1 2 3 4 5 Mức độ thực hiện mục tiêu của chính sách hàng năm tại Trung tâm

3.2 1 2 3 4 5 Mức độ hưởng ứng, tham gia chính sách của cộng đồng và gia đình các đối tượng chính sách

3.3 1 2 3 4 5 Các chính sách có thực sự thiết thực đối với địa phương không

4 Kiến nghị hoàn thiện chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

.........

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của Ông/Bà./.

Phụ lục 3

Phiếu khảo dành cho cán bộ, nhân viên làm CTXH

Tên tôi là Nguyễn Văn Hồi, là NCS tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hiện

nay, tôi đang thực hiện nghiên cứu luận án đề tài: “Chính sách trợ giúp xã hội trong

chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam”. Mục tiêu nghiên cứu là phân tích thực

trạng chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam trong

giai đoạn 2011-2015, qua đó, đánh giá hiệu lực, hiệu quả, điểm mạnh, điểm yếu của

chính sách; đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách này trong

giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025.

Tôi rất mong quý Ông/Bà dành chút thời gian tham gia nghiên cứu này bằng

việc trả lời các câu hỏi trong phía khảo sát dưới dây. Những thông tin mà quý Ông/Bà

cung cấp sẽ là tài liệu quý giá cho việc hoàn thành nghiên cứu và sẽ được đảm bảo bí

mật, chỉ dành cho mục đích nghiên cứu.

Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Ông/Bà!

I. Phần thông tin về người trả lời

1. Họ và tên: ..............................................................................................................

Nam Nữ 2. Giới tính:

3. Tuổi: ......................................................................................................................

4. Đơn vị/bộ phận công tác: .......................................................................................

5. Địa chỉ nơi Ông/Bà làm việc: .................................................................................

6. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao nhất đạt được

6.1 Trình độ đào tạo

- Chưa qua đào tạo

- Sơ cấp, Trung cấp

- Cao đẳng

- Đại học

- Trên Đại học

6.2. Chuyên ngành đào tạo: ............................................................................

7. Chức danh (ghi đầy đủ, rõ ràng tên gọi, chức vụ được phân công làm việc):

..................................................................................................................................

8. Thời gian làm việc tại đơn vị: ...............................................................................

Phần II. Câu hỏi khảo sát

Xin ông/bà cho biết mức độ đánh giá của ông/bà đối với các phát biểu dưới đây

với quy ước như sau:

1 2 3 4 5

Không tốt Bình thường Tốt Rất tốt

Rất không tốt

Sau đây là bảng câu hỏi:

Mức độ đánh giá TT Nội dung đánh giá 1 2 3 4 5

1 Đánh giá chính sách tuyển dụng

1.1 Mức độ hấp dẫn của công việc hiện nay 1 2 3 4 5

1.2 Mức độ hấp dẫn của chính sách tuyển dụng 1 2 3 4 5

1.3 Mức độ hài lòng về chính sách tuyển dụng 1 2 3 4 5

2 Đánh giá chính sách đào tạo, bồi dưỡng

2.1 1 2 3 4 5 Mức độ thường xuyên được tham gia đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn

2.2 1 2 3 4 5 Mức độ hỗ trợ của đơn vị côngtác dành cho việc đào tạo, bồi dưỡng

2.3 Mức độ hài lòng về chính sách đào tạo, bồi dưỡng 1 2 3 4 5

3 Đánh giá chính sách đãi ngộ

1 2 3 4 5

1.1 Mức độ hài lòng về lương, thưởng, phụ cấp

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của Ông/Bà./.

Phụ lục 4

Phiếu khảo sát dành cho hộ gia đình có người thân mắc vấn đề về SKTT nhận

được sự trợ giúp của chính sách TGXH trong CSSKTT

Tên tôi là Nguyễn Văn Hồi, là NCS tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Hiện

nay, tôi đang thực hiện nghiên cứu luận án đề tài: “Chính sách trợ giúp xã hội trong

chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam”. Mục tiêu nghiên cứu là phân tích thực

trạng chính sách trợ giúp xã hội trong chăm sóc sức khỏe tâm thần tại Việt Nam trong

giai đoạn 2011-2015, qua đó, đánh giá hiệu lực, hiệu quả, điểm mạnh, điểm yếu của

chính sách; đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách này trong

giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025.

Tôi rất mong quý Ông/Bà dành chút thời gian tham gia nghiên cứu này bằng

việc trả lời các câu hỏi trong phía khảo sát dưới dây. Những thông tin mà quý Ông/Bà

cung cấp sẽ là tài liệu quý giá cho việc hoàn thành nghiên cứu và sẽ được đảm bảo bí

mật, chỉ dành cho mục đích nghiên cứu.

Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Ông/Bà!

Phần I. Thông tin chung

1. Thôn/ bản/ khu: .....................................................................................................

2. Xã/ phường/ thị trấn: .............................................................................................

3. Huyện/ quận /tương đương: ..................................................................................

4. Tỉnh/ thành phố: ....................................................................................................

5. Họ tên chủ hộ có người tâm thần: .........................................................................

6. Hộ thuộc diện: ......................................................................................................

7. Số nhân khẩu trong hộ: ...................................................... người

Trong đó: Từ đủ 15 tuổi trở lên: .................................. người

8. Số người tâm thần trong hộ: ............................................... người

9. Họ tên người cung cấp thông tin: ..........................................................................

10. Quan hệ của người cung cấp thông tin với người tâm thần:

- Bố/Mẹ

- Chồng/Vợ

- Anh/Chị em ruột

- Họ hàng khác

Phần II. Thông tin về người tâm thần

1. Họ và tên: .............................................................................................................

2. Giới tính: Nam Nữ

3. Tuổi: .....................................................................................................................

4. Dân tộc: ................................................................................................................

5. Tình trạng hôn nhân:

- Chưa có Vợ/Chồng

- Có Vợ/Chồng

- Ly hôn

6. Trình độ văn hóa phổ thông:

- Không biết chữ

- Đang học tiểu học

- Tổt nghiệp tiểu học

- Tốt nghiệp phổ thông cơ sở

- Tốt nghiệp phổ thông trung học

- Trình độ khác: .............................................................................................

7. Người bệnh thuộc diện đối tượng:

- Người có công với CM ( thương, bệnh binh ... )

- Con liệt sỹ

- Bộ đội xuất ngũ

- Khác: ...........................................................................................................

8. Thời gian bắt đầu bị bệnh tâm thần: ......................................................................

9. Dạng tâm thần:

- Tâm thần phân liệt

- Rối loạn tâm thần

- Tâm thần nặng chưa xác định dạng bệnh

10. Người bệnh thường có hành vi gì trong thời gian gần đây:

- Không

- Đập phá

- Đánh người

- Tự đánh bản thân

- Không mặc quần áo

- Ăn thực phẩm sống, ôi, thiu

- Đi lang thang

- Khác: ...........................................................................................................

11. Nguyên nhân mắc bệnh:

- Bẩm sinh

- Do bệnh tật

- Do tai nạn

- Do chiến tranh

- Khác: ...........................................................................................................

12. Hàng ngày người bệnh có uống thuốc không:

- Có

- Không

13. Thuốc uống được phát hay mua:

- Được phát miễn phí

- Mua

14. Người bệnh có được hưởng trợ cấp thường xuyên không:

- Có hưởng trợ cấp bằng tiền

- Có sổ cấp thuốc

- Hỗ trợ khác

- Không

15. Được trợ cấp từ: ..................................................................................................

16. Mức trợ cấp của tháng trước tháng thu thập thông tin: ................... ngàn đồng

17. Tình hình bệnh qua thực tế mà Ông/ Bà biết:

- Có giảm một phần

- Có giảm rõ rệt

- Không giảm

- Nặng thêm

- Không xác định

18. Gia đình có đề nghị gì để chăm sóc, chữa bệnh cho người bệnh:

- Đưa đi Trung tâm tâm thần để nuôi dưỡng

- Được tư vấn, hướng dẫn về khám, chữa và chăm sóc người bệnh

- Trợ cấp kinh phí hoặc tăng mức trợ cấp (nếu đã có)

- Được cấp sổ lĩnh thuốc hàng tháng

- Khác: ...........................................................................................................

Phần III. Câu hỏi khảo sát

Xin ông/bà cho biết mức độ đánh giá của ông/bà đối với các phát biểu dưới đây

với quy ước như sau:

2 3 4 5 1

Rất không tốt Không tốt Bình thường Tốt Rất tốt

Sau đây là bảng câu hỏi:

Mức độ đánh giá

TT

Nội dung đánh giá

1

2

3

4

5

1 Mức độ tiếp cận thông tin chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

1.1

1

2

3

4

5

Gia đình có thường xuyên nhận được thông tin tuyên truyền từ phía cơ quan chức năng thông báo về các chính sách mới được triển khai dành cho người mắc vấn đề về SKTT

1

2

3

4

5

1.2

Gia đình có nhận được hỗ trợ từ phía cơ quan chức năng về việc thực hiện các thủ tục nhận hỗ trợ từ các chính sách

2 Mức độ hỗ trợ của các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

2.1 Các chính sách có giúp đỡ được gia đình nhiều không

1

2

3

4

5

2.2 Các chính sách có giúp đỡ được người bệnh nhiều không

1

2

3

4

5

3

1

2

3

4

5

Mức độ hài lòng của gia đình đối với các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

Xin cảm ơn Ông/Bà đã cung cấp thông tin!

Phụ lục 5

Kết quả xử lý số liệu điều tra cán bộ làm việc tại Cục Bảo trợ xã hội

1. Thống kê mô tả

Descriptive Statistics

N

Minimum Maximum

Mean

Std. Deviation

TT1

50

3

5

3.56

.541

TT2

50

3

5

3.38

.530

TT3

50

2

4

3.08

.566

HQ1

50

3

5

3.44

.577

HQ2

50

3

4

3.42

.499

HQ3

50

3

5

3.38

.530

KT1

50

3

4

3.42

.499

KT2

50

3

5

3.38

.530

KT3

50

3

4

3.38

.490

CSTCXH

50

2

4

2.92

.634

CSPTCS

50

2

4

3.16

.710

CSDTVL

50

1

3

1.98

.622

CSDVCTXH

50

2

4

3.26

.600

CSPTNNL

2

4

3.10

.678

Valid N (listwise)

50 50

2. Đánh giá Mức độ tuân thủ chính sách của các cơ quan, đơn vị trong tổ chức

thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

TT1

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

46.0

23

46.0

46.0

Valid

binh thuong

tot

52.0

26

52.0

98.0

rat tot

2.0

1

100.0

Total

100.0

50

2.0 100.0

TT2

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

64.0

32

64.0

64.0

Valid

binh thuong

tot

34.0

17

34.0

98.0

rat tot

2.0

1

100.0

Total

100.0

50

2.0 100.0

TT3

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

khong tot

12.0

12.0

12.0

6

binh thuong

80.0

68.0

68.0

34

tot

100.0

20.0

10

Total

20.0 100.0

100.0

50

3. Đánh giá hiệu quả thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

HQ1

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

binh thuong

60.0

60.0

60.0

30

tot

96.0

36.0

36.0

18

rat tot

100.0

4.0

2

Total

4.0 100.0

100.0

50

HQ2

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

binh thuong

58.0

58.0

58.0

29

tot

42.0

100.0

21

Total

100.0

42.0 100.0

50

HQ3

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

64.0

64.0

64.0

Valid

binh thuong

32

98.0

34.0

34.0

tot

17

100.0

2.0

rat tot

1

100.0

2.0 100.0

Total

50

4. Đánh giá tính kinh tế của chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

KT1

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

binh thuong

58.0

58.0

58.0

29

tot

42.0

100.0

21

Total

100.0

42.0 100.0

50

KT2

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

binh thuong

64.0

64.0

64.0

32

tot

98.0

34.0

34.0

17

rat tot

100.0

2.0

1

Total

2.0 100.0

100.0

50

KT3

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

binh thuong

62.0

62.0

62.0

31

tot

38.0

100.0

19

Total

100.0

38.0 100.0

50

5. Đánh giá kết quả của các chính sách bộ phận

CSTCXH

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

khong tot

12

24.0

24.0

24.0

binh thuong

30

60.0

60.0

84.0

tot

8

16.0

100.0

Total

50

100.0

16.0 100.0

CSPTCS

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

khong tot

18.0

18.0

9

18.0

binh thuong

48.0

66.0

24

48.0

tot

100.0

17

34.0

Total

34.0 100.0

50

100.0

CSDTVL

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

rat khong tot

20.0

20.0

10

20.0

khong tot

62.0

82.0

31

62.0

binh thuong

100.0

9

18.0

Total

18.0 100.0

50

100.0

CSDVCTXH

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

khong tot

8.0

8.0

4

8.0

binh thuong

58.0

66.0

29

58.0

tot

100.0

17

34.0

Total

34.0 100.0

50

100.0

CSPTNNL

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

9

18.0

18.0

18.0

Valid

khong tot

27

54.0

72.0

54.0

binh thuong

14

28.0

100.0

tot

50

100.0

28.0 100.0

Total

Phụ lục 6

Kết quả xử lý số liệu điều tra các Trung tâm BTXH và Trung tâm nuôi dưỡng

người tâm thần

1. Thống kê mô tả

Descriptive Statistics

N

Minimum Maximum

Mean

Std. Deviation

30

3

4

3.73

.450

TCTT1

30

2

4

3.60

.563

TCTT2

30

3

4

3.60

.498

TCTT3

30

3

4

3.20

.407

HT1

30

2

4

3.07

.583

HT2

30

2

4

3.13

.629

HT3

30

3

5

3.70

.794

KQ1

30

3

5

3.90

.803

KQ2

3

4

3.53

.507

KQ3

Valid N (listwise)

30 30

2. Đánh giá mức độ tiếp cận thông tin chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

TCTT1

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

8

26.7

26.7

26.7

Valid

binh thuong

22

73.3

100.0

tot

30

100.0

73.3 100.0

Total

TCTT2

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

1

3.3

3.3

3.3

Valid

khong tot

10

33.3

33.3

36.7

binh thuong

19

63.3

100.0

tot

30

100.0

63.3 100.0

Total

TCTT3

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

12

40.0

40.0

40.0

Valid

binh thuong

18

60.0

100.0

tot

30

100.0

60.0 100.0

Total

3. Đánh giá về sự hỗ trợ mà các Trung tâm nhận được trong quá trình triển khai

thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

HT1

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

80.0

80.0

24

80.0

Valid

binh thuong

100.0

6

20.0

tot

20.0 100.0

30

100.0

Total

HT2

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

13.3

13.3

4

13.3

Valid

khong tot

66.7

80.0

20

66.7

binh thuong

100.0

6

20.0

tot

20.0 100.0

30

100.0

Total

HT3

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

13.3

13.3

4

13.3

Valid

khong tot

60.0

73.3

18

60.0

binh thuong

100.0

8

26.7

tot

Total

26.7 100.0

30

100.0

4. Đánh giá về kết quả triển khai thực thi chính sách TGXH trong chăm sóc

SKTT

KQ1

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

binh thuong

15

50.0

50.0

50.0

tot

9

30.0

30.0

80.0

rat tot

6

20.0

100.0

Total

30

100.0

20.0 100.0

KQ2

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

binh thuong

11

36.7

36.7

36.7

tot

11

36.7

36.7

73.3

rat tot

8

26.7

100.0

Total

30

100.0

26.7 100.0

KQ3

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

binh thuong

14

46.7

46.7

46.7

tot

16

53.3

100.0

Total

30

100.0

53.3 100.0

Phụ lục 7

Kết quả xử lý số liệu điều tra các Trung tâm BTXH và Trung tâm nuôi dưỡng

người tâm thần

1. Thống kê mô tả

Descriptive Statistics

N

Minimum Maximum

Mean

Std. Deviation

TD1

4

2.52

.594

100

2

TD2

4

2.87

.691

100

2

TD3

4

2.79

.656

100

2

DTBD1

4

2.70

.482

100

2

DTBD2

4

2.85

.500

100

2

DTBD3

4

2.84

.526

100

2

DN1

4

2.73

.510

2

Valid N (listwise)

100 100

2. Đánh giá chính sách tuyển dụng

TD1

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

khong tot

53.0

53.0

53

53.0

binh thuong

42.0

95.0

42

42.0

tot

100.0

5

5.0

Total

5.0 100.0

100

100.0

TD2

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

khong tot

31.0

31.0

31

31.0

binh thuong

51.0

82.0

51

51.0

tot

100.0

18

18.0

Total

18.0 100.0

100

100.0

TD3

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

khong tot

34

34.0

34.0

34.0

binh thuong

53

53.0

53.0

87.0

tot

13

13.0

100.0

Total

100

100.0

13.0 100.0

3. Đánh giá chính sách đào tạo, bồi dưỡng

DTBD1

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

31

31.0

31.0

31.0

Valid

khong tot

68

68.0

68.0

99.0

binh thuong

1

1.0

100.0

tot

100

100.0

1.0 100.0

Total

DTBD2

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

21

21.0

21.0

21.0

Valid

khong tot

73

73.0

73.0

94.0

binh thuong

6

6.0

100.0

tot

100

100.0

6.0 100.0

Total

DTBD3

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

23

23.0

23.0

23.0

Valid

khong tot

70

70.0

70.0

93.0

binh thuong

7

7.0

100.0

tot

100

100.0

7.0 100.0

Total

4. Đánh giá chính sách đãi ngộ

DN1

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

khong tot

30.0

30.0

30

30.0

binh thuong

97.0

67.0

67

67.0

tot

100.0

3

3.0

Total

3.0 100.0

100

100.0

Phụ lục 8

Kết quả xử lý số liệu điều tra hộ gia đình có người thân mắc vấn đề về SKTT

nhận được sự trợ giúp của chính sách TGXH trong CSSKTT

1. Thống kê mô tả

Descriptive Statistics

N

Minimum Maximum

Mean

Std. Deviation

TTGD1

500

2

4

2.56

.572

TTGD2

500

2

4

3.36

.572

HTGD1

500

2

4

3.41

.592

HTGD2

500

3

4

3.53

.499

GDHL

2

4

3.25

.658

Valid N (listwise)

500 500

2. Đánh giá mức độ tiếp cận thông tin chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

TTGD1

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

khong tot

239

47.8

47.8

47.8

binh thuong

241

48.2

48.2

96.0

tot

20

4.0

100.0

Total

500

100.0

4.0 100.0

TTGD2

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

khong tot

24

4.8

4.8

4.8

binh thuong

271

54.2

54.2

59.0

tot

205

41.0

100.0

Total

500

100.0

41.0 100.0

3. Đánh giá mức độ hỗ trợ của các chính sách TGXH trong chăm sóc SKTT

HTGD1

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

27

5.4

5.4

Valid

khong tot

5.4

240

48.0

48.0

binh thuong

53.4

233

46.6

tot

100.0

500

100.0

46.6 100.0

Total

HTGD2

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

binh thuong

233

46.6

46.6

46.6

tot

267

53.4

100.0

Total

500

100.0

53.4 100.0

4. Đánh giá mức độ hài lòng của gia đình đối với các chính sách TGXH trong

chăm sóc SKTT

GDHL

Cumulative

Frequency

Percent

Valid Percent

Percent

Valid

2

12.2

61

12.2

12.2

3

62.6

252

50.4

50.4

4

100.0

187

37.4

Total

500

100.0

37.4 100.0