YOMEDIA
ADSENSE
Cho cá lăng vàng đẻ quanh năm
134
lượt xem 24
download
lượt xem 24
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Thay vì thời gian có khả năng sinh sản chỉ khoảng 2-3 tháng/năm ở môi trường tự nhiên, giờ đây cá lăng vàng - Mystus nemurus - có thể “khai hoa nở nhụy” quanh năm... Thành công này nhờ bàn tay khéo léo của thạc sĩ Ngô Văn Ngọc (khoa thủy sản ĐH Nông lâm TP.HCM). Kết quả này cũng xứng đáng được trao huy chương vàng tại chợ công nghệ thiết bị quốc gia 2003...
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cho cá lăng vàng đẻ quanh năm
- Cho cá lăng vàng đẻ quanh năm (Mystus nemurus) TT - Thay vì thời gian có khả năng sinh sản chỉ khoảng 2-3 tháng/năm ở môi trường tự nhiên, giờ đây cá lăng vàng - Mystus nemurus - có thể “khai hoa nở nhụy” quanh năm... Thành công này nhờ bàn tay khéo léo của thạc sĩ Ngô Văn Ngọc (khoa thủy sản ĐH Nông lâm TP.HCM). Kết quả này cũng xứng đáng được trao huy chương vàng tại chợ công nghệ thiết bị quốc gia 2003... Có lẽ vì gắn bó nhiều năm với nghề nuôi trồng thủy sản nên thạc sĩ Ngọc rất am hiểu nhu cầu thực tiễn và triển vọng của nhiều loài thủy sản nước ngọt. Và cá lăng vàng là một trong những đối tượng nghiên cứu được nhà khoa học này đánh dấu ưu tiên. Ông cho biết đây là loài cá trơn, giá trị kinh tế cao, thịt trắng, thơm ngon và đặc biệt loài cá này vốn là món khoái khẩu của biết bao thực khách sành ăn uống. Cũng chính vì sự ưa chuộng của rất nhiều người, thêm vào đó bán được giá cao (35.000-45.000 đồng/kg), mà số lượng loài cá lăng vàng ở sông, suối, ao hồ... ngày một cạn dần, thậm chí đứng trước nguy cơ tuyệt diệt. Làm thế nào để bảo vệ loài cá này trong môi trường tự nhiên? Trước hoàn cảnh như thế, dường như không có lựa chọn nào khác hơn hướng nghiên cứu nhắm đến việc “sinh sản nhân tạo cá lăng vàng” - một lựa chọn mà nhiều nhà khoa học đã gặt hái thành công đối với nhiêu loài thủy sản nước ngọt khác. Ngay lập tức mục tiêu của hướng nghiên cứu này được thạc sĩ Ngọc xác lập: tạo giống cá lăng vàng nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi và bảo vệ loài cá này ngoài tự nhiên; đồng thời xây dựng qui trình sản xuất con giống, đáp ứng nhu cầu nuôi cá thương phẩm đối với người dân. Thời điểm tháng 3-2002, khuôn viên trại thực nghiệm thủy sản - ĐH Nông lâm TP.HCM rộn ràng công tác chuẩn bị “sinh sản nhân tạo cá lăng vàng”. Bước đầu tiên - thuần dưỡng và nuôi vỗ cá bố mẹ - của qui trình này được triển khai
- thực hiện. Loạt cá lăng vàng (bố mẹ) đầu tiên gồm 300 cá cái và 200 cá đực được đưa về từ hồ Sông Mây và Trị An (tỉnh Đồng Nai) để thuần dưỡng trong ao đất. Khá nghiêm ngặt, cá được chọn làm bố mẹ phải qua vòng sơ khảo về “ngoại hình”: không dị tật, ngoại hình cân đối, trọng lượng từ 300g/con trở lên... Việc thuần dưỡng được thực hiện từng bước, từng bước một. Trong thời gian đầu thức ăn cho cá lăng vàng gồm 50% cá tạp tươi sống, 50% cám gạo. Đồng thời tập cho cá dùng thức ăn dạng viên nổi để cá dần quen với thức ăn công nghiệp; đến lúc thích hợp thì chuyển hẳn sang nuôi vỗ bằng 100% thức ăn công nghiệp. Cá đực và cái được sống chung một ao, với diện tích phù hợp, độ sâu 1,2- 1,4m. Cứ định kỳ bảy ngày kiểm tra tốc độ tăng trưởng một lần. Và chỉ khoảng bốn tháng nuôi vỗ cá cái đã thành thục sinh dục và có thể tiêm kích dục tố để chúng sinh sản; cá đực cũng được thuần dưỡng tương tự. Sau khi tiêm kích dục tố cho cá đẻ, trứng được ấp ở nhiệt độ trung bình 29- 30OC trong bể composite (hoặc bình weis) liên tục 20 giờ liền thì trứng nở thành cá bột, tỉ lệ nở đạt trên 80%. Đặc biệt, theo kết quả nghiên cứu cho thấy sức sinh sản thực tế của cá lăng vàng dao động từ 126.364-142.000 trứng/1kg cá mẹ. Kết quả sản xuất cá giống trong thực tế cho thấy cứ 1kg cá mẹ thì có thể sản xuất được 10.000-15.000 cá giống. Qui trình sản xuất con giống cá lăng vàng do thạc sĩ Ngọc công bố có thể sản xuất và cung cấp giống quanh năm. Theo kết quả nghiên cứu, một năm có thể cho cá lăng vàng đẻ 4-5 lần (giữa hai lần sinh sản cách nhau 2,5-3 tháng). Tuy nhiên để giữ sức cho cá bố mẹ chỉ nên cho đẻ khoảng 2 lần/năm là vừa. Chưa dừng lại, công trình nghiên cứu còn bố trí các thí nghiệm để đúc kết ra qui trình nuôi ương cá bột thành cá giống. Theo đó, chỉ cần chăm sóc cẩn thận trong một tháng cá bột sẽ phát triển thành cá giống với chiều dài đạt 5-5,5cm, có thể thả nuôi làm cá thịt. Chắc chắn kết quả nghiên cứu sẽ rất có ý nghĩa nếu qui trình sản xuất giống cá lăng vàng bằng phương pháp sinh sản nhân tạo được chuyển giao đến tay nhiều nông dân, ở nhiều địa phương trên khắp đất nước. “Chúng tôi đã sẵn sàng chuyển giao qui trình sản xuất giống và nuôi cá lăng vàng cho những đơn vị, cá nhân có nhu cầu”- thạc sĩ Ngọc vui vẻ thông báo. QUỐC THANH Sinh sản nhân tạo và ương nuôi cá lăng vàng (Mytus nemurus Valenciennes, 1839) Giới thiệu Cá lăng vàng (Mytus nemurus) là một loài cá bản địa phân bố trong các thuỷ vực nước ngọt và nước lợ nhạt thuộc miền Ðông Nam Bộ và Ðồng Bằng Sông
- Cửu Long như sông, suối, ao, hồ, vùng cửa sông. Ðây là một trong những loài cá da trơn có giá trị kinh tế cao và thịt thơm ngon. Hiện nay, giá cá thịt tươi sống dao động từ 30.000 - 36.000 đồng/kg tuỳ thuộc vào thời điểm và cỡ cá. Vì thế, sản lượng cá tự nhiên ngày một suy giảm do tình trạng khai thác quá mức và chưa có biện pháp thích hợp để bảo vệ nguồn lợi các loài cá này. Chính vì thế, việc nghiên cứu sinh sản nhân tạo cũng như ương nuôi là một vấn đề cấp thiết nhằm góp phần thúc đẩy nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển theo hướng bền vững. Vừa qua, nhóm nghiên cứu (chủ trì là ThS. Ngô Văn Ngọc) của Khoa thuỷ sản, Trường Ðại học Nông lâm Tp.Hồ Chí Minh đã thành công trong việc cho cá lăng vàng (M.nemurus) sinh sản nhân tạo và ương nuôi thành cá giống tại Trại Thực nghiệm thuỷ sản, Khoa Thuỷ sản, Trường Ðại học Nông lâm Tp.Hồ Chí Minh. Dưới đây là một số thông tin chủ yếu về việc sản xuất giống cá lăng vàng. Kết quả nghiên cứu 1. Sinh sản nhân tạo Cá lăng vàng hậu bị được thu từ hồ Trị An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Ðồng Nai. Cá được nuôi vỗ trong ao đất có diện tích 300m2; độ sâu mực nước 1,2m. Thời gian nuôi vỗ kéo dài 5 tháng. Sau khi thành thục sinh dục, cá bố mẹ được chọn cho đẻ dựa vào các tiêu chuẩn ngoại hình và màu sắc, kích thước trứng. Trong đợt sinh sản này, ba cá cái được chọn cho sinh sản, có trọng lượng dao động từ 0,35 kg - 0,8 kg/con. Trứng cá lăng vàng khá nhỏ, đường kính của trứng đã thụ tinh khoảng từ 1,17 - 1,32mm. Chất kích thích sinh sản cho cá lăng vàng là Lh- Rha. Liều lượng tiêm cho cá đực bằng 1/3 liều của cá cái. ở nhiệt độ nước 29,5 - 30oC, thời gian hiệu ứng của LH- Rha trên cá lăng vàng dao động từ 11 - 12 giờ (tính từ lúc tiêm liều sơ bộ) và tỷ lệ cá cái rụng trứng hoàn toàn đạt 100%. Sức sinh sản thực tế dao động từ 126.364 - 142.000 trứng/kg. Sau khi gieo tinh, trứng được khử dính và ấp bằng vây. Nhiệt độ nước 30oC, thời gian phát triển phôi cá lăng vàng là 20 giờ tính từ lúc trứng được thụ tinh. Cá bột 1 ngày tuổi bắt đầu biết bơi. 2. Ương nuôi từ cá bột lên cá hương ở nhiệt độ nước 29,5 - 30oC, sau khi nở khoảng 60 giờ, ấu trùng cá lăng vàng bắt đầu biết ăn Moina cỡ nhỏ dù lúc này cơ thể chúng vẫn còn noãn hoàng. Sau khi nở 72 giờ (3 ngày tuổi), cá đã tiêu hết noãn hoàng và bắt mồi rất mạnh. Khi được 4 ngày tuổi, ngoài Moina, chúng còn ăn được trùn chỉ (Tubifex). ở giai đoạn này, cá lăng vàng có tốc độ tăng trưởng khá nhanh và sự phân đàn không đáng kể (kích thước cá hương khá đồng đều) : 14 ngày tuổi cá có chiều dài từ 2,7 - 2,9 cm. Kết quả thu được trong đợt sinh sản này cho thấy cá lăng vàng là một đối tượng nuôi quan trọng trong tương lai gần vì chúng có sức sinh sản cao, ăn tạp, có thể nuôi mật độ dày và tăng trưởng nhanh. Hiện nay, nhóm nghiên cứu đang tiếp tục nghiên cứu để nâng cao hiệu quả sinh sản, hoàn thiện qui trình sản xuất giống nhân tạo cá lăng vàng và qui trình nuôi cá thương phẩm nhằm nhanh chóng ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, góp phần thúc đẩy nghề nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt phát triển theo hướng bền vững và góp phần bảo vệ loài cá bản địa có giá trị kinh tế nàyă ThS. Ngô Văn Ngọc và nhóm nghiên cứu khoa Thuỷ sản, Trường Ðại học Nông lâm Tp.Hồ Chí Minh
- Sau một thời gian nghiên cứu, thử nghiệm ương nuôi giống cá lăng vàng, khoa Thuỷ sản (Trường Đại học Nông lâm TP.Hồ Chí Minh đã đưa ra được quy trình nuôi, thuần dưỡng giống này. Theo những kinh nghiệm đúc kết thì: - Trong quá trình ương nuôi cá bột lên cá giống (chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn đầu 7 ngày tuổi, giai đoạn sau 30 ngày tuổi) muốn sản xuất giống hàng loạt, phải áp dụng kỹ thuật gieo tinh nhân tạo với điều kiện đàn cá đực có chất lượng tuyến sinh dục cao (cá phải 2-5 năm tuổi); với cá lăng vàng cái trong điều kiện nuôi ao, giai đoạn thành thục phải là 1 năm. - Giống cá lăng vàng ương trong ao đất luôn luôn lớn nhanh hơn cá ương trong bể vì môi trường ao đất rộng rãi, phù hợp. Cá ít bị bệnh. Cá quen ăn thức ăn viên. - Nên thực hiện gieo tinh nhân tạo và sinh sản nhân tạo ở nhiệt độ 28-31oC thì thời gian hiệu ứng chỉ chừng 5-6 giờ và phát triển phôi từ 18-22 giờ. - Tốc độ tăng trưởng của cá ương trong ao đất nhanh hơn. - Tỉ lệ cá sống khi ương trong bể composit cao hơn trong ao đất (68% so với 52%) nhưng mức độ rủi ro bệnh tật khi ương lại cao hơn, có khi cá bị chết toàn bộ nếu sơ sẩy về kỹ thuật một chút. Khoa Thuỷ sản (Trường Đại học Nông lâm TP.Hồ Chí Minh) có thể cung cấp giống cá lăng vàng và hướng dẫn quy trình ương nuôi, thuần dưỡng và nuôi vỗ cá bố mẹ theo yêu cầu của bà con nông dân. CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT CÁ LĂNG CHẤM Hemibagrus guttatus Tại sao phải sản xuất giống cá lăng? Cá lăng chấm Hemibagrus guttatus (Lacépède, 1803) là loài cá hoang dã có giá trị cao của hệ thống sông Hồng. Cá lăng có thịt trắng, thơm ngon, kích cỡ lớn, trong tự nhiên đã khai thác được cá có trọng lượng 30 kg. Giá cá trên thị trường hiện nay khoảng 120.000 - 170.000 đ/kg. Sản lượng khai thác tự nhiên những năm gần đây giảm sút nghiêm trọng do hoạt động đánh bắt bừa bãi bằng nhiều phương tiện huỷ diệt. Cá lăng chấm sinh trưởng và thành thục sinh dục tốt trong điều kiện ao nuôi nước tĩnh. Hoàn thiện quy trình sản xuất giống cá lăng có ý nghĩa rất lớn trong việc đưa giống cá mới có giá trị kinh tế cao vào tập đoàn cá nuôi. Nội dung quy trình
- Tuyển chọn và nuôi vỗ cá bố mẹ Chọn những con khoẻ mạnh, không dị hình, không xây sát có trọng lượng trên 2,0 kg đối với cá cái và 3,0 kg đối với cá đực, tuổi từ 4+ trở lên. Ðiều kiện ao nuôi vỗ cá bố mẹ Ao hình chữ nhật, diện tích 800 - 1.200m2, bờ xây gạch, 4 góc xây lượn tròn và có các cống cấp nước thuận lợi. Ðáy ao đất bùn, mức nước sâu thường xuyên 1,4 - 1,5m. Mật độ nuôi vỗ Mật độ nuôi vỗ : 0,20 - 0,25 kg/m2, tỷ lệ cá đực/cái là 1:1, trong ao nuôi ghép thêm cá mè hoa và mè trắng để làm sạch nước với mật độ 0,04 kg/m2. Chế độ cho ăn Cho cá ăn thức ăn có chất lượng dinh dưỡng cao được pha chế từ bột tổng hợp hoặc thức ăn tuơi sống bao gồm cá và tôm. Lượng thức ăn cho cá ăn khoảng 2 - 6% trọng lượng cá chia làm 2 lần/ngày. Bơm nước kích thích Luôn đảm bảo nước trong ao nuôi vỗ sạch, hàm lượng DO> 5 mg/l, độ trong > 30 cm. Trong giai đoạn nuôi vỗ thành thục từ tháng 2 đến tháng 5 cần tạo dòng chảy nhẹ liên tục trong ao. Tiêm kích thích thành thục Vào tháng 3, tháng 4 dùng LRH - A2 tiêm thúc thành thục cho cá bố mẹ với liều tiêm 1,0 µg/kg, cá đực và cá cái như nhau. Chọn cá bố mẹ thành thục Cá cái bụng có 3 lỗ : lỗ hậu môn, lỗ sinh dục và lỗ tiết niệu. Bụng to, có tính đàn hồi, lỗ sinh dục mở to và sưng đỏ, hằn buồng trứng xuống rõ và hơi xệ xuống, thì đó là cá đã thành thục tốt. Cá đực : bụng có 2 lỗ là lỗ hậu môn và lỗ sinh dục tiết niệu. Bụng to, hẹp, phẳng, lỗ sinh dục hơi đỏ tím. Tiêm thúc đẻ trứng Tiêm thúc cho cá đẻ vào tháng 4, tháng 5 khi nhiệt độ nước ao đã lên tới 24 - 29 C. Dùng hỗn hợp DOM và LRH-A2 tiêm 2 lần, lần tiêm thứ 2 cách lần tiêm thứ o nhất 22 - 26 giờ. Tiêm xong thả cá vào bể nuôi riêng rẽ 1 con/bể trong có đường kính 2m, độ sâu mực nước 0,5m, cho nước chảy liên tục để kích thích cho tới lúc cá động hớn mạnh. Thời gian hiệu ứng thuốc tại nhiệt độ 23 - 28oC khoảng 19 - 25 h. Thụ tinh nhân tạo Vuốt trứng cá cái vào chậu khô và sạch, mổ bụng cá đực lấy tuyến sẹ và nghiền nhỏ. Thụ tinh cho trứng bằng phương pháp thụ tinh khô. Cá đực được khâu lại vết mổ thả lại ao nuôi tiếp. ương ấp trứng Trứng được ấp trong khay có kích thước 0,4m x 0,25m x 0,05m có đáy bằng nhôm, xung quanh bằng lưới 25 mắt/cm2 với mật độ 5 - 8 trứng/cm2. Các khay được đặt trong bể xi măng chứa nước đảm bảo độ ngập nước của trứng 3 - 4 cm. Sục khí liên tục đảm bảo DO> 6 mg/l. Trong điều kiện nhiệt độ 23 - 31oC, sau 55 -
- 70h cá nở hoàn toàn, chuyển sang bể ương nuôi cá bột. ương nuôi cá bột ương nuôi cá bột trong bể kính hoặc bể xi măng, diện tích 0,2 - 2,0 m2, độ sâu mực nước 0,2 - 0,25m. Mật độ nuôi 1.200 - 2.000 con/m 2. Cho cá ăn Moina, Daphnia, trùn chỉ. Sau 30 ngày ương cá đạt chiều dài 3,8 - 4,4cm, trọng lượng : 0,50 - 0,80 gr, tỷ lệ sống đạt 65,95%. ương nuôi cá giống ương nuôi cá giống trong bể xi măng có mức nước sâu 0,5m với mật độ 125 con/m2, cho cá ăn thịt cá tươi băm nhỏ và trùn chỉ. Sau 30 ngày ương cá đạt chiều dài 3,8 - 4,4 cm và trọng lượng 0,5 - 0,8 gr. Tỷ lệ sống đạt 90 - 95%. Trong giai đoạn này cần chú ý sự xuất hiện trùng quả dưa. Ðịa chỉ liên hệ : Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I Ðình Bảng - Từ Sơn - Bắc Ninh Ðiện thoại : 04-8271368 Fax : 04 - 8273070
- 7
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn