intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chùa trung tâm văn hóa của người Khơme

Chia sẻ: Ton Thi Huong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

157
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ở xã hội Khơme, mỗi khi người dân có những bất hoà, thậm chí có cả những xung đột trong phum, trong họ tộc và gia đình thì thường mọi người đến nhà chùa thảo luận, xin ý kiến chỉ bảo của nhà sư và nhờ nhà sư giải quyết. Bên cạnh đó chùa cũng tạo điều kiện để giải thoát cho những ai lỡ sa vào các tệ nạn xã hội, cải huấn những người lầm đường lạc lối để họ quay về với gia đình, với phum. Như vậy có thể nói nhà chùa, mà cụ thể là...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chùa trung tâm văn hóa của người Khơme

  1. CHUA MOT TRUNG TAM VAN HOA CUA NGUOI KHOME Ở xã hội Khơme, mỗi khi người dân có những bất hoà, thậm chí có cả những xung đột trong phum, trong họ tộc và gia đình thì thường mọi người đến nhà chùa thảo luận, xin ý kiến chỉ bảo của nhà sư và nhờ nhà sư giải quyết. Bên cạnh đó chùa cũng tạo điều kiện để giải thoát cho những ai lỡ sa vào các tệ nạn xã hội, cải huấn những người lầm đường lạc lối để họ quay về với gia đình, với phum. Như vậy có thể nói nhà chùa, mà cụ thể là các vị sư đã góp phần làm lành mạnh các quan hệ xã hội mỗi khi nó bị tổn thương, làm dịu đi những căng thẳng về tâm lý của con người, làm trong sạch bầu không khí tinh thần đạo đức của cộng đồng... Đã bao đời trường chùa được xem như một sức mạnh tinh thần, một nền tảng đạo đức, một luân lý Khơme góp phần đoàn kết cộng đồng, giữ cho xã hội phát triển trong hoà bình và ổn định.Với người Khơme thì những lễ hội tại các ngôi chùa là môi trường tốt để nghệ thuật cổ truyền của dân tộc được phát huy tác dụng. Những loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống như: Dù kê, Rô băm, các điệu múa Sarawan, Rom wong v.v... được các nghệ nhân chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư đua tài biểu diễn “làm phước” đúng như nội dung của hội lễ. Các buổi trình diễn văn nghệ này đã thể hiện đầy đủ bản sắc văn hóa dân tộc và khẳng định được trình độ văn hóa của cả cộng đồng... Để thúc đẩy sự nghiệp phát triển nền văn hóa dân tộc Khơme trong tương lai, góp phần làm phong phú đa dạng kho tàng văn hóa Việt Nam, trước mắt cần phải chú trọng đến việc đồng thời phát triển, nâng cao đời sống kinh tế và văn hóa cho đồng bào Khơme. Đặc biệt là việc tôn tạo ngôi chùa một bộ phận cấu thành văn hóa Khơme, vì ngôi chùa đã được người Khơme xem như một “bảo bối”, một “vật thiêng” trong ý thức, đó chính là di sản văn hóa của dân tộc mà từ xưa tổ tiên đã xây dựng nên. Chùa – Một Trung Tâm Văn Hóa Của Người Khơme Hứa Sa Ni Từ xa xưa, người Khơme Nam Bộ đã có một nền văn hóa phong phú, đa dạng, mang đậm sắc thái dân tộc. Và, cho đến tận bây giờ, những giá trị trong kho tàng văn hóa ấy vẫn không hề bị phai nhạt theo thời gian. Một biểu hiện rõ nét nhất hiện nay, đối với người Khơme vùng đồng bằng sông Cửu Long, những ngôi chùa Phật giáo Tiểu thừa, một công trình kiến trúc có giá trị cao về nghệ thuật. Ngoài chức năng làm thoả mãn về nhu cầu thẩm mỹ của người dân trong vùng, ngôi chùa còn có chức năng chính yếu và hết sức quan trọng, đó là nơi sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ, là chốn tu hành của các nhà sư, là nơi giành cho các Upasaka, Upasika quy y tam bảo để đến với cõi Phật. Ngôi chùa còn là “điểm tựa” vững chắc cho sự phát triển nền Phật giáo dân tộc và bảo lưu những phong tục tập quán của cả cộng đồng. Bởi lẽ các lễ hội tôn giáo, lễ hội truyền thống của dân tộc đều được cử hành
  2. ở nơi thiêng liêng này. Bên cạnh đó, cũng từ đây chữ viết dân tộc được duy trì và phát triển. Do vậy khi nghiên cứu về văn hóa của dân tộc Khơme, chúng ta phải đặt một trọng tâm nghiên cứu ở ngôi chùa, một trung tâm văn hóa của cộng đồng. 1. Chùa - một trường học Mặc dù ngày nay đã có trường trung học dân tộc cho các con em dân tộc Khơme học tập, song không vì thế mà ngôi chùa vắng đi hình bóng của các em nhỏ mỗi chiều cắp sách đến chùa để học chữ, học kinh kệ. Như một truyền thống, ngôi chùa Khơme từ xưa đã là một trường học. Với nội dung giáo lý vốn chứa đựng nhiều giá trị nhân bản, đạo Phật đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của người Khơme. Một trong những ảnh hưởng sâu đậm nhất là ở lĩnh vực giáo dục đạo đức. Dân tộc Khơme vốn có tiếng nói và chữ viết riêng, được hình thành từ rất sớm. Chữ viết ấy muốn tồn tại và phát triển không có nơi nào thích hợp hơn ngoài ngôi chùa. Trong khi chúng ta chưa có sự chú trọng mạnh mẽ vào việc phát triển tiếng nói và chữ viết riêng của các dân tộc ít người, khi mà điều kiện in ấn của ta còn chưa phát triển, thì ngôi chùa chính là nơi cất giữ kho tàng quý báu - chữ viết Khơme. Các con em Khơme bên cạnh việc học tiếng phổ thông (tiếng Việt/Kinh) còn phải vào trường chùa để học văn hóa, học chữ viết. Ở một số trường chùa trước đây, các nhà sư không chỉ truyền thụ về giáo lý nhà Phật mà còn dạy cả những kiến thức về toán học, văn học, sử học, ngôn ngữ học (tiếng Pali). Chương trình giảng dạy này đã góp phần bảo vệ, giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc, giúp người dân Khơme tiếp cận được với nền văn minh mới của thế giới. Bên cạnh việc giáo dục tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết đối với người dân trong vùng, trường chùa còn thể hiện vai trò tích cực trong việc giáo dục đạo đức con người. Với xã hội Việt Nam hiện nay, vấn đề đạo đức luôn được quan tâm hàng đầu trong xây dựng nền văn hóa mới. Bởi lẽ, một trong ba giá trị tinh thần phổ quát nhất của văn hóa nhân loại chính là cái thiện do sự phát triển của văn hóa đạo đức đem lại. Sự phát triển của văn hóa đạo đức đánh dấu sự tiến bộ mang tính chất nhân văn trong đời sống của một cộng đồng, một thời đại. Vì vậy quá trình xây dựng nền văn hóa mới là quá trình xây dựng nền đạo đức mới. Vậy “trường chùa” của dân tộc Khơme đã thực hiện việc giáo dục đạo đức ở con người như thế nào? Ở xã hội Khơme, mỗi khi người dân có những bất hoà, thậm chí có cả những xung đột trong phum, trong họ tộc và gia đình thì thường mọi người đến nhà chùa thảo luận, xin ý kiến chỉ bảo của nhà sư và nhờ nhà sư giải quyết. Bên cạnh đó chùa
  3. cũng tạo điều kiện để giải thoát cho những ai lỡ sa vào các tệ nạn xã hội, cải huấn những người lầm đường lạc lối để họ quay về với gia đình, với phum. Như vậy có thể nói nhà chùa, mà cụ thể là các vị sư đã góp phần làm lành mạnh các quan hệ xã hội mỗi khi nó bị tổn thương, làm dịu đi những căng thẳng về tâm lý của con người, làm trong sạch bầu không khí tinh thần đạo đức của cộng đồng. Đã bao đời trường chùa được xem như một sức mạnh tinh thần, một nền tảng đạo đức, một luân lý Khơme góp phần đoàn kết cộng đồng, giữ cho xã hội phát triển trong hoà bình và ổn định. 2. Chùa - nơi thiêng liêng cử hành các lễ hội Lễ hội là một dạng sinh hoạt văn hóa tổng hợp của con người, là nhu cầu văn hóa chính đáng của một cộng đồng người; mà chỉ trong “tâm thế hội” mỗi người mới có dịp thăng hoa một cách bay bổng về những phẩm chất, tài năng tốt đẹp của mình, hoà nhập vào cái chung trong ngày hội để tạo thành niềm vui chung, sức mạnh chung. Với đồng bào Khơme, lễ hội đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống cộng đồng, nó chi phối mạnh tới sinh hoạt tinh thần, vật chất và chiếm một khoảng thời gian khá lớn. Có thể nói, người Khơme sống để làm phước, cho nên các lễ hội là dịp để các Phật tử cầu kinh, làm phước theo đúng từ “Bon Tean” mà người Khơme dùng để chỉ các đám lễ, các hội hè. Do đó trong hội lễ đã bao hàm đầy đủ nội dung làm phước. Là một dân tộc chịu ảnh hưởng mạnh mẽ đạo Phật, nên các hội lễ của người Khơme không thể đứng ngoài sự chi phối của tôn giáo này. Không chỉ riêng các lễ hội Phật giáo mà cả các lễ hội dân gian, nhiều khi cũng được tổ chức theo nghi thức của đạo Phật. Do đó, người ta có cảm tưởng như hầu hết các lễ hội của người Khơme đều là hội lễ của tôn giáo, dù cho chúng bắt nguồn từ đâu. Tính chất dân dã ngày càng bị yếu tố tôn giáo “xâm lấn”. Như trong ngày tết chẳng hạn, chỉ có chùa chiền là nơi đông vui nhất, còn ở các phum sróc thì không khí tưng bừng sôi động của ngày đầu năm đã lắng đi đáng kể. Ngày lễ “Đôn ta” (lễ cúng ông bà, cũng vậy, những lễ chính vẫn tập trung ở chùa. Rõ ràng là các vị sư, chùa chiền hiện diện trong mọi lễ hội của người Khơme, đúng hơn chùa là nơi thiêng liêng cử hành các lễ hội. Sau đây chúng tôi xin được giới thiệu một cách tóm tắt những lễ hội tiêu biểu của người Khơme. 2.1. Lễ Chôl - chhnăm - thmây Đây là ngày tết cổ truyền của dân tộc Khơme được tiến hành vào giữa tháng tư dương lịch, tức là nhằm vào đầu tháng “Chét” theo Phật lịch Khơme, khác với
  4. người Kinh hiện nay thường tổ chức vào đầu tháng giêng âm lịch. Đây là lúc đất trời khô ráo, mùa màng đã gặt hái xong, là thời gian mà mọi người đã được rảnh rang nghỉ ngơi thoải mái. Lễ kéo dài trong 3 ngày, 3 đêm và cứ 3 năm tết 3 ngày lại một năm tết 4 ngày. Người Khơme đón năm mới với ý nghĩa cũng như các dân tộc khác, tuy cách tổ chức và tập tục có khác nhau. Đặc biệt vì đều là tín đồ của Đức Phật, nên gia đình nào cũng làm bánh tét, bánh ngọt, hoa quả dâng vào chùa để cúng Phật. Ngày đầu của lễ Chol-chhnăm-thmây thường vào ngày 13-4, gọi là ngày “Chol - sâng krang thmây”, vào ngày này từ tờ mờ sáng mọi người đã chuẩn bị sẵn các lễ vật: nhang, đèn, hoa quả, và ăn vận sạch đẹp để đi chùa thực hiện nghi lễ rước lịch “Maha sang Krang” mới. Nơi đây dưới sự điều khiển của một vị Acha hay một nhà sư, mọi người đứng xếp thành hàng, đứng đầu là nhà sư để đi vòng quanh chính điện 3 vòng ngược chiều kim đồng hồ gọi là “Pro-tét- sanh”, việc đi vòng quanh ngôi chính điện có ý nghĩa như là một cách thức để chào mừng năm mới và cũng xem năm mới này sẽ mang đến những điều gì. Ngày thứ hai gọi là “Won-bot” (năm nhuận thì Won-bot có 2 ngày) là ngày thực sự bắt đầu năm mới. Mọi sự tốt đẹp hay xấu xa sẽ theo suốt cả năm cũng được biết rõ kể từ giao thừa. Khác với người Kinh và một số dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, năm mới được tính từ 0 giờ ngày mồng một tháng giêng và giờ giao thừa thường cố định vào lúc 0 giờ của ngày đầu năm, thì giờ giao thừa của tết người Khơme tuỳ từng năm mà có sự thay đổi: có thể là vào một hoặc hai giờ khuya của đêm thứ nhất, hoặc năm giờ sáng hoặc bảy giờ, chín giờ của ngày thứ hai tuỳ theo sự ấn định của quyển đại lịch “Maha sang Krang”. Sắp đến giờ giao thừa mọi nhà đốt đèn, thắp hương để làm lễ tiễn Tê vô đa cũ và đón Tê vô đa mới. Tê vô đa là vị tiên được Ngọc Hoàng sai xuống để chăm lo cho dân chúng trong một năm, hết năm lại lên trời và vị khác xuống thay thế. Buổi sáng và trưa tại chùa, Phật tử làm lễ dâng cơm lên các vị sư gọi là “Wên choong hăn”. Buổi chiều thì làm lễ đắp núi cát “Pun phnum khsách”. Một người tìm cát sạch đem đổ thành 9 đống giống như 9 ngọn núi nhỏ ở xung quanh ngôi chính điện và rào bằng tre hoặc cây ở mỗi ngọn núi cát. Những ngọn núi này tượng trưng cho vũ trụ, mỗi núi ở một hướng và núi thứ 9 ở giữa là trung tâm của thế giới. Sau đó người ta làm lễ “Quy y” cho núi và sáng hôm sau thì làm lễ xuất thể. Tục đắp núi cát được dựa theo sự tích có từ lâu đời, kể lại chuyện một người thợ săn đã giết quá nhiều muông thú, về già ông luôn bị đau ốm bởi hình ảnh của những muông thú cứ đến hành hung ông đòi nợ oan nghiệt. Tuy nhiên vì phước đức tích được từ việc đắp núi cát ở chùa, do một nhà sư chỉ bảo trước đây, nên ông đã tỉnh táo bảo bọn muông thú hãy cứ đi đếm hết những hạt cát mà ông đã đắp rồi hãy đòi nợ ông. Muông thú đồng ý cùng nhau đi đếm nhưng không tài nào đếm
  5. hết được. Chán ngán chúng kéo nhau đi, tất nhiên người thợ săn cũng khỏi bệnh và sau này được lên niết bàn. Sự tích trên đã phản ánh thuyết nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật nhằm khuyên răn con người luôn tích tụ điều thiện, đừng bao giờ làm điều ác. Nhân là mầm mống của quả, nhưng muốn thành quả thì phải gặp đủ duyên. ở đây chính là sự gặp gỡ giữa người thợ săn với vị sư dẫn đến chỗ tích đức bằng việc đắp núi cát. Và tục đắp núi cát được thực hiện vào ngày đầu năm mới cũng chính với mục đích kêu gọi mọi người hãy cố gắng làm điều thiện. Vì ngày đầu năm nếu chúng ta tích được nhiều phước đức chắc chắn sẽ được yên lành hạnh phúc suốt cả năm. Ngày thứ ba của lễ Chol-chhnăm-thmây là ngày “Lơng săk”. Sau khi dâng cơm sáng và trưa cho các vị sư, mọi người đem nước thơm cùng nhang đèn đến bàn thờ Phật làm lễ tắm tượng Phật và tắm các vị sư cao niên, nhằm trút bỏ những bụi bặm xấu xa của năm cũ để đón nhận một năm mới tươi vui hạnh phúc. Buổi chiều người ta thỉnh các vị sư đến các ngôi tháp đựng hài cốt để làm lễ cầu siêu cho vong linh những người quá cố. 2.2. Lễ Đôn ta (lễ cúng ông bà) Đây là lễ lớn thứ hai của người Khơme, được tổ chức trong 3 ngày, từ 29-8 đến 1- 9 âm lịch để tụng kinh cầu siêu, cầu phước cho linh hồn thân nhân quá vãng đang sống bơ vơ trên cõi trần hay nơi địa ngục để sớm được lên cõi Phật. Người Khơme thường có phong tục hoả thiêu người chết, sau đó xương tro sẽ được gửi vào đất Phật - nhà chùa, nên việc thờ cúng tổ tiên cũng như cách thức làm lễ kỵ hàng năm tại nhà rất ít được quan tâm, mà thường chỉ được tổ chức chung tại chùa gọi là lễ Sên Đôn ta. Như vậy đây thực ra là một lễ thức dân gian đã được khoác thêm “tấm áo nhà Phật”. Từ đó mà lễ được cử hành tại chùa là chính, mặc dù trong những ngày lễ người ta cũng có tổ chức tại nhà. 2.3. Lễ Ok-Om bok (lễ cúng trăng) Được tổ chức hàng năm vào ngày rằm tháng “Ka đấc” (15-10 âm lịch) nhằm tưởng nhớ và tạ ơn mặt trăng vốn được người Khơme xem như một vị thần điều động mùa màng trong năm. Lễ vật để cúng chủ yếu là cốm dẹp vì thế mà lễ cúng trăng còn được gọi là lễ “Ok om bok” tức là lễ Đút cốm dẹp. Người Khơme là cư dân nông nghiệp, làm ruộng theo hai mùa trong năm. Mùa mưa được tính từ 16-4 đến 15-10 âm lịch, mùa khô được tính từ 16-10 đến 15-4 âm lịch. Vì thế 15-10 là ngày cuối cùng của mùa hạ và cũng là thời gian thu hoạch hoa màu các loại, trong đó có lúa nếp là sớm nhất, và để nhớ ơn mặt trăng người ta lấy lúa nếp giã thành cốm dẹp cùng với các hoa màu khác để cúng trăng.
  6. Đúng vào đêm trăng tròn tháng “Ka Đấc”, trước khi mặt trăng lên đỉnh đầu, mọi người tập trung tại khuôn viên chùa, tại từng nhà hay nhiều nhà cùng đến một nơi rộng rãi không có bóng cây che khuất để làm lễ cúng trăng. Lễ vật ngoài cốm dẹp ra còn có một số loại nông sản khác như: dừa, chuối, khoai, sắn, khoai sọ (môn), bánh kẹo v.v... mọi người ngồi chắp tay trước bàn bầy lễ vật, mặt hướng lên mặt trăng để làm lễ. Đúng khi mặt trăng lên cao toả sáng, người ta đốt nhang nến, rót trà và mời một vị Acha làm chủ lễ. Vị Acha khấn vái, nói lên lòng biết ơn của con người đối với mặt trăng, xin thần tiếp nhận những lễ vật do bà con dâng cúng và ban phước cho con người, làm cho mưa thuận gió hoà để mọi người được hưởng nhiều thành quả lao động trong năm tới. Sau đó các cụ già gọi trẻ em đến và đút vào miệng chúng các thứ được bầy cúng, rồi đấm lưng và hỏi chúng muốn gì. Những câu trả lời của các em sẽ là niềm tin của người lớn về kết quả tốt xấu trong năm tới. Sự hình thành lễ cúng trăng còn được giải thích theo sự tích “Con thỏ và mặt trăng”, một sự tích có liên quan đến Phật giáo. Trước đức tính tốt đẹp và lòng hy sinh cao cả của thỏ (đã nhảy vào lửa để biến mình thành một món ăn dâng lên thần Sê Kra), thần Sê Kra đã biến thân mình cao lớn đụng tới mây xanh, đưa tay vịn vào ngọn núi và vẽ hình thỏ lên mặt trăng để cho người đời thấy đó mà noi theo. Do đó lễ cúng trăng cũng đồng thời để nhớ đến nghĩa cử của thỏ, mà chính là hình ảnh của Đức Phật ở tiền kiếp vậy. Như vậy lễ cúng trăng cũng là một lễ thức dân gian được pha trộn yếu tố tôn giáo. 2.4. Lễ ca-thanh - nắ - tiên (lễ dâng y cà sa) Là một lễ hội tôn giáo lớn của người Khơme để dâng áo cà sa cho các nhà sư trong chùa. Lễ này do Đức Phật lập ra, vì xưa kia có một vài môn đệ sau ngày xuất hạ đi đặt bát (trì bình) trên những con đường lầy lội hoặc phải băng qua nhiều khu rừng rậm gai góc âm u, vì thế áo cà sa bị lấm bùn và rách nát. Từ đó mà Đức Phật chấp nhận cho các tăng sĩ nhận áo cà sa mới, sạch do tín đồ dâng cúng (theo nguyên tắc người tu hành phải tự may lấy áo cà sa cho mình từ những mảnh vải vụn nhặt được ngoài đường). Lễ ca - thanh - nắ - tiên có ý nghĩa rất lớn đối với các Phật tử Khơme, thông qua đó phước đức của con người sẽ được tích tụ rất lớn, gấp trăm ngàn lần so với những việc làm từ thiện khác. Dù cuộc sống còn chật vật đến đâu, mỗi Phật tử cũng cố gắng dành dụm tiền bạc của cải, vật lễ để được làm lễ “ca- thanh-nắ- tiên” nếu không nhiều thì chí ít cũng phải là một lần trong đời mình. Với tính chất và ý nghĩa lớn lao như vậy mà lễ ca - thanh - nắ - tiên được tiến hành trong khoảng gần một tháng kể từ ngày “xuất hạ” 16-9 cho đến 15-10 âm lịch. Phật tử sẽ chọn một trong số 29 ngày đó để làm lễ “dâng y” cho các nhà sư trong chùa thuộc khu vực mình. Tuy nhiên mỗi chùa chỉ được làm lễ này một lần trong năm.
  7. Theo tập tục, buổi lễ sẽ diễn ra trong một ngày một đêm. Bà con phật tử trong phạm vi ảnh hưởng của chùa được làm lễ này, sẽ tuỳ theo điều kiện vật chất mà chung góp nhau lại thành nhóm do một gia đình làm chủ lễ. Gia đình chủ trì cũng thay đổi theo từng năm, nhưng phải khá giả để đứng ra sắm lễ, đãi cơm tiếp khách. Ngoài áo cà sa, phật tử dâng cả bình bát, mùng, chiếu, bát đĩa, bánh trái và những vật dụng cần thiết khác. ở mỗi phum có một người đứng ra quyên góp tiền bạc để kết thành những bông hoa rất đẹp dâng lên chùa, nhằm góp phần gây dựng ngôi chùa của phum sróc mình ngày càng khang trang lộng lẫy hơn. 2.5. Lễ an vị tượng Phật Đây cũng là một lễ hội tôn giáo của người Khơme, được tổ chức trọng thể nhằm “hợp thức hóa” tượng Phật, nếu không làm lễ này thì tượng Phật không đủ quy cách và điều kiện đem về chùa. Tượng Phật theo luật đạo đáng lẽ phải được đắp cùng lúc xây dựng chùa, nhưng do lòng thành kính của các phật tử cũng như sự tích đức của mỗi người trong đời mình mà bà con phật tử đã làm tượng dâng lên chùa. Song, trước khi tượng ấy được đặt lên bàn thờ Phật nơi chính điện hay xala, người ta phải làm lễ an vị tượng Phật. Lễ này không quy định thời gian, thường kéo dài từ hai đến ba ngày tại tư gia hay tại chùa đều được, nhưng phải có mặt nhiều vị sư ở các chùa khác đến dự (từ hai mươi vị trở lên), và tín đồ ít nhất cũng phải có cả trăm người trở lên thì lễ mới được long trọng và hợp nguyên tắc. Nghi lễ được tiến hành theo đúng phong tục của Phật giáo. Quan trọng nhất là vào rạng đông ngày cuối cùng sau khi nhà sư đọc kinh “chắ - yon - tô” trước tượng Phật để nhớ ngày Đức Thích Ca thắng ma vương dưới gốc cây bồ đề. Sau đó bà con phật tử đọc kinh cầu phước và làm lễ dâng cơm lên nhà sư để chấm dứt buổi lễ. Tượng Phật bây giờ đã đủ điều kiện đặt lên bàn thờ để cho bà con phật tử cúng bái và thực hiện nhiều nghi lễ khác. Trên đây là vài lễ hội tiêu biểu quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người Khơme, mang tính chất thiêng liêng trang trọng. Đối với người Khơme, hội lễ không phải chỉ là dịp để vui chơi giải trí... mà trước tiên mang ý nghĩa là những “đám phước”. Dù có nghèo khó chăng nữa, các phật tử trong những ngày này vẫn không quản tốn kém mua sắm các lễ vật và đem tiền bạc dâng cúng vào chùa. Tuy nhiên, để làm tăng thêm giá trị của lễ, cũng như tạo được bầu không khí vui tươi nhộn nhịp trong ngày hội, thường diễn ra các sinh hoạt văn nghệ. Nói một cách khác, hội lễ thường gắn với các hình thức văn nghệ truyền thống lâu đời. Với người Khơme thì những lễ hội tại các ngôi chùa là môi trường tốt để nghệ thuật cổ truyền của dân tộc được phát huy tác dụng. Những loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống như: Dù kê, Rô băm, các điệu múa Sarawan, Rom wong
  8. v.v... được các nghệ nhân chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư đua tài biểu diễn “làm phước” đúng như nội dung của hội lễ. Các buổi trình diễn văn nghệ này đã thể hiện đầy đủ bản sắc văn hóa dân tộc và khẳng định được trình độ văn hóa của cả cộng đồng. Dân tộc Khơme vốn rất yêu thích văn nghệ, những món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của họ. Ca múa nhạc của người Khơme hết sức phong phú, đa dạng và đã đạt đến trình độ phát triển cao. Chẳng hạn về nhạc cụ Khơme có rất nhiều loại, trong đó nổi bật hơn cả là dàn nhạc “Ping Peat” (nhạc ngũ âm - theo cách gọi của người Kinh). Tuy nhiên, đối với các hội lễ, thì hình thức văn nghệ được biểu diễn chủ yếu vẫn là múa, mà phổ biến nhất là 3 điệu Rom vong, Lâm lêv và Sarawan. Đến với người Khơme vào những dịp lễ hội chúng ta sẽ được tiếp đón bằng nghệ thuật múa. Ai cũng biết múa. Múa đẹp là một phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Khơme. Múa là để bộc lộ niềm sung sướng của lòng mình, để thắt chặt tình thân ái trong cuộc vui của ngày hội. Giữa cuộc vui, tiếng nhạc vừa nổi lên rộn rã thế là tất cả mọi người có mặt đều lần lượt bước vào vòng múa. Những thanh niên trai gái cứ thế mà say sưa múa với nhau trong suốt thời gian của ngày hội, tạo cho bầu không khí của ngôi chùa càng thêm náo nức vui tươi trong sự hoà đồng của thế nhân. Như vậy, ngôi chùa của người Khơme đã thể hiện đầy đủ chức năng của một trung tâm văn hóa, là nơi để cử hành lễ hội và đồng thời cũng là nơi diễn ra các sinh hoạt văn nghệ. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc lại có một nền văn hóa riêng với những giá trị truyền thống từ lâu đời. Nền văn hóa của mỗi dân tộc mặc dù có sự phát triển không đồng đều và có những ảnh hưởng nhất định trong sự giao lưu với các dân tộc khác xung quanh, nhưng ta vẫn thấy toát lên những điển hình mang bản sắc riêng của từng dân tộc, góp phần làm phong phú và đa dạng nền văn hóa Việt Nam. Cho nên vấn đề phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện nay đồng thời cũng là vấn đề bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số. Để thúc đẩy sự nghiệp phát triển nền văn hóa dân tộc Khơme trong tương lai, góp phần làm phong phú đa dạng kho tàng văn hóa Việt Nam, trước mắt cần phải chú trọng đến việc đồng thời phát triển, nâng cao đời sống kinh tế và văn hóa cho đồng bào Khơme. Đặc biệt là việc tôn tạo ngôi chùa một bộ phận cấu thành văn hóa Khơme, vì ngôi chùa đã được người Khơme xem như một “bảo bối”, một “vật thiêng” trong ý thức, đó chính là di sản văn hóa của dân tộc mà từ xưa tổ tiên đã xây dựng nên. Để làm được điều đó, cần chú ý một số vấn đề có ý nghĩa thực tiễn sau đây:
  9. - Các cơ quan văn hóa cũng như các ngành có liên quan cần tiến hành những cuộc khảo sát thực địa đối với các ngôi chùa Khơme, nhằm thấy được những giá trị văn hóa được biểu hiện qua ngôi chùa. Từ đó có thể đề xuất công nhận là di tích lịch sử, là di sản văn hóa dân tộc, mà có những biện pháp - Thích hợp nhằm bảo vệ, đầu tư kinh phí, trùng tu nâng cấp một số ngôi chùa xứng đáng là trung tâm văn hóa của đồng bào Khơme. - Nhà nước và các cơ quan chức năng sớm có những chế độ chính sách ưu đãi đối với các nghệ nhân Khơme: nhà điêu khắc, tạc tượng, hoạ sĩ, nhạc công v.v... Những nghệ sĩ/nhân này cần được nâng cao tay nghề nghiệp vụ, bằng cách lập ra những chương trình đào tạo theo quy trình khoa học hiện đại, tức là vừa nắm bắt được lý thuyết, vừa có kinh nghiệm trong thực tế. Có như vậy họ mới phát huy hết tài năng sáng tạo của mình. - Việc đầu tư và đưa các hình thức hoạt động văn hóa thông tin vào một số ngôi chùa mà hiện nay ở một số nơi đã thực hiện như: nhà truyền thống, triển lãm, sân khấu ngoài trời v.v.. là việc làm thiết thực và có ý nghĩa rất lớn trong đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào Khơme. Song, sự hình thành thiết chế mới này cũng cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng về phong tục tập quán, về nếp sống, nếp nghĩ trong ý thức dân tộc. Bởi vì ngôi chùa vốn là chốn tu hành, nơi thanh tĩnh, đối trọng với sự ồn ào của ngoài đời (ngoại trừ những ngày lễ hội). Do đó chúng ta cần phải cân nhắc khi thực hiện việc này. - Trong xu hướng phát triển chung về văn hóa của đồng bào Khơme, đặc biệt nhất là những sinh hoạt liên quan tới ngôi chùa. Các cơ quan văn hóa nên nghiên cứu tổ chức hội thi, hội diễn cấp khu vực giành riêng cho phong trào văn nghệ quần chúng của đồng bào Khơme. Ngành xuất bản, phát hành sách, thư viện cần bổ sung loại ấn phẩm nhằm phục vụ đồng bào Khơme, đặc biệt là loại sách bằng ngôn ngữ Khơme và dạy tiếng Khơme. Ngành điện ảnh cần bổ sung lượng phim ảnh tự sản xuất hoặc nhập từ bên ngoài (có thuyết minh bằng tiếng dân tộc) phản ánh về đời sống ... của đồng bào Khơme. Đài phát thanh và truyền hình tỉnh cần xây dựng một chương tình thường nhật nói về đời sống và văn hóa Khơme bằng tiếng Khơme. - Nâng cao ý thức tự giác dân tộc bằng việc cố gắng gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, từ đường nét hoa văn cho đến các tập tục, lễ nghi sinh hoạt tôn giáo và các lễ hội truyền thống dân tộc. Tất cả phải được quan tâm trong ý thức bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trước sự xâm nhập của những yếu tố ngoại sinh đương đại. Điều này cũng có nghĩa là phải tôn trọng mối quan hệ mật thiết giữa bà con Phật tử với ngôi chùa, cụ thể là với các nhà sư.
  10. - Chống những vi phạm tới lẽ đạo và lẽ đời. Một số lễ hội cần thiết nên rút ngắn lại về thời gian, nhưng làm sao không ảnh hưởng đến truyền thống và phong tục dân tộc. Các nhà sư cần đề cao hơn nữa vai trò của mình trong việc giáo dục trẻ em. Nhà chùa cần thường xuyên mở lớp dạy chữ, dạy những điều hay lẽ phải thuộc giáo lý đạo Phật đối với các con em Khơme. Đặc biệt là các bậc phụ huynh cố gắng tác động đến con em mình trong ý thức học tập chữ viết Khơme và tiếng nói dân tộc, nhằm nâng cao trình độ hiểu biết về văn hóa dân tộc, và từ đấy sẽ tạo nên sự trân trọng những giá trị của truyền thống./.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2