Chứng khoán hóa nợ xấu – Biện pháp xử lý nợ của tương lai<br />
<br />
ThS. Nguyễn Văn Thọ VietcomBank<br />
Ths. Nguyễn Ngọc Linh – BaovietBank<br />
<br />
Chứng khoán hóa là nghiệp vụ đã được áp dụng từ đầu thập niên 1970 trên thị trường <br />
chứng khoán các quốc gia phát triển trên thế giới và đạt được nhiều thành công. Tuy nhiên <br />
tại Việt Nam, đây vẫn là một khái niệm mới, đặc biệt, việc chứng khoán hóa các khoản <br />
nợ xấu để xử lý thì gần như chưa được đề cập. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam <br />
nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng, việc áp dụng chứng khoán hóa và chứng <br />
khoán hóa nợ xấu để xử lý chưa thực hiện được tại Việt Nam. Dù vây, cùng với sự phát <br />
triển ổn định của kinh tế vi mô và vững chắc của thị trường chứng khoán, việc chứng <br />
khóa hóa các khoản nợ xấu để xử lý là một biện pháp cần được tính đến trong tương lai.<br />
<br />
1. Khái niệm nội dung chứng khoán hóa<br />
<br />
1.1. Thế nào là chứng khoán hóa<br />
Chứng khoán hóa (chuyển thành chứng khoán) là quá trình tập hợp và tái cấu trúc các <br />
tài sản thiếu tính thanh khoản nhưng lại có thu nhập cao bằng tiền trong tương lai như các <br />
khoản phải thu, các khoản nợ chuyển đổi thành trái phiếu, hay gọi chung là chứng khoán <br />
và đưa ra giao dịch trên thị trường. Nói cách khác, chứng khoán hóa là việc chuyển các thể <br />
thức tín dụng thành thể thức chứng khoán, phát hành trong công chúng tạo điều kiện thuận <br />
lợi cho việc mua bán của các nhà đầu tư.<br />
Thông thường kỹ thuật chứng khoán hóa được thực hiện trên hai nhóm tài sản chủ <br />
yếu: (1) các khoản vay được thế chấp bằng bất động sản và (2) các tài sản tài chính <br />
không được thế chấp bằng bất động sản; và từ đó hình thành tương ứng hai loại chứng <br />
khoán:<br />
Chứng khoán dựa trên thế chấp bất động sản (Mortgage backed securities) <br />
được hình thành từ chuyển đổi các khoản vay có tài sản thế chấp, khi đó công ty phát <br />
hành, chủ nợ thứ nhất, sẽ chuyển giao toàn bộ giấy tờ thế chấp cho nhà đầu tư mua trái <br />
phiếu này. Loại trái phiếu này tuy có độ an toàn cao hơn, vì có vật đảm bảo khoản vay, <br />
nhưng lãi suất lại thấp hơn so với chứng khoán tài sản tài chính. Thực chất với những trái <br />
phiếu gắn liền với tài sản thế chấp này thì có đủ điều kiện để xem đó là một thương vụ <br />
bán tài sản. Người bán không còn chịu rủi ro thua lỗ từ số tài sản sau khi đã chuyển đổi và <br />
không phải chịu trách nhiệm với người mua vì người vay bị vỡ nợ hay có sự thay đổi giá <br />
thị trường về tài sản đó. <br />
Chứng khoán tài sản tài chính (Asset backed securities ABS) được hình thành từ <br />
việc chuyển đổi các khoản phải thu, như phải thu từ tín dụng, từ cho vay mua ô tô, vay để <br />
xây nhà, để tiêu dùng cho gia đình...Ngân hàng hay những tổ chức cho vay sẽ chuyển <br />
những khoản phải thu này thành trái phiếu, bán cho các nhà đầu tư để thu về nhanh chóng <br />
các khoản nợ đó. Về phía các nhà đầu tư, khi cầm chứng khoán này trong tay họ sẽ trở <br />
<br />
Bài luận 3 Page 1<br />
thành chủ nợ mới và có quyền đòi cả gốc và lãi khi giấy nợ đã đến hạn. Tuy nhiên với <br />
những khoản nợ không có tài sản thế chấp thì độ rủi ro khi cầm chứng khoán rất cao vì có <br />
thể sẽ không đòi lại được khoản nợ này. <br />
1.2. Đặc điểm của chứng khoán hóa<br />
<br />
Quá trình chứng khoán hóa là một tập hợp các tài sản có tính chất tương đồng, có <br />
tính thanh khoản thấp, có khả năng tạo ra dòng tiền, và phát hành các quyền đòi nợ trên cơ <br />
sở các dòng tiền đó dưới các dạng chứng khoán. Chứng khoán hóacó một số đặc điểm sau <br />
đây:<br />
<br />
Chứng khoán hóalà một quá trình tập hợp và phân tách; là quá trình tái cấu trúc một <br />
thực thể thống nhất. Các tài sản được chứng khoán hóa trước tiên phải được tập hợp lại <br />
thành nhóm theo dòng tiền mà tập hợp tài sản này tạo ra. Sau đó, người ta chia nhỏ giá trị <br />
của tập hợp dòng tiền này thành các chứng khoán theo những mệnh giá nhất định bán <br />
được trên thị trường.<br />
Chứng khoán hóalà một quá trình tạo thêm các chứng khoán cho thị trường.<br />
Các chứng khoán được phát hành ra có thể được đảm bảo bằng một tài sản thực <br />
(tài sản thế chấp), ví dụ như trường hợp chứng khoán hoá các khoản cho vay thế chấp, <br />
hoặc không được bảo đảm bằng một tài sản thực trong trường hợp chứng khoán hoá các <br />
khoản phải thu.<br />
1.3. Vai trò của chứng khoán hóa<br />
Có 4 loại chủ thể kinh tế chủ yếu liên quan đến quá trình chứng khoán hóa, đó là: <br />
người thế chấp và đi vay, tổ chức tập hợp và đóng gói tài sản thế chấp rồi phát hành <br />
chứng khoán, nhà đầu tư mua bán chứng khoán, và tổ chức tín dụng cho vay. Với 4 loại <br />
chủ thể kinh tế thay vì 2 loại là người thế chấp đi vay và tổ chức tín dụng cho vay, rủi ro <br />
được chuyển từ tổ chức tài chính sang nhà đầu tư trái phiếu đảm bảo bằng tài sản. Việc <br />
gộp nhiều loại tài sản thế chấp khác nhau vào một tập hợp cũng là một hình thức phân tán <br />
rủi ro. Vì thế, đã có cách gọi các trung gian tài chính tham gia vào chứng khoán hóa là <br />
những người tạo ra và phân tán rủi ro. Hai loại chủ thể kinh tế trung gian giữa người đi <br />
vay và tổ chức tín dụng cho vay đóng vai trò trung gianmôi giới, nên giúp cho người vay <br />
và tổ chức tín dụng dễ “gặp nhau” hơn. Ngoài ra, chứng khoán hóa còn giúp giảm chi phí <br />
huy động tài chính. Dù người đi vay có mức xếp hạng tín nhiệm không cao nhưng với tài <br />
sản đem thế chấp tốt thì chứng khoán đảm bảo bằng tài sản này vẫn có thể được xếp <br />
hạng tín nhiệm cao và dễ bán. Chính vì thế, chứng khoán hóa tạo thuận lợi cho việc vay <br />
và cho vay có thế chấp.<br />
2. Chứng khoán hóa để xử lý nợ xấu tại Việt Nam<br />
2.1. Thế nào là chứng khoán hóa để xử lý nợ xấu<br />
Hiện nay, có nhiều quan điểm về chứng khoán hóa để xử lý nợ xấu. Nếu xét theo <br />
quan điểm chứng khoán hóa đã nêu tại phần 1 thì chứng khoán hóa nợ xấu chứng khoán <br />
hóa nợ xấu là một phương cách/kỹ thuật chuyển hóa các khoản nợ thành các loại trái <br />
phiếu hoặc cổ phiếu khác nhau và các chứng khoán này có thể được bảo đảm bằng những <br />
Bài luận 3 Page 2<br />
tài sản thế chấp hoặc một định chế tài chính uy tín hoặc cơ quan nào đó của Chính phủ, <br />
được đóng gói và bán (đấu giá) trên thị trường.<br />
<br />
Quan điểm thứ hai cho rằng việc chứng khoán hóa nợ xấu là việc chuyển hoá các <br />
khoản nợ, biến nó thành cổ phần. Biện pháp này chính là biện pháp chuyển nợ thành vốn <br />
góp, chủ nợ là các TCTD sẽ thực hiện việc chuyển khoản nợ của mình thành vốn góp vào <br />
doanh nghiệp, khi khoản nợ đã được chuyển thành cổ phần, thì có thể tìm nhà đầu tư, đối <br />
tác mua lại nợ với một tỉ lệ sở hữu, chi phối để các nhà đầu tư, đối tác mới có thể tiếp <br />
cận và tái cấu trúc doanh nghiệp, quản lý doanh nghiệp.<br />
<br />
2.2. Thực trạng hoạt động chứng khoán hóa nợ xấu tại Việt Nam<br />
2.2.1. Mô hình chứng khoán nợ xấu tại Việt Nam<br />
Để thực hiện chứng khoán hóa nợ xấu, Việt Nam có thể áp dụng 2 mô hình như <br />
sau:<br />
o Mô hình 1: Chuyển khoản nợ xấu thành trái phiếu, và thực hiện bán trên thị <br />
trường chứng khoán để xử lý nợ: Việc chứng khoán hóa nợ xấu này đã được áp dụng với <br />
VN cách đây gần 20 năm. Đó là trường hợp VN đã thông qua việc giải quyết nợ với Câu <br />
lạc bộ London vào cuối năm 1997. Các khoản nợ thương mại của VN không thanh toán <br />
theo đó đã được các chủ nợ trong Câu lạc bộ London đồng ý chuyển thành mấy loại trái <br />
phiếu – trái phiếu nợ gốc mới, trái phiếu nợ lãi mới… Các chủ nợ cũ nhận các trái phiếu <br />
mới này và họ có quyền mua bán trên thị trường trái phiếu quốc tế.<br />
Chi tiết các giai đoạn của Mô hình 1 có thể mô tả như sau:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
- Bước 1: Các TCTD có nợ xấu sẽ thực hiện việc chuyển nợ xấu thành trái phiếu, <br />
căn cứ vào giá trị tài sản bảo đảm hiện tại của khoản nợ<br />
<br />
- Bước 2: TCTD sẽ bán trái phiếu đã được chuyển đổi từ khoản nợ xấu như một <br />
sản phẩm phái sinh trên thị trường chứng khoán để giao dịch <br />
<br />
- Bước 3: TCTD sau khi bán được trái phiếu chuyển đổi sẽ thu hồi nợ xấu, các chủ <br />
nợ mới (nhà đầu tư đã mua trái phiếu chuyển đổi) sẽ tham gia tái cấu trúc lạidoanh đang <br />
gặp khó khăn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bài luận 3 Page 3<br />
- Bước 4:Chủ nợ mới sau khi đầu tư thêm vốn và tham gia vào quá trình tái cấu trúc <br />
lại doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn đầu tư bằng cách bán lại trái phiếu đang sở hữu hoặc thu <br />
hồi từ tiền chi trả cổ tức từ hoạt động kinh doanh hàng năm của doanh nghiệp.<br />
<br />
Trên thực tế, việc thực hiện chứng khoán hóa tại Việt Nam theo Mô hình 1 đã từng <br />
được thực hiện, tuy nhiên, quá trình xử lý chỉ dừng lại ở Bước 1. Hai trường hợp điển <br />
hình nhắc đến ở đây là trường hợp hoán đổi nợ của Công ty Vinashin thành trái phiếu và <br />
việc bán nợ xấu cho VAMC để nhận trái phiếu.<br />
Đối với trường hợp của Vinashin, hai tổ chức nữa nhận trách nhiệm xử lý nợ xấu <br />
của Vinashin là DATC và Vinalines. Đến thời điểm hiện nay, DATC đã cơ cấu được <br />
khoản nợ với tổng giá trị 13.152 tỉ đồng của Vinashin (cả nợ gốc lẫn lãi) theo hình thức <br />
chuyển đổi thành trái phiếu. Khoản nợ 13.084 tỉ đồng còn lại dự kiến sẽ thực hiện <br />
chuyển đổi xong trong năm 2014. Vinalines cũng đang có dự kiến chuyển đổi số nợ của <br />
Vinashin thành trái phiếu.Như vậy, thay vì phải trả nợ, Vinashin đã chuyển số nợ sang <br />
DATC, một đơn vị trung gian nhiệm vụ xử lý nợ ở các doanh nghiệp nhà nước của Chính <br />
phủ. Chuyển nợ cho DATC cũng đồng nghĩa, Chính Phủ lại phải chịu trách nhiệm trả nợ.<br />
Đối với trường hợp bán nợ xấu cho VAMC, các TCTD sẽ nhận lại trái phiếu đặc <br />
biệt do VAMC phát hành trong thời gian 5 năm. Các TCTD sẽ dùng trái phiếu đặc biệt này <br />
để vay vốn tái chiết khấu từ NHNN để khơi thông vốn đọng trong nợ xấu. Thực chất, <br />
việc bán nợ cho VAMC không giải quyết triệt để nợ xấu, do các TCTD vẫn phải chịu <br />
trách nhiệm thu hồi khoản nợ xấu đã bán, và VAMC cũng chưa có kế hoạch để tái cơ cấu <br />
lại các doanh nghiệp đã mua.<br />
Tuy nhiên, với những đặc điểm riêng của nền kinh tế, có nhiều lý do khiến Mô hình <br />
1 khó có thể thực hiện được tại Việt Nam hiện tại, bao gồm:<br />
(i) Chưa có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cho việc chứng khoán hóa để xử lý <br />
nợ xấu<br />
(ii) Thời gian xử lý thu hồi vốn của ngân hàng sẽ kéo dài và qua nhiều thủ tục phức <br />
tạp<br />
(iii) Khó tìm được khách hàng mua trái phiếu được chuyển đổi từ một doanh nghiệp <br />
đang gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh bởi các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư <br />
mua sản phẩm trên thị trường chứng khoán luôn luôn quan tâm đến khả năng sinh lời và tỷ <br />
lệ thu hồi vốn vay. Như vậy, kết thúc quá trình chứng khoán hóa nợ xấu thì ngân hàng <br />
không bán được trái phiếu để thu hồi vốn, và doanh nghiệp giả sử trong trường hợp ngân <br />
háng bán được hết trái phiếu cũng không có vốn để khôi phục lại hoạt động kinh doanh và <br />
trái phiếu của các nhà đầu tư đã bỏ tiền để mua cũng không có giá trị.<br />
<br />
o Mô hình 2: Chuyển nợ thành vốn góp, sau đó trực tiếp quản lý hoặc thuê người <br />
quản lý, sau một thời gian doanh nghiệp hoạt động trở lại thì phát hành cổ phiếu thông <br />
qua thị trường chứng khoán để thu hồi vốn.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bài luận 3 Page 4<br />
Bước 1: Các TCTD thay vì thu hồi tiền nợ đã cho doanh nghiệp vay, họ sẽ lấy <br />
khoản nợ phải thu đó để “mua” chính cổ phần của doanh nghiệp từ chủ nợ hoặc bán cho <br />
các công ty mua bán nợ với giá tương đương hoặc theo thỏa thuận. Khi đó, TCTDhoặc tổ <br />
chức mua nợ nợ sẽ trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp<br />
Bước 2:Chủ nợ mới của doanh nghiệpđầu tư thêm vốn hoặc hợp tác với các đối <br />
tác/nhà đầu tư khác để tái cơ cấu lại toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp từ tổ chức nhân <br />
sự đến hoạt động kinh doanh và định hướng phát triển…<br />
Bước 3: Chủ nợ mới sau một thời gian tái cấu trúc đưa doanh nghiệp trở lại hoạt <br />
động bình thường sẽ thực hiện phát hành cổ phần và niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch <br />
chứng khoán để thu hồi vốn đầu tư hoặc tiếp tục sở hữu cổ phiếu của doanh nghiệp để <br />
như một khoản đầu tư dài hạn (hưởng cổ tức chi trả hàng năm từ hoạt động kinh doanh).<br />
Tại Viêt Nam, việc thực hiện chứng khoán hóa nợ xấu theo Mô hình 2 đã đạt được <br />
nhiều kết quả khả quan với sự tham gia chính của Công ty mua bán tài sản và nợ tồn đọng <br />
của Bộ tài chính (DATC). Từ năm 2006 đến 2013, DATC đã tái cấu trúc thành công 54 <br />
doanh nghiệptrong bối cảnh môi trường pháp lý chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện. Đây không <br />
chỉ là một kết quả rất tích cực nếu so sánh với quá trình cổ phần hóa DNNN mà điều đáng <br />
nói là các DN được DATC tái cơ cấu đã có nhiều chuyển biến tích cực khi đã sớm ổn định <br />
SXKD, có lợi nhuận cao chỉ trong một thời gian ngắn sau khi được tái cơ cấu, đều có tình <br />
hình tài chính lành mạnh, hoạt động hiệu quả, có triển vọng tiếp tục phát triển tốt trong <br />
thời gian tiếp theo. Điển hình là các DN như Sadico Cần Thơ, Công ty Procimex Việt <br />
Nam, Công ty mía đường Sơn La, Công ty mía đường Kon Tum, Công ty công trình giao <br />
thông 677, Công ty cơ khí 4 và xây dựng Thăng Long, Công ty sản xuất thương mại Hữu <br />
nghị Đà Nẵng...Trong mười năm hoạt động của mình, DATC đã mua được hơn 8.500 tỷ <br />
đồng nợ tồn đọng, giúp đẩy mạnh hoạt động xử lý nợ xấu với các ngân hàng, qua đó đã <br />
giúp các ngân hàng thương mại nhà nước xử lý nhanh một khối lượng lớn nợ tồn đọng, <br />
góp phần cải thiện và nâng cao năng lực tài chính để cổ phần hóa của chính ngân hàng đó, <br />
tăng cường tính an toàn của hệ thống tài chính ngân hàng trong quá trình cải cách và hội <br />
nhập. <br />
Các TCTD cũng bắt đầu tham gia vào quá trình chứng khoán hóa để xử lý nợ xấu, <br />
tuy chưa có nhiều kết quả nhưng bước đầu cũng khẳng định tính hiệu quả của biện pháp <br />
này. Điển hình là trường hợp Công ty CP Thủy sản Bình An (Bianfishco) được SHB tham <br />
gia tái cấu trúc toàn diện và vực dậy doanh nghiệp thành công.<br />
<br />
Bài luận 3 Page 5<br />
2.2.3. Đặc điểm của chứng khoán hóa nợ xấu tại Việt Nam<br />
<br />
Hoạt động chứng khoán hóa đã được nhiều nước trên thế giới thực hiện để xử lý nợ <br />
xấu. Ở châu Âu chứng khoán hóa đã cứu các tập đoàn viễn thông khỏi nguy cơ phá sản <br />
khi họ đã khôn ngoan chuyển các khoản doanh thu tương lai của các thuê bao cố định thành <br />
các ABS. Nhờ vậy mà công ty này có một khoản tiền đáng kể để trang trải cho các món <br />
nợ khổng lồ hậu quả của việc chạy đua tranh giành quyền cung cấp dịch vụ điện thoại <br />
di động thế hệ 3G. Đặc biệt là ở Hàn Quốc và Trung Quốc chứng khoán hóa đã giúp <br />
Chính phủ các quốc gia này vừa giải quyết được nợ xấu và vừa bổ sung hàng hóa cho thị <br />
trường chứng khoán.<br />
- Có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước: Khác với các nước có nền kinh tế phát triển <br />
trên thế giới đã có nền kinh tế thị trường đầy đủ, toàn bộ hoạt động chứng khoán hóa <br />
được thực hiện theo cơ chế thị trường. Ở Việt Nam, hoạt động của thị trường chứng <br />
khoán, đặc biệt là hoạt động chứng khoán hóa cần có sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước. <br />
Bài học từ khủng hoảng kinh tế tại Mỹ vào tháng 09/2008 với nguyên nhân xâu xa do nợ <br />
dưới chuẩn cao và hạn chế của công cụ chứng khoán hóa là bài học kinh nghiệm cho bất <br />
kỳ quốc gia nào về sau.<br />
<br />
- Quá trình chứng khoán hóa mất nhiều thời gian: Do việc chứng khoán hóa nợ xấu <br />
để xử lý tại Việt Nam gắn liền với tái cấu trúc lại hoạt động của doanh nghiệp có nợ xấu <br />
gặp khó khăn trong kinh doanh. Quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp là một quá trình phức <br />
tạp với rất nhiều công việc liên quan, bao gồm cả tái cơ cấu tài chính, tái cơ cấu tổ chức <br />
bộ máy, tái cơ cấu hoạt động SXKD, tái cơ cấu hệ thống quản trị, điều hành...điều này <br />
dẫn đến thời gian từ khi đầu tư đến khi thu hồi vốn sẽ phụ thuộc thời gian cơ cấu và tái <br />
cấu trúc doanh nghiệp thành công, thường vào khoảng 5 năm. Như vậy, chứng khoán hóa <br />
nợ xấu tại Việt Nam giống như một khoản đầu tư trung dài hạn trên thị trường chứng <br />
khoán.<br />
- Có sự tham gia trực tiếp của ngân hàng cũng như sự liên kết chặt chẽ giữa Hiệp <br />
hội ngân hàng và Hiệp hội các ngành sản xuất, sản phẩm được tài trợ tín dụng: các TCTD <br />
sẽ đứng ra bảo lãnh cho việc phát hành chứng khoán này và sử dụng vốn được cấp để <br />
tham gia vào quá trình tái cấu trúc công ty/bán cho công ty khác <br />
<br />
- Thị trường hàng hóa không nhiều sản phẩm: Số lượng các công ty có thể thực hiện <br />
chuyển nợ thành vốn góp không nhiều, cũng như một thị trường hàng hóa, sản phẩm ít sẽ <br />
không khuyến khích người mua và bán tham gia thị trường. Điều này là do tiêu chí lựa <br />
chọn các công ty để thực hiện chứng khoán hóa, phải là các doanh nghiệp có tiềm năng <br />
phát triển hiệu quả nếu được hỗ trợ; doanh nghiệp và các cơ quan liên quan (các chủ nợ <br />
khác, cơ quan chủ sở hữu doanh nghiệp) sẵn sàng hợp tác; các doanh nghiệp sẽ có những <br />
tác động tích cực đối với xã hội (như góp phần thúc đẩy quá trình sắp xếp lại, chuyển đổi <br />
sở hữu doanh nghiệp nhà nước; tạo công ăn việc làm cho một bộ phận lớn người lao <br />
<br />
<br />
<br />
Bài luận 3 Page 6<br />
động, góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị, xã hội ở một địa phương, một khu <br />
vực).<br />
<br />
- Chưa thể thực hiện được ở hiện tại: Một trong những mấu chốt căn bản để các <br />
sản phẩm chứng khoán hoá có thể phát triển, là thị trường chứng khoán phải phát triển. <br />
Trong khi đó, thị trường chứng khoán của VN vẫn còn bé, quy mô chưa đủ mạnh, chưa có <br />
các nền tảng để triển khai các công cụ và sản phẩm phái sinh như một thị trường phát <br />
triển. Do đó, việc chứng khoán hoá các khoản nợ xấu sẽ rất phức tạp, mất thời gian cũng <br />
như kém hiệu quả, thậm chí có thể làm phức tạp thêm thị trường. Hoạt động chứng khoán <br />
hóa tại Việt Nam là hoạt động mới đối với thị trường chứng khoán tại Việt Nam, việc <br />
chứng khoán hóa các khoản nợ tốt đã khó bán, chứng khoán hóa để bán những khoản nợ <br />
xấu càng khó khăn hơn, khi nền kinh tế kinh tế khó khăn, đặc biệt thị trường chứng khoán <br />
bị ảnh hưởng nghiêm trọng, các nhà đầu tư sẽ chọn lọc và khôn ngoan hơn khi chọn cho <br />
mình các cổ phiếu và danh mục đầu tư sinh lời cao và hạn chế rủi ro, vì vậy, việc mua <br />
một chứng khoán nợ xấu để đưa vào danh mục đầu tư sẽ được cân nhắc rất kỹ càng.<br />
<br />
3. Giải pháp, kiến nghị <br />
<br />
3.1. Nhóm giải pháp liên quan đến hoạt động chứng khoán hóa<br />
<br />
- Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động chứng khoán hóa<br />
<br />
Để xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán hóa không thể thiếu việc xây <br />
dựng một hệ thống pháp luật kinh tế phù hợp với tập quán quốc tế và các chuẩn mực kinh <br />
doanh hiện đại. Trong những năm gần đây, mặc dù đã đạt được những tiến bộ đáng kể <br />
trong lĩnh vực cải cách pháp luật, Việt Nam vẫn chưa có được một hệ thống pháp luật <br />
kinh tế hoàn chỉnh và đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn kinh doanh trong xu <br />
hướng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với kinh tế toàn cầu. Các vấn đề về luật pháp <br />
ần xây dựng cần tập trung vào các vấn đề sau: <br />
<br />
o Các tổ chức được tham gia chứng khoán hóa, trách nhiệm và quyền hạn<br />
<br />
o Việc phối hợp của các cơ quan chức năng trong việc xử lý tài sản bảo đảm nợ vay<br />
<br />
o Việc tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động chứng khoán hóa<br />
<br />
- Xây dựng thị trường chứng khoán hoạt động ổn định và bền vững<br />
<br />
Thị trường chứng khoán có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường mua bán nợ và việc <br />
tái cấu trúc lại nền kinh tế, đây cũng là kênh thu hút vốn đàu tư ngoại vào thị trường Việt <br />
Nam hiện nay. Doanh nghiệp sau khi được mua bán sẽ được đầu tư vốn để khôi phục <br />
hoạt động sản xuất kinh doanh, đến khi có đủ điều kiện, chủ nợ mới sẽ tiến hành IPO và <br />
đưa doanh nghiệp lên niêm yết trên sàn chứng khoán để thu hồi vốn đã đầu tư để mua nợ <br />
và đầu tư thêm. Một thị trường chứng khoán minh bạch, tăng trưởng tốt sẽ là thước đo <br />
<br />
<br />
Bài luận 3 Page 7<br />
chính xác sức khỏe của các doanh nghiệp niêm yết nói riêng và nền kinh tế nói chung, <br />
đồng thời cũng sẽ lằm tăng niềm tin của các nhà đầu tư mua nợ, khi thị trường chứng <br />
khoán sẽ là một trong những biện pháp thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra của mình.<br />
- Thành lập Công ty chứng khoán hóa nhà nước<br />
Việc thành lập công ty chứng khoán hóa là một trong những bước đi quan trọng của <br />
hoạt động chứng khoán hóa. Trước mắt, Nhà nước sẽ đứng ra thành lập các công ty chứng <br />
khoán nhà nước tận dụng uy tín và khả năng kêu gọi đầu tư của mình để thực hiện nghiệp <br />
vụ chứng khoán hóa đối với các khoản nợ xấu, từ đấy rút ra các bài học kinh nghiệm để <br />
hoàn thiện dần hoạt động này trong tương lai.<br />
- Từng bước áp dụng các phương pháp chứng khoán hóa các khoản cho vay, rồi đến <br />
các khoản nợ xấu, dần hình thành các loại trái phiếu chứng khoán hóa đơn giản, dần dần <br />
theo sự phát triển của thị trường sẽ tạo lập nhiều loại trái phiếu hơn nhằm khai thác thị <br />
hiếu đầu tư đa dạng của nhà đầu tư.<br />
- Tuyên truyền kiến thức về chứng khoán hóa:Việc tuyên truyền rộng rãi kiến thức <br />
về chứng khoán hóa cũng nên được thực hiện trong chương trình giáo dục hiện nay về lợi <br />
ích của thị trường chứng khoán cho các doanh nghiệp, các tổ chức và các nhà đầu tư.<br />
3.2. Hoàn thiện hệ thống phân loại, trích lập nợ chuẩn áp dụng chung cho tất cả các <br />
ngân hàng<br />
<br />
Sự khác nhau trong hệ thống trích lập và phân loại nợ hiện nay là mộ trong những <br />
điểm ngẽ trong quá trình xử lý nợ xấu. Việc xử lý một khoản nợ đang xếp nhóm nợ xấu <br />
ở TCTD này nhưng lại xếp loại nhóm nợ tốt ở một TCTD khác sẽ dẫn đến sự không <br />
thống nhất và kém hiệu quả trong quá trình xử lý. Vì vậy, NHNN cần tiếp tục triển khai <br />
Thông tư 02 và Thông tư 09 về trích lập và phân loại nợ theo đúng thời hạn để đưa tất cả <br />
các khoản nợ xấu ra xử lý triệt để, tránh tình trạng một số TCTD vì kết quả hoạt động <br />
kinh doanh mà giấu nợ xấu trên bảng cân đối kế toán.<br />
<br />
3.3. Xây dựng hệ thống tổ chức các công ty định giá độc lập được cấp giấy phép <br />
định giá các khoản nợ<br />
<br />
Một trong những điều kiện quan trọng để có thể thực hiện việc chứng khoán hóa nợ <br />
xấu để xử lý tai Việt Nam là việc định giá các khoản nợ, do liên quan trực tiếp đến việc <br />
chuyển khoản nợ thành trái phiếu có thể mua bán trên thị trường chứng khoán, cũng quan <br />
trọng như việc định giá công ty để tiến hành cổ phần hóa. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện <br />
nay chưa có hệ thống quy chuẩn cho việc định giá các khoản nợ. Vì vậy, Bộ Tài chính, <br />
NHNN cần có đề án xây dựng hệ thống tổ chức các công ty định giá độc lập được cấp <br />
giấy phép định giá các khoản nợ. Dựa trên hệ thống các công ty này, khi tiến hành việc <br />
chứng khoán hóa nợ xấu để xử lý, các TCTD sẽ có cơ sỏ để lựa chọn, đồng thời cũng là <br />
cơ sở để các đối tác, các nhà đầu tư theo dõi, xem xét trong việc ra quyết định đầu tư vào <br />
loại chứng khoán mới này. Việc thành lập mới một công ty chuyên về định giá nợ vay có <br />
thể là một giải pháp được xét đến trong dài hạn, tuy nhiên trong ngắn hạn, các cơ quan, <br />
Bài luận 3 Page 8<br />
ban ngành có thể rà soát dựa trên hệ thống các công ty có chức năng định giá hiện nay để <br />
chọn ra danh sách những công ty có năng lực và tổ chức đào tạo nghiệp vụ định gía khoản <br />
nợ để đáp ứng cho nhu cầu định giá các khoản nợ vay hiện nay.<br />
<br />
Việc phát triển và ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa nói chung và chứng khoán hóa <br />
các khoản nợ xấu để xử lý nợ nói riêng cần chuẩn bị kỹ lưỡng và có bước đi thích hợp, <br />
trong đó việc xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đến thị trường chứng khoán là một <br />
yêu cầu mang tính quyết định đến việc phát triển và ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hóa. <br />
Hiện tại Việt Nam chưa có đủ những điều kiện cần để phát triển và ứng dụng chứng <br />
khóa hóa cũng như chứng khoán hóa để để xử lý nợ xấu. Chính phủ, NHNN và các Bộ, <br />
Ban ngành cần quan tâm đến ứng dụng chứng khoán hóa và xây dựng lộ trình để áp dụng <br />
nghiệp vụ này tại Việt Nam. Bài học khủng hoảng kinh tế từ Mỹ vào năm 2008 mà <br />
nguyên nhân xuát phát từ hạn chế của chứng khoán hóa vẫn còn đó, chúng ta chỉ nên thực <br />
hiện việc phát triển công cụ này khi hội tụ đủ các điều kiện và phù hợp với trình độ phát <br />
triển của thị trường tài chính và nền kinh tế.<br />
<br />
Tài liệu tham khảo:<br />
1. http://dddn.com.vn/taichinhnganhang/chuyenhoacackhoannoxau <br />
20120720014334807.htm<br />
2. http://www.tapchitaichinh.vn/TaichinhKinhdoanh/Hoagiainoxauthanhvongop <br />
Hieuquadarorang/30010.tctc<br />
3. http://www.doisongphapluat.com/kinhdoanh/doanhnghiep/cacnganhanggiaihanno <br />
xauvinasinnhuthenaoa29531.html<br />
4. http://luatminhkhue.vn/quantri/ungdungchungkhoanhoatronghuydongvoncuacac <br />
doanhnghiepvietnam.aspx<br />
<br />
5. http://vi.wikipedia.org/wiki/Chứng_khoán_hóa<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bài luận 3 Page 9<br />