YOMEDIA
![](images/graphics/blank.gif)
ADSENSE
Chương XVII: Phong tục tập quán, lễ hội và tín ngưỡng, tôn giáo
157
lượt xem 11
download
lượt xem 11
download
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/images/down16x21.png)
Nội dung tài liệu trình bày phong tục tập quán, lễ hội và tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt Kinh qua quan hệ gia đình, gia tộc, dòng họ; tổ chức làng xóm và quan hệ láng giềng và tín ngưỡng thờ Mẫu. Mời các bạn tham khảo!
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chương XVII: Phong tục tập quán, lễ hội và tín ngưỡng, tôn giáo
Chương XVII<br />
PHONG TỤC TẬP QUÁN, LỄ HỘI VÀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO<br />
1. PHONG TỤC TẬP QUÁN, LỄ HỘI VÀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CỦA<br />
NGƯỜI VIỆT/KINH<br />
1.1. Phong tục tập quán<br />
1.1.1. Quan hệ gia đình, gia tộc, dòng họ<br />
- Quan hệ gia đình<br />
Gia đình là tập hợp những người có quan hệ gắn bó với nhau bằng huyết thống,<br />
hôn nhân và kinh tế... Gia đình là môi trường đầu tiên có tác động rất lớn đến sự hình<br />
thành và phát triển của con người về thể chất cũng như tinh thần. Gia đình có ảnh hưởng<br />
sâu sắc tới lối sống của mỗi con người, góp phần tích cực vào việc hình thành nhân cách<br />
đối với xã hội. Với tính chất đặc biệt của mình nên gia đình được xem là mô hình thu<br />
nhỏ của xã hội, nó thực hiện đầy đủ các chức năng cơ bản: Chức năng tái sản xuất con<br />
người, chức năng kinh tế, chức năng xã hội, chức năng giáo dục và chức năng văn hóa.<br />
Hình thái gia đình người Việt/Kinh ở Quảng Trị chủ yếu có hai dạng: gia đình nhỏ<br />
và gia đình lớn. Dạng thứ nhất là gia đình nhỏ hay gia đình hạt nhân: chỉ có một cặp vợ<br />
chồng và con cái cùng chung sống trong một ngôi nhà, có ruộng đất và tài sản riêng.<br />
Dạng thứ hai là gia đình lớn hay gia đình nhiều thế hệ.: Gồm cặp vợ chồng, con<br />
cái cùng chung sống với bố mẹ, các anh chị em chưa lập gia đình trong một ngôi nhà.<br />
Mọi tài sản trong nhà đều là của chung, các thành viên ăn chung, làm chung. Ở Quảng<br />
Trị đa số là các hình thái gia đình từ 2 đến 3 thế hệ cùng chung sống, ngoài ra còn có<br />
một số ít gia đình 4 thế hệ.<br />
Trong các hình thái gia đình, mặc dù người phụ nữ trực tiếp tham gia vào những<br />
công việc nhưng quyền quyết định quan trọng nhất vẫn thuộc về nam giới. Người đàn<br />
ông (người ông, người cha có quyền hành lớn nhất), con cháu mang dòng họ cha. Khi<br />
ông mất quyền hành được trao cho người con trai trưởng. Như vậy, hình thái gia đình<br />
phụ quyền và gia trưởng từ xưa đến nay vẫn tồn tại trong hầu khắp làng quê của Quảng<br />
Trị. Tính chất phụ quyền này được thể hiện qua quyền uy tối cao của người cha đối với<br />
con, của người chồng đối với người vợ, đặc biệt quyền thừa kế chỉ dành cho con trai,<br />
thường là con trai út. Việc thờ cúng tổ tiên, cha mẹ trách nhiệm lớn nhất phải là con trai<br />
trưởng.<br />
1<br />
<br />
Quan hệ giữa ông bà với con cháu: Các mối quan hệ trong gia đình luôn được chú<br />
trọng và vô cùng thiêng liêng, đó là quan hệ giữa ông bà và con, cháu, chắt; theo quan<br />
niệm xưa của người Việt/Kinh, trong một gia đình có từ hai đến ba, bốn thế hệ cùng<br />
nhau sinh sống trong một mái nhà thì gia đình đó được đánh giá là gia đình có phúc đức.<br />
Mặc dù trong một gia đình chung sống 3 - 4 thế hệ, có mối quan hệ phức tạp và chồng<br />
chéo, song vẫn có một trật tự rõ ràng thể hiện qua cách ứng xử và xưng hô hàng ngày. Ở<br />
những gia đình này yếu tố tình cảm luôn là điểm nỗi trội nhất, trọng tình, trọng hiếu.<br />
Lúc này vai trò của ông bà có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là trong việc xây dựng<br />
và duy trì nếp sống truyền thống gia đình. Họ chính là người giáo dục, giữ gìn nề nếp<br />
gia phong, nhân cách đạo đức đối với các thành viên, chỉ bảo cho cháu con biết điều hơn<br />
lẽ thiệt trong đối nhân xửi thế hàng ngày và dặn dò con cháu ứng xử theo cách "một điều<br />
nhịn là chín điều lành". Khi con cháu có điều xích mích, ông bà thường đứng ra khuyên<br />
nhủ, giải hòa các mâu thuẩn để gia đình có cuộc sống trên ấm dưới êm; lúc này gia đình<br />
mới thực sự là tổ ấm cho mọi thành viên. Trách nhiệm của con cháu cũng phải thực hiện<br />
tốt nhiệm vụ của bề dưới, giữ trọn chữ hieeis, nghĩa. Khi ông bà già cả, đau yếu con<br />
cháu phải có trách nhiệm chăm lo, phụng dưỡng để đền đáp công sinh thành dưỡng dục.<br />
Quan hệ giữa cha mẹ với con cái: Trong gia đình, quan hệ giữa cha mẹ và con cái<br />
là mối quan hệ quan trọng, chính yếu và thiêng liêng nhất. Từ xưa đến nay, cha mẹ luôn<br />
có vai trò quan trọng trong việc sinh thành nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái thành người. Cha<br />
mẹ là thầy giáo đầu tiên truyền đạt cho con những kinh nghiệm sống, kiến thức cơ bản<br />
trong việc ứng xử với gia đình và xã hội. Ngược lại con cái cũng phải có nghĩa vụ và<br />
trách nhiệm đối với các đấng sinh thành, muốn như vậy con cái phải thấu hiểu tâm lý,<br />
tâm tư tình cảm của cha mẹ để thông cảm, động viên, chăm sóc. Mọi hành vi ứng xử,<br />
kính trọng, lễ phép, chân thực, thành tâm của con cái đối với cha mẹ sẽ tác động một<br />
cách tự nhiên tới tâm hồn con trẻ, trẻ thơ sẽ tiếp thu một cách sâu sắc những giá trị nhân<br />
bản đó để làm nếp sống của mình. Có thể nói: cha mẹ sẽ là tấm gương phản chiếu để con<br />
trẻ noi theo và học tập.<br />
Quan hệ giữa vợ và chồng: Trong mỗi gia đình cần lấy phương châm cơ bản<br />
"thuận vợ thuận chông tát bể đông cũng cạn". Người chồng quan trọng nhất là là phải<br />
giữa nghĩa với vợ và vợ thì phải giữ tiết hạnh với chồng. Trong gia đình người chồng là<br />
trụ cột, là chổ dựa về vật chất và tinh thần lớn nhất cho vợ và con. Người vợ trên thời<br />
phụng dưỡng cha mẹ chồng, dưới thời chăm sóc, nuôi dạy con cái và phải hội đủ 4 yếu<br />
tố "Công, Dung, Ngôn, Hạnh". Của cải trong gia đình truyền thống là "của chồng, công<br />
vợ", mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều được bàn tính và thỏa thuận của hai vợ chồng. Tuy<br />
2<br />
<br />
nhiên, trước đây ở một số gia đình giàu có thì người chồng nắm hết mọi quyền lực và tài<br />
sản trong nhà, vợ con chỉ được phép sử dụng và thừa hưởng khi được gia trưởng cho<br />
phép. Người chồng có quyền sở hữu đối với vợ con, sai vợ làm bất kỳ công việc gì cho<br />
mình và gia đình. Thậm chí bỏ vợ này để lấy vợ khác, độc đoán trong việc dựng vợ gã<br />
chồng cho con cái. Mối quan hệ giữa vợ chồng trong gia đình người Việt/ Kinh ngày<br />
xưa có sự khác biệt giũa gia đình bình dân và gia đình quyền quý. Vấn đề đặt ra là cần<br />
gạt bỏ những quan niệm lạc hậu. phong kiến khắt khe. trọng nam kinh nữ, quyền gia<br />
trưởng, giải quyết mâu thuẩn bằng bạo lực... làm cho không khí gia đình bất hòa, không<br />
thực sự là tổ ấm của mọi thành viên.<br />
Quan hệ giữa con cái với nhau: Đó là các mối quan hệ giữa anh em trong một nhà<br />
có cùng chung huyết thống: anh em trai, chị em gái, anh em trai và chị em gái. Đây là<br />
mối quan hệ máu thịt, cần phải yêu thương, đùm bọc, nhường nhịn, giúp đỡ lẫn nhau.<br />
Phúc lớn của tổ tiên gia đình là anh em hòa thuận, chia sẽ , cưu mang, bảo vệ lẫn nhau.<br />
Sống có thứ bậc, tôn ti "trên bảo dưới nghe" ; đã là anh chị thì phải độ lượng, khoan<br />
dung, nhường nhịn, yêu thương, không được lấy quyền chửi mắng, đập đánh, xúc phạm<br />
đến em út. làm em thì phải vâng lời anh chị. Thông thường, khi đang còn sống với cha<br />
mẹ thông thường các anh em trai bao giờ cũng được cha mẹ quan tâm nhiều hơn các chị<br />
em gái.<br />
- Quan hệ gia tộc, dòng họ<br />
Trong đời sống gia đình người Việt/Kinh quan hệ gia tộc rất được chú trọng, gia<br />
tộc là nhiều gia đình có cùng huyết thống gần xa có cùng một thỉ tổ hợp thành một dòng<br />
họ. Tổ chức họ tùy theo số thế hệ và quy mô mà chia thành nhiều cấp độ như: Chi, phái<br />
có trưởng họ, trưởng phái là người đứng đầu. Họ có nhà thờ họ, nơi thờ tỉ tổ và các loại<br />
bằng sắc như: sắc phong, sắc tặng của triều đình phong kiến ban cho các thành viên<br />
trong họ tộc đã có công với làng với nước và gia phả ghi chép rõ ràng tên tuổi, ngày giỗ,<br />
mộ phần có nơi còn ghi rõ cả thân thế của từng thành viên (kể cả những người con dâu)<br />
qua các thế hệ. Quan hệ dòng họ thể hiện rõ nhất trong việc thờ cúng tổ tiên và chăm sóc<br />
mộ phần của những người đã mất. Đến nay những dòng họ người Việt/Kinh Quảng Trị<br />
thường đã trải qua trên 20 đời (ngoại trừ những dòng họ đến nhập cư muộn), nhiều dòng<br />
họ có những truyền thống tốt đẹp lưu danh vào sách sử.<br />
Đa số các dòng họ, đặc biệt là các dòng họ khai canh, khai khẩn đều có nguồn gốc<br />
từ phía Bắc vào đây lập nghiệp, số đông là vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh. Từ xưa<br />
đến nay các dòng họ đều đóng vai trò to lớn đối với đời sống người dân và cộng đồng,<br />
được thể hiện qua các mặt sau:<br />
3<br />
<br />
+ Tập hợp, cố kết thành viên bên nội, bên ngoại vào một tổ chức ổn định và bền<br />
lâu đó là gia tộc, dòng họ. Tổ chức dòng họ bằng cả quyền lực và sự liên hệ sâu xa đầy<br />
vẻ huyền bí đã ràng buộc gắn kết các cá nhân và gia đình lại với nhau, tạo nên sức mạnh<br />
cộng đồng.<br />
+ Chuyển tải, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của ông bà tổ tiên từ thế<br />
hệ này sang thế hệ khác, làm nên các nét đẹp của văn hóa làng góp phần làm rạng danh<br />
cho các làng quê.<br />
+ Giáo dục động viên con cháu những điều hay lẽ phải, Noi gương học tập các<br />
dòng họ khác trong làng. Đứng ra điều hòa quan hệ, giải quyết thắc mắc va chạm, tranh<br />
chấp giữa các gia đình, các dòng họ với nhau, để tạo sự bình yên cho cộng đồng.<br />
+ Đứng ra tổ chức, điều hành các hoạt động liên quan đế cuộc sống hàng ngày<br />
như lễ hội, giúp đỡ cho những gia đình gặp khó khăn...<br />
+ Vai trò về mặt tâm linh là những gì liên quan đến đời sống tinh thần của dòng<br />
họ. Nó thể hiện qua việc thờ cúng tổ tiên, các nghi lễ, tổ chức các ngày giỗ, chạp, kỵ húy<br />
tên tuổi, ghi chép gia phả, truyền thống dòng họ.<br />
Tổ chức gia tộc, dòng họ: Cách tính họ của người Việt/Kinh là tính đơn hệ phụ hệ,<br />
đó là tính họ theo dòng cha / họ nội đã hình thành từ lâu đời; họ nội bao gồm những<br />
người con trai, những người con gái chưa lấy chồng hoặc không lấy chồng và những<br />
người con dâu của họ. Đây là những thành viên được tập hợp và ràng buộc nhâu trên cơ<br />
sở dòng máu, hôn nhân, kinh tế và tâm linh. Trong dòng họ những người con trai bao<br />
giờ cũng được đề cao, họ luôn giữ vị trí trọng yếu về kinh tế và tài sản.<br />
Đứng đầu một dòng họ có ông trưởng họ/tộc trưởng, cho dù truyền nối hay được<br />
con dân họ lựa chọn bầu ra thì đây cũng phải là người có uy tín, hiểu biết và có trách<br />
nhiệm với dòng họ của mình. Đối với các dòng họ lớn, còn có rất nhiều nhánh phái và<br />
các chi. Trưởng họ cùng với các trưởng nhánh phái, chi có nhiệm vụ đứng ra quản lý<br />
điều hành giải quyết các công việc liên quan đến dòng họ trên phương diện đối nội như<br />
việc đóng góp để tổ chức giỗ chạp, tu sữa xây dựng nhà thờ, lăng miếu các vị cao tổ; về<br />
đối ngoại đó là vai vế của dòng họ trong cộng đồng làng đó.<br />
Mỗi dòng họ đều có các hoạt động của riêng mình, nhưng tựu chung lại thì giỗ,<br />
chạp, tảo mộ, thờ cúng tổ tiên gia tộc là việc quan trọng nhất. Mỗi dòng họ đều có một<br />
nhà thờ họ riêng, đây làm nơi thờ cúng tổ tiên, gia tộc, nơi cất giữ gia phả, sắc phong,<br />
các đồ tế tự và còn là nơi hội họp của cả dòng họ vào những lúc có công việc như tảo<br />
mộ, kỵ húy ngài thủy tổ. Tất cả các ngày giổ tổ của các dòng họ đều được tính theo Âm<br />
4<br />
<br />
lịch. Ngoài ra, các dòng họ còn tổ chức rất nhiều công việc như: Lo việc tang ma, cưới<br />
xin, thăm hỏi động viên khi ốm đau hoạn nạn... cho những gia đình trong họ tộc; tổ chức<br />
sao và ghi chép gia phả.<br />
1.1.2. Tổ chức làng xóm và quan hệ láng giềng<br />
- Tổ chức làng xóm<br />
Lịch sử thành lập làng của người Việt Quảng Trị được hình thành qua các cuộc di<br />
dân tập trung hoặc lẽ tẻ, tự phát hoặc do nhà nước tổ chức của những người Việt ra đi từ<br />
đất Bắc qua nhiều đợt của các thế kỷ (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVI). Vùng phía bắc tỉnh,<br />
được người Việt nhập cư sớm, từ cuối thế kỷ XI. Vùng phía nam tỉnh phải đến sau thế<br />
kỷ XIV. Đa phần các làng xã ở Quảng Trị đều được thành lập dưới thời Hồ Quý Ly và<br />
Lê Thánh Tông.<br />
Trong các đợt di dân ấy, người Việt từ phía Bắc vào lập nghiệp mang theo cả văn<br />
hóa gốc của mình đến nơi quê hương mới. Đó là tên tông tộc, tên làng xã ở quê cha đất<br />
tổ để đặt tên cho làng mới: Xuân yên, Cang Gián, Hà Trung, Cổ Trai, Diên Khánh... (tên<br />
các làng xã có gốc ở Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tỉnh); Mai Xá, Ngô Xá, Hà Xá...(tên họ<br />
của các vị khai khẩn); Nhiều làng được hihf thành từ các nơi đồ trú quân dưới thời Chúa<br />
Nguyễn như: Tiền Kiên, Trung Kiên, Hậu Kiên, Tả Kiên; lại có làng giữ nguyên tính<br />
bản sơ của người bản địa: Trà Trì, Trà Bát, Kẻ Diên... Tuy nhiên càng về sau xu thế làng<br />
mẹ đẻ làng con là phổ biến nhất.<br />
Làng thường tập trung các vùng ven sông, các dãi đất cao và chayi dài trên các<br />
vùng đồng bằng, trung du. Làng không khép kín bởi không gian là lũy tre làng mà có xu<br />
hướng mỡ hơn. Làng dầu to, nhỏ khác nhau đều có phân định ranh giới rõ ràng. Mốc<br />
giới có thể là đường sá, bờ đập, sông hói, hay là những mốc nhân tạo bằng đá, gỗ. Quy<br />
hoạch làng xóm được tổ chức một cách khá quy cũ, có làng chia làm nhiều xóm, nhiều<br />
phe, giáp. Khi có một bộ phận dân cư tách ra từ làng mẹ để hình thành một làng mới thì<br />
được gọi là phường.<br />
Làng là một đơn vị hành chính cấp cơ sở nên có một tổ chức quản trị gồm một hội<br />
đồng tư vấn và một cơ quan chấp hành. Hội đồng tư vấn là Hội đồng kỳ mục có tiên chỉ,<br />
á chỉ, hào mục và các tộc biểu, về danh nghĩa thành viên hội đồng được dân làng cử ra,<br />
nhưng trên thực tế đó là những người có ruộng đất, của cải, thế lực hay chức vụ. cơ<br />
quan chấp hành là Hội đồng lý dịch đứng đầu là xã trưởng (về sau gọi là lý trưởng).<br />
Giúp việc cho lý trưởng ngoài phó lý còn có ngũ hương:<br />
<br />
5<br />
<br />
![](images/graphics/blank.gif)
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
![](images/icons/closefanbox.gif)
Báo xấu
![](images/icons/closefanbox.gif)
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/js/fancybox2/source/ajax_loader.gif)