LUẬN VĂN:
Vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ của đảng cầm quyền là hiện tượng
mang tính phổ biến, tự nhiên, là quy luật tất yếu trong đời sống của các đảng chính
trị. Để tồn tại, phát triển liên tục, không xảy ra sự khủng hoảng, gián đoạn, các đảng
cầm quyền phải luôn có sự chuẩn bị, đào tạo, lựa chọn các nhà lãnh đạo, các thế hệ
lãnh đạo nối tiếp nhau, từ những vị trí cao nhất đến cấp cơ sở để thay thế, để chuyển
giao. Đây là việc làm mang tính chất thường xuyên, là hoạt động bình thường trong
các đảng cầm quyền. Vấn đề này được C.Mác - Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đề ra từ
khi các đảng vô sản ra đời; các ông cho rằng: Phong trào vô sản nhất thiết phải trải
qua các bước phát triển khác nhau, trong mỗi bước phát triển đó đều có một số người
dừng lại, họ không thể đi xa hơn nữa... Vì thế các đảng vô sản phải có kế hoạch lựa
chọn, tìm kiếm những người thay thế để lãnh đạo phong trào.
Tuy nhiên, với vị trí, vai trò là đảng cầm quyền, việc chuyển giao quyền lãnh
đạo là một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, vì nó không những liên quan đến sự tồn
tại, hoạt động và phát triển của bản thân đảng ấy; mà còn tác động rất lớn đối với
toàn xã hội. Mặt khác vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ đảng cầm
quyền lại là vấn đề hết sức phức tạp, vì nó bị chi phối bởi những mối quan hệ về
quyền lực, về lợi ích, cả về quan hệ cá nhân... Cho nên trong đời sống chính trị việc
chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ đảng cầm quyền không phải bao giờ cũng
diễn ra một cách bình thường, êm thấm, suôn sẻ, mà có khi xảy ra các hiện tượng
mâu thuẫn, phức tạp, đấu đá, tranh giành; thậm chí còn dẫn đến tình huống chính trị,
đẩy xã hội tới chỗ khủng hoảng, sụp đổ.
Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân sau khi giành được chính
quyền từ tay giai cấp tư sản; thiết lập chính quyền mới của mình, chính quyền của
giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động; Đảng Cộng sản trở thành Đảng
cầm quyền. Với sứ mệnh lịch sử: Thực hiện công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội
XHCN giai đoạn đầu của xã hội CSCN, đây là một nhiệm vụ rất nặng nề phức tạp,
lâu dài, phải trải qua nhiều thế hệ. Một trong những vấn đề rất quan trọng có tính chất
quyết định là phải giữ vững sự liên tục vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Muốn
được như vậy, các Đảng Cộng sản cầm quyền phải thực hiện việc lựa chọn người
lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng một cách có hiệu quả
nhất.
Từ thực tiễn của vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng
sản cầm quyền trong chủ nghĩa xã hội hiện thực có những kết quả nhất định, nhưng
cũng có nhiều những khiếm khuyết, hạn chế thậm chí rơi vào sai lầm, dẫn đến khủng
hoảng sụp đổ ở một số nước, đã đặt ra sự bức xúc cần phải giải quyết. Về mặt lý
luận, ở nước ta trong những năm qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về Đảng
cầm quyền và cũng đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng cho đến nay vẫn còn
không ít nội dung cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu.Là một giảng viên ,giảng dạy
các môn học Mác Lê-nin ở trường chính trị ,với nhiệm vụ giảng dạy có những nội
dung liên quan đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân,vai trò của
Đảng cộng sản trong sự nghiệp xây dựng CNXH,CNCS tác giả thấy cần phải tiếp tục
nghiên cứu kỹ hơn về Đảng của giai cấp công nhân,đặc biệt là về Đảng cộng sản cầm
quyền, một trong những vấn đề mà cả thực tiễn và lý luận đang đặt ra nhiều câu hỏi
cần phải trả lời
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề này tác giả lựa chọn
đề tài nghiên cứu:Vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng cộng sản
cầm quyền để làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài "Vấn đề chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền".
- Xử lý tình huống chính trị khi chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ
Đảng Cộng sản cầm quyền, của GS.TS Hoàng Chí Bảo.
- Đảng cầm quyền trong thời đại ngày nay và những vấn đề rút ra cho công
cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng ta, Đề tài nghiên cứu khoa học, 1993, chủ nhiệm GS.
Đậu Thế Biểu.
- Những bài học kinh nghiệm từ sự sụp đổ của Liên Xô trước đây, triển vọng
của CNXH và phong trào cộng sản quốc tế, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, 1993,
chủ nhiệm: TS.Nguyễn Xuân Sơn.
- Những kinh nghiệm vận dụng học thuyết chính trị vào hệ thống chính trị ở
Liên Xô và Đông Âu, Đề tài KX.05.01, Hà Nội, 1994.
- Một số vấn đề về Đảng và công tác xây dựng Đảng hiện nay, Đề tài
KX.05.06, Hà Nội, 1992, chủ nhiệm: GS.TS Nguyễn Phú Trọng.
- Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị,
Đề tài KX.05.06, Hà Nội, 1999, chủ nhiệm: PGS.TS Trần Xuân Sầm.
- Thể chế Đảng cầm quyền - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài khoa
học cấp Bộ, chủ biên: TS. Đặng Đình Tân.
- Đảng cầm quyền trong điều kiện hiện nay, Thông tin chuyên đề - TT - TT -
TL, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1/1993.
Trong những công trình nghiên cứu khoa học trên đây các tác giả đã nêu lên
các khái niệm về Đảng cầm quyền; về phương thức lãnh đạo của Đảng; về mối quan
hệ giữa Đảng và Nhà nước; về vấn đề vận dụng học thuyết Mác - Lênin vào việc xây
dựng Đảng Cộng sản cầm quyền.
Ngoài những công trình nghiên cứu khoa học trên đây còn có nhiều bài viết
của các tác giả khác cũng đề cập đến những khía cạnh của đề tài, chẳng hạn: "Dân
chủ trong Đảng Cộng sản: Những bài học kinh nghiệm từ cải tổ, cải cách và đổi mới
ở các nước xã hội chủ nghĩa" của GS.TS Lưu Văn Sùng; hoặc: "Xây dựng Đảng cầm
quyền: Một số kinh nghiệm từ thực tiễn đổi mới ở Việt Nam" của GS.TS Nguyễn Phú
Trọng; "Thực hiện dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của
Đảng Cộng sản cầm quyền" của PGS.TS Tô Huy Rứa; "Việc lựa chọn, sử dụng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường qua thực tế ở thành phố Hà Nội", luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Xây dựng Đảng của Trần Xuân Thủy.
Với những công trình nghiên cứu khoa học trên đây, mặt dù không trực tiếp
nghiên cứu nội dung chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng cộng sản cầm
quyền, song đó là những công trình khoa học rất cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
* Mục đích của luận văn:
Phân tích cơ sở lý luận và từ thực tiễn của việc chuyển giao quyền lãnh đạo
trong nội bộ các Đảng Cộng sản cầm quyền, đưa ra một số giải pháp cơ bản cần thực
hiện trong việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ
Đảng Cộng sản cầm quyền.
- Nghiên cứu một số điển hình của việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong
một số Đảng Cộng sản cầm quyền.
- Xây dựng một số giải pháp để thực hiện việc chuyển giao quyền lãnh đạo
trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền có kết quả tốt nhất.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích việc chuyển giao quyền lãnh đạo ở
cấp cao nhất của các Đảng Cộng sản: Đảng Cộng sản Liên Xô; Đảng Cộng sản Trung
Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình cầm quyền của các Đảng này.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận:
- Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt là các
quan điểm về công tác xây dựng Đảng.
- Thành tựu lý luận của các Đảng Cộng sản.
- Cương lĩnh và Điều lệ của một số Đảng Cộng sản.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu phù hợp với chuyên ngành Chính
trị học đó là:
- Phương pháp phân tích- tổng hợp.
- Phương pháp lịch sử và lôgíc.
- Phương pháp so sánh.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài - Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tập trung và trực tiếp
từ góc độ của chính trị học về vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng
Cộng sản cầm quyền.
- Luận văn đã làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo
trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền.
- Đưa ra được các giải pháp cơ bản cần phải thực hiện trong quá trình chuyển
giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Về lý luận:
Nghiên cứu một khía cạnh trong vấn đề căn cốt của chính trị, vấn đề quyền
lực chính trị, đề tài :Chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm
quyền góp phần vào việc xây dựng một chủ thể chính trị rất quan trọng trong đời
sống chính trị đó là đảng cầm quyền.
* Về thực tiễn:
Luận văn mặc dù bàn đến vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo ở cấp cao nhất
trong Đảng Cộng sản. Song có thể vận dụng vào cấp cơ sở ở nhiều nội dung, nhất là
phần các giải pháp cần thực hiện trong việc chuyển giao quyền lãnh đạo.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu và giảng dạy môn
chính trị học trong hệ thống các trường chính trị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 3 chương, 10 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận của vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ
đảng cộng sản cầm quyền
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Đảng cầm quyền
Lịch sử xã hội loài người từ khi có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đó là
cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đối kháng nhau, là cuộc đấu tranh giữa những kẻ áp
bức bóc lột và những người bị áp bức bóc lột. Trong các cuộc đấu tranh giai cấp ấy
bao giờ cũng xuất hiện các lực lượng, các tổ chức đứng ra lãnh đạo phong trào, thể
hiện bằng các hình thức tổ chức khác nhau và hình thức tổ chức cao nhất là sự ra đời
của các chính đảng của các giai cấp, hay còn gọi là các đảng chính trị
Đảng chính trị là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp và là yêu cầu tất yếu của
đấu tranh giai cấp. Đó là tổ chức tự nguyện của ngững người có cùng mục tiêu, lý
tưởng, theo đuổi cùng một mục đích chính trị nhất định, hướng đến thiết lập sự thống
trị của giai cấp mình. Đảng chính trị không phải là toàn bộ giai cấp mà là một bộ
phận của giai cấp, gắn bó hữu cơ với giai cấp, và đây là bộ phận bao gồm những
phần tử ưu tú nhất, tiên tiến nhất trong giai cấp, là bộ phận nòng cốt, tiên phong của
giai cấp. Tính chất tiền phong và vai trò nòng cốt của đảng chính trị thể hiện ở chỗ,
nói như C.Mác và Ph.ăngghen, nó không những là người đại biểu cho lợi ích của toàn
bộ phong trào giai cấp mà còn là người luôn đi đầu, dẫn dắt, thúc đẩy sự phát triển
của phong trào theo mục đích chính trị của giai cấp. Bàn về vai trò của chính đảng
trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.ăngghen viết:
“Trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên hợp của các giai cấp hữu sản,
giai cấp công nhân, chỉ khi được tổ chức thành một chính đảng độc lập đối lập với tất
cả các chính đảng cũ do các giai cấp hữu sản lập nên, thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp”1.
Khi giành được thắng lợi, lật đổ được chính quyền cũ, thiết lập được chính
quyền mới, thì đảng chính trị lãnh đạo chính quyền ấy thực hiện sự nghiệp xây dựng
1 C.Mác và Ph. ăngghen Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 18, tr. 203
xã hội mới mang hình ảnh giai cấp của nó. Như vậy, đảng chính trị đó trở thành đảng
lãnh đạo chính quyền nhà nước, đảng nắm chính quyền nhà nước, chi phối chính
quyền nhà nước, và do đó, trở thành đảng cầm quyền. Vậy, đảng cầm quyền là kết
quả của cuộc đấu tranh giai cấp; và chỉ khi nào đảng chính trị giành được chính
quyền, nắm chính quyền nhà nước thì khi đó mới trở thành đảng cầm quyền.
Đảng cầm quyền. ở đây có một số thuật ngữ có liên quan cần phải thống nhất
nhận thức: “đảng chấp chính”, “đảng nắm chính quyền”, “đảng lãnh đạo chính
quyền”. Các khái niệm “đảng cầm quyền”, “đảng chấp chính”, “đảng nắm chính
quyền”, “đảng lãnh đạo chính quyền” tuy diễn đạt khác nhau nhưng đều thống nhất là
một, nhằm biểu đạt vị trí, vai trò của một đảng chính trị đã nắm được chính quyền.
Các khái niệm trên đã được dùng từ lâu trong lịch sử ở các nước phương Tây để phân
biệt giữa đảng chính trị đã nắm được chính quyền nhà nước với các đảng chính trị
khác không nắm chính quyền, hoặc ở vị trí đối lập. Giai cấp thống trị tổ chức ra bộ
máy nhà nước và sử dụng bộ máy nhà nước đó để thực thi quyền lực chính trị của
giai cấp mình. Khi đó, quyền lực chính trị của giai cấp thống trị trở thành quyền lực
nhà nước; như thế, nhà nước nào cũng là công cụ của giai cấp thống trị, được giai cấp
ấy sử dụng để áp đặt ý chí của mình đối với các giai cấp khác và toàn xã hội; đồng
thời để chống lại, đè bẹp, đập tan mọi sự chống đối của các giai cấp và lực lượng
chính trị khác.
Đảng cầm quyền có nghĩa là đảng nắm chính quyền nhà nước, lãnh đạo nhà
nước và xã hội. Lãnh đạo, theo nghĩa chung nhất là “Dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể”2. Cầm quyền, lãnh đạo chính quyền, tức là Đảng đề ra đường lối,
chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển của nhà nước và kiểm
tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Hiến pháp,
pháp luật của Nhà nước. Như vậy, khái niệm đảng cầm quyền, theo một nghĩa chung
nhất, có thể quan niệm là đảng nắm chính quyền nhà nước, cơ quan quyền lực của
toàn xã hội, thông qua đó thực hiện việc “cai trị”, quản lý, tổ chức xây dựng xã hội vì
lợi ích của giai cấp mà đảng đại diện.
2 Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin, H. 1998, tr. 979
Trong các quốc gia có thể chế chính trị đa đảng, một đảng nào đó chiếm được
đa số (sau thắng lợi trong cuộc bầu cử), nhưng chưa đạt đến mức độ tuyệt đối thì phải
liên minh với một số đảng khác tạo thành một liên minh cầm quyền; khi đó giữa các
đảng có sự dàn xếp với nhau, điều hòa về các vị trí chủ chốt trong nội các, điều hòa
về chính sách, về quyền lực. Đảng nào chiếm số lượng cử tri đông nhất thì đảng đó
có nhiều đại biểu trong quốc hội, có nhiều ghế trong chính phủ, chiếm nhiều vị trí
chủ chốt trong chính quyền. Theo đó, đảng cầm quyền có nghĩa là đảng chính trị có
số đảng viên chiếm đa số trong quốc hội, chi phối toàn bộ phương hướng hoạt động,
chính sách của chính quyền và chiếm giữ các cương vị chủ chốt của bộ máy quyền
lực nhà nước.
Trong các nước thực hiện chế độ một đảng, thì tính chất quyết định và sự nắm
quyền của đảng chính trị thể hiện rõ hơn, tuyệt đối hơn trên toàn bộ các yếu tố cấu
thành nội dung của đảng cầm quyền.
Đảng Cộng sản cầm quyền. Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân
ra đời là do đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công
nhân chống lại giai cấp tư sản. Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công
nhân phải tổ chức ra chính đảng của giai cấp mình, đó là quy luật. Đảng Cộng sản ra
đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân. Sự ra đời của Đảng Cộng sản là nhân tố đảm bảo cho phong trào công nhân
phát triển từ tự phát trở thành tự giác, là nhân tố quyết định việc thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. V.I.Lênin viết:
Chỉ có chính đảng của giai cấp công nhân, tức là đảng cộng sản, mới
có thể tập hợp, giáo dục, tổ chức đội tiền phong của giai cấp vô sản và của
tất cả quần chúng lao động…, và lãnh đạo tất cả những hành động liên
hợp của toàn bộ giai cấp vô sản, tức là lãnh đạo giai cấp đó về mặt chính trị, và thông qua giai cấp đó, mà lãnh đạo tất cả quần chúng lao động3.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi trả lời cho câu hỏi đặt ra: “Cách mệnh trước hết phải
có cái gì?”, đã chỉ rõ: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và
tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
3 V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TB. M. 1978, tập 43, tr. 112-113
Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”4.
Khi Đảng Cộng sản đã giành được chính quyền, nắm được chính quyền nhà
nước là sự tiếp tục thực hiện sự lãnh đạo của mình trong điều kiện mới, điều kiện xây
dựng chế độ mới, chế độ XHCN, nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Đảng Cộng sản cầm quyền là Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với nhà
nước và xã hội sau khi đã giành được được chính quyền nhà nước, thiết lập chính
quyền nhà nước mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng Cộng sản
cầm quyền hoặc Đảng Cộng sản lãnh đạo chính quyền là hai khái niệm đồng nhất về
bản chất. Khái niệm Đảng Cộng sản cầm quyền biểu đạt rõ tính chất toàn diện, tuyệt
đối và trực tiếp sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội. Cầm quyền không
chỉ nắm và lãnh đạo chính quyền, mà còn là nắm và sử dụng tất cả các loại sức mạnh
khác, các nhân tố khác, hướng chúng phục vụ đắc lực nhất cho mục tiêu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân lao động.
1.1.2. Người lãnh đạo
Khái niệm “người lãnh đạo” hay “người lãnh đạo chính trị” đồng nghĩa với các
khái niệm “thủ lĩnh chính trị”, “lãnh tụ chính trị”, “cán bộ lãnh đạo chính trị”. Đó là
những khái niệm để chỉ người đứng đầu, người dẫn dắt, lãnh đạo một tập thể, một tổ
chức chính trị, một lực lượng chính trị, một phong trào chính trị nhất định. Khái niệm
người lãnh đạo mang tính tương đối nó không những để chỉ riêng một người đứng
đầu mà có trường hợp người lãnh đạo là bao gồm cả một tập thể, một ban lãnh đạo
(Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương) hoặc một chính đảng chính trị, như Đảng
Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh viết:
“Đảng ta là một đội ngũ tiên tiến nhất và tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân, là người lãnh đạo của giai cấp công nhân và nhân dân lao động”5. Trường hợp
này không nằm trong khái niệm người lãnh đạo mà luận văn đề cập. Khái niệm
“người lãnh đạo” được bàn ở đây nhằm chỉ một cá nhân đứng đầu một tổ chức, đứng
đầu đảng, đứng đầu nhà nước. Trong thực tiễn, những người lãnh đạo như vậy có thể
tùy theo tính chất của tổ chức và các giai đoạn lịch sử khác nhau mà có các tên gọi cụ
4 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 2, tr. 267
thể khác nhau như nhà vua, tổng thống, chủ tịch nước, chủ tịch đảng, tổng bí thư…
Các tên gọi khác nhau đó đều phản ánh tính chất đứng đầu, tính chất thủ lĩnh, người
lãnh đạo cao nhất của đảng chính trị, của chính quyền nhà nước, của đất nước.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử; đồng thời lãnh tụ chính trị, người lãnh đạo, thủ lĩnh chính trị xuất hiện, trưởng
thành từ phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân, đến lượt nó lại
góp phần rất quan trọng thúc đẩy phong trào quần chúng phát triển. Những lãnh tụ
chính trị là những người nhận thức được quy luật khách quan của xã hội, lãnh đạo
phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, thúc đẩy tiến trình phát triển của
lịch sử. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, người lãnh đạo chính trị có những nét đặc trưng
riêng.
Như vậy, người lãnh đạo là nhân vật xuất sắc trong lĩnh vực hoạt động chính trị,
xuất hiện trong những điều kiện lịch sử nhất định; giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý
tưởng chiến đấu và lợi ích của giai cấp; có khả năng nắm bắt và vận dụng quy luật
khách quan; có năng lực tập hợp và tổ chức quần chúng để giải quyết những nhiệm
vụ chính trị do lịch sử đặt ra. Những lãnh tụ chính trị, những người lãnh đạo xuất sắc
không phải ngẫu nhiên mà có. Sự xuất hiện của họ là kết quả của quá trình đấu tranh
cách mạng của quần chúng nhân dân, của cả quá trình lịch sử tạo ra những điều kiện
nhất định cho việc xuất hiện họ để giải quyết những nhiệm vụ nhất định do lịch sử
đặt ra. Ph.ăngghen viết:
Việc một vĩ nhân này hay chính vĩ nhân ấy xuất hiện trong một thời
điểm nhất định ở một nước nhất định dĩ nhiên là ngẫu nhiên hoàn toàn.
Nhưng nếu con người đó bị gạt bỏ thì xuất hiện nhu cầu phải có người
thay thế ông ta và tìm được ngươì thay thế đó - một người thay thế đạt ít nhiều, nhưng cùng với thời gian, thì tìm được6.
Rõ ràng, tác dụng và vai trò của người lãnh đạo đối với lịch sử, đối với phong
trào quần chúng nhân dân là tất yếu và rất lớn. Người lãnh đạo chính trị có vai trò to
lớn trong cuộc đấu tranh của các giai cấp, của các lực lượng chính trị trong lịch sử.
Mỗi thời đại lịch sử có những lãnh tụ đặc trưng, những người lãnh đạo đặc trưng với
5 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 9, tr. 285
những phẩm chất riêng để có thể giải quyết được những nhiệm vụ mà thời đại lịch sử
đó đặt ra. V.I.Lênin viết: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được
quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”7.
Vai trò tích cực hay tiêu cực của người lãnh đạo chính trị phụ thuộc quyết định vào
tính chất tiến bộ hay lạc hậu của giai cấp, của lực lượng chính trị mà người lãnh đạo
đó đại diện, đứng đầu. Người lãnh đạo có vai trò thực sự tích cực, cách mạng khi mà
nó là người đứng đầu giai cấp tiến bộ, giai cấp cách mạng, thúc đẩy sự phát triển của
lịch sử. Sức mạnh của người lãnh đạo là sức mạnh của quần chúng. Phong trào cách
mạng của giai cấp cách mạng sản sinh ra người lãnh đạo cách mạng, tiến bộ, tích cực.
Các giai cấp phản động thì sản sinh ra những thủ lĩnh chính trị, người lãnh đạo chính
trị phản động, có vai trò tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của lịch sử.
Trong lịch sử có những trường hợp, ở giai cấp tiến bộ vẫn có những người lãnh
đạo thiếu tài, kém đức, không đáp ứng được yêu cầu, làm đổ vỡ phong trào cách
mạng, thậm chí phản bội lại mục tiêu, lý tưởng của giai cấp. Như vậy, vai trò tích cực
hay tiêu cực của người lãnh đạo do sự quy định của vị thế giai cấp xuất thân và còn
do sự tự rèn luyện, tự tu dưỡng, phấn đấu của bản thân người lãnh đạo. Dù có xuất
thân là giai cấp tiến bộ, nhưng nếu không chịu tu dưỡng, rèn luyện thì người lãnh đạo
không thể đáp ứng được yêu cầu của phong trào, và người lãnh đạo đó không sớm thì
muộn, nhất định sẽ bị phong trào đào thải, chứ không phải được thay thế do chuyển
giao theo nghĩa tích cực phân tích ở trên. Vì thế, để luôn xứng đáng là người lãnh đạo
của giai cấp tiến bộ, người lãnh đạo càng phải ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng và
phấn đấu không ngừng cả về đức và tài thì mới có thể đáp ứng được vai trò, vị trí của
người đứng đầu, người lãnh đạo chính trị của giai cấp. Cũng cần thấy rằng, lãnh tụ
của giai cấp bóc lột không phải bao giờ cũng là tiêu cực, phản tiến bộ, mà trong điều
kiện giai cấp bóc lột đó đang là giai cấp đại diện cho sự tiến bộ của lịch sử, thì những
lãnh tụ của họ thường có vai trò tích cực.
Người lãnh đạo bao giờ cũng phải có những phẩm chất, năng lực nhất định, tiêu
biểu, có thể đáp ứng yêu cầu dẫn dắt phong trào cách mạng phát triển đi đến thắng
6 C,Mác-Ph.ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1999, tập 39, tr 272 7 V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TB. M. 1974 tập 4, tr. 473
lợi. Phẩm chất, năng lực đó vừa là sản phẩm vừa là yêu cầu của thực tiễn đấu tranh
cách mạng. Có thể khái quát một cách chung nhất phẩm chất của người lãnh đạo trên
những nét chính sau:
Một là, có trình độ trí tuệ, nhận thức và tư duy khoa học cao.
Hai là, có phẩm chất của người đứng đầu phong trào chính trị, trung thành với
mục tiêu, lý tưởng giai cấp.
Ba là, có năng lực tập hợp quần chúng và tổ chức hoạt động thực tiễn, thúc đẩy
phong trào tiến lên.
Bốn là, có đạo đức, tác phong mẫu mực, tiêu biểu cho hình ảnh của giai cấp.
Năm là, có sức khoẻ với khả năng làm việc cao.
Những phẩm chất trên của người lãnh đạo là do đòi hỏi khách quan của phong
trào quần chúng trong đấu tranh cách mạng và không ngừng được thử thách, tôi
luyện, hoàn thiện trong quá trình đấu tranh ấy. Người lãnh đạo nào không đáp ứng
được đầy đủ những yêu cầu về năng lực và phẩm chất của người đứng đầu, hoặc là
không phát triển được năng lực trong thực tiễn khi thực tiễn đã và đang có sự biến
đổi to lớn thì quần chúng nhân dân phải lựa chọn người khác xứng đáng hơn, phong
trào cách mạng lại có thể sản sinh ra người lãnh đạo mới khác phù hợp thay thế họ. ở
những người lãnh đạo cao nhất, có trọng trách lớn nhất đối với sự phát triển của
phong trào thì càng đòi hỏi cao sự hoàn thiện và thăng hoa những phẩm chất lãnh
đạo. Sự đầy đủ, hoàn thiện và thăng hoa về phẩm chất và năng lực của người lãnh
đạo có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển của phong trào cách mạng.
Người lãnh đạo Cộng sản được sinh ra từ phong trào đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là người đứng đầu Đảng Cộng sản; trong
điều kiện cầm quyền thì đó còn là người đứng đầu nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Đảng phải lựa chọn những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành một nhóm trung kiên lãnh đạo”8. Người lãnh đạo Cộng sản còn được gọi là
lãnh tụ, người cán bộ lãnh đạo chính trị. Đó là những người có đức, có tài đáp ứng
được yêu cầu của phong trào vô sản, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác -
Lênin, với mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân; hết lòng phục vụ giai cấp, phục
8 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 5, tr. 249
vụ nhân dân; luôn đi đầu và có khả năng dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trong đấu tranh cách mạng nhằm thủ tiêu CNTB, xây dựng CNXH. Sự trung
thành với lợi ích giai cấp công nhân, sự sáng suốt và khả năng nắm bắt được tình
hình cũng như tương lai phát triển của phong trào; tài năng tập hợp lực lượng và tổ
chức thực tiễn, đạo đức cách mạng sáng trong… là những phẩm chất cần có ở người
lãnh đạo Cộng sản. Đó là những người có uy tín nhất trong phong trào đấu tranh của
cấp công dân. V.I.Lênin viết: “Thông thường thì các chính đảng đều nằm dưới quyền
của những nhóm ít nhiều có tính chất ổn định, gồm những người có uy tín nhất, có
ảnh hưởng nhất, có kinh nghiệm nhất, được bầu ra giữ những trách nhiệm trọng yếu nhất và người ta gọi là các lãnh tụ”9.
Những lãnh tụ Cộng sản vĩ đại luôn luôn là tấm gương tiêu biểu về tinh thần
cống hiến, sự rèn luyện, tu dưỡng cả về năng lực, phẩm chất, luôn là tấm gương sáng,
về đạo đức cách mạng. Những lãnh tụ như C.Mác, Ph. ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí
Minh là những người lãnh đạo tiêu biểu của giai cấp công nhân, sinh ra và trưởng
thành trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động; đồng thời có vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển của phong trào, thúc đẩy sự
phát triển của tiến trình cách mạng thế giới, làm nên những thắng lợi vĩ đại của giai
cấp công nhân trong hơn một thế kỷ qua .
1.1.3. Chuyển giao quyền lãnh đạo
Chuyển giao quyền lãnh đạo. Theo từ điển tiếng Việt, chuyển giao có nghĩa là “Giao lại cho người khác nhận”10; Quyền có nghĩa là, “Thế, sức mạnh, lợi lộc được hưởng do pháp luật công nhận hoặc do địa vị đem lại”11. Theo đó, khái niệm chuyển
giao quyền lãnh đạo, nói một cách chung nhất, là sự chuyển giao quyền lãnh đạo,
quyền lực chính trị từ người lãnh đạo này sang người lãnh đạo khác, từ thế hệ lãnh
đạo này sang thế hệ lãnh đạo khác nhằm đáp ứng sự phát triển và duy trì liên tục của
đảng chính trị, đảng cầm quyền. Đó là quá trình tự nhiên, tất yếu của bất cứ đảng
chính trị nào. Đó là sự chuyển giao trong nội bộ một đảng chính trị, chứ không phải
là sự chuyển giao quyền lãnh đạo từ đảng chính trị này sang đảng chính trị khác. Sự
9 V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TB. M. 1978, tập 41, tr. 130 10 Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin, H. 1998, tr. 407 11 Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin, H. 1998, tr. 1383
chuyển giao đó diễn ra trong nội bộ đảng chính trị từ người lãnh đạo cao nhất, cơ
quan lãnh đạo cao nhất có thể đến từng tổ chức đảng ở cơ sở, gắn với những thời
điểm quan trọng trong đời sống chính trị, trong đấu tranh cách mạng. Khi đảng chính
trị đó là đảng cầm quyền thì sự chuyển giao quyền lãnh đạo mang tính chất và ý
nghĩa của chuyển giao quyền lực chính trị, chuyển giao việc nắm chính quyền nhà
nước, chuyển giao quyền lực nhà nước.
Trong lịch sử nhân loại đã diễn ra sự chuyển giao quyền lực từ chế độ mẫu
quyền sang chế độ phụ quyền; từ giai cấp bóc lột này sang giai cấp bóc lột khác được
thực hiện bằng đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội trong xã hội có giai cấp và đấu
tranh giai cấp; từ đảng phái chính trị này sang đảng phái chính trị khác trong nội bộ
của giai cấp thống trị như trong thể chế chính trị tư sản. Các thể chế chính trị khác
nhau có những hình thức chuyển giao quyền lực khác nhau. Trong xã hội tư bản, nội
bộ giai cấp tư sản thường nảy sinh những mâu thuẫn và xung đột giữa các nhóm, phe
phái, đảng phái xoay quanh các vấn đề quyền lực và lợi ích. Các đảng phái tư sản có
thể liên minh với nhau để thống trị và bóc lột quần chúng nhân dân, nhưng chúng
luôn tìm mọi cách để giành lấy ưu thế có lợi cho đảng phái mình, loại bỏ đảng phái
khác. Vì thế, cuộc tranh giành quyền lực ở các nước tư bản thường xuyên diễn ra trên
sân khấu chính trị của giới cầm quyền với những thủ đoạn đấu đá tinh vi, xảo quyệt,
thâm độc, nham hiểm thanh toán, lật đổ lẫn nhau một cách tàn bạo. Đề tài luận văn
không tập trung nghiên cứu những sự “chuyển giao” quyền lực nêu trên.
Khái niệm chuyển giao quyền lãnh đạo ở đây cần được hiểu là sự chuyển giao
quyền lãnh đạo, quyền lực chính trị từ người lãnh đạo này sang người lãnh đạo khác,
từ thế hệ lãnh đạo này sang thế hệ lãnh đạo khác trong nội bộ đảng chính trị, đảng
cầm quyền một cách có ý thức theo những thể thức được thừa nhận, nhằm đáp ứng sự
phát triển và duy trì liên tục quyền lực của đảng chính trị, đảng cầm quyền. Đảng
cầm quyền chuyển giao quyền lãnh đạo trong đảng, diễn ra trong nội bộ đảng, nhưng
ảnh hưởng quan trọng đến đời sống chính trị đất nước, ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển của xã hội, đến việc phát huy vai trò lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và
xã hội. Đây là một hiện tượng lịch sử phức tạp gắn liền với lợi ích và hoạt động của
con người, của các thế hệ; phản ánh mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể có vai trò
chi phối trực tiếp về quyền lực.
Chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền.
Cũng như bất cứ một đảng chính trị nào khác, việc chuyển giao quyền lãnh đạo
trong nội bộ Đảng Cộng sản cả giai đoạn khi chưa cầm quyền và giai đoạn cầm
quyền đều là tất yếu khách quan. Quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong điều kiện
Đảng cầm quyền do vai trò, vị trí, vị thế, sức mạnh của Đảng quy định, được hiến
pháp và pháp luật nhà nước thừa nhận. Theo quan niệm trên về chuyển giao quyền
lãnh đạo, có thể hiểu chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm
quyền là sự chuyển giao quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội, chuyển giao quyền lực
chính trị từ lãnh tụ này sang lãnh tụ khác, người đứng đầu này sang người đứng đầu
khác và từ thế hệ này sang thế hệ khác trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền nhằm
duy trì và đảm bảo quyền lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội, đáp ứng yêu
cầu mới của sự nghiệp cách mạng XHCN.
Sự chuyển giao này là sự chuyển giao trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền,
chứ không phải là sự chuyển giao quyền lãnh đạo cho các lực lượng chính trị khác.
Đó là sự chuyển giao trong xu hướng vận động phát triển của bản thân Đảng Cộng
sản trong điều kiện có chính quyền nhà nước. Chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội
bộ Đảng Cộng sản cầm quyền mang tính tích cực, tiến bộ, là một tất yếu khách quan,
đòi hỏi phải được thực hiện tốt, như V.I.Lênin xác định: “Nhiệm vụ tổ chức của
chúng ta chính là ở chỗ tìm ra những nhà lãnh đạo và những nhà tổ chức trong quần chúng nhân dân. Công tác to lớn, vĩ đại ấy, ngày nay trở nên cấp thiết”12.
Chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền là chuyển
giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản ở giai đoạn Đảng đã cầm quyền, có
chính quyền nhà nước. Xét về bản chất, việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội
bộ Đảng Cộng sản cầm quyền là chuyển giao quyền lực, quyền hạn, trách nhiệm,
nhiệm vụ giữa những người đại diện xứng đáng cho sự ủy thác quyền lực của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Bản chất của việc chuyển giao quyền lực trong
nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền do bản chất của Đảng Cộng sản quy định. Điều đó
hoàn toàn xa lạ với việc dùng quyền lực để mưu cầu lợi ích, danh vọng riêng của cá
nhân. Như vậy, về mặt khách quan, sự chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ
Đảng Cộng sản cầm quyền diễn ra trong sự đoàn kết, nhất trí, thống nhất cao, với
12 V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TB. M. 1978, tập 35, tr. 333
động cơ trong sáng, lành mạnh. Sự chuyển giao ấy không thể và không cho phép diễn
ra trong sự mâu thuẫn, xung đột, tranh giành lẫn nhau; không thể và không cho phép
diễn ra trong sự lộng hành của chủ nghĩa cá nhân.
Như vậy, mục đích của sự chuyển giao là vì sự phát triển của Đảng, vì việc đảm
bảo sự nắm quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội. Chuyển
giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền không vì mục đích nào
khác, không vì lợi ích cục bộ của cá nhân nào đó. Mục đích đó vừa phản ánh bản chất
và đặc điểm căn bản của vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng
sản cầm quyền, vừa là yêu cầu cơ bản chi phối quá trình chuyển giao quyền lãnh đạo.
Không nhận thức đúng vấn đề đó, để cho chủ nghĩa cá nhân lộng hành là không đúng
với bản chất và mục đích của sự chuyển giao quyền lực trong nội bộ Đảng Cộng sản,
Đảng của giai cấp tiên tiến nhất trong lịch sử nhân loại.
1.2. Tính tất yếu của vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng
sản cầm quyền
1.2.1. Từ quy luật tự nhiên, sinh học
Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của con người. Người lãnh đạo là người
tiêu biểu, đi tiên phong và dẫn dắt phong trào cách mạng phát triển. Thế nhưng, cá
nhân người lãnh đạo, người cầm quyền cụ thể, cũng như những con người khác, là
một thực thể sinh vật - xã hội. Và thực thể đó là một thực thể hữu hạn. Tính hữu hạn
của con người được quy định bởi sức khỏe và giới hạn tuổi tác của con người. Tính
hữu hạn đó nói lên rằng, con người dù có muốn cống hiến cho sự nghiệp của giai cấp,
dân tộc như thế nào chăng nữa cũng chỉ là sự cống hiến trong những năm tháng nhất
định, với điều kiện sức khỏe nhất định. Không ai có thể vượt qua được những giới
hạn của sức khỏe và tuổi tác. Đó là quy luật. Quy luật sinh học tự nhiên nhưng nghiệt
ngã này, dù có là vĩ nhân, lãnh tụ xuất chúng như thế nào đi chăng nữa thì cũng
không thể cưỡng lại được. Cho nên sẽ đến lúc người lãnh đạo trao các nhiệm vụ trao
quyền lãnh đạo cho các thế hệ nối tiếp sau mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra:
"Đảng càng phát triển thì cần đến cán bộ mới càng nhiều, vả chăng số cán bộ cũ có ít
không đủ cho Đảng dùng. Đồng thời theo quy luật tự nhiên già thì phải yếu, yếu thì
phải chết. Nếu không có cán bộ mới thay thế vào thì ai gánh vác công việc của
Đảng"13, đề cập đến vấn đề này đồng chí Lê Duẩn cho rằng: "Những đồng chí hiện
nay đang làm việc mà tuổi đã cao cũng phải thấy trước rằng thời gian làm việc không
thể nhiều nữa, sớm muộn thế nào cũng phải có người thay thế. Nếu ngay bây giờ
không mạnh dạn đưa người trẻ lên thì năm ba năm nữa lấy ai thay thế cáng đáng
công việc? Lòng chung thuỷ của chúng ta đối với cách mạng không thể chỉ ở bản
thân mình làm tròn nhiệm vụ, mà còn luôn luôn tạo cho cách mạng một lớp người kế tục đủ đưa sự nghiệp tới cuối cùng"14. Giới hạn của tuổi tác và sức khỏe sẽ làm cho
người lãnh đạo dù có nhiệt tình và hăng hái đến đâu đi nữa cũng không thể tiếp tục
làm việc mãi mãi được. Các chuyên gia nhân tài học cho rằng đỉnh cao của tài năng
lãnh đạo và quản lý là ở khoảng tuổi 50. Như vậy, khi vượt qua đỉnh cao này người
lãnh đạo sẽ bắt đầu suy giảm năng lực của chính mình đến những năm tháng sau đó
hiệu quả hoạt động quản lý lãnh đạo sẽ không còn như trước đó là chưa nói đến
những căn bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân như :tham quyền cố vị,cục bộ địa
phương… Vậy, đối với bản thân người lãnh đạo dù ở cương vị nào cũng phải nhận
thức quy luật này để từ đó có hành động đúng và tự giác thực hiện việc lựa chọn
người lãnh đạo tiếp sau mình và chuyển giao quyền lãnh đạo khi đã hoàn thành
nhiệm vụ trong một giai đoạn mà mình được giao phó.
Vì thế, chuyển giao quyền lãnh đạo cho lớp trẻ, cho người lãnh đạo kế tiếp xứng
đáng và đúng lúc là yêu cầu khách quan do sự chi phối bởi quy luật sinh học của con
người. Điều đó đòi hỏi đến một thời điểm nào đó, ở một độ tuổi nào đó thì người lãnh
đạo, cầm quyền cần phải chuyển giao quyền lãnh đạo cho người khác trẻ hơn, còn độ
tuổi phục vụ tốt hơn. Sự chậm trễ, để vượt ngưỡng những giới hạn của sinh học,
những giới hạn về tuổi tác, về sức khoẻ trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo dẫn
đến nguy hại cho cách mạng, vừa làm suy giảm uy tín của người lãnh đạo, vừa làm
thui chột nhân tài, gây nên sự trì trệ đối với sự phát triển của phong trào, của xã hội.
Quy luật tự nhiên - sinh học chỉ ra rằng, trách nhiệm chính trị của người lãnh
đạo trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo cho thế hệ sau là rất lớn. Trách nhiệm
đó không chỉ thể hiện ở chỗ họ tận tâm, tận lực phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân mà còn thể hiện ở việc người lãnh đạo đó phải lựa chọn và chuyển giao quyền
13 Hồ Chí Minh, tr.185. 14 Lê Duẩn, Mấy vấn đề về Đảng cầm quyền, Nxb Sự thật, 1981, tr.79.
lãnh đạo cho người xứng đáng khác một cách đúng lúc. Thước đo tài năng và phẩm
chất đạo đức của người lãnh đạo, của lãnh tụ chính trị còn thể hiện ở việc họ có lựa
chọn chính xác và chuyển giao quyền lãnh đạo cho người khác xứng đáng và đúng
lúc không.
1.2.2. Từ quy luật phát triển xã hội
Lịch sử xã hội loài người là một dòng chảy, phát triển liên tục từ thấp đến cao,
từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Chính sự phát triển của xã hội đã kéo theo những
sự đòi hỏi về việc nâng cao trình độ và khả năng của các nhà lãnh đạo, quản lý đất
nước. ở mỗi giai đoạn lịch sử đặt ra những vấn đề cần phải giải quyết, một lớp người,
một thế hệ sẽ xuất hiện để đáp ứng những yêu cầu và nhiệm vụ lúc bấy giờ. Một khi
nhiệm vụ ấy đã giải quyết xong, lịch sử lại đặt ra những nhiệm vụ mới với những đòi
hỏi cao hơn. Sau thắng lợi của cách mạng vô sản, giai cấp công nhân đi vào công
cuộc xây dựng xã hội mới với những nhiệm vụ nặng nề và phức tạp, đó là nhiệm vụ
quản lý, phát triển đất nước. Theo V.I.Lênin: "Bất kỳ công tác quản lý nào cũng đòi
hỏi phải có những đặc tính riêng biệt... muốn quản lý thì phải là những người thông
thạo chuyên môn, phải biết một cách đầy đủ và chính xác tất cả những điều kiện của
sản xuất, phải hiểu được kỹ thuật của nền sản xuất đó ở trình độ hiện đại của nó, phải có một trình độ khoa học nhất định..."15. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói chuyện với
các đồng chí cán bộ lâu năm ở Nghệ An, Người chỉ rõ:
Công việc ngày càng nhiều. Trước đây Đảng ta tổ chức đánh Tây,
đánh Nhật rất gian nan cực khổ. Nhưng so với trước, công việc khó khăn
hơn nhiều, phức tạp hơn nhiều. Bây giờ Đảng ta phải làm nhiều chuyện:
xây dựng nhà máy, xây dựng hợp tác xã, làm sao cho người nông dân,
người công nhân ăn no, mặc ấm; làm sao cho nước càng ngày càng mạnh, dân càng ngày càng giàu...16.
Cũng chính Người cho rằng: "Công việc ngày càng mới, càng về sau này, càng
nhiều cái mới, càng ít cái cũ... Có người nay còn lãnh đạo đó nhưng sau này tiến lên
15 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 40, Nxb TB, M, 1977, tr.248. 16 Hồ Chí Minh, Về xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, 1980, tr.166.
máy móc nếu không biết kỹ thuật thì làm sao lãnh đạo được, nếu không biết phải mời anh ra, cho người khác giỏi hơn vào làm..."17.
ở đây ta thấy rằng người lãnh đạo dù tài năng đến đâu thì họ vẫn là sản phẩm
của hoàn cảnh lịch sử nhất định. Người lãnh đạo, lãnh tụ chính trị dù có tài ba lỗi lạc
đến mức nào thì bao giờ họ cũng là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử nhất định,
của một thời đại lịch sử nhất định. Năng lực lãnh đạo của người lãnh đạo, người cầm
quyền không phải là vô hạn, không phải là toàn năng, không thể đáp ứng được tất cả
mọi sự biến đổi của hoàn cảnh, mọi sự phát triển của nhiệm vụ cách mạng. Thực tiễn
biến đổi và phát triển không ngừng, yêu cầu mới buộc phải có năng lực mới đáp ứng.
Đó là tất yếu khách quan. Hơn nữa, bản thân người lãnh đạo không phải là không có
nhược điểm và khuyết điểm, mà sự phát triển của tình hình ngày càng làm cho những
nhược điểm, hạn chế bộc lộ rõ hơn, và đến một lúc nào đó thì những nhược điểm, hạn
chế của người lãnh đạo sẽ cản trở sự phát triển của phong trào, của cách mạng.
V.I.Lênin đã từng chỉ rõ: “Các lãnh tụ của công nhân không phải là thiên thần, không
phải là thánh, không phải là anh hùng, mà cũng là người như tất cả mọi người khác. Họ cũng có khuyết điểm”18. Luận điểm của V.I.Lênin cho thấy tính chất hữu hạn về
năng lực của người lãnh đạo; đồng thời chỉ rõ bản thân những người lãnh đạo cũng
có những khuyết điểm, “Không có một nhà hoạt động chính trị nào mà trong bước
đường hoạt động của mình mà không trải qua những thất bại này hay những thất bại khác”19.
Trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân thế giới, đã có không ít trường
hợp những lãnh tụ chính trị của thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, hoặc thời kỳ
chiến tranh đã không còn phù hợp với thời kỳ xây dựng mới. Người lãnh đạo hôm
qua, trong giai đoạn lịch sử trước có thể là những anh hùng, lập được những thành
tích vẻ vang, góp phần quan trọng vào những thắng lợi và thành tựu của cách mạng,
nhưng hôm nay, trong giai đoạn lịch sử mới, có thể họ không còn thích ứng với
những đòi hỏi của tình hình mới. Việc vẫn duy trì quyền lãnh đạo của họ trong điều
kiện mới đã gặp không ít trường hợp những người lãnh đạo đó lại là nhân tố kìm
17 Hồ Chí Minh, Về xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, 1980, tr.167. 18 V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TB. M. 1980, tập 21, tr. 524 19 V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TB. M. 1979, tập 5, tr. 107
hãm, cản trở sự phát triển của cách mạng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, thì sự
cản trở đó lại càng trở nên rõ ràng hơn. Sự say sưa quá mức với ánh hào quang của
những chiến tích cũ với những con người cũ cũng có thể dẫn đến sự thiếu tỉnh táo,
thiếu sáng suốt trước những yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới. Cần thấy rõ điều này
để mạnh dạn và thẳng thắn trong vấn đề lựa chọn và chuyển giao quyền lãnh đạo;
phải khắc phục những “cảm giác” sợ “xúc phạm”, hoặc “bất tiện” đối với người lãnh
đạo này hay người lãnh đạo khác, bởi vì họ có những thành tích huy hoàng trong quá
khứ, trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo, như theo cách diễn đạt của V.I.Lênin.
Trong vấn đề này, quy luật phát triển xã hội đã cho thấy cần phải thực hiện tốt việc
kế thừa trong chuyển giao quyền lãnh đạo.
Những vấn đề phân tích trên chỉ rõ, việc lựa chọn người lãnh đạo và chuyển
giao quyền lực, quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản là một tất yếu khách
quan, phổ biến trong tất cả các giai đoạn cách mạng của giai cấp công nhân.Trong
điều kiện cầm quyền, nắm chính quyền nhà nước sẽ có nhiều mối quan hệ quyền lực,
lợi ích chi phối hơn, dễ xuất hiện và phát triển những tư tưởng “tham quyền cố vị” ở
người lãnh đạo, ở những cán bộ chủ chốt, ở những đảng viên có chức có quyền, thì
càng đòi hỏi phải thực hiện một cách đúng đắn, kịp thời, chính xác và có nguyên tắc
vấn đề lựa chọn và chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản. Nhận
thức đúng những vấn đề tất yếu đó là cơ sở quan trọng cho việc chuyển giao quyền
lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền được đúng đắn, hợp lý. Đó không
những là quy luật mà còn là vấn đề đặc biệt hệ trọng trong quá trình Đảng Cộng sản
lãnh đạo nhà nước và xã hội, thực hiện sự nghiệp cách mạng vĩ đại xây dựng xã hội
XHCN.
1.2.3. Xuất phát từ nhiệm vụ cầm quyền của Đảng Cộng sản
Đảng Cộng sản cũng là một đảng chính trị như bất cứ một đảng chính trị nào
khác, trong quá trình xây dựng, muốn phát triển và trưởng thành không ngừng để đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ của cách mạng, thì đòi hỏi đều phải thực hiện tốt
vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo. Đảng Cộng sản với tư cách là đội tiền phong của
giai cấp công nhân, lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành
thắng lợi cuộc cách mạng giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, thiết lập chính quyền nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Từ đó, Đảng
trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo xã hội và nhà nước. Đảng Cộng sản trở thành
đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo chính quyền nhà nước là thành tựu vĩ đại của cuộc
đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó; đó là bước ngoặt
lịch sử trong sự trưởng thành của Đảng, là sự trưởng thành toàn diện của Đảng cả về
tư tưởng, chính trị và tổ chức.
Nhiệm vụ cầm quyền, lãnh đạo, tổ chức xây dựng xã hội mới là nhiệm vụ hết
sức mới mẻ, phức tạp và rất khó khăn, đòi hỏi Đảng phải không ngừng vươn lên, cán
bộ, đảng viên của Đảng phải phấn đấu không ngừng để ngang tầm với nhiệm vụ. Sự
nghiệp cách mạng khó khăn và lâu dài đó không thể thực hiện xong trong một sớm,
một chiều, không thể được tiến hành xong trong một thế hệ lãnh đạo, một người lãnh
đạo, một lãnh tụ mà là sự nghiệp của nhiều thế hệ cộng sản khác nhau. “Khi mà
chính trị đòi hỏi một sự chuyển biến kiên quyết, một sự mền dẻo và một bước quá độ khéo léo thì những người lãnh đạo phải hiểu được điều ấy”20. Như vậy, mỗi giai đoạn
cách mạng, cần có những người lãnh đạo, những lãnh tụ chính trị tương ứng đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng đó.
Để đảm bảo và giữ vững vai trò cầm quyền của mình trong suốt cả quá trình xây
dựng CNXH, thì Đảng Cộng sản phải không ngừng đổi mới, chỉnh đốn, xây dựng thật
sự trong sạch, vững mạnh, trong đó phải đặc biệt chú ý đến việc chuyển giao quyền lãnh
đạo cho người lãnh đạo kế tiếp, cho các thế hệ kế tiếp. Sự chuyển giao quyền lãnh đạo
có tầm quan trọng đặc biệt. Tầm quan trọng của sự chuyển giao quyền lãnh đạo trong
nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền thể hiện ở chỗ, nó không những đảm bảo, duy trì và
giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội, mà còn là yếu tố bảo
đảm cho sự phát triển của xã hội, quyết định đến chính sự sống còn của bản thân Đảng.
Quyền lực chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền tiêu biểu cho quyền lực
chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong CNXH. Quyền lực ấy
còn gọi là quyền lực nhà nước được thể hiện và được thực hiện bởi vai trò và chức
năng lãnh đạo của Đảng; được thể hiện thông qua nhà nước và bằng nhà nước; được
thể hiện ở quyền làm chủ của nhân dân lao động. Quyền làm chủ, quyền lực chính trị
20 V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TB. M. 1978, tập 43, tr. 87
xã hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được bảo đảm bởi sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản và sự quản lý của nhà nước XHCN. Mục đích, lý do tồn tại và
hoạt động của Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN là để phục vụ giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, phục vụ xã hội, là để hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân
dân lao động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Yêu cầu cầm quyền của Đảng Cộng sản không những đòi hỏi việc lựa chọn
người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng cần phải được thực
hiện, mà còn đòi hỏi cần phải được thực hiện tốt. Sự nghiệp cách mạng càng phát
triển, nhiệm vụ cách mạng càng nặng nề càng đòi hỏi sự chính xác và đúng đắn trong
việc lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng.
V.I.Lênin chỉ rõ: “Giai cấp vô sản muốn thắng giai cấp tư sản thì phải đào tạo lấy
“những nhà chính trị giai cấp” thực sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà chính trị của giai cấp tư sản”21. Cách mạng sẽ không thể
phát triển, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN sẽ không thể đạt được
những thành tựu to lớn, sẽ không thể thắng lợi, thậm chí bị thất bại, nếu việc lựa chọn
người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng không được chú ý
đúng với tầm quan trọng của nó, không được thực hiện tốt, nếu bị chi phối bởi những
toan tính cá nhân.
1.3. Tập trung dân chủ - nguyên tắc cơ bản để thực hiện chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền
1.3.1. Nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ
Các Đảng Cộng sản ngay từ khi thành lập đến nay đều lấy tập trung dân chủ làm
nguyên tắc trong tổ chức, hoạt động và sinh hoạt của mình. Qua những thử thách của
lịch sử phong trào cộng sản hơn một trăm năm qua, nguyên tắc tập trung dân chủ đã
tỏ rõ vai trò nền tảng của mình, tạo nên sức mạnh to lớn cho mỗi Đảng Cộng sản
vượt qua những khó khăn thử thách trong tổ chức nội bộ và trong lãnh đạo cách
mạng. Nguyên tắc căn bản này đã trở thành “hòn đá thử vàng” để phân biệt giữa
Đảng Cộng sản chân chính và đảng giả danh cộng sản, cơ hội, xét lại. Đó là nguyên
tắc quan trọng nhất để chỉ đạo mọi hoạt động tổ chức, sinh hoạt nội bộ và phong cách
làm việc của Đảng; và cả việc lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh
đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản. Trong thực tiễn phong trào cộng sản thế giới,
nguyên tắc tập trung dân chủ là một “tiêu điểm” tập trung sự chống phá quyết liệt, sự
chống đối, công kích của các loại kẻ thù nhằm phá hoại Đảng và phủ nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là đòi hỏi
khách quan của phong trào công nhân, của đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản đảm bảo sự thống nhất, đoàn
kết và vững mạnh của Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản là đội tiền phong của giai cấp
công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân, có ý thức tổ chức kỷ luật, đó là kỷ luật
tự giác nghiêm minh, và tinh thần dân chủ. Đảng có vai trò lãnh đạo giai cấp công
nhân và nhân dân lao động thực hiện sứ mệnh lịch sử thủ tiêu CNTb, xây dựng
CNXH và CNCS. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang này, đòi hỏi Đảng phải là
một khối đoàn kết, thống nhất vững chắc cùng một ý chí, cùng một hành động. Tổ
chức Đảng có được xây dựng vững mạnh thì mới đảm bảo cho cương lĩnh, đường lối,
chủ trương của Đảng được đúng đắn và được thực hiện nghiêm túc. Sức mạnh chính
trị, tư tưởng của Đảng Cộng sản được thực hiện bằng tổ chức, thông qua tổ chức, mà
điều đó phải được dựa trên nguyên tắc cơ bản: Tập trung dân chủ. V.I.Lênin đã nhiều
lần nhấn mạnh: “Sức mạnh của giai cấp công nhân là ở tổ chức. Không tổ chức quần
chúng thì giai cấp vô sản không là cái gì hết. Được tổ chức, giai cấp vô sản sẽ là tất cả”22.
Xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ là nguy cơ dẫn đến sự tan rã Đảng. Lịch sử
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã chứng minh rằng, vi phạm nguyên tắc
tập trung dân chủ là một trong những nguyên nhân làm sa sút sức chiến đấu, suy yếu
sự lãnh đạo của Đảng, làm tan vỡ Đảng về mặt tổ chức. Sự tan rã của các Đảng Cộng
sản ở Liên xô và các nước Đông Âu có một nguyên nhân rất quan trọng là các Đảng
ở đó đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt, tổ chức
và hoạt động của mình.
Nội dung căn bản của nguyên tắc tập trung dân chủ được Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ, trong lãnh đạo các cấp đảng bộ phải thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá
21 V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TB. M. 1977 tập 41, tr. 80-81
nhân phụ trách. Người viết: “Mọi việc đều bàn bạc một cách dân chủ và tập thể. Khi
đã quyết định rồi, giao cho một hoặc mấy đồng chí phụ trách làm đến nơi đến chốn”23. Người nhấn mạnh: “Phải kiên quyết thực hành kỷ luật, tức là cá nhân phải
tuyệt đối phục tùng tổ chức, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương”24. Người còn chỉ rõ dân chủ luôn
luôn phải đi đôi với tập trung, tập trung phải gắn với dân chủ, đó là hai mặt thống
nhất của nguyên tắc. Mọi biểu hiện tập trung quan liêu, độc đoán, dân chủ hình thức,
phân tán, cục bộ, hẹp hòi, bè phái, tự do vô kỷ luật đều trái với bản chất của nguyên
tắc tập trung dân chủ, cần phải kiên quyết đấu tranh khắc phục.
Về nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định cụ thể tại Đại Hội IX như sau:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc.
Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên.
Giữa hai nhiệm kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành
Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy)
3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ
thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc,
thực hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thiểu số phục tùng đa số, cấp dười phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng
tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc
và Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi
hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước
khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên
có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp
22 V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TB. M. 1980, tập 14, tr. 163 23 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1996, tập 10, tr. 36 24 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 5, tr. 268
trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm
chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của
Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân
biệt đối xử vơí đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên 25.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ -
nguyên tắc nền tảng trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng Cộng sản thể
hiện trên hai vấn đề sau:
Một là, tập trung dân chủ có nghĩa là tất cả các cơ quan đảng đều phải được bầu
ra, do bầu cử mà ra và hoạt động theo nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách;
thực hiện chế độ báo báo, định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ
chức đảng trực thuộc; thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình; mọi đảng
viên đều được thảo luận dân chủ, phát biểu ý kiến và bảo lưu ý kiến của mình, nhưng
phải nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết của Đảng.
Hai là, tập trung dân chủ có nghĩa là kỷ luật nghiêm minh và thống nhất đối với
toàn thể đảng viên, không phân biệt đảng viên nào; đó là sự phục tùng ý chí, nghị
quyết của đa số, của toàn Đảng; là cơ quan cấp dưới có nghĩa vụ phải chấp hành nghị
quyết, quyết định của cấp trên. Thực hiện điều đó sẽ đảm bảo cho hoạt động và sự
lãnh đạo của Đảng được tập trung, thống nhất, tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và
hành động trong toàn Đảng.
Tập trung đòi hỏi phải có kỷ luật chặt chẽ thống nhất, phải tuân thủ những tiêu
chuẩn sinh hoạt Đảng. Tập trung trong Đảng vừa là uy quyền của tư tưởng vừa là uy
quyền của tổ chức. Đó là việc thừa nhận sức mạnh về mục đích lý tưởng của Đảng,
sức mạnh về sự lãnh đạo thống nhất trong Đảng. Tập trung là điều kiện cần thiết cho
sự tồn tại, hoạt động và phát triển của Đảng Cộng sản.
Dân chủ cũng có ý nghĩa quan trọng đối vơí sự tồn tại và phát triển của Đảng
Cộng sản. Đảng Cộng sản tồn tại sẽ không có ý nghĩa nếu không có dân chủ. Dân chủ
25 ĐCSVN, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, H. 2001. Tr 15-17
là khách quan, là đòi hỏi tất yếu của một tổ chức chính trị tiên tiến và tự nguyện như
Đảng Cộng sản. Có thực hiện dân chủ trong Đảng mới có điều kiện để rèn luyện,
giáo dục đảng viên, mới phát huy tốt tính tích cực của đảng viên và các cơ quan của
Đảng trong quá trình thực hiện đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng.
Chỉ khi nào mọi đảng viên đều phát huy tinh thần dân chủ, tự giác thảo luận, bàn bạc
và giải quyết tất cả mọi vấn đề, mọi công việc của Đảng, thì khi đó tính tích cực của đảng
viên mới được nâng cao, thì khi đó sức mạnh và hiệu lực lãnh đạo của Đảng mới được
tăng cường.
Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ là sự thống nhất giữa tập trung và
dân chủ. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa hai mặt tập trung và dân chủ, tạo thành chỉnh
thể thống nhất của một nguyên tắc. Mối quan hệ giữa dân chủ và tập trung là mối
quan hệ biện chứng và thống nhất trong cùng một nguyên tắc. Đó là bản chất của
nguyên tắc tập trung dân chủ. Phát huy dân chủ cũng có nghĩa là tăng cường tập
trung, làm cho tập trung được thực hiện tốt hơn. Ngược lại, tập trung thống nhất được
xây dựng và đảm bảo trên cơ sở dân chủ, và đảm bảo cho dân chủ được thực hiện tốt.
Dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung; tập trung là cơ sở, là cái đảm bảo cho
dân chủ được thực hiện. Nhấn mạnh tập trung mà xem nhẹ dân chủ, vi phạm dân chủ;
hoặc ngược lại đề cao dân chủ một cách vô nguyên tắc, mà xem nhẹ tập trung là đều
trái với bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, việc thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ dễ có những sai phạm về vấn đề này hay vấn đề
khác. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là sự lãnh đạo tập thể, nhưng tập thể lại giao
cho cá nhân phụ trách, và cá nhân ấy phải chịu trách nhiệm trước Đảng, trước tập thể.
Thế nhưng, trong thực tế thường vấp phải sự thiếu rõ ràng giữa vấn đề “lãnh đạo” và
vấn đề “phụ trách”; khi công việc được tiến hành thắng lợi thì thành tích thường dễ
có xu hướng được quy về cho một cá nhân, nhưng khi không thành công, công việc
không trôi chảy thì trách nhiệm đó dễ quy về cho tập thể. Thực tế đó phản ánh sự
nhận thức sai lạc và sự vận dụng không đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, làm
cho nguyên tắc này không phát huy được sức mạnh của nó trong thực tiễn hoạt động
của Đảng Cộng sản. Nguyên tắc tập trung dân chủ chỉ có thể phát huy vai trò và sức
mạnh của nó trong cuộc sống khi nguyên tắc này được nhận thức và vận dụng đúng
đắn.
1.3.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ với vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo
trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền
Như trên phân tích, vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng
Cộng sản cầm quyền có tầm quan trọng đặc biệt quyết định đến sức chiến đấu, sức
mạnh tổ chức và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội. Tầm quan
trọng của vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo quy định tầm quan trọng của việc nhận
thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Không thể thực hiện tốt vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng
Cộng sản cầm quyền, nếu như nguyên tắc tập trung dân chủ không được thực hiện
đúng. ở đây, cần phải thấy rõ một đặc điểm trong điều kiện Đảng cầm quyền là,
những lãnh tụ của Đảng, những người lãnh đạo Đảng thông thường là những người
đứng đầu các cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nuớc, những chức vụ chủ chốt
trong hệ thống bộ máy của nhà nước. Đặc điểm này gây nên những khó khăn không
dễ dàng khắc phục khi thực thi nguyên tắc tập trung dân chủ trong vấn đề chuyển
giao quyền lãnh đạo. Dân chủ được triển khai hình thức theo ý đồ của cá nhân lãnh
đạo; tập trung bị lợi dụng để khẳng định và bảo vệ cho quyền uy cá nhân, bè nhóm,
phe phái thì không thể lựa chọn được đúng người, không thể tìm được người có đủ
phẩm chất và năng lực để giao quyền lãnh đạo. Thay vào đó, đáng lý là người xứng
đáng thay thế, nhưng lại là người yếu kém cả về năng lực và phẩm chất, thậm chí đó
là mầm mống cho sự huỷ hoại cơ thể sống của Đảng.
Vai trò quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ đối với vấn đề chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền thể hiện cụ thể trên những
vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở để lựa chọn
đúng người, tìm được người lãnh đạo xứng đáng, có tín nhiệm, có uy tín đối với tập
thể. Mọi đảng viên của tổ chức đảng với tinh thần dân chủ, nêu cao trách nhiệm trước
tổ chức Đảng sẽ tìm ra, lựa chọn được người trong hàng ngũ mình, trong tổ chức
mình có đủ năng lực và phẩm chất có thể đảm đương được trọng trách của Đảng để
giao quyền lãnh đạo cho họ. ý kiến của cá nhân, dù cá nhân đó là người có tinh thần
trách nhiệm cao và nhận thức tốt, nhưng cũng không thể toàn diện, đầy đủ và cụ thể,
chính xác bằng con mắt của nhiều người, của tất thảy mọi đảng viên. ở đây đòi hỏi
cán bộ, đảng viên của Đảng phải có tính đảng, tinh thần trách nhiệm, tự giác và trình
độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị rất cao. Mọi đảng viên có nhận thức đúng, nắm vững
nguyên tắc và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới thì mới có thể
thực hành đúng dân chủ, bảo vệ và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; mới
có thể lựa chọn được những người lãnh đạo thay thế xứng đáng.
Thứ hai, nguyên tắc tập trung dân chủ đảm bảo cho các tổ chức Đảng và Đảng
Cộng sản không chỉ đoàn kết thống nhất trong quá trình lựa chọn người lãnh đạo và
chuyển giao quyền lãnh đạo, mà còn là yếu tố căn bản giữ vững sự đoàn kết thống
nhất đó sau khi đã chọn được người và giao quyền lãnh đạo cho người lãnh đạo mới.
Đồng thời, không những giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, mà còn củng cố, tăng
cường sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội. Thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ thì sẽ triệt tiêu được những nguy cơ dễ nảy
sinh, như tranh giành quyền lợi, lợi ích trong nội bộ Đảng. Đặc biệt, trong điều kiện
Đảng cầm quyền, thì vấn đề quyền lực và lợi ích lại càng trở thành vấn đề lớn và rất
nhạy cảm, dễ bị chi phối, thao túng của sự độc đoán, chuyên quyền cá nhân, kể cả cá
nhân người lãnh đạo đương nhiệm, dễ bị chi phối, thao túng của những toan tính cá
nhân và chủ nghĩa cục bộ, bè phái.
Mọi sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong vấn đề chuyển giao quyền
lãnh đạo trong nội bộ Đảng đều dẫn đến nguy hại, nội bộ mất đoàn kết, tình trạng độc
đoán, chuyên quyền, vô nguyên tắc, kéo bè, kéo cánh sẽ phát triển và làm suy yếu
sức chiến đấu của Đảng. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ:
Đối với những cấp uỷ, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tập trung
dân chủ, cán bộ lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, gây
mất đoàn kết nội bộ, cấp uỷ cấp trên phải chỉ đạo kiểm diểm làm rõ đúng
sai, xử lý nghiêm những người có khuyết điểm, kiện toàn tổ chức cán bộ;
nơi không có khả năng khắc phục khuyết điểm thì giải tán về tổ chức, lập tổ chức mới theo quy định của Điều lệ Đảng26.
Như vậy, sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong vấn đề chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng sẽ xuất hiện những tình huống chính trị gây nguy
hại đối với Đảng, cần phải xử lý cả về mặt tư tưởng và cả về mặt tổ chức.
Sự phân tích trên cho thấy, trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội
bộ Đảng Cộng sản cầm quyền, nguyên tắc tập trung dân chủ cần phải được thực hiện
một cách nghiêm ngặt.
Có cơ chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ; trọng dụng người có đức, có tài. Thực hiện đúng nguyên tắc Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với
phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong
hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ…27.
Kết luận chương 1
Trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm thủ tiêu CNTB, xây dựng CNXH và
CNCS, giai cấp công nhân phải tổ chức ra chính đảng của mình. Đó là tất yếu khách
quan. Đảng Cộng sản muốn hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng của mình thì
phải không ngừng được xây dựng, củng cố cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Trong điều kiện đã có chính quyền nhà nước dễ xuất hiện và phát triển những nguy
cơ làm suy yếu sức chiến đấu, thậm chí làm đổ vỡ Đảng, thì Đảng càng cần phải
được lo xây dựng bản thân mình, và đặc biệt càng cần thực hiện tốt vấn đề chuyển
giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng
Vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền là
vấn đề tất yếu khách quan, xuất phát từ quy luật tự nhiên, sinh học; từ quy luật phát
triển của xã hội và từ nhiệm vụ cầm quyền của Đảng Cộng sản. Những yêu cầu
khách quan đó cần phải được nhận thức đúng và tuân theo một cách nghiêm ngặt
26 ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 144
trong vấn đề chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng
Cộng sản cầm quyền.
Để đảm bảo cho việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản
cầm quyền được thực hiện tốt, chính xác, góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển
của cách mạng, giữ vững và củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước và xã hội, thì phải thực hiện đúng đắn và nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân
chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong sinh hoạt, tổ chức và
hoạt động của Đảng Cộng sản, bảo đảm cho Đảng là một khối luôn luôn thống nhất ý
chí và hành động, phát huy sức mạnh trong lãnh đạo cách mạng; là nguyên tắc nền
tảng để thực hiện việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản
cầm quyền.
27 ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 141
Chương 2
Thực tiễn vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo
trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền
2.1. Chuyển giao quyền lãnh đạo của một số Đảng Cộng sản cầm quyền
2.1.1. Đảng Cộng sản Liên Xô
2.1.1.1. Những quy định của Đảng Cộng sản Liên Xô về vấn đề chuyển giao
quyền lãnh đạo trong Đảng
Đảng Cộng sản Liên Xô là Đảng có lịch sử tồn tại lâu dài. Trong quá trình hoạt
động của mình, đặc biệt trong hơn 70 năm cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Liên Xô đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị cả thành công và thất bại
về vấn đề xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng nói chung, về việc chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng nói riêng. Nghiên cứu vấn đề chuyển giao quyền
lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô khi Đảng còn cầm quyền, chúng ta cần
tiếp cận những quy định trong Đảng Cộng sản Liên Xô về vấn đề này thông qua Điều
lệ Đảng Cộng sản Liên Xô được Đại hội lần thứ XXVII thông qua và những quy định
trong các văn kiện của Đảng về công tác tổ chức cán bộ; những cách thức mà trong
thực tiễn Đảng Cộng sản Liên Xô đã từng thực hiện.
Về cơ cấu tổ chức của Đảng, dân chủ trong nội bộ Đảng, Đảng Cộng sản Liên
Xô quy định: "Nguyên tắc chỉ đạo của cơ cấu tổ chức, toàn bộ đời sống và sinh hoạt của Đảng là chế độ tập trung dân chủ"28. Chế độ tập trung dân chủ trong Đảng Cộng
sản Liên Xô được thể hiện như sau:
- Tất cả các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ dưới lên trên đều do bầu cử mà lập
ra.
- Các cơ quan đảng phải định kỳ báo cáo trước các tổ chức của mình và các cơ
quan cấp trên.
- Kỷ luật nghiêm ngặt của Đảng, là thiểu số phục tùng đa số.
- Các nghị quyết của các cơ quan cấp trên là hoàn toàn có tính chất bắt buộc đối
với các tổ chức cấp dưới.
28 Cương lĩnh Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb Thông tấn xã Nô Vô xti, Mátxcơva, 1987, tr.107.
- Hoạt động của tất cả các tổ chức và cơ quan lãnh đạo của Đảng mang tính tập
thể và mỗi người cộng sản có trách nhiệm cá nhân đối với việc thực hiện các nhiệm
vụ của mình và các công việc được Đảng giao phó.
Cũng theo Điều lệ của Đảng Cộng sản Liên Xô, việc bầu cử các cơ quan lãnh
đạo của Đảng phải theo nguyên tắc bỏ phiếu kín (bí mật). Trong bầu cử tất cả các
đảng viên có quyền bác bỏ và phê bình không hạn chế những người ứng cử. Việc bỏ
phiếu phải tiến hành cho từng ứng cử viên riêng biệt. Những người ứng cử nếu được
quá nửa số người tham gia hội nghị toàn thể đảng viên, hội nghị đảng viên hay đại
hội bỏ phiếu mới được coi là trúng cử.
Việc lựa chọn người lãnh đạo ở cấp cao nhất của Đảng, việc chuyển giao quyền
lãnh đạo trong Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô cũng được
thực hiện thông qua một kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.
Tại Đại hội theo trình tự quy định đại biểu sẽ thực hiện các công việc hết sức
quan trọng sau đây:
- Nghe và thông qua báo cáo của ủy ban Trung ương, của Ban kiểm tra Trung
ương và các tổ chức Trung ương khác; xem xét lại, sửa đổi và thông qua Cương lĩnh
và Điều lệ Đảng; định ra đường lối của Đảng và những vấn đề chính sách đối nội và
đối ngoại, xem xét và giải quyết những vấn đề quan trọng thuộc về sinh hoạt Đảng và
Nhà nước, của công cuộc xây dựng CNCS.
- Bầu ủy ban Trung ương và Ban thanh tra Trung ương; ủy ban Trung ương và Ban
Thanh tra Trung ương được bầu theo thành phần do Đại hội quy định.
- ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô bầu ra Bộ Chính trị để lãnh đạo
công tác của Đảng trong thời kỳ giữa các hội nghị toàn thể ủy ban Trung ương. Ban
Bí thư để lãnh đạo công tác hàng ngày, chủ yếu về công tác lựa chọn cán bộ và tổ
chức kiểm tra việc thực hiện. ủy ban Trung ương bầu ra Tổng Bí thư ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô29.
Trên cơ sở quy định của Điều lệ Đảng, Đảng Cộng sản Liên Xô cho rằng: Cần
kịp thời giải quyết các vấn đề cán bộ đã chín muồi ở tất cả các cấp, bắt đầu từ ủy ban
Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Chính phủ, bảo đảm thường xuyên bổ sung
29 Cương lĩnh điều lệ Đảng..., Nxb Thông tấn xã Nô xô vô, M, 1985, tr.112.
cho hàng ngũ các cán bộ lãnh đạo, các lực lượng mới nhằm làm cho hoạt động của
Đảng không bị gián đoạn, tính kế thừa không bị phá vỡ. Mặt khác, bảo đảm thái độ
quan tâm, thận trọng có nguyên tắc đối với cán bộ khi lựa chọn và thay thế cán bộ
trong tất cả các trường hợp đều xuất phát hoàn toàn từ các lợi ích của công việc. Xác
lập trong các cơ quan được bầu, bầu không khí thực sự bình đẳng, thảo luận tự do và
trên tinh thần có tính nguyên tắc các vấn đề. "Trong công tác cán bộ, cần phải tránh
hấp tấp, nôn nóng, phải suy nghĩ, đánh giá lựa chọn một cách chắc chắn có cơ sở
khoa học và thực tiễn. Ngoài ra, Đảng Cộng sản Liên Xô còn phải chú ý đến nguyên tắc bình đẳng xã hội và dân tộc trong công tác cán bộ"30, nhưng không thể thực hiện
nguyên tắc ấy một cách đơn giản, phải có quá trình bồi dưỡng cụ thể và có quy hoạch
lâu dài.
Những quy định trong Điều lệ Đảng và những nguyên tắc lêninít trong công tác
cán bộ nêu trên đây đã từng được Đảng Cộng sản Liên Xô thực hiện rất nghiêm túc
và đạt những kết quả tốt trong việc lựa chọn những người lãnh đạo và chuyển giao
quyền lãnh đạo trong Đảng. Tuy nhiên, chúng ta thấy trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ này càng về sau, có những biểu hiện lệch lạc, nhất là vi phạm các nguyên tắc
trong tổ chức và sinh hoạt của Đảng, từ đó đã dẫn đến sai lầm, thất bại, đổ vỡ. Trong
thời kỳ cải tổ, Ban lãnh đạo Liên Xô đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung
dân chủ, vi phạm cả điều lệ Đảng. Từ việc thay thế một lúc 115 ủy viên ủy ban Trung
ương Đảng (sự thay thế này theo điều lệ phải được thực hiện thông qua Đại hội
Đảng); đến việc lựa chọn người lãnh đạo cao nhất trong Đảng cũng sai nguyên tắc.
Những thành công và hạn chế của Đảng Cộng sản Liên Xô trên lĩnh vực này sẽ được
trình bày ở phần thực tiễn từng giai đoạn từ sau V.I.Lênin đến lúc Liên Xô bị tan rã.
2.1.1.2. Thực hiện việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong Đảng Cộng sản
Liên Xô
Nghiên cứu vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản
Liên Xô khi Đảng cầm quyền, có thể chia ra ba giai đoạn chính sau:
Giai đoạn sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười năm 1917 đến khi
V.I.Lênin mất, năm 1924.
30 Cương lĩnh và điều lệ Đảng.....
Trong giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin, Đảng Cộng sản Liên Xô
đã tỏ rõ sự vững mạnh của mình cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; Đảng đã tạo ra
lớp cán bộ lãnh đạo trung kiên có đủ phẩm chất, năng lực đưa sự nghiệp cách mạng
vượt qua nhiều khó khăn thử thách, từng bước tiến lên. Các nguyên tắc của Đảng
được giữ vững, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; vấn đề phê bình, tự phê bình
được thực hiện tốt trong Đảng. Trong tổ chức và hoạt động của Đảng, V.I.Lênin luôn
coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. V.I.Lênin cho rằng cần phải “hoàn toàn thiết lập nền dân chủ trong mọi lĩnh vực”31, nhất là trong sinh hoạt Đảng, trong việc bồi
dưỡng, giao quyền cho lớp người lãnh đạo mới.
V.I.Lênin đặc biệt quan tâm chú ý đến vấn đề lựa chọn cán bộ lãnh đạo, nhất là
những cán bộ lãnh đạo chủ chốt để giao quyền lãnh đạo cách mạng cho họ, coi đó là
trách nhiệm to lớn và là nhiệm vụ của Đảng và những cán bộ lãnh đạo lớp trước đối
với cách mạng và lớp cán bộ kế cận. V.I.Lênin yêu cầu Đảng, mà trước hết là Ban
Chấp hành Trung ương, phải tạo ra được đội ngũ cán bộ lãnh đạo “gương mẫu...được
mọi người tín nhiệm tuyệt đối... thực tế cáng đáng được công tác”, những cán bộ thực
sự “Sống trong lòng quần chúng. Biết tâm trạng quần chúng. Biết tất cả. Hiểu quần chúng. Biết đến với quần chúng. Giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng”32.
Với những cán bộ lãnh đạo như thế thì mới có thể đủ tin cậy giao quyền lãnh đạo cho
họ để họ tiếp tục “cáng đáng” công việc của Đảng, công việc lãnh đạo cách mạng.
V.I.Lênin kịch liệt phản đối những xu hướng lợi dụng, vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ, thiếu trách nhiệm, đổ lỗi cho tập thể; đồng thời kiên quyết đấu tranh
với chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức trong các hoạt động của Đảng, trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng, cũng như trong vấn đề lựa chọn người lãnh đạo
và chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Hiện tượng thiếu trách nhiệm, lấy cớ là lãnh đạo tập thể, đó là một tác hại nguy hiểm nhất”33;
Người tỏ thái độ “đấu tranh không khoan nhượng chống hiện tượng không dứt khoát,
không rành mạch về nhiệm vụ được giao cho mỗi người, và chống tình trạng hoàn
31 V. I. Lênin toàn tập, Nxb Tiến Bộ, M, 1980, tập 30, tr 28 32 V.I.Lênin, toàn tập, tập 44, tr 608 33 V.I.Lênin, toàn tập, tập 39, Nxb TB , M, 1978, tr. 53
toàn vô trách nhiệm do hiện tượng đó gây ra”34. Chính V.I.Lênin cũng đã từng đứng
trước khó khăn, Người rất phân vân khi lựa chọn người đứng đầu Đảng Bônsêvích để
chuyển giao quyền lãnh đạo. Sự phân vân này xuất phát từ chỗ người lãnh đạo được
chọn để chuyển giao chưa hội đủ những yếu tố cần và đủ của một lãnh tụ Đảng của
một người đứng đầu Đảng Bônsêvích.
Những di huấn của V.I.Lênin và thực tiễn hoạt động lãnh đạo của Người đối với
sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng Đảng nói chung, đối với vấn đề lựa chọn,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo nói riêng là di sản quý giá
đối với các Đảng Cộng sản.
Giai đoạn lãnh đạo của Stalin đến Bgiêgiơnép (từ năm 1924 đến năm 1982).
Trong thời kỳ lãnh đạo của Stalin đến Bgiêgiơnép, đất nước Liên Xô đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực, vượt qua những thử thách nghiêm
trọng, khẳng định sức mạnh và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội hiện thực, khẳng
định vai trò lãnh đạo và uy tín to lớn của Đảng Cộng sản Liên Xô. Tuy nhiên, Đảng
Cộng sản Liên Xô ngày càng bộc bộ những khiếm khuyết, chủ nghĩa xã hội hiện thực
Xô viết ngày càng bộc lộ những nhược điểm, tiềm ẩn những nguy cơ to lớn thách
thức sự tồn vong của chế độ Xô viết. Một trong những nguyên nhân của tình hình đó
là việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng đã không tuân theo những
nguyên tắc căn bản của Đảng Cộng sản và yêu cầu của CNXH.
Trong thời kỳ lãnh đạo của Stalin, quyền lực của Đảng được tập trung vào cá
nhân Stalin. Một mình Stalin đảm nhiệm ba chức vụ quan trọng: Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Liên Xô, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Uỷ ban Quốc phòng.
Không chỉ tập trung quyền lực của Đảng, chính quyền và quân đội vào tay mình, thi
hành rộng rãi chế độ tập quyền cá nhân, Stalin còn thực hành chế độ chức vụ lãnh
đạo suốt đời và chế độ định người kế tục! Mô thức Stalin là sản phẩm của điều kiện
lịch sử, mặc dù nó có tác dụng nhất định trong lịch sử, nhưng với những thay đổi của
điều kiện lịch sử, đặc biệt với những đòi hỏi phát triển của CNXH và quyền làm chủ
của các tầng lớp nhân dân, thì mô thức này trở thành lực cản trên con đường phát
triển của xã hội Xô viết. Nó kìm hãm tính tích cực sáng tạo của nhân dân, vốn là bản
34 V.I.Lênin, toàn tập, tập 45, Nxb TB , M, 1978, tr181.
chất của CNXH. Nó triệt tiêu những nhân tố tích cực, tài năng của những lớp cán bộ
trẻ, thế hệ trẻ.
Chế độ định người kế tục không những không được xác lập trên cơ sở nguyên
tắc tập trung dân chủ, mà trái lại còn vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc căn bản này.
Sự kéo dài quá mức vai trò lãnh đạo của một người đã dẫn đến tình trạng trì trệ trong
lãnh đạo và ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội Xô viết. Trong các thời kỳ sau đó
và nhất là thời kỳ lãnh đạo của Bgiêgiơnép, tình hình cũng tương tự, chế độ tập
quyền, tệ sùng bái cá nhân vẫn là chế độ chi phối các hoạt động của Đảng, chi phối
vấn đề lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng
Cộng sản Liên Xô.
Chủ nghĩa tập quyền, tệ sùng bái cá nhân như một căn bệnh dai dẳng, cùng với
chủ nghĩa quan liêu đã làm méo mó, sai lệch việc lựa chọn người lãnh đạo kế tục, tệ
sùng bái cá nhân đó như đám mây đen che phủ bầu không khí dân chủ ngay cả trong
Đảng và trong toàn xã hội Xô viết. Nguyên tắc tập trung dân chủ bị lợi dụng và biến
dạng thành độc đoán chuyên quyền.
Sự chi phối của tình trạng tập trung quan liêu, đặc biệt tệ sùng bái cá nhân, sự
lộng quyền kéo dài; sự áp đặt ý chí chủ quan, bệnh giáo điều, vi phạm nguyên tắc…
trong Đảng Cộng sản Liên Xô mà tiêu biểu là người đứng đầu Đảng và Nhà nước Xô
viết đã gây nên những hậu quả hết sức nguy hại đối với sự tồn tại và phát triển của
chế độ Xô viết. Điều đó đã làm cho việc chuyển giao quyền lãnh đạo, nhất là chuyển
giao người đứng đầu Đảng và Nhà nước đã không đáp ứng được yêu cầu củng cố
đoàn kết thống nhất, nâng cao sức chiến đấu và khả năng lãnh đạo của Đảng, đảm
bảo sự phát triển của CNXH ở Liên Xô.
Một thực tế là, trong hơn bảy thập kỷ lãnh đạo nhân dân Liên Xô xây dựng
CNXH, càng về sau quyền lực chính trị của toàn Đảng càng được “quy tụ” vào Ban
chấp hành Trung ương, Ban chấp hành Trung ương lại “quy tụ” vào Bộ Chính trị, Bộ
Chính trị lại “quy tụ” vào Tổng Bí thư. Tổng Bí thư Đảng có lúc gần như toàn quyền
quyết định mọi công việc, kể cả những công việc trọng đại liên quan đến vận mệnh
quốc gia và chế độ. Mọi việc đều được quyết định bằng miệng, đằng sau một vài
cánh cửa đóng kín35. Sự áp đặt ý chí, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân
chủ, là bằng chứng cho thấy rõ sự suy yếu của Đảng. Đáng tiếc là, sự suy yếu này
kéo quá dài gắn với sự phát triển và kéo dài của sự lộng quyền, tệ sùng bái cá nhân,
mà người ta vẫn cứ lầm tưởng là Đảng còn rất “hùng mạnh”. Đảng Cộng sản Liên Xô
đã làm sai chức năng, nhiệm vụ của mình, bao biện làm thay Nhà nước, làm thay và
bao trùm lên tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là trong thời kỳ quan
liêu bao cấp. Bị quan liêu hoá và do tập trung quyền lực cao độ, Đảng trở nên xa lạ,
ngày càng xa dân hơn, không gắn với dân, mất dần chỗ dựa vào nhân dân. Trong
Đảng và trong xã hội Xô viết “Một lối sống thụ động được tạo ra một cách phổ biến và trở thành một sức ì xã hội ghê gớm”36.
Giai đoạn từ khi Bgiêgiơnép mất đến khi Liên Xô sụp đổ (từ 1982 đến 1991)
Sự nghiệp xây dựng CNXH kể từ Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
năm 1917 đến những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, nhân dân Xô viết đã đạt
được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, quân sự, khẳng định sức sống mạnh mẽ và tính ưu việt của CNXH, trở
thành nhân tố tích cực thúc đẩy tiến trình phát triển của thế giới hiện đại. Đó là điều
không thể bác bỏ được. Song, quá trình phát triển CNXH ở Liên Xô không hề đơn
giản, những khó khăn, mâu thuẫn nảy sinh và tích tụ lại, trở thành yếu tố tiêu cực,
cản trở sự phát triển, lấn át những thành tựu và dẫn đến tình trạng trì trệ, khủng
hoảng.
Trong thời gian cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô thực hiện chính sách “công
khai” và tư tưởng “đa nguyên chính trị” như là sự “đột phá” thúc đẩy quá trình dân
chủ hoá và công cuộc cải tổ, đã tạo ra những điều kiện cho sự phát triển những tư
tưởng phi xã hội chủ nghĩa trong xã hội, đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hội nghị
toàn liên bang lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Liên Xô bàn về những phương hướng,
nhiệm vụ thúc đẩy công cuộc cải tổ và xem xét việc thành lập “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở đa nguyên chính trị”37. Hội nghị quyết định “khôi phục sự
35 Xem: Hồi ký của Ligachốp, Bên trong Điện Kremli của M. Gốócbachốp, Viện TTLL thuộc Viện NCứu CN MLN, tư tưởng Hồ Chí Minh, H, 1993, 276-277 36 Nguyễn Khắc Viện, Liên Xô mô hình mới của chủ nghĩa xã hội, Nxb Tổng hợp Phú Khánh, 1988, tr 64 37 Lược sử Liên bang Nga 1917 - 1991, Nxb Giáo dục, 2002, tr 277
toàn quyền của các Xô viết; Đảng cộng sản từ bỏ việc thông qua các nghị quyết mà
trước đây vẫn là những mệnh lệnh cho các cơ quan kinh tế và nhà nước; Đảng thực
hiện đường lối chính trị của mình thông qua các đảng viên đang hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội”38.
Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Liên Xô trình tại Đại hội lần thứ XXVIII viết:
“Đảng sẽ từ bỏ độc quyền chính trị, không đòi hỏi ưu thế và vị trí đặc biệt của mình
trong Hiến Pháp Liên Xô. Chức năng của Đảng là tập trung vào việc nghiên cứu lý
luận, đề ra cương lĩnh hành động, công tác tổ chức, giáo dục và chính sách cán bộ. Đó là ý nghĩa chính của vai trò tiên phong của Đảng”39. Đại hội lần thứ XXVIII
khẳng định: “Đảng Cộng sản Liên Xô kiên quyết từ bỏ độc quyền chính trị và tư
tưởng... Diễn biến của những thay đổi đang đòi hỏi nhanh sự chuyển hoá Đảng Cộng sản Liên Xô thành một đảng chính trị thực sự”40.
Tình hình trên có nguyên nhân quan trọng là Đảng Cộng sản Liên Xô đã không
nhận thức đúng, không xử lý tốt vấn đề lựa chọn người lãnh đạo kế tục và chuyển
giao quyền lãnh đạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng. Sau khi Bgiêgiơnép mất,
Andrôpôp, tiếp đến là Trernencô lên thay làm người lãnh đạo cao nhất của Đảng và
Nhà nước Xô viết, và sau đó là Goocbachốp. Về cơ bản, việc chuyển giao quyền lãnh
đạo ở cấp cao nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô là sự chuyển giao trong cùng một
thế hệ lãnh đạo. Điều đó phản ánh việc lựa chọn người kế tục và thay đổi người lãnh
đạo là theo tư duy cũ, không được thực hiện theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ,
không đảm bảo được tính kế thừa phát triển của Đảng ở cấp cao nhất. Đảng đã tạo
nên những người lãnh đạo ở cấp cao nhất không những không trung thành với lợi ích
của giai cấp công nhân và đất nước Xô viết, mà còn không có đủ khả năng “xoay sở”,
“chèo lái” trước những biến động hết sức phức tạp của tình hình, thậm chí phản bội
lại Đảng, dùng quyền lực của mình để giải tán Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng được đề ra và coi là nguyên tắc căn bản
trong tổ chức và hoạt động của Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội ở Liên Xô.
Nhưng trên thực tế, nguyên tắc tập trung dân chủ bị hiểu sai lầm và vi phạm nghiêm
38 Lược sử Liên bang Nga 1917 - 1991, Nxb Giáo dục, 2002, tr 277 39 Viện NCứu MLN và tư tưởng HCM, Tổng quan Nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô, 1993, tr 13 40 Viện NCứu MLN và tư tưởng HCM, Tổng quan Nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô, 1993, tr 16
trọng. Sự sai lầm và vi phạm trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng, trong Nhà nước cũng đã dẫn đến những vi phạm trong các tổ chức chính trị -
xã hội. ở đây, Đảng Cộng sản Liên Xô đã không nhận thức được vấn đề: dù có phát
huy vai trò của quần chúng nhân dân và các đoàn thể xã hội thì vẫn phải trên cơ sở
tăng cường nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng. Trong khi nói đề cao dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Liên Xô lại để
nảy sinh và kéo dài chế độ hành chính tập trung quan liêu, dân chủ hình thức trong cả
các cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân. Trong thời kỳ cải tổ, Đảng thực hiện dân chủ hoá theo đường lối “chủ
nghĩa xã hội nhân đạo và dân chủ”, theo tư tưởng “đa nguyên chính trị”, từ bỏ
nguyên tắc tập trung dân chủ, đó là sự phản ánh tập trung khuynh hướng phủ định
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hơn nữa, trong giai đoạn này, nhất là thời kỳ cải tổ, Ban lãnh đạo Đảng Cộng
sản Liên Xô đã “say sưa” với dân chủ theo “tư duy chính trị mới”, làm cho tình hình
phát triển đến mức chính họ cũng không thể kiểm soát nổi. Thầy “phù thủy” triệu
“âm binh” lên nhưng đã không trị được những “âm binh” đó; trái lại, những “âm
binh” ấy lại treo cổ chính những thầy “phù thuỷ”. Vì thế, xã hội Xô viết và sự hoạt
động của các tổ chức chính trị - xã hội của Liên Xô, cũng như hoạt động của Đảng
Cộng sản Liên Xô đã rơi vào tình trạng vừa vi phạm nguyên tắc, vi phạm dân chủ,
dân chủ hình thức, vừa dân chủ quá trớn, coi thường pháp luật, kỷ cương lỏng lẻo, rối
loạn.
Sự lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ không
được thực hiện tốt, đã làm cho Đảng Cộng sản Liên Xô dần dần xa rời những
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, dần dần từ bỏ sự lãnh đạo của mình
đối với xã hội và nhà nước. Vào cuối thời kỳ cải tổ, Đảng trở thành một tổ chức
“bình đẳng” với các tổ chức chính trị - xã hội khác. Đường lối “tư duy chính trị mới”,
chủ trương “công khai hoá” và tư tưởng “đa nguyên chính trị” là biểu hiện rõ nhất
của sự chuyển hoá về tư tưởng và chính trị của Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô
từ chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học sang chủ nghĩa xã hội dân chủ;
là sự vi phạm nghiêm trọng nhất vào vấn đề bản chất nhất, cốt lõi nhất trong quá trình
xây dựng Đảng và thực thi dân chủ trong Đảng và xã hội.
2.1.2. Đảng Cộng sản Trung Quốc
2.1.2.1. Những quy định trong Đảng Cộng sản Trung Quốc về vấn đề chuyển
giao quyền lãnh đạo trong Đảng
Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập vào năm 1921. Đến năm 1949 Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã giành được chính quyền và sau đó trở thành Đảng cầm
quyền. Hơn năm mươi năm qua, Đảng đã lãnh đạo dân tộc Trung Hoa và nhân dân
Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu lớn lao: Hoàn thành cách mạng dân chủ mới,
tiến lên xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc. Trong lịch sử của mình, nhất là
trong thời kỳ cầm quyền, tuy có những khó khăn và thử thách, nhưng Đảng Cộng sản
Trung Quốc đã thể hiện rõ vai trò, vị trí của Đảng tiền phong, đã xây dựng Đảng
ngày càng trưởng thành đáp ứng với yêu cầu và đòi hỏi của cách mạng Trung Quốc.
Vấn đề xây dựng Đảng nói chung và vấn đề lựa chọn người lãnh đạo và chuyển
giao quyền lãnh đạo trong Đảng Cộng sản Trung Quốc được Đảng đặc biệt quan tâm
chú ý, với mục đích là để không ngừng củng cố Đảng, duy trì liên tục sự cầm quyền
của Đảng.
Là một Đảng xuất thân từ một dân tộc có truyền thống lịch sử, văn hóa rất lâu
đời, nhất là từ một đất nước với chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm, do vậy có
thể thấy rằng những dấu ấn của quá khứ cho đến nay vẫn còn ảnh hưởng đến Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Ngay cả vấn đề lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao
quyền lãnh đạo trong Đảng Cộng sản Trung Quốc. Điều này tuy không được thể hiện
rõ rệt trong các quy định, điều lệ, cương lĩnh của Đảng, nhưng trong thực tiễn hoạt
động lại được thực hiện, thậm chí được coi như những thông lệ. Nghiên cứu vấn đề
này ở Đảng Cộng sản Trung Quốc chúng ta không thể không chú ý đến những hiện
tượng sống động và cũng rất phức tạp diễn ra trong hoạt động của Đảng Cộng sản
Trung Quốc.
Về chế độ tổ chức của Đảng, Đảng Cộng sản Trung Quốc quy định tại Điều 10
của Điều lệ:
- Đảng là một thể thống nhất được tổ chức trên cơ sở cương lĩnh và điều lệ của
mình, theo chế độ tập trung dân chủ. Đảng thực hiện tập trung cao trên cơ sở dân chủ
cao. Những nguyên tắc cơ bản trong chế độ tập trung dân chủ của Đảng là:
. Cá nhân đảng viên phục tùng tổ chức đảng, thiểu số phục tùng đa số, tổ chức
cấp dưới phục tùng tổ chức cấp trên, các tổ chức trong toàn đảng và toàn thể đảng
viên phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và Ban Chấp hành Trung ương
Đảng.
. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng đều phải do bầu cử lập ra, trừ các cơ quan
đại diện do Đảng cử ra và các đảng đoàn trong các tổ chức ngoài Đảng.
. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban
Chấp hành Trung ương do Đại hội bầu ra. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng ở địa
phương là Đại hội, đại biểu Đảng các cấp địa phương và Ban Chấp hành do Đại hội
bầu ra. Ban Chấp hành các cấp chịu trách nhiệm về báo cáo công tác trước Đại hội
đại biểu cùng cấp.
. Tổ chức đảng cấp trên phải thường xuyên lắng nghe ý kiến của tổ chức cấp
dưới và quần chúng đảng viên, kịp thời giải quyết những vấn đề do họ nêu ra. Tổ
chức đảng cấp dưới vừa phải thỉnh thị và báo cáo các công tác với tổ chức cấp trên,
vừa phải độc lập phụ trách giải quyết những vấn đề trong phạm vi chức trách của
mình. Tổ chức đảng cấp trên và cấp dưới phải thông báo tin tức cho nhau và ủng hộ
lẫn nhau và giám sát lẫn nhau.
. Ban Chấp hành các cấp của Đảng thực hiện chế độ kết hợp giữa lãnh đạo tập
thể và phân công cá nhân phụ trách. Phàm những vấn đề trọng đại đều phải do Ban
Chấp hành của Đảng, dân chủ thảo luận và quyết định.
. Đảng cấm tệ sùng bái cá nhân dưới bất kỳ hình thức nào, phải đảm bảo hoạt
động của người lãnh đạo của Đảng dưới sự giám sát của Đảng và nhân dân, đồng thời
bảo vệ uy tín của tất cả những người lãnh đạo đại biểu cho lợi ích của Đảng và nhân dân"41.
Từ quy định trong Điều lệ của Đảng Cộng sản Trung Quốc về chế độ tổ chức
của Đảng, ta thấy rõ Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng; đây chính là nguyên tắc cơ bản trong sinh hoạt của các Đảng của
giai cấp công nhân, tuân thủ nguyên tắc này trong chương nói về tổ chức Trung ương
Đảng, Điều lệ Đảng Cộng sản Trung Quốc quy định một số nội dung liên quan đến
41 Cương lĩnh mới Điều lệ.. , tr.13-14.
vấn đề lựa chọn người lãnh đạo cao nhất trong Đảng Cộng sản Trung Quốc như sau:
"Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương, Ban Bí thư
Trung ương và Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương do Hội nghị toàn thể Ban
Chấp hành Trung ương bầu ra. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương phải là ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị"42.
Để khắc phục hiện tượng nắm giữ một cương vị quá lâu, thậm chí suốt đời, gần
đây Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chủ trương "phế bỏ chế độ giữ chức suốt đời đối với cán bộ lãnh đạo"43.
Trên đây là những quy định của Đảng Cộng sản Trung Quốc qua Điều lệ,
Cương lĩnh chung của Đảng. Song như đã trình bày ở phần trên, đối với Đảng Cộng
sản Trung Quốc, bên cạnh những quy định này, Đảng Cộng sản Trung Quốc qua các
thời kỳ các nhà lãnh đạo của Đảng thường có những cách thức thực hiện mang nặng
dấu ấn cá nhân trong việc lựa chọn người lãnh đạo kế tiếp sau mình, đó là "việc chỉ
định làm người kế tục lãnh đạo". Thậm chí việc chỉ định này có lúc được thông qua
tại Đại hội của Đảng Cộng sản Trung Quốc và được ghi hẳn vào Điều lệ. Điều này đã
từng diễn ra tại Đại hội lần thứ 9 họp từ ngày 01 đến 23 tháng 4 năm 1969. Trong
Điều lệ mới được thông qua tại Đại hội này đã ghi rõ: "Lâm Bưu là người kế tục Mao Trạch Đông"44. Cách thức lựa chọn và chỉ định người lãnh đạo kế tục trên đây không
phải chỉ diễn ra một lần, mà trong lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đã từng
diễn ra những lần khác nữa. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc về sau này mặc dù không
cho đó là cách làm đúng nhưng cũng khó vượt qua. Vào năm 1980 khi trả lời phỏng
vấn của nữ phóng viên Italia, nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình nói bài học bi kịch về
chọn người kế tục của Mao Trạch Đông như sau: "Một người lãnh đạo tự lựa chọn
người của mình kế tục là theo cách làm của chế độ phong kiến, chế độ của chúng tôi
chưa kiện toàn nên cũng làm như vậy". Như thế rõ ràng bản thân ông cũng cho rằng
đó là cách làm của chế độ phong kiến nhưng cuối cùng ông cũng lại thực hiện chọn
lựa, chỉ định người kế tục sau mình chẳng khác gì thời Mao Trạch Đông".
42 Cương lĩnhmới Điều lệ, tr.18. 43 Đại hội 16 Đảng Cộng sản Trung Quốc… , tr.217. 44 Đại hội 16 Đảng Cộng sản ......, tr.291.
2.1.2.2. Thực hiện việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong Đảng Cộng sản
Trung Quốc
Trong lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cho đến nay đã diễn ra nhiều lần
chuyển giao quyền lãnh đạo, và qua nhiều lần lựa chọn người lãnh đạo. Những lần
lựa chọn và chuyển giao này thường diễn ra thông qua các kỳ Đại hội của Đảng Cộng
sản Trung Quốc, tuy vậy vẫn có trường hợp diễn ra đột biến bất thường. Với những
đặc điểm về lứa tuổi, thời gian và quá trình cầm quyền, Đảng Cộng sản Trung Quốc
đã trải qua bốn thế hệ lãnh đạo.
Thế hệ thứ nhất trong Đảng Cộng sản Trung Quốc là thế hệ của những nhà lãnh
đạo đầu tiên, là thế hệ tìm đường đi cho đất nước Trung Quốc, từ những thập kỷ đầu
của thế kỷ XX. Thế hệ này gắn với tên tuổi của nhà lãnh đạo Mao Trạch Đông và các
bậc tiền bối khác. Đây là thế hệ đã có công lao lãnh đạo nhân dân Trung Quốc hoàn
thành cách mạng dân chủ mới, giành chính quyền về tay mình, tạo điều kiện cho đất
nước phát triển đi lên theo con đường của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định.
Sự lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo từ thế hệ thứ nhất
sang thế hệ thứ hai diễn ra rất phức tạp phải trải qua nhiều lần thay đổi. Trong quá
trình lựa chọn và chuyển giao này nhà lãnh đạo Mao Trạch Đông đã đưa ra quan
điểm: Người nắm quyền ở Trung Quốc phải là người "không nghe theo chiếc gậy chỉ
huy", đó phải là những nhà lãnh đạo có tinh thần độc lập tự chủ. Với tiêu chuẩn này
Mao Trạch Đông đã ba lần chọn người thay mình đó là: Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu,
Đặng Tiểu Bình. Song ba nhân vật trên theo Mao Trạch Đông đều không đạt tiêu
chuẩn nêu trên. Do vậy, cuối cùng Mao Trạch Đông đã chọn Hoa Quốc Phong là
người kế vị.
Thực tế trong lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc, việc chọn người lãnh đạo
và chuyển giao quyền lãnh đạo từ thế hệ thứ nhất sang thế hệ thứ hai phải trải qua
năm lần thay đổi, chọn rồi lại thay đổi, cụ thể là: thay đổi Lưu Thiếu Kỳ chọn Lâm
Bưu; thay đổi Lâm Bưu chọn Đặng Tiểu Bình thay Đặng Tiểu Bình "chọn Hoa Quốc
Phong", cuối cùng thì Đặng Tiểu Bình trở thành người lãnh đạo cao nhất trong Đảng
Cộng sản Trung Quốc, đó chính là sự đánh dấu kết thúc việc chuyển giao quyền lãnh
đạo từ thế hệ thứ nhất sang thế hệ thứ hai.
Thế hệ thứ hai: thế hệ gắn với tên tuổi của nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình. Đây là
thế hệ khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp cải cách mở cửa ở Trung Quốc; là thế hệ có
nhiều đóng góp quan trọng trong việc xác định con đường và bước đi cho sự nghiệp
cách mạng xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc. Sau khi hoàn thành trọng
trách đó họ cũng đã lựa chọn người lãnh đạo và thực hiện việc chuyển giao quyền
lãnh đạo cho thế hệ thứ ba.
Từ thế hệ thứ hai chuyển giao quyền lãnh đạo cho thế hệ thứ ba cũng đã diễn ra
những phức tạp và khó khăn. Nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình mặc dù cho rằng cách
chọn, chỉ định người kế vị sau mình là điều không đúng với nguyên tắc tập trung dân
chủ của Đảng Cộng sản. Song như đã trình bày ở phần trên. Ông lại cũng đi theo
cách làm của Mao Trạch Đông. Lúc ban đầu Đặng Tiểu Bình chọn Hồ Diện Bang là
người kế tục, nhưng sau đó chính ông đã thay đổi Hồ Diệu Bang chọn Triệu Tử
Dương và tiếp sau đó lại thay đổi Triệu Tử Dương để chọn Giang Trạch Dân.
Như vậy, có thể thấy rằng, tuy có những điều chỉnh và rút ra được bài học kinh
nghiệm từ thời của Mao Trạch Đông song việc chuyển giao quyền lãnh đạo từ thế hệ
thứ hai sang thế hệ thứ ba trong Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng diễn ra khá phức
tạp thậm chí cũng đã có lúc xảy ra tình huống chính trị, Đảng Cộng sản Trung Quốc
đứng trước những thử thách khá nghiêm trọng phải sử dụng đến những biện pháp
tình thế mới có thể giải quyết được tình hình.
Thế hệ thứ ba, thế hệ kế tục sự nghiệp cải cách, mở cửa, tiếp tục sự nghiệp xây
dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc; thế hệ này gắn với tên tuổi của nhà lãnh
đạo Giang Trạch Dân. Thế hệ này đã có những đóng góp to lớn vào những thành tựu
quan trọng của đất nước Trung Quốc trong sự nghiệp phát triển kinh tế.
Thế hệ thứ ba lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo sang thế
hệ thứ tư tại Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Với sự chuẩn bị khá công phu và kỹ lưỡng, cùng với những đổi mới về công tác
nhân sự trong Đảng Cộng sản Trung Quốc việc chuyển giao quyền lãnh đạo ở thế hệ
thứ ba sang thế hệ thứ tư diễn ra khá êm thấm và suôn sẻ. Nhà lãnh đạo Giang Trạch
Dân sau khi kết thúc các nhiệm vụ và cương vị của mình đã lần lượt chuyển giao cho
nhà lãnh đạo Hồ Cẩm Đào với trọng trách Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc,
đồng thời cũng là người đứng đầu nhà nước và cả quân đội.
Thế hệ thứ tư, là thế hệ đang tiếp tục sự nghiệp cải cách ở Trung Quốc. Đại hội
XVI của Đảng xác dịnh, trọng điểm là thống nhất lý luận Đặng Tiểu Bình với tư
tưởng quan trọng “Ba đại diện”, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc
sắc Trung Quốc ngày càng “mở rộng”, “linh hoạt” và “nhanh” hơn, để thích ứng với
tình hình trong nước và thế giới trong điều kiện mới. Đây là trọng trách lịch sử to lớn
của thế hệ thứ tư trước các thế hệ cha anh và trước Đảng Cộng sản Trung Quốc, trên
con đường đưa đất nước Trung Quốc tiếp tục phát triển ở thế kỷ XXI.
Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc trải quan bốn thế hệ lãnh đạo kế tiếp nhau
đảm đương trọng trách lãnh đạo cách mạng, đã để lại nhiều bài học thành công và cả
những hạn chế. Những người đứng đầu Đảng đã chú trọng đến vấn đề hệ trọng này,
năm 1978, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cho rằng: “Cán bộ cao cấp cần phải đi đầu phát huy truyền thống tốt đẹp của Đảng”45. Nhà lãnh đạo Đặng Tiểu
Bình rất chú ý đến công tác bồi dưỡng nhân tài, ông cho rằng: “Phải nắm vững công
tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn nhân tài mới có thể tiến hành được 4 hiện đại hoá”46. Những quan điểm trên của các nhà lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng Cộng sản
Trung Quốc thể hiện nhận thức và tư duy đúng đắn về vấn đề cán bộ, người lãnh đạo
của Đảng đối với sự phát triển của cách mạng, của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc
Trung Quốc.
Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đã mắc phải một số sai lầm, vi
phạm nguyên tắc, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong vấn đề chuyển giao
quyền lãnh đạo trong Đảng. Việc thực hiện chế độ lãnh đạo suốt đời, đặc biệt việc
thực hiện chế độ chỉ định người kế tục từ thời Mao Trạch Đông cũng đã để lại những
di hại đối với Đảng. Dù có luận chứng cho sự cần thiết và tính đúng đắn, “sáng suốt”
của Đảng trong việc thực hiện chế độ chỉ định người kế tục trong nội bộ Đảng, nhưng
thực chất vẫn là sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng Cộng sản Trung
Quốc.
45 Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 3, 2005, tr. 29 46 Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân về giáo dục, Bắc kinh 2002, tr. 149-150
2.2.3. Đảng Cộng sản Việt Nam
2.2.3.1. Những quy định trong Đảng Cộng sản về vấn đề chuyển giao quyền
lãnh đạo trong Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam có lịch sử hơn 70 năm, là một Đảng cầm quyền đến
nay đã 60 năm, có truyền thống đoàn kết thống nhất cực kỳ quý báu. Đảng Cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo dân tộc và nhân dân Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác, hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân, đánh thắng những tên đế quốc xâm
lược, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH, ngày nay khởi xướng và lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Trong lịch sử của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam
không mắc phải những sai lầm về đường lối, không bị phân liệt về tổ chức. Những
thắng lợi vĩ đại và huy hoàng của cách mạng Việt Nam trong hơn bảy thập kỷ qua
luôn gắn liền với sự vững vàng và sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản
Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong quá trình hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng
xây dựng cơ cấu tổ chức của Đảng để phù hợp với điều kiện cụ thể và những yêu cầu
trong từng thời kỳ lịch sử. Cơ cấu tổ chức của Đảng dựa trên nguyên tắc tổ chức cơ
bản là tập trung dân chủ và nguyên tắc chỉ đạo việc xây dựng tổ chức của Đảng là
nguyên tắc "lãnh thổ sản xuất", một nguyên tắc mà V.I.Lênin đã đề ra. Về vấn đề
chuyển giao quyền lãnh đạo, mà thực chất ở đây chính là việc bầu chọn người lãnh
đạo, ban lãnh đạo, sau khi đã biết nhiệm kỳ để hình thành ban lãnh đạo mới và người
lãnh đạo mới hoặc là thế hệ lãnh đạo mới, đã được quy định trong điều lệ Đảng Cộng
sản Việt Nam. Qua nhiều lần sửa chữa bổ sung ở các Đại hội của Đảng vấn đề này
càng hoàn thiện và phù hợp với tình hình phát triển của Đảng. Tại Đại hội lần thứ IX
Đảng Cộng sản Việt Nam vấn đề này được quy định như sau:
-" Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan
lãnh đạo ở mỗi cấp là Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ Đại hội,
cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là Ban Chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy)"47.
Về bầu chọn cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, tại điều 12 - 15 và 17 của
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định như sau:
"- Đại hội đại biểu toàn quốc do Ban Chấp hành Trung ương triệu tập thường lệ năm năm một lần; có thể triệu tập sớm hoặc muộn hơn nhưng không quá một năm"48.
"Số lượng ủy viên Ban Chấp hành Trung ương do Đại hội đại biểu toàn quốc
quyết định; số lượng, cấp ủy viên cấp nào do Đại hội cấp đó quyết định theo hướng
dẫn của Ban Chấp hành Trung ương. Cấp ủy các cấp cần được đổi mới, bảo đảm tính kế thừa và phát triển qua mỗi Đại hội"49.
Việc bầu cử trong Đảng được thực hiện:
- "Đại biểu có quyền nhận xét, chấn vấn người ứng cử và người được đề cử.
- Danh sách bầu cử do Đại hội thảo luận và biểu quyết thông qua.
- Bầu cử bằng phiếu kín.
- Người trúng cử phải được số phiếu bầu quá một nửa so với tổng số đại biểu
được triệu tập hoặc so với tổng số đảng viên chính thức của đảng bộ, chi bộ..."50.
Để hình thành nên ban lãnh đạo cao nhất trong Đảng là Bộ Chính trị và người
lãnh đạo cao nhất trong Đảng là Tổng Bí thư, Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam
ghi rõ: "Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị, bầu Tổng Bí thư trong số ủy
viên Bộ Chính trị. Thành lập Ban Bí thư gồm Tổng Bí thư, một số ủy viên Bộ Chính
trị do Bộ Chính trị phân công và một số ủy viên Ban Bí thư do Ban Chấp hành Trung
ương bầu trong số ủy viên Ban Chấp hành Trung ương... Số lượng ủy viên Bộ Chính
trị, ủy viên Ban Bí thư và ủy viên ủy ban kiểm tra Trung ương do Ban Chấp hành
Trung ương quyết định.
Đồng chí Tổng Bí thư giữ chức vụ Tổng Bí thư không quá hai nhiệm kỳ liên
tiếp"51.
47 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam,..., tr.12. 48 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam..., tr.17. 49 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam..., tr.15. 50 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam..., tr.15 51 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, ..., tr.18-19.
Từ những điểm căn bản được quy định trong Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chúng ta thấy Đảng ta trong quá trình xây dựng tổ chức của mình đã không
ngừng hoàn thiện và bổ sung để Điều lệ ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển,
nhất là trong thời kỳ đổi mới đất nước. Việc quy định rõ chức vụ Tổng Bí thư của
Đảng không kéo dài quá hai nhiệm kỳ, đây là một quy định mới để nhằm khắc phục
hiện tượng "nắm giữ chức vụ suốt đời" đã từng diễn ra trong các Đảng Cộng sản cầm
quyền. Điều quy định này thống nhất với Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII về chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. ở Nghị quyết này đã quy định: "Cán bộ đứng đầu
cấp huyện, quận trở lên không giữ một chức vụ quá hai nhiệm kỳ ở cùng một đơn vị
địa phương".
Sự thống nhất quy định trên đây tạo nên tính nhất quán trong chỉ đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ của Đảng ta đồng thời là cơ sở để tiến hành việc lựa chọn, chuyển
giao quyền lãnh đạo trong nội bộ của Đảng. Tuy nhiên để thực hiện tốt được quy
định này cần phải có một sự chuẩn bị, đào tạo quy hoach đội ngũ cán bộ của Đảng,
nhất là cán bộ ở cấp chiến lược, nếu không sẽ xảy ra sự hẫng hụt, bị động, lúng túng;
thực hiện không tốt sẽ không tránh khỏi những khó khăn và phức tạp (gần đây trong
Đại hội Đảng ở các cấp đã có trường hợp nhiều địa phương phải "đốt đuốc đi tìm bí
thư và cấp ủy") thậm chí có nơi không thực hiện được quy định trên, hoặc thực hiện
việc chuyển giao không thật sự đạt như mong muốn của Đảng và nhân dân. Nếu
không chăm lo công tác xây dựng Đảng, nếu không có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng,
nếu việc bố trí cán bộ, sắp xếp cán bộ và chuyển giao quyền lãnh đạo thực hiện
không đúng các nguyên tắc sẽ dẫn đến sự phức tạp trong nội bộ Đảng. Những hiện
tượng mất đoàn kết kéo dài, lộn xộn, kéo bè kéo cánh, cục bộ địa phương sẽ dẫn đến
chia rẽ nội bộ, ảnh hưởng tới sức mạnh và uy tín của Đảng. Những hiện tượng ấy cần
phải nhanh chóng khắc phục và đẩy lùi.
2.2.3.2. Thực hiện việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong Đảng Cộng sản
Việt Nam
Hơn bảy mươi năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân tiến
hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa;
đã từng đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược xóa bỏ chế độ thực dân, phong
kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc tiến tới thống nhất đất nước và ngày
nay đang lãnh đạo nhân dân ta xây dựng CNXH; cũng chính Đảng là người khởi
xướng sự nghiệp đổi mới đất nước, gần hai mươi năm qua, với những thắng lợi và
thành tựu rất to lớn: Đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, vị thế
ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Một trong những nguyên nhân cơ bản
của những thành tựu trên là Đảng luôn có đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là
những nhà lãnh đạo đủ đức, đủ tài đi tiên phong trong các phong trào cách mạng của
dân tộc. Để có được lớp lớp cán bộ lãnh đạo kế tiếp lẫn nhau luôn đáp ứng đựơc mọi
yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Đảng đã thực hiện tốt vấn đề lựa chọn, bồi dưỡng
người lãnh đạo, các thế hệ lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo giữa các thế hệ
lãnh đạo của Đảng. Xét theo cơ cấu tuổi đời, tuổi đảng và đặt trong từng thời kỳ,
từng giai đoạn cách mạng, có thể thấy, từ trước đến nay, trong Đảng Cộng sản Việt
Nam có các thế hệ sau:
Thế hệ thứ nhất, đó là thế hệ đầu tiên, những bậc tiền bối đã có công đặt nền
móng cho việc dựng Đảng, dựng nước, cho việc định hình con đường phát triển của
dân tộc: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đó là lớp người đầu tiên viết nên trang
sử đầu tiên của truyền thống cách mạng, truyền thống đấu tranh và lãnh đạo cách
mạng của Đảng. Thế hệ thứ nhất đã cống hiến đặc biệt xuất sắc vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc, đồng thời tạo nên truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, là
những tấm gương mẫu mực về đức và tài trên các lĩnh vực, để lại di sản quý giá và
hình ảnh tốt đẹp cho hậu thế.
Thế hệ thứ hai, là thế hệ đã tham gia cách mạng Tháng Tám, trưởng thành trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên CNXH. Họ là lớp người kế tục xứng đáng thế
hệ trước, làm rạng rỡ, vẽ vang cho dân tộc Việt Nam, cho nhân dân Việt Nam với
những chiến công vĩ đại và thành tựu huy hoàng. Họ là những tấm gương tiêu biểu về
lòng trung thành với lý tưởng XHCN, về tinh thần hy sinh quên mình cho sự nghiệp
cách mạng của dân tộc, của Đảng, họ là những người đã nối tiếp xứng đáng và tô
thắm thêm truyền thống tốt đẹp của Đảng.
Thế hệ thứ ba, là thế hệ của lớp người thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam. Đây là lớp người hùng hậu đã có đóng góp to lớn cho sự
nghiệp cách mạng của dân tộc. Họ là những người đã làm nên thắng lợi vĩ đại của
dân tộc, chiến thắng tên đế quốc đầu sỏ, thu giang sơn về một mối, đưa cả nước đi
lên CNXH. Đồng thời họ cũng là lớp người đã tự vượt lên, khởi xướng, lãnh đạo và
đưa sự nghiệp đổi mới đất nước đạt được những thành tựu to lớn. Thế hệ thứ ba đã để
lại những tấm gương mẫu mực về sự kiên định con đường phát triển của dân tộc, về ý
chí vươn lên vượt qua thử thách, là người nối tiếp xứng đáng của thế hệ đàn anh.
Thế hệ thứ tư, là thế hệ gánh vác trọng trách thúc đẩy sự nghiệp đối mới phát
triển, hoàn thành thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đó là thế hệ cần phải giải quyết và trả lời cho câu hỏi lớn: Dân tộc Việt Nam có
chiến thắng, có rửa được nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu hay không? Thế hệ này đang
gặp phải những thách thức và nguy cơ to lớn; đồng thời cũng có nhiều cơ hội và thời
cơ lớn để đưa đất nước phát triển nhanh chóng, bứt phá tiến lên. Thế hệ thứ tư đang
cố gắng nối tiếp truyền thống tốt đẹp của cha anh để tạo ra một hình ảnh Việt Nam
mới, một nước Việt Nam không chỉ giỏi trong đấu tranh giải phóng dân tộc, trong
chống ngọai xâm, mà còn giỏi trong xây dựng kinh tế, làm giàu, trong xây dựng và
phát triển con người.
Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam có được các thế hệ lãnh đạo
cách mạng kế tiếp xuất sắc như vậy, bởi vì Đảng đã luôn luôn chú ý và quan tâm xây
dựng, bồi dưỡng, rèn luyện các thế hệ lãnh đạo, những người lãnh đạo sau, để khi
chuyển giao quyền lãnh đạo và nhiệm vụ lịch sử cho họ, họ có thể đủ sức, đủ tầm đáp
ứng được yêu cầu.
Cách mạng là sự nghiệp chung, có sự đóng góp cống hiến của tất cả các thế hệ
trong Đảng và trong xã hội. Kế thừa là quy luật phát triển. Việc chuyển giao quyền
lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuân theo yêu cầu của quy luật kế
thừa. Các thế hệ đi trước, khai phá mở đường, luôn có trách nhiệm và thực hiện tốt
việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ kế tiếp, kế tục với thái độ tôn trọng, tin cậy. Thế hệ
sau tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên, luôn kính trọng và biết ơn thế hệ cha
anh.
Quá trình chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam
diễn ra đúng với những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và tinh thần Đảng, thắm tình đồng chí. Đó
thực chất là sự chuyển giao trách nhiệm, nhiệm vụ, trọng trách trước Đảng, trước dân
tộc; chứ tuyệt nhiên không phải là sự tranh giành quyền lợi và càng không phải là sự
đấu đá lẫn nhau giữa các phe nhóm. Sự chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ
Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hơn bảy thập kỷ qua đã không mắc phải sai lầm giáo
điều, chủ quan, cá nhân chủ nghĩa; mà sự chuyển giao đó được thực hiện với một tinh
thần trách nhiệm cao trước dân tộc, với một thái độ khoa học và với một đạo lý của
những người cách mạng, những người cộng sản chân chính.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành việc
chuyển giao quyền lãnh đạo thông qua các kỳ Đại hội toàn quốc của Đảng. ở những
kỳ Đại hội này, Đảng ta đã tiến hành xây dựng Cương lĩnh, đường lối xây dựng và
phát triển đất nước, đồng thời cũng qua các Đại hội Đảng ta thực hiện việc chuyển
giao quyền lãnh đạo trong nội bộ của Đảng theo đúng quy định của Điều lệ.
Với những quy định mới về độ tuổi và tính kế thừa, phát triển, trong các kỳ Đại
hội gần đây Đảng ta đã tăng cường bầu chọn nhiều nhà lãnh đạo ở độ tuổi 40-50 vào
Ban Chấp hành Trung ương ở cương vị cao nhất trong Đảng là chức vụ Tổng Bí thư,
đã có sự chuyển giao thế hệ từ thế hệ thứ hai sang thế hệ thứ ba, chắc chắn trong
những Đại hội sau này cùng với sự trưởng thành của các thế hệ nối tiếp sẽ có sự
chuyển giao mang tính chất thế hệ như Đảng ta đã thực hiện trong Đại hội lần thứ IX
của Đảng.
2.2. Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm từ việc thực hiện chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền
2.2.1. Một số nhận xét
Qua nghiên cứu việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ một số Đảng
Cộng sản cầm quyền, mà cụ thể là Đảng Cộng sản Liên Xô; Đảng Cộng sản Trung
Quốc; Đảng Cộng sản Việt Nam với những quy định trong điều lệ của các Đảng và
từ những thông lệ mà trong thực tiễn các Đảng đã thực hiện cùng những thành công
và hạn chế, ta có thể rút ra mấy nhận xét sau đây:
Thứ nhất: Việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ các Đảng Cộng sản
cầm quyền nhìn chung chưa tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ một cách nghiêm
ngặt. ở một số Đảng vấn đề này còn bị chi phối rất nhiều của thế hệ đi trước, thậm
chí có khi phụ thuộc vào cá nhân một người lãnh đạo của thế hệ trước (thường thì đó
là người lãnh đạo cao nhất trong Đảng của thế hệ trước). Với sự chỉ định người kế
tục, hoặc sự "giới thiệu" người lãnh đạo sau mình, những nhà lãnh đạo của thế hệ
trước có ảnh hưởng to lớn có khi còn sắp đặt cả các vị trí lãnh đạo của thế hệ sau.
Như vậy, mặc dù được lý giải thế nào đi chăng nữa thì đó cũng là sự vi phạm nguyên
tắc tập trung dân chủ trong các Đảng Cộng sản.
Cũng có tình trạng ở một số Đảng Cộng sản, sau khi ban lãnh đạo đã hết nhiệm
kỳ, thì có nhiệm vụ giới thiệu một ban lãnh đạo mới cùng với những vị trí nhân sự
chủ chốt trong tổ chức đảng. Song theo đúng nguyên tắc và điều lệ của Đảng vấn đề
này phải được quyết định tại Đại hội chính thức của Đảng.
Thứ hai: Việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng là công việc của
Đảng, song với tư cách và vị thế của một Đảng cầm quyền, thì chúng ta thấy ở các
nước XHCN chưa có sự tham gia của toàn xã hội (gần đây ở Việt Nam có những quy
định để cho nhân dân tham gia góp ý nhân sự của Đảng, nhưng chỉ mới ở mức độ cấp
cơ sở). ở các nước XHCN do chưa có những quy định gắn kết giữa vị trí người đứng
đầu của Đảng với các cơ quan quyền lực nhà nước. Vì thế cho nên việc lựa chọn
người đứng đầu của Đảng Cộng sản cầm quyền chỉ do nội bộ trong Đảng thực hiện
tại các kỳ Đại hội của Đảng. Còn nhân dân do chỉ có trách nhiệm công dân cho nên
không tham gia vào công việc của Đảng. So sánh để thấy rõ hơn vấn đề này, ở các
nước TBCN do có sự gắn kết giữa trách nhiệm của người đứng đầu một đảng chính
trị với vị trí nắm quyền lực nhà nước (Tổng thống hoặc Thủ tướng), do vậy việc bầu
chọn người đứng đầu đảng chính trị cũng là việc bầu chọn người phụ trách các công
việc của nhà nước, từ đó không chỉ đảng viên của Đảng đó tham gia lựa chọn bầu cử
mà còn có cả toàn dân tham gia bầu chọn. Nếu các Đảng Cộng sản cầm quyền muốn
thu hút quần chúng nhân dân tham gia vào công việc này, thì cần phải có những quy
định và cơ chế minh bạch rõ ràng, phải thực hiện đúng nguyên tắc và điều lệ của các
Đảng, có như thế mới phát huy được vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác
xây dựng Đảng nói chung và trong vấn đề chọn người lãnh đạo để chuyển giao quyền
lãnh đạo, đồng thời không làm thay đổi bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản.
Thứ ba: Việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm
quyền về nguyên tắc cần phải được thực hiện theo đúng điều lệ của các Đảng trước
hết là về mặt thời gian theo định kỳ.
Cũng có trường hợp việc chuyển giao này diễn ra một cách đột biến, bất ngờ,
thậm chí có nguy cơ dẫn đến tình huống chính trị, các nguyên tắc của Đảng bị xem
thường, bị vượt qua. Diễn biến các lần chuyển giao quyền lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Trung Quốc là những minh chứng cụ thể, ngoại trừ lần chuyển giao gần đây nhất
là sự chuyển giao từ thế hệ thứ ba sang thế hệ thứ tư như đã trình bày ở trên.
Thứ tư: Hầu hết ở các Đảng Cộng sản cầm quyền, việc chuyển giao quyền lãnh
đạo không thông qua những cơ chế,để các nhà lãnh đạo bộc lộ được tài năng của
mình và đồng thời cũng không có những quy định buộc cá nhân các nhà lãnh đạo của
Đảng phải thể hiện những năng lực, sở trường của họ. Chính vì thế, việc bầu chọn
mang nặng cảm tính, ngoài ra còn có cả yếu tố cơ cấu, "trật tự", "thứ bậc". Chính vì
lý do này việc lựa chọn người lãnh đạo, không được thực hiện một cách tốt nhất. Đó
là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trong một số Đảng Cộng sản bầu chọn người đứng
đầu Đảng mình, mà người đó chưa phải là người xứng đáng nhất. Khiếm khuyết này
cần phải có quy trình bầu chọn chặt chẽ, phải mở rộng dân chủ trong Đảng, khắc
phục triệt để hiện tượng bầu chọn trong Đảng mang tính hình thức. V.I.Lênin cảnh
báo rằng: "Đảng nào đẩy những đại diện thật thà nhất của mình đến chỗ sa vào vũng lầy khủng khiếp của sự dối trá và lừa bịp, thì đảng ấy là một đảng hoàn toàn bỏ đi"52.
2.2.2 Những bài học kinh nghiệm :
Một là, muốn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thì cần phải tăng
cường xây dựng Đảng thật sự vững mạnh, phải thực sự chú ý và làm tốt việc đào tạo,
bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ và chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng.
52 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 36, 1977, tr.616.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng XHCN ở các nước XHCN, Để Đảng có thể hoàn thành trọng trách to lớn đó,
nhất thiết Đảng phải được xây dựng thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Đó là vấn đề tất yếu khách quan. Lựa chọn người lãnh đạo để chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng đòi hỏi cần phải coi đó là một vấn đề đặc biệt hệ
trọng đối với sức mạnh và sự tồn tại của bản thân Đảng. Sự thành công và không
thành công, thậm chí thất bại của các Đảng, đặc biệt là của Đảng Cộng sản Liên Xô
cho thấy nếu không quan tâm đúng mức và thực hiện tốt vấn đề hệ trọng trên thì
Đảng sẽ suy yếu cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; sự nối tiếp giữa các thế hệ lại
không đồng nghĩa với sự nối tiếp của cách mạng, để đưa cách mạng đến thắng lợi.
Vấn đề đặc biệt hệ trọng này không dành chỗ cho sự chủ quan, đơn giản, giáo điều và
vô nguyên tắc; không thể để xảy ra tình trạng “nước đến chân mới nhảy” mà phải có
kế hoạch, quy trình khoa học và chặt chẽ.
Muốn giữ vững được sự lãnh đạo, khâu then chốt là Đảng phải tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của mình, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân
dân, chăm lo củng cố tổ chức, chăm lo hoàn thiện Nhà nước, thực sự phát huy quyền
làm chủ của nhân dân; Đảng phải trở thành tấm gương về dân chủ, quy tụ được
những người thực sự có đức, có tài. Chính bằng cách đó, Đảng trở thành biểu tượng
về danh dự, lương tâm và trí tuệ của dân tộc. Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng được
xã hội thừa nhận đến đâu, điều đó trước hết và chủ yếu tuỳ thuộc mức độ đạt được
những điều đòi hỏi trên.
Hai là, vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo cần phải thực hiện đúng những
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ,
bảo đảm tính kế thừa và phát triển của Đảng.
Những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là nguyên tắc tập trung dân
chủ, bảo đảm tính kế thừa và phát triển của Đảng là những vấn đề căn bản, yêu cầu
cốt lõi, là “cơ sở pháp lý” đảm bảm cho việc chuyển giao quyền lãnh đạo được thực
hiện đúng. Để thực hiện đúng các vấn đề trên, Đảng cần phải luôn luôn giáo dục các
đảng viên kiên định lòng tin vào lý tưởng XHCN, liên hệ mật thiết với đông đảo quần
chúng nhân dân; đồng thời, cần phải phát huy đầy đủ dân chủ ngay trong Đảng, thực
hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; kiện toàn công tác cán bộ và xác lập
cơ chế giám sát có hiệu quả; kiên quyết phản đối sự lộng quyền của cá nhân và sự
sùng bái cá nhân dưới bất cứ hình thức nào; phải đề phòng và trừng trị những hiện
tượng hủ bại, thoái hoá, biến chất trong nội bộ Đảng và Nhà nước, trong cán bộ, đảng
viên của Đảng. Đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, lợi ích của cách
mạng, của nhân dân là yêu cầu, là nguyên tắc sống còn trong hoạt động của Đảng
Mác - Lênin.
Lịch sử các Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam cho thấy, nếu vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, để cho tệ sùng bái cá nhân lộng hành thì Đảng
không thể tạo ra được, lựa chọn được những người lãnh đạo, những cán bộ kế tiếp
xứng đáng. Thực hiện chế độ chỉ định người kế tục như Đảng Cộng sản Liên Xô thời
Stalin, hoặc Đảng Cộng sản Trung Quốc thời Mao Trạch Đông là một sự vi phạm
nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc kế thừa trong sinh hoạt và
tổ chức của Đảng. Trong thực tế, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ là điều dễ
mắc phải của các Đảng Cộng sản cầm quyền. Tính chất vi phạm này trong từng giai
đoạn khác nhau có những mức độ khác nhau, nhưng mọi sự vi phạm đều dẫn đến phá
hủy Đảng về tổ chức và cả về chính trị, tư tưởng, sẽ dẫn đến nguy cơ tan vỡ Đảng.
Nếu không tuân thủ quy luật kế thừa phát triển thì không những sẽ làm thui chột nhân
tài, sẽ bị hẫng hụt lãnh đạo, mà còn tạo nên sự trì trệ, ngưng đọng và cản trở sự phát
triển của cách mạng. Việc Đảng Cộng sản Liên Xô trong thập kỷ 80 của thế kỷ trước,
thay thế liên tiếp những người đứng đầu trong cùng một thế hệ là minh chứng rõ ràng
cho nhận định trên.
Ba là, không nên duy trì quá lâu một người lãnh đạo, nhất là người ở cương vị
đứng đầu Đảng; cần lấy lợi ích của cách mạng để thực hiện chuyển giao quyền lãnh
đạo.
Nhược điểm và khuyết tật căn bản, có tính phổ biến trong các Đảng Cộng sản
cầm quyền nêu trên, là ở chỗ, trong một thời gian dài đã hình thành và tồn tại một thứ
quy định không thành văn là ở cương vị lãnh đạo quá lâu, thậm chí suốt đời, không
có bãi miễn, không thôi chức, nhất là ở lãnh đạo cấp cao. Điều đó đã làm cho việc
chuyển giao quyền lãnh đạo thực hiện một cách khó khăn, chậm trễ, nhiều khi phát
triển thành tình huống chính trị phức tạp, rất khó giải quyết. Những chế định về việc
lãnh đạo suốt đời, hoặc quá lâu của Stalin trong cương vị là người đứng đầu Đảng và
Nhà nước Xô viết đã để lại những nguy hại khôn lường đối với Đảng và cách mạng.
Đây không chỉ là sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy luật kế thừa trong
Đảng Cộng sản; mà còn là biểu hiện rõ ràng về sự bất tuân những quy luật của chính
trị, những quy luật về sinh học, về xã hội trong họat động chính trị của Đảng Cộng
sản; và điều đó tất nhiên sẽ để lại những hậu quả không dễ dàng khắc phục đối với
sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng ở những thế hệ sau.
Con người là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử. Sự duy trì quá lâu một người lãnh
đạo, nhất là người đó lại ở cương vị đứng đầu Đảng sự vi phạm quy luật phát triển xã
hội đó dẫn đến kìm hãm, thậm chí thủ tiêu nhiều động lực phát triển của Đảng và của
cách mạng. Sự phấn đấu của đảng viên, của những người kế cận, trong điều kiện đó,
đã không được phát triển, không được “ra hoa kết trái”; năng lực, tài năng của con
người không những không được sử dụng đúng, mà còn có thể không được sử dụng,
làm thui chột và mất đi. Trong tình hình đó, xu hướng thực hiện nhiệm vụ theo mệnh
lệnh một cách máy móc, không dám chịu trách nhiệm, không chịu rèn luyện đức, tài
dễ trở thành xu hướng chính trong sinh hoạt và công tác của các cán bộ Đảng. Nếu
duy trì một cơ chế như thế, thì kết quả của nó sẽ dẫn đến không làm tăng uy tín của
người lãnh đạo đương nhiệm, mà trái lại càng giảm uy tín của họ. Những uy tín đã
được tạo dựng bởi những thành tích vẻ vang và bởi đạo đức cách mạng của người
lãnh đạo trong quá khứ , trong tình hình đó, dần dần bị mất đi, thậm chí họ còn có thể
trở thành “kẻ có tội” với Đảng, với nhân dân. Đây là điều hết sức nguy hại không chỉ
đối với cá nhân người lãnh đạo đó, mà còn đối với chính sự phát triển của Đảng, của
cách mạng. Không thật sự chú ý đến lợi ích toàn bộ của giai cấp công nhân, của cách
mạng, của CNXH; mà hướng chú ý nhiều hơn vào làm thế nào để kéo dài thời gian
lãnh đạo, cầm quyền của cá nhân người lãnh đạo là một sai lầm lớn trong nhận thức,
tư duy, và là một sai lầm nghiêm trọng về nguyên tắc trong thực tiễn hoạt động tổ
chức của Đảng.
Không chú ý đến lợi ích của cách mạng, của CNXH, của Đảng, chỉ quan tâm
đến cá nhân người lãnh đạo cụ thể nào đó trong vấn đề chuyển giao quyền lực thì
sớm hay muộn Đảng cũng bị trượt ra khỏi “đường ray”, nội bộ mất đoàn kết, đất
nước bị chệch hướng phát triển. Đó là dấu hiệu của sự suy yếu, là vấn đề có tính quy
luật, quy luật của sự tan rã. Lịch sử phong trào Cộng sản và công nhân trên thế giới
và đặc biệt những diễn biến trong sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ
cải tổ đã chứng minh rõ ràng vấn đề có tính quy luật trên. Sự không tuân thủ quy luật
khách quan và những nguyên tắc Đảng là nguyên nhân quan trọng nhất làm cho Đảng
Cộng sản không thể lựa chọn được người lãnh đạo xứng đáng nhất, tiêu biểu nhất của
giai cấp và dân tộc để chuyển giao quyền lãnh đạo và điều đó đã dẫn đến nguy cơ đổ
vỡ Đảng, thể chế chính trị XHCN bị biến chất.
Kết luận chương 2
Chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền phải được
thực hiện với những quy định rõ ràng, minh bạch, được ghi vào điều lệ của đảng và
được tuân thủ nghiêm ngặt, nếu thực hiện không nghiêm túc thì sẽ là cơ sở cho chủ
nghĩa cá nhân, cục bộ, bè phái phát triển.
Lịch sử quá trình lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo trong
nội bộ các Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam để lại nhiều vấn đề có
tính chất kinh nghiệm quý giá về thành công và cả về không thành công, thậm chí
thất bại. Phải tăng cường xây dựng Đảng thật sự vững mạnh, phải thực sự chú ý và
làm tốt việc đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn người lãnh đạo đã chuyển giao quyền lãnh
đạo trong nội bộ Đảng; phải thực hiện đúng những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm tính kế thừa và phát triển
của Đảng; không duy trì quá lâu một người lãnh đạo, nhất là người ở cương vị đứng
đầu Đảng, lấy lợi ích của cách mạng để thực hiện chuyển giao quyền lãnh đạo là
những nhận xét có tính kinh nghiệm, cần được nghiên cứu, xem xét, vận dụng trong
thực hiện chuyển giao quyền lãnh đạo của các Đảng Cộng sản cầm quyền hiện nay.
Chương 3
Một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền
3.1. Đổi mới nhận thức và quan điểm về chuyển giao quyền lãnh đạo trong
nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền
Đây là giải pháp quan trọng cơ bản đầu tiên, bởi vì nếu không nhận thức đúng
vấn đề, đặc biệt trong tình hình hiện nay trước bối cảnh thế giới và trong nước có
những biến đổi sâu sắc với những đòi hỏi rất mới về người đứng đầu Đảng và Nhà
nước, nếu vấn đề không được nhận thức trên một tư duy mới, thì việc thực hiện
chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng sẽ không có được những tiến triển
như mong đợi. Muốn tiếp tục sự nghiệp cách mạng thắng lợi, thì trước hết phải bắt
đầu từ bản thân Đảng, Đảng phải tự đổi mới, chỉnh đốn để ngang tầm với yêu cầu của
thời kỳ mới. Đó là quy luật, là bài học kinh nghiệm máu xương được đúc rút từ thực
tiễn sinh động trong đấu tranh cách mạng của phong trào cộng sản và các Đảng Cộng
sản trên thế giới. Muốn lựa chọn được người lãnh đạo xứng đáng và chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền được hợp lý, đáp ứng tốt
nhất yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, thì vấn đề quan trọng trước hết là phải đổi
mới nhận thức và quan niệm về vấn đề hệ trọng này của Đảng:
Một là, cách mạng là sự nghiệp của nhiều thế hệ, việc chuyển giao quyền lãnh
đạo từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác là tất yếu khách
quan, cần phải được thực hiện tốt.
Đây là nhận thức cơ bản đầu tiên cần phải được thấu suốt trong toàn Đảng, nhất
là trong Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị của Đảng. Nhận thức này phản
ánh sự nhận thức đúng quy luật chính trị trong hoạt động của Đảng. Trong nhiều
trường hợp, kéo dài quá mức thời gian lãnh đạo, cầm quyền của thế hệ nào đó, cá
nhân người lãnh đạo nào đó là do nhận thức không đúng quy luật này. Người ta cứ
nghĩ rằng, với những thành tích của mình trong quá khứ, thì họ có thể còn đủ minh
mẫn, đủ đức, đủ tài để đảm đương trọng trách cách mạng trong thời kỳ mới.
Hơn nữa chủ nghĩa công thần, một loại chủ nghĩa, một thứ bệnh dễ nảy sinh
trong lớp người có công với cách mạng có thể làm “mờ mắt” những người lãnh đạo,
cản trở sự phát triển tư duy của họ, làm cho họ hoặc là “nuối tiếc”, hoặc là không còn
nhận thức được tính tất yếu phải giao quyền lại cho thế hệ sau. Điều đó cho thấy, việc
nhận thức một cách thấu đáo vấn đề này không đơn giản chút nào, nhất là trong điều
kiện Đảng cầm quyền, có chính quyền nhà nước, có nhiều quyền lực và lợi ích; và
trong điều kiện người đứng đầu với những thành tích vẻ vang trong quá khứ, có uy
tín rộng lớn trong Đảng và trong dân chúng.
Toàn Đảng, nhất là cơ quan lãnh đạo cao nhất và người đứng đầu của Đảng cần
được thống nhất và nhận thức rõ: Cách mạng là sự nghiệp vĩ đại và lâu dài, là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân, của nhiều thế hệ. Một thế hệ dù có nhiều nhân vật
xuất sắc như thế nào chăng nữa, nhưng cũng chỉ có thể giải quyết được nhiệm vụ
cách mạng cụ thể trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Các thế hệ khác nhau sẽ có
trọng trách và khả năng giải quyết những nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra đối với họ; họ sẽ
là người trả lời cho câu hỏi mà lịch sử đặt ra. Thế hệ người Việt Nam trong chống
Mỹ cứu nước đã hoàn thành trọng trách của mình, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của
mình thống nhất đất nước, thu giang sơn về một mối, đưa đất nước tiến lên CNXH.
Trong bối cảnh lịch sử mới, sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học
công nghệ, kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; sự chống
phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với CNXH và các Đảng Cộng sản; sự xuất
hiện những mô hình lãnh đạo mới, những nhà nước và chính phủ “điện tử”…làm cho
việc lựa chọn người lãnh đạo và tiêu chí về họ đã có nhiều thay đổi, không thể như
trước nữa. Đó là quy luật. Thế hệ người Việt Nam ngày nay sẽ phải trả lời, và họ có
khả năng trả lời câu hỏi: Việt Nam có thể đẩy lùi được nghèo đói, chấn hưng đất
nước, trở nên giàu mạnh được hay không, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN có giành được thắng lợi hay không?. Chọn người lãnh đạo Đảng,
Nhà nước và thực hiện việc chuyển giao quyền lãnh đạo phải với một tư duy như thế,
mới đáp ứng những tiêu chí cách mạng, tiến bộ và phù hợp với những đòi hỏi của
lịch sử, của thời đại. Nhận thức được vấn đề này là sự thể hiện niềm tin tưởng và gửi
gắm trọng trách của thế hệ đi trước đối với thế hệ kế tiếp.
Hai là, đào tạo, sử dụng và lựa chọn người lãnh đạo là vấn đề chiến lược lâu
dài, là một kế sách lớn của cách mạng,của Đảng
Việc lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ có
tầm quan trọng quyết định đến vận mệnh của Đảng Cộng sản cầm quyền. Vấn đề này
phải là vấn đề chiến lược lâu dài, là một kế sách lớn của cách mạng, của việc lựa
chọn nhân tài cho cách mạng,cho Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: Vì
lợi ích mười năm thì phải trồng cây; vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Trồng
người đúng là một kế lớn trăm năm; là sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng lớp lớp nhân tài
cho cách mạng truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác, đảm
bảo cho cách mạng không bị biến chất, đổi màu, đảm bảo cho sự nghiệp cách mạng
không ngừng tiến lên. Đối với việc lựa chọn người đứng đầu Đảng thì tầm quan trọng
của vấn đề càng trở nên hệ trọng. Bởi vì người lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng là
người trực tiếp chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân tộc, thay mặt Đảng, Nhà nước
quyết định những vấn đề trọng đại quốc gia liên quan đến vận mệnh của Đảng, của
đất nước, của cách mạng. Tài năng của họ và đặc biệt phẩm chất chính trị của họ ảnh
hưởng rất quyết định đến sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Người lãnh đạo thực
sự có tài, có đức thì sẽ góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng phát triển, uy tín và
vai trò của Đảng được tăng cường; người lãnh đạo thiếu đức, thiếu tài thì cách mạng
sẽ gặp khó khăn, thậm chí thất bại. Lịch sử các Đảng Cộng sản trên thế giới đã có
không ít trường hợp do chọn người đứng đầu mắc sai lầm mà cách mạng thất bại,
Đảng tan rã.
Ba là, cần đổi mới quan điểm về tiêu chí người lãnh đạo.
Tiêu chí người lãnh đạo là tổng hợp những yêu cầu toàn diện về phẩm chất,
năng lực, sức khoẻ… đối với người lãnh đạo, làm cơ sở lựa chọn và chuyển giao
quyền lãnh đạo cho họ. Tiêu chí cán bộ, tiêu chí người lãnh đạo không phải là cứng
nhắc, nhất thành bất biến, mà có những thay đổi trong các giai đoạn cách mạng khác
nhau. Hay nói cách khác, mỗi giai đoạn cách mạng có những nhiệm vụ cụ thể khác
nhau, nên tiêu chí về người lãnh đạo cũng có sự khác nhau. Chủ nghĩa kinh nghiệm,
cứng nhắc về tiêu chí; lấy những tiêu chí cũ của ngày hôm qua, của giai đoạn cách
mạng trước làm yêu cầu để lựa chọn cán bộ, người lãnh đạo cho ngày hôm nay, cho
giai đoạn cách mạng hôm nay đều là không đúng, không phù hợp. Cần phải khắc
phục cho được những biểu hiện không tin vào lớp trẻ, vào thế hệ sau, duy trì quan
niệm “sống lâu lên lão làng” trong việc đề bạt, tiến cử và sử dụng cán bộ và ngươì
lãnh đạo. Không chỉ vì một khuyết điểm nhỏ nhặt mà không chú ý đến phẩm chất
chính trị, đạo đức và năng lực nổi trội của họ để “lọt” nhân tài. Việc lựa chọn người
lãnh đạo nhằm vào người thân, bạn bè, đồng hương,địa phương, cánh hẩu, không tôn
trọng tài năng của người khác cần phải kiên quyết loại trừ.
Tiêu chí người lãnh đạo phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, nhằm đáp ứng
những yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng. Tiêu chí đó bao gồm cả những phẩm chất
thuộc về đức và những phẩm chất thuộc về tài; đức với tài; tuổi tác với kinh nghiệm
thống nhất với nhau trong người lãnh đạo. Những tiêu chí về người lãnh đạo trình
bày ở Chương 1: một là, có trình độ trí tuệ, nhận thức và tư duy khoa học cao; hai là,
có phẩm chất của người đứng đầu phong trào chính trị, trung thành với mục tiêu, lý
tưởng giai cấp; ba là, có năng lực tập hợp quần chúng và tổ chức hoạt động thực tiễn,
thúc đẩy phong trào tiến lên; bốn là, có đạo đức, tác phong mẫu mực, tiêu biểu cho
hình ảnh của giai cấp; năm là, có sức khoẻ với khả năng làm việc cao, là một thể
thống nhất đức, tài và sức khoẻ cần phải được xác định trong lựa chọn người lãnh
đạo để chuyển giao trong giai đoạn cách mạng mới.
Đó là người tiêu biểu cho sự kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường đi
lên CNXH; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên trì đường lối, chính sách và sự lãnh
đạo của Đảng; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có uy tín cao và gắn bó mật
thiết với nhân dân; có năng lực tổ chức thực tiễn, năng lực quy tụ, tập hợp lực lượng,
động viên quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng…
Về vấn đề này, Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ
cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị,
gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân”53.
Đối với việc lựa chọn người lãnh đạo ở cấp cao nhất thì tiêu chí về trí tuệ, về
tầm tư duy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Họ phải là những người có tầm tư duy, trí
tuệ cao, để có thể phân tích một cách khoa học tình hình, nắm vững và vận dụng
đúng đắn, sáng tạo những quy luật khách quan, đưa ra những quyết định chính xác,
kịp thời để giải quyết tình hình một cách hiệu quả nhất, thành công nhất. Họ có thể
dự đoán được tương lai và xu hướng vận động của tình hình, kiên định lập trường
trước những khó khăn, thử thách, dũng cảm chèo lái đưa con thuyền cách mạng tiến
lên. Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và toàn cầu hoá hiện
nay, với những quan hệ đan xen, chồng chéo giữa các vấn đề đối tác và “đối tượng”,
trong sự cạnh tranh gay gắt trên quy mô toàn cầu, thì tầm cao về tư duy, sự nhạy bén
và sắc sảo về chính trị của người lãnh đạo phải là những phẩm chất nổi trội trong họ,
để họ có thể hoàn thành được trọng trách lịch sử của mình, tiếp tục đưa sự nghiệp
cách mạng giành những thắng lợi to lớn trong thế kỷ XXI. Làm thế nào để đất nước
phát triển, CNXH đứng vững và tiếp tục phát triển, khẳng định sức sống và tính ưu
việt của mình trong tình tình thế giới và đất nước có những biến động phức tạp, khó
lường như hiện nay là câu hỏi lớn, đặc biệt hệ trọng đặt ra đối với các Đảng Cộng
sản cầm quyền hiện nay. Chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng phải
hướng tới đáp ứng tốt nhất cho sự trả lời câu hỏi trên.
Người lãnh đạo không những cần phải có tinh thần dám làm mà còn phải biết
làm, biết đưa cách mạng đến thành công, biết đưa công việc đến thắng lợi; là người
dám chịu trách nhiệm về công việc của mình và cả công việc của cấp dưới, cả những
sai lầm, khuyết điểm của cấp dưới. Phẩm chất và phong cách làm việc trên của người
lãnh đạo càng cần phải nhấn mạnh trong điều kiện hiện nay, V.I.Lênin từng dạy:
Một người lãnh đạo chính trị không những phải chịu trách nhiệm về
cách mình lãnh đạo, mà còn phải chịu trách nhiệm về hành động của
những người dưới quyền mình nữa. Đôi khi người lãnh đạo không biết
những hành động đó, thường là không muốn cho những hành động đó xảy ra, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm về những hành động đó54.
Bốn là, thực sự coi trọng nhân tài trong việc chuyển giao quyền lãnh đạo
Nhân tài không chỉ là người bao gồm những phẩm chất về tài năng, về trí tuệ, tư
duy, mà con bao hàm cả những phẩm chất về đạo đức, lối sống; đó là sự kết hợp hài
hòa giữa đức và tài trong người lãnh đạo, làm cho cả đức và tài thăng hoa đến độ rực
53 ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 141 54 V.I.Lênin, toàn tập, Nxb TB, M. 1977, tập 42, tr. 269
rỡ nhất, phục vụ tốt nhất cho cách mạng. Không coi trọng nhân tài thì không những
làm thui chột nhân tài, mà như thế còn là hành động gây hại cho cách mạng. Chọn
những người lãnh đạo cao nhất phải là người thực sự tài năng theo nghĩa đúng đắn về
nhân tài của cách mạng. Lựa chọn người lãnh đạo không phải để làm những “ông
Bụt” ngồi ở chùa không nguy hại và cũng không có lợi cho ai, như cách diễn đạt của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, thực chất việc lựa chọn những “ông Bụt” đó lại là
điều nguy hại đối với cách mạng. Tính nguy hại đó biểu hiện ở chỗ, không những họ
không đủ tài để thực hiện trọng trách lịch sử của mình, mà còn tạo cơ hội, điều kiện
để người khác thao túng, lôi kéo gây mất đoàn kết và lợi dụng cho những mưu đồ của
chủ nghĩa cá nhân, của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi hình thức trong nội bộ Đảng. Tư
tưởng trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần phải được thấu suốt hơn nữa trong hoạt
động và công tác cán bộ, công tác tổ chức trong việc chuyển giao quyền lãnh đạo
trong Đảng hiện nay.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, sự giao lưu văn hóa… và sự
cạnh tranh trên thế giới diễn ra rất gay gắt; trước những thách thức mới đối với tương
lai và tiền đồ của CNXH, thì càng cần phải chú ý trọng dụng nhân tài trong công tác
cán bộ, của Đảng . Cần phải dứt khoát loại bỏ kiểu “ông Bụt” dưới nhiều hình thức
và các cấp độ khác nhau trong vấn đề lựa chọn cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ chốt, và
đặc biệt là người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản cầm quyền.
Thời thế tạo anh hùng; nhân tài đời nào cũng có. Không thể cho rằng, hiện nay
chúng ta không có nhân tài, chúng ta thiếu người tài năng. Tình trạng chảy máu “chất
xám”, thui chột tài năng còn diễn ra thì chừng đó cách mạng chưa thực sự phát huy
tốt nhất các động lực cho sự phát triển. Sự nghiệp cách mạng vĩ đại của giai cấp công
nhân và quần chúng lao động, bản thân nó, đã phải sản sinh ra những lãnh tụ, nhân tài
cho mình; đồng thời sự nghiệp vĩ đại ấy bao giờ cũng đòi hỏi phải có những con
người xứng đáng, đủ tầm để đưa cách mạng tiến lên. Vấn đề quan trọng đặt ra là phải
có quan điểm đúng đắn về nhân tài và bồi dưỡng, sử dụng, trọng dụng nhân tài. Phải
khắc phục tư tưởng cho rằng, thế hệ cha ông mới có nhiều người tài, còn thế hệ hiện
nay dường như “vắng bóng nhân tài”, không có nhân tài thực sự. Cần phải đối xử
đúng, thật sự coi trọng nhân tài, thật sự coi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Khi
sử dụng con người, sử dụng nhân tài phải xuất phát từ nhu cầu công việc, theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, thì phải “vì việc mà chọn người”, chứ không phải “vì người mà
đặt việc”. Có như thế thì mới có thể tạo điều kiện phát huy cao nhất tài năng, tinh
thần cống hiến trong mỗi con người, trong người lãnh đạo…Đó là động lực quan
trọng của sự phát triển.
Chọn người đứng đầu Đảng để chuyển giao quyền lãnh đạo thì phải chọn người
không những có đầy đủ năng lực và phẩm chất cần thiết theo yêu cầu, những năng lực
phẩm chất đó bộc lộ là một người có tài năng, là nhân tài lãnh đạo; mà còn là người có
uy tín cao trong Đảng, có khả năng quy tụ lòng người, đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Tư duy mới về lựa chọn người lãnh đạo phải tuân thủ những nguyên tắc mácxít - lêninnít
trong tổ chức hoạt động của Đảng Cộng sản và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn, phù
hợp, thích ứng với từng giai đoạn cách mạng cụ thể. V.I.Lênin viết:
Chúng ta…chú ý tìm ra và thử thách một cách hết sức nhẫn nại, hết sức
thận trọng những người thực sự có tài tổ chức, những người có bộ óc sáng
suốt và có bản lĩnh tháo vát trong thực tiễn, những người vừa trung thành với
chủ nghĩa xã hội lại vừa có năng lực… Chỉ có những người như thế, chúng ta
mới đề bạt lên những chức vụ lãnh đạo lao động của nhân dân, lên những
chức vụ lãnh đạo quản lý, sau khi đã thử thách họ hàng chục lần bằng cách
cho họ đảm nhận từ những nhiệm vụ đơn giản nhất đến những nhiệm vụ khó khăn nhất”55.
3.2. quán triệt các yêu cầu MANG TíNH NGUYÊN TắC TRONG QUá
TRìNH THựC HIệN CHUYểN GIAO QUYềN LãNH ĐạO TRONG NộI Bộ
ĐảNG CộNG SảN CầM QUYềN
3.2.1. Giữ vững ổn định chính trị và sự phát triển của chủ nghĩa xã hội
Mục đích của việc chuyển giao quyền lãnh đạo không phải là quyền lãnh đạo,
quyền lực rơi vào tay người nào đó, vào tay cá nhân nào đó, vào phe nhóm nào đó.
Mục đích của vấn đề là chuyển giao quyền lãnh đạo cho người lãnh đạo xứng đáng,
đủ sức, đủ tầm gánh vác được nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra, tiếp tục thúc đẩy sự phát
triển của sự nghiệp cách mạng XHCN. Điều đó quy định việc chuyển giao quyền
55 V.I.Lênin, toàn tập, Nxb TB, M.1977, tập 36, tr. 236-237
lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền phải đáp ứng yêu cầu giữ vững ổn
định chính trị và sự phát triển của CNXH. Đây là yêu cầu cơ bản có tính nguyên tắc
trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền.
Thực chất của yêu cầu trên là không để xảy ra tình trạng thực hiện việc chuyển
giao quyền lãnh đạo mà trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền mất đoàn kết, gây
nên những bè cánh, phe nhóm, nẩy sinh những tình huống chính trị bất lợi đối với
Đảng và cách mạng. Cũng không để xảy ra tình trạng chệch hướng sự phát triển đất
nước khi đã giao quyền lãnh đạo cho người khác, cho thế hệ khác.
Yêu cầu có tính nguyên tắc này vừa do mục đích của việc chuyển giao quyền
lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền quy định, vừa chi phối mục đích và
cả phương pháp chuyển giao quyền lãnh đạo. Đây là mối quan hệ tác động, chi phối
lẫn nhau, cần phải được nhận thức và giải quyết đúng trong thực tiễn. Vì thế, vấn đề
quan trọng là phải bảo đảm yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết
thống nhất trong Đảng và đảm bảo cho cách mạng không ngừng tiến lên; chứ không
phải chuyển giao quyền lãnh đạo chỉ vì cá nhân nào đó.
Sự mất ổn định chính trị do chuyển giao quyền lãnh đạo gây nên là điều hết sức
nguy hiểm; tình trạng các phe nhóm đấu đá lẫn nhau không những làm suy yếu bản
thân Đảng, giảm và mất lòng tin của quần chúng đối với Đảng và chế độ XHCN, mà
còn tạo điều kiện cho sự công kích, chống phá của giai cấp tư sản và các thế lực phản
động thù địch. Sự mất ổn định chính trị đó, nếu không được giải quyết và xử lý tốt thì
sẽ là nguy cơ đưa đất nước lâm vào khủng hoảng chính trị, xã hội rối loạn, dẫn đến
chệch hướng phát triển của CNXH. Giữ vững ổn định chính trị còn là yếu tố đảm bảo
sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; đồng thời đoàn kết thống nhất lại tạo cơ sở cho
việc giữ vững ổn định chính trị.
Yêu cầu này đòi hỏi mọi đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, đề cao
tính đảng để đề cử, lựa chọn cho tổ chức, cho cách mạng những người lãnh đạo xứng
đáng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Người nào không biết yêu cầu và làm thế nào để những
người mà mình ủy nhiệm làm tròn nghĩa vụ đảng đối với những người đã uỷ nhiệm họ thì người ấy không xứng đáng với danh nghĩa là đảng viên”56. Bất cứ cơ quan nào
của Đảng, khi lựa chọn và chuyển giao quyền lãnh đạo đều phải nhận thức và thực
hiện tốt yêu cầu này. Đối với việc chuyển giao quyền lãnh đạo ở cấp cao nhất thì yêu
cầu có tính nguyên tắc này càng cần phải được quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm
ngặt trong thực tiễn công tác tư tưởng và tổ chức của Đảng.
Yêu cầu này liên quan trực tiếp đến việc lựa chọn, bố trí người lãnh đạo, cán bộ
chủ chốt để thực hiện việc giao quyền lãnh đạo. Điều đó đòi hỏi phải lựa chọn được
những người ưu tú nhất, tiêu biểu nhất cho sức chiến đấu của Đảng, cho sự đoàn kết
nhất trí trong Đảng. Đó phải là những nhà lãnh đạo đã được rèn luyện,thử thách
trong thực tiễn cách mạng, có đức có tài, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kinh
nghiệm lãnh đạo phù hợp với yêu cầu; có khả năng tập hợp quần chúng… Đối với
người lãnh đạo ở cấp cao nhất thì các yêu cầu về phẩm chất, năng lực càng phải cao.
Trong tình hình hiện nay, vấn đề giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế- xã hội là nhiệm vụ rất quan trọng của các Đảng
Cộng sản cầm quyền ở các nước XHCN. Nghị quyết Trung ương Tám khoá IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Giữ vững hoà bình, ổn định để thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”57, và coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đó cũng là định hướng, yêu
cầu cho việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền,
nhất là trong những kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.
3.2.2. Giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng
Chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hoạt động và là nền tảng tư tưởng
của Đảng Cộng sản. Sức mạnh của Đảng Cộng sản là ở sự thống nhất về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; trong đó, sự thống nhất về nhận thức, tư tưởng có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu, nó là cơ sở, nền tảng của sự thống nhất về chính trị và tổ chức, đảm
bảo cho Đảng làm tròn trọng trách lịch sử và xứng đáng với vai trò là lãnh tụ chính
trị tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân - chủ nghĩa Mác - Lênin là cái đảm bảo cho Đảng luôn luôn là Đảng của
giai cấp công nhân, là lãnh tụ chính trị, đội tiền phong chiến đấu của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, thì hệ tư tưởng của
56 V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TB. M. 1979, tập 9, tr. 387 57 Tài liệu học tập nghị quyết Hội nghị lần thứ tám BCHTW Đảng khoá IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr 48-49
Đảng chi phối hệ tư tưởng của xã hội và đóng vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần xã hội. Mất nền tảng tư tưởng thì Đảng Cộng sản không còn là đảng của giai cấp
công nhân nữa. Không những thế, điều đó còn làm cho đời sống tư tưởng tinh thần xã
hội bị đảo lộn, mất phương hướng, rối loạn. Yêu cầu này càng đặc biệt quan trọng
trong tình hình hiện nay khi cuộc đấu tranh ý thức hệ, cuộc đấu tranh trên mặt trận tư
tưởng đang diễn ra rất phức tạp và gay gắt.
Giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng là yêu cầu cơ bản, đặc biệt quan trọng
trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền.
Chỉ có như vậy, cá nhân các nhà lãnh đạo và Ban Chấp hành mới của Đảng mới đảm
bảo thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình theo đúng đường lối, nghị quyết mà Đại
hội của Đảng đã vạch ra. Việc chuyển giao quyền lãnh đạo phải hướng tới củng cố
nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ nghĩa Mác -
Lênin chiếm địa vị thống trị toàn xã hội. Điều đó có nghĩa là, việc chuyển giao người
lãnh đạo, nhất là người lãnh đạo ở cấp cao nhất, phải hướng tới những người không
những phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp, Tổ quốc và dân tộc; mà còn
phải có khả năng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn, bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa ấy trước mọi sự chống phá của các loại kẻ thù, cũng như sự công
kích, thâm nhập của các loại tư tưởng phi vô sản vào trong nội bộ Đảng. Hiện nay,
các thế lực thù địch đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình” chống phá các
nước XHCN, trong đó lĩnh vực tư tưởng văn hoá là một trọng điểm tập trung sự
chống phá của chúng. Trong tình hình đó, việc giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng
trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản càng trở nên
càng quan trọng.
Yêu cầu trên đòi hỏi, trong bất cứ hoàn cảnh nào Đảng đều phải tuyệt đối
trung thành, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
duy nhất của Đảng Cộng sản đối với xã hội và nhà nước. Đảng vừa phải kiên trì
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phải đề phòng tư tưởng phi xã hội
chủ nghĩa. Đó vừa là nguyên tắc, vừa là động lực và vừa là mục đích của việc thực
hiện chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh “diễn biến hoà hình” chống phá cách mạng các
nước XHCN, trong đó chúng tập trung chống phá trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá.
Chúng ra sức công kích chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã
lỗi thời, CNXH là “quái thai” của lịch sử; rằng CNTB mới là xã hội đại diện cho
tương lai phát triển của nhân loại, nhằm hạ bệ, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, phá
hoại nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản đi đến thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với xã hội, xoá bỏ CNXH trên thế giới. Trong điều kiện đó, các Đảng Cộng sản
càng phải giữ vững, kiên định nền tảng tư tưởng của mình, trung thành tuyệt đối với
chủ nghĩa Mác - Lênin và kiên định con đường XHCN; kiên quyết đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng của chúng. Đó là cũng định hướng
và yêu cầu quan trọng của việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng hiện
nay.
Yêu cầu quan trọng này còn đặt ra đối với Đảng cần phải tăng cường và làm
tốt công tác tư tưởng trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ của
mình. Phải đẩy mạnh việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của
Đảng, nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn cụ thể. Chuyển giao quyền lãnh
đạo trong Đảng còn là để đảm bảo cho đường lối, chính sách của Đảng tiếp tục được
thực hiện có hiệu quả, quần chúng nhân dân hăng hái thi đua thực hiện thắng lợi mọi
nhiệm vụ của cách mạng. Tính mục đích và ý nghĩa thực tế của vấn đề chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản còn là ở chỗ đó.
3.2.3. Giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết trong Đảng
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đánh giá cao vai trò của đoàn
kết thống nhất trong Đảng, coi đó là sức mạnh, là vấn đề then chốt của thành công.
C.Mác và Ph. ăngghen cho rằng, sự thành công của phong trào công nhân mỗi nước
chỉ có thể được bảo đảm bằng sức mạnh của sự thống nhất và sự tổ chức. Khi giai
cấp công nhân đã giành được chính quyền nhà nước, theo V.I.Lênin, cần phải đặc
biệt coi trọng xây dựng khối đoàn kết thống nhất vững chắc trong Đảng; nội bộ Đảng
càng đoàn kết thống nhất thì uy tín và ảnh hưởng của Đảng trước quần chúng càng
chắc chắn và càng rộng lớn. Người viết:
Một điều rõ ràng là trong một nước đang thực hiện chuyên chính vô
sản, thì một sự chia rẽ trong nội bộ giai cấp vô sản hoặc giữa đảng của giai
cấp vô sản với quần chúng vô sản, không phải chỉ là nguy hiểm, mà còn
cực kỳ nguy hiểm, nhất là nếu trong nước đó, giai cấp vô sản lại chỉ là thiểu số nhỏ bé trong dân cư58.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đoàn kết thống nhất.
Người viết: “Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết, thành công thành công đại thành công”.
Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Người thường xuyên quan tâm chăm
lo củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, coi giữ gìn sự đoàn kết
trong Đảng “như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Giành được chính quyền nhà nước là thắng lợi to lớn khẳng định sức mạnh của
Đảng Cộng sản, khẳng định sức mạnh của khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Sức
mạnh đoàn kết đó là truyền thống tốt đẹp của Đảng, cần phải được không ngừng
củng cố và phát huy trong các giai đoạn cách mạng tiếp theo. Trong điều kiện cầm
quyền, vấn đề lợi ích và quyền lực chi phối mạnh mẽ, dễ nảy sinh tình trạng mất đoàn
kết nội bộ, phá vỡ khối thống nhất của Đảng, thì việc củng cố và tăng cường đoàn kết
thống nhất trong nội bộ Đảng càng trở nên quan trọng. Khối đoàn kết thống nhất
trong Đảng chỉ có thể được vững chắc khi nó được dựa trên trên cơ sở của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng; trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt
nguyên tắc tập trung dân chủ; trên cơ sở tình đồng chí, tính đảng cao của đảng viên;
dựa trên việc thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình; trên cơ sở có hạt nhân
lãnh đạo đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết trong Đảng là yêu cầu cơ bản của
vấn đề lựa chọn người đứng đầu, người lãnh đạo,để chuyển giao quyền lãnh đạo
trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền. Đoàn kết thống nhất trong Đảng càng trở
nên quan trọng trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản
cầm quyền. Việc đề cử, bầu cử, lựa chọn người đứng đầu, người lãnh đạo để chuyển
giao quyền lãnh đạo, phải nhằm tới đảm bảo cho Đảng càng đoàn kết thống nhất, sức
mạnh, sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Đảng và các tổ chức đảng được tăng
cường. Đồng thời làm cho Đảng và các tổ chức của Đảng không ngừng lớn mạnh,
củng cố và mở rộng được mối liên hệ mật thiết với quần chúng. Mỗi lần thực hiện
58 V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TB. M. 1979, tập 42, tr. 336
việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng là phải làm cho uy tín và ảnh
hưởng của Đảng được nâng cao trong xã hội, được quần chúng nhân dân ủng hộ, tin
cậy.
Nếu nội bộ mất đoàn kết, kèn cựa, tranh giành quyền lực, địa vị lẫn nhau, chủ
nghĩa cá nhân hoành hành thì sẽ làm xuất hiện và phát triển những cá nhân, những
nhóm người chống đối lẫn nhau. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cách mạng, vì
mất đoàn kết, họ tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để hãm hại lẫn nhau, từ đó có thể dẫn
đến làm sai đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước. Tình hình đó,
nếu phát triển, có thể từ sự chống đối lẫn nhau, hình thành ở người này, hoặc người
khác tư tưởng chống đối chế độ. Lịch sử đã chứng minh không ít trường hợp, do mất
đoàn kết nội bộ, nhất là sự mất đoàn kết đó được nẩy sinh trong quá trình chuyển
giao quyền lãnh đạo đã làm cho lợi ích chung bị tổn hại, thậm chí dẫn đến sự tan rã
của Đảng, tan rã thể chế chính trị.
Mỗi lần chuyển giao quyền lãnh đạo, các kỳ Đại hội của Đảng phải là những lần
củng cố thêm sự vững chắc của khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng thêm sức
mạnh cho Đảng, giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp của Đảng, truyền thống
đã được tạo dựng và không ngừng bồi đắp trong quá trình lịch sử đấu tranh cách
mạng của Đảng, để Đảng có thể đáp ứng đựoc yêu cầu lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo
đất nước trong thời kỳ mới.
3.2.4 Giữ vững nguyên tắc Đảng, đặc biệt là thực hiện nghiêm ngặt nguyên
tắc tập trung dân chủ trong việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là một yêu cầu tất yếu. Sự
lãnh đạo đó cần được thực hiện bằng những phương pháp vốn có của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Thông qua tuyên truyền, thuyết phục, giáo dục, nêu gương của các đảng viên
và các tổ chức cơ sở đảng làm cho Nhà nước, các tổ chức quần chúng cùng toàn thể
nhân dân thấy rõ tính đúng đắn trong các quyết định chính trị của Đảng và thực hiện
thắng lợi những quyết định đó. Thực hiện việc chuyển giao quyền lãnh đạo phải
nhằm tới giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trên cơ sở sự lãnh đạo của
Đảng. Xa rời, từ bỏ nguyên tắc đó, thì chuyển giao quyền lãnh đạo sẽ mất phương
hướng và còn có thể phát triển thành những tổ chức, lực lượng chống đối lại chính
Đảng, và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản bị thủ tiêu.
Giữ vững nguyên tắc Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ là yêu cầu
đặc biệt quan trọng đối với việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng
sản. Điều đó đòi hỏi quá trình chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng phải
đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; phải thực hiện tốt vấn đề
phê bình, tự phê bình và đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Yêu cầu này đòi hỏi phải giữ vững nguyên tắc Đảng trong toàn bộ các khâu, các
quy trình, các bước trong quá trình chuyển giao quyền lãnh đạo, bảo đảm quyền lực
tập trung, quyền quyết định của cơ quan lãnh đạo có thẩm quyền được thực hiện trên
cơ sở dân chủ, tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của điều lệ Đảng, những quy
định về tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo. Tránh mọi biểu hiện tùy tiện đặt ra những ngoại
lệ núp dưới danh nghĩa là vận dụng linh hoạt sáng tạo, hoặc những ngoại lệ nào khác.
Mọi ngoại lệ đặt ra đều làm tổn hại tới Đảng, dẫn đến nguy cơ phá vỡ tổ chức và vi
phạm nguyên tắc Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức căn bản của Đảng Cộng sản.
Tầm quan trọng và nội dung của nguyên tắc đã được trình bày ở các phần trên. ở đây
cần nhấn mạnh thêm là, việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng
sản cầm quyền không những phải tuân thủ theo nguyên tắc tập trung dân chủ mà còn
phải giữ vững nguyên tắc nền tảng này . Bởi vì, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ,
từ bỏ nguyên tắc này thì đồng nghĩa với việc phá hoại Đảng, làm đổ vỡ Đảng, biến
Đảng thành một tổ chức khác và đi đến thủ tiêu Đảng. Vì vậy, kết quả của vệc
chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng còn phải được đo bằng nguyên tắc tập
trung dân chủ có được giữ vững và tăng cường hay không.
Tự phê bình và phê bình là quy luật triển của Đảng Cộng sản. C.Mác và
ăngghen cho rằng, việc Đảng phê bình hoạt động đã qua của mình là công việc tuyệt
đối cần thiết và bằng cách đó, Đảng học cách hoạt động tốt hơn. Các nhà kinh điển
đều đánh gía cao vai trò tự phê bình và phê bình, coi đó là quy luật rất quan trọng
trong sự phát triển của Đảng Cộng sản. Tự phê bình và phê bình để làm rõ đúng sai,
làm rõ khuyết điểm, nguyên nhân sinh ra những khuyết điểm, giúp đỡ lẫn nhau trên
tình đồng chí để sửa chữa khuyết điểm, cùng nhau tiến bộ, làm cho Đảng vững mạnh
và đoàn kết thống nhất hơn. Đó là tiêu chí, dấu hiệu của người cộng sản chân chính,
của một đảng cách mạng chân chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Một đảng
mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận
khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm, xét rõ hoàn
cảnh sinh ra khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”59. Tự phê bình và phê bình là biện pháp cơ bản xây dựng, củng cố, tăng
cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tự phê bình và phê bình trong Đảng cần
thực hiện các nguyên tắc tính đảng; tính giáo dục; khách quan, trung thực, chân
thành, công khai; cụ thể, thiết thực và kịp thời. Quá trình, chuyển giao quyền lãnh
đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền mà không thực hiện tốt tự phê bình và
phê bình thì sẽ tạo ra những kẽ hở cho những cán bộ, những người lãnh đạo thoái
hoá,biến chất, hoành hành, để chúng “buông câu trong đám nước đục” như cách diễn
đạt của V.I. Lênin; tạo điều kiện cho sự lộng quyền của cá nhân, dung túng cho cái
xấu, cái tiêu cực phát triển trong nội bộ Đảng, làm suy yếu Đảng.
*Thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc chuyển
giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng cộng sản cầm quyền:
Tầm quan trọng, vị trí, vai trò, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong
tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản càm quyền đã được trình bày ở trong các
phần trên. ở dây với tư cách là một giải pháp trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh
đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền, cần nhấn mạnh phải thực hiện đúng và
nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ với những nội dung cụ thể và triệt để; khắc
phục những biểu hiện vi phạm, thực hiện không đúng.
Không thể thực hiện tốt vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng
Cộng sản cầm quyền, nếu như nguyên tắc tập trung dân chủ không được thực hiện
đúng và nghiêm ngặt. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, những lãnh tụ của Đảng,
thông thường là những người đứng đầu các cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nuớc,
những chức vụ chủ chốt trong hệ thống bộ máy của nhà nước, nên có những khó
khăn nhất định khi thực thi nguyên tắc tập trung dân chủ trong vấn đề chuyển giao
quyền lãnh đạo. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở để lựa chọn
59 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 5, tr. 261
đúng người, tìm được người lãnh đạo xứng đáng, có tín nhiệm, có uy tín đối với tập
thể. Nguyên tắc tập trung dân chủ đảm bảo cho các tổ chức của Đảng Cộng sản đoàn
kết thống nhất trong quá trình lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh
đạo, và sau khi đã chọn được người và giao quyền lãnh đạo cho người lãnh đạo mới.
Nguyên tắc này không những giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, mà còn củng cố, tăng
cường sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội. Vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ là điều dẫn đến nguy hại cho cách mạng, nội bộ Đảng
mất đoàn kết, tình trạng độc đoán, chuyên quyền, vô nguyên tắc, kéo bè, kéo cánh sẽ
phát triển, sức chiến đấu của Đảng bị suy yếu.
Một là, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải khắc phục những
biểu hiện vi phạm và không đúng, đó là:
+ Dân chủ hình thức, hô hào dân chủ nhưng thực chất là vi phạm, hạn chế dân
chủ, lợi dụng dân chủ.
+ Dân chủ vô nguyên tắc, dân chủ quá trớn, vô chính phủ
+ Tập trung cao độ, triệt tiêu dân chủ
+ Chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức, độc quyền cá nhân
+ Cục bộ địa phương, cánh hẩu, bè phái.
+ Tách rời dân chủ với tập trung; dân chủ không gắn với kỷ luật.
+ Vô trách nhiệm, không dám chịu trách nhiệm, dựa dẫm vào tập thể, vào tổ
chức; có công thì nhận có khuyết điểm thì đổ lỗi cho tập thể.
Trong thực tế tổ chức và hoạt động của các Đảng Cộng sản, những biểu hiện vi
phạm và không đúng trên diễn ra với các mức độ khác nhau, tính chất khác nhau. Khi
thì vi phạm dân chủ cả chiều hướng dân chủ hình thức và dân chủ vô nguyên tắc; khi
thì vi phạm tập trung cả việc buông lỏng kỷ cương và cả vấn đề tập trung quá mức,
lộng quyền cá nhân. Nhưng thực chất, vi phạm dân chủ cũng là vi phạm vấn đề tập
trung, và ngược lại, vi phạm vấn đề tập trung cũng chính là vi phạm vấn đề dân chủ.
Không nên xem xét các loại vi phạm trên một cách tách rời, mà nên đặt chúng trong
mối quan hệ biện chứng với nhau, chúng đều là sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân
chủ, đều làm sai lệch cả dân chủ và cả tập trung.
Hai là, phát huy dân chủ và tính tích cực trong toàn Đảng, nhất là trong Ban
Chấp hành Trung ương trong vấn đề lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền
lãnh đạo
Động viên và huy động, phát huy dân chủ và tính tích cực trong toàn Đảng để
hoàn thành mọi nhiệm vụ của Đảng, của cách mạng là một bài học kinh nghiệm rất
quan trọng của các Đảng Cộng sản trong thực tiễn hoạt động của mình. Việc phát huy
tính tích cực cao nhất của mọi đảng viên, của các ủy viên Ban Chấp hành Trung uơng
là sự phản ánh dân chủ lớn nhất, chế độ dân chủ tập trung của Đảng.
Cần phải thấy rằng, dân chủ phải được đảm bảo bằng nguyên tắc, điều lệ Đảng;
giữ vững kỷ cương, chống mọi biểu hiện dân chủ hình thức, dân chủ vô nguyên tắc;
xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm điều lệ Đảng trong vấn đề chuyển giao quyền
lãnh đạo. Dân chủ còn phải gắn với nâng cao trình độ trí tuệ, nâng cao văn hoá chính
trị, văn hoá pháp lý, văn hóa Đảng, ý thức trách nhiệm của đảng viên, của các ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương. Điều đó đòi hỏi phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ
giữa dân chủ và kỷ luật, giữa dân chủ với tập trung, và xử lý tốt mối quan hệ này
trong thực tiễn chuyển giao quyền lãnh đạo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Muốn phát huy đựơc dân chủ trong Đảng, trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh
đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền một cách tốt nhất, hiệu quả nhất thì phải
có thái độ thực sự tôn trọng ý kiến của đảng viên, của các ủy viên không giữ chức vụ
quan trọng, của toàn thể đảng viên. Tuyệt đối không nên lấy ý kiến đảng viên chỉ là
hình thức, thậm chí là thăm dò thái độ của đảng viên “theo ai”, “chống ai”, rồi quy
kết, chụp mũ. Thực chất đó là sự lợi dụng dân chủ. Không thể để xảy ra tình trạng
đảng viên không dám phát biểu ý kiến của mình vì lo sợ bị “động chạm”, bị trù úm;
không để tình trạng đảng viên hăng hái công tác, tích cực đấu tranh bảo vệ lẽ phải,
bảo vệ Đảng, nhưng lại bị chèn ép, chà đạp, trù ghét. Cũng không vì bảo vệ uy tín
của Đảng mà bao che cho những khuyết điểm, thậm chí tội lỗi của đảng viên nào đó,
của người lãnh đạo nào đó.
Những vấn đề nêu trên, nếu diễn ra thì sẽ làm cho Đảng mất động lực phát triển;
đảng viên mất niềm tin và suy giảm động lực phấn đấu. Đây là điều dễ mắc phải
trong thực tiễn sinh hoạt Đảng, nhưng rất nguy hiểm đối với Đảng, làm suy giảm sức
chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, để kéo dài thì sẽ là nguy cơ đổ vỡ
Đảng. Tuy nhiên, vấn đề này đòi hỏi toàn thể cán bộ, đảng viên phải nêu cao tính
Đảng, tinh thần trách nhiệm xây dựng cao trong các ý kiến của mình. Không được
phép tùy ý phát biểu, gieo rắc ý kiến mang tính bất mãn, phản đối đường lối, quan
điểm, nghị quyết của Đảng, công kích cá nhân, làm nhiểu loạn thông tin, phá rối tổ
chức…
Ba là, tăng cường tập trung trên cơ sở dân chủ, đảm bảo cho việc chuyển giao
quyền lãnh đạo được tập trung thống nhất, tạo nên sức mạnh mới cho Đảng.
Tập trung là sự thống nhất tập trung ý chí, nguyện vọng, là sự thống nhất tập
trung lực lượng và quyền lực. Theo Ph. ăngghen, tập trung, một mặt là uy quyền nhất
định, uy quyền đó bất kể được tạo ra như thế nào; mặt khác đó là sự phục tùng nhất
định; hai cái đó đều cần của vấn đề tập trung. Không có tập trung thì tổ chức không
thể vận hành được. Tập trung biểu hiện trong Đảng là: Trong Đảng chỉ có một đường
lối, một phương hướng phát triển, một điều lệ, không thể có hai. Tập trung còn biểu
hiện ở chỗ, cá nhân phục tùng tổ chức, thiểu số phải phục tùng đa số, địa phương
phải phục tùng Trung ương, cấp dưới phải phục tùng cấp trên. Những sự phục tùng
đó cần phải coi là nguyên tắc, là kỷ luật quan trọng nhất của Đảng, như thế mới bảo
đảm được tập trung thống nhất trong toàn Đảng. Không thực hiện tập trung, không có
tập trung thống nhất, thì dân chủ cũng không thực hiện được.
Trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo, tất nhiên sẽ có những ý kiến khác
nhau trong Đảng, trong Ban Chấp hành Trung ương; nhưng nhờ có tập trung mà sự
lựa chọn được chính xác hơn, thống nhất hơn và hiệu quả hơn. Tình trạng mỗi người
mỗi ý sẽ không được giải quyết, sẽ không đi đến kết quả cụ thể bằng các quyết định
cụ thể của Đảng, nếu không thực hiện được vấn đề tập trung thống nhất, không thực
hiện được các nội dung: cá nhân phục tùng tổ chức, tổ thiểu số phải phục tùng đa số,
địa phương phải phục tùng Trung ương, cấp dưới phải phục tùng cấp trên.
Bốn là, thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách.
Chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách phản ánh sâu sắc bản chất
của nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng Cộng sản.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam viết: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý
chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng”60.
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách là hai mặt của một vấn đề, không thể tách
rời nhau, không thể bỏ cái nào; trái lại chúng có quan hệ mật thiết với nhau, đòi hỏi
phải được kết hợp chặt chẽ trong sinh hoạt cũng như trong các hoạt động của Đảng
Cộng sản. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách không có nghĩa là phủ nhận vai trò to
lớn, trách nhiệm nặng nề của cá nhân, nhất là đối với những cán bộ lãnh đạo chủ
chốt,cán bộ cấp cao, đối với người đứng đầu Đảng; trái lại, cá nhân chỉ có thông qua
tập thể, kết hợp trí tuệ và sức mạnh của cá nhân với trí tuệ và sức mạnh của tập thể,
của toàn Đảng, thì cá nhân mới phát huy được vai trò của mình. Như vậy, thông qua
tập thể thì vai trò cá nhân mới được phát huy đúng đắn; tập thể lãnh đạo cũng cần cá
nhân phụ trách. Nếu vai trò cá nhân không được phát huy thì thực chất vai trò lãnh
đạo của tập thể cũng bị suy giảm; nếu không nêu cao tập thể lãnh đạo thì vai trò cá
nhân cũng không được phát huy. Đó là mối quan hệ biện chứng của chế độ tập thể
lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng Cộng
sản. Đối với việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm
quyền thì chế độ này càng cần thực hiện tốt. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng Cộng
sản Việt Nam nhấn mạnh: “Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Tăng cường chế
độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá
nhân của từng thành viên. Từng đảng bộ giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể lãnh đạo”61.
Không có cá nhân phân công phụ trách thì Đảng sẽ không thể tiến hành được
công việc, sẽ rơi vào cảnh không có người phụ trách, không có ai chịu trách nhiệm.
Theo đó, Bí thư của cấp ủy Đảng sẽ là người chịu trách nhiệm đầu tiên trong các
công tác hàng ngày; những ủy viên, đảng viên khác cần nhấn mạnh cá nhân phân
công phụ trách. Trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng
sản cầm quyền cần phát huy dân chủ lấy ý kiến của cấp dưới, của đảng viên, của các
ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, mỗi người chịu trách nhiệm ý kiến, đề xuất của
60 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 4-5 61 ĐCSVN, Văn kiện Hôị nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb CTQG, H. 2004, tr 55
mình trước tập thể, trước Đảng; Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương là tập
thể lãnh đạo quá trình này. V.I. Lênin viết: “Lựa chọn người; thiết lập chế độ trách
nhiệm cá nhân đối với công việc đang làm; kiểm tra công việc thực tế. Nếu không
như thế, thì không thể thoát ra khỏi chủ nghĩa quan liêu và bệnh giấy tờ đang bóp nghẹt chúng ta”62.
Tóm lại, những vấn đề cơ bản nêu trên là những yêu cầu có tính nguyên tắc của
việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền. Các yêu
cầu đó quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau, đều phải được tuân thủ nghiêm
ngặt; thực hiện tốt yêu cầu này đòi hỏi phải thực hiện tốt yêu cầu kia và ngược lại.
Một trong những yêu cầu đó không được chú ý, thì thực chất các yêu cầu còn lại
cũng không được thực hiện tốt, và như vậy, việc thực hiện chuyển giao quyền lãnh
đạo đã không đáp ứng tình hình. Đồng thời, mục đích, giá trị thực tế của vấn đề
chuyển giao quyền lãnh đạo là không đạt; không thực sự lựa chọn được người xứng
đáng, đúng tầm để có thể tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhà nước, sự
nghiệp cầm quyền của Đảng; và điều đó sẽ nảy sinh tình huống chính trị gây nguy
hại cho cách mạng, cho đất nước.
Việc xác định và nhận thức đúng các yêu cầu mang tính nguyên tắc có ý nghĩa
rất quan trọng, làm cơ sở cho việc đề thực thi phương pháp, biện pháp thực hiện có
hiệu quả vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền.
3.3. Xây dựng CƠ CHế và thực hiện quy trình chuyển giao quyền lãnh đạo
trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền
3.3.1. Cơ chế chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm
quyền
Vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền
muốn thực hiện tốt thì không thể tiến hành một cách tuỳ tiện, “tuỳ hứng” theo ý
muốn chủ quan của bất kỳ một ai. Vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt này cần phải
được thực hiện với một cơ chế rõ ràng, minh bạch và với một quy trình chặt chẽ.
Không có cơ chế, hoặc cơ chế không hợp lý, không đúng yêu cầu, không được thực
62 V.I.Lênin, toàn tập, Nxb TB, M. 1978, tập 44, tr. 452
hiện nghiêm túc thì sẽ là cơ sở cho chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bè phái phát triển, việc
chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng không đạt được mục đích đặt ra.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, cơ chế là “Cách thức sắp sếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện”63. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội
cũng phải tuân theo cơ chế nhất định. Cơ chế lãnh đạo của Đảng là toàn bộ cơ cấu tổ
chức, nguyên tắc và quy chế hoạt động để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với đối
tượng lãnh đạo, đối với xã hội và nhà nước, cũng như các tổ chức khác. "Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân lao động làm chủ" là cơ chế vận hành của xã hội ta.
Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với xã hội thông qua hệ thống tổ chức đảng
các cấp từ Trung ương đến cơ sở, thực hiện các nguyên tắc, quy định lãnh đạo; thông
qua Nhà nước và được thực hiện bằng nhà nước; Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ
trương, chính sách, bằng việc truyên truyền, giáo dục, bằng sắp xếp cán bộ, bằng việc
giám sát, kiểm tra quá trình tổ chức thực hiện đường lối, và bằng hành động nêu
gương của đảng viên.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể quan niệm: cơ chế chuyển giao quyền lãnh
đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền là một bộ phận trong cơ chế tổ chức và
hoạt động của Đảng, bao gồm toàn bộ cơ cấu tổ chức, những nguyên tắc và những
quy định, chế độ lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo, bảo đảm
việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền được chính
xác, đúng đắn và hợp lý. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Thực
hiện đúng đắn nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ”64.
Cơ chế chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền là
một loại hình đặc biệt của cơ chế tuyển chọn, trọng dụng nhân tài, của cơ chế tuyển
chọn cán bộ của Đảng. Cơ chế đó đòi hỏi, như V.I.Lênin chỉ rõ: “Tiến hành bằng
cách nào để việc đảm nhiệm công tác luôn luôn nằm trong tay những cán bộ hoàn toàn am hiểu công việc chuyên môn và đảm bảo thắng lợi cho công việc”65. Cơ chế
63 Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, H. 1998, tr. 464 64 ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 141 65 V.I.Lênin Toàn tập, Nxb TB. M. 1977, tập 41, tr. 349
chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền không thể nằm
ngoài, tách riêng với các hoạt động của Đảng, tách riêng khỏi yêu cầu nguyên tắc và
điều lệ Đảng, mà bao giờ cũng chịu sự chi phối chung của cơ chế lãnh đạo của Đảng
và điều lệ Đảng.
Việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền phải
xuất phát từ mục đích lý tưởng, đường lối, chính sách và điều lệ của Đảng; xuất phát
từ yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng; từ mục đích của việc lựa chọn người lãnh đạo
và chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền; dựa trên
nguyên tắc tập trung dân chủ để xác định cơ chế chuyển giao quyền lãnh đạo trong
nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền. Tuy cơ chế chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội
bộ Đảng Cộng sản cầm quyền là một loại hình đặc biệt của cơ chế tuyển chọn, sử
dụng nhân tài, của cơ chế tuyển chọn cán bộ của Đảng, nhưng nội dung của cơ chế có
những yêu cầu cụ thể riêng, nhất là đối với việc chuyển giao này lại thực hiện ở cấp
cao nhất của Đảng.
Nội dung của cơ chế thể hiện là toàn Đảng, tập trung vào Ban Chấp hành Trung
ương và Bộ Chính trị lãnh đạo việc lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền
lãnh đạo trong nội bộ Đảng; thực hiện đề cử, giới thiệu và bầu cử theo nguyên tắc,
điều lệ Đảng. Nội dung cơ chế chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng
sản cầm quyền còn thể hiện cụ thể ở quy trình thực hiện cơ chế. Ngoài những nội
dung chung của quy trình lựa chọn cán bộ, quy trình thực hiện lựa chọn người lãnh
đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo cần chú ý những bước cụ thể sau: Một là, xây
dựng quy hoạch, dự kiến bố trí, sắp xếp nhân sự; hai là, bồi dưỡng người lãnh đạo
tương lai; ba là, thực hiện chế độ giới thiệu và bầu cử theo Điều lệ Đảng.
Thực hiện tốt nội dung quy chế này mới có thể tránh được tình trạng hẫng hụt
người lãnh đạo, khắc phục được những biểu hiện không tin tưởng vào lớp trẻ, và
khắc phục việc lấy giá trị, quan niệm, chuẩn mực cũ trong vấn đề lựa chọn; đồng thời
tránh được xu hướng chủ quan, nóng vội muốn thay đổi ngay tức khắc, dễ rơi vào
thực dụng, cực đoan, phủ định quá khứ, gây tổn thương tinh thần cho người lãnh đạo
trước và thế hệ đi trước. Cơ chế đúng đắn và tối ưu là đảm bảo nguyên tắc công khai,
cạnh tranh, tập trung dân chủ và kế thừa; tạo ra được “cơ sở pháp lý” đúng đắn cho
việc lựa chọn và chuyển giao quyền lãnh đạo, kết hợp tốt nhất những năng lực và
phẩm chất ưu tú của người lãnh đạo trước với người lãnh đạo sau, của các thế hệ
trong Đảng, chuyển giao từng bước một, chú trọng hàng đầu phẩm chất chính trị, đạo
đức; thông qua thử thách thực tiễn và phong trào cách mạng mà lựa chọn, bảo đảm
tính ổn định, kế tục và phát triển trong vấn đề tối quan trọng này.
Chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ là vấn đề chiến lược của Đảng cầm
quyền. Lãnh đạo của Đảng Cộng sản là lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách. Việc
chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng là việc lựa chọn những cá nhân, người
lãnh đạo vào cương vị đứng đầu, chủ chốt, là việc hình thành một Ban Chấp hành
Trung ương mới được bầu ra đúng điều lệ Đảng, để đảm nhiệm lãnh đạo nhiệm vụ
nhiệm kỳ mới. Vấn đề trọng đại này phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng mà
tập trung vào Ban Chấp hành Trung ương; đồng thời phải tuân thủ một cách nghiêm
ngặt điều lệ Đảng, cũng như những nguyên tắc Đảng và những quy định về tiêu chí
người lãnh đạo.
3.3.2 Thực hiện quy trình chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng
cộng sản cầm quyền
Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo
trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền. Không có quy trình, hoặc quy trình được
xây dựng không dựa trên nguyên tắc,điều lệ, trên cơ sở khoa học thì việc chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ của Đảng sẽ không được thực hiện tốt, thậm chí gây nên
những khó khăn, dẫn đến vi phạm những nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng.
Quy trình là những bước đi, những khâu, những trật tự trong việc chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền. Quy trình ở đây trực tiếp và
chủ yếu là quy trình chuyển giao quyền lãnh đạo. Tuy nhiên, quy trình này cũng phải
đặt trong chiến lược cán bộ nói chung, quy trình về công tác cán bộ nói chung; có
nghĩa là từ việc đào tạo, bồi dưỡng, đến việc đề bạt, cất nhắc, bổ nhiệm, sử dụng, đãi
ngộ…đối với cán bộ và đặc biệt là người lãnh đạo. Đại hội IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam chỉ rõ: “Xây dựng, bổ sung quy định về đề bạt, bổ nhiệm quyền hạn, trách
nhiệm người đứng đầu và quan hệ người đứng đầu với tập thể lãnh đạo. Xây dựng,
bổ sung quy định điều kiện cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm nói chung phải trong diện quy hoạch”66.
Đối với cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng thì quy trình này diễn ra chủ yếu ở
phạm vi Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Tuy nhiên, những bước cơ bản,
thứ tự chính của quy trình cũng phải tuân theo những yêu cầu chung.
Một là, chuẩn bị giới thiệu nhân sự.
Hai là, giới thiệu nhân sự.
Ba là, thảo luận bàn bạc quyết định đề cử nhân sự
Bốn là, bầu cử lựa chọn người lãnh đạo
Thực hiện các bước của quy trình trên, cần đặc biệt chú ý đến công tác giáo dục
chính trị tư tưởng, tạo ra sự thống nhất về tư tưởng trong toàn Đảng là cần phải có
người mới thay thế người lãnh đạo cũ đang công tác. Nội dung của công tác chính trị
tư tưởng cần làm rõ những vấn đề chính: sự cần thiết phải bầu Ban chấp hành và
người đứng đầu mới, sự cần thiết phải chuyển giao quyền lãnh đạo cho người lãnh
đạo sau, thế hệ sau; yêu cầu, tiêu chí về phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm công tác,
sức khỏe… của người lãnh đạo mới cần giới thiệu; những yêu cầu cơ bản của nhiệm
vụ cách mạng trong giai đoạn mới đối với người lãnh đạo tương lai… Những nội
dung đó đựơc tuyên truyền sâu rộng, thảo luận dân chủ trong các tổ chức của Đảng,
đặc biệt là trong Ban Chấp hành Trung ương.
Các cấp ủy Đảng có trọng trách và chịu trách nhiệm trước Đảng, trước toàn thể
đảng viên và nhân dân về việc chuẩn bị, giới thiệu nhân sự người lãnh đạo cho việc
bầu cử ở Đại hội. Có đề cử đúng mới có cơ sở thực hiện tốt việc bầu cử. Thật sự tôn
trọng quyền đề cử, ứng cử của mỗi đảng viên, của các ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương, các ủy viên Bộ Chính trị. Sẽ có những ý kiến khác nhau trong vấn đề lựa chọn
và đề cử người lãnh đạo, vì vậy cần có sự thảo luận, bàn bạc, thống nhất ý kiến trong
Đảng, trong Ban Chấp hành Trung uơng trên cơ sở những yêu cầu về tiêu chí và
nguyên tắc Đảng, trước khi đưa nhân sự ra bầu cử. Sự thảo luận, bàn bạc và các
quyết định của cấp ủy, của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị về vấn đề
nhân sự Đại hội, nhân sự là người lãnh đạo phải được thông tin tới đảng viên, tơí các
66 ĐCSVN, Văn kiện Hôị nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa IX,
ủy viên Ban Chấp hành Trung ương một cách trung thực, đầy đủ, khách quan, rõ
ràng, đảm bảo cho mọi vấn đề có liên quan đến nhân sự, đến việc lựa chọn người
lãnh đạo được thực hiện và giải quyết đúng các nguyên tắc của Đảng và theo các
chuẩn mực đạo đức và văn hóa Đảng.
3.4. Xử lý tình huống chính trị xảy ra khi thực hiện chuyển giao quyền
lãnh đạo trong nội bộ đảng Cộng sản cầm quyền
3.4.1. Tình huống chính trị xảy ra khi tiến hành chuyển giao quyền lãnh
đạo trong nội bộ Đảng
Chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền mang tính
chất của việc lựa chọn người nắm quyền lực;quyền lãnh đạo trong Đảng, là sự
chuyển giao quyền lực từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ
khác,do vây vấn đề này chịu sự chi phối mạnh mẽ của những yếu tố quyền lực và lợi
ích. Xét về bản chất, việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản
cầm quyền sẽ diễn ra trong không khí dân chủ, đoàn kết thống nhất cao độ, thắm tình
đồng chí. Thế nhưng, trong thực tế, những yếu tố quyền lực và lợi ích luôn chi phối
mạnh mẽ, tác động đến tất cả đảng viên, nhất là những người có liên quan trực tiếp,
tác động đến tất cả các mối quan hệ trong Đảng và giữa Đảng với các tổ chức chính
trị xã hội khác, với xã hội. Đó là thực tế.
Cần phải thấy rằng, bản thân việc chuyển giao quyền lực cũng có thể được xem
xét như là một tình huống chính trị, nó chứa đựng tiềm tàng khả năng trở thành một
tình huống chính trị, mặc dù về lý thuyết không phải bất cứ sự chuyển giao nào cũng
là một tình huống chính trị. Việc chuyển giao trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm
quyền có thể khắc phục được, không làm nảy sinh tình huống chính trị. Nếu như tất
cả công việc của Đảng, tất cả các nội dung, các bước của vấn đề chuyển giao quyền
lãnh đạo thực hiện đúng nguyên tắc, với một tinh thần xây dựng và tính Đảng cao vì
sự đoàn kết và vững mạnh của Đảng, vì sự thắng lợi của cách mạng, của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN thì sẽ không xảy ra tình huống chính trị có vấn
đề, cần phải giải quyết. Và như thế thì việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ
Đảng Cộng sản là sự chuyển giao diễn ra trong trạng thái tích cực, giữ vững được ổn
Nxb CTQG, H. 2004, tr 151
định chính trị xã hội, Đảng được củng cố, tăng cường sức mạnh, thúc đẩy sự phát
triển của xã hội.
Tình huống chính trị cần tập trung bàn ở đây khi thực hiện chuyển giao quyền
lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền là tình huống chính trị có vấn đề
theo chiều hướng tiêu cực, chiều hướng xấu, ảnh hưởng đến sức mạnh của Đảng và
cách mạng, cần phải xử lý, nảy sinh từ việc vi phạm nguyên tắc Đảng, những yêu cầu
và nguyên tắc của việc lựa chọn và chuyển giao quyền lãnh đạo; và từ điều kiện, môi
trường kinh tế, chính trị, xã hội không thuận lợi.
Trạng thái chuyển giao quyền lãnh đạo theo chiều hướng tiêu cực này, có thể
làm xuất hiện hai tình huống chính trị có vấn đề cụ thể sau:
Một là, khủng hoảng chính trị, đe doạ trực tiếp đến vai trò lãnh đạo của Đảng và
sự tồn tại của chế độ xã hội.
Tình huống này diễn ra trong Đảng, nhưng thường xuất hiện trong điều kiện xã
hội lâm vào tình trạng suy thoái kinh tế, đời sống của các tầng lớp nhân dân gặp nhiều
khó khăn, không rõ được tương lai phát triển; lòng tin của đảng viên và quần chúng bị
khủng hoảng; kỷ cương, pháp luật nhà nước lỏng lẻo, rối loạn; các tệ nạn xã hội phát
triển và hoành hành nghiêm trọng không kiểm soát và chế ngự nổi; một bộ phận cán bộ
đảng viên thoái hoá, biến chất, thậm chí ở cả đảng viên là cán bộ cấp cao có sự chao đảo
về chính trị… Mức độ trầm trọng nhất là khủng hoảng chính trị, vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản và sự sống còn của thể chế chính trị XHCN bị đe doạ nghiêm trọng.
Trong tình hình đó, Đảng thực hiện việc chuyển giao quyền lãnh đạo thì sự
xuất hiện các tình huống chính trị là một khả năng thực tế. Nếu nội bộ Đảng Cộng
sản không giữ đựơc đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động, về quan điểm và tư
tưởng, trong Đảng xuất hiện nhiều luồng tư tưởng khác nhau mà không có sự định
hướng chỉ đạo tốt từ Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, thì đó sẽ là một tình
huống chính trị rất bất lợi đối với Đảng. Điều đó sẽ gây nên trạng thái rất tiêu cực đối
với xã hội, trong điều kiện kinh tế xã hội lâm vào khủng hoảng, thì tình hình sẽ phát
triển khó mà kiểm soát nổi, gây nên hậu quả khôn lường.
Sự xuất hiện tình huống đó sẽ dẫn đến Đảng bị suy yếu về tổ chức, dễ dẫn đến
phân liệt, rối loạn; phát triển tình trạng hoạt động vô tổ chức, vô kỷ luật, vô nguyên
tắc của các tổ chức Đảng. Sự suy yếu và sự mất uy tín của Đảng biểu hiện thành sự
mất khả năng, năng lực và hiệu lực lãnh đạo của Đảng ở mọi cấp; đồng thời mất sức
“đề kháng”, mất khả năng tự bảo vệ trước sự chống phá của các thế lực thù địch cả
bên trong và bên ngoài. Hệ thống chính trị, nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo
cũng trong tình hình tương tự, nguy cơ tan rã đã cận kề. Trong những thời điểm bước
ngoặt của tình hình, như V.I.Lênin đã từng cảnh báo, điều nguy hiểm nhất là Đảng
mất phương hướng chính trị. Sự mất phương hướng chính trị trong Đảng, làm cho
Đảng lúng túng, dễ rơi vào từ bỏ hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và những
nguyên tắc nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong tình hình đó, Đảng dễ trở
thành một tổ chức chính trị “bình đẳng” như các tổ chức chính trị xã hội khác trong
xã hội; các tổ chức chính trị khác “thoát ra” khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hay
nói cách khác Đảng đã “từ bỏ” vai trò lãnh đạo của mình đối với các tổ chức chính trị
xã hội khác. Trong trường hợp như thế, việc chuyển giao quyền lãnh đạo, dù sự
chuyển giao này chỉ là biện pháp tình thế nhằm vãn hồi tình hình, cũng trở nên không
còn ý nghĩa. Sự mất quyền lãnh đạo dần dần và đi đến sụp đổ của Đảng Cộng sản
Liên Xô trong thời kỳ cải tổ gắn với sự tan rã của CNXH Xô viết đã để lại nhiều bài
học đau xót đối với phong trào cộng sản và công nhân trên thế giới; và một trong
những bài học đó là vấn đề chọn người lãnh đạo cao nhất và chuyển giao quyền lãnh
đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền, vi phạm các nguyên tắc và sai lầm
Tình huống chính trị trên thể hiện ở hai dấu hiệu cơ bản:
Thứ nhất, sự xuất hiện khoảng trống về tư tưởng.
Thứ hai, sự xuất hiện khủng hoảng về quyền lực.
Cả hai dấu hiệu này đều phát triển và bộc lộ rõ trong quá trình phát triển của
tình huống chính trị, đều phản ánh thực trạng là, nội bộ Đảng đã khủng hoảng, mất
phương hướng, mất sức chiến đấu, mất chỗ dựa, mất lòng dân.
Thực chất khoảng trống về tư tưởng trong Đảng Cộng sản là sự suy yếu và mất
tác dụng của hệ tư tưởng Mác - Lênin trong Đảng và xã hội; sự dao động về quan
điểm, lập trường, sự từ bỏ những nguyên tắc và mục tiêu của CNXH, trượt sang quỹ
đạo phát triển phi vô sản. Đó là tình trạng Đảng Cộng sản, Nhà nước và xã hội không
còn “điểm tựa” tinh thần; mở đường cho những tư tưởng chống CNXH, tư tưởng
phản động trỗi dậy. Đó là sự tan rã về thế giới quan của Đảng. Sự phát triển mạnh mẽ
của các trào lưu tư tưởng và các đảng phái phi vô sản, chống CNXH ở Liên Xô như
“nấm gặp mưa” trong thời gian cải tổ cho thấy rõ tính chất và sự nguy hại của việc
xuất hiện khoảng trống về tư tưởng trong Đảng và xã hội.
Xuất hiện khoảng trống quyền lực là “kết quả” vận động của quá trình suy giảm
và mất dần hiệu lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý của nhà nước
XHCN trong thực tế. Các hoạt động của Đảng trở nên không tác dụng; chính sách,
pháp luật của nhà nước bị vô hiệu hoá; trong xã hội, tình trạng “mạnh ai nấy lo” phát
triển, làm cho tình hình hết sức rối loạn, không ai đứng ra kiểm soát, và không thể
kiểm soát nổi. Khoảng trống quyền lực, đó là việc Đảng Cộng sản đã đánh mất quyền
lực, “từ bỏ” quyền lực. Đó là hậu quả của những sai lầm nghiêm trọng về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; đó là hậu quả của sự vi phạm nghiêm trọng những vấn đề cơ bản
nhất, cốt tử nhất, bản chất nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin; là hậu quả của những sai
lầm trong vấn đề lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội
bộ Đảng.
Trọng trách của Đảng Cộng sản trước vận mệnh của dân tộc là không để cho
việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng rơi vào tình trạng hai khoảng
trống nêu trên. ý thức được một cách sâu sắc vấn đề và không cho tình trạng đó xảy
ra còn là sự thể hiện bản lĩnh chính trị của Đảng trước những sóng gió và thử thách
của tình hình.
Hai là, nội bộ mất đoàn kết, hình thành các phe nhóm đấu đá lẫn nhau, tuy có
thể vẫn giữ được định hướng phát triển của đất nước, nhưng uy tín và vai trò lãnh đạo
của Đảng bị suy giảm nghiêm trọng.
Tình huống này không thực sự nguy hiểm như tình huống trên, nhưng thường
dễ xuất hiện trong nội bộ các Đảng Cộng sản cầm quyền, mang tính phổ biến hơn khi
thực hiện việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong Đảng, nhất là trong các kỳ Đại hội
của Đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, không những các hoạt động của Đảng chịu sự
chi phối và tác động mạnh mẽ của những yếu tố lợi ích và quyền lực, mà còn bị “ràng
buộc” bởi những quan hệ chồng chéo, đan xen và thâm nhập lẫn nhau giưã các đảng
viên, các tổ chức Đảng trên những vấn đề về quyền lực và lợi ích. Do đó, mỗi đợt bầu
cử, Đại hội, lựa chọn người lãnh đạo, cất nhắc cán bộ, đảng viên vào những cương vị
lãnh đạo thường dễ xuất hiện tình trạng kéo bè, kéo cánh, nói xấu, công kích lẫn
nhau. Điều đó có thể diễn ra trong sinh hoạt Đảng và cũng có thể diễn ra diễn ra
trong dư luận bên ngoài xã hội. Tình hình này có thể khi thì âm ỉ, nhấm ngầm, khi thì
bùng phát tạo nên sự bán tin, bán nghi trong dư luận về vấn đề nhân sự, khó kiểm
soát.
Tình huống nêu trên thường diễn ra trong một số cán bộ, đảng viên có chức có
quyền yếu kém về đức và cả về tài; suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống. Những
đảng viên có chức, có quyền thoái hoá biến chất, vì lợi ích cá nhân, họ tìm mọi cách
để có vị trí, cương vị, có quyền lực nhất định nào đó. Họ bị “loá mắt” trước sức mạnh
của quyền lực và sự cám dỗ của lợi ích, nhất là sự cám dỗ của quyền lực của đồng
tiền mà vi phạm nguyên tắc Đảng và tư cách, phẩm chất đảng viên. Nếu tình hình đó
xảy ra, thì sau khi đã chuyển giao quyền lãnh đạo tình hình lại có sự phát triển mới,
hoặc là nổi lên gây ra sự bất ổn định trong Đảng, hoặc là ngầm ngầm để chuẩn bị
cho những “chiến dịch” về chức quyền mới. Những biểu hiện của tình huống chính
trị nêu trên, bình thường không dễ dàng nhìn thấy, dễ bị xem nhẹ, nhưng chúng luôn
tiềm ẩn những nguy cơ bùng phát khó lường, đòi hỏi cần phải có thái độ và phương
pháp xử lý đúng đắn và phù hợp.
3.4.2. Yêu cầu, nhiệm vụ và biện pháp xử lý
Mỗi tình huống chính trị trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ
Đảng Cộng sản cầm quyền có những yêu cầu, nhiệm vụ và biện pháp xử lý cụ thể
riêng. Biện pháp xử lý tình huống thứ nhất không thể áp dụng máy móc khi giải
quyết tình huống thứ hai, và ngược lại. ở đây xác định yêu cầu, nhiệm vụ và biện
pháp có tính chất chung nhất trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ
Đảng Cộng sản cầm quyền.
a. Yêu cầu, nhiệm vụ:
Yêu cầu, nhiệm vụ xử lý tình huống chính trị khi chuyển giao quyền lãnh đạo
trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền cần thực hiện tốt những yêu cầu chung đã
trình bày ở Chương 1: Giữ vững ổn định chính trị; giữ vững nền tảng tư tưởng của
Đảng; giữ vững và phát truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng; và bảo đảm
nguyên tắc Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Ngoài ra, việc xử lý tình
huống chính trị khi chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm
quyền cần chú ý thực hiện những yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, củng cố tổ chức, ổn định chính trị trong Đảng, thống nhất ý chí và hành
động trong giải quyết tình huống chính trị, tiếp tục đưa cách mạng tiến lên.
Hai là, không để tình huống chính trị tiêu cực lan rộng, phát triển gây hậu quả
xấu đến xã hội, làm rối loạn thêm tình hình; bảo đảm trong thời gian ngắn nhất xã hội
hoạt động lại bình thường.
Ba là, trong mọi trường hợp không được dao động, phải luôn tuân thủ nguyên
tắc Đảng; không tái vi phạm nguyên tắc để diễn ra tình trạng “đổ thêm dầu vào lửa”.
Bốn là, đề cao cảnh giác, đề phòng và kiên quyết làm thất bại mọi sự lợi dụng
để chống Đảng, chống phá cách mạng của các thế lực phản động, thù địch trong nước
và ngoài nước.
Các yêu cầu trên là các yêu cầu phản ánh tính mục đích và phương châm để xử
lý vấn đề, cần phải tuân thủ và thực hiện tốt trong xử lý tình huống chính trị sau khi
đã chuyển giao quyền lãnh đạo trong Đảng. Thực hiện các yêu cầu này đỏi hỏi toàn
Đảng, tất cả mọi đảng viên, đặc biệt những cán bộ chủ chốt, những người lãnh đạo
cao nhất phải bình tĩnh, sáng suốt để không những không phạm thêm những sai lầm,
làm trầm trọng thêm tình hình; mà còn cải thiện được tình hình, thúc đẩy CNXH, tiếp
tục đưa đất nước tiến lên theo con đường XHCN.
b. Biện pháp:
Xử lý các tình huống chính trị khi chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ
Đảng Cộng sản cầm quyền đòi hỏi phải thực hiện nhiều biện pháp về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; cả trong Đảng và ngoài xã hội; phải thực hiện cả các biện pháp về
kinh tế, xã hội, văn hoá…; có những biện pháp cấp bách, trước mắt, trực tiếp và cũng
có những biện pháp có tính cơ bản, dài hơi hơn. Trong vấn đề này, cần chú ý thực
hiện tốt một số biện pháp chính sau:
Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng.
Tuyên truyền sâu rộng trong Đảng và trong xã hội tư tưởng XHCN, chủ nghĩa
Mác - Lênin; đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước.
Trên cơ sở đó lập lại trận điạ tư tưởng vô sản, tạo ra sức “đề kháng” cao cho toàn
Đảng và quần chúng nhân dân trước sự phát triển của các trào lưu và ảnh hưởng của
tư tưởng phi xã hội chủ nghĩa, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Động viên cán bộ
đảng viên và quần chúng nhân dân tích cực đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng,
bảo vệ thành quả của CNXH, thành quả của biết bao thế hệ đảng viên và lớp lớp con
người đã giành được, xây dựng nên bằng mồ hôi và cả xương máu của mình; kiên
quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại cách mạng của bọn
phản động trong nước và quốc tế.
Hai là, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng.
Những tình huống chính trị tiêu cực xảy ra trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh
đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền, chủ yếu do Đảng có những sai lầm
nghiêm trọng, có sự vi phạm những nguyên tắc Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung
dân chủ. Vì vậy, trước hết Đảng phải nhận thức đúng sai lầm và khuyết điểm của
mình và kiên quyết sửa chữa. Đó là một tiêu chí của Đảng cách mạng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng
hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì
đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm
mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”67. V.I.Lênin cũng đã từng dạy những người cộng sản: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta”68.
Sau khi chuyển giao quyền lãnh đạo, cần đặc biệt chú ý củng cố, kiện toàn các
tổ chức Đảng từ Ban Chấp hành Trung ương đến cơ sở vững mạnh, chỉnh đốn Đảng
cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, lấy lại lòng tin tưởng của nhân dân. Đồng thời xử
lý kiên quyết và chính xác những cán bộ đảng viên thoái hoá, biến chất, vi phạm
nghiêm trọng nguyên tắc, điều lệ Đảng và phẩm chất đảng viên.
Ba là, thực hiện các biện pháp nhanh chóng ổn định tình hình, phát triển kinh tế,
đưa cuộc sống xã hội trở lại trạng thái bình thường.
Trong bất luận trường hợp nào trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo, thì
Đảng đều phải chú ý thực hiện tốt biện pháp cơ bản này. Đây là biện pháp rất quan
trọng, không những trực tiếp cải thiện tình hình, mà còn góp phần to lớn lấy lại vai
trò lãnh đạo và uy tín của Đảng đối với xã hội.
67 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 5, tr. 261 68 V.I.Lênin, toàn tập, Nxb TB, M. 1979, tập 42, tr. 311
Đây là thời điểm thử thách bản lĩnh và thái độ chính trị của đảng viên, của toàn
Đảng. Mọi cán bộ đảng viên, nhất là những cán bộ chủ chốt của Đảng cần phát huy
tinh thần trách nhiệm chính trị và tính Đảng cao trước những thử thách của tình hình;
gạt bỏ những bất đồng, đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng cùng một ý chí, cùng
một quyết tâm, thống nhất hành động bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, vượt qua
khó khăn đưa cách mạng tiến lên. Lúc này, vai trò của người đứng đầu Đảng, của cơ
quan lãnh đạo cao nhất, của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương trong việc
quy tụ sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân tộc, định hướng giải quyết tình hình có ý
nghĩa quyết định. Trong điều kiện đó, càng cần phải quán triệt sâu sắc phương châm
dựa vào dân; có dân là có tất cả, mất dân là Đảng sẽ mất chỗ dựa và không tránh khỏi
thất bại.
Bốn là, giữ vững bên trong, làm thất bại âm mưu, hành động của kẻ thù lợi
dụng tình hình trong việc chuyển giao quyền lãnh đạo để chống Đảng, chống chế độ.
Làm tan rã, phân hoá từ bên trong, từ nội bộ Đảng, Nhà nước, đến các đoàn thể
và quần chúng nhân dân; làm cho đất nước, chế độ "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"
theo quỹ đạo TBCN là mục tiêu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề chuyển giao
quyền lãnh đạo để chống phá cách mạng. Tuy nhiên, những âm mưu, thủ đoạn của kẻ
thù tác động từ bên ngoài sẽ không có kết quả nếu nội bộ Đảng, đoàn kết, thống nhất
một ý chí, quyết tâm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, kiên định con đường
XHCN, không hoang mang, dao động.
Vấn đề quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định là phải giữ vững bên trong,
không tạo kẽ hở cho kẻ địch lợi dụng chống phá, trong đó việc giữ vững hoà bình, ổn
định tình hình chính trị - xã hội đất nước, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, vai trò
quản lý, điều hành của Nhà nước, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong
nội bộ nhân dân… là những vấn đề hết sức quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Muốn giữ gìn sự trong sáng chủ nghĩa Mác - Lênin thì trước hết tự mình phải
trong sáng. Muốn đánh thắng kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc, muốn xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội, thì trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân”69.
69 Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H, 1996, tập 11, tr. 373
Trên cơ sở giữ vững bên trong, coi giữ vững bên trong là chính, cần tích cực,
chủ động làm thất bại mọi sự tác động chống phá từ bên ngoài, từ phía kẻ thù, không
để cho kẻ thù có điều kiện tiến hành các hoạt động chống phá trên các lĩnh vực, nhất
là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Phải phản công và tiến công về tư tưởng, đánh bại
các tư tưởng, quan điểm, các luận điệu tuyên truyền chống phá của các thế lực thù
địch; nhanh chóng định hướng nhận thức tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng
nhân dân, chủ động đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm, đường lối
của Đảng. Đặc biệt, cần tổ chức tốt chiến dịch phản công và tiến công về tư tưởng
đập tan thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề việc chuyển giao quyền
lãnh đạo trong Đảng để chống phá cách mạng.
3.5. Thực hiện văn hoá Đảng trong việC chuyển giao quyền lãnh đạo trong
nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền
Văn hoá Đảng là một khái niệm mới xuất hiện trong thời gian gần đây trên các
diễn đàn lý luận nói chung và lý luận về xây dựng Đảng nói riêng. Tuy nhiên, vấn đề
văn hoá Đảng không phải chỉ bây giờ mới có ở trong Đảng; trái lại, đó là một thuộc
tính bản chất của Đảng Cộng sản, Đảng của giai cấp công nhân, một Đảng văn hoá,
đạo đức, văn minh, theo cách diễn đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Văn hoá Đảng vừa
là sản phẩm của Đảng Cộng sản, đồng thời vừa là yêu cầu để Đảng và mọi đảng viên
của Đảng phấn đấu, thực hiện và phát huy trong thực tiễn hoạt động của mình. Văn
hoá Đảng thể hiện tập trung ở hệ tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân; ở mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng vì lý tưởng giải phóng
giai cấp, giải phóng dân tộc và xã hội, mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc thực sự
cho con người, cho nhân dân lao động; thể hiện ở các mối quan hệ trong nội bộ
Đảng, ở các mối quan hệ giữa Đảng, đảng viên với các tổ chức khác, với dân tộc, đất
nước, nhân dân; thể hiện trong hoạt động thực tiễn đấu tranh cách mạng, cũng như
đời sống thường ngày của Đảng và toàn thể đảng viên. Văn hoá Đảng không phải là
vấn đề trừu tượng, chung chung mà nó luôn gắn với Đảng Cộng sản, là một sự biểu
hiện bản chất tiên tiến, tiên phong của Đảng Cộng sản; được thể hiện trong hệ tư
tưởng, trong tất cả các hoạt động và tổ chức của Đảng; trong toàn bộ hoạt động và
mối quan hệ của Đảng, và đặc biệt bao giờ cũng thể hiện ra, và được phát triển trong
hoạt động và các hành vi của tất cả đảng viên của Đảng trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Vì vậy, cán bộ đảng viên không những là người có trong mình văn hoá
Đảng; mà còn là người phải nêu cao tính Đảng của mình để phát huy, phát triển văn hoá
Đảng, làm cho văn hoá ấy không ngừng lan toả và thấm sâu vào đời sống xã hội.
Nội hàm văn hoá Đảng hết sức rộng lớn, thể hiện trên các lĩnh vực hoạt động
của Đảng; văn hoá Đảng là hạt nhân của văn hoá chính trị của Đảng Cộng sản, là văn
hoá của tổ chức Đảng, của bản thân Đảng. Trong mối quan hệ giữa văn hoá Đảng với
văn hoá dân tộc thì văn hoá Đảng là một bộ phận của văn hoá dân tộc. Đảng Cộng
sản lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH, thì lẽ đương nhiên cũng lãnh đạo sự nghiệp
xây dựng nền văn hoá mới, văn hoá xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Vì vậy, văn hoá Đảng phải là văn hoá tiêu biểu của nền văn hoá dân
tộc. Đảng là lực lượng lãnh đạo xây dựng nền văn hoá thì Đảng phải là lực lượng tiêu
biểu và là lực lượng tiên phong của nền văn hoá mà Đảng đang lãnh đạo cả dân tộc
xây dựng nó. Văn hoá dân tộc, đến lượt mình, lại góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện
cho sự phát triển của văn hoá Đảng. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá
Đảng và văn hoá dân tộc trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng CNXH
Thực hiện văn hoá Đảng trong vấn đề chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ
Đảng Cộng sản cầm quyền, cần chú ý những nội dung chính sau:
Một là, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đường
lối, quan điểm của Đảng.
Yêu cầu văn hoá Đảng đòi hỏi trong quá trình chuyển giao quyền lãnh đạo
trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền phải dựa chắc trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đường lối,
quan điểm của Đảng. Trong văn hoá Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin và lý tưởng
XHCN là vấn đề cốt lõi tư tưởng, quy định mọi hoạt động và hành vi của Đảng và
trong Đảng, là yếu tố quyết định đảm bảo cho Đảng là Đảng đạo đức, văn minh, bảo
đảm cho sức sống và giá trị của văn hoá Đảng. Xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin và lý
tưởng XHCN thì việc chuyển giao quyền lãnh đạo sẽ gây nên những hậu quả khôn
lường. Xây dựng Đảng nói chung, chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng nói
riêng , trước hết và trên hết là xây dựng hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin,
cũng chính là xây dựng nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đó
là ván đề hàng đầu thể hiện văn hoá Đảng trong quá trình chuyển giao quyền lãnh đạo
trong Đảng.
Hai là, thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định, điều lệ Đảng trong chuyển
giao quyền lãnh đạo, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ
Những nguyên tắc, quy định, điều lệ Đảng là những quy định không chỉ manh
tính bắt buộc mọi tổ chức và đảng viên phải tuân theo mà còn là những chế ước, thiết
chế của văn hoá Đảng, là cái đảm bảo cho văn hoá Đảng được phát triển và phát huy
sức mạnh trong các tổ chức Đảng và trong các hoạt động của Đảng. Yêu cầu thực
hiện, nội dung của nguyên tắc, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, điều lệ và những
quy định của Đảng đã trình bày ở các phần trên. ở đây cần nhấn mạnh thêm là, hoạt
động chuyển giao quyền lãnh đạo trong Đảng Cộng sản là hoạt động đòi hỏi phải
phát huy rất cao vai trò của văn hoá Đảng. Vi phạm những nguyên tắc, quy định, điều
lệ Đảng tức là vi phạm văn hóa Đảng. Về vấn đề này, Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: "Cán bộ, đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước".
Ba là, nêu cao tính Đảng trong việc thực hiện chuyển giao quyền lãnh đạo
Nêu cao tính Đảng thực chất là phát huy văn hoá Đảng; và phát huy văn hoá
Đảng đòi hỏi phải nêu cao tính Đảng. Yêu cầu nêu cao tính Đảng là yêu cầu đối với
toàn Đảng và toàn thể đảng viên của Đảng, nhất là những đảng viên trực tiếp tham
gia lựa chọn và bầu cử những người lãnh đạo chủ chốt của Đảng, ngươì đứng đầu
Đảng. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, cục bộ địa phương, bè phái…, những
căn bệnh nguy hại đối với Đảng Cộng sản sẽ phải bị đầy lùi và được khắc phục nếu
văn hoá Đảng được phát huy, mọi đảng viên nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu
của mình, nêu cao tính Đảng trong tất cả các hoạt động.
Văn hoá Đảng còn thể hiện ở đạo đức cách mạng và lối sống của cán bộ đảng
viên. Trong điều kiện cầm quyền, nhất là trong điều kiện đất nước đang phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thì tình hình cơ cấu đảng viên có nhiều
phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến việc rèn luyện đạo đức, lối sống, nêu cao tính
Đảng của các đảng viên. Trong điều kiện đó, có những đảng viên có chức quyền, có
những đảng viên chỉ là viên chức, công nhân, nông dân lao động bình thường; có
những đảng viên làm việc trong một tổ chức kinh tế, xã hội nhất định, nhưng cũng có
đảng viên hoạt động trong môi trường tự do, nghề nghiệp không ổn định. Sự khác
nhau đó làm cho lối sống của họ càng trở nên phức tạp, đa dạng. Tuy nhiên, dù trong
Đảng có sự đa dạng về lối sống, nhưng sự đa dạng ấy phải trên cơ sở "mẫu số chung"
duy nhất có tính nguyên tắc cho lối sống của đảng viên, lối sống trên cơ sở văn hoá
Đảng. "Mẫu số chung" đó là chất Đảng, tính Đảng, văn hoá Đảng trong tất cả các
hoạt động sống, trong thái độ, hành vi ứng xử các quan hệ xã hội của từng đảng viên.
Điều đó có nghĩa là, dù ở cương vị nào, thì người đảng viên vẫn phải luôn giữ vững
tính Đảng, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu. Đó là yêu cầu về tính Đảng, về
văn hoá Đảng của đảng viên trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện lối sống của mình.
Giữ vững và phát huy được tính Đảng, thì trong bất cứ hoàn cảnh nào, trước những
khó khăn, thử thách của tình hình, người đảng viên vẫn không bị sa ngã. Tại Đại hội
IX, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: mỗi cấp uỷ, mỗi chi bộ có kế hoạch định
kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng cơ hội thực dụng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu rõ: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng
viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích
của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng”70. Theo đó, phát huy văn hoá Đảng trong việc thực hiện chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng , phải vì lợi ích của Đảng, vì sự thắng lợi của cách
mạng; điều đó hoàn toàn xa lạ và đối lập về nguyên tắc với chủ nghĩa cá nhân dù có
thể hiện dưới hình thức nào, núp dưới bóng ai và bằng cách nào.
Nêu cao văn hoá Đảng trong việc chuyển giao quyền lãnh đạo đòi hỏi mọi đảng
viên không chỉ thực hiện đúng các nguyên tắc, điều lệ Đảng, nêu cao tinh thần tự phê
bình và phê bình; mà còn thể hiện tinh thần thắm tình đồng chí trong đề cử, bầu cử
người lãnh đạo, không để những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, dù là nhỏ nhất dẫn đến
làm sai lạc việc lựa chọn người lãnh đạo. Đó cũng là thực chất của việc phát huy tính
70 Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. tập 9, 1996, tr. 289
Đảng trong vấn đề hệ trọng này của Đảng. Việc lựa chọn, bầu cử người lãnh đạo cấp
cao nhất của Đảng càng đòi hỏi tính Đảng cao của các đại biểu, của các uỷ viên Ban
Chấp hành Trung ương. Một không khí dân chủ, cởi mở, thắm tình đồng chí, tôn
trọng lẫn nhau, một tinh thần đầy xây dựng, trách nhiệm chính trị cao trong các hoạt
động lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo trong Đảng, đó là sự
phản ánh sâu sắc tính Đảng, sự thể hiện một cách sinh động văn hoá Đảng trong hoạt
động đặc biệt hệ trọng này của Đảng Cộng sản.
Kết luận chương 3
Đổi mới nhận thức và quan điểm về chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ
Đảng Cộng sản cầm quyền; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; xây dựng quy
trình lựa chọn người lãnh đạo và chuyển giao quyền lãnh đạo; xử lý tốt tình huống
chính trị xảy ra; thực hiện văn hoá Đảng; là những giải pháp cơ bản cần thực hiện tốt
trong việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền.
Những giải pháp trên quan hệ biện chứng với nhau đòi hỏi các Đảng Cộng sản
đều phải chú ý thực hiện tốt, không được coi nhẹ một giải pháp nào. Thực hiện tốt
các giải pháp đó thì việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng sẽ đạt được
yêu cầu và hiệu quả cao nhất, thúc đẩy sự phát triển của cách mạng và làm cho Đảng
không ngừng trưởng thành và vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Kết luận
Đảng Cộng sản muốn hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng của mình thì
phải không ngừng được xây dựng, củng cố về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong
điều kiện đã có chính quyền nhà nước, dễ xuất hiện và phát triển những nguy cơ làm
suy yếu sức chiến đấu, thậm chí làm đổ vỡ Đảng, thì Đảng càng cần phải chăm lo xây
dựng bản thân mình, và đặc biệt càng cần thực hiện tốt vấn đề chuyển giao quyền
lãnh đạo trong nội bộ Đảng.
Chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền là vấn đề
tất yếu khách quan. Để đảm bảo việc chuyển giao quyền lãnh đạo được thực hiện tốt,
góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển của cách mạng, thì phải thực hiện đúng đắn
nguyên tắc tập trung dân chủ, đó là nguyên tắc nền tảng trong vấn đề chuyển giao
quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền.
Chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền phải được
thực hiện với một cơ chế rõ ràng, minh bạch và với một quy trình chặt chẽ. Giữ vững
ổn định xã hội và sự phát triển của chủ nghĩa xã hội; giữ vững nền tảng tư tưởng của
Đảng; giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết trong Đảng; và giữ vững nguyên
tắc Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ là những yêu cầu cơ bản có tính
nguyên tắc trong việc thực hiện chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng Cộng
sản cầm quyền.
Thưc tiễn việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ các Đảng Cộng sản
Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam để lại nhiều vấn đề có tính chất kinh nghiệm quý
giá: Phải tăng cường xây dựng Đảng thật sự vững mạnh, làm tốt việc đào tạo, bồi
dưỡng, lựa chọn cán bộ để chuyển giao quyền lãnh đạo; thực hiện đúng những
nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lêin, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm
tính kế thừa và phát triển của Đảng; không duy trì quá lâu một người lãnh đạo, nhất
là người ở cương vị đứng đầu Đảng, lấy lợi ích của cách mạng để thực hiện chuyển
giao quyền lãnh đạo.
Các giải pháp: đổi mới nhận thức và quan điểm về chuyển giao quyền lãnh đạo
trong nội bộ Đảng Cộng sản cầm quyền; quán triệt các yêu cầu mang tính nguyên tắc;
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; xây dựng cơ chế và quy trình để chuyển giao
quyền lãnh đạo; xử lý tốt tình huống chính trị xảy ra; thực hiện văn hoá Đảng; là các
những giải pháp cơ bản quan hệ biện chứng với nhau đòi hỏi đều phải chú ý thực
hiện tốt, không được coi nhẹ một giải pháp nào. Thực hiện tốt các giải pháp đó thì
việc chuyển giao quyền lãnh đạo trong nội bộ Đảng sẽ đạt được yêu cầu và hiệu quả,
sẽ làm cho Đảng không ngừng trưởng thành và vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, thúc đẩy sự phát triển của cách mạng.