Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa
lượt xem 2
download
Trong bài viết "Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa", toàn cầu hoá đặt ra nhiều thách thức, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam. Điều đáng quan tâm, dưới tác động của toàn cầu hóa đã xuất hiện một số quan điểm cho rằng, Việt Nam cần thay đổi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã lựa chọn, bởi lẽ nền kinh tế thị trường không phải là sản phẩm của chủ nghĩa xã hội, và do đó không thể “chung sống” với chủ nghĩa xã hội. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRƯỚC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA TOÀN CẦU HOÁ Nguyễn Thị Hương Trường Đại học Nguyễn Huệ Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Hương, email: huongtrang0502@gmail.com Tóm tắt: Toàn cầu hoá tạo ra những thời cơ thuận lợi cho sự phát triển của các nước đang phát triển. Một trong những thuận lợi đó là các nước đang phát triển nếu chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế so sánh của mình trong quan hệ quốc tế. Đối với nước ta, đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, ngoài các yếu tố về trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng trong nước, còn chịu sự tác động ngày càng tăng lên của những xu thế biến đổi trên thế giới, trong đó có xu thế toàn cầu hoá. Từ khóa: Toàn cầu hoá; cơ hội và thách thức; chủ nghĩa xã hội; Việt Nam. 1. MỞ ĐẦU Toàn cầu hoá là một quá trình có sự gia tăng các mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc, trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan của lịch sử đã và đang tác động tới tất cả các quốc gia dân tộc khi tham gia vào xu thế toàn cầu hoá. Đối với nước ta, trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, ngoài các yếu tố về trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng trong nước, còn chịu sự tác động ngày càng tăng của xu thế biến đổi trên thế giới, trong đó có xu thế toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá tạo ra động lực thúc đẩy Việt Nam hội nhập mạnh mẽ với thế giới trên mọi lĩnh vực của đời sống. Đường lối đúng đắn của Đảng là yếu tố quyết định đối với thành tựu phát triển kinh tế đất nước trong hơn 35 năm đổi mới vừa qua. Khi xây dựng đường lối, để đường lối được đề ra đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam bao giờ cũng bắt đầu bằng việc phân tích bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, tình hình đất nước, trong đó rất quan trọng là phân tích, đánh giá, xác định đúng cơ hội và thách thức đối với phát triển kinh tế đất 204
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” nước trong những năm tới. Đánh giá, xác định đúng cơ hội và thách thức là căn cứ, cơ sở khoa học để đề ra được đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đúng đắn. Bên cạnh đó, toàn cầu hoá đặt ra nhiều thách thức, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam. Điều đáng quan tâm, dưới tác động của toàn cầu hoá đã xuất hiện một số quan điểm cho rằng, Việt Nam cần thay đổi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã lựa chọn, bởi lẽ nền kinh tế thị trường không phải là sản phẩm của chủ nghĩa xã hội, và do đó không thể “chung sống” với chủ nghĩa xã hội. Trước thực tế đó, cần phải nhận thức đầy đủ về tác động của toàn cầu hóa đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại việc lợi dụng toàn cầu hóa để thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù dịch, phản động nhằm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Với những lý do trên tác giả gửi đến hội thảo bài tham luận: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước cơ hội và thách thức của toàn cầu hoá”. 2. NỘI DUNG Toàn cầu hóa là sự phổ biến của các sản phẩm, công nghệ, thông tin và việc làm xuyên biên giới và văn hóa quốc gia. Nói tóm lại toàn cầu hóa là việc chính phủ các nước sẽ ngày càng cho phép công dân của họ có thể làm việc xuyên biên giới. Có thể nhận ra rằng, toàn cầu hóa được đánh giá như một quá trình làm tăng lên một cách mạnh mẽ về các mối quan hệ cũng như sự ảnh hưởng, phụ thuộc và tác động qua lại giữa các khu vực, quốc gia và toàn dân tộc trên thế giới. Điều này sẽ nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc phát triển các lĩnh vực đặc biệt là nền kinh tế. Toàn cầu hoá tác động đến nước ta và đặt ra nhiều cơ hội và thách thức khác nhau. Vậy những cơ hội và thách thức đó là gì? 2.1. Cơ hội của toàn cầu hoá đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Thứ nhất, về chính trị Toàn cầu hoá đã tác động đến con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính vì vậy, trước tác động của toàn cầu hoá Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rõ, nếu không tự đổi mới, tự chỉnh đốn, chúng ta sẽ tụt hậu về kinh tế, xã hội. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ động đổi mới, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Dù đứng trước sức ép của các thế lực thù địch, phản động đòi thay 205
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG đổi chế độ, Đảng ta vẫn giữ vững lập trường tư tưởng, bảo vệ ý thức hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và kiên định con đường chủ nghĩa xã hội đã lựa chọn. Không chỉ vậy, Đảng còn từng bước làm rõ hơn tiêu chuẩn về cán bộ trong thời kỳ mới, làm sáng tỏ hơn lý luận về vai trò lãnh đạo của mình trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ hóa xã hội, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Kiên định với quan điểm “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 66), Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”; phải “phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 111). Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, Nhà nước với tư cách là cơ quan quyền lực chính trị tối cao của một quốc gia, tác động vào thị trường như một chủ thể quản lý, mặt khác là một chủ thể hoạt động kinh tế. Thông qua hệ thống công nghệ thông tin để nhà nước quản lý hoạt động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, dân chủ đã được phát huy rộng rãi với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 173), nâng cao dân trí, áp dụng các phương tiện điện tử trong quản lý. Đồng thời, toàn cầu hóa cũng đặt ra yêu cầu, muốn hội nhập và đủ năng lực cạnh tranh trên thế giới, Nhà nước Việt Nam phải đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động của mình. Trong những năm qua, Nhà nước đã tổ chức bộ máy theo hướng “tinh, gọn’’ hơn theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba quyền này tồn tại trong một thực thể thống nhất. Phải thấy được tính thống nhất và tập trung quyền lực Nhà nước được quy định bởi nguyên tắc "tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân", nhân dân là chủ thể duy nhất và tối cao 206
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” của quyền lực Nhà nước, nhân dân là cội nguồn của quyền lực Nhà nước, không thể có một cơ quan Nhà nước nào được phép độc quyền trong quan hệ quyền lực. Nhờ đó, nhiều công việc đã được xử lý nhanh chóng, bỏ được nhiều thủ tục phiền hà, rắc rối cho nhân dân; việc bố trí cán bộ đúng năng lực, đúng yêu cầu của công việc hơn. Hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin trong toàn cầu hóa, thông tin ngày càng đa dạng, có định hướng, đến được nhiều vùng, miền, nhiều tầng lớp nhân dân là yếu tố quan trọng giúp Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cũng thực hiện tốt hơn vai trò giám sát, phản biện xã hội nhằm xây dựng chính phủ minh bạch, công bằng và dân chủ được mở rộng. Thứ hai, về kinh tế Trước bối cảnh quốc tế và trong nước, đặc biệt là do tính chất của thời đại, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, để sự nghiệp cách mạng của Việt Nam thắng lợi phải phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc và kết hợp với sức mạnh của thời đại. Việt Nam là một nước kinh tế phát triển còn thấp, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, nhưng Việt Nam có thể phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có thể phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do tính chất của thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đúng như nguyên lý mà C.Mác đã nêu ra “loài người chỉ đặt ra những vấn đề mà điều kiện, những yếu tố để giải quyết vấn đề đó đã xuất hiện” (C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, 1995, 55). Thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới đã tạo ra cơ hội để một đất nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa có thể phát triển theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thời đại ngày nay là thời đại cách mạng khoa học - công nghệ, trực tiếp hiện nay là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra những bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất xã hội; trong đó, khoa học - công nghệ, tri thức trở thành nguồn lực và động lực quan trọng nhất đối với sự phát triển. Vai trò của các yếu tố sản xuất khác, như vốn, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, trước đây từng là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của các quốc gia giảm xuống. Với sự phát triển của hệ thống internet và các mạng thông tin kết nối toàn cầu, tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và truyền bá tri thức. Những điều 207
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG này tạo ra cho Việt Nam, một nước luôn quan tâm tới phát triển giáo dục, có nền giáo dục phát triển; có hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, tỷ lệ người sử dụng internet cao so với nhiều nước có thu nhập bình quân đầu người như Việt Nam, cơ hội để có thể đi ngay vào hiện đại, phát triển theo hình thức rút gọn, đi tắt đón đầu, phát triển kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách về phát triển kinh tế với các nước tiên tiến trên thế giới. Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, cải thiện đời sống nhân dân. Trong bối cảnh hiện nay, toàn cầu hóa đã thúc đẩy việc tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ giữa các quốc gia. Từ yêu cầu phải đổi mới thể chế hoạt động khoa học công nghệ thích hợp, xây dựng, bồi dưỡng và thu hút các nhà khoa học trong và ngoài nước, đồng thời phải mở rộng hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học và công nghệ, Việt Nam đã chủ động nhập khẩu, ứng dụng các công nghệ tiên tiến từ nước ngoài; coi trọng thị trường công nghệ; đẩy nhanh việc trao đổi ứng dụng khoa học công nghệ và các chuyên gia; rút ngắn đáng kể thời gian và tiết kiệm được nhiều chi phí đầu tư cho nghiên cứu khoa học công nghệ; hoàn thiện các quy chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; thúc đẩy hợp tác lâu dài; tạo được ấn tượng tốt trên trường quốc tế và đóng góp lớn vào công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa đã tạo nên xu hướng chuyển từ việc đề xuất các ý tưởng khoa học, đề xuất các lý thuyết sang nghiên cứu gắn với triển khai khoa học công nghệ, nghiên cứu những kiến thức để có thể áp dụng ngay vào sản xuất làm tăng giá trị, lợi nhuận và hiệu quả kinh tế. Nhận thức và nắm bắt được xu hướng này, thời gian qua, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã chủ trương tăng cường vai trò của các viện nghiên cứu trong các doanh nghiệp lớn, các trường đại học, các phòng thí nghiệm, các tổ chức tư vấn khoa học và chuyển giao công nghệ; chú trọng đầu tư nghiên cứu, triển khai các lĩnh vực công nghệ cao, đồng thời, có những giải pháp phù hợp đẩy mạnh lĩnh vực nghiên cứu - triển khai khoa học công nghệ trong sản xuất, tạo ra những bước đột phá trên lĩnh vực này. Cơ hội thâm nhập thị trường toàn cầu và khu vực, toàn cầu hóa đã tạo ra cơ hội lớn để kinh tế Việt Nam mở rộng thị trường ra thế giới và khu vực. Trong trào lưu toàn cầu hóa, kinh tế nước ta đã và đang khai thác một thị trường quốc tế rộng lớn, đa dạng, không ngừng phát triển về chiều rộng và chiều sâu, nhờ đó đã thuận 208
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” lợi hơn trong việc đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế, sẽ khai thác tốt hơn lợi thế so sánh trong cuộc cạnh tranh kinh tế ngày càng quyết liệt. Cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đòi hỏi một lượng vốn rất lớn mà chỉ huy động trong nước sẽ không đáp ứng được đầy đủ. Toàn cầu hóa đã giúp chúng ta huy động vốn nước ngoài qua các hình thức đầu tư trực tiếp (FDI), vốn vay để phát triển (ODA) và vốn vay thương mại để phát triển đất nước. Về vấn đề việc làm, Việt Nam cũng như một số quốc gia đang phát triển khác dưới tác động của toàn cầu hóa, đã và đang có xu hướng mở rộng số việc làm trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp các loại việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp, xuất hiện nhiều việc làm mới trong một số ngành nghề như bưu điện, giao thông vận tải, bán hàng… Riêng việc bán hàng, nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin trong toàn cầu hóa, các kênh bán hàng trở lên đa dạng, các mặt hàng phong phú, các đối tượng khách hàng mở rộng khắp trong và ngoài nước, phương thức thanh toán đơn giản, nhanh chóng, đem lại một nguồn lợi đáng kể, cải thiện đời sống của người lao động cũng như nền kinh tế của quốc gia. Toàn cầu hóa cũng đưa đến hình thức xuất khẩu lao động và di cư lao động vì việc làm. Từ Việt Nam, nhiều lao động có tay nghề cao và lao động giản đơn được xuất khẩu hoặc di cư sang các quốc gia phát triển để làm việc, góp phần tăng thêm thu nhập quốc dân, tạo tiềm lực cho sự phát triển kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Thứ ba, về văn hoá, lối sống Về văn hóa, toàn cầu hóa đã góp phần hình thành xã hội thông tin và hệ thống thông tin toàn cầu, chính hệ thống này là phương tiện chuyển tải nhanh chóng các giá trị văn hóa Việt Nam đến thế giới và ngược lại. Toàn cầu hóa đã góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của người dân Việt Nam khi mà các trò chơi thể thao, giải trí trong và ngoài nước được xã hội hóa; các hoạt động văn hóa nghệ thuật giá rẻ, tiện dụng ngày càng được phổ biến trong đời sống dân cư; các hệ chính trị, tư tưởng, tôn giáo - những thành tố cốt lõi của văn hóa - có xu thế mở rộng không gian tồn tại và phạm vi ảnh hưởng; nhân dân từ chỗ không có điều kiện và khả năng tiếp nhận, hưởng thụ, tham gia sáng tạo các giá trị văn hóa chuyển sang việc có quyền bình đẳng về các phương diện này; mỗi người không chỉ mở rộng sự hiểu biết mà 209
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG còn tự thức tỉnh về sự khiếm khuyết, thiếu hụt văn hóa của mình trước đòi hỏi của văn minh và sự phát triển bền vững. Lối sống, toàn cầu hóa với sự phát triển của phương thức sản xuất hiện đại, tiến bộ khoa học công nghệ mạnh mẽ đã tác động tích cực đến lối sống của người Việt Nam - một lối sống mang nặng tâm lý cộng đồng, tâm lý của nền sản xuất nhỏ. Dưới tác động ngày càng mạnh mẽ của toàn cầu hóa, người Việt Nam đã được nâng tầm hiểu biết cũng như cách thức thực hiện trong lĩnh vực hoạt động của mình, khắc phục hạn chế trong tầm nhìn, tư duy và thao tác cũ do nền sản xuất nhỏ tạo nên, giúp con người trở lên năng động, sáng tạo hơn để thích ứng với nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Toàn cầu hóa với sự tăng lên nhanh chóng của các phương tiện giao tiếp gián tiếp, có yếu tố khoa công nghệ như các mạng xã hội, các dụng cụ chuyển ngữ… đã tạo điều kiện giúp người Việt Nam hướng ra thế giới nhiều hơn, mở rộng tầm hiểu biết và cũng giúp người nước ngoài có nhiều hơn cơ hội để tìm hiểu và nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có đánh giá khách quan về triển vọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhận thức được điều này, một mặt, Nhà nước ta đã có những cơ chế quản lý kịp thời, đúng đắn đối với các hệ giá trị văn hóa, các hệ giá trị đạo đức, lối sống, mặt khác, tôn vinh những giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống lành mạnh qua các phương tiện truyền thông, nhằm lan tỏa lối sống mới trong đông đảo nhân dân, tạo nên môi trường sống ổn định và lành mạnh, đảm bảo vững chắc nền tảng của chủ nghĩa xã hội. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định mục tiêu phát triển của Việt Nam là: “Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 36). Kinh tế quyết định văn hóa, văn hóa vừa có tính độc lập, vừa có tính vượt trước so với kinh tế và có tính kế thừa, vì vậy, có thể thấy, trong xây dựng mô hình văn hóa Việt Nam, để tương thích với sự phát triển tổng thể của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa văn hóa, chúng ta cần tiếp thu những giá trị mới của văn hóa toàn cầu, đồng thời, phát huy những nhân tố tích cực của văn hóa truyền thống, khắc phục những mâu thuẫn trong nền văn hóa hiện nay. 210
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 2.2. Thách thức của toàn cầu hoá đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Thứ nhất, về chính trị Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa gây nguy cơ chệch hướng chủ nghĩa xã hội. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn trong cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay. Vấn đề này có một số biểu hiện như: sự giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự gia tăng của tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể; gia tăng sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, sự băng hoại các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc... Toàn cầu hóa hiện nay đang bị các nước tư bản phát triển (đứng đầu là Mỹ) sử dụng như một phương tiện để áp đặt mô hình phát triển của các quốc gia này lên các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. Lợi dụng các phương tiện hiện đại, các thế lực tư bản chi phối toàn cầu hóa đã tuyên truyền sự lỗi thời, lạc hậu của hệ tư tưởng vô sản và minh chứng là sự sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu; đồng thời tuyên truyền hệ tư tưởng tư sản với những giá trị cốt lõi: tôn sùng chủ nghĩa cá nhân, tự do hóa triệt để, nhân quyền cao hơn chủ quyền… Những hệ tư tưởng này trái ngược, thậm chí gây nên xung đột với hệ tư tưởng vô sản, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, từ chỗ khác biệt về chính trị, trong bối cảnh toàn cầu hóa, các nước đế quốc cũng có những ứng xử khác Việt Nam xoay quanh vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, từ đó áp đặt lên Việt Nam cách ứng xử của họ, gây nên những khó khăn không nhỏ trong ổn định chính trị ở nước ta. Nguy hiểm hơn, lợi dụng xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, các nước tư bản còn liên kết với nhau, đả kích chế độ ta, gây sức ép lên chế độ ta, buộc Nhà nước ta điều chỉnh chính sách, từ đó điều chỉnh chiến lược, đường lối chính trị có lợi cho họ, trước hết thông qua các điều khoản kinh tế. Với biện pháp này, các nước tư bản còn can thiệp vào công việc nội bộ và chủ quyền quốc gia của dân tộc ta; làm cho định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa và tính độc lập của Việt Nam ngày càng gặp nhiều nguy cơ, đứng trước nhiều thách thức. 211
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Trên thực tế, toàn cầu hóa làm bộ phận người giàu lên nhanh chóng, điều này tác đã tác động mạnh mẽ đến đội ngũ đảng viên; các thế lực thù địch đã tìm mọi cách để mua chuộc, lôi kéo đội ngũ này khiến cho một bộ phận đảng viên suy thoái, lệch lạc nghiêm trọng về chính trị. Bộ phận này đã dao động về mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, họ đã công khai bày tỏ ý kiến trái với Cương lĩnh của Đảng khi công kích các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Những hành động vi phạm nguyên tắc Đảng nghiêm trọng đó đang gây nên những rối loạn chính trị trong xã hội. Thứ hai, về kinh tế Trong những năm tới, sự phát triển kinh tế của Việt Nam không chỉ có cơ hội, mà còn có không ít thách thức, thậm chí cả những nguy cơ. Điều đáng chú ý là nhiều thách thức trong đó lại xuất phát từ những mặt khác của chính những yếu tố tạo ra cơ hội cho phát triển kinh tế đất nước. Toàn cầu hóa với sự giao lưu, hợp tác, gắn kết, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế đã dẫn tới hình thành các thể chế kinh tế quốc tế (IMF, WB, WTO…), các tập đoàn tài chính xuyên quốc gia, các tổ chức phi chính phủ... Các tổ chức này đã và đang trở thành một trong những lực lượng cạnh tranh chủ yếu với nhà nước dân tộc trong việc giải quyết phúc lợi xã hội và nhiều lĩnh vực khác mà thị trường không với tới được. Và như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước không còn là những chủ thể duy nhất. Bởi lẽ, một số chức năng quản lý, điều tiết kinh tế trước kia chỉ thuộc về Đảng, Nhà nước nay chuyển sang cho thị trường, cho các tổ chức xã hội, các thiết chế cộng đồng. Mặt khác, dưới tác động của toàn cầu hóa, sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước cũng phải trong điều kiện có sự ràng buộc nhất định về một số quy tắc, chuẩn mực và trách nhiệm với các định chế quyền lực quốc tế; trong khi những định chế này lại đang bị các thế lực tư bản lũng đoạn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng không phải chỉ tạo ra cơ hội cho kinh tế Việt Nam phát triển, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, mà cũng tạo cho Việt Nam nhiều thách thức lớn phải vượt qua và chỉ khi vượt qua những thách thức này mới nắm bắt được cơ hội, chuyển cơ hội thành hiện thực. Thách thức rất lớn đối với Việt Nam là vấn đề tốc độ phát triển rất nhanh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, của những thay đổi, phát triển công nghệ diễn 212
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” ra nhanh chóng trên thế giới. Theo kịp tốc độ phát triển này đối với Việt Nam là một thách thức lớn. Hơn nữa, trong khi ở Việt Nam, hệ thống thể chế cho các hoạt động, các lĩnh vực, các mô hình kinh doanh mới, việc bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, xử lý tranh chấp,… việc quản lý các hoạt động kinh tế, sinh hoạt xã hội trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn chưa hình thành; việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng… đáp ứng đòi hỏi phát triển kinh tế đất nước trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng không phải là nhiệm vụ đơn giản, dễ dàng. Thách thức khác đối với Việt Nam là trình độ khoa học - công nghệ rất cao, rất mới, diễn ra trên diện rất rộng, hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế, phạm vi tác động rất lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để nắm bắt được cơ hội, đòi hỏi phải đáp ứng được đồng thời tất cả các yêu cầu đặt ra, đòi hỏi đất nước cũng phải có trình độ phát triển cao về khoa học - công nghệ, có nguồn nhân lực chất lượng cao, từ cán bộ nghiên cứu khoa học, sáng tạo công nghệ, thiết kế sản phẩm đến những người trực tiếp sản xuất; đòi hỏi cả những thay đổi tâm lý, nếp sống của các tầng lớp xã hội, thay đổi tổ chức, quản lý của hệ thống chính quyền các cấp, các ngành; đây không phải là vấn đề dễ dàng, mà thật sự là những thách thức. Không vượt qua được những thách thức nhỏ, cụ thể này thì thách thức lớn nhất với Việt Nam sẽ là tụt hậu xa hơn so với các nước khác. Như vậy, có thể nói, với Việt Nam, tham gia vào xu hướng toàn cầu hóa với mục tiêu giữ vững con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước ta đã gặp sức ép lớn về kinh tế để vừa đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong cơ chế, chính sách, vừa phù hợp, đáp ứng được các yêu cầu của hội nhập quốc tế và mở rộng dân chủ. Thứ ba, về văn hoá, lối sống Toàn cầu hóa văn hóa không phải là sự khuất phục của nền văn hóa này trước sức mạnh của nền văn hóa khác hay sự suy vong và biến mất của những thực thể văn hóa nhỏ. Trong thực tiễn, văn hóa thế giới đã từng diễn ra tình trạng bất bình đẳng văn hóa ở những mức độ khác nhau và cũng đã có những thời điểm, toàn cầu hóa mang xu hướng phương Tây hóa, Mỹ hóa. Tuy nhiên, không vì thế mà các quốc gia chậm phát triển hoặc các cộng đồng yếu thế chỉ tìm mọi cách để đóng cửa văn hóa. Vấn đề đặt ra là phải coi toàn cầu hóa như một cơ hội phát triển 213
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG trên cơ sở đối thoại, học tập lẫn nhau, từng bước giải quyết các xung đột văn hóa để vừa làm giàu cho văn hóa bản địa, vừa đóng góp cho văn hóa nhân loại. Vì thế, tiến trình toàn cầu hóa văn hóa cần đến sự chủ động của các nền văn hóa trong giao lưu và phát triển. Đối với nước ta, trong lĩnh vực văn hóa, toàn cầu hóa đi liền với hội nhập, mở cửa, kết nối internet đã không chỉ làm phong phú nguồn thông tin, góp phần nâng cao dân trí mà còn tạo điều kiện cho việc tuyên truyền hệ tư tưởng phản động, lối sống đồi trụy, áp đặt những quan điểm sống, những thành tố văn hóa khác biệt. Từ đó, toàn cầu hóa đã đưa đến tính trạng nền văn hóa dân tộc đứng trước nguy cơ bị "gặm nhấm", bị “đồng hóa”. Ở không ít nơi, cả thành thị lẫn nông thôn, một bộ phận dân cư đã chịu ảnh hưởng của lối sống ích kỷ, hẹp hòi, lấy lối sống theo kiểu “đèn nhà ai nấy rạng” thay cho lối sống rất “con người” trước đây. Không phải ngẫu nhiên mà có ý kiến cho rằng, đạo đức ở một bộ phận nhân dân, đặc biệt là ở tầng lớp thanh, thiếu niên đang có xu hướng "trượt dốc". Đây thực sự là những tín hiệu “báo động đỏ” trong đời sống đạo đức ở nước ta hiện nay. Trong một vài thập kỷ gần đây, những lối sống xa lạ, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc đã xuất hiện trong đời sống xã hội, từ thành phố cho đến những vùng nông thôn. Một bộ phận lớp trẻ hiện nay có tâm lý sống buông thả, quay lưng lại với văn hóa, giá trị đạo đức truyền thống. Họ không thích hoặc thờ ơ với các bản nhạc, bài ca cách mạng, không quan tâm đến các hình thức nghệ thuật, các dòng dân ca truyền thống; trái lại, tán dương và cổ vũ cho những bài hát có nhịp điệu mạnh, như Rock, Ráp hoặc những bài hát có nội dung nhạt nhẽo. Cùng với sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng, trên các mạng thông tin toàn cầu liên tục tuyên truyền các hình ảnh, tin tức, ấn phẩm độc hại, không phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Điều này đã làm gia tăng tình trạng phạm tội ở một bộ phận giới trẻ hiện nay. Bên cạnh đó, nhờ các thành tựu của khoa học công nghệ, phương tiện thông tin trong toàn cầu hóa, các giá trị văn hóa của châu Âu và Mỹ có xu hướng áp đảo, lấn át đối văn hóa của các nước đang phát triển như Việt nam. Vì vậy, bản sắc văn hóa dân tộc cũng dễ bị phai nhạt, nhường chỗ cho các giá trị văn hóa phương Tây, Âu Mỹ. 214
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Toàn cầu hóa còn đặt ra thách thức đối với vấn đề lối sống ở Việt Nam. Với tốc độ gia tăng của xu thế toàn cầu hóa, người Việt Nam quan tâm nhiều hơn đến lối sống công nghiệp, ít quan tâm hoặc vô tình làm mất đi tính mềm dẻo, uyển chuyển của lối sống thanh bình, chậm rãi, trọng tình, trọng nghĩa trong truyền thống. Dường như trong xã hội hiện nay, dưới yêu cầu đòi hỏi của sự tập trung phát triển kinh tế, của lối sống lấy kinh tế, kỹ thuật, phương tiện làm thước đo cho sự phát triển và tiến bộ, lối sống truyền thống của người Việt Nam bị xơ cứng, bị máy móc hóa. Mặt khác, cũng dưới tác động của toàn cầu hóa, nhiều người bị mất việc làm, phá sản, nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp gia tăng làm con người mệt mỏi, căng thẳng, đời sống tinh thần bị méo mó. Những thách thức về lối sống này là trở ngại không nhỏ đối với việc xây dựng nếp sống văn hóa mới, hình thành lối sống mới xã hội chủ nghĩa, hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trên đây là những cơ hội và thách thức lớn đối với phát triển của Việt Nam trên các lĩnh vực của đời sống xã hội trong những năm tới. Xác định cơ hội và thách thức là cơ sở để Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam quyết tâm nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Việt Nam thành một nước phát triển, có thu nhập cao, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trước những thách thức và cơ hội, Việt Nam cần có các tiếp cận phù hợp: Thứ nhất, Việt Nam cần nhận thức rõ các khó khăn mà toàn cầu hóa đặt ra đối với mô hình tăng trưởng dựa trên xuất khẩu. Khi việc tiếp cận các thị trường toàn cầu là cần thiết, Việt Nam cần có các giải pháp cụ thể đối với vấn đề thuế quan, rào cản thể chế, sự thắt chặt về các chính sách tài chính, tiền tệ trên phạm vi toàn cầu để có thể tiếp tục mô hình xuất khẩu hiệu quả. Thứ hai, khi các khuôn khổ đa phương đang gặp vấn đề với các tiếp cận chặt chẽ hơn của các nước lớn, Việt Nam cần quan tâm nhiều hơn đến các khuôn khổ khu vực và song phương. Việt Nam phải nắm rõ các nhu cầu của mình cũng như đối tác để có các tiếp cận cụ thể và thực tế. Thứ ba, Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hóa tập trung vào dịch vụ và dựa trên các nền tảng số, đổi mới sáng tạo và công nghệ. Việt Nam cần có các tiếp cận quyết liệt để xây dựng các nền tảng số và công nghệ, đồng thời chủ 215
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG động trong việc xây dựng khu vực dịch vụ theo hướng phục vụ toàn cầu hóa. Việt Nam cần tận dụng sự thu hẹp của toàn cầu hóa nói chung và các công ty đa quốc gia nói riêng, phát triển mạnh mẽ hệ thống doanh nghiệp Việt Nam để trước hết phục vụ thị trường trong nước, và lớn mạnh để kịp tham gia chu kỳ mới của toàn cầu hóa. 3. KẾT LUẬN Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu khách quan, đang lôi cuốn tất cả các quốc gia trên thế giới tham gia và tác động sâu rộng tới các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến sự vận động, phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa là một quá trình có tác động hai chiều, cả tích cực lẫn tiêu cực, đem lại cả thời cơ, vận hội phát triển lẫn thách thức, nguy cơ hiểm họa khó lường đối với các quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa liên quan chặt chẽ và tác động qua lại biện chứng đối với quá trình hội nhập quốc tế của các nước nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Về thực chất, hội nhập quốc tế là tiến trình một quốc gia theo đuổi lợi ích, mục tiêu của mình thông qua việc tự giác, chủ động hợp tác, liên kết sâu rộng với các quốc gia khác trên nhiều lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh…) dựa trên sự chia sẻ về nhận thức, lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và chủ động chấp nhận, tuân thủ, tham gia xây dựng các “luật chơi” chung, chuẩn mực chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Đối với nước ta, toàn cầu hóa là xu hướng tất yếu và ngày càng mở rộng. Tính tất yếu của toàn cầu hóa trước hết được biểu hiện ở tính tất yếu về kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế là khía cạnh quan trọng nhất của toàn cầu hóa; nó tác động sâu sắc đến lĩnh vực chính trị. Những thay đổi về chính trị lại tác động về kinh tế và văn hóa. Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của kinh tế và khoa học công nghệ vượt khỏi biên giới quốc gia hình thành nền kinh tế thế giới thu hút ngày càng nhiều các nước tham gia, vừa hợp tác vừa cạnh tranh và đấu tranh với nhau. Tuy nhiên, toàn cầu hoá luôn có hai mặt của nó, chúng ta không nên chấp nhận một cách quá dễ dàng các vấn đề toàn cầu hoá mang lại, mà phải nghiên cứu để khai thác và tận dụng những mặt tích cực của nó và luôn chủ động tích cực hội nhập quốc tế. 216
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Ban Chấp hành Trung ương. (2018). Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ (No. 26-NQ/TW). [2]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 3). (1995). Chính trị quốc gia. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Chính trị Quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật. [7]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 5). Chính trị quốc gia - Sự thật. [8]. Phùng, H. P., Lê, H. N., Vũ, V. H., & Nguyễn, V. T. (2016). Một số vấn đề lý luận - Thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới. Chính trị quốc gia. [9]. Viện Xây dựng Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). (2018). Giáo trình Xây dựng Đảng. Lý luận chính trị. 217
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Trường chính trị Tôn Đức Thắng
20 p | 805 | 102
-
Bài giảng Xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Nguyễn Đức Ngọc
67 p | 168 | 35
-
Nhận thức mới nhất về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới
12 p | 202 | 35
-
Bài giảng Bài 2: Xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam - TS. Nguyễn Văn Long
44 p | 274 | 32
-
Những luận điểm cơ bản trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
5 p | 129 | 17
-
Bài giảng Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - Bài 6: Chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
128 p | 136 | 13
-
Vận dụng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
7 p | 93 | 13
-
Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam
9 p | 58 | 12
-
Ebook Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội -Thường thức về chủ nghĩa xã hội khoa học (Quyển 1): Phần 2
71 p | 19 | 9
-
Ebook Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội -Thường thức về chủ nghĩa xã hội khoa học (Quyển 1): Phần 1
75 p | 24 | 9
-
Ebook Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Phần 1
203 p | 16 | 9
-
Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng
7 p | 18 | 7
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay
11 p | 21 | 7
-
Ebook Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Phần 2
263 p | 12 | 6
-
Bài giảng Triết học (Chương trình Cao học ngành Công nghệ thông tin) - Chương 8: Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
23 p | 32 | 6
-
Phát triển lý luận của Đảng về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
15 p | 8 | 4
-
Ebook Một số vấn đề lý luận mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay: Phần 1
81 p | 13 | 4
-
Ebook Một số vấn đề lý luận mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay: Phần 2
118 p | 8 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn