YOMEDIA
ADSENSE
CÔNG NGHỆ SÀN XUẤT GIỐNG CÁ CHÉP
165
lượt xem 44
download
lượt xem 44
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Cá chép V1 đã tập hợp được những đặc điểm di truyền quý : Chất lượng thịt thơm ngon, khả năng chống chịu bệnh tốt của cá chép Việt Nam. Thân ngắn và cao cùng tốc độ tăng trọng nhanh của cá chép Hungary, đẻ sớm và trứng ít dính của cá chép Inđônêxia.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: CÔNG NGHỆ SÀN XUẤT GIỐNG CÁ CHÉP
- COÂNG NGHEÄ SAÛN XUAÁT GIOÁNG CAÙ CHEÙP V1 Cá chép V1 là kết quả của chương trình chọn giống cá chép và lưu giữ nguồn gen thuỷ sản, do Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Mai Thiên nguyên Viện trưởng chủ trì và tập thể cán bộ công chức Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I thực hiện. Cá chép V1 đã tập hợp được những đặc điểm di truyền quý : Chất lượng thịt thơm ngon, khả năng chống chịu bệnh tốt của cá chép Việt Nam. Thân ngắn và cao cùng tốc độ tăng trọng nhanh của cá chép Hungary, đẻ sớm và trứng ít dính của cá chép Inđônêxia. Nuôi vỗ cá bố mẹ Cá đưa vào nuôi vỗ có ngoại hình đẹp, khoẻ mạnh không có biểu hiện mắc bệnh. Cá đực từ 0,8 kg/cá thể trở lên, cá cái từ 1,0 kg/cá thể trở lên. Cá đực và cá cái được nuôi riêng ở các ao khác nhau với mật độ 1 kg/4 - 5m2. Thời gian nuôi vỗ: Cá được nuôi vỗ từ cuối tháng 9 năm trước, đến tháng 2 năm sau cá có thể bắt đầu sinh sản. Chăm sóc: Liều lượng thức ăn chiếm 3 - 5% trọng lượng quần đàn. Nuôi vỗ tích cực hàm lượng thức ăn được giảm dần từ 5 - 3% tuỳ thuộc vào thể trạng cá qua kiểm tra định kỳ (1 tháng một lần). Nuôi vỗ thành thục thường trước khi cho cá đẻ từ 30 - 45 ngày đối với chính vụ và 10 - 15 ngày với cá đẻ tái phát. Trong thời gian nuôi vỗ thành thục cần cho cá ăn thêm mầm thóc. Chọn cá cho đẻ Chọn cá cái có bụng mềm, phần phụ sinh dục màu hồng. Hạt trứng rời nhau, căng đều, màu sáng trắng. Cá đực được chọn là những cá thể khi vuốt nhẹ bụng gần phần phụ sinh dục thấy có sẹ màu trắng sữa. Kích dục tố Kích dục tố thường dùng là LRH-A kết hợp với DOM. Cá cái được tiêm kích dục tố 2 lần. Lần 1 tiêm 1/4 - 1/5 lượng thuốc cần tiêm, sau khoảng 6 đến 8 giờ tiêm hết số thuốc còn lại. Cá đực chỉ tiêm 1 lần, trước khi tiêm lần 2 cho cá cái khoảng 2 giờ. Thu trứng và sẹ Trứng cá được vuốt vào bát men hoặc nhựa có đường kính khoảng 18 - 22 cm, lòng bát phải trơn bóng. Sau khi đã thu được trứng cần nhanh chóng vuốt sẹ vào bát trứng để thụ tinh cho trứng. Trứng của mỗi cá cái cần được thụ tinh tối 1
- thiểu bởi tinh của 3 cá đực. Thụ tinh cho trứng Sử dụng lông vũ khô của gia cầm khuấy nhẹ nhàng, đảo đều trứng với sẹ trước khi cho 5 - 10 ml nước sạch vào bát trứng. Sau khi cho nước sạch vào tiếp tục khuấy thêm 1 - 3 phút. Khử dính cho trứng Trứng được khử dính bằng dung dịch nước dứa (DDKD). Lượng DDKD thường gấp 5 - 7 lần khối lượng trứng cần được khử dính. Ðổ khoảng 1/3 - 1/4 lượng DDKD vào bát trứng đã được thụ tinh khuấy đều cho trứng tách rời nhau. Sau đó bổ sung số lượng DDKD còn lại, nhẹ nhàng khuấy đều từ 20 - 25 phút tuỳ thuộc vào nhiệt độ không khí tại thời điểm khuấy trứng. Sau 20 - 25 phút kiểm tra độ dính của trứng, nếu trứng không dính lại với nhau là được. Ấp trứng Trứng đã khử dính, rửa sạch được ấp trong bình vây có thể tích 300 lít với mật độ tối đa 40.000 trứng/lít. Lượng nước qua bình khoảng 4 lít/giây. Trong quá trình ấp trứng cần vệ sinh mạng tràn thường xuyên, nhất là khi trứng nở. Ương nuôi cá bột lên cá hương Cá bột được ương nuôi trong ao với mật độ 100 - 150 cá thể/m2. Dùng bột đậu tương nghiền mịn trong 7 ngày đầu, 7 ngày tiếp theo sử dụng thức ăn dạng bột mịn. PHÂN HEO MỘT LOẠI PHÂN BÓN AO CÓ HIỆU QUẢ TRONG HỆ THỐNG NUÔI GHÉP CÁC LOÀI CÁ CHÉP Giới thiệu Nuôi trồng thuỷ sản bền vững là xây dựng hệ thống nuôi gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và có hiệu quả kinh tế. Việc tái sử dụng các chất thải hữu cơ trong nuôi cá đáp ứng cả hai mục đích là làm sạch môi trường và giảm chí phí để sử dụng phân hoá học (thông thường chiếm khoảng hơn 50% tổng chi phí). Tuy nhiên, việc sử dụng tuỳ tiện các loại phân bón trong ao hồ nuôi cá có thể gây ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, người nuôi cần phải biết các tiêu chuẩn sử dụng chất 2
- thải này qua các thông số hoá lý của nước ao hồ để đảm bảo tỷ lệ sống và tăng trưởng cao của cá Nguyên liệu và các phương pháp tiến hành nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành tại trại nuôi cá của đại học Nông nghiệp Punjab, Ludhiana trong thời gian 270 ngày (từ tháng 9/1997 đến 6/1998). Phân lợn đã được sử dụng trong nuôi ghép các loài thuộc họ cá chép như một nguồn phân bón tốt với mức 18T/ha/năm và 36 T/ha/năm cho một đợt nuôi khoảng 270 ngày mà không cần cho ăn thức ăn bổ sung. Quan sát cho thấy phân lợn không làm biến đổi các thông số hoá sinh của nước như độ pH, mức ôxy hoà tan và độ kiềm. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong nước (photphat và nitrat) trong các ao hồ được bón phân lợn cao hơn các ao đối chứng (không bón phân, chỉ cho ăn bổ sung). Ngoài ra, mật độ phù du sinh vật cũng cao hơn đáng kể. Tốc độ tăng trưởng của cá Catla, cá trôi ấn Ðộ cũng cao hơn rõ rệt. Cá Mrigal và cá chép thường trong ao được bón phân ở mức 18 tấn/ha/năm cũng lớn nhanh, nhưng cá trắm cỏ lại lớn nhanh hơn trong ao nuôi đối chứng với ao có bón phân. Chuẩn bị bể: Thí nghiệm được thực hiện với bể xi măng diện tích 20m2, độ sâu 1m. Dưới đáy các bể có một lớp đất mỏng. Tất cả các bể được lắp đặt đường ống cấp nước và thải nước. Bón phân cho bể: Phân lợn được sử dụng ở mức 18 (PM18) và 36 (PM36) t/ha/năm, tương ứng với mức 34,5 và 69,0 g/m2/tuần trong suốt quá trình thử nghiệm. Cá được nuôi theo hai cách. Cách thứ nhất là cho ăn đối chứng, không bón phân vào ao và cá được cho ăn thêm thức ăn chứa 50% cám gạo và 50% bánh dầu mù tạc đã khử dầu ở mức chiếm 2% sinh khối cá. Cả hai phương pháp bón phân và đối chứng được tiến hành 3 lần. Thả giống: Mỗi bể nuôi thả các loài cá bột khác nhau (2 con/m 2): số cá thả gồm 8 cá Catla (Catla catla), 10 cá trôi ấn (Labeo rohita), 8 Mrigal (Cirrhinus cirrhosus), 8 cá chép thường (Cyprinus carpio) và 6 cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idellus) vào tháng 9 năm 1997. Trọng lượng của các loài cá tại thời điểm thả giống là cá Catla: 3,5-5,0 g; cá trôi ấn: 5,0-12.0 g; cá Mrigal: 2,5-3.0 g; cá chép: 2,0-2,7 g và cá trắm cỏ: 2,2-2,7 g. Quan sát số liệu: Hằng tháng nước trong bể được ln (Trọng lượng cá lần cuối) phân tích vào khoảng 7-8 giờ sáng để đo các thông In (Trọng lượng cá ban đầu) SGR = x số lý hoá gồm: nhiệt độ, độ pH, CO2 tự do, kiềm 100 phenolphtalein, kiềm methyl da cam và các loại Số ngày nuôi kiềm, lượng photphat hoà tan trong nước và nitrat- (ln : lôgarit tự nhiên) nitơ. Hằng tháng cũng tiến hành phân tích số lượng 3
- và chất lượng phù du thực vật và phù du động vật. Mẫu cá được theo dõi hằng tháng, ghi lại tốc độ tăng trưởng và ước tính tổng trọng lượng (TWG) và tỉ lệ tăng trưởng đặc biệt (SGR) theo công thức: Trọng lượng cá lần cuối - Trọng lượng cá ban đầu TWG = Trọng lượng cá ban đầu Thảo luận Trong 270 ngày nuôi, nhiệt độ nước dao động từ 12 đến 35oC. Sự biến động của các thông số lý - hoá của nước tại các ao nuôi khác nhau thể hiện trong bảng sau: Các hình thức ao nuôi Các thông số Ao đối chứng Ao bón phân Ao bón phân lợn lợn ở mức 18 ở mức 36 T/ha/năm T/ha/năm Nhiệt độ (oC) 23.30 2.39a 22.80 2.36a 22.80 2.38a (13-35) (12-35) (12-35) pH 8.61 0.13a 8.61 0.14a 8.47 0.11a (8.10-9.20) (8.03-9.24) (8.13-8.94) Mức ôxy hoà tan (mg/l) 9.28 0.74a 9.97 0.80a 9.70 0.80a (6.25-13.50) (6.25-14.00) (6.25-13.60) Mức CO2 tự do (mg/l) 16.40 16.40a 4.00 4.00a 10.60 5.49a (0-164) (0-40) (0-42) Ðộ kiềm 78.30 8.92a 79.10 10.16a 59.80 13.36a phenolphthalein (0-98) (0-120) (0-100) (mg/l) Ðộ kiềm metyl- da 201.00 15.56a 187.80 15.32a 177.70 17.54a cam (mg/l) (136-268) (128-264) (100-265) Tổng độ kiềm (mg/l) 279.30 19.32a 266.90 19.98a 237.60 22.15 a (156-350) (144-331) (140-347) Nitrat- nitơ (mg/l) 1.32 0.22a 1.06 0.18a 1.18 0.17a (0.44-2.45) (0.70-2.45) (0.60-2.45) Lượng photphat hoà 1.31 0.31a 1.59 0.68a 3.57 0.95a tan (mg/l) (0.07-2.65) (0.81-3.63) (0.94-9.38) 4
- 5
- Các thông số lý hoá cuả nước đóng vai trò đặc biệt trong sinh học và sinh lý cá. Trong nghiên cứu này, các thông số lý hoá của nước trong cả hai hình thức nuôi đều duy trì trong khoảng cho phép đáp ứng yêu cầu nuôi. Sự khác nhau giữa các thông số lý hóa ở hai phương pháp nuôi này là không lớn. Ðiều này gợi ý rằng nếu bón một lượng phân lợn lớn hơn (36 T/ha/năm) cũng không có ảnh hưởng xấu tới các thông số lý hoá của nước. Thậm chí trong trường hợp có một lượng chất hữu cơ đáng kể chiết ra từ phân lợn cũng không làm giảm nồng độ ôxy hoà tan trong nước. Nồng độ nitrat-nitơ trong nước không khác nhau đáng kể giữa các phương pháp nuôi. Tuy nhiên, lượng photphat hòa tan trong nước ở phương pháp nuôi có bón phân cao hơn trong phương pháp nuôi cho ăn thêm. Ðiều này có lẽ là do sự có mặt của photphat trong phân lợn. Ngoài ra, lượng thực vật nổi trong ao PM36 là cao nhất, tiếp đó là ao PM18 và cuối cùng là ao đối chứng, nhưng sự khác biệt không nhiều lắm. Năng suất sinh học của bất kỳ cơ thể thuỷ sinh nào cũng được đánh giá chung qua chất lượng và số lượng của sinh vật phù du vốn là thức ăn tự nhiên của cá. Chất thải động vật làm tăng khả năng sinh học của ao hồ qua các cách khác nhau dẫn tới sự tăng sản lượng cá. Trong nghiên cứu này, các thông số sinh học của nước bao gồm các sinh vật phù du và các nhóm tảo lam và tảo lục (riêng tảo Silic ít hơn nhiều trong ao có bón phân) và lượng phù du động vật trong ao bón phân lợn cao hơn nhiều trong ao đối chứng. Ðiều này có thể do lượng photphat có trong phân lợn hoà tan trong nước cao hơn. Tuy nhiên, không có sự khác biệt lớn về sức sản xuất của ao hồ giữa hai mức bón phân lợn. Sức sản xuất của phù du sinh vật trong các hồ tái sử dụng phân lợn cao góp phần tạo năng suất của ao tiếp tục cao trong một thời gian dài. Phân lợn cung cấp cho phù du động vật nguồn thức ăn bổ sung từ vi khuẩn có từ nguồn phân hữu cơ. Thành phần của phân lợn ảnh hưởng tới cấu trúc quần thể sinh vật phù du, trong số thực vật phù du, tảo lam là nhóm chiếm ưu thế, tiếp theo là tảo lục, còn tảo silic có rất ít. Trong số phù du động vật, luân trùng là nhóm nhiều nhất, theo sau là lớp phụ chân chèo và lớp râu ngành ở tất cả các loại hình nuôi. Mức tăng trưởng của các loài cá nuôi khác nhau như sau: Ðối với cá Catla và cá trôi ấn, mức TWG, SGR ở ao sử dụng phân lợn PM18 và PM36 cao hơn nhiều so với nuôi trong ao đối chứng. Trong khi đó đối với cá Mrigal (Cirrhinus cirrhosus) và cá chép thường (Cyprinus carpio) mức TWG và SGR trong ao đối chứng lại cao hơn nhiều và ao PM18 cao hơn ao PM36. Sức tăng trưởng cao của các loại cá chép này trong ao bón phân lợn có thể
- là do trong các ao này có nhiều nguồn thức ăn hơn. Ngoài ra, một vài loại cá chép thậm chí còn nuốt thẳng các mảnh không tiêu hoá được có lẫn trong các loại phân bón. Các mảnh thức ăn này tuy có giá trị dinh dưỡng thấp nhưng các vi sinh vật bám vào chúng lại có lượng protein cao. Hơn nữa, việc cho ăn trực tiếp phân lợn có thể làm cho cá chép tăng trưởng mạnh hơn vì hơn 70% lượng thức ăn của lợn vẫn chưa được tiêu hoá và giàu dinh dưỡng. Tuy nhiên, phân lợn ở cả hai mức sử dụng trong nghiên cứu này lại không có kết quả tốt như dự kiến đối với sự tăng trưởng của cá trắm cỏ vì chúng là loại ăn cỏ ă Naga, The ICLARM Quaterly (Vol.25, no.1) January- March 2002 KỸ THUẬT CHO CÁ CHÉP ĐẺ TỰ NHIÊN TRONG AO Cá chép thuần chủng có thể tự sinh sản được trong ao. Tuy vậy, ở nhiều nơi, do cá trong ao bị lai tạp và thoái hoá, ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cá nuôi. Trong bài này sẽ giới thiệu cách cho cá chép đẻ tự nhiên theo phương pháp đơn giản để các hộ gia đình có thể chủ động sản xuất được con giống chất lượng cao, đúng thời vụ. 1. Mùa vụ cho đẻ: Mùa đẻ chính của cá chép là mùa xuân và mùa thu. Trong thời gian này, vào những ngày mưa rào, có thể nhìn thấy từng đàn cá chép vật đẻ. Theo từng nhóm, cứ 2 - 3 con đực kèm sát 1 con cái, bơi lội ven bờ sông hoặc đầm ao, nơi có nhiều cây cỏ, rong, bèo để làm chỗ dựa vật đẻ. Các con đực tranh nhau đến cọ thân mình vào con cái. Cá cái được kích thích sinh dục uốn mình vật vã làm cho trứng phọt ra ngoài. Vỏ trứng cá chép có chất dính nên bám vào cỏ cây, rong, bèo. Ðồng thời lúc đó, cá đực phun ngay tinh dịch, tinh trùng bơi trong nước gặp trứng làm cho trứng thụ tinh. Dựa vào tập tính sinh đẻ của cá chép trong tự nhiên, người ta đã nghiên
- cứu cho cá chép đẻ theo ý muốn bằng cách tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi tương tự. Yêu cầu của phương pháp cho cá chép đẻ tự nhiên: Vào đầu mùa xuân phải tuyển chọn trong ao nuôi vỗ cá chép bố mẹ những cá đạt tiêu chuẩn sau: - Cá bố mẹ phải béo khoẻ, toàn thân trơn bóng, không rách vây, không trớt vảy, không bệnh. Có đủ cá đực và cá cái. - Trứng cá phải căng tròn và rời. Sẹ cá phải trắng và đặc (vuốt xuôi hai bên bụng cá, thấy sẹ trắng chảy ra như sữa). Thời vụ cho cá chép đẻ tốt nhất vào mùa xuân. Trứng cá vụ xuân thường nhiều và tốt, nên nhân dân thường cho cá chép đẻ vào vụ xuân là chính (vụ thu chỉ tranh thủ cho đẻ những cá tái phát dục). Những trạm trại cá giống thường ít quan tâm đến kế hoạch sản xuất cá chép giống, vì sản xuất vài chục triệu cá bột mè, trôi, trắm không khó, nhưng để sản xuất vài triệu cá chép bột trong một vụ lại không dễ, vì số lượng trứng của cá chép ít, phải nuôi vỗ một lượng khá lớn cá bố mẹ, gây tốn kém và mất nhiều diện tích ao. Vì thế, các hộ gia đình nuôi cá ở địa phương nên nắm vững kỹ thuật cho cá chép đẻ tự nhiên để chủ động sản xuất giống cá nuôi. 2. Cho cá đẻ tự nhiên: * Chọn thời tiết thích hợp: Nhiệt độ cho cá chép đẻ thích hợp nhất từ 18- 25oC. Trời lạnh dưới 18oC cá chép không đẻ. Trước khi cho cá đẻ, phải nghe dự báo thời tiết để tránh những đợt có gió mùa đông bắc sắp tràn về. Tốt nhất là những ngày đầu xuân, hôm nào trời ấm áp, đêm nằm chỉ đắp chăn đơn, bên ngoài ếch nhái kêu inh ỏi là hôm ấy cho cá chép đẻ tốt. * Tuyển chọn cá cho đẻ: Trước khi cho cá đẻ phải kiểm tra cá bố mẹ. Nếu thấy cá có hiện tượng nhô vây, hở đuôi, hay lượn sát ven bờ là trứng, sẹ của cá đã già, cá đã muốn đẻ. Ta bắt vài con lên để kiểm tra cho chính xác. Cách kiểm tra như sau: Con cái: Khi sắp đẻ, bụng to kềnh, lật ngửa cá lên thấy giữa bụng có một ngấn hằn lõm vào kéo dài từ vây ngực đến tận hậu môn (dọc theo giữa hai buồng trứng). Sờ bụng thấy mềm nhũn, da bụng mỏng, nhất là phía cuối. Lỗ sinh dục đỏ thẫm và hơi lồi. Nếu vuốt nhẹ vào thành bụng, trứng sẽ chảy ra, màu vàng sẫm, trong suốt và rời thành từng cái là trứng đã già. Những cá này có thể cho đẻ ngay đợt đầu.
- Kinh nghiệm ở một số cơ sở cho cá chép đẻ cho biết: Những con cá cái bụng to quá mức bình thường, bành ra như bụng cóc, sờ vào thấy mềm nhão thường rất khó đẻ (cá đã thoái hoá). Ngược lại, những con cá cái khi vuốt thấy trứng màu vàng đục hoặc vàng xanh dính vào nhau từng chùm là trứng còn non. Cá đực: Lúc sắp phóng tinh trùng, nếu vuốt nhẹ hoặc cầm mạnh cá, tinh dịch cũng chảy ra, có màu trắng như nước vo gạo và đặc sền sệt như sữa hộp. Trường hợp tinh dịch còn loãng, tuy vẫn có màu trắng nhưng không đặc quánh là sẹ còn non. 3. Chọn nơi cho cá đẻ: * Chọn ao cho cá đẻ: Diện tích ao rộng hay hẹp tuỳ theo số lượng cá cho đẻ nhiều hay ít. Chọn ao có đáy trơ, tốt nhất là cát pha sét. Nguồn nước đưa vào ao phải sạch, không chua mặn, không ô nhiễm. Ao được tẩy dọn kỹ, có mức nước sâu khoảng 1m. Có thể dùng bể đẻ cá mè, trôi, trắm, bể ấp hoặc bể chứa nước để cho cá chép đẻ. * Chọn ruộng cho cá chép đẻ: Nhiều nơi ở miền núi phía Bắc đã có tập quán cho cá chép đẻ tự nhiên ngoài ruộng. Ruộng cho cá chép đẻ thường có diện tích 150- 200m2, đáy đất pha cát, có thể lấy nước vào dễ dàng và luôn giữ được nước. Ruộng cho cá chép đẻ phải được cày bừa san phẳng và phơi nắng mấy ngày cho se cứng đáy (không được nứt nẻ). Bờ ruộng đắp cao hơn mức nước, cao nhất khoảng 50 - 60cm, có máng dẫn nước và cống tiêu nước thuận tiện. Cửa cống dẫn nước phải chắn phên để ngăn cá tạp theo vào ruộng. Trước khi cho cá đẻ, tháo nước vào ruộng sâu khoảng 40 - 50cm. Nếu ruộng đó còn dùng để ương trứng, nên đào sẵn ở góc ruộng một cái hố khoảng 4m2, sâu 0,6m và có xẻ mương sâu 0,2m làm đường cho cá đi lại lên xuống kiếm ăn. Mặt hố có che lá cọ hoặc làm giàn trồng mướp, bầu, bí để che nắng cho cá. 4. Chuẩn bị ổ đẻ: Thường chọn các loại xơ mềm có nhiều lông tơ nhỏ để làm ổ cho cá chép đẻ trứng cá dễ bám, như: bèo tây, xơ dừa, sợi nilông. Phổ biến nhất là dùng bèo tây, nếu dùng bèo phải chọn loại rễ bánh tẻ. Bỏ hết rễ bèo thối, rửa sạch đất, cặn bám ở rễ và sát trùng bằng nước muối 5% (0,5kg muối ăn pha trong 10 lít nước) hoặc xanh malachit nồng độ 3mg/lít ngâm 15 phút rồi vớt ra thả vào ổ đẻ. Dùng cây nứa quây bèo thành khung hình chữ nhật, để khi cá vật đẻ không làm bèo tản mát. Kết quả nghiên
- cứu của Viện nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I cho thấy: Số lượng trứng của mỗi cá mẹ tỷ lệ thuận với khối lượng cá. Cá nặng 1kg thường đẻ 120.000 - 140.000 trứng; cá nặng 1,5kg đẻ 180.000 - 210.000 trứng. Tỷ lệ trứng nở thành cá bột thường đạt 30- 40% (100 trứng nở được 30 - 40 con cá bột). Một khung bèo rộng 1m2 thường có khoảng 180 cây bèo. Mỗi cây bèo thường có 700 trứng bám, vậy cứ 1 con cá cái cỡ 1kg cho đẻ cần 1m2 khung bèo. Bèo thả kín vào khung, khung đặt cách bờ ít nhất 1m ở chỗ nước sâu để khi cá vật đẻ không làm nước bị đục. 5. Thành lập nhóm cá đẻ: Sau khi kiểm tra cá thấy trứng, sẹ đạt yêu cầu cho đẻ, chuẩn bị xong ao và ổ cho cá đẻ, nếu thời tiết thuận lợi thì bắt cá cho vào nơi vật đẻ. Trước khi cho cá đẻ, cần xác định tỷ lệ đực cái thích hợp, để lượng tinh dịch đủ đảm bảo cho số trứng đẻ ra được thụ tinh hoàn toàn. Cá chép thụ tinh ngoài, tinh dịch của cá đực phóng vào nước bị pha loãng, nếu ít tinh dịch sẽ không đảm bảo cho tinh trùng gặp được trứng để thụ tinh. Trong điều kiện nuôi vỗ tốt có thể ghép 1 cá cái + 2 cá đực, cũng có nơi ghép 2 cá cái + 3 cá đực, tỷ lệ trứng thụ tinh vẫn cao. Khi ghép cá đực vào nhóm đẻ nên xen kẽ giữa con to và con nhỏ để tăng cường kích thích khi cá vật đẻ, tỷ lệ trứng rơi vãi ít hơn vì bèo không đảo lộn và nước không bị xoáy nhiều như khi dùng toàn bộ cá đực to. Cho cá chép đẻ tự nhiên cần lưu ý: - Trước khi cho cá đẻ, phải kiểm tra lại ao, ruộng - nơi cho cá đẻ, xem nguồn nước chảy vào có sạch không, mức nước đủ chưa. Nếu đạt yêu cầu sẽ thả ổ bèo xuống. Theo dõi thời tiết để thả cá bố mẹ đúng lúc. Nếu gặp gió mùa đông bắc, trời rét đột ngột nên tạm ngừng việc thả cá. Thời tiết ấm áp, nhiệt độ nước đạt 18 - 250C mới tiếp tục cho cá đẻ. Khi thả, nên thả cá cái vào buổi sáng, thả cá đực vào buổi chiều cùng ngày. Nếu thời tiết thuận lợi, cá có thể đẻ từ 3 - 4 giờ tới 7 - 8 giờ sáng. - Nếu 5 giờ sáng chưa thấy cá vật đẻ phải bơm nước vào ao hay ruộng (nếu dùng vòi phun làm mưa nhân tạo càng tốt). Thời gian bơm nước 1 - 2 giờ. Có nước mới, cá được kích thích và đẻ. Cá có thể đẻ 2 đêm liên tục. Khi trứng bám vừa phải thì thay ổ mới. Nếu để 2 đêm liền cá vẫn không đẻ, phải bắt cá trở lại ao nuôi vỗ tiếp, khoảng 20 - 30 ngày sau lại cho đẻ. - Thời gian từ khi cá đẻ đến khi kết thúc thường kéo dài 2 ngày liền và thường đẻ mạnh vào ngày đầu. Có thể tính số trứng cá đẻ tự nhiên một cách tương đối bằng công thức sau: Số trứng đẻ được = (P- P' x 60.000).
- Trong đó: P là khối lượng tổng số cá cái trước khi đẻ P là khối lượng tổng số cá cái sau khi đẻ. Có thể ước tính số cá bột thu được bằng 30- 40% số trứng, để quyết định diện tích trứng ương thành cá bột. (Phạm Văn Trang) (Viện nghiên cứu NTTS I)
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn