BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI ---------------- DƯƠNG HÀ HIẾU CÙ LAO RÉ – QUÊ HƯƠNG CỦA ĐỘI HOÀNG SA (TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62.22.03.13
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI – 2016
Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS.NGND. Nguyễn Quang Ngọc PGS.TS. Đào Tố Uyên
Phản biện 1: GS.TS. Đỗ Tiến Sâm
Viện Nghiên cứu Trung Quốc
Phản biện 2: PGS.TS. Lê Đình Sỹ
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm Luận án Tiến sĩ
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2016
Có thể tìm hiểu Luận án tại:
- Trung tâm thông tin - Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng những biến động lịch sử, biển đảo đã trở thành một bộ phận chặt chẽ
trong không gian sinh tồn của dân tộc Việt Nam. Từ Cù Lao Ré và ở trong đất liền,
cư dân Việt tiến ra khai thác vùng Biển Đông đã phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Đây là cơ sở đặc biệt quan trọng để Nhà nước phong kiến Việt Nam xác
lập và thực thi chủ quyền quốc gia đối với hai quần đảo này. Cùng xã gốc bên cửa
biển Sa Kỳ, Cù Lao Ré trở thành không gian quê hương của đội Hoàng Sa – lực
lượng thực thi và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ độc đáo của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là địa phương điển hình gắn bó máu thịt giữa đất liền và
hải đảo.
Cù Lao Ré với vị trí trọng yếu đã sớm được tách ra khỏi sự phụ thuộc từ các xã
gốc trong đất liền và lập thành đơn vị hành chính độc lập dưới triều Nguyễn (1804).
Sự đóng góp của các thế hệ cư dân Cù Lao Ré đối với sự ra đời và hoạt động của đội
Hoàng Sa kéo dài đến giữa thế kỷ XIX đã nói lên vị trí, tầm quan trọng của cái nôi
sinh ra lực lượng bảo vệ biển đảo này.
Trong bối cảnh quốc tế phức tạp hiện nay, việc nghiên cứu quá trình hình thành
và phát triển của Cù Lao Ré gắn liền với hoạt động của “đội Hoàng Sa” trong quá
trình gìn giữ và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa cũng được đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết.
Xuất phát từ những nhận thức trên, tác giả quyết định chọn “Cù Lao Ré – quê
hương của đội Hoàng Sa (Từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX)” làm đề tài luận án
tiến sĩ của mình.
2. Đối tượng, phạm vi, mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tượng: Luận án nghiên cứu lịch sử Cù Lao Ré từ thế kỷ XVII đến giữa thế
kỷ XIX với tư cách là quê hương của đội Hoàng Sa.
Phạm vi
+ Về thời gian: Tác giả đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu Cù Lao Ré trên tất
cả các mặt từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX.
+ Về không gian: Là Cù Lao Ré nay là huyện đảo Lý Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Mục tiêu: Thông qua khôi phục diện mạo lịch sử Cù Lao Ré trên tất cả các
mặt, luận án góp một cái nhìn cụ thể và toàn diện về vai trò, vị trí và những đóng góp
của cư dân Cù Lao Ré đối với hoạt động thực thi bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia
ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhiệm vụ
- Làm rõ vị trí tầm quan trọng của Cù Lao Ré trên tuyến hải thương quốc tế
Biển Đông và mối quan hệ của Cù Lao Ré với đất liền;
- Nghiên cứu về tổ chức bộ máy quản lý, đời sống kinh tế, văn hóa xã hội của cư
dân Cù Lao Ré với tư cách là đơn vị hành chính cấp cơ sở đặc biệt, nơi tuyển quân, xuất
phát của đội Hoàng Sa trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia;
- Nghiên cứu về vai trò của cư dân Cù Lao Ré đối với sự ra đời, tổ chức và
hoạt động của đội Hoàng Sa trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
quốc gia đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
3. Nguồn tư liệu, hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
- Các công trình lịch sử, địa lý và các bản đồ cổ của các cá nhân và Nhà nước
Việt Nam thời phong kiến và thế giới đề cập đến Cù Lao Ré.
- Nguồn tư liệu địa phương gồm các gia phả, địa bạ, sắc phong, văn khế mua
bán ruộng đất, tờ trình nộp thuế của địa phương, lệ cúng tế và cách tổ chức lễ đình
làng, văn bản bầu bán chức tước,…
- Các công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam và thế giới liên quan
đến luận án.
Hướng tiếp cận: Tác giả dựa trên quan điểm của lịch sử, khôi phục, nhìn nhận
và đánh giá vấn đề dưới góc độ của khoa học lịch sử. Bên cạnh đó, giả sử dụng các
hướng tiếp cận khác như khu vực học, văn hóa học, … nhằm giải quyết một cách
khoa học, toàn diện vấn đề luận án đặt ra.
Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, quan điểm sử học macxit, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chuyên ngành kết hợp với các phương pháp nghiên cứu liên ngành nhằm đưa ra các
kết quả khoa học.
4. Đóng góp của luận án
Trên cơ sở giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, luận án hoàn thành có những đóng
góp sau:
- Luận án dựng lại bức tranh Cù Lao Ré từ quá trình lập làng, phát triển kinh tế
đến quản lý xã hội trên đảo từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX.
- Luận án cho thấy, Cù Lao Ré sớm trở thành một hậu cứ, bàn đạp để đội
Hoàng Sa tiến ra Biển Đông thực hiện nhiệm vụ khẳng định và bảo vệ chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa;
- Luận án dựng lại đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của cư dân Cù Lao
Ré. Từ đó cho thấy, đời sống văn hóa của cư dân trên đảo gắn liền với hoạt động của
đội Hoàng Sa cũng như đội Thủy quân đi lính Hoàng Sa trong lịch sử;
- Luận án góp phần làm sáng tỏ về sự ra đời, hoạt động và nhiệm vụ của đội
Hoàng Sa cũng những đóng góp của cư dân Cù Lao Ré trong công cuộc gìn giữ và
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia dân tộc;
- Góp thêm nguồn tư liệu khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
5. Bố cục luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì luận án có cấu trúc gồm
5 chương:
Chương 1. Tổng quan các nguồn tư liệu và tình hình nghiên cứu
Chương 2. Cù Lao Ré: Điều kiện tự nhiên và lịch sử tụ cư
Chương 3. Đời sống kinh tế và tổ chức xã hội của cư dân Cù Lao Ré từ đầu thế
kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX
Chương 4. Đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của cư dân Cù Lao Ré
Chương 5. Đội Hoàng Sa và hoạt động thực thi chủ quyền Việt Nam ở hai
quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa của cư dân Cù Lao Ré từ thế kỷ XVII đến giữa thế
kỷ XIX
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC NGUỒN TƯ LIỆU VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan các nguồn tư liệu
1.1.1. Nguồn thư tịch cổ
Từ thời phong kiến, Cù Lao Ré đã được cơ quan chép sử Nhà nước và các cá
nhân đề cập đến. Trong “Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá (1686) cho biết tên
gọi và sự quản lý trên Cù Lao Ré. “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (1776) ghi
chép về thuế khóa, hoạt động kinh tế của Cù Lao Ré. Trong “Quảng Thuận đạo sử
tập” của Nguyễn Huy Quýnh (1785) cũng chép về tình hình dân cư, hoạt động kinh tế
và cho biết Cù Lao Ré có đội Hoàng Sa Nhị.
Sang thời nhà Nguyễn, các công trình “Đại Nam thực lục”, “Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ”, “Quốc triều chính biên toát yếu”, “Đại Nam nhất thống chí”,
“Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, … và các công trình cá nhân khác như
“Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, “Việt sử cương giám khảo
lược” của Nguyễn Thông đều đề cập đến Cù Lao Ré. Một số châu bản triều Nguyễn
đề cập đến những người con của Cù Lao Ré với những chức vụ cụ thể trong hoạt
động bảo vệ chủ quyền quốc gia ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
1.1.2. Nguồn bản đồ cổ
Cù Lao Ré còn được thể hiện trên các bản đồ Việt Nam thời phong kiến như
“Đại Nam nhất thống toàn đồ”, “Đồng Khánh bản đồ”, … và trên các bản đồ thế giới
của các tác giả Jodocus Hondius (1606), Nicolas Sanson (1658), Phillippe
Vandermaelen (1827), L. Taberd (1838),…
1.1.3. Nguồn tư liệu địa phương
Các tư liệu địa phương còn lưu giữ tại Cù Lao Ré – huyện đảo Lý Sơn gồm gia
phả của các dòng họ, các văn khế mua bán ruộng đất, địa bạ, văn tế đình làng, các tờ
đơn, kê trình thuế lệ, các truyền thuyết dân gian, …
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Đầu tiên cần kể đến là công trình “Địa dư tỉnh Quảng Ngãi” (1940) của
Nguyễn Đóa và Nguyễn Đạt Nhơn đề cập đến vị trí và phương tiện giao thông của Cù
Lao Ré với đất liền. Các bài viết của Đặng Vũ, Đoàn Ngọc Khôi và Phan Đình Hộ
trên tạp chí Cẩm Thành (Quảng Ngãi) số 9 năm 1996 đều nghiên cứu về các di tích
văn hóa lịch sử của Cù Lao Ré trong đó có lễ khao lề thế lính. Tạp chí Khoa học –
Khoa học Xã hội tXIV (N03, 1998) của Đại học Quốc gia Hà Nội đã đăng tải “Tư liệu
về nguồn gốc và chức năng hoạt động của đội Hoàng Sa” của Nguyễn Quang Ngọc
và Vũ Văn Quân, bài “Tư liệu về đội Hoàng Sa sưu tầm tại Lý Sơn” của Nguyễn
Quang Ngọc công bố một số những tư liệu mới sưu tầm được tại Cù Lao Ré – tức
huyện đảo Lý Sơn.
Luận văn Thạc sĩ “Cù Lao Ré (Đảo Lý Sơn) từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ
XIX” (2001) của Nguyễn Công Chất mới chỉ đề cập sơ lược về quá trình khai canh và
điểm qua một số nét về đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân Cù Lao Ré. Bài “Lễ
khao lề thế lính Hoàng Sa” của Nguyễn Đăng Vũ trên Tạp chí Nghiên cứu Đông
Nam Á (số 10 năm 2003) nghiên cứu về việc hình thành lễ khao lề thế lính Hoàng Sa,
một lễ hội lớn ở Cù Lao Ré.
Luận án Tiến sĩ Khảo cổ học “Di tích xóm Ốc và vấn đề văn hóa Sa Huỳnh
vùng duyên hải Nam Trung bộ” của Đoàn Ngọc Khôi (2003) khẳng định thời cổ đại đã
có cư dân thuộc nền văn hóa tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh và Chămpa định cư lâu dài liên
tục trên Cù Lao Ré. Công trình “Văn hóa truyền thống huyện đảo Lý Sơn” (2003) của
Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường tỉnh Quảng Ngãi xuất bản trình bày khái quát
lịch sử hình thành huyện Lý Sơn cùng đời sống của cư dân trên đảo. Luận văn “Hệ
thống di tích lịch sử - văn hóa huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” (2011) của Mai
Trọng Anh đã hệ thống hóa, phân loại các di tích lịch sử văn hóa của huyện Lý Sơn.
Trong “Đội Hoàng Sa: Cách thức thực thi chủ quyền độc đáo của Việt Nam
trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông trong các thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ
XIX” của Nguyễn Quang Ngọc trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 143 (2 –
2012) khẳng định đội Hoàng Sa ra đời vào thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 –
1635) và quê hương là xã An Vĩnh bên cửa biển Sa Kỳ và Cù Lao Ré.
Công trình “Biển đảo Quảng Ngãi lịch sử - kinh tế - văn hóa” do Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi xuất bản (2013) có một số nghiên cứu từng khía
cạnh như lịch sử dân cư thời tiền sử hoặc lễ “khao lề thế lính” của Cù Lao Ré.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.2.2.1. Tiếng Anh
Đầu tiên phải kể đến cuốn “A new account of the East Indies, being the
observation and remarks, vol II” (1727) (Thông tin mới về Đông Ấn, quan sát và
nhận xét, tập 2) của Alexander Hamilton đề cập trực tiếp đến vị trí địa lý của Cù Lao
Ré và chú thích “Pulo Canton, hay còn gọi là Pulo Ratan”. Đặc biệt, nghiên cứu
“Commemoration and the State: Memory and Legitimacy in Vietnam” (Lễ tưởng
niệm và nhà nước: ký ức và tính hợp lý ở Việt Nam) của Edyta Roszko trên Tạp chí
Journal of Social Issues in Southeast Asia, Volume 25, number 1, April 2010, khẳng
định cư dân Cù Lao Ré có những cống hiến đặc biệt đối với hoạt động bảo vệ chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa.
1.2.2.2. Tiếng Pháp
Công trình “Voyage à la Cochinchine, Tome Second” (1807) (Chuyến đi đến
Đàng Trong, tập 2) của John Barrow cung cấp nhiều thông tin về Cù Lao Ré, việc
Việt Nam làm chủ và khai thác quần đảo Paracels, các loại tàu thuyền ngư dân đánh
bắt ở Hoàng Sa và Trường Sa. Đến năm 1974, Võ Long Tê công bố công trình “Les
Archipels de Hoàng Sa et de Trường Sa selon les anciens ouvrages Vietnamiens
D’histoire et de géographie” (Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong thư tịch cổ
Việt Nam lịch sử và địa lý). Trong đó, các ghi chép về Cù Lao Ré và hoạt động của
đội Hoàng Sa cũng được công bố.
1.2.2.3. Tiếng Trung Quốc
Trong các nghiên cứu của các học giả Trung Quốc, công trình “Quần đảo Tây
Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc từ thời cổ đại đến nay” (1980) do Nxb
Nhân dân Trung Quốc ấn hành, Hàn Chấn Hoa và Ngô Phượng Bân còn đi xa hơn
khi đưa ra những nhận xét “Quần đảo Hoàng sa tức là đảo Lý Sơn”. Luận án “Tri
thức biển của Việt Nam thời cổ đại” của Vu Hướng Đông (2008) tiếp tục xuyên tạc
các tư liệu lịch sử nhằm cố chứng minh Cù Lao Ré chính là Hoàng Sa của Việt Nam
và Trường Sa của Việt Nam chính là dải bãi cát ở tỉnh Thừa Thiên Huế ngày nay.
1.2.2.4. Một số ngôn ngữ khác
Các tư liệu thuộc các ngôn ngữ khác do người Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha cũng đề cập đến Cù Lao Ré và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt
Nam. Ngoài các công trình nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí hoặc xuất bản thành
sách, hàng loạt các bản đồ cổ của các nhà hàng hải, địa lý và các nhà khoa học
phương Tây vẽ về Cù Lao Ré cũng như quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam trong thời kỳ này.
Nhìn lại các công trình nghiên cứu của các học giả trong nước và nước ngoài
liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án cho thấy: Các bài viết về Cù Lao Ré thiếu
vắng các nghiên cứu về lịch sử khai phá, tổ chức quản lý xã hội và vai trò của Cù Lao
Ré đối với sự ra đời, hoạt động của đội Hoàng Sa; Hoạt động của đội Hoàng Sa được
nghiên cứu nhiều nhưng thời gian thành lập còn có những ý kiến khác nhau; Các
nghiên cứu khác đặt hoạt động đội Hoàng Sa trong tổng thể chính sách và hoạt động
của Nhà nước phong kiến;
Trong các nghiên cứu nước ngoài, đáng chú ý nhất là nghiên cứu về Cù Lao Ré
của Edyta Roszko về tín ngưỡng, kinh tế liên quan đến hoạt động của đội Hoàng Sa;
Các học giả Trung Quốc biện minh rằng Trung Quốc đã làm chủ quần đảo Hoàng Sa
(Tây Sa) và Trường Sa (Nam Sa) và cho rằng Cù Lao Ré là quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa mà lịch sử Việt Nam đề cập.
Từ tình hình nghiên cứu đặt ra cho luận án tiếp tục nghiên cứu giải quyết các
vấn đề sau:
Thứ nhất, luận án làm rõ vị trí địa lý trên tuyến hải thương quốc tế Biển Đông
cùng mối tương quan với đất liền trong chiến lược biển và hành động khẳng định, bảo
vệ chủ quyền quốc gia đối với các quần đảo trên Biển Đông;
Thứ hai, luận án dựng lại lịch sử Cù Lao Ré trước khi người Việt xuất hiện làm
cơ sở nghiên cứu làm sáng tỏ về lớp người Việt đầu tiên ra khai canh, định cư lập
phường (tức làng);
Thứ ba, luận án nghiên cứu mọi mặt của Cù Lao Ré từ thế kỷ XVII đến giữa
thế kỷ XIX, đặc biệt vấn đề kinh tế, tổ chức xã hội của Cù Lao Ré trước và sau khi
tách ra thành đơn vị hành chính cấp cơ sở và mối quan hệ của nó với đối với đất liền;
Thứ tư, luận án phục dựng lại đời sống văn hóa của nhân dân trên Cù Lao Ré
để có cái nhìn tổng quát về những cống hiến của họ đối với hoạt động bảo vệ chủ
quyền biển đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa;
Thứ năm, luận án làm rõ sự cống hiến của cư dân Cù Lao Ré với tư cách là quê
hương của đội Hoàng Sa từ thời các chúa Nguyễn cho đến giữa thế kỷ XIX.
Chương 2
CÙ LAO RÉ: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ LỊCH SỬ TỤ CƯ
2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Tên gọi, vị trí địa lý, địa hình và khí hậu
2.1.1.1. Tên gọi
Trong quá trình Nam tiến, người Việt đã Việt hóa “pulau Ré” thành Cù Lao
Ré. Trong tư liệu nước ngoài, Cù Lao Ré được gọi là Wai Lo Shan (Trung Quốc),
Pullo Canton, Pulo Canton, Pulo Ratan, Cu Lao Ray, Poulo Canton (phương Tây).
Trong các tài liệu Việt Nam, ngoài tên chữ Lý Sơn, Cù Lao Ré còn được gọi là Du
Trường, Cù Lao Ré, Cù lao Lý. Năm 1804, Cù Lao Ré trở thành đơn vị hành chính
cấp cơ sở và đến năm 1898, triều Nguyễn nâng thành tổng Lý Sơn. Trước năm 1945,
Cù Lao Ré giữ nguyên tên gọi là tổng Lý Sơn. Đến ngày 1 tháng 1 năm 1993, Thủ
tướng Chính phủ ra Quyết định số 337 nâng Lý Sơn thành huyện gồm hai xã là Lý
Vĩnh và Lý Hải. Đến năm 2003, Thủ tướng ra Nghị định số 145 đổi tên gọi của hai xã
về tên gọi như thời các chúa Nguyễn, lập xã ở Cù Lao Bờ Bãi gọi là An Bình. Ngoài
tên gọi là Lý Sơn, Cù Lao Ré được dân gian sử dụng rộng rãi để chỉ hòn đảo này.
2.1.1.2. Vị trí địa lý
Với vị trí địa lý đặc biệt trên tuyến thương mại biển Đông, Cù Lao Ré sớm
được ghi nhận và thể hiện trên các bản đồ thế giới đương thời. Các công trình sử học,
địa lý, bản đồ cổ Việt Nam khi đề cập về Cù Lao Ré cũng cho biết vị trí khá chính
xác so với sự đo đạc ngày nay. Cù Lao Ré tức huyện đảo Lý Sơn ở vị trí phía Đông
Bắc của tỉnh Quảng Ngãi, cách bờ biển khoảng 18 hải lý, gồm đảo lớn Cù Lao Ré và
Cù Lao Bờ Bãi. Khoảng cách giữa hai hòn đảo là 1,67 hải lý. Tọa độ địa lý của Cù
Lao Ré nằm trong khoảng 1500 32’ 14’’ đến 1500 38’ 14’’ vĩ độ Bắc và 1090 05’ 04’’
đến 1090 14’ 12’’ kinh độ Đông. Toàn huyện đảo Lý Sơn hiện nay có dân số lên đến
21.118 người, mật độ dân số đạt mức 2.045 người.
2.1.1.3. Cấu tạo địa chất và diện mạo địa hình
Cù Lao Ré thuộc vào địa khối Indosinia và chịu sự chi phối về hoạt động địa
chất của địa hình khối này. Ở phía nam đảo, vào cuối Neogen đầu Đệ Tứ xuất hiện
những hoạt động phun trào bazan rộng khắp hình thành các vùng đất đỏ phì nhiêu. Về
diện mạo địa hình trên đảo khác nhau theo từng khu vực. Nơi cao nhất của Cù Lao Ré
là vùng phía bắc của đảo với núi Thới Lới và thoải dần về phía nam.
2.1.1.4. Khí hậu
Cù Lao Ré có hai mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau
và mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8. Sự chênh lệch nhiệt độ trong năm khá cao, tháng
8 nhiệt độ lên cao nhất, đạt trung bình 29,90C, nhưng ở tháng 12 nền nhiệt độ xuống
thấp nhất trong năm thì chỉ có 22,20C.
2.1.2. Tài nguyên thiên nhiên
2.1.2.1. Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất đai tự nhiên của Cù Lao Ré là 800 ha, trong đó đất nông
nghiệp chiếm khoảng 400 ha, đất lâm nghiệp chiếm 182 ha, đất chưa sử dụng là
218 ha. Đất đai của Cù Lao Ré chủ yếu có hai loại: đất cát biển có diện tích 110
ha, chiếm 10% diện tích tự nhiên; đất nâu đỏ trên nền đá bazan là 877 ha, chiếm
83% diện tích tự nhiên.
2.1.2.2. Tài nguyên rừng
Rừng tự nhiên trên Cù Lao Ré có diện tích khá lớn. Thời phong kiến, rừng tự
nhiên được bảo vệ khá nghiêm ngặt. Hiện nay, huyện Lý Sơn đang phát triển diện
tích rừng trồng để phủ xanh đất trống đồi trọc với kết quả tương đối khả quan.
2.1.2.3. Tài nguyên nước
Trên Cù Lao Ré có hai dòng suối tự nhiên đó là suối Chình ở xã An Hải và
suối Ốc ở xã An Vĩnh. Đặc biệt, Cù Lao Ré còn có một trữ lượng nước ngọt lớn
ngầm dưới lòng đất.
2.1.2.4. Tài nguyên biển
Cù Lao Ré được bao bọc xung quanh là biển. Theo dân gian, khoảng đầu thế
kỷ XX trở về trước, vùng biển của Cù Lao Ré có nguồn cá trích vô cùng phong phú.
Ven bờ biển còn có các loại ốc là nguồn đánh bắt thường xuyên của cư dân trên đảo.
2.2. Lịch sử tụ cư trên Cù Lao Ré
2.2.1. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh, Chămpa
2.2.1.1. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh
Cư dân Xóm Ốc
Di tích xóm Ốc thuộc thôn Đông xã An Vĩnh. Căn cứ vào niên đại C14 và đặc
điểm di vật di chỉ Xóm Ốc có thể xác định niên đại lớp sớm tiền Sa Huỳnh của di chỉ
Xóm Ốc khoảng 3000 năm cách ngày nay. Cư dân Xóm Ốc đã biết đến việc xe sợi
dệt vải và tự làm đẹp bằng đồ thủy tinh, đồng thau. Hoạt động kinh tế cơ bản của cư
dân Xóm Ốc là khai thác nguồn lợi từ biển.
Cư dân Suối Chình
Di tích Suối Chình nằm ở phía đông của Cù Lao Ré thuộc thôn Đông xã An
Hải. Trong tầng văn hóa Suối Chình có đặc điểm giống như Xóm Ốc và các hiện vật
của văn hóa Chămpa. Có thể thấy Suối Chình là di tích muộn của Xóm Ốc, phản ánh
quá trình phát triển của văn hóa Sa Huỳnh trên Cù Lao Ré từ Tiền Sa Huỳnh, Sa
Huỳnh đến văn hóa Chămpa
2.2.1.2. Cư dân văn hóa Chămpa
Từ nền văn hóa Sa Huỳnh, cư dân cổ Xóm Ốc và Suối Chình trên Cù Lao Ré
tiếp tục phát triển trong dòng chảy của nền văn hóa Champa. Người Chămpa quần tụ
thành các làng xóm nhỏ, sinh sống chủ yếu bằng nghề biển, thu lượm các loại nhuyễn
thể ven đảo đi đôi với trồng các loại cây rau củ, quả. Sự thay đổi mang tính chất bước
ngoặt của Cù Lao Ré chỉ bắt đầu khi lớp cư dân Việt tiến lên khai phá cộng cư cùng
cư dân sở tại.
2.2.2. Quá trình khai phá định cư của cư dân Việt
2.2.2.1. Khái quát quá trình di cư của cư dân Việt đến vùng đất Quảng Ngãi
Những năm đầu thế kỷ XV, với việc bình Chiêm của nhà Hồ, người Việt đã
đến vùng đất Quảng Ngãi sinh cư lập nghiệp. Đến thời nhà Lê đặt đạo thừa tuyên
Quảng Nam và vệ Thăng Hoa thì vùng đất Quảng Ngãi thực sự trở thành bộ phận
lãnh thổ của Đại Việt. Các cuộc di dân lớn của người Việt đến vùng đất Quảng Ngãi
diễn ra liên tục từ thế kỷ XVI về sau là cơ sở đặc biệt quan trọng để cư dân Việt tiếp
tục tiến ra biển làm chủ các đảo và quần đảo, trong đó có Cù Lao Ré.
2.2.2.2. Quá trình khai phá định cư của cư dân Việt trên Cù Lao Ré
Về nguồn gốc lớp cư dân Việt đầu tiên xuất hiện trên Cù Lao Ré, từ gia phả
các dòng họ cho thấy, lớp cư dân đầu tiên từ trong đất liền gồm 15 người dùng
thuyền mà nhân dân gọi là ghe bầu tiến ra Cù Lao Ré vào đời vua Lê Kính Tông đầu
thế kỷ XVII. Cư dân của xã An Vĩnh trong đất liền gồm có 7 người di cư ra khai canh
vùng đất phía tây của Cù Lao Ré lập nên An Vĩnh phường. Cư dân An Hải gồm có 8
người khai phá ở phía đông Cù Lao Ré lập ra An Hải phường.
Từ các sự kiện các nguồn tư liệu cung cấp về thời gian lớp cư dân Việt đầu tiên
tiến ra khai phá và định cư ở Cù Lao Ré, tác giả đi đến nhận định, các bậc tiền hiền
của Cù Lao Ré – lớp cư dân Việt đầu tiên đã khám phá ra hòn đảo từ những thập niên
cuối của thế kỷ XVI. Những năm cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVI, người Việt trên
Cù Lao Ré đã hình thành hai phường là An Vĩnh ở phía tây và An Hải ở phía đông.
Đến năm 1618, chính quyền chúa Nguyễn đã cử người ra đo đạc đất đai trên Cù Lao
Ré để phân chia địa giới đồng thời định mức đất đai để bổ thuế.
Tiểu kết chương 2
Với vị trí địa lý án ngữ trên tuyến hải thương quốc tế từ châu Âu sang châu Á
quan trọng bậc nhất thế giới lúc bấy giờ, Cù Lao Ré sớm được các nước phương Tây
đề cập đến trong các công trình nghiên cứu và trong các bản đồ hàng hải dưới các tên
gọi Pullo Canton, Pulo Cantan, Colauray hoặc được ký hiệu là P. Canton. Trên Cù
Lao Ré sớm trở thành địa bàn sinh sống của cư dân văn hóa Sa Huỳnh và sau này là
cư dân văn hóa Chămpa. Người Chămpa gọi hòn đảo này là “Pulau Ré” và được Việt
hóa thành Cù Lao Ré.
Từ các nguồn tư liệu cho thấy, vào những thập niên cuối của thế của thế kỷ
XVI, đã diễn ra quá trình khai phá đất đai của cư dân của hai xã An Vĩnh và An Hải
trong đất liền trên Cù Lao Ré. Đến năm 1618, chính quyền đã cho người ra Cù Lao
Ré đo đạc đất đai cắm mốc địa giới cho hai phường là phường An Vĩnh và phường
An Hải. Đây là nền tảng để cư dân Cù Lao Ré đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ chủ
quyền quốc gia với xứ Hoàng Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) giữa biển
Đông từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX.
Chương 3
ĐỜI SỐNG KINH TẾ VÀ TỔ CHỨC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN CÙ LAO RÉ
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
3.1. Đời sống kinh tế của cư dân Cù Lao Ré từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX
3.1.1. Nông nghiệp
3.1.1.1. Tình hình sở hữu ruộng đất
Sở hữu ruộng đất trên Cù Lao Ré bao gồm: Ruộng đất công do nhà nước quản
lý, theo kết quả đo đạc năm Mậu Ngọ (1618), Cù Lao Ré có tổng diện tích là 917 sào
7 thước trong đó ruộng đất công chia cho dân canh tác lên đến 83,5% đến năm 1821
tăng lên 4.181 sào trong đó diện tích ruộng đất công làng xã của Cù Lao Ré đã lên
đến 3747 sào, chiếm 89%; Đất dựng đình, dinh, miếu ở cả An Vĩnh và An Hải đều
quy định là 4 sào. Bắt đầu từ năm 1773, đình An Vĩnh được dựng còn đình An Hải
đến thập kỷ đầu của thế kỷ XIX mới xây dựng; Đất thưởng cho tiền hiền là ruộng đất
công chia cho các tiền hiền và sau này là dòng họ của các tiền hiền. Đến năm 1821,
diện tích đất đai cho các tộc họ tiền hiền đã lên đến 11%; Ruộng đất thuộc sở hữu
chung theo quy định là 73 sào. Đất chung có từ nhiều nguồn gốc khác nhau và hoàn
toàn do phường quyết định; Ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân ngoài ruộng đất của các
tiền hiền khai khẩn thì còn có từ nhiều nguồn khác nhau, phát triển mạnh dưới triều
vua Minh Mạng và lên đến đỉnh điểm vào thời vua Tự Đức.
3.1.1.2. Hoạt động kinh tế nông nghiệp
Nghề làm vườn: Đa số diện tích vườn trồng các loại cây và làm vườn ruộng.
Vườn ruộng là loại hình canh tác kết hợp giữa làm ruộng với làm nương rẫy.
Nghề làm ruộng: Ruộng ở Cù Lao Ré chiếm tỉ lệ khá ít trong tổng số diện tích
canh tác. Nhân dân hầu như không sử dụng cày, bừa với sức kéo của trâu bò mà chủ
yếu sử dụng dao, cuốc vào lao động sản xuất.
3.1.2. Ngư nghiệp
3.1.2.1. Phương tiện hoạt động
Người dân trên Cù Lao Ré dùng hai loại phương tiện là ghe bầu và xuồng, thuyền
thúng. Đối với mỗi loại cá, cư dân Cù Lao Ré dùng loại lưới khác nhau để đánh bắt.
3.1.2.2. Hoạt động ngư nghiệp của cư dân Cù Lao Ré
Hoạt động đánh bắt hải sản ở Cù Lao Ré rất đa dạng gồm: Nghề bủa lưới, nghề
lưới chuồn, nghề đánh bắt cá trích, nghề câu thúng, câu mực và bắt đồn đột, ... ở vùng
biển ven đảo hoặc ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
3.1.3. Thủ công nghiệp
3.1.3.1. Nghề đan lưới
Ở Cù Lao Ré nghề đan lưới gai là một trong những nghề truyền thống phục vụ
cho nghề đánh bắt cá của ngư dân trên đảo. Lưới sau khi đan xong được nấu chung
với mủ cây chai mắm cho lưới có màu đỏ và tăng độ bền của lưới.
3.1.3.2. Nghề đóng ghe bầu
Nghề đóng ghe bầu ở Cù Lao Ré vốn hình thành để phục vụ cho ngư dân trên
đảo và từng khá phát triển từ thế kỷ XIX trở về trước. Ghe đóng xong, người thợ lấy
dầu rái cùng mủ cây chai mắn quét lên nghe để chống rỉ nước.
3.1.3.3. Nghề ép dầu phụng và dầu hương
Theo các nguồn tài liệu cho thấy, ở Cù Lao Ré thời phong kiến tồn tại nghề ép
dầu phụng và dầu hương nhưng nay đã thất truyền. Loại dầu này vừa để buôn bán
trao đổi với đất liền và vừa dùng để nộp trực tiếp cho triều đình phong kiến thay cho
các loại thuế ruộng đất trên Cù Lao Ré.
3.1.4. Thương nghiệp
Cư dân Cù Lao Ré có truyền thống đi biển, họ có thể đóng mới các loại ghe
bầu kích thước lớn từ 35 thước mộc trở lên để dùng đi lại phục vụ buôn bán trên biển.
Sự giao lưu buôn bán này còn để lại bằng chứng là đồ gốm sứ các nước, đồng tiền cổ
phương Tây nằm trong lòng đất được nhân dân phát hiện.
3.1.5. Tô thuế
Ở thế kỷ XVI – XVII, sưu thuế áp dụng cho Cù Lao Ré chủ yếu là hiện vật,
đặc biệt là sản vật có nguồn gốc từ biển. Đầu triều Nguyễn, Cù Lao Ré chịu các loại
như thuế khác nhau nhưng duy nhất thuế thân (hay còn gọi là dung thân) là thu trực
tiếp bằng tiền. Đến cuối triều Nguyễn, chính sách tô thuế đối với Cù Lao Ré có sự
thay đổi đó là thuế điền thổ được thu bằng tiền.
3.2. Tổ chức xã hội Cù Lao Ré từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX
3.2.1. Từ thế kỷ XVII đến trước năm 1804
3.2.1.1. Đại diện chính quyền hai xã An Vĩnh và An Hải trên Cù Lao Ré
Bộ phận đại diện cho xã An Vĩnh, An Hải trong đất liền ra quản lý dân hai
phường chúng ta tạm gọi là bộ phận lý dịch, gồm có ba người giữ các chức Cai hợp,
Phiên ty, Thủ hợp. Đây là bộ phận quản lý chung của cả Cù Lao Ré. Chế độ quản lý
cấp xã trên Cù Lao Ré chấm dứt vào năm 1804, khi Cù Lao Ré tách ra khỏi sự phụ
thuộc vào các làng xã gốc trong đất liền.
3.2.1.2. Chức năng tự quản của phường
Trước năm 1804, ngoài đại diện chính quyền của hai xã trong đất liền, hai
phường An Vĩnh và An Hải trên Cù Lao Ré đã hình thành tổ chức tự quản do dân bầu
ra gồm có Cả phường (còn gọi là cả làng), chủ xóm, chủ lân (tức đại diện các chòm),
đại diện các dòng tộc, chủ vạn, binh xứ. Bên cạnh còn có bộ phận giúp việc như thầy
thông giảng, thủ bộ, thủ khoán. Ngoài ra còn có các chức khác do dân bầu ra đảm
nhận các công việc về nghi lễ, trông coi đình miếu,…
3.2.1.3. Các quy ước quản lý Cù Lao Ré
Trật tự xã hội ở Cù Lao Ré vận hành một cách vững chắc theo tinh thần dân
chủ và sự tuân thủ theo hương ước bao gồm: Quy ước liên quan đến tổ chức quản lý
xã hội; Những quy ước về an ninh trên đảo; Những quy ước về tín ngưỡng.
3.2.2. Từ năm 1804 đến giữa thế kỷ XIX
3.2.2.1. Sự thay đổi về cơ cấu tổ chức xã hội trên Cù Lao Ré
Năm 1804, Cù Lao Ré tách ra khỏi đất liền và thuộc chế độ “nội phủ” về mặt
quân sự còn về mặt tổ chức hành chính, Cù Lao Ré thuộc huyện Bình Sơn (Quảng
Nghĩa). Cù Lao Ré có các chức vụ trong đó 2 xã trưởng. Năm 1828, vua Minh Mạng
ban hành một số thay đổi về bộ máy quản lý cấp xã. Với sự điều chỉnh này, các chức Xã
trưởng đã được thay thế thành Lý trưởng đặt dưới sự giám sát chặt chẽ trực tiếp của tỉnh.
Đây là đặc điểm riêng biệt nổi bật của Cù Lao Ré so với các địa phương khác cùng cấp.
3.2.2.2. Nhiệm vụ của bộ máy quản lý xã hội trên Cù Lao Ré
Nhiệm vụ của đại diện chính quyền cấp dinh trấn
Đại diện cho chính quyền cấp dinh trấn quản lý Cù Lao Ré là một viên Cai hợp.
Dưới thời vua Minh Mạng không còn tồn tại chế độ “nội phủ”, Cù Lao Ré trở thành đơn
vị hành chính chịu sự quản lý gián tiếp của hai cơ quan là Án sát và Bố chính.
Nhiệm vụ của bộ máy tự quản trên Cù Lao Ré
Dưới triều Nguyễn Gia Long, Cù Lao Ré vẫn giữ nguyên chế độ tự quản như
trước mà hầu như không có sự thay đổi gì. Sự thay đổi trong tổ chức bộ máy quản lý
hai phường trên Cù Lao Ré chủ yếu diễn ra dưới thời vua Minh Mạng (1820 – 1840).
Điều dễ nhận thấy nhất đó là, chức Xã trưởng được thay thế bằng chức Lý trưởng
cùng hội đồng hương dịch giúp việc.
Tiểu kết chương 3
Từ khi xuất hiện trên Cù Lao Ré, cư dân Việt đã đồng cam cộng khổ khẩn
hoang, hình thành cộng đồng dân cư ngày càng đông đúc. Trong kinh tế, ngoài việc
chú trọng phát triển nông nghiệp, cư dân Cù Lao Ré hình thành các nghề thủ công
nghiệp truyền thống và các nghề phục vụ cho hoạt động đánh bắt hải sản trên vùng
biển Đông rộng lớn. Từ sự phụ thuộc chịu sự quản lý vào hai xã gốc dưới thời các
chúa Nguyễn và Tây Sơn, đến triều Nguyễn, Cù Lao Ré đã được tách ra thành đơn vị
hành chính độc lập vào năm 1804. Cù Lao Ré liên tục thuộc chế độ nội phủ và mang
nặng tính quân sự nhưng đến thời vua Minh Mạng hòn đảo này đã có sự thay đổi đặc
biệt. Mọi hoạt động của Cù Lao Ré đều do chính quyền cấp xã đứng ra điều hành
trong đó chức Lý trưởng đứng đầu hai xã An Vĩnh và An Hải. Sự phát triển kinh tế -
xã hội tạo điều kiện cho Cù Lao Ré góp phần quan trọng vào hoạt động đội Hoàng Sa
trong bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chương 4
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN
CỦA CƯ DÂN CÙ LAO RÉ
4.1. Đời sống văn hóa vật chất của cư dân Cù Lao Ré
4.1.1. Kiến trúc
4.1.1.1. Nhà ở
Nhà tranh tre là kiểu kiến trúc cổ xưa nhất của cư dân Cù Lao Ré. Bên cạnh đó,
cư dân Cù Lao Ré còn dựng kiểu nhà rường vách đất, mái lợp tranh có bộ khung
bằng gỗ, vỏ mái bằng tre và loại nhà gọi là “nhà lá mái” hay “nhà đắp”.
4.1.1.2. Các cơ sở tín ngưỡng và tôn giáo
Kiến trúc tín ngưỡng và tôn giáo trên Cù Lao Ré rất đa dạng bao gồm các loại
hình kiến trúc đình làng, dinh (đền) miếu, chùa và nhà thờ tiền hiền. Mỗi loại kiến
trúc có những đặc điểm độc đáo và có giá trị văn hóa lịch sử riêng.
4.1.2. Ẩm thực
4.1.2.1. Các món ăn có nguồn gốc từ biển
Người dân Cù lao Ré bao đời gắn bó với biển cả nên trong bữa ăn phần lớn là
các món hải sản với cách chế biến các món ăn theo đặc trưng khẩu vị riêng.
4.1.2.2. Các món ăn từ bột ngũ cốc
Hoạt động kinh tế nông nghiệp của nhân dân chủ yếu là trồng các loại hoa màu
khác như rau củ quả, ngô, đậu phộng, khoai lang và khoai mì còn lúa gạo thì phải
mua từ trong đất liền.
4.1.3. Phương tiện đi lại
Do sinh sống trên đảo với diện tích không lớn lắm, cư dân Cù Lao Ré di
chuyển trên đảo chủ yếu là đi bộ. Việc di chuyển từ Cù Lao Ré vào đất liền duy nhất
chỉ có phương tiện là thuyền mà nhân dân gọi là “ghe”.
4.2. Đời sống văn hóa tinh thần
4.2.1. Phong tục tập quán
4.2.1.1. Trong sinh hoạt cộng đồng
Phong tục ngày tết: Cũng như cả nước, đối với cư dân Cù lao Ré, tết Nguyên
đán là tết quan trọng nhất trong một năm. Ở Cù lao Ré sắp đến ngày tết, các đình,
miếu và nhà tộc họ cũng như mỗi gia đình trên đảo đều được trồng cây nêu trước sân.
Trong tế lễ đình làng: tổ chức ngày 20 tháng 2 và ngày 20 tháng 8 âm lịch
hàng năm, gồm 2 lễ chính là Lễ nhập yết và lễ tế chính.
4.2.1.2. Trong gia đình và tộc họ
Giống như các địa phương khác, đối với người Việt ở Cù Lao Ré thì việc thờ
cúng tổ tiên được mọi người coi trọng và tổ chức cúng tế nhiều lần trong năm. Bên
cạnh còn các tục trong sinh đẻ, hôn nhân, tang ma và giỗ tộc họ còn gọi là “cúng việc
lề” là nghi lễ hướng về cội nguồn tổ tiên, dòng họ đặc sắc của người dân Lý Sơn
4.2.2. Tôn giáo và tín ngưỡng
4.2.2.1. Tôn giáo
Ngoài các hoạt động tín ngưỡng, người dân Cù Lao Ré còn sùng kinh đạo Phật.
Ngoài hai ngôi chùa cũ là chùa Hang và chùa Đục thì còn có chùa Từ Quang, chùa
Vĩnh Ân và Tịnh xá Ngọc Đức với số lượng tín đồ lên đến 1.170 người. Các tôn giáo
khác như đạo Thiên chúa, đạo Cao Đài du nhập khoảng đầu thế kỷ XX với số lượng
tín đổ chỉ có 806 người.
4.2.2.2. Tín ngưỡng
Các tín ngưỡng trong sản xuất nông nghiệp phong phú gồm lễ động thổ, lễ
cúng Thần Nông, lễ tá thổ (cúng chúa đất Ngu Man nương), lễ hạ điền và thượng
điền, lễ cầu mùa, lễ tẩy trừ dịch bệnh,…
Các tín ngưỡng trong ngư nghiệp như thờ cá Ông, thờ Thủy thần, lễ tế âm hồn,
lễ ra mắt, lễ xuống nghề, lễ lên nghề, …
4.2.3. Một số lễ hội tiêu biểu
4.2.3.1. Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa
Trong hệ thống các di tích trên Cù lao Ré tồn tại hàng loạt các di tích lịch sử
liên quan đến hoạt động của đội Hoàng Sa cũng như các cá nhân thuộc đội Hoàng Sa.
Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa là lễ cúng cầu an cho những người con Cù Lao Ré đi
lính Hoàng Sa. Sau này, các tộc họ có người đi lính Hoàng Sa không trở về đã gắn lễ
cúng với giỗ họ nên được gọi là Khao lề thế lính Hoàng Sa.
4.2.3.2. Hội đua thuyền
Hàng năm đến ngày mùng 4 tết, sau lễ tế đình là hội đua thuyền tại đình làng để
tri ân các vị thần linh phù hộ cho dân làng bình an, mùa màng tươi tốt đồng thời, tưởng
nhớ các vị tiền hiền đã có công khai hoang định cư xây dựng làng xóm trên đảo
4.2.3.3. Trò chơi Dồi bòng
Trò chơi dồi bòng thường diễn ra vào ngày mùng 7 tháng Giêng tại đình làng
xã An Hải. Tham gia hội dồi bòng có các chàng trai của 4 xóm trong xã, được đánh
dấu bằng vôi: đen, trắng, xanh, đỏ trên trán của từng thành viên trong đội để phân biệt
đội xóm này với đội xóm khác.
Tiểu kết chương 4
Cùng với phát triển kinh tế - xã hội, cư dân Cù Lao Ré đã hình thành đời sống
văn hóa phong phú và đa dạng đậm chất hải đảo. Các yếu tố văn hóa Việt hòa cùng
văn hóa Chămpa cho thấy sự giao thoa tiếp biến văn hóa của cư dân Việt trong quá
trình Nam tiến mà Cù Lao Ré là một trong những điển hình của quá trình đó.
Trong đời sống của cư dân Cù Lao Ré còn hình thành một hệ thống giá trị văn
hóa gắn bó chặt chẽ với hoạt động nghề biển, đánh bắt hải sản trên Biển Đông. Các di
tích văn hóa lịch sử cũng như hệ thống lễ nghi quan trọng của cư dân Cù Lao Ré đều
liên quan đến biển. Đây cũng là một trong những bằng chứng cho thấy cư dân Cù Lao
Ré, đặc biệt ở phường An Vĩnh rất thạo nghề biển.
Đặc biệt, trong đời sống văn hóa của cư dân Cù Lao Ré cùng hệ thống di tích
văn hóa, lịch sử và lễ tết hội hè đa phần gắn liền với hoạt động của đội Hoàng Sa – tổ
chức thực thi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia thời phong kiến. Điều này
càng minh chứng rõ ràng, Cù Lao Ré là một phần quê hương của đội Hoàng Sa dưới
thời các chúa Nguyễn và triều Tây Sơn. Bước sang triều Nguyễn, Cù Lao Ré với vị
trí trọng yếu của nó đã thự sự trở thành quê hương của những người lính đi thực hiện
nhiệm vụ ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chương 5
ĐỘI HOÀNG SA VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC THI CHỦ QUYỀN VIỆT NAM
Ở HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA – TRƯỜNG SA CỦA CƯ DÂN CÙ LAO RÉ
TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
5.1. Sự ra đời và hoạt động của đội Hoàng Sa thời chúa Nguyễn và Tây Sơn
5.1.1. Thời điểm ra đời và quê hương của đội Hoàng Sa
5.1.1.1. Thời điểm ra đời
Đội Hoàng Sa được thành lập và hoạt động gắn bó chặt chẽ với cư dân Cù Lao
Ré cũng như đối với cư dân vùng cửa biển Sa Kỳ, mà cụ thể ở đây là xã An Vĩnh –
một trong hai xã gốc của cư dân Cù Lao Ré. Theo hàng loạt tư liệu và nội dung tờ
đơn đề ngày 15 tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 36 dưới vương triều Tây Sơn
(1775) do Hà Liễu là Cai hợp phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn
chỉnh lại đội Hoàng Sa cho biết khoảng thời gian thành lập đội Hoàng Sa nằm trong
thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Nguyên.
5.1.1.2. Quê hương của đội Hoàng Sa
Đội Hoàng Sa được thành lập trên cơ sở tuyển chọn dân đinh xã An Vĩnh. Xã
An Vĩnh ở vào thời điểm chúa Nguyễn tuyển chọn dân đinh tổ chức ra đội Hoàng Sa
bao gồm hai khu vực cách xa nhau là An Vĩnh ở cửa biển Sa Kỳ trong đất liền và
phường An Vĩnh ở ngoài Cù Lao Ré. Từ sau 1773, đội Hoàng Sa được phép tách ra
thành đội Hoàng Sa Nhất ở cửa biển Sa Kỳ gồm 10 thuyền và đội Hoàng Sa Nhị ở Cù
Lao Ré gồm 8 thuyền. Năm 1804, Cù Lao Ré được thành đơn vị hành chính cấp cơ sở
trở thành nơi cung cấp nhân lực chính cho đội Hoàng Sa. Như vậy, Cù Lao Ré và xã
An Vĩnh trong đất liền chính là quê hương của đội Hoàng Sa thời các chúa Nguyễn.
5.1.2. Cư dân Cù Lao Ré trong hoạt động của đội Hoàng Sa thời các chúa Nguyễn
và Tây Sơn
Công việc khai thác và khẳng định chủ quyền quốc gia đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa giữa Biển Đông được các chúa Nguyễn giao cho đội Hoàng
Sa. Sau một thời gian, Chúa Nguyễn lập thêm đội Bắc Hải hoạt động quản lý vùng
biển đảo tương đương với khu vực quần đảo Trường Sa đến Côn Đảo do Cai đội
Hoàng Sa kiêm quản. Do chiến tranh, hoạt động của đội Hoàng Sa bị gián đoạn vài
năm nhưng hoạt động trở lại dưới vương triều Tây Sơn theo tờ đơn xin chấn chỉnh lại
đội Hoàng Sa của phường An Vĩnh Cù Lao Ré đề ngày 15 tháng Giêng năm Cảnh
Hưng thứ 36 (1775). Ngày 27 tháng 10 năm Thái Đức thứ 8 (1785), Võ Văn Khiết
được triều Tây Sơn thăng làm Cai đội Hoàng Sa. Sự đóng góp của cư dân phường An
Vĩnh trên Cù Lao Ré mang tính quyết định trong việc duy trì hoạt động của đội
Hoàng Sa ở những thập niên cuối thế kỷ XVIII.
5.2. Cư dân Cù Lao Ré trong hoạt động bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa dưới triều Nguyễn đến giữa thế kỷ XIX
5.2.1. Dưới thời vua Gia Long (1802-1820)
Sang triều Nguyễn, tháng 7 năm Quý Hợi (1803), vua Gia Long đã “lấy Cai cơ
Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập đội Hoàng Sa”.
Đến đây, đội Hoàng Sa thực sự trở thành một đơn vị quân đội của nhà Nguyễn dưới
quyền chỉ huy trực tiếp của Cai cơ Võ Văn Phú là người Cù Lao Ré. Võ Văn Phú tiếp
tục sự nghiệp của người cha là Cai đội Võ Văn Khiết – người đã quản lý đội Hoàng
Sa dưới triều Tây Sơn. Năm 1804, Cù Lao Ré được lập chấp bằng riêng trong tuyển
mộ binh lính vào đội Hoàng Sa. Năm 1815, Phạm Quang Ảnh người phường An
Vĩnh của Cù Lao Ré tiếp tục giữ chức Cai đội của đội Hoàng Sa. Cư dân Cù Lao Ré
ngày càng đóng vai trò của mình đối với đội Hoàng Sa. Sau này khi đội Hoàng Sa
không còn hoạt động nữa thì ông vẫn tiếp tục phục vụ ở Hoàng Sa và Trường Sa với
tư cách là người chỉ huy của đội Thủy quân.
5.2.2. Dưới thời vua Minh Mạng (1820 – 1840) và Thiệu Trị (1840 – 1847)
Sau khi Minh Mạng lên ngôi đã triển khai hàng loạt hành động trong bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Ngày 22 tháng 11 năm Minh Mạng thứ 14 (1833), Phạm
Văn Sênh được giao trọng trách đứng đầu đoàn khảo sát đo đạc quần đảo Hoàng Sa
tiếp tục là người của phường An Vĩnh trên Cù Lao Ré.
Năm 1834, Minh Mạng lại đưa đoàn công tác của triều đình và lực lượng thủy
quân ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ. Triều Nguyễn cử Vũ Văn Hùng tuyển chọn ngư dân
thông thạo vùng Biển Đông để “làm thủy thủ”. Trong 8 ngư dân đưa đoàn công tác ra
Hoàng Sa thì Cù Lao Ré đã có tới 5 người. Đặc biệt, Vũ Văn Hùng và Đặng Văn
Xiểm là người Cù Lao Ré được nhắc đến với vị trí vai trò quan trọng. Năm 1835,
Minh Mạng lại tiếp tục cử người ra đo đạc quần đảo Hoàng Sa. Ngoài Phạm Văn
Nguyên giữ chức Cai đội Thủy quân còn có Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh đều là
người phường An Vĩnh của Cù Lao Ré.
Bước sang năm 1836 - 1937, công việc đo đạc vẽ bản đồ và cắm dấu mốc trên
các đảo của quần đảo Hoàng Sa tiếp tục được tiến hành. Chánh đội trưởng Thủy quân
Phạm Hữu Nhật là người phường An Vĩnh dẫn đầu các thành viên trong đội ra quần
đảo Hoàng Sa. Đóng góp của Cù Lao Ré ngoài những cá nhân giữ trọng trách trong
đội Thủy quân dưới thời Minh Mạng còn có các viên dẫn đường như Vũ Văn Hùng,
Phạm Văn Sênh và các “Thủy sư” – chức quan chuyên trách về việc đi biển trong
chính quyền Minh Mạng.
Bước sang năm 1838, cư dân Cù Lao Ré tiếp tục đóng góp tài lực vào cùng với
các hoạt động ra Hoàng Sa đo vẽ bản đồ của nhà nước. Từ khi Tự Đức lên ngôi (1847)
cho đến trước khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, hoạt động khai thác quần đảo
Hoàng Sa cũng như đo đạc thủy trình bị chững lại không được tiếp tục tiến hành.
Tiểu kết chương 5
Nhà nước phong kiến Việt Nam đặc biệt quan tâm tới sự toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia đối với vùng biển, đảo và quần đảo trên Biển Đông. Lực lượng được cử ra
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đội Hoàng Sa và sau này là đội Thủy quân dẫn
đầu. Đến năm 1838, bản đồ do triều Nguyễn biên vẽ hoàn thành gọi là “Đại Nam
nhất thống toàn đồ” thể hiện rất rõ ràng về “Hoàng Sa” và “Vạn Lý Trường Sa”, tức
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hiện nay. Trong tất cả các hoạt động liên quan đến
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX đều cho
thấy sự đóng góp của cư dân Cù Lao Ré. Việc khôi phục lại đội Hoàng Sa thời Tây
Sơn và đầu triều Nguyễn là một trong những đóng góp đặc biệt đó. Bước sang thời
vua Minh Mạng và Thiệu Trị, tên tuổi của những người con Cù Lao Ré được đề cập
với tần suất nhiều như Phạm Văn Sênh, Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Nguyên, Phạm
Hữu Nhật, … Điều này cho thấy, Cù Lao Ré thực sự xứng đáng là cái nôi, là quê
hương của những người lính Hoàng Sa từ thời các chúa Nguyễn đến triều Nguyễn, kể
cả khi đội Hoàng Sa hợp nhất vào đội Thủy quân.
KẾT LUẬN
Từ một hòn đảo với lớp cư dân văn hóa Sa Huỳnh, Chămpa, cùng quá trình
Nam tiến mở rộng lãnh thổ của người Việt, Cù Lao Ré đã trở thành một địa phương
trọng yếu trong hệ thống đơn vị hành chính của nhà nước phong kiến Việt Nam. Nhìn
lại chặng đường phát triển của Cù Lao Ré trên 250 năm từ thế kỷ XVII đến giữa thế
kỷ XIX, có thể rút ra một số kết luận sau:
1. Cù Lao Ré điều kiện tự nhiên thuận lợi nên sớm trở thành nơi xuất hiện con
người sinh sống định cư. Cách ngày nay trên 3000 năm, trên Cù Lao Ré đã xuất hiện
con người định cư sinh sống thuộc về nền văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa. Cù
Lao Ré có vị trí đặc biệt trên tuyến hải thương quốc tế biển Đông, là địa điểm có thể
cung cấp nước ngọt, lương thực, thực phẩm cho các chuyến tàu. Sự ghi nhận Cù Lao
Ré trong các bản đồ phương Tây với các tên gọi khác nhau như Pulo Canton, Pullo
Cantan, Colaure hoặc ký hiệu là P. Canton từ thế kỷ XVI cùng các ghi chép về đặc
điểm của Cù Lao Ré đã khẳng định tầm quan trọng của hòn đảo này đối với hoạt
động thương mại trên biển lúc bấy giờ.
Trong quá trình Nam tiến, từ những thập niên cuối của thế kỷ XVI, cư dân Việt
từ hai xã An Vĩnh và An Hải trong đất liền đã ra khai phá đất đai trên Cù Lao Ré
cộng cư cùng với cư dân văn hóa Chămpa bản địa dần đi đến làm chủ hoàn toàn hòn
đảo này. Sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của người Việt trên Cù lao trở thành
một trong những nguyên nhân dẫn tới người Chămpa dời bỏ hòn đảo này vào những
năm đầu thế kỷ XVII vào đất liền và di chuyển về phương Nam.
2. Cùng quá trình khẩn hoang, định cư và phát triển kinh tế nông nghiệp và
ngư nghiệp, Cù Lao Ré hoàn toàn do cư dân Việt làm chủ với sự hình thành hai cộng
đồng dân cư với tổ chức quản lý xã hội cấp phường là An Hải ở phía đông bắc và An
Vĩnh ở tây nam đảo vào năm 1618. Mặc dù vậy về mặt quản lý, hai phường An Hải
và An Vĩnh vẫn phụ thuộc vào hai xã gốc trong đất liền và chỉ hoàn toàn trở thành
đơn vị hành chính cấp cơ sở vào năm 1804 dưới thời vua Gia Long triều Nguyễn.
Xuyên suốt lịch sử Cù Lao Ré từ khi thuộc sự cai trị của các chúa Nguyễn cho đến
triều Nguyễn giữa thế kỷ XIX, về mặt quản lý hành chính có giai đoạn Cù Lao Ré
chịu sự quản của hai xã gốc An Hải, An Vĩnh hoặc chịu sự quản lý từ cấp huyện Bình
Sơn song luôn nằm trong sự quản lý trực tiếp của “nội phủ” hoặc cấp tỉnh sau này
dưới triều Nguyễn. Điều này làm cho Cù Lao Ré luôn đặt trong chế độ cai trị bán
quân sự, tồn tại hai cấp quản lý: quân sự - hành chính, trong đó yếu tố quân sự luôn
chiếm ưu thế nhằm đảm bảo cho Cù Lao Ré trở thành tiền đồn bảo vệ đất liền từ phía
biển và bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với các quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa giữa
biển Đông.
3. Sự quản lý trực tiếp của chính quyền cấp dinh trấn thậm chí từ triều đình
giúp cho Cù Lao Ré có điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế nông nghiệp, hình
thành các nghề thủ công và phát triển kinh tế ngư nghiệp khai thác ngư trường
biển Đông, đặc biệt là ngư trường thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Có
thể nói, các ngư dân trên Cù Lao Ré là những người thành thạo đường biển ra quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhất lúc bấy giờ. Do vậy mà các loại thuế áp dụng
cho Cù Lao Ré đa phần là thuế hiện vật có nguồn gốc từ biển như các loại cá quý
có nguồn gốc từ Hoàng Sa, các loại mắm, nước mắm cùng sản vật trên đảo như
dầu hương và dầu phụng.
Từ quá trình định cư làm chủ Cù Lao Ré và hoạt động kinh tế đa dạng đặc biệt
là nghề đi biển, cư dân Cù Lao Ré đã hình thành nên đời sống văn hóa của riêng tiếp
biến văn hóa Chămpa và mang đậm yếu tố biển đảo. Nhìn vào tổng thể các cơ sở thực
hành nghi lễ văn hóa, các lễ hội trên đảo cho thấy ngoài các yếu tố văn hóa Chămpa
được lưu giữ thì đa phần các cơ sở văn hóa và nghi lễ, lễ hội đều liên quan đến hoạt
động ngư nghiệp, đặc biệt liên quan đến lịch sử hoạt động của đội Hoàng Sa. Thông
qua tìm hiểu về lịch sử Cù Lao Ré trên tất cả các mặc kinh tế, văn hóa, xã hội và hoạt
động của đội Hoàng Sa cho thấy thực tế ngay từ khi ra đời đội Hoàng Sa gắn chặt với
sự phát triển của Cù Lao Ré.
4. Đội Hoàng Sa thành lập dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1614 – 1635)
với các thành viên lấy người xã An Vĩnh xung vào. Mặc dù các loại tư liệu chỉ phản
ánh số lượng người trong đội Hoàng Sa thuở ban đầu thành lập nhưng với sự nghiên
cứu tổng thể về Cù Lao Ré cho thấy giai đoạn này, cư dân phường An Vĩnh thuộc
vào sự quản lý của xã gốc trong đất liền. Cùng với hoạt động kinh tế truyền thống
thiên về ngư nghiệp trên ngư trường Hoàng Sa và Trường Sa, chắc chắn các ngư dân
phường An Vĩnh trên Cù Lao Ré đã trở thành lực lượng chủ yếu trong việc tuyển
quân xung vào đội Hoàng Sa. Cù Lao Ré thực sự là quê hương của đội Hoàng Sa
ngay từ buổi đầu thành lập lực lượng này và đó cũng là cơ sở dẫn tới sự xuất hiện
hàng loạt các di tích lịch sử cùng các nghi lễ, lễ hội văn hóa trên Cù Lao Ré đề cập
đến đội Hoàng Sa tồn tại cho đến ngày nay.
5. Cù Lao Ré – quê hương của đội Hoàng Sa ngày càng khẳng định vị trí vai
trò của nó trong hoạt động của đội Hoàng Sa dưới triều Nguyễn khi đội Hoàng Sa
nhập vào đội Thủy quân, lực lượng hoạt động trên biển. Cù Lao Ré đã trở thành địa
bàn trọng yếu trong việc tuyển người và cắt cử người tham gia cùng đội Thủy quân ra
đo đạc hải trình, các đảo và biên vẽ bản đồ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các
công trình lịch sử, địa lý quốc gia cho đến các châu bản triều Nguyễn khi đề cập đến
hoạt động của đội Hoàng Sa và sau này là đội Thủy quân trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ khai thác, đo vẽ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như nhiệm vụ
cứu trợ tàu thuyền gặp nạn trên biển Đông phần lớn đều liên quan đến Cù Lao Ré.
Đặc biệt trong hoạt động của đội Hoàng Sa cũng như đội Thủy quân xuất hiện nhiều
cái tên là những người con của Cù Lao Ré như cai đội Hoàng Sa Võ Văn Khiết, Cai
cơ Ngự thủ kiêm quản đội Hoàng Sa, Cai đội Phạm Quang Ảnh cùng các cá nhân
Đặng Văn Xiểm, Phạm Văn Sênh, Phạm Văn Nguyên, Vũ Văn Hùng, Phạm Hữu
Nhật, Phạm Văn Biện và lực lượng “thủy thủ”, “thủy sư” là những ngư dân giàu kinh
nghiệm, thành thạo việc đi ra Hoàng Sa được lịch sử và châu bản đề cập đến.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Dương Hà Hiếu (2014), “Biển, đảo Đàng Trong Việt Nam từ thế kỷ XVIII đến giữa
thế kỷ XIX (thông qua các tư liệu lịch sử, địa lý tiếng Anh đương thời)”, Kỷ yếu hội
thảo Nhận diện và phát huy các giá trị tài nguyên biển đảo phục vụ phát triển bền
vững vùng Nam Bộ, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, ISBN. 978 – 604
– 73 – 3021 – 8, tr. 47 – 66.
2. Dương Hà Hiếu (2015), “Quá trình khai phá và định cư của người Việt trên Cù Lao Ré
cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII”, Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng (số
66, 2015), ISSN. 1859 – 3427, tr. 33 – 41.
3. Dương Hà Hiếu (2015), “Biển, đảo Việt Nam trong các tư liệu tiếng Anh từ thế kỷ
XVIII đến giữa thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (số 5 (469), 2015), ISSN.
0866 – 7497, tr. 22 – 38.
4. Dương Hà Hiếu (2015), “Tình hình sở hữu ruộng đất trên Cù Lao Ré từ thế kỷ XVII
đến giữa thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (số 10 (474), 2015), ISSN. 0866 –
7497, tr. 10 – 20.
5. Dương Hà Hiếu (2016), “Đóng góp của cư dân Cù Lao Ré trong hoạt động thực thi
bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dưới triều vua Gia Long và
Minh Mạng”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (số 2 (191), 2016), ISSN. 0868 –
2739, tr. 42 – 50.