Đàn đá Dambri của Phan Trí Dũng

"Đàn đá Dambri" của Phan Trí Dũng không có gì bí ẩn cả, đó chỉ là một đàn

đá tân tạo ở thế kỷ XXI, do tình cờ gặp được trong số mấy trǎm thanh đá cổ

gom góp lại - với quan điểm một người đã học nhạc phương Tây mà tạo ra -

cũng như "đàn sành" của ông nhạc sĩ ở Hải Dương mà nhạc sĩ Đặng Hoành

Loan đã gặp, hay "đàn 12 âm" của một nhạc sĩ Mông Cổ mà tôi đã gặp tại

Ulan Bator nǎm 1985.

Trước ngày tôi trở lại Pháp, anh Phan Trí Dũng có mời tôi lại xem "bộ đàn đá 12

âm" mà anh mới "phát hiện". Nhưng vì hành lý chưa sắp đặt xong, và còn rất

nhiều việc chưa giải quyết được nên tôi không đáp được lời mời của anh.

Sáng nay (07/07/2004), trên mạng internet tôi đọc ba bài báo.

1. "Bí ẩn từ một bộ đàn đá Tây Nguyên" - báo Nhân Dân (3/7/2004) có ghi lại việc

anh Phan Trí Dũng "tình cờ" tìm thấy 24 thanh đá, bố trí theo âm giai 12 cung, và

đàn có thể tấu được bản Diễm xưa của Trịnh Công Sơn, và bản Triệu đoá hồng -

tình khúc Nga.

2. "Bí ẩn từ một bộ đàn đá Tây Nguyên, bất ngờ và độc đáo" đǎng trên báo Thanh

Niên (6/7/2004), do Tố Tâm thực hiện.

3. "Về bộ đàn đá bí ẩn ở Tây Nguyên trên báo Nhân dân" (theo báo Thanh Niên và

báo Thể thao - Vǎn hóa) tôi đọc sáng hôm nay.

Trong báo Thanh Niên có ghi lại ý kiến của Gs.Tô Vũ, Ts.Nguyễn Nhã và nhạc sĩ

Nguyễn Đức Lộc về "đàn đá Dambri".

Mặc dầu đã từng nghiên cứu sâu về các loại đàn đá: Khánh Sơn, Bác Ái, Bình Đa,

Tuy An... , là người có đủ kiến thức và thẩm quyền để nhận xét một cách khoa học

về các loại "đàn đá", Gs. Tô Vũ đã tỏ ra rất thận trọng trong khi phát biểu về đàn

đá Dambri. Giáo sư chỉ "bất ngờ và vui mừng" khi biết anh Phan Trí Dũng đã tìm

được rất nhiều thanh đá, mà theo giáo sư là loại đá sừng (một loại đá với đàn Ndut

Lieng Krak do Gs.Condominas phát hiện từ nǎm 1948 - 1949). Nhưng giáo sư chỉ

"khẳng định thanh đá này đúng là thanh đá cổ xưa", mà "không dám khẳng định

rằng tất cả các thanh là của chung một đàn đá cổ xưa", mà "... có thể đây là nhiều

thanh đá của nhiều bộ đàn đá ghép lại".

Ts. Nguyễn Nhã chuyên về sử học nên chỉ nhận xét rằng "nguyên liệu làm đàn đá

có ngay ở nước ta". Thật ra không phải đợi đến sự kiện tìm ra được mấy trǎm

thanh đá để lựa ra 24 thanh của đàn Dambri chúng ta mới biết việc ấy. Từ nǎm

1948 đến nay, các nhà khảo cổ và âm nhạc học đã phát hiện và khai quật được các

đàn đá Ndut Lieng Krak, Khánh Sơn, Bác Ái, Bình Đa, Tuy An... đã biết chắc

rằng nguyên liệu làm đàn đá là những loại đá sừng (roche cornéenne) hay schiste

métamorphique, rhyolite porphyre, rhyodacite ..v.v... có ở nước ta, trên vùng Tây

Nguyên. Và trên thế giới đến nay, trừ 3 thanh đá tìm tại Bolivia (Nam Mỹ) lưu giữ

tại Bảo tàng Con người ở Paris, chưa có nơi nào trên thế giới có loại đá ghè đẽo, to

và nhiều bằng những thanh đá khai quật tại Việt Nam. Khi chúng ta nói ở "nước

ta" là ở trên lãnh thổ của nước Việt Nam ngày nay, chúng ta không nên quên rằng

người chế tạo ra đàn đá không phải là người Việt (dân tộc Kinh) mà là người dân

tộc thiểu số vùng Tây Nguyên và đặc biệt là dân tộc Raglay.

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Lộc thì nghĩ đến việc "đàn dân tộc chơi nhạc hiện đại dễ

được giới trẻ đón nhận hơn". Chỉ có trong báo Nhân dân, bài phỏng theo Thanh

Niên và Thể thao Vǎn hóa, ngoài ý kiến của ba vị nói trên còn có nhận xét của

nhạc sĩ Đặng Hoành Loan - phó viện trưởng Viện Âm nhạc Việt Nam tại Hà Nội

về cây đàn đá Dambri là rõ ràng, chính xác, khoa học. Nhạc sĩ nêu ra hai vấn đề

rất quan trọng.

1. Đá kêu hay đàn đá.

Đá kêu thì có rất nhiều, thường được dùng để "giữ rẫy". Những thanh đá kêu

(tiếng Pháp là pierres sonores, tiếng Anh là sonorous stones) thường có kích

thước nhỏ, khi va vào nhau sẽ kêu vang cho chim chóc sợ không dám vào phá rẫy

(người Pháp gọi những loại đá đó là épouvantail bruiteur).

Đá kêu thường có tự nhiên, không được ghè đẽo cẩn thận để phát ra những âm

thanh có độ cao theo ý muốn của người chế tạo. Dân tộc Kabye ở Togo, châu Phi,

vào tháng 11 trong nǎm, khi mùa gặt hái đã xong, thường ǎn mừng bằng cách tìm

những thanh đá kêu, không quan tâm đến hình dáng và tiếng kêu như thế nào. Mỗi

gia đình lượm 6 thanh đá đặt trên một ổ rơm, như hình ngôi sao và dùng một hòn

cuội gõ trên mấy thanh đá không theo một nét nhạc nào, chỉ cần làm vang động

xóm làng bằng tiếng kêu. Những thanh đá ấy được gọi là "picancalla".

Đàn đá gồm những thanh đá mài nhẵn hay ghè đẽo, mỗi thanh phát ra một âm có

độ cao nhất định. Ở Trung Quốc, từ cả ngàn nǎm trước Công nguyên đã có những

thanh đá hình thước mộc hay hình cá, bằng ngọc thạch hay đá cẩm thạch, gọi là

qing (khánh). Một nhạc khí gồm 16 thanh đá kích thước giống nhau nhưng bề dầy

khác nhau gọi là bian qing (biên khánh). Thanh đá số 1 phát âm trầm nhất, là âm

hoàng chung. Các thanh phát ra những âm cách nhau nửa cung và trong một

quãng tám có 12 âm. 4 thanh cuối cùng phát ra 4 âm đầu mà một quãng tám cao

hơn. Biên khánh không phải là một nhạc khí dùng để đánh giai điệu, mà để làm

"chuẩn" cho các âm dùng trong nhạc lễ. Mở đầu một câu nhạc hay một đoạn nhạc

bằng một tiếng khánh. Chấm dứt một câu hay một đoạn nhạc bằng một tiếng

chuông.

12 âm ấy được gọi là Luật Lữ (6 Luật thuộc Dương, 6 Lữ thuộc Âm) mang những

tên sau đây:

Hoàng chung phát ra âm gần với Fa

Đại lữ: Fa#

Thái thốc: Sol

Giáp chung: Sol#

Cô tẩy: La

Trọng lữ: La#

Nhuy tân: Si

Lâm chung: Do

Di tắc: Do#

Nam lữ: Ré

Vô xạ: Ré#

Ứng chung: Mi

Biên khánh không phải một "dàn đá" có 12 âm mà là một dàn gồm 12 khánh đá

(người Pháp gọi là un carillon de 12 phonolithes, người Anh gọi là a 12 stones

chime).

Danh từ "đàn đá" chỉ dùng để chỉ những thanh đá ghè đẽo phát ra âm cao thấp

khác nhau, hợp thành một bộ, tìm thấy tại một nơi như các đàn đá kể phía trên.

Nếu sắp thanh đá song song với nhau như những thanh tre của đàn t'rưng, đàn ấy

người Pháp gọi là "lithophone" (một cách gọi giống như xylophone,

métallophone).

Điểm thứ hai trong lời phát biểu của nhạc sĩ Đặng Hoành Loan rất quan trọng:

Đàn đá Dambri không phải được tìm thấy nguyên một bộ đàn gom từ một nơi mà

do nhạc sĩ Phan Trí Dũng, lựa trong hơn mấy trǎm thanh đá, tìm được 24 thanh và

sắp theo thứ tự độ cao của thang âm bình quân 12 âm - chẳng khác chi ông nhạc sĩ

ở Hải Dương sưu tầm mảnh sành sứ gõ ra nghe âm thanh cao thấp khác nhau, tìm

trong mấy trǎm mảnh được 12 mảnh phát ra những âm phù hợp với 12 âm trong

thang âm bình quân, và gom thành một nhạc cụ đặt tên là "đàn sành".

Nǎm 1985, khi Hội đồng Âm nhạc quốc tế thuộc UNESCO phái tôi sang Mông

Cổ làm cố vấn cho Uỷ ban Âm nhạc quốc gia Mông Cổ tổ chức Diễn đàn âm nhạc

châu Á, tôi có tiếp chuyện cố giáo sư Baadra, xây dựng một cuộc triển lãm nhạc

khí truyền thống Mông Cổ. Một hôm, Gs. Baadra nói nhỏ với tôi: "Chúng tôi mới

phát hiện một "bộ đàn đá 12 âm" (đúng với 12 âm thang âm bình quân)", ông tươi

cười thích thú cho rằng bộ đàn đá đó chứng minh rằng "người Mông Cổ biết thang

âm 12 âm".

Tôi cũng ngạc nhiên, nhưng bán tín bán nghi, tôi yêu cầu được gặp chủ nhân cây

đàn đá Mông Cổ ấy. Sau buổi gặp gỡ và trò chuyện với chủ nhân bộ đàn đá Mông

Cổ 12 âm, chúng tôi biết rõ ông là một người sưu tầm đá tìm được trong khắp

nước Mông Cổ. Nhiều mảnh đá quí, đá lạ, đá thô sơ, đá mài nhẵn. Và ông cũng có

biết nhạc Tây phương và tình cờ phát hiện những thanh đá phát ra những âm cao

thấp khác nhau. Ông gom lại được 12 mảnh để làm thành một bộ đàn đá có 12 âm

như thang âm bình quân, và có thể dùng đàn ấy đàn được những bản nhạc Tây

phương. Nghe nói có cuộc triển lãm nhạc khí Mông Cổ, ông nghĩ rằng đàn này sẽ

làm cho người xem triển lãm ngạc nhiên nên đề nghị Gs. Baadra cho đàn đá của

ông tham dự triển lãm.

Tôi nói với Gs. Baadra rằng chúng ta triển lãm nhạc khí truyền thống Mông Cổ

nên không thể triển lãm những nhạc khí do người Mông Cổ học nhạc phương Tây

chế tạo bằng nguyên liệu cổ, với quan điểm mới. Và lẽ tất nhiên Gs. Baadra cũng

bật cười khi biết được sự thật, như nhạc sĩ Đặng Hoành Loan đã cười khi nghe nói

tới đàn đá Dambri 12 âm.

(Về thang âm 12 âm, nếu hiểu theo nghĩa thang âm dùng trong âm nhạc cận đại -

dodécaphonique - thì chỉ từ khi nhạc sĩ A.Schoenberg dùng thang âm 12 âm theo

cách đặc biệt đó để sáng tác mới có từ dodécaphonique.

Nếu là thang âm bình quân 12 âm thì theo nhạc sử phương Tây, sau khi có bài viết

của Werkmeister về vấn đề ấy, và khi được nhạc sĩ thiên tài Johann Sebastien

Bach thực hiện bằng những sáng tác trong Le clavecin bien tempéré, thang âm đó

đã được các nhạc sĩ khác dùng trong nhiều tuyệt phẩm của nhạc châu Âu.

Nhưng trong những tư liệu Trung Quốc về Luật Lữ, giới nghiên cứu âm nhạc phát

hiện rằng từ đời nhà Minh, Châu Tải Dục trong khi bàn đến 12 âm Luật Lữ (circa

1595) có đề cập đến nguyên tắc bình quân mà không áp dụng việc tạo một thang

âm với cách chia quãng 8 ra 12 bán cung đồng đều, chỉ chú trọng vào 12 Luật Lữ

được qui định từ âm Hoàng chung theo luật "Tam phân tổ ích", sắp theo thứ tự từ

thấp lên cao cũng thành một thang âm 12 âm trong một quãng tám. Nhưng như

chúng tôi đã nói rõ phía trên, đó là những âm "chuẩn" chứ người Trung Quốc

không dùng thang âm 12 âm bao giờ. Thí dụ như khi tấu bài Nhạc chương trong

buổi tế Đức Khổng Tử, âm Cung phải có độ cao bằng độ cao của âm Giáp chung

vào mùa Xuân, và âm Nam lữ vào mùa Thu.

Nói đến một bộ đá 12 thanh sắp theo thứ tự từ thấp đến cao của những âm do

những thanh đá ấy phát ra thì tại Trung Quốc, biên khánh đã có từ nhà Chu.

Khổng Tử một hôm thử gõ biên khánh, có người gánh cỏ nghe tiếng khánh dừng

chân và khen người gõ khánh quả là người có chí lớn.

Sở dĩ chúng tôi nêu lên những tư liệu trên đây vì muốn cho các bạn đọc tuy không

chuyên về âm nhạc học, cũng thấy rõ rằng những bộ đá 12 thanh, những thang âm

bình quân hay không bình quân đã có từ xưa, mang tính chất khoa học hay nghệ

thuật chứ không có gì "bí ẩn" cả.

Tiếp lời các vị giáo sư, nhạc sĩ đã được ghi trong các bài báo kể trên, tôi xin góp

vài ý kiến về cây đàn đá Dambri.

Với sự tiến bộ của khoa dân tộc nhạc học và kỹ thuật truyền thông trên thế giới,

chúng ta có thể khẳng định rằng đến ngày nay, chưa có một nhà khảo cổ hay dân

tộc học, dân nhạc học nào tìm ra một nhạc khí cổ nào trong truyền thống dân gian

có phát ra 12 âm như những âm của thang âm bình quân cả.

Kết luận:

"Đàn đá Dambri" của Phan Trí Dũng không có gì bí ẩn, đó chỉ là một đàn đá

tân tạo ở thế kỷ XXI, do tình cờ gặp được trong số mấy trǎm thanh đá cổ, gom góp

lại với quan điểm của một người đã học nhạc phương Tây, cũng như "đàn sành"

của ông nhạc sĩ ở Hải Dương mà nhạc sĩ Đặng Hoành Loan đã gặp hay đàn 12 âm

của ông nhạc sĩ Mông Cổ mà tôi đã gặp tại Ulan Bator nǎm 1985.

 Gs.Ts.Trần Văn Khê