Đàn Đáy
Đàn đáy chỉ có trên đất nước Việt nam
Đàn đáy cũng là một nhạc khí độc dáo. Thùng đàn hình chữ nhựt hay hình thang.
Mặt đàn băng cây ngô đồng, Mà đàn mặc dầu mang tên là đàn đáy mà không có
đáy. Vì thế ngày xưa cũng có tên là "vô để cầm" (đàn không đáy). Vì thế, khi cố
thi sĩ Nguyễn Hải Phương làm mấy câu thơ vịnh đàn đáy đã viết :
Tên em như có mà không
Ba dây dẫn sóng trăm sông về nguồn.
Ca trù đổ hột phách giòn
Tuổi phai xanh, chạm tiéng đàn lại xanh.
Đàn có ba dây tơ, cần thật dài, 10 hay 11 phím thật cao. Phím đầu đặt trên cần
giữa chỗ mắc dây và trục. Đầu đàn không có cầu đàn. Nhờ vậy mà nhạc công có
thể "nhấn chùn" tức là nhấn trên phím cao hơn mà chữ đàn không cao hơn. Không
cao hơn mà màu âm khác, nên cùng một độ cao mà một chữ gọi là Tinh, còn chữ
kia gọi la Tang, cho thấy trong truyền thống âm nhạc Việt Nam, màu âm được để
ý một cách đặc biệt. Phím đàn lại gắn theo cách đặc biệt làm cho những chữ đàn
không theo thang âm bình quân của piano đã đành, mà cũng không theo thang âm
ngũ cung trong ca nhạc Huế hay đờn ca tài tử. Khi đàn, nhạc công phải nắn dây,
và tay mât khi vê, khi vẫy, lúc lia lúc đánh hợp âm ra tiếng "Dinh" Nhờ dây dài mà
chỉ dùng phân nửa dây phía gần thùng đàn, khi nhấn thường hay nhấn chùn, tiếng
đàn đều nhờ độ rung nhẹ của dây làm cho ta nghe như tiếng dàn "mượn chữ", lung
linh, động mà không tịnh.
Đàn lại có một truyền thuyết. Tuy chưa được thống nhứt, nhưng theo tương truyền
thì dưới triều Lê, trong gia đình của Đinh Lễ, theo sach của hai tác giả Đỗ bằng
Đoàn và Đỗ trọng Huề, Đinh Dự theo các nghệ nhân ở Lỗ Khê, được tiên trao cho
gỗ và mẫu cây đàn, nói rằng cây dàn nầy ở trên thượng giới có phép mầu, làm cho
người nghe đàn, đang buồn thấy vơi sầu muộn, đang bịnh thấy người khoẻ ra. Nhờ
nghe tiếng đàn mà Bạch Hoa tiểu thư đang bị bịnh câm, nói lại được để khen tiếng
đàn hay. Bạch công cho hai trẻ vầy duyên cầm sắt Và đôi vợ chồng họ Đinh sau
khi truyền lại cho môn sinh nghệ thuật của Ca trù, theo Thầy về Trời và còn được
Vua nhà Lê phong cho chồng tước Thanh Xà Đại vương, và cho cờ tuớc Mãn Đà
hoa công chúa. Hai vị được thờ phụng tại Lỗ Khê như hai vị tổ trong truyèn thống
ca trù Một cây đàn chỉ có trên đất nước Việt Nam mà không có trên bất cứ nước
nào trên thế giới, ba dây mà khác hẳn San xian của Trung quốc, Shamisen của
Nhựt bổn, San dze của Mông cổ. Có cách gắn phím, cách đàn, kỹ thuật , nghệ
thuật độc đáo, được tạo ra trên đất Việt Nam theo một truyền thuyết Việt Nam,
tiềng đàn nghe trầm ấm, gân guốc, chững chạc, trang nghiêm, sâu sắc. Tiếng đàn
không theo tiếng ca từng chữ từng hơi, mà thuờng thì mở đường dẫn lối cho tiếng
ca. Có lúc đi rất gần tiếng ca để hỗ trợ, có khi vượt ra xa tiếng ca để gây sự chờ
đợi đàn ca gặp lại ở cuối câu thơ. Có khi từng chữ, từng câu chân phương trang
trọng, có khi hoa lá , bay bướm, phóng túng, trong đoạn lưu không để cho đào
nương nghỉ hơi, cho người nghe thích chí.
Thang âm điệu thức rất đặc biệt.
Thang âm, điệu thức, tiết tấu cũng khác hẳn các bộ môn nhạc cổ Viêt Nam.
Đàn đáy gắn phím theo thang âm rất lạ : quảng 8 chia ra 7 cung đồng đều. Thang
âm nầy chỉ gặp trong thang âm lý thuyết của hai dân tộc Thai và Khmer, tại Thái
lan và Kampuchea ngày xưa. Ngày nay các mộc cầm Ranad Tháilan và Roneat
Khmer đã bị các nhạc sĩ nước ngoài hay những nhạc sĩ trẻ vọng ngoại làm sai đi vì
muốn cho các nhạc khí đó có thể dùng đề đàn được những bản phương Tây. Thang
âm đó có trong điệu Hò mái nhì, nhưng cách rung nhấn khác hẳn.
Cấu trúc thang âm rất lạ : nguời học đàn đáy phải biết nét nhạc căn bản : Tính
Tinh Tang Tình Tính Tinh Tang . Cách chép nhạc, và xuớng âm cũng đặc biệt.
Không dùng Đô Rê Mi, Không dùng Cung Thương Giốc Chủy Vũ, Không dùng
Hò Xự Xang Xê Cống. Ngày xưa trong sách Vũ Trung tùy bút của Phạm đình Hổ
còn ghi lại mấy chữ đàn đáy Tính Tĩnh, Tình Tinh, Tung Tàng Tang.
Từ chữ Tính đến chữ Tinh hay Tang có một quảng ba trung bình, giữa quảng ba
trưởng và thứ. Quảng ba đó trên thế giới chỉ có Ba tư , vác các nước thuộc tryền
thống nhạc Á rập là có dùng thôi. Nhưng khác với truyến thống Á rập là người
Việt miền Bắc nhấn vào bực dưới của quảng 3 trung bình trong khi nhạc sĩ Á rập
nhấn bực trên của Quảng 3 trung bình.
Khi lời ca kết vào chữ Tang thì tiếng ca phải vuốt từ Tính xuống Tang.
Điệu thức có Hai Cung : Cung Bắc, Cung Nam. Nhưng khác hẳn Điệu Bắc Đệu
Nam trong ca nhạc Huế, hay đờn ca tài tử. Cấu trúc âm thanh, cách thể hiện hai
Cung rất tế nhị.
Trong bài "Thỏng Tỳ bà" , đàn và hát phải theo 5 cung : Cung Bắc, Cung Nam,
Cung Pha, Cung Nao, Cung Huỳnh .