LUẬN VĂN:
Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo công tác giáo
dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1996 đến 2006
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã và đang thu được
nhiều thành tựu quan trọng, tạo tiền đề vững chắc để đất nước bước vào một giai
đoạn phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH), xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Trong tình hình đó, đòi hỏi Đảng, Nhà
nước và mọi cán bộ, đảng viên phải đổi mới tư duy, nâng cao trình độ lý luận chính
trị của mình lên một tầm cao mới. Đặc biệt, người cán bộ cơ sở phải có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, năng lực trí tuệ nhất định. Theo
V.I. Lênin chỉ có Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả
năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong.
Trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến cơ sở là yêu cầu cấp
thiết cho mọi cán bộ chứ không phải chỉ riêng ở cán bộ nghiên cứu hay người làm
công tác lý luận như trước đây thường quan niệm.
Mặt khác, những biến động lớn về kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới
và khu vực cùng với sự yếu kém của nền kinh tế nước ta đã và đang làm nảy sinh
nhiều vấn đề mới phức tạp. Có những vấn đề đơn giản nhận thức được bằng trực
giác nhưng cũng có những vấn đề đòi hỏi phải có sự khái quát, phân tích bằng tư
duy lý luận thì mới có thể nhận thức và giải quyết được. Điều đó đòi hỏi người
cán bộ cơ sở phải có trình độ lý luận chính trị đáp ứng nhiệm vụ được giao.
Hơn nữa, năng lực và trình độ lý luận chính trị của cán bộ cơ sở có tác
dụng quan trọng trong lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội và an ninh trật tự ở địa
phương, thúc đẩy sự phát triển chung cho cả tỉnh, vùng và cả nước. Trình độ lý
luận chính trị đối với người cán bộ là yếu tố “then chốt” cho mọi hoạt động nhận
thức và hành động thực tiễn của họ. Cán bộ cấp xã, phường, thị trấn có nắm
vững, hiểu biết sâu sắc lý luận chính trị mới nắm chắc các quan điểm, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mới vận dụng một cách sáng tạo
vào tình hình cụ thể ở địa phương, từ đó rút ra những bài học, kinh nghiệm,
những kết luận góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung và phát triển lý luận, đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Để hoàn thành
tốt nhiệm vụ của mình thì cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, cán bộ cơ sở nói
riêng phải có trình độ, trong đó trình độ lý luận chính trị là không thể thiếu được.
Cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre được hình thành từ nhiều nguồn, trưởng
thành chủ yếu thông qua thực tiễn, chưa được đào tạo cơ bản, thiếu vốn kiến
thức chuyên môn, kiến thức lý luận chính trị. Bởi thế, trong nhận thức và chỉ đạo
thực tiễn họ thường mắc phải bệnh kinh nghiệm, giáo điều, điều hành công tác
lãnh đạo, quản lý cũng như xử lý công việc một cách máy móc, kém hiệu quả. Từ
thực tế trên đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở ở tỉnh Bến Tre không ngừng
nâng cao trình độ về mọi mặt, trong đó có kiến thức lý luận chính trị.
Tóm lại, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước thì người đảng viên nói chung, cán bộ cấp xã, phường, thị trấn ở
tỉnh Bến Tre nói riêng phải rèn luyện, nâng cao trình độ lý luận chính trị. Qua đó
mới có thể nắm bắt, phản ảnh đúng đắn quy luật phát triển của thời đại; vận dụng
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách có hiệu quả
và đề ra những quyết sách đúng, phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa bàn mình
phụ trách.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu đánh giá thực trạng và đề ra phương hướng,
giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ cơ sở ở Bến Tre có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt lý luận cũng như
thực tiễn.
Chính vì thế, tôi chọn đề tài: "Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo công tác giáo
dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1996 đến 2006" để viết
luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, mong muốn
góp một phần nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo
từ khi ra đời cho đến nay luôn coi trọng vấn đề giáo dục, rèn luyện, nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Thực hiện công cuộc đổi mới từ
Đại hội VI (tháng 12 năm 1986) đến nay, Đảng đã đưa ra nhiều chủ trương,
chính sách và những quy định về trình độ lý luận chính trị đối với cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở các cấp. Đây là những định hướng quan trọng góp phần nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Mọi cán bộ,
đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, phải có kế hoạch thường xuyên
học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực học tập thực
tiễn” [12, tr.140-141]. Ngoài ra, Quy định số 54/QĐ-TW của Bộ Chính trị khóa
VIII cũng khẳng định: "Đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở phải học
xong chương trình trung học chính trị tại các trường chính trị tỉnh, thành phố"
[14, tr.2].
Trong những năm gần đây, đã có những công trình nghiên cứu, bài viết
dưới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này như:
- “Một số vấn đề về công tác tư tưởng” của Đào Duy Tùng, Nxb Sách
giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội, 1985.
- “Xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị” của GS Nguyễn Đức Bình, Tạp
chí Cộng sản, tháng 5/1999.
- “Tạo bước chuyển biến mới trong việc học tập lý luận chính trị của cán bộ,
đảng viên” của Nguyễn Phú Trọng, Tạp chí Cộng sản, tháng 11/ 1999.
- “Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục lý luận
chính trị trong tình hình mới” của Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí Thông tin công
tác tư tưởng lý luận, số 1/2004.
- “Hội thi giảng viên dạy giỏi - hoạt động góp phần đẩy mạnh công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường chính trị” của TS Nguyễn Văn Sáu, Báo
Nhân Dân, tháng 11/2005.
- “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy Mác - Lênin ở các
Trường Chính trị tỉnh” của Nguyễn Đình Trãi, Luận án tiến sĩ Triết học năm 2001.
- “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Hồng
Lê, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2004.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao
chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng”
của Đoàn Thiện Tài, Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học năm 2006.
- Ngoài ra, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cũng đã tổ chức hội
thảo và xuất bản kỷ yếu: Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng, lý luận,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002. Hội thảo đã đề cập nhiều nội dung
quan trọng, đáng chú ý có các bài của các tác giả như: PGS,TS Nguyễn Khánh
Bật với bài Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng lý luận; PGS,TS Hoàng
Trang với bài Mấy suy nghĩ về công tác tư tưởng, lý luận ở Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh trong tình hình mới dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí
Minh; PGS,TS Lê Văn Tích với bài Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống -
khâu trọng yếu ở công tác tư tưởng, lý luận hiện nay, TS Phạm Ngọc Anh với
bài Quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận…
Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu ở những góc độ khác nhau, nhưng cho
đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Bến Tre đối với công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở. Vì
vậy, việc thực hiện đề tài Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo công tác giáo dục lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1996 đến 2006 là cấp thiết nhằm làm rõ
hơn vai trò quan trọng của việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ ở một cơ sở cụ thể, qua đó khắc phục những hạn chế, yếu kém về năng lực, trình
độ lý luận chính trị cũng như chỉ đạo thực tiễn của đội ngũ cán bộ tỉnh Bến Tre.
3. Mục đích, nhiệm vụ của nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trình bày có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Bến Tre vận dụng chủ
trương của Đảng để lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ cơ sở (1996 – 2006). Phân tích những kết quả bước đầu và đúc kết một số
kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo công tác này đối với đội ngũ cán bộ ở địa
phương.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ
trương của Đảng về công tác giáo dục lý luận chính trị để đào tạo lý luận chính
trị cho đội ngũ cán bộ (1996 – 2006).
- Đánh giá những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế trong công
tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở Bến Tre.
- Đúc kết những kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh
đạo công tác giáo dục lý luận chính trị từ năm 1996 đến 2006 và đề ra một số
kiến nghị, giải pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bến Tre đối
với công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở địa phương từ năm
1996 đến 2006.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bến Tre đối
với công tác giáo dục lý luận chính trị từ năm 1996 đến 2006.
Về không gian: Luận văn chủ yếu nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Bến Tre, có
nghiên cứu ở mức độ nhất định ở các tỉnh lân cận để so sánh.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh Bến Tre về công tác giáo dục lý luận chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và lôgíc. Ngoài ra, luận
văn còn sử dụng phương pháp khảo sát thực tế, phương pháp so sánh, thống kê,
phân tích, tổng hợp…
6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Luận văn trình bày một cách hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Bến Tre
vận dụng chủ trương của Đảng về giáo dục lý luận chính trị để lãnh đạo công tác
giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở nhằm đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ đặt ra trong những giai đoạn tiếp theo.
- Đánh giá kết quả công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
cơ sở ở Bến Tre (1996 – 2006)
- Đúc kết một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh
đạo công tác giáo dục lý luận chính trị để vận dụng trong thời gian tới.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và tuyên
truyền về lịch sử Đảng bộ tỉnh Bến Tre trong thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bến Tre
đối với công tác giáo dục lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ cơ sở (1996-2006)
1.1. quan điểm của chủ nghĩa mác-lênin, tư tưởng hồ chí minh, đảng
cộng sản việt nam về giáo dục lý luận chính trị và đặc điểm của tỉnh bến tre
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục lý luận chính trị
Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng, từ khi xã hội có sự phân
chia giai cấp thì bất kỳ một giai cấp, một chính đảng nào muốn nắm vững vai trò
thống trị của mình đối với xã hội thì trước tiên phải có trình độ lý luận trí tuệ để
nhằm tuyên truyền những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách… nhằm
bảo vệ sự thống trị của giai cấp mình. V.I.Lênin đã khẳng định: “Chỉ Đảng nào
được một lý luận tiền phong hướng dẫn, thì mới có khả năng làm tròn vai trò
chiến sĩ tiền phong” [28, tr.32].
Để hiểu bản chất của lý luận chính trị, trước hết cần tìm hiểu một số khái
niệm có liên quan.
“Lý luận” theo tiếng Hy Lạp “Theo rie” với nghĩa sơ khai của nó là quan
sát, nghiên cứu. Nhưng con người không chỉ dừng lại ở sự hiểu biết đó, mà con
người ngày càng tìm kiếm, bổ sung, phát triển khái niệm lý luận làm cho nó ngày
càng đầy đủ hoàn thiện hơn.
Ngày nay, lý luận được hiểu là tập hợp các khái niệm, phạm trù quy luật
được khái quát từ việc đúc rút những kinh nghiệm, hoạt động hằng ngày của con
người. Hay nói khác đi, lý luận là hệ thống các quan điểm, tư tưởng được khái
quát từ thực tiễn khách quan.
Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm
của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá
trình lịch sử. Lý luận chân chính là “đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm,
trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi
lại đem nó chứng minh trong thực tế” [30, tr.233].
Có thể nói, định nghĩa về lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn toàn
chính xác và đầy đủ về lý luận. Qua đó, Người đã góp phần làm sáng tỏ quan
niệm về lý luận cũng như nguồn gốc, cách thức hình thành lý luận.
Tóm lại, tuy có rất nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về vấn đề lý luận,
nhưng nhìn chung đều có sự thống nhất: lý luận là sự khái quát những kinh
nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội được tích luỹ
trong quá trình hoạt động sống của con người; là sự phản ánh bản chất, tính quy
luật, tất cả mọi hiện tượng trong đời sống xã hội và sau đó nó quay trở lại định
hướng cho hoạt động thực tiễn của con người.
Cho đến nay, trên thế giới có rất nhiều loại lý luận, ở mỗi ngành, lĩnh vực
có một hệ thống lý luận đặc thù riêng, nhưng chúng ta chỉ bàn lý luận chính trị.
Vậy chính trị là gì? Lý luận chính trị là gì?
Khi đề cập đến chính trị có rất nhiều quan điểm khác nhau. Tuỳ theo cách
tiếp cận cũng như việc bảo vệ lợi ích cho giai cấp mình mà người ta đưa ra các
quan điểm cho phù hợp. Theo quan niệm của các nhà kinh điển Mácxít thì chính
trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia đối với quyền lực nhà
nước.
Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nó xuất hiện cùng với sự xuất
hiện giai cấp, phân chia giai cấp và nhà nước. Theo tiếng Hy Lạp cổ chính trị là
“politica” có nghĩa là những công việc có liên quan tới nhà nước, là nghệ thuật
cai trị đất nước, đó còn là một tổ chức xã hội nằm dưới một quyền lực nhất định,
quyền lực nhà nước. “Chính trị theo nguyên nghĩa của nó là những công việc của
nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các
nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng
quyền lực nhà nước” [1, tr.507].
Vì lẽ đó V.I.Lênin khẳng định chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh
tế, chính trị do kinh tế quyết định. Nhưng mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng
khẳng định vai trò tích cực tác động trở lại của chính trị đối với đời sống kinh tế
- xã hội. Sự tác động của chính trị đối với cơ sở kinh tế thường diễn ra theo hai
hướng: nếu tư tưởng, quan điểm chính trị nào phản ánh đúng đắn sự vận động,
phát triển khách quan thì nó thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Ngược lại, nó
làm kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. V.I.Lênin khẳng định: “Chính trị
không thể không chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế”. Ưu tiên cho chính trị, là ưu
tiên cho việc giành lấy quyền lực chính trị và cho xây dựng các quyết sách chính
trị đúng. Để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế thì phải thông qua một hệ thống
chính trị như chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật nhà nước một cách
đúng đắn khoa học, không được sai lầm, mơ hồ về chính trị. Chính trị là một lĩnh
vực rất tinh tế, nhạy cảm, nó biểu hiện trên cơ sở các tri thức được tích luỹ trong
quá trình lịch sử và những quan hệ gắn với con người, với giai cấp, dân tộc và thời
đại. Do tính phức tạp, nhạy bén, năng động nên chính trị không có một công thức
chung, cách thức chung duy nhất nào cả và nó cũng không phải là con đường
thẳng tắp, thuận lợi, dễ đi mà nó là con đường quanh co phức tạp. V.I.Lênin cho
rằng chính trị giống đại số hơn là số học, càng giống toán học cao cấp hơn toán
học sơ cấp, chính trị là vận mệnh thực tế của hàng triệu con người.
Với góc độ tiếp cận khái niệm lý luận và khái niệm chính trị ở trên đây, có
thể đưa ra một khái niệm lý luận chính trị như sau: Lý luận chính trị là lý luận
trong lĩnh vực chính trị. Lý luận chính trị ra đời khi xã hội có giai cấp và đấu
tranh giai cấp để đại diện cho một lợi ích của một Đảng, một giai cấp nhất định
trong xã hội. Lý luận chính trị là hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối,
chính sách của một Đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực Nhà
nước.
Như vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận chính trị của giai
cấp vô sản, là hệ tư tưởng chân chính nhất của giai cấp vô sản và chính đảng của
mình - Đảng Cộng sản. Đó là kim chỉ nam của giai cấp vô sản trong cuộc đấu
tranh giải phóng mình, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột của giai
cấp tư sản và trả con người về đúng vị trí của nó.
Đảng ta, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã kết hợp một
cách nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân với chủ
nghĩa yêu nước. Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng luôn lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động của mình. Điều đó được Đảng ta khẳng định rõ trong Cương lĩnh đầu tiên
ngay từ khi thành lập Đảng (3/2/1930) và sau này trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Do thấy hết được vai trò to lớn của lý luận chính trị và công tác giáo dục
lý luận chính trị, cho nên qua nhiều năm khảo sát thực tế và tiếp thu kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh cho rằng muốn đánh được thực dân
đế quốc giành lại độc lập tự do cho đất nước thì trước hết phải làm cho dân giác
ngộ, tức là phải tiếp thu lý luận chính trị của Đảng và hành động cách mạng theo
phương châm của Đảng.
Năm 1925, Hồ Chí Minh bắt đầu mở các lớp giáo dục lý luận cách mạng
cho những người yêu nước của Việt Nam. Những bài giảng của Người được tập
hợp lại và xuất bản thành tác phẩm “Đường Kách mệnh” do Bộ tuyên truyền của
Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đông xuất bản năm 1927. Ngay trang bìa
dưới tên Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã trích câu của Lênin trong tác phẩm
“Làm gì ?” như một lời tựa: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách
mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh
mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiên phong” [30, tr.259]. Cùng thời gian này,
báo Thanh niên, là cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
do Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, ra số 95, 97 viết lý luận mà không thực
hành thì không để làm gì. Thực hành mà không có lý luận thì thất bại. Trong một
phần tư thế kỷ qua, những người cách mạng Việt Nam xem rẻ lý luận, cứ trực
tiếp dùng bạo lực mà không cần biết trước kết quả của hành động mình, cho nên,
trong thời gian đó, họ hy sinh nhiều người, nhiều của mà không đi đến đâu cả.
Như vậy, Hồ Chí Minh là người đầu tiên quan tâm tới lý luận cách mạng
và thực hành kiên trì, bền bỉ việc giáo dục lý luận chính trị cho các thế hệ người
Việt Nam yêu nước. Người đã để lại cho cách mạng Việt Nam cả một di sản to
lớn về giáo dục lý luận chính trị. Đó là cả một hệ thống quan điểm của Người về
khái niệm giáo dục lý luận chính trị, về vị trí và mục đích của giáo dục lý luận
chính trị, cũng như về nội dung, phương châm, phương pháp giáo dục lý luận
chính trị.
Trong đào tạo - giáo dục các thế hệ cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Đó
là một trong những vấn đề xuyên suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người.
Tư duy nhất quán và nổi trội ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là sau khi tìm ra
con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam, Người xác định: Cách mệnh trước
hết phải có cái gì? và Người trả lời: Trước hết phải có đảng cách mệnh. Theo
Hồ Chí Minh, đảng cách mệnh có sứ mệnh lịch sử là “để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi
nơi” [30, tr.267-268] mà đưa cách mạng của dân tộc đến thành công. Cách mạng
muốn thành công, theo Hồ Chí Minh, là đảng phải vững mạnh, đảng muốn vững
mạnh phải có lý luận soi đường và tất cả cán bộ, đảng viên cần phải hiểu và thực
hành theo lý luận đó. Người viết: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có
chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.
Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có
bàn chỉ nam” [30, tr.268]. Như vậy, đảng cách mạng trước hết phải được võ
trang bởi một lý luận tiền phong. Và để “trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng
phải theo” lý luận tiền phong ấy thì giáo dục lý luận chính trị là nhân tố không
thể thiếu được. Hồ Chí Minh đã tuyên truyền lý luận chính trị để sinh ra Đảng.
Và Người cùng với Đảng liên tục giáo dục lý luận chính trị cho các đối tượng
người Việt Nam yêu nước, dẫn đến Cách mạng tháng Tám thành công, thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam á.
Ngày nay, công tác giáo dục lý luận chính trị có thể hiểu theo nghĩa là
công tác truyền bá những tri thức lý luận chính trị, những thông tin cần thiết về
công tác xây dựng chính đảng của giai cấp; cụ thể hiện nay là: chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; định hướng các
lĩnh vực khoa học và công nghệ, kinh tế, các thành tựu khoa học xã hội và nhân
văn, các thông tin chính trị, xã hội và văn hoá.
Bên cạnh đó, công tác giáo dục lý luận chính trị góp phần quan trọng vào
việc nâng cao trình độ giác ngộ của quần chúng nhân dân, khơi dậy tinh thần kiên
cường bất khuất, dũng cảm hy sinh chống áp bức, bóc lột giành độc lập tự do; là
động lực thúc đẩy cán bộ, đảng viên và quần chúng hăng hái thi đua hoàn thành tốt
nhiệm vụ chính trị cụ thể được Đảng và Nhà nước giao cho tiến tới giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Ngoài ra, công tác giáo dục lý luận chính trị tác động trực tiếp đến tư
tưởng, tình cảm, đạo đức và khả năng thực hành công việc của mỗi người trong
thực tiễn cuộc sống, giúp họ khắc phục những tư tưởng lạc hậu, nâng cao trình
độ chính trị, tinh thần tự giác và tính tích cực trong quá trình xây dựng xã hội
mới.
Không những thế giáo dục lý luận chính trị còn nhằm góp phần xây dựng
và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập
kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá như: lý tưởng sống, lối sống, năng
lực trí tuệ đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam.
Hơn nữa, công tác giáo dục lý luận chính trị không phải là một việc làm
trừu tượng, một sự thuyết pháp, rao giảng chung chung mà là một công việc xuất
phát từ thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp mang tính chiến đấu, tính tư tưởng, tính
khoa học, tính giáo dục; nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn
cách mạng cụ thể, nhất định. Do vậy, công tác giáo dục lý luận chính trị phải
được trình bày một cách khoa học, tâm lý, nghệ thuật, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ,
dễ thuyết phục, dễ phổ biến.
Trong tình hình mới hiện nay, với việc thực hiện cơ chế thị trường định
hướng XHCN, Đảng ta rất coi trọng việc học tập, nghiên cứu lý luận trong tình
hình mới:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; con đường công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta;
đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị; xây dựng, chỉnh đốn Đảng
trong điều kiện mới, phát triển văn hoá; con người và nguồn nhân lực;
đặc điểm, nội dung của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại
và sự phát triển kinh tế tri thức, những tác động nhiều mặt của quá
trình toàn cầu hoá, dự báo xu thế, phát triển chủ yếu của thế giới và
khu vực; những vấn đề lý luận phục vụ quốc phòng, an ninh đối ngoại,
đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình” của các thế lực
thù địch [16, tr.135].
Để công cuộc đổi mới nhanh chóng đi đến thắng lợi, CNXH sớm trở thành
hiện thực, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX một lần nữa Đảng ta khẳng
định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh” [15, tr.83].
Đảng ta rất coi trọng việc học tập, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh vào từng điều kiện cụ thể mà thời đại
đặt ra. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng tiếp tục khẳng định:
Phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng,
kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo
trong hoạt động thực tiễn của Đảng. Nâng cao chất lượng nghiên cứu
lý luận và đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, công tác tư
tưởng trong Đảng, nhất là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ
chốt các cấp [19, tr.49].
Trong quá trình học tập, nghiên cứu chúng ta không được rập khuôn máy
móc, không nên quá nặng nề về vấn đề câu chữ, không được xem nó như là cái
đã hoàn hảo, là tuyệt đối mà phải biết bổ sung, phát triển nó trên cơ sở thực tiễn
mới làm cho nó luôn luôn sống động.
Vì nắm vững tinh thần cốt lõi chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần sâu sắc
tư tưởng Hồ Chí Minh, nên từ khi ra đời đến nay Đảng ta đã đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cùng với việc ban hành những chủ
trương, chính sách, mang tính đúng đắn, khoa học, cách mạng hợp lòng dân.
Bản chất lý luận chính trị của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước. Do đó, việc nâng cao trình độ lý luận chính trị là nâng cao
trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cho đội
ngũ cán bộ nói chung, cán bộ cơ sở nói riêng, là điều cần thiết mang tính cấp
bách cũng như chiến lược phát triển lâu dài của Đảng.
1.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế-văn hóa-chính trị-xã hội tỉnh Bến
Tre
Bến Tre là một trong 13 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, được hợp
thành bởi 3 cù lao lớn: An Hóa, Bảo và Minh do phù sa của 4 nhánh sông Cửu
Long (sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên) bồi tụ nên
qua nhiều thế kỷ.
Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt, mà đầu nhọn nằm ở
thượng nguồn, các nhánh sông lớn giống như nan quạt xòe rộng ra ở phía đông. Diện tích tự nhiên của tỉnh có 2.315,01 km2, phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, có
ranh giới chung là sông Tiền, phía Tây và Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà
Vinh, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên, phía Đông giáp biển Đông với chiều
dài bờ biển 65 km.
Điểm cực Nam của tỉnh nằm trên vĩ độ 9048’ Bắc, cực Bắc nằm trên vĩ độ 10020’ Bắc, điểm cực Đông nằm trên kinh độ 106048’ Đông, điểm cực Tây nằm trên kinh độ 105057’ Đông.
Đường bộ nối liền thị xã Bến Tre với thành phố Hồ Chí Minh (qua Tiền
Giang, Long An) dài 86 km.
Bến Tre là một tỉnh châu thổ nằm sát biển nên có địa hình bằng phẳng, rải
rác có những giồng cát xen kẽ với ruộng vườn, không có rừng cây lớn, chỉ có
một số rừng chồi, những dải rừng ngập mặn ven biển và ở các cửa sông. Bốn bề
đều có sông nước bao bọc, Bến Tre có một hệ thống đường thủy gồm những
sông lớn nối từ biển Đông qua các cửa sông chính (cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa
Hàm Luông và cửa Cổ Chiên), ngược về phía thượng nguồn đến tận biên giới
Campuchia và một hệ thống kênh, rạch chằng chịt đan vào nhau như những
mạch máu chảy khắp ba dải cù lao, rất thuận tiện cho giao thông vận tải cũng
như thủy lợi. Tàu bè từ thành phố Hồ Chí Minh đi về miền Tây và ngược lại đều
đi qua đất Bến Tre. Tuy có hệ thống đường thủy thuận lợi nhưng hệ thống đường
bộ gặp nhiều khó khăn do bị chia cắt bởi nhiều sông rạch chằng chịt. Điều kiện
địa lý cách trở làm cho vùng đất cù lao Bến Tre trở nên biệt lập từ bao đời nay,
không chỉ giữa Bến Tre với các tỉnh bạn mà sự biệt lập này diễn ra ngay trong
địa bàn của tỉnh bởi sự chia tách của hàng chục những cồn lớn, nhỏ khác nhau.
Chính điều kiện địa lý tự nhiên ấy đã hình thành nên một số nét tính cách
và tâm lý của con người Bến Tre. Điểm nổi bật của con người nơi đây là ý chí tự
lực, tự cường. Bởi lẽ, giữa bốn bề sông nước họ khó có thể dựa vào ai, chỉ có thể
dựa vào sức mình là chính. Tinh thần đó không chỉ thể hiện trong sản xuất mà
còn trong tổ chức đời sống xã hội và đặc biệt là trong chiến đấu.
Tuy nhiên, khi đề cập đến vùng đất này các nhà nghiên cứu thường hay
nói đến tính chất bảo thủ, ngưng đọng, nhịp sống trì trệ, chậm thay đổi… Do
điều kiện địa lý cách trở, giao lưu không thuận tiện có ảnh hưởng nhất định đến
sự phát triển tính cách, tâm lý cũng như trình độ nhận thức của con người Bến
Tre nói chung, đội ngũ cán bộ nói riêng. Từ đó nảy sinh tư tưởng hẹp hòi, ích kỷ,
cục bộ địa phương ở một số cán bộ, thể hiện qua câu ca dao:
“Sông Bến Tre có lở anh bồi
Sông Sài Gòn có lở anh ngồi anh coi”
Họ chỉ giữ lấy cái truyền thống, con người của địa phương mà không chú
ý vươn lên tiếp thu cái hiện đại, giá trị độc đáo của địa phương khác. Vì vậy
trong quá trình phát triển, cán bộ cơ sở ở Bến Tre phải khắc phục tư tưởng bảo
thủ, cục bộ địa phương để tiếp thu cái mới, cái phù hợp với quá trình CNH-HĐH
tỉnh nhà.
Nhìn lại lịch sử hơn 300 năm hình thành và phát triển, Bến Tre là một vùng
đất mới nhưng lại có bề dày lịch sử-văn hóa rất đáng tự hào. Ngay từ buổi đầu mở
đất, nhân dân Bến Tre đã ủng hộ nghĩa quân Tây Sơn do Quang Trung lãnh đạo
đánh tan 5 vạn quân Xiêm ở trận Rạch Gầm-Xoài Mút.
Chính mảnh đất này đã sản sinh ra những con người tài năng, có học vấn
uyên thâm. Phan Thanh Giản, người con của vùng đất Ba Tri, đã thi đỗ tiến sĩ
năm 30 tuổi và trở thành vị tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ lục tỉnh. Trương Vĩnh
Ký – con người có “học vấn uyên bác”, thông thạo hơn mấy chục ngôn ngữ, là
người làm báo đầu tiên, viết văn chữ quốc ngữ, viết ký quốc ngữ đầu tiên của cả
nước. Chỉ trong 40 năm, ông đã để lại 118 tác phẩm đủ các loại. Ngoài ra, chỉ
những cái tên như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Sương Nguyệt Anh,
Nguyễn Thị Định… cũng đã làm rạng danh quê hương Bến Tre.
Con người Bến Tre vốn anh hùng nhưng cũng rất hiền hòa, dung dị, thắm
đượm tình đất, tình người trong những câu chuyện kể, thơ ca dân gian, những
câu hò, điệu lý. Nhạc sĩ Lưu Nhất Vũ trong công trình sưu tập dân ca của mình
đã kết luận “Bến Tre là một trong những cái nôi của nguồn dân ca Nam Bộ”.
Điều này cho thấy, con người Bến Tre rất có ý thức bảo tồn và phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống của cha ông. Kết quả là Bến Tre đã được Bộ Văn
hóa - Thông tin - Du lịch công nhận 13 di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia.
Đặc biệt, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, quân và dân Bến Tre đã kiên cường chiến đấu và chiến thắng, góp
phần vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Chính trong đau thương, gian khổ của
cuộc chiến tranh đã làm xuất hiện những sự kiện lịch sử độc đáo gắn liền với tên
đất, tên người Bến Tre.
Càng không thể quên những sáng tạo trong hai cuộc kháng chiến
mới đây: vượt biển đầu tiên, ngay từ 1946, ra Phú Yên và đi Hà Nội
gặp Trung ương, Bác Hồ rồi mở đường Hồ Chí Minh trên biển, làm
đầu cầu tiếp nhận vũ khí từ Bắc vào, phân phối cho cả miền, gần như
tay không nổi lên Đồng khởi, chuyển ngoặt tình hình; đấu tranh chính
trị bằng “đội quân tóc dài” độc nhất vô nhị xưa nay… đều từ Bến Tre
[21, tr.11-12].
Chính vì thế, trong Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn miền Nam do
Trung ương cục miền Nam và Quân ủy Miền chủ trì (1968), Bến Tre được phong
tặng 8 chữ vàng “ANH dũng đồng khởi, thắng mỹ, diệt ngụy”. Kết thúc cuộc kháng
chiến, Bến Tre là tỉnh anh hùng được Nhà nước phong tặng 14 vị tướng, 53 anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 2.067 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 84 đơn vị xã,
phường anh hùng và 8/8 huyện, thị anh hùng. Đảng bộ và nhân dân Bến Tre có
quyền tự hào về điều này.
Là tỉnh có diện tích tự nhiên không lớn chỉ 2.315,01 km2 nhưng 70% diện
tích là đất nông nghiệp, cùng với 65 km bờ biển và hệ thống sông ngòi chằng
chịt đã cho Bến Tre lợi thế phát triển mạnh về kinh tế vườn và kinh tế thủy sản,
cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Trong
những năm gần đây, kinh tế Bến Tre có bước phát triển khá. Giai đoạn 1996-
2000, tổng sản phẩm quốc nội trên địa bàn chỉ tăng bình quân 6,18%/ năm nhưng
đến năm 2006 đã đạt 10,8%. Theo đánh giá của UBND tỉnh, trong những năm
qua cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng khu vực công nghiệp-xây
dựng và dịch vụ trong GDP tăng lên, khu vực nông nghiệp giảm dần. Các ngành
thủy sản, công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, thương mại-dịch vụ có bước phát
triển tích cực, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, kinh doanh và phục
vụ đời sống dân cư. Kinh tế đối ngoại được quan tâm, các chính sách khuyến
khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài được tỉnh vận dụng phù hợp,
thông thoáng và triển khai đạt hiệu quả bước đầu. Xuất khẩu tăng trưởng liên
tục, tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm (2001-2005) đạt 347 triệu USD, tăng
bình quân 32%/ năm, gấp 2,23 lần so với nhiệm kỳ trước.
Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH tốc độ
còn chậm, hiệu quả chưa cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bến Tre chưa bền
vững, còn phụ thuộc chủ yếu vào tốc độ tăng của khu vực I (nông-lâm-ngư
nghiệp). Năm 2006, GDP của tỉnh ở khu vực I (nông nghiệp) vẫn còn cao, chiếm
đến 54,7%; trong khi đó, khu vực II (công nghiệp, xây dựng) chỉ có 18,8% và
khu vực III (dịch vụ) 26,5%.
Về cơ cấu ngành nghề, Bến Tre do bị hạn chế về địa lý lãnh thổ nên mức
độ đa dạng hóa ngành nghề sản xuất còn thấp, chủ yếu vẫn là phát triển các
ngành nghề truyền thống của địa phương như làm nông nghiệp, khai thác và chế
biến nông, thủy hải sản. Tuy nhiên, trình độ phát triển còn thấp, quy mô sản xuất
nhỏ bé, vấn đề đổi mới thiết bị triển khai chậm. Mặt khác, do sự cách trở về địa
lý cũng làm cho việc thu hút đầu tư bên ngoài, cạnh tranh sản xuất và xuất khẩu
ở Bến Tre so với các tỉnh trong khu vực không có nhiều thuận lợi.
Bến Tre là tỉnh có diện tích đất không rộng nhưng lại đông dân (dân số
1.358.314 người tính đến cuối năm 2006), nền kinh tế phát triển chậm (Tốc độ
tăng trưởng GDP năm 2005 là 10,51%, năm 2006 là 10,8%; Thu nhập bình quân
đầu người năm 2005 là 7,355 triệu đồng, năm 2006 là 8,306 triệu đồng), điều
này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
đặc biệt là người cán bộ cơ sở. Tuy đời sống của người dân từng bước được cải
thiện nhưng đến nay, tỉ lệ hộ nghèo vẫn còn cao với 18.986 hộ, chiếm 17,47% số
hộ trong toàn tỉnh. Từ đó, nhiều vấn đề bức xúc đặt ra trên lĩnh vực xã hội ngày
càng gay gắt, nổi lên là vấn đề lao động, việc làm, thu nhập cá nhân, những vấn
đề về tệ nạn xã hội… Những nhân tố đó đã gây nên nhiều trở ngại không nhỏ
trong việc giáo dục lý luận chính trị cho người cán bộ cơ sở.
Mặt khác, Bến Tre là một trong những tỉnh bị chiến tranh tàn phá nặng nề
nhất của cả nước cho nên phải gánh chịu những hậu quả hết sức to lớn của cuộc
chiến tranh, đặc biệt là về mặt xã hội. Với hơn 35.000 liệt sĩ, trên 18.000 thương
binh, 2.067 Bà mẹ Việt Nam anh hùng (hiện còn sống 402 mẹ), gần 15.000
người bị nhiễm chất độc hóa học… Tất cả điều đó đã nói lên tính chất khốc liệt
của cuộc chiến tranh trên mảnh đất này. Đối với Bến Tre bao nhiêu anh hùng là
bấy nhiêu đau thương, bao nhiêu niềm vinh quang là bấy nhiêu nỗi bất hạnh. Vì
thế, những thế hệ người Bến Tre hôm nay mặc dù đời sống kinh tế vẫn còn
nghèo nàn, lạc hậu nhưng vẫn không ngừng phấn đấu vươn lên, khắc phục những
khó khăn thử thách, sống xứng đáng với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.
Có thể nói, quá trình quá trình phát triển kinh tế-xã hội của Bến Tre và
quá trình giáo dục lý luận chính trị cho người cán bộ cơ sở có quan hệ gắn bó với
nhau. Đời sống kinh tế phát triển thì người cán bộ có điều kiện để học tập, tiếp
thu những giá trị của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương,
đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời sau khi tiếp thu được
những kiến thức đó họ có thể vận dụng vào thực tế của địa phương và làm cho
địa bàn mình phụ trách phát triển về mọi mặt. Vì vậy, để việc lãnh đạo công tác
giáo dục lý luận chính trị của đảng bộ tỉnh Bến Tre có hiệu quả trước hết phải
chú trọng đến phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của người dân, đặc biệt là người cán bộ cơ sở.
Cấp cơ sở là cấp có vị trí quan trọng trong mối quan hệ với cấp huyện và
cấp tỉnh. Cấp cơ sở là nơi cụ thể hóa các nghị quyết, nghị định, hướng dẫn của
cấp tỉnh và cấp huyện, sâu sát với địa phương, trực tiếp lãnh đạo, quản lý địa
phương về mọi mặt. Chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở quyết định năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu và năng lực quản lý của đảng bộ, chính quyền cơ sở; quyết
định việc tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; vận dụng sáng tạo nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của tỉnh, huyện vào thực
tiễn sinh động ở địa phương. Đội ngũ cán bộ cơ sở không được nâng cao chất
lượng, đáp ứng yêu cầu về cơ cấu, phẩm chất và năng lực trong thời kỳ mới sẽ là
một thiệt thòi cho cách mạng, cho nhân dân địa phương. Nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là trình độ về lý luận chính trị là vấn đề quan trọng
hiện nay đối với tỉnh Bến Tre.
Đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Bến Tre, trước hết, cũng có những đặc điểm
chung của cán bộ cơ sở khu vực Nam Bộ là: đã trải qua thử thách gian khổ trong
đấu tranh cách mạng, có vốn sống, vốn kinh nghiệm thực tiễn phong phú, giữ
được phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng. Bên cạnh những mặt mạnh
đó, đội ngũ cán bộ này còn có những hạn chế nhất định làm ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả của công tác lãnh đạo. Đó là sự hạn chế về trình độ học vấn, trình
độ chuyên môn và đặc biệt là năng lực tư duy và trình độ lý luận chính trị.
Qua kết quả khảo sát thực tế của Sở Nội vụ từ 11/2003 đến 12/2006, đội
ngũ công chức xã về trình độ học vấn cũng như trình độ lý luận chính trị còn rất
hạn chế:
Toàn tỉnh có 1.283 công chức (đảng viên 868 người = 67,65%).
Về trình độ học vấn, có 28 người tốt nghiệp đại học (chiếm 2,18%), 4
người tốt nghiệp cao đẳng (chiếm 0,31%), còn lại (tiểu học, THCS, THPT, trung
cấp nghiệp vụ) 1.251 người (chiếm 97,51%).
Về trình độ lý luận chính trị, cao cấp 0,32%, trung cấp 22,1%, sơ cấp 19,9%.
Trong khi đó, trình độ quản lý còn hạn chế hơn nhiều, đại học 0,07%,
trung cấp 1,48%, sơ cấp 12,55%.
Giới tính: nam 80,7%; nữ 19,3%
Độ tuổi: dưới 30 tuổi 38,74%; từ 31- 45 tuổi 54,4%; từ 40 - 60 tuổi 6,7%;
trên 60 tuổi 0,43%.
Thâm niên công tác: dưới 5 năm 47,4%; từ 5 – 15 năm 42,24%; trên 15
năm 10,36%.
Thời gian giữ chức danh: dưới 5 năm 68,43%; trên 5 năm 31,57% [42, tr.2].
Với thực trạng về trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, trình độ quản lý,
giới tính, độ tuổi, thâm niên công tác… của đội ngũ cán bộ công chức xã nói riêng,
cán bộ cơ sở Bến Tre nói chung, để đáp ứng với yêu cầu và nhiệm vụ trong thời kỳ
mới cần phải được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thêm về nhiều mặt. Trong đó, việc
giáo dục lý luận chính trị là một mặt hết sức quan trọng nhằm bồi dưỡng nâng cao
năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ này.
1.2. Công tác giáo dục lý luận chính trị ở tỉnh Bến Tre (1996 – 2006)
1.2.1. Khái quát công tác giáo dục lý luận chính trị ở tỉnh Bến Tre trước
1996
Công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ là công tác rất
được Đảng ta đặc biệt quan tâm từ khi mới thành lập và cả trong quá trình lãnh
đạo của mình. Trong tình hình hiện tại, ngày 2 tháng 1 năm 1983, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã ra Quyết định số 15-QĐ/TW “ Về công tác các trường
Đảng”.
Nhiệm vụ cách mạng hiện nay đòi hỏi phải tiến hành cải cách
giáo dục lý luận chính trị, trước hết là cải cách công tác đào tạo cán bộ,
nhất là cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý chủ chốt của Đảng và Nhà
nước làm cho đội ngũ đủ phẩm chất và năng lực, nhất là năng lực tổ
chức thực tiễn [28, tr.217].
Nội dung chủ yếu của Quyết định số 15: Trung ương quy định nhiệm vụ
các Trường Đảng trong giai đoạn mới, tổ chức lại hệ thống Trường Đảng các cấp
và cải tiến chương trình, phương pháp học tập, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên.
Trong đó, BCHTW Đảng còn quy định chức năng của Trường Đảng
huyện, quận, thị xã vừa mở lớp tập trung vừa mở lớp tại chức bồi dưỡng các
Đảng ủy viên và Bí thư chi bộ cơ sở:
- Mở các lớp tập trung bồi dưỡng một cách cơ bản về chính trị và công tác
cho các Bí thư chi bộ, các Đảng ủy viên cơ sở sau mỗi kỳ Đại hội của Đảng bộ
cơ sở.
- Mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn nhằm phục vụ trực tiếp nhiệm vụ chính trị
trước mắt cho cán bộ lãnh đạo cơ sở (ngoài diện được bồi dưỡng ở Trường Đảng
tỉnh, thành phố) cho cán bộ các huyện, quận và thị xã.
- Trường Đảng huyện, quận và thị xã cùng với Ban Tuyên huấn của cấp ủy:
+ Trực tiếp mở lớp, tiến tới chỉ làm nhiệm vụ hướng dẫn; giúp đỡ các Đảng
ủy cơ sở mở các lớp học chính trị cho đảng viên mới, cho những người chuẩn bị
kết nạp vào Đảng.
+ Trực tiếp mở, hoặc hướng dẫn các Đảng ủy cơ sở mở các lớp học tại chức
theo chương trình phổ thông.
+ Hướng dẫn nội dung, phương châm, phương pháp học tập, bồi dưỡng
giảng viên cho các lớp học tại chức ở cơ sở.
- Trực tiếp giúp trường lý luận, chính trị tại chức của tỉnh tổ chức và quản
lý các lớp lý luận cơ bản có hệ thống mở ở địa phương.
Nhằm “tăng cường và thống nhất sự lãnh đạo, quản lý của tỉnh, Thành ủy và
ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ”, ngày 6 tháng 9 năm 1994, Ban Bí thư ra Quyết định số 88-QĐ/TW về việc
“Thành lập Trường Chính trị cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương” (gọi tắt
là Quyết định 88) trên cơ sở thống nhất Trường Đảng và Trường Hành chính hoặc
Trường Quản lý Nhà nước của tỉnh, thành phố, gọi là Trường Chính trị tỉnh, thành
phố có chức năng và nhiệm vụ:
a) Đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của Đảng, chính
quyền và các đoàn thể nhân dân ở cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và
các đơn vị tương đương: trưởng, phó phòng huyện, quận; trưởng, phó
phòng các ban, ngành cấp tỉnh và cán bộ dự nguồn các chức danh trên.
b) Bồi dưỡng ngắn hạn các đối tượng trên về lý luận chính trị,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
c) Bồi dưỡng kiến thức và nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, về
quản lý hành chính Nhà nước và công tác vận động quần chúng.
d) Tham gia nghiên cứu khoa học và tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn ở địa phương [28, tr.233-234].
Trên cơ sở quyết định số 88-QĐ/TW ngày 6/9/1994 của Ban Bí thư và cụ
thể hóa ở Bến Tre, ngày 25/10/1994, Tỉnh ủy Bến Tre đã ban hành Quyết định số
465-QĐ/TU “Về việc hợp nhất Trường Đảng Trần Phú và Trường Hành chánh
tỉnh thành Trường Chính trị tỉnh”.
Như vậy, Trường Chính trị Bến Tre ra đời trên cơ sở hợp nhất Trường Đảng
Trần Phú và Trường Hành chánh tỉnh với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về
lý luận chính trị, kiến thức xây dựng Đảng, quản lý hành chính Nhà nước và về
công tác dân vận, ngoài ra Trường còn có chức năng nghiên cứu khoa học.
Thực hiện nhiệm vụ trên, ngay từ đầu năm 1995, Trường Chính trị Bến Tre
đã tiến hành mở 1 lớp đào tạo cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể. Lớp đào tạo
chương trình trung học chính trị, hệ chính quy có 64 học viên, chương trình học
gồm có 11 phần học, thời gian học là 14 tháng, tương đương với 2.874 tiết học.
Đối với loại hình này, học viên phải đảm bảo các tiêu chuẩn: có trình độ học vấn
tốt nghiệp phổ thông trung học hoặc bổ túc, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam tuổi đời dưới 35, có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt, được địa phương
chọn lựa gửi đào tạo và phải thông qua Hội đồng duyệt sinh gồm có đại diện Ban
Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Chính quyền tỉnh, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy,
Trường Chính trị tỉnh.
Ngoài lớp đào tạo chương trình trung học chính trị hệ chính quy, 14 tháng,
Trường Chính trị Bến Tre còn mở lớp đào tạo chương trình trung học chính trị hệ
tại chức tại trường và huyện trong tỉnh cho cán bộ chủ chốt ở các tổ chức cơ sở
Đảng và các đơn vị tương đương với hình thức tập trung theo từng đợt trong
tháng hoặc theo tháng trong từng quý của năm học, mỗi đợt tập trung từ 10 đến
15 ngày. Học viên tham gia lớp học này đảm bảo các tiêu chuẩn như hệ chính
quy, chỉ khác là tuổi đời trên 35.
Về mặt chất lượng, hầu hết cán bộ được đào tạo qua lớp này đều đã giữ
những cương vị chủ chốt ở xã, phường, thị trấn, thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần không nhỏ vào việc
thúc đẩy chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương
phát triển theo đúng định hướng của Đảng.
Ngoài ra, thực hiện chức năng, nhiệm vụ “Tham gia nghiên cứu khoa học và
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương”, năm 1995, Trường Chính trị Bến
Tre đã thực hiện một đề tài khoa học cấp tỉnh: “Tiêu chuẩn và con đường hình
thành người Bí thư, Chủ tịch xã, phường, thị trấn tỉnh Bến Tre”. Đề tài này được
hội đồng khoa học đánh giá khả thi và xếp loại khá.
Mặc dù vừa mới sáp nhập, tổ chức chưa ổn định, điều kiện vật chất còn
thiếu thốn nhưng với tinh thần khắc phục khó khăn, Trường Chính trị Bến Tre đã
cố gắng vươn lên, mở được 3 lớp với hơn 200 học viên.
Bên cạnh việc ban hành Quyết định số 88-QĐ/TW về việc “Thành lập Trường
Chính trị cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”, ngày 3/6/1995, Ban Bí thư
cũng ban hành Quyết định số 100-QĐ/TW “về việc tổ chức trung tâm bồi dưỡng
chính trị ở cấp huyện” (gọi tắt là Quyết định 100).
Nhằm tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, thường xuyên bồi
dưỡng đường lối, chính sách của Đảng cho cán bộ, đảng viên, bảo
đảm tổ chức thực hiện các chương trình giáo dục lý luận chính trị, nâng
cao trình độ kiến thức và nghiệp vụ cho cán bộ đảng, chính quyền và
đoàn thể công tác trên địa bàn huyện [10, tr.1].
Theo Quyết định 100, TTBDCT huyện (quận, thị xã, thành phố) có nhiệm
vụ:
a) Tổ chức bồi dưỡng về lý luận chính trị, nội dung các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ trên địa bàn huyện (quận, thị xã,
thành phố) không thuộc đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của trường tỉnh, trước hết
là bí thư chi bộ, trưởng thôn, trưởng bản, các đối tượng phát triển đảng viên,
đảng viên mới…
b) Tổ chức thông tin khoa học, thời sự, chính sách cho đội ngũ báo cáo viên
ở cơ sở để qua đó thông tin cho cán bộ, đảng viên trên địa bàn huyện.
c) Thực hiện một số nhiệm vụ bồi dưỡng khác xuất phát từ nhu cầu thực
tế của địa phương, do cấp ủy quy định.
Sau khi tiếp thu Quyết định số 88-QĐ/TW và Quyết định số 100-QĐ/TW
của Ban Bí thư, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bến Tre đã quán triệt và thực hiện 2 quyết
định trên một cách nghiêm túc nhằm năng cao chất lượng công tác giáo dục lý
luận chính trị ở tỉnh nhà.
Khi đánh giá công tác xây dựng Đảng 5 năm (1991 – 1995), Báo cáo của
Đảng bộ tỉnh nhấn mạnh:
Về giáo dục lý luận chính trị, toàn Đảng bộ, đặc biệt là các cấp
ủy, cán bộ chủ chốt, các cấp, các ngành đều được nâng cao trình độ lý
luận chính trị thông qua việc học tập các Nghị quyết Đảng, các
chương trình lý luận chính trị và các chuyên đề chính trị cơ bản; tư
duy mới về kinh tế xã hội được phát triển thích nghi dần đặc điểm giai
đoạn cách mạng mới; sự đoàn kết được củng cố thực hiện nhiệm vụ
kinh tế xã hội và phục vụ lợi ích nhân dân được nâng lên; việc đấu
tranh ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực; tham nhũng, tha hóa, xây
dựng lối sống trong sạch lành mạnh, gần gũi và quan hệ mật thiết với
dân có sự chuyển biến tiến bộ; ý thức cảnh giác đấu tranh chống chiến
lược “Diễn biến hòa bình” trên các lĩnh vực được giáo dục thường
xuyên có kết quả [6, tr.31].
1.2.2. Công tác giáo dục lý luận chính trị ở Bến Tre từ năm 1996 đến
2001
Năm 1996 là năm đất nước ta chuyển sang thời kỳ mới – thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng (1996) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu cột mốc mới
trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta. Đại hội có nhiệm vụ kiểm
điểm việc thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, tổng kết 10 năm đổi mới; đề ra
mục tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đến năm 2000 và 2020.
Ngoài nhiệm vụ phát triển kinh tế, Đại hội còn đặt ra nhiệm vụ phải xây
dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới. Thực hiện tốt vấn đề trên, đối với
công tác lý luận, "trước hết hướng vào những vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ
căn cứ khoa học của các giải pháp, dự báo các xu hướng phát triển, góp phần bổ
sung, hoàn thiện đường lối của Đảng, làm cho ngày càng sáng tỏ con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta" [12, tr.140]. Điều này đòi hỏi “Mọi cán bộ, đảng viên,
trước hết là các cán bộ chủ chốt, phải có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng cao
trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn” [12, tr.140-
141]. Đồng thời, Đảng cũng quy định:
Việc học tập của cán bộ phải được quy định thành chế độ và phải
thực hiện nghiêm ngặt. Mọi cán bộ phải thường xuyên nâng cao trình
độ mọi mặt, rèn luyện, trao dồi phẩm chất chính trị, lòng trung thành
với lý tưởng cách mạng, ý chí kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, ý thức tổ chức kỷ luật, gương mẫu trong đạo đức và lối
sống, kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung, khi lợi ích cá
nhân mâu thuẫn với lợi ích chung thì phải biết đặt lợi ích chung lên trên
hết, trước hết [12, tr.146].
Như vậy, Đảng ta hết sức coi trọng việc học tập của cán bộ, đảng viên,
đặc biệt là học tập lý luận chính trị, quy định việc học tập phải trở thành “chế
độ”, “phải thực hiện nghiêm ngặt”.
Đặc biệt, ngày 12/5/1999, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành
Quy định số 54-QĐ/TW “về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng” xác
định cụ thể từng loại cán bộ giữ những chức vụ gì thì phải học chương trình lý
luận chính trị nào, ở đâu. Quy định 54 xác định rõ:
- Học tập là nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ, đảng
viên. Cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp
phải có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng cao trình độ lý luận
chính trị, kiến thức chuyên môn và năng lực hoạt động thực tiễn.
…
- Việc học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị được thực hiện
gắn với việc tiêu chuẩn hóa đối với cán bộ, đảng viên ở các cấp, các
ngành trong mọi hoạt động xã hội.
- Kết quả học tập lý luận chính trị là một trong những tiêu chuẩn
để xem xét đánh giá, sử dụng và thực hiện chính sách đối với cán bộ,
đánh giá tư cách đảng viên và tổ chức đảng trong sạch vững mạnh
- Thực hiện đúng quy định về phân công, phân cấp quản lý đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ về lý luận chính trị trong hệ thống trường lớp của Đảng,
Nhà nước, các đoàn thể chính trị-xã hội và hệ thống giáo dục quốc dân,
tránh sự chồng chéo, lãng phí [14, tr.1].
Quy định còn nêu rõ “Đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở, phải
học xong chương trình trung cấp chính trị tại trường chính trị tỉnh, thành phố”
[14, tr.2].
Tỉnh ủy Bến Tre ngay từ đầu đã thực hiện nghiêm những quy định, quyết
định của Đảng, thể hiện bằng việc cụ thể hóa, ban hành nhiều quyết định có liên
quan đến việc học tập, trong đó có học tập lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
tỉnh nhà.
Theo Quyết định số 88-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam ngày 05/9/1994, Trường Chính trị tỉnh, thành phố có chức
năng và nhiệm vụ chủ yếu:
Đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của Đảng, chính quyền và các đoàn
thể nhân dân ở cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn và các đơn vị tương đương); trưởng,
phó phòng huyện, quận; trưởng, phó phòng của các ban, ngành cấp tỉnh và cán bộ dự
nguồn các chức danh trên. Bồi dưỡng ngắn hạn các đối tượng trên về lý luận chính
trị, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Bồi dưỡng kiến thức
và nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, về quản lý hành chính nhà nước và về công
tác vận động quần chúng. Tham gia nghiên cứu khoa học và tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn ở địa phương.
Mặt khác, căn cứ vào Quyết định 100-QĐ/TW của Ban Bí thư thì các
TTBDCT ở cấp huyện có nhiệm vụ:
Tổ chức bồi dưỡng về lý luận chính trị, nội dung các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ trên địa bàn huyện (quận, thị xã,
thành phố) không thuộc đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của trường tỉnh, trước hết
là bí thư chi bộ, trưởng thôn, trưởng bản, các đối tượng phát triển đảng viên,
đảng viên mới…Tổ chức thông tin khoa học, thời sự, chính sách cho đội ngũ báo
cáo viên ở cơ sở để qua đó thông tin cho cán bộ, đảng viên trên địa bàn. Thực
hiện một số nhiệm vụ bồi dưỡng khác xuất phát từ nhu cầu thực tế của địa
phương.
Như vậy, so với Quyết định số 15-QĐ/TW ngày 2/1/1983, “Về công tác
các trường Đảng” thì Quyết định số 88 và Quyết định số 100 của Ban Bí thư quy
định chức năng, nhiệm vụ của Trường Chính trị và TTBDCT các huyện cụ thể
hơn. Đồng thời trung tâm cũng có những quyền hạn nhất định (con dấu, kinh phí
hoạt động…) so với Trường Chính trị. Điều này tạo điều kiện cho các trung tâm
hoạt động độc lập hơn (nhưng vẫn phải phối hợp với Trường Chính trị mở các
lớp trung học chính trị tại huyện), có hiệu quả hơn, tránh tình trạng “lấn sân”
giữa Trường và trung tâm.
Nếu như trước đây cả Trường Chính trị và trung tâm đều triển khai nghị
quyết của Đảng sau mỗi kỳ Đại hội, mở lớp đối tượng Đảng thì nhiệm vụ này
bây giờ chỉ giao cho các TTBDCT huyện, thị xã…
Có thể nói Quyết định số 88 và Quyết định số 100 của Ban Bí thư đã tạo
một bước ngoặt trong công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ
sở, phân công, phân nhiệm rõ ràng hơn, tạo điều kiện cho mỗi đơn vị hoạt động
có hiệu quả hơn.
Thực hiện chức năng và nhiệm vụ theo quyết định của Trung ương Đảng,
việc đào tạo hệ trung cấp lý luận chính trị đối với Trường Chính trị là nhiệm vụ
trọng tâm hàng đầu. Cần khẳng định rằng hệ đào tạo trung cấp lý luận chính trị
là hệ đào tạo dành cho đối tượng được xác định là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt của Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, các phòng ban
chuyên môn như đã nêu trên. Do đó, mục tiêu giáo dục lý luận ở Trường Chính
trị không phải chỉ phổ cập lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước mà thông qua đó làm
cơ sở cho việc xây dựng, củng cố, nâng cao tư duy khoa học, tầm nhìn chiến
lược và phương pháp biện chứng để xem xét và giải quyết các vấn đề trong
lãnh đạo, quản lý. Đồng thời, mục tiêu đào tạo ở Trường Chính trị theo chương
trình trung cấp lý luận còn nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm
chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, có ý thức tổ chức kỷ luật, vững nghiệp vụ
và khả năng đảm nhận các công việc về quản lý nhà nước ở ngạch cán sự,
chuyên viên.
Qua các lớp trung cấp lý luận chính trị, Trường Chính trị tỉnh Bến Tre đã
trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản và có hệ thống về lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; lý luận, thực tiễn nghiệp vụ và kinh
nghiệm về xây dựng Đảng, chính quyền, về công tác dân vận; giúp cho học viên
nâng cao niềm tin vào lý tưởng cộng sản, kiên định và trung thành với Đảng, với
sự nghiệp đổi mới; hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học, biết
vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo vào tình hình cụ thể tại địa phương, đơn
vị.
Công tác đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Bến
Tre cũng đã thể hiện được yêu cầu toàn diện vừa nâng cao tri thức lý luận, rèn
luyện năng lực tư duy, xây dựng bản lĩnh chính trị, rèn luyện phẩm chất đạo đức,
khả năng vận dụng vào thực tiễn; vừa nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, năng
lực tổ chức, tập hợp, giáo dục, thuyết phục, lôi cuốn quần chúng, huy động sức
mạnh tổng hợp của xã hội để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân
dân giao phó.
Việc thực hiện nội dung, chương trình giáo dục lý luận chính trị trong thời
gian qua ở Trường Chính trị tỉnh Bến Tre đã đạt được những kết quả như sau:
Thời gian này Trường Chính trị tỉnh Bến Tre thực hiện theo Chương trình
trung học chính trị được Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
ban hành ngày 01/7/1996 (gọi tắt là Chương trình 1996), gồm 11 môn học, 150
bài; ngoài ra còn có phần báo cáo về tình hình, nhiệm vụ của địa phương; nghiên
cứu thực tế và viết tiểu luận cuối khóa. Thời gian mỗi khóa học là 14 tháng (đối
với lớp học tập trung) và 20 tháng (đối với lớp học tại chức), trong đó có 2 tháng
nghỉ hè, lễ, tết và dự trữ; số tiết thực học toàn khoá là 2.538 tiết.
Thực hiện chương trình này, trong thời gian từ năm 1996 – 2001, Trường
Chính trị Bến Tre đã đào tạo được 2.196 học viên, trong đó hệ tập trung: 794 học
viên, hệ tại chức: 581 học viên, hệ hoàn chỉnh: 821 học viên.
Đối với TTBDCT các huyện, thị theo Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện
Quyết định 100 của Ban Bí thư từ tháng 1/1996 đến 12/2001 đã tổ chức triển
khai, học tập nghị quyết Đảng được 527 lớp, có 60.808 cán bộ, đảng viên tham
gia, từ đó nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở, giúp họ
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chủ trương, chính sách của nhà nước.
Đồng thời cũng thông qua đó họ tuyên truyền, giáo dục để nhân dân hiểu được
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của
công dân.
1.2.3. Công tác giáo dục lý luận chính trị ở Bến Tre từ năm 2001 đến
2006
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng một lần nữa
khẳng định “nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn” trong công tác xây dựng
Đảng
Trước hết, phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của
Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong
thực tiễn hoạt động của Đảng. Nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận và
đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, công tác tư tưởng trong Đảng,
nhất là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp [19,
tr.49].
Quán triệt sâu sắc các Nghị quyết, Quyết định của Đảng về công tác đào
tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở
tỉnh nhà, ngày 12 tháng 7 năm 2002, Tỉnh uỷ Bến Tre đã xây dựng chương trình
hành động của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
(khóa IX) “về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình
mới”. Chương trình hành động Ban Thường vụ Tỉnh uỷ nêu rõ:
Một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về nhận
thức tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng, sa sút phẩm chất, đạo đức,
lối sống, nhất là nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh còn hạn chế; trình độ lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên
tuy đã được nâng lên. Song, vẫn còn tình trạng một số cán bộ, đảng
viên còn ngán ngại học tập chính trị và nghiên cứu nghị quyết, chủ
trương của Đảng [48, tr.1].
Đồng thời, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ cũng xây dựng chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) “Về đổi mới nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”. Tiếp theo ngày 28 tháng
10 năm 2002, UBND tỉnh Bến Tre xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cơ sở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2002 -2005.
Để chương trình kế hoạch trên thực hiện đạt hiệu quả Tỉnh uỷ - UBND
tỉnh Bến Tre phối hợp, lãnh, chỉ đạo Trường Chính trị tỉnh và TTBDCT các
huyện, thị có chính sách khuyến khích và đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ cơ sở.
Nhận thức sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ với việc vận dụng sáng tạo quan điểm của Đảng về
việc “đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng người ưu tú trở thành cán bộ
chủ chốt” và “dành kinh phí thoả đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ
cơ sở” [11, tr.148] vào tình hình cụ thể ở địa phương.
ý thức vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vấn đề trên, ngày 4/9/2001
UBND tỉnh Bến Tre ban hành Quyết định số 4051/2001/QĐ-UB “Về việc ban
hành Quy định về chính sách trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và
thu hút cán bộ, công chức có trình độ, năng lực tốt”, trong đó có cán bộ cơ sở
nhằm khuyến khích, động viên, thu hút cán bộ đi học để nâng cao trình độ nói
chung, trình độ lý luận chính trị nói riêng. Qua số liệu điều tra của Sở Nội vụ
Bến Tre thì cán bộ cơ sở đã được đào tạo, bồi dưỡng về trình độ trung cấp lý
luận chính trị không cao so với Quy định 54 của Bộ Chính trị, mới đạt 80,7%/
tổng số cán bộ cơ sở.
Nhìn chung, số cán bộ cơ sở đã học xong chương trình trung cấp lý luận
chính trị thì khả năng nhận thức, am hiểu khá toàn diện về mọi vấn đề, tiếp thu
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước một cách
chính xác, khoa học và vận dụng vào tổ chức, triển khai có tính sáng tạo phù hợp
với tâm tư nguyện vọng của nhân dân và được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Điều
này đã chứng minh được vai trò, tầm quan trọng của việc nâng cao trình độ lý
luận chính trị đối với đội ngũ cán bộ cơ sở. Bởi vì, cấp cơ sở là cấp tiếp xúc trực
tiếp với nhân dân, tham gia giải quyết mọi vấn đề xảy ra trong đời sống xã hội
của quần chúng nhân dân. Cho nên, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước và của cấp trên trở thành hiện thực, có giá trị thực tiễn thì phải
thông qua cấp cơ sở. Trình độ lý luận chính trị giúp cho người cán bộ nói chung,
cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn thấm nhuần, hiểu sâu
hơn vai trò của quần chúng nhân dân; qua đó, họ có thêm kinh nghiệm về cách
thức tổ chức thực hiện các nghị quyết, quyết định, chỉ thị của cấp trên đến tận
nhân dân, thông qua đó tiếp thu những ý kiến xác đáng của nhân dân báo cáo lên
cấp trên, báo cáo cho Đảng - Nhà nước, làm cơ sở cho Đảng - Nhà nước bổ sung,
hoàn thiện các chủ trương, chính sách của mình.
Những cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở đã được nâng cao
trình độ lý luận chính trị thì họ phát huy được khả năng, năng lực tổ chức, thực
hiện triển khai phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, sức khoẻ, đảm bảo an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội, phát huy được quyền làm chủ của nhân dân ở
cơ sở. Qua đó, họ đã trưởng thành rõ rệt về lập trường tư tưởng, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, lề lối tác phong làm việc khoa học hơn, gần gũi dân chúng
hơn và được nhân dân tín nhiệm cao hơn.
Tuy nhiên, so với yêu cầu hiện nay cũng như Quy định số 54 của Bộ
Chính trị về tiêu chuẩn của cán bộ, thì cán bộ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
cấp cơ sở ở Bến Tre còn 18,83% ở trình độ sơ cấp. Số cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt cấp xã đã qua đào tạo cao cấp lý luận chính trị mới đạt 12,47%, trung
cấp quản lý hành chính là 9,97%. Trong giai đoạn hiện nay, nhất là thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, song song với việc phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội làm cho đời sống nhân dân được nâng lên cả về vật chất lẫn
tinh thần, đặc biệt là trình độ dân trí ngày càng được nâng cao. Do đó, để lãnh
đạo được nhân dân thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn ở tỉnh thì đội ngũ cán bộ cơ sở phải có trình độ được đào tạo
cơ bản, toàn diện về mọi mặt, nhất là trình độ lý luận chính trị. Vì thế, Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ Bến Tre xây dựng kế hoạch công tác quy hoạch cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp theo tiêu chuẩn “cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ
sở phải tốt nghiệp trung cấp lý luận chính trị và trung cấp chuyên môn nghiệp
vụ”.
Như vậy, quán triệt sâu sắc Quy định 54 của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ Bến Tre tiếp tục đào tạo những cán bộ đang giữ chức vụ chủ chốt cấp xã
chưa đạt chuẩn theo quy định và xem việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung, cán
bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở là một chiến lược thường xuyên, liên tục và
lâu dài. Cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bến Tre hiện nay thì có một
số cán bộ tuy đã được đào tạo xong nhưng đã quá lâu, có một số kiến thức đã lạc
hậu không còn phù hợp với thực tiễn sinh động. Nhất là các đồng chí lớn tuổi, nghỉ
hưu về tham gia công tác ở cơ sở thường có suy nghĩ là đã có kinh nghiệm thì quản
lý xã hội được, vả lại họ đã lớn tuổi, tham gia hoạt động lãnh đạo, quản lý là cầm
chừng, cho vui chứ không phải làm để cơ cấu lên cao, nên không cần đi học. Vì lẽ
đó, trong hoạt động lãnh đạo điều hành của một số cán bộ này thiếu tính năng động
sáng tạo, chậm đổi mới dẫn đến hiệu quả công việc rất kém. Nếu như những cán bộ
này có bề dày kinh nghiệm và được trang bị thêm những kiến thức mới nhất về lý
luận chính trị, phù hợp với sự vận động của thực tiễn thì giúp họ có cách nhìn đúng
hơn, khoa học hơn, đưa ra những quyết định chính xác, chắc chắn hơn, hiệu quả
công việc lại cao hơn.
Người cán bộ cơ sở có trình độ lý luận chính trị sẽ làm cho họ hiểu được
thực chất của chủ nghĩa Mác - Lênnin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo sự tự tin trong
việc giải quyết những vấn đề phức tạp trong cuộc sống, có khả năng khái quát,
tổng kết thực tiễn và dự đoán được sự phát triển trong tương lai. Trình độ lý luận
chính trị giúp cho họ có tư duy biện chứng trong việc hoạch định, chiến lược,
sách lược phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Ngược lại, nếu hạn chế về
trình độ lý luận chính trị thì họ sẽ rơi vào máy móc, giáo điều, bệnh kinh
nghiệm, chủ quan duy ý chí trong nhận thức cũng như trong hành động. Vì thế
họ có tư tưởng “bằng lòng” với vốn kinh nghiệm bản thân, ngại học tập lý luận
chính trị cũng như việc nghiên cứu nghị quyết, chủ trương của Đảng.
Một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về nhận thức tư
tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng, sa sút phẩm chất đạo đức, lối sống,
nhất là nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
còn hạn chế; trình độ lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên tuy đã
được nâng lên, song còn tình trạng một số đảng viên ngại học tập
chính trị và nghiên cứu nghị quyết, chủ trương của Đảng [3, tr.1].
Một thực trạng nữa là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt nói riêng, cán bộ
cơ sở nói chung luôn có sự biến đổi thường xuyên qua các đợt bầu cử, sự điều
động của cấp trên, lại không ổn định suốt một nhiệm kỳ, qua lần Đại hội giữa
nhiệm kỳ thì có sự thay đổi khoảng 35%-50% số cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ
sở. Mặt khác, có nhiều cán bộ đã được đào tạo xong chương trình trung cấp lý
luận chính trị nhưng không trúng cử và cán bộ tái cử sau mỗi nhiệm kỳ thường
lại được bố trí ở chức danh khác. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng
cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre.
Để người cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre có được lập trường, quan điểm chính
trị vững vàng trước những tác động mặt trái của cơ chế thị trường thì vấn đề trước
tiên và cũng là cơ bản nhất là họ phải được nâng cao trình độ lý luận chính trị. Bởi
vì, để có hành động đúng thì phải hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Hiện nay,
các thế lực thù địch len lỏi vào nông thôn qua các tín đồ tôn giáo, các dân tộc thiểu
số nhằm kích động, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng - Nhà nước, chia rẽ
nội bộ trong Đảng, gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa
phương. Đối với Bến Tre, theo báo cáo của Tỉnh ủy, vấn đề truyền đạo trái phép,
kích động tôn giáo không phải là vấn đề nổi cộm như ở các tỉnh Tây Nguyên
nhưng vấn đề khiếu kiện đất đai, khiếu kiện vượt cấp, gây mất ổn định xã hội lại là
vấn đề nan giải hiện nay. Vì vậy người cán bộ cơ sở ở Bến Tre cần phải đi sâu
nghiên cứu, giải quyết vấn đề này.
Hơn nữa, cán bộ cơ sở là người đại diện Đảng, Nhà nước quản lý điều
hành mọi hoạt động ở địa phương, người trực tiếp tổ chức, triển khai và vận
động quần chúng nhân dân thực hiện tốt mọi đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng - Nhà nước và của cấp trên. Do vậy, trình độ lý luận chính trị thấp thì ảnh
hưởng không nhỏ đến việc tiếp thu, vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng một cách thụ động, kém hiệu quả, thậm chí dẫn đến nhiều sai phạm. Thực tế
cho thấy vừa qua, số cán bộ cơ sở vi phạm và bị xử lý kỷ luật có chiều hướng tăng.
Tuy có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng nguyên nhân cơ bản là những cán bộ
đó bị hạn chế bởi trình độ lý luận chính trị từ đó dẫn đến suy thoái về đạo đức, phai
nhạt lý tưởng, hách dịch xa rời quần chúng làm mất lòng tin của nhân dân đối với
Đảng với chế độ.
Việc vận dụng những kiến thức lý luận nói chung, lý luận chính trị nói
riêng còn phụ thuộc vào năng lực cụ thể của từng người. Thực tế cho thấy, không
phải cán bộ nào khi đã được học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị thì cũng
lãnh đạo, quản lý tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị. Nhưng phải khẳng
định một điều nhìn chung số cán bộ cơ sở đã qua đào tạo, bồi dưỡng trình độ lý
luận chính trị thì khả năng hoàn thành nhiệm vụ cao hơn, tốt hơn và ít vi phạm
hơn so với số cán bộ chưa được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị.
Từ thực trạng trên cho thấy về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ,
trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre còn nhiều hạn
chế chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Đúng như Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII nhận
định:
Đội ngũ cán bộ tuy đông nhưng không đồng bộ, vẫn còn tình
trạng “vừa thừa vừa thiếu”. Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và
quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới, nhất là về quản lý
kinh tế thị trường, quản lý xã hội, pháp luật… Nhiều cán bộ lười học,
lười nghiên cứu, một số học lướt chỉ cốt để lấy được bằng cấp. Nhìn
chung đội ngũ cán bộ hiện nay, xét về chất lượng, số lượng và cơ cấu
có nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá [13, tr.68-69].
Ngày 11/12/2002, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh ký
quyết định ban hành “Chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo của Đảng, chính
quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở (Hệ trung cấp lý luận chính trị)” áp dụng từ
ngày 01/01/2003 (gọi tắt là Chương trình 2003) gồm 12 môn học, 171 bài với số
1.800 tiết thực học (tương đương 10 tháng thực học) thay cho Chương trình
1996, cụ thể:
1. Triết học Mác – Lênin (60 tiết, 08 bài, 01 báo cáo chuyên đề).
2. Kinh tế chính trị Mác – Lênin và một số vấn đề về tổ chức, quản lý
kinh tế ở Việt Nam (144 tiết, 03 phần, 19 bài, 02 báo cáo thực tế, 01
bài tập).
3. Chủ nghĩa xã hội khoa học và chính trị học (72 tiết, 02 phần, 12 bài, 01
báo cáo thực tế, 01 bài tập tình huống).
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh (32 tiết, 08 bài).
5. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (44 tiết, 08 bài).
6. Văn hoá, xã hội (52 tiết, 02 phần, 11 bài, 02 báo cáo thực tế).
7. Tâm lý học xã hội trong hoạt động lãnh đạo quản lý (28 tiết, 06 bài, 01
báo cáo thực tế).
8. Một số vấn đề quốc phòng, an ninh và đối ngoại (64 tiết, 02 phần, 13
bài, 02 báo cáo chuyên đề).
9. Nhà nước và pháp luật, Quản lý hành chính (216 tiết, 05 phần, 33 bài,
03 báo cáo thực tế, 03 bài tập thực hành).
10. Xây dựng Đảng (92 tiết, 03 phần, 18 bài, 01 bài tập tình huống).
11. Công tác Dân vận (56 tiết, 12 bài, 01 báo cáo thực tế).
12. Tình hình nhiệm vụ địa phương (32 tiết, 04 bài).
So với Chương trình 1996, thì Chương trình 2003 được triển khai thực
hiện ở Trường Chính trị tỉnh Bến Tre có tính thiết thực và khoa học hơn, trang bị
được một cách có hệ thống những tư tưởng, quan điểm, những nguyên lý lý luận
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước; khắc phục
được cơ bản tính dàn trải và sự trùng lặp quá lớn về nội dung kiến thức giữa các
môn học, cũng như giữa các bài trong từng môn học của một chương trình; đồng
thời đã đưa vào nội dung chương trình một số những nội dung rất cơ bản và thiết
thực về nghiệp vụ công tác đảng, công tác quản lý hành chính nhà nước và công
tác dân vận của cấp ủy và chính quyền cấp cơ sở. Nội dung từng bài giảng đã thể
hiện được tinh thần đổi mới tư duy một cách toàn diện; dù ở góc độ nào, môn
học nào cũng luôn được xác định: lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; đổi mới kinh tế là
trọng tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá xây dựng đời sống
tinh thần của xã hội; bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thường xuyên, kiên định con
đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nội dung các bài giảng luôn bám sát
quan điểm của Đảng, gắn tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế, nhất là tình
hình của tỉnh nhà.
Qua tham khảo ý kiến một số học viên đã ra trường, một số đang học và
một bộ phận cán bộ lãnh đạo một số địa phương về nội dung chương trình đào
tạo trung cấp lý luận chính trị cho thấy:
Với câu hỏi: “Đánh giá thế nào nội dung chương trình của khoá học?”. Số
người có câu trả lời đáp ứng được yêu cầu:
- 167/200 học viên đã ra trường;
- 381/400 học viên đang học tại trường.
Với câu hỏi “Lượng kiến thức mỗi môn học trong chương trình có đáp
ứng được yêu cầu không?”. Câu trả lời vừa đủ:
- 332/400 học viên đã ra trường;
- 88/100 học viên đang học.
Với câu hỏi “Giữa kiến thức đã học ở nhà trường và quá trình hoạt động
thực tế có sự chênh lệch nhiều không?”. Câu trả lời như sau:
- 370/400 học viên đã ra trường đánh giá không chênh lệch nhiều;
- 75/100 học viên đang học đánh giá là hợp lý.
Thực hiện nhiệm vụ được Tỉnh ủy và UBND tỉnh giao phó, trong vòng 6
năm từ 2001 đến 2006 Trường Chính trị Bến Tre đã đào tạo được 4.760 học
viên, trong đó có 49 bí thư, 65 chủ tịch, 2.446 cán bộ đoàn thể và các đối tượng
khác.
Tóm lại, trong khoảng thời gian không dài, Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã lãnh
đạo Trường Chính trị và TTBDCT các huyện, thị thực hiện nhiệm vụ chính trị,
trang bị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở tỉnh nhà các nguyên lý, quan điểm, nội
dung chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước… giúp học viên vận dụng và thực hiện
tốt trong quá trình công tác; thông qua đó góp phần làm phát triển kinh tế tỉnh
nhà, đời sống của nhân dân được nâng cao. Cụ thể, trong 5 năm từ 2001-2005,
kinh tế tỉnh nhà “tiếp tục tăng trưởng khá và phát triển tương đối toàn diện”.
Thành tựu nổi bật trong 5 năm qua là toàn tỉnh đã thực hiện đạt và vượt
nhiều chỉ tiêu chủ yếu so Nghị quyết Đại hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm
sau luôn cao hơn năm trước, bình quân đạt 9,38%/năm; giá trị sản xuất nông-
lâm-ngư nghiệp tăng 6,86%/năm, công nghiệp-xây dựng tăng 16,38%, dịch vụ
tăng 13%/năm; GDP bình quân đầu người đạt 461 USD; thu-chi ngân sách ngày
càng được cải thiện, đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên và có tích lũy cho đầu
tư phát triển [8, tr.12-13].
Chương 2
Kết quả và một số kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Bến Tre
trong lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở (1996 –
2006)
2.1. Kết quả quá trình lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho
cán bộ cơ sở của Đảng bộ tỉnh Bến Tre (1996 – 2006)
2.1.1. Thành tựu
Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về tăng cường công tác
giáo dục lý luận chính trị, hơn mười năm qua, Tỉnh ủy và Uỷ ban nhân dân tỉnh
Bến Tre đã chỉ đạo Trường Chính trị phối hợp với TTBDCT các huyện, thị và
các ban, ngành đẩy mạnh và đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng tạo nên sự chuyển biến
mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tích to lớn, thể hiện trên những mặt chủ yếu
sau đây:
Thực hiện phương châm đào tạo:
Nội dung luôn bám sát quan điểm của Đảng, thể hiện phương châm lý
luận gắn với thực tiễn, đặc biệt thực tiễn trong nước và địa phương. Từ đó giúp
người học không chỉ nắm bắt được lý luận mà còn biết vận dụng lý luận phân
tích thực tiễn và vạch ra giải pháp để tác động, thúc đẩy thực tiễn vận động phát
triển.
Xác định quá trình học tập là quá trình học tập lý luận chính trị và rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức phẩm chất cách mạng, vì thế vấn đề rèn luyện là một
tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá xếp loại, làm cơ sở để xem xét tốt nghiệp của
các lớp trung cấp lý luận chính trị.
Tuy nhiên, để thực hiện tốt phương châm giáo dục lý luận chính trị theo tư
tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi người giảng viên không những vững vàng, sâu sắc về
lý luận mà còn phải có kiến thức thực tiễn phong phú và được cập nhật thường
xuyên.
Về công tác giảng dạy:
Chất lượng giáo dục lý luận chính trị có liên quan đến nhiều nhân tố,
trong đó phương pháp giảng dạy của giảng viên là một trong những nhân tố quan
trọng nhất. Bởi vì, sau khi xác định rõ mục đích, nội dung học tập (điều này về
cơ bản đã được quy định rõ trong giáo trình các môn học và chương trình học tập
toàn khóa) thì kết quả nhận thức của học viên đạt được mức độ nào sẽ phụ thuộc
vào phương pháp giảng dạy của giảng viên trên lớp. Việc giảng dạy của các
giảng viên có tạo nên hứng thú và gây sự chú ý tập trung học tập hay không, có
làm cho học viên năng động, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo hay không, có
biến kiến thức lý luận thành tình cảm, thái độ và hành động trong thực tiễn hay
không, sẽ phụ thuộc có tính quyết định ở sự sáng tạo của giảng viên trong việc
áp dụng các phương pháp giảng dạy trong từng tiết học, buổi học.
Những năm qua, đội ngũ giảng viên, báo cáo viên của Trường Chính trị
tỉnh Bến Tre và các TTBDCT đã có nhiều cố gắng tìm tòi cải tiến và áp dụng
những phương pháp giảng dạy mới, miệt mài trong học tập, nghiên cứu, sưu tầm
tư liệu để nâng cao kiến thức và kinh nghiệm bản thân nhằm nâng cao chất lượng
các bài giáo án, và có nhiều tiến bộ qua từng bài giảng của mình, được học viên
tín nhiệm, góp phần nâng cao kết quả học tập của học viên và chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng của nhà trường.
Về đối tượng đào tạo:
Theo hướng dẫn số 07 TC/TW, ngày 28/7/1995 của Ban Tổ chức Trung
ương thì đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh gồm những cán
bộ đương chức và dự nguồn cho các chức danh: Bí thư, phó bí thư đảng uỷ, chi
uỷ cơ sở, chủ tịch, phó chủ tịch HĐND và UBND, trưởng các đoàn thể, trưởng
các ngành cấp xã, phường và tương đương; trưởng phó ban Đảng, trưởng phó
phòng, trưởng phó đoàn thể, chuyên viên, cán sự hành chính trong bộ máy chính
quyền, bộ máy đảng, đoàn thể cấp huyện, quận, thị; trưởng phó phòng trực thuộc
ban, ngành tỉnh, thành phố; giám đốc, phó giám đốc, bí thư, phó bí thư đảng uỷ,
trưởng phó các đoàn thể ở công ty, doanh nghiệp; chuyên viên, cán sự hành
chính trong bộ máy đảng, bộ máy chính quyền và đoàn thể ở tỉnh và thành phố.
Ngoài những đối tượng nói trên, để đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện
của tỉnh, Tỉnh ủy và Uỷ ban nhân dân tỉnh còn cho phép mở rộng đào tạo, bồi
dưỡng các đối tượng khác như: cán bộ, sĩ quan các lực lượng vũ trang của tỉnh,
huyện; Ban giám hiệu các trường phổ thông, trường nghiệp vụ, y bác sĩ trong
tỉnh...
Đối với các TTBDCT, đối tượng chính là những người “không thuộc đối
tượng đào tạo, bồi dưỡng của trường tỉnh, trước hết là bí thư chi bộ, trưởng thôn,
trưởng bản, các đối tượng phát triển đảng viên, đảng viên mới…”[10, tr.1].
Thực hiện chủ trương trên, ngay từ đầu năm, sau khi được Tỉnh ủy và Uỷ
ban nhân dân tỉnh phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, Ban giám hiệu trường
đã gửi thông báo chiêu sinh mở lớp đến các Huyện ủy, Thị ủy và Đảng ủy trực
thuộc Tỉnh ủy để các đơn vị chủ động chọn cử cán bộ đi học (theo Quy chế chiêu
sinh của Trường), trong đó quy định rất rõ về tiêu chuẩn, đối tượng, số lượng
học viên phân bổ cho từng đơn vị, các loại hồ sơ, hình thức tổ chức lớp học, thời
gian khoá học, chế độ chính sách đối với học viên các loại lớp và thời hạn gửi
danh sách cử cán bộ đi học về trường (qua Phòng Đào tạo). Nhà trường cùng với
Ban Tổ chức Tỉnh ủy xét duyệt danh sách từng lớp theo những tiêu chuẩn đã quy
định và thông báo triệu tập học viên nhập học.
Mở lớp theo phương thức nói trên có ưu điểm là phần lớn số đảng viên,
cán bộ, công chức được các đơn vị cử tuyển đều được chấp nhận và bố trí vào
lớp học, không phải trả về địa phương và không tạo sự bị động cho địa phương,
đơn vị khi đã bố trí cán bộ thay thế; đáp ứng được nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng rất
lớn hiện nay ở cơ sở; từ đó tạo điều kiện cho các địa phương, đơn vị và các
ngành chủ động sắp xếp, bố trí cán bộ, ổn định và hoàn chỉnh quy hoạch cán bộ
của mình.
Về công tác tổ chức và quản lý:
Nói chung, việc tổ chức và quản lý học viên các lớp học đều được thực
hiện theo những Quy chế do nhà trường quy định, trên cơ sở vận dụng và cụ thể
hoá Nội quy, Quy chế hướng dẫn của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
bao gồm các Quy chế: Quy chế học viên; Quy chế kiểm tra, thi; Nội quy phòng
thi, kiểm tra; Quy chế xét công nhận tốt nghiệp và cấp bằng tốt nghiệp; Quy chế
khen thưởng và kỷ luật học viên, các Nội quy, Quy chế quy định rất rõ ràng trách
nhiệm và nghĩa vụ của nhà trường, nghĩa vụ và quyền lợi của học viên trong quá
trình học tập, rèn luyện tại trường. Sau khi nhập học và trước khi vào học các
môn học theo chương trình của khóa học, Phòng Đào tạo đã tổ chức phổ biến
học tập các nội quy, quy chế và quy định của nhà trường để học viên quán triệt,
nhằm hình thành ý thức tự giác chấp hành tổ chức kỷ luật của trường, góp phần
nâng cao kết quả học tập và rèn luyện. Những quy định này là cơ sở để tổ chức
quản lý học viên, là căn cứ để đánh giá kết quả thực hiện các khâu, các bước học
tập như: nghiên cứu bài, nghe giảng trên lớp, nghiên cứu cá nhân, thảo luận, ôn
tập, kiểm tra, thi và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện trong suốt khoá học làm
cơ sở xét tốt nghiệp và cấp bằng tốt cho học viên khi hoàn thành chương trình
của khoá học.
Đối với trường Chính trị, trong thời gian qua, Ban giám hiệu rất coi trọng
công tác quản lý đội ngũ giảng viên, bởi lẽ, chất lượng giảng dạy của giảng viên
là một trong những nhân tố quyết định trong việc nâng cao chất lượng đào tạo ở
trường. Đặc biệt là khâu kiểm tra giáo án của giảng viên, qua đó kiểm tra về kiến
thức lý luận, kiến thức thực tế của giảng viên thể hiện trong giáo án. Đồng thời,
trường còn thường xuyên tổ chức thao giảng, dự giờ đối với giảng viên. Tuy
chưa tổng kết công tác này nhưng thông qua dự giờ bước đầu có thể đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên đa số đều đạt khá, tốt.
Qua thực tế các lớp học cho thấy đa số các học viên khi vào học đã xác
định được mục đích và động cơ học tập, thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ học
tập lý luận chính trị của người đảng viên, do đó xây dựng được tinh thần và thái
độ học tập nghiêm túc, chấp hành tốt Nội quy và các Quy chế của nhà trường,
nhiều học viên các lớp tập trung đạt được số điểm rèn luyện bình quân khá cao
khi ra trường. Giảng viên đều được nâng cao về kiến thức chuyên môn, phương
pháp sư phạm, khả năng nắm bắt thực tiễn và vận dụng vào bài giảng…
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng
dạy và học tập:
Từ cơ sở ban đầu chỉ có 2 hội trường, 1 khu làm việc cho cán bộ, 1 thư
viện và 1 khu nhà ở cho học viên với vật liệu đơn giản, đến nay Trường Chính trị
tỉnh Bến Tre đã có 1 cơ sở khang trang tổng diện tích gần 4 ha với 8 hội trường cho
khoảng 1.000 học viên cùng đồng thời lên lớp, 2 phòng học vi tính với 50 máy, khu
làm việc của Ban giám hiệu và các phòng, khoa, thư viện, phòng truyền thống,
phòng họp, 2 khu nhà ở học viên với 500 chỗ, 1 nhà khách tương đối hiện đại so với
một số trường trong khu vực; ngoài ra trường còn có nhà ăn, nhà để xe học viên, 1
sân bóng đá, 1 sân bóng chuyền nhằm phục vụ cho việc rèn luyện sức khỏe của học
viên… Những trang thiết bị phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập
cũng khá hiện đại, trường đã trang bị 19 máy vi tính nối mạng LAN cho phòng làm
việc của Ban giám hiệu và các phòng, khoa, 2 máy tính xách tay và projecter…
So với cách đây hơn 10 năm, TTBDCT các huyện, thị xã được đầu tư
nâng cấp với những mức độ khác nhau (hội trường, phòng làm việc và các
phương tiện phục vụ cho việc giảng dạy và học tập lý luận chính trị…) cơ bản
đáp ứng được yêu cầu. Một số TTBDCT huyện có nhà ăn tập thể, phòng nghỉ
trưa cho học viên ở xa (huyện Mỏ Cày, Ba Tri, Bình Đại).
Kinh phí hoạt động hàng năm được tăng theo nhu cầu mở lớp,
bình quân 150-200 triệu đồng/năm, bao gồm cả sửa chữa cơ sở vật
chất, mua sắm tài sản cố định, kinh phí hoạt động thường xuyên và mở
lớp. Các chế độ chính sách đối với cán bộ từng bước được điều chỉnh
tăng, phù hợp hướng dẫn của Bộ Tài chính và tình hình thực tế của địa
phương [49, tr.10].
Kết quả công tác giáo dục lý luận chính trị ở tỉnh Bến Tre trong thời gian
qua:
Hơn mười năm qua, tuy còn nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất,
đội ngũ giảng viên, báo cáo viên còn thiếu và chưa đồng bộ, nơi ăn nghỉ của học
viên chưa đảm bảo tốt, chính sách đối với giảng viên và học viên còn chắp vá...
nhưng để đáp ứng yêu cầu về cán bộ cho tỉnh, được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Uỷ
ban nhân dân tỉnh, Trường Chính trị tỉnh Bến Tre và TTBDCT đã không ngừng
phấn đấu vươn lên, mở rộng quy mô và đa dạng hóa hình thức đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, vừa mở lớp tập trung, vừa mở lớp tại chức, vừa mở lớp tại
Trường, vừa mở lớp tại huyện, thị xã.
Tổng kết trong 11 năm (1996-2006), Trường Chính trị tỉnh Bến Tre đã mở
được 44 lớp trung cấp lý luận chính trị với 3.508 học viên, 16 lớp trung cấp lý
luận chính trị hệ hoàn chỉnh với 1.260 học viên. Song song với đào tạo tập trung,
tại chức, trường đã mở các lớp bồi dưỡng để nâng cao trình độ quản lý hành
chính nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ ở ban ngành tỉnh, huyện và
các đoàn thể, đến nay đã mở được 10 lớp quản lý nhà nước chương trình chuyên
viên với 689 học viên và 241 lớp bồi dưỡng ngắn hạn với 23.717 học viên.
Ngoài ra, cùng với công tác đào tạo và bồi dưỡng các loại hình nêu trên,
trường còn liên kết với Học viện Chính trị khu vực II, Học viện Hành chính
Quốc gia mở 10 lớp cử nhân chính trị và cao cấp lý luận chính trị với 913 học
viên, 3 lớp cử nhân hành chính (văn bằng 1, văn bằng 2) với 204 học viên, 8 lớp
quản lý nhà nước chương trình Chuyên viên chính với số lượng 618 học viên.
Hơn nữa, trường còn liên kết mở 3 lớp thanh vận, phụ vận với 186 học viên.
Tổng số học viên được đào tạo trung cấp, cao cấp, Chuyên viên chính từ năm
1996 đến nay là 6.681 người, trong đó tốt nghiệp 5.684 người, còn lại đang thực
hiện từ 1/2 đến 2/3 chương trình, sẽ ra trường vào cuối năm 2007.
Đối với TTBDCT các huyện, theo Báo cáo “Tổng kết 10 năm thực hiện
Quyết định số 100-QĐ/TW của Ban Bí thư (khóa VII)” ngày 19/7/2005 của Tỉnh ủy
Bến Tre,
Qua 10 năm hoạt động, về nội dung chương trình các lớp
TTBDCT các Huyện, Thị xã thực hiện đúng theo hướng dẫn của
chuyên ngành cấp trên và sự chỉ đạo của cấp ủy địa phương. Tính
chung, TTBDCT các Huyện, Thị xã đã tổ chức triển khai, học tập nghị
quyết Đảng được 1.407 lớp, có 153.188 cán bộ, đảng viên tham gia,
mở được 1.686 lớp theo các chương trình hướng dẫn với 118.089 học
viên [50, tr.2].
Số lượng học viên được đào tạo trong thời gian qua không chỉ phản ánh về
quy mô, số lượng mà điều đáng nói là chất lượng và hiệu quả đã được nâng lên.
Nhà trường đã đào tạo cho tỉnh nhà một đội ngũ cán bộ có trình độ lý luận chính trị
nhất định, kiên định mục tiêu lý tưởng, có trình độ quản lý nhà nước, lãnh đạo đoàn
thể, biết vận dụng tốt những kiến thức lý luận vào thực tiễn. Phần lớn đội ngũ cán
bộ qua đào tạo đã được đề bạt giữ những chức vụ chủ chốt ở cơ sở và các ban,
ngành tỉnh, huyện, được nhân dân tín nhiệm, góp phần thực hiện hoàn thành nhiệm
vụ chính trị trong giai đoạn mới.
Đội ngũ giảng viên và báo cáo viên luôn được Tỉnh ủy, UBND tỉnh quan
tâm, tạo điều kiện nâng cao về trình độ lý luận và chuyên môn nghiệp vụ. Hiện
nay Trường có 53 cán bộ viên chức, trong đó có 32 cán bộ giảng dạy (kể cả cán
bộ kiêm chức các phòng), với 1 nghiên cứu sinh, 7 thạc sĩ, 24 cử nhân, đến cuối
năm 2007 sẽ tăng lên 15 thạc sĩ. Hàng năm nhà trường đều đưa cán bộ, giảng
viên đi đào tạo, bồi dưỡng để bổ sung kiến thức mới. Đối với các TTBDCT, đến
nay có 5/8 Trung tâm có đồng chí Giám đốc chuyên trách (huyện Mỏ Cày,
Thạnh Phú, Chợ Lách, Châu Thành, Bình Đại), các đơn vị còn lại Trưởng Ban
Tuyên giáo huyện, thị xã kiêm Giám đốc Trung tâm. Biên chế của TTBDCT các
huyện, thị xã được phân bổ từ 3-5 cán bộ, về trình độ cơ bản đạt yêu cầu, nhiều
đồng chí tốt nghiệp cao đẳng, đại học, khoảng 50% cán bộ có khả năng làm công
tác giảng dạy. Đội ngũ giảng viên kiêm chức được lựa chọn trong số báo cáo
viên của Huyện ủy, Thị xã ủy nên cơ bản có khả năng truyền đạt kiến thức cho
học viên, nhất là kiến thức thực tiễn.
Vì vậy, đội ngũ giảng viên, báo cáo viên về lý luận chính trị của tỉnh Bến
Tre không chỉ được nâng cao về trình độ mà còn vững về lập trường quan điểm,
tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đào tạo, với nghề nghiệp, thường xuyên nghiên
cứu khoa học, đi thực tế ở cơ sở, tổng kết thực tiễn… vận dụng vào công tác
giảng dạy, thực hiện tốt phương châm lý luận đi đôi với thực tiễn. Chất lượng
giảng dạy của đội ngũ giảng viên, báo cáo viên ngày một nâng cao đáp ứng được
yêu cầu của các đối tượng học viên.
Tóm lại, trong những năm qua, trên cơ sở nhiệm vụ được giao, Trường
Chính trị tỉnh Bến Tre và các TTBDCT đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình là đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho hàng nghìn lượt cán bộ, đảng
viên. Vận dụng một cách linh động các hình thức đào tạo: tập trung, tại chức,
hoàn chỉnh, kết hợp trung cấp lý luận chính trị và một số ngành khác (hành
chính, thanh vận, phụ vận, quân sự). Đội ngũ học viên do nhà trường đào tạo đã
góp phần nâng cao chất lượng và tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị ở cơ sở. Chính đội ngũ cán bộ này đã cùng với nhân dân địa phương
làm nên những thành tựu đổi mới trên quê hương Bến Tre đồng khởi.
Với những thành tích trên, hàng năm, Đảng bộ các cơ sở đều được công
nhận Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, Công đoàn cơ sở vững mạnh; tập thể cán
bộ, công chức của trường được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao
động hạng Ba (18/9/1995). Năm 2005, Trường Chính trị đạt tiêu chuẩn "Cơ quan
văn hoá", được Uỷ ban nhân dân tỉnh tặng nhiều Bằng khen, cờ đơn vị thi đua
xuất sắc và cờ đơn vị dẫn đầu thi đua khối Đảng cấp tỉnh; Giám đốc Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tặng nhiều Bằng khen về thành tích trong công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Nhằm thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hóa, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm đến công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nói chung,
trình độ lý luận chính trị nói riêng cho cán bộ, đảng viên trong đó có đội ngũ cán
bộ cơ sở. Quyết định số 88 QĐ/TW ngày 5 tháng 9 năm 1994 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng khoá VII; Quyết định 100-QĐ/TW ngày 3 tháng 6 năm 1995
của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII “về việc tổ chức trung tâm bồi dưỡng
chính trị ở cấp huyện”; Quyết định 874/TTg ngày 20 tháng 11 năm 1996 của Thủ
tướng Chính phủ “về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức”; Nghị quyết
lần thứ 3 của Ban chấp hành trung ương khoá VIII và Nghị quyết Trung ương 5
khoá IX “về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị xã, phường, thị
trấn”.
Những nghị quyết của Đảng và quyết định của Chính phủ đã xác định rõ
trách nhiệm học tập lý luận chính trị là nhiệm vụ bắt buộc đối với cán bộ lãnh
đạo, quản lý nói chung, cán bộ cơ sở nói riêng. Nó quy định thống nhất từ trên
xuống dưới về chế độ học tập cho cán bộ công chức, tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho công tác giáo dục, đào tạo bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ lý luận chính
trị cho cán bộ, đảng viên. Những văn kiện đó là nguyên nhân tác động trực tiếp
đến nhận thức của các cấp ủy Đảng và chính quyền, tạo ra sự thống nhất từ trung
ương đến cơ sở trong việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới.
Một là, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh đã ban hành những quyết định, quy chế, hướng dẫn rất rõ ràng về
trách nhiệm, nghĩa vụ của Trường Chính trị và TTBDCT các huyện, thị; nghĩa
vụ và quyền lợi của học viên trong quá trình học tập, rèn luyện tại trường. Đây
chính là khuôn khổ pháp lý để Trường Chính trị tỉnh Bến Tre và các TTBDCT cụ
thể hoá thành những nội quy, quy chế phù hợp với điều kiện cụ thể của đơn vị
mình, hướng mọi hoạt động giáo dục rèn luyện đi vào nền nếp và đạt được
những thành tựu như đã nêu trên.
Hai là, Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre luôn quan tâm sâu sát
lãnh đạo, quản lý công tác đào tạo, đã có nhiều nghị quyết, chính sách đúng đắn,
kịp thời, phù hợp với tình hình nhằm định hướng cho công tác giáo dục lý luận
chính trị của tỉnh luôn đi đúng hướng, phục vụ mục tiêu CNH-HĐH đất nước.
Ba là, sự ổn định tình hình chính trị cùng với sự tăng trưởng kinh tế của
đất nước nói chung và tỉnh Bến Tre nói riêng trong những năm qua đã củng cố
niềm tin sâu sắc của mọi người, nhất là sự giác ngộ về lý tưởng xã hội chủ nghĩa,
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong đội ngũ cán bộ các cấp ở tỉnh.
Bốn là, Ban giám hiệu của nhà Trường và Ban Giám đốc các trung tâm
luôn đoàn kết, năng động trong lãnh đạo, điều hành, quản lý các mặt hoạt động
của cơ quan. Cụ thể hoá các quy chế, quy định của Trung ương về chế độ tuyển
sinh, giảng dạy và quản lý học viên, làm cơ sở để thi đua dạy tốt và học tập, rèn
luyện tốt.
Năm là, đa số học viên đến Trường xác định động cơ và mục đích học tập
đúng đắn; có tinh thần và thái độ nghiêm túc; ý thức được trách nhiệm đồng thời
vinh dự là người học viên Trường Đảng.
Sáu là, đội ngũ giảng viên, báo cáo viên là những người tâm huyết với sự
nghiệp giáo dục, luôn cố gắng tìm tòi cải tiến trong giảng dạy, miệt mài trong
nghiên cứu, học tập, sưu tầm tư liệu để nâng cao kiến thức và kinh nghiệm nhằm
không ngừng nâng cao chất lượng các bài giảng, tiết giảng.
2.1.2. Hạn chế
Qua thực tế thực hiện chương trình vẫn còn bộc lộ những khiếm khuyết
cần tiếp tục nghiên cứu khắc phục:
Nội dung chương trình vẫn còn quá nặng về lý luận chung chung và mang
tính dàn trải giữa các môn học; lượng kiến thức đưa vào các môn học trong ch-
ương trình học 14 tháng là “quá tải” so với trình độ và khả năng tiếp nhận của
đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ dự nguồn hiện nay; tương quan giữa khối
kiến thức lý luận cơ bản với khối kiến thức nghiệp vụ công tác còn mất cân đối,
kiến thức lý luận nhiều nhưng kiến thức thực tiễn ít, nhất là những bài tập xử lý
tình huống còn khá khiêm tốn.
Kết cấu nội dung chương trình hệ trung cấp lý luận chính trị như hiện nay
còn chưa thật hợp lý, thể hiện:
Trong 11 môn học theo quy định hiện nay của Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, không môn nào đề cập đến vai trò, vị trí của môn học, đối
tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của môn học. Vì tất cả các môn
học đều thuộc lĩnh vực khoa học chính trị và khoa học xã hội nhân văn; do đó,
với mỗi môn học có xác định đối tượng của môn học và phương pháp nghiên cứu
môn học là cần thiết, nhằm giúp cho người dạy và người học phân định được
ranh giới của môn học tránh nhầm lẫn khi nghiên cứu. Tất cả những vấn đề này
đều do giảng viên tự nghiên cứu và trình bày.
Công việc lắp ghép nhiều môn học vào một môn học có nhiều bất hợp lý.
Môn Kinh tế chính trị Mác-Lênin và một số vấn đề về tổ chức, quản lý
kinh tế ở Việt Nam. Khi đưa một số vấn đề về tổ chức, quản lý kinh té ở Việt
Nam vào làm cho người học khó phân biệt giữa Kinh tế chính trị Mác-Lênin với
các loại hình kinh tế khác; hơn nữa, ở phần kinh tế chính trị trong thời kỳ quá độ
các bài đề cập đến kinh tế Việt Nam thay vì theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Riêng
phần kinh tế Việt Nam lại bao gồm nhiều bộ môn kinh tế khác nhau như: Quản
lý kinh tế (có kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô), Kinh tế phát triển, Kinh tế quản trị
- kinh doanh.
Kết cấu nội dung bài giảng ở từng môn học mang tính một chiều, chủ yếu
nói lên quan điểm chính diện, ít đề cập đến quan điểm phản diện, giảng viên
cũng dựa vào giáo trình để dạy vì vậy nếu vấn đề đặt ngược lại thì học viên lúng
túng không trả lời được.
Việc phân bổ trong quy trình đào tạo còn nặng bố trí giờ giảng lý thuyết
qua truyền đạt của giảng viên tại lớp, chưa chú trọng bố trí thời gian cho khâu tự
học, tự đào tạo của học viên; đặc biệt, thời gian dành cho học thực tế còn quá ít,
chưa đáp ứng nhu cầu công tác thực tiễn của cán bộ cơ sở. Điều này dẫn đến tình
trạng giảng viên giảng lý thuyết suông, học viên tiếp thu bài giảng một cách thụ
động, máy móc, học chay và trông chờ vào thầy cô giáo, dẫn đến khi làm bài
kiểm tra, bài thi, thì nội dung gần như của thầy trả lại cho thầy.
Về phía nhà trường, khi triển khai thực hiện nội dung chương trình nói
trên lại cứng nhắc, rập khuôn máy móc ở các loại lớp, mặc dù vẫn biết nhiều bất
hợp lý nhưng chưa mạnh dạn có những điều chỉnh, bổ sung, hay kiến nghị lên
trên thay đổi cho phù hợp với những đòi hỏi mới của tình hình thực tiễn, vì cho
đây là chương trình mang tính pháp lệnh.
Mặc khác, nhà trường cũng chưa chủ động cùng với các ngành có liên
quan của tỉnh bàn bạc, đề xuất, làm tham mưu cho Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân
tỉnh có sự chỉ đạo cụ thể về vấn đề này, nhất là bổ sung phần kiến thức liên quan
đến tình hình địa phương, liên quan đến hoạt động tác nghiệp của cán bộ cơ sở.
Nội dung này vừa qua chủ yếu do từng giảng viên bổ sung khi giảng bài, hay khi
điều khiển thảo luận trên lớp, nhưng do thời gian hạn hẹp và lại phụ thuộc vào
trình độ, vốn kiến thức thực tiễn tích lũy được của từng giảng viên, nên hiệu quả
đạt được cũng không nhiều.
Do đó, đây là vấn đề đặt ra cần phải nghiêm túc nghiên cứu và mạnh dạn
có những điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp, khắc phục tình trạng mâu thuẫn hiện
nay là: lượng kiến thức cơ bản, tri thức mới ngày càng lớn và cái nào cũng quan
trọng, cái nào cũng rất cần trang bị cho người học, nhưng thời gian vật chất dành
cho nó thì chưa tương xứng, trình độ của người học còn hạn chế và không đồng
đều.
Hiện nay, một trong những hạn chế của giảng viên, báo cáo viên tỉnh Bến
Tre là vốn thực tiễn còn ít, nhiều đồng chí chưa trải qua quá trình công tác ở địa
phương, cơ sở; vốn xuất thân từ gia đình cán bộ; trong khi đó, trong một thời
gian dài nhà trường thiếu chương trình cho giảng viên đi nghiên cứu thực tế nên
dẫn đến có một số giảng viên dạy chay hoặc liên hệ thực tế một cách máy móc,
một chiều nên sự thuyết phục đối với học viên chưa cao.
Đối với học viên, ở một số lớp, một số người còn chưa vận dụng tốt
phương châm này trong học tập, biểu hiện rõ nhất là trong thảo luận tổ, lớp. Các
học viên chưa biết lấy thực tiễn chứng minh cho lý luận, thường trình bày theo
khuôn mẫu lý luận dẫn đến chất lượng các buổi thảo luận, xêmina thấp, kém hấp
dẫn, học viên được giáo viên chỉ định mới phát biểu, khi phát biểu thì chủ yếu là
đọc những nội dung mà giảng viên đã gợi ý chuẩn bị trước, không tạo ra không
khí tranh luận sôi nổi, không rèn luyện khả năng thuyết trình trước công chúng.
Nhìn chung hiện nay, phương pháp giảng dạy chủ yếu ở Trường Chính trị
tỉnh Bến Tre và các trung tâm là phương pháp thuyết trình, diễn giải hoặc độc
thoại nghĩa là thầy giảng, thậm chí đọc chậm trò ghi chép một cách thụ động,
máy móc.
Phương pháp này có ưu điểm là cho phép giảng viên chủ động chuẩn bị
trước nội dung chính, nội dung chi tiết những vấn đề cần phân tích, minh họa;
thực hiện giảng dạy từng phần trong khoảng thời gian đã định trước, người học
dễ tiếp thu bài học theo trình tự.
Tuy nhiên, phương pháp giảng dạy truyền thống này cũng có những như-
ợc điểm: gần như toàn bộ thời gian học tập trên lớp chỉ dành cho thầy đọc, trò
ghi, thậm chí thầy ghi trên bảng, trò chép theo. Người học luôn ở trạng thái hoàn
toàn thụ động, trông chờ và tiếp thu một chiều, một cách máy móc lượng thông
tin của giảng viên đưa ra; khi nào thầy đọc, thậm chí phải đọc chậm thì trò mới
ghi, còn thầy giảng, phân tích, liên hệ, mở rộng vấn đề trò chỉ nghe, thậm chí
không quan tâm, không khí buổi học tẻ nhạt, lối mòn. Trong khi đó, việc học tập
các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi người học phải tích
cực tham gia thảo luận, trao đổi những băn khoăn, vướng mắc, tích cực tranh luận
để làm sáng tỏ vấn đề.
Thực trạng nói trên không chỉ diễn ra ở tỉnh Bến Tre mà còn khá phổ biến
trong hệ thống giáo dục lý luận chính trị của Đảng và Nhà nước. Tình trạng này
đặt ra một yêu cầu cấp bách là phải sớm nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng
dạy nhằm đáp ứng được yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc đổi mới phương pháp giảng
dạy vừa là yêu cầu khách quan vừa là đòi hỏi cấp bách nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh và nhất là ở Trường Chính trị tỉnh Bến Tre và các TTBDCT
hiện nay.
Những hạn chế trong việc mở lớp theo phương thức cử tuyển. Việc phân bổ
chỉ tiêu chiêu sinh cho các huyện, thị và các đơn vị còn mang nặng tính bình quân,
dàn đều, dẫn đến tình trạng có địa phương không cử đủ cán bộ đi học, trong khi địa
phương khác lại cần đưa cán bộ đi học nhiều hơn thì vượt quá chỉ tiêu phân bổ; tuổi
đời và kinh nghiệm trong công tác thực tiễn của cán bộ đến trường học không đồng
đều, nhất là các lớp tại chức; một số cán bộ trẻ do không thi đỗ vào một trường đại
học hay cao đẳng nào nên địa phương đưa đi học trung cấp chính trị; thậm chí, vài
năm trước đây còn có trường hợp đảng viên “bị” cấp uỷ địa phương cho đi học...
Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng nhận thức của học viên, phương
pháp giảng dạy của giảng viên, công tác quản lý của nhà trường, dẫn đến kết quả
học tập của học viên bị hạn chế và chất lượng đào tạo của nhà trường chưa đáp ứng
được yêu cầu.
Tình hình nói trên đặt ra yêu cầu là phải nhanh chóng cải tiến và nâng cao
chất lượng công tác chiêu sinh, chất lượng đầu vào để nâng cao chất lượng thực
chất của học viên sau khi ra trường và chất lượng đào tạo của nhà trường.
Hơn nữa, nhu cầu đào tạo nhằm chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức cấp
cơ sở hiện nay như quy định của Thủ Tướng Chính phủ tại Quyết định số
03/2004/QĐ-TTg, ngày 07/01/2004 về "Phê duyệt Định hướng quy hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn đến năm 2010"; Quyết
định số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15/02/2006 về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006-2010 còn rất lớn, nhưng do nhiều
nguyên nhân, cơ sở đào tạo khó có khả năng đáp ứng theo yêu cầu về số lượng
và thời gian.
Theo số liệu thống kê của Sở Nội vụ tỉnh Bến Tre, từ 11/2003 đến
12/2006, tổng số cán bộ (gồm chuyên trách và không chuyên trách), công chức
xã, phường, thị trấn toàn tỉnh là 10.242 đồng chí (cán bộ chuyên trách: 1.943,
cán bộ không chuyên trách: 7.025, công chức xã: 1.283). Trong đó:
Trình độ LLCT của cán bộ
Đơn vị : %
Cán bộ
Tr.độ LLCT Chưa đào tạo Sơ cấp Trung cấp Cao cấp Chuyên trách 22.8 22 50.8 4.4 Công chức xã 57.68 19.9 22.1 0.32 Không chuyên trách 68.7 23.3 7.8 0.23
Nguồn: [42].
Theo số liệu tổng hợp mới có 6.007/10.242 đồng chí đã qua đào tạo lý
luận chính trị, còn đến 4.235 đồng chí chưa được đào tạo. Như vậy, số cán bộ,
công chức cấp cơ sở cần được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị nhưng
hàng năm cơ sở chỉ có thể đáp ứng một phần không đáng kể - cả hệ tập trung và
hệ tại chức - trung bình hàng năm cũng chỉ đào tạo khoảng 2.000 đồng chí.
Một số học viên có phương pháp học tập chưa tốt, khả năng tư duy độc
lập và khái quát hạn chế dẫn đến tiếp thu lý luận chính trị một cách máy móc;
một số chưa thấy được trách nhiệm học tập lý luận chính trị của đảng viên nên
chưa tự giác, thiếu quyết tâm, không cần cù chịu khó trong học tập, có động cơ
và thái độ học tập tiêu cực, thiếu trung thực, tìm cách đối phó với các biện pháp
quản lý của nhà trường, gian lận trong thi cử; một số chưa có tác phong và thói
quen làm việc chính quy theo giờ hành chính, còn ngại học tập lý luận chính trị
nên trước những quy định chặt chẽ của nhà trường dễ sinh ra tâm lý bị gò ép, ngại
ngồi lâu, ngại nghe nhiều, đi muộn về sớm, nhất là các lớp tại chức, bỏ tiết học, bỏ
buổi học không xin phép hoặc không có lý do chính đáng, vi phạm quy chế học tập
rèn luyện làm ảnh hưởng không tốt đến không khí của lớp học, làm cho điểm số các
bài thi không phản ánh đúng thực chất kết quả học tập của bản thân học viên. Từ đó
dẫn đến kết quả các bài thi đạt thấp. Qua khảo sát 2 lớp tập trung ở Trường Chính
trị (A20 năm học 2005) và (A21 năm học 2006), số học viên thi lại không nhiều
nhưng phần nào cũng phản ánh thái độ học tập chưa nghiêm túc. Đối với lớp A 20
môn Triết có 7 người thi lần 1 không đạt, môn Chủ nghĩa xã hội khoa học 1 người,
môn Kinh tế chính trị 2 người. Lớp A 21 môn Triết có 7 người, môn Kinh tế chính
trị 5 người, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh 4 người, Môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam 1 người.
Nhìn chung hệ thống các phòng học, cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa
đáp ứng yêu cầu cho công tác giảng dạy và học tập của giảng viên và học viên.
Trường Chính trị về cơ bản đủ số phòng học nhưng trong một thời gian
dài hệ thống âm thanh rất khó nghe, trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học
tập thiếu, không đồng bộ. Thư viện rộng rãi, thoáng mát nhưng chỉ mới làm
nhiệm vụ cung cấp giáo trình cho học viên; còn thiếu nhiều đầu sách nghiên cứu,
tham khảo, thiếu các phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ cho công việc nghiên
cứu của giảng viên và học viên.
Đối với các Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thị gặp rất nhiều khó
khăn vì tiếp nhận cơ sở từ Trường Đảng huyện đã xuống cấp hoặc phải làm việc
chung với Ban Tuyên giáo huyện ủy cho nên phần lớn thiếu hội trường, phòng
học, thảo luận hoặc hội trường đã cũ (trừ huyện Thạnh Phú năm 2005 đã đầu tư
xây dựng cho TTBDCT một hội trường mới với sức chứa 120 chỗ ngồi), cho nên
phần lớn các lớp học lý luận chính trị thường được bố trí ở những phòng cũ được
cải tạo, nâng cấp nên nóng vào mùa hè, ồn vào mùa mưa. Trang thiết bị phục vụ
cho phòng lớp học chỉ có bộ âm thanh, phấn, bảng; thiết bị hiện đại, tài liệu
nghiên cứu còn thiếu thốn.
Những hạn chế, yếu kém như trên đã nêu ở tỉnh Bến Tre có nhiều nguyên
nhân, có những nguyên nhân khách quan và những nguyên nhân chủ quan, có
những nguyên nhân chung nhưng cũng có những nguyên nhân mang tính đặc thù
ở một tỉnh đồng bằng giao thông cách trở.
Một là, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, môi trường sống và làm việc và trình
độ dân trí thấp đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc nâng cao trình độ lý luận chính
trị của đội ngũ cán bộ cơ sở.
Do điều kiện môi trường công tác cũng như sinh ra và trưởng thành của đội
ngũ cán bộ gắn liền với vùng đất đai màu mỡ, bao la, tài nguyên thiên nhiên
phong phú. Mặt khác, điều kiện địa lý, khí hậu cũng thuận lợi cho việc sản xuất
nông - lâm - ngư nghiệp, nên tạo cho họ có tính ỷ lại, chỉ lao động sản xuất là
tồn tại được nên họ rất dễ bằng lòng với những kiến thức kinh nghiệm đã có mà
không cần học tập để nâng cao trình độ. Hơn nữa, Bến Tre là tỉnh có nền kinh tế
phụ thuộc lớn vào nông - lâm - ngư nghiệp. Đến năm 2005, tỷ trọng giá trị nông-
lâm-ngư nghiệp chiếm 58,11% trong khi đó công nghiệp-xây dựng 17,62% và
dịch vụ 24,27%.
Mặt khác, đội ngũ cán bộ cơ sở phần lớn xuất thân từ nông dân, họ là
người lao động chính và là chủ trong một gia đình. Theo quan niệm của Đảng ta
hiện nay, kinh tế hộ gia đình là một đơn vị kinh tế độc lập; vì vậy người đóng vai
trò trụ cột trong một gia đình càng có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc đảm
bảo ổn định và phát triển kinh tế, đời sống của gia đình. Một thực tế đối với cán
bộ cơ sở vì chế độ lương rất thấp (một số chỉ hưởng định suất), nên họ phải tham
gia lao động sản xuất để đảm bảo cuộc sống gia đình. Vì thế, khi được cử đi học
tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị thì họ rất ngại, có thái độ né tránh. Mặc
dù, trong thời gian qua, tỉnh đã ban hành quy định tăng chế độ phụ cấp từ 10.000
đồng lên 15.000 đồng/ngày/người đối với cán bộ cấp xã được cử đi học ở
Trường Chính trị và TTBDCT các huyện, thị. Song so với vật giá hiện nay thì
mức trợ cấp như thế cũng chưa đủ chi tiêu, ổn định để họ an tâm đi học.
Một vấn đề rất quan trọng ảnh hưởng đến việc nâng cao trình độ lý luận
chính trị của đội ngũ cán bộ cơ sở là đa số còn chịu ảnh hưởng tâm lý sản xuất
nhỏ, tiểu nông, chủ nghĩa kinh nghiệm, luôn tự thỏa mãn với những gì đã có và
bằng lòng với cuộc sống hiện tại mà không cần học tâp, nghiên cứu để nâng cao
trình độ cho bản thân. Vì vậy, sau khi bước vào cơ chế mới, cơ chế thị trường
định hướng XHCN thì họ bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, nhất là trình độ lý luận
chính trị. Qua số liệu khảo sát của Sở Nội vụ năm 2006 cho thấy, trình độ học
vấn của số cán bộ công chức xã còn rất thấp; tiểu học: 0,32%, THCS: 13,87%,
THPT: 85,81%. Trình độ học vấn thấp là một trở ngại cho họ trong việc tiếp thu
lý luận chính trị. Nếu tiếp thu lý luận chính trị chưa thật thấu đáo thì khi vận
dụng lý luận đó vào việc chỉ đạo thực tiễn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót,
sai lầm thậm chí đi ngược lại hiệu quả mong muốn.
Hơn nữa, một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở có tư tưởng sợ đi
học về sẽ bị “mất ghế”. Thực tế cho thấy, xã nào mà cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt có trình độ học vấn cao, được đào tạo căn bản về chuyên môn nghiệp vụ, được
nâng cao về trình độ lý luận chính trị thì việc tiếp thu, xử lý những thông tin, cũng
như việc vận dụng, tổ chức triển khai các chủ trương, nghị quyết của Đảng, cấp trên
đạt hiệu quả rất cao và được sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng. Ngược lại, ở nơi
nào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt có trình độ học vấn thấp, chưa được
đào tạo kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức lý luận chính trị thì nơi đó kinh
tế chậm phát triển, cán bộ nơi đó tư tưởng hách dịch, quan liêu, thậm chí bè phái,
mất đoàn kết, tạo ra nhiều dư luận không tốt đối với nhân dân, làm cho nhân dân
không tin tưởng vào chính quyền nơi đó, cũng đồng nghĩa với việc nhân dân không
tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Do điều kiện môi trường sống và làm việc cũng như
trình độ học vấn như vậy đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc nâng cao trình độ lý luận
chính trị của đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre.
Hai là, quá trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn nặng về lý thuyết
chưa bám sát thực tế, chưa tiến kịp với tình hình và nhiệm vụ mới.
Phần lớn đội ngũ cán bộ giảng viên lớn tuổi có kinh nghiệm thực tiễn rất ít,
phần đông là giảng viên trẻ, mới được đào tạo nên kiến thức thực tiễn còn hạn
chế. Điều đó làm giảm tính sinh động và chất lượng của bài giảng. Mặt khác một
số cán bộ khi đã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý
luận chính trị xong nhưng lại có sự điều động, luân chuyển qua lĩnh vực khác
không đúng chuyên môn nghiệp vụ đã đào tạo, nên họ không phát huy được
những kiến thức đã học.
Nội dung chương trình và phương thức đào tạo, bồi dưỡng chậm được đổi
mới chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn sinh động. Cơ chế giáo dục - đào tạo
nói chung, lý luận chính trị nói riêng còn mang tính chung chung, chưa phân rõ
các loại hình và chức danh cụ thể, sát thực với thực tế ở cơ sở.
Thấy được vai trò và tầm quan trọng của công tác đào tạo nguồn cán bộ cho
cơ sở Ban Thường vụ Tỉnh uỷ xây dựng chương hành động thực hiện Nghị quyết
Trung ương 5 khoá IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ
sở xã, phường, thị trấn:
Chăm lo xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm
vụ mới, nhất là cán bộ cơ sở, theo hướng trẻ hóa. Đội ngũ cán bộ kế
cận phải đảm bảo về phẩm chất chính trị, đạo đức và chuyên môn,
nghiệp vụ; thực hiện tốt quy trình nhận xét, đánh giá, quy hoạch, đào
tạo, đề bạt, điều động, luân chuyển và bố trí cán bộ. Kịp thời phát hiện
những cán bộ có năng lực thật sự để đào tạo, bồi dưỡng; bổ sung chính
sách mới để thu hút cán bộ có năng lực. Đảm bảo tính khách quan,
công tâm trong công tác cán bộ, khắc phục tình trạng cục bộ khép kín.
Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết 42 của Bộ Chính trị về quy hoạch
cán bộ lãnh đạo; xây dựng đề án quy hoạch đào tạo, đưa cán bộ trẻ về
cơ sở và đề án đào tạo cán bộ có trình độ cao học để bổ sung nguồn
nhân lực mới cho tỉnh [8, tr.83].
Mặt khác, do nhu cầu công tác, cũng như công việc gia đình nên phần đông
cán bộ khi được cử đi học tập trung thì họ tìm mọi cách, mọi lý do để được học
tại chức tại huyện để vừa học vừa làm như thế ít có thời gian đầu tư cho việc tự
nghiên cứu.
Ba là, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã còn biểu hiện
thiếu ý chí quyết tâm, phấn đấu vươn lên, chưa có nhận thức đúng đắn về sự cần
thiết để nâng cao trình độ lý luận chính trị.
Nhìn chung, đa số cán bộ, đảng viên luôn kiên định lập trường quan điểm
chính trị vững vàng, không dao động trước mọi khó khăn, thử thách trong cơ chế thị
trường, luôn trung thành với con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.
Song, “ Còn một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm kỷ cương, kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà
nước tạo sự bất bình trong cán bộ, đảng viên và nhân dân” [8, tr.34]. Từ đó dẫn đến
động cơ học tập lý luận chính trị của một số cán bộ chưa đúng đắn. Họ xem học tập
lý luận chính trị là điều kiện để được đề bạt, bổ nhiệm chức vụ chứ không phải học
để hiểu biết, để nâng cao trình độ cho bản thân, họ chưa thấy được thực chất, vai trò
to lớn của lý luận chính trị đối hoạt động lãnh đạo của họ. Một số ý kiến cho rằng:
lý luận chính trị không phải là chuyên môn, nếu có cũng được, không có cũng
chẳng sao, miễn hoàn thành tốt công việc cấp trên giao phó là được. Chính vì việc
xem thường kiến thức lý luận chính trị nên một số cán bộ, đảng viên nói chung, cán
bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở nói riêng không thấu hiểu lời dạy quý báu
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tất cả những động cơ học tập không đúng đắn đều
phải tẩy trừ cho sạch”[35, tr.497].
Ngày nay, đứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học - kỹ thuật, các
nước tư bản chủ nghĩa đã tận dụng một cách triệt để những thành tựu khoa học -
kỹ thuật vào việc phát triển kinh tế - xã hội và đã tạo ra một bước phát triển mới
đã làm cho một số người cứ tưởng rằng chủ nghĩa tư bản là trên hết, là tuyệt
đỉnh, hơn hẳn các chế độ xã hội khác. Mặt khác, trong thời gian qua, nhất là từ
khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội lâm vào
thoái trào, làm cho một số cán bộ, đảng viên bị dao động về tư tưởng, hoài nghi
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đứng trước những tình hình đó,
một số cán, đảng viên nói chung, cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre nói riêng, trong
thời gian dài họ rất ngại vấn đề học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ lý luận
chính trị. Với sự bùng nổ thông tin như hiện nay thì một mặt làm cho nhận thức
người dân ngày càng cao; mặt khác họ cũng được tiếp cận những luận điệu
xuyên tạc của kẻ thù về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta. Cho nên để đấu tranh
chống lại những luận điểm xuyên tạc đó cũng như việc vận động thuyết phục
nhân dân nói và làm theo quan điểm chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, nhất thiết người cán bộ cơ sở phải không ngừng học tập, nghiên cứu
nâng cao trình độ về mọi mặt, nhất là trình độ lý luận chính trị.
Để khắc phục những hạn chế trên ngoài sự quan tâm đào tạo, bồi dưỡng của
các cấp ủy Đảng thì người cán bộ nói chung, cán bộ cơ sở nói riêng phải tự học
tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ
trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước để tự nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho bản thân. Nghị quyết của Đảng nêu rõ, lười học tập
cũng là một biểu hiện của sự thoái hoá, học tập là một nhiệm vụ của đảng viên,
đối với cán bộ lãnh đạo càng phải tự học tập, nghiên cứu, học trong thực tiễn
cuộc sống, trong công tác, trong đồng nghiệp. Có như vậy mới có thể hoàn thành
tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó và đứng vững
trước mọi thách thức khó khăn của cơ chế mới.
Bốn là, phong tục, tập quán lạc hậu, cũng như những tư tưởng phong kiến,
lối sống phóng khoáng thiếu thực tế… đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả của
công tác giáo dục lý luận chính trị.
Cũng giống như ở các địa phương khác, một bộ phận cán bộ, đảng viên và
nhân dân ở các xã vùng nông thôn ở tỉnh Bến Tre còn chịu những ảnh hưởng của
phong tục, tập quán, tư tưởng phong kiến lạc hậu, lỗi thời. Điều này trực tiếp
hoặc gián tiếp góp phần làm nẩy sinh tư tưởng sùng bái kinh nghiệm, thoả mãn
với những hiểu biết, những kinh nghiệm đã tích luỹ trong cuộc sống, nên miễn
có kinh nghiệm càng nhiều thì quản lý xã hội tốt chứ không cần học tập để nâng
cao trình độ về mọi mặt nói chung, nhất là trình độ lý luận chính trị. Mặt khác,
do lối sống phóng khoáng, quan hệ giữa con người với nhau rất giản đơn, thẳng
thắn, ít có sự phân biệt giữa người lớn tuổi và thế hệ trẻ, giữa cấp trên với cấp
dưới… cho nên trong công việc họ ít chú ý đến trình độ của đội ngũ cán bộ mà
chủ yếu là chú ý đến hiệu quả công việc là chính.
Một thực tế cho thấy, hiện nay ở một số xã vùng sâu có tư tưởng là con gái
không cần đi học cao, dù học cao đến đâu chăng nữa thì cũng chỉ vào phục vụ
việc “bếp núc” hoặc phụ nữ thì không thể làm cán bộ, làm lãnh đạo và tham gia
các công việc xã hội. Có người còn cục bộ hơn nữa là “cái thúng chỉ đong thóc
chứ ai lấy đong chữ bao giờ”. Họ không muốn cho con đi học, nhất là học lý
luận chính trị.
Tóm lại, từ thực trạng và những nguyên nhân trên đã có tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp tới việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ
sở ở tỉnh Bến Tre hiện nay. Để khắc phục những hạn chế, yếu kém trên đòi hỏi
phải có một hệ thống giải pháp đồng bộ, chặt chẽ của Tỉnh ủy - UBND Tỉnh,
Trường Chính trị, Ban Tuyên giáo, Trung tâm bồi dưỡng chính trị và các ban ngành
hữu quan cũng như bản thân đội ngũ cán bộ cơ sở.
2.2. Một số kinh nghiệm và kiến nghị trong quá trình Đảng bộ tỉnh
Bến Tre lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở (1996
– 2006)
2.2.1. Một số kinh nghiệm
Một là, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân và cán bộ cơ sở, tạo điều kiện vật chất và môi trường học tập tốt để
cán bộ nhận thức được sự cần thiết phải nâng cao trình độ lý luận chính trị
Để nâng cao trình lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre đạt hiệu
quả cao thì trước hết phải đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trên cơ sở
đó, nâng cao trình độ học vấn, khoa học kỹ thuật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cho họ. Theo C.Mác: “ Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở, và mặc đã
rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo. v.v. được” [25,
tr.500]. Điều này có nghĩa điều kiện vật chất có vai trò rất quan trọng, quyết định
đến đời sống tinh thần. Do đó, để nâng cao nhận thức, nâng cao trình độ lý luận
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã thì phải phát triển kinh tế xã hội,
tạo tiền đề cơ sở vật chất đảm bảo cho họ an tâm học tập, nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho bản thân. Trong quá trình lãnh, chỉ đạo cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở, Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển
kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Vì thế
để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá dất nước, sớm
xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần quan
tâm đến lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể. Chính quá trình phát triển kinh tế - xã hội
và thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn sẽ tạo ra những
cơ sở, tiền đề khách quan cho cán bộ đảng viên có điều kiện rèn luyện, học tập,
nghiên cứu để nâng cao trình độ lý luận chính trị, khắc phục những yếu kém
trong lối suy nghĩ của họ. V.I Lênin khẳng định: “Đối với người tiểu nông thì chỉ
có cơ sở vật chất kỹ thuật, những máy kéo và máy móc, với qui mô lớn… mới có
thể làm cho tâm lý của họ có thể trở thành lành mạnh được” [27, tr.72].
Do vậy, các cấp uỷ Đảng phải có chính sách tăng cường đầu tư, phát triển
mạnh mẽ kinh tế - xã hội, nhằm xoá đói giảm nghèo khắc phục những tiêu cực,
lạc hậu của nền sản xuất nhỏ, nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhân
dân trong đó có đội ngũ cán bộ cơ sở.
Hiện nay, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; đặc biệt là công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn là vấn đề vừa mang tính
cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài. Tại Hội nghị lần thứ 5 khoá VII Đảng ta
khẳng định: “Thực hiện, nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần
trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn” [9, tr.10]. Thông qua đường lối phát triển
kinh tế của Đảng nhằm tạo cơ sở để nâng cao trình độ lý luận chính trị nhận thức
về mọi mặt trong đó có trình độ lý luận chính trị cho nhân dân cũng như đội ngũ
cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre.
Trong những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng phát triển kinh tế cá thể tiểu
chủ, kinh tế hộ gia đình, khuyến khích họ vươn lên làm giàu chính đáng, góp
phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và đời sống
tinh thần cho nhân dân. Quá trình đó đã thúc đẩy mạnh mẽ việc phân công lao
động xã hội, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hoá xã hội
và khoa học kỹ thuật làm cho quá trình sản xuất mang tính xã hội sâu sắc, xoá bỏ
tình trạng biệt lập các quan hệ kinh tế trước đây góp phần mở rộng tầm nhìn,
nhận thức của nhân dân trong đó có cán bộ cơ sở, làm cho họ thay đổi lối suy
nghĩ, cách làm. Điều kiện vật chất được nâng lên, đời sống ổn định là một trong
những tiền đề vật chất cho người cán bộ nói chung, cho cán bộ cơ sở nói riêng,
yên tâm công tác có điều kiện cống hiến hết mình cho công việc, gắn bó với quê
hương, xóm làng, và họ có điều kiện học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ cho
bản thân. Đây là cơ sở kinh tế - xã hội khách quan để xoá bỏ các điều kiện cơ sở
làm nảy sinh bệnh kinh nghiệm, giáo điều, máy móc, bệnh chủ quan duy ý chí,
tâm lý mặc cảm, tự ti, bảo thủ…
Quá trình phát triển kinh tế theo hướng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi người cán bộ lãnh
đạo phải có sự chủ động trong suy nghĩ, sáng tạo trong hoạt động lãnh đạo, quản
lý, cũng như năng lực đánh giá tình hình, phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn
trong kinh tế - xã hội một cách đúng đắn và kịp thời. Nền kinh tế thị trường đã
phát huy những tác động tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước nói chung trong đó có các xã vùng nông thôn ở tỉnh Bến Tre. Nó đã tạo ra
bước phát triển mới trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn, làm cho đời sống nhân dân ngày được cải thiện. Theo báo cáo của
Đại hội VIII tỉnh Đảng bộ:
Thành tựu nổi bật trong 5 năm qua (2001–2005) là toàn tỉnh đã
thực hiện đạt và vượt nhiều chỉ tiêu chủ yếu so với Nghị quyết Đại hội.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau luôn cao hơn năm trước, bình quân
đạt 9,38%/năm; giá trị sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp tăng 6,86%/năm,
công nghiệp–xây dựng tăng 16,38%, dịch vụ tăng 13%/năm; GDP bình
quân đầu người đạt 461 USD; thu-chi ngân sách ngày càng được cải
thiện, đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên và có tích lũy cho đầu tư phát
triển [8, tr.12-13].
Như vậy, mức sống đã được nâng lên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ
cán bộ cơ sở nâng cao trình độ về mọi mặt trong đó có trình độ lý luận chính trị.
Trong điều kiện hiện nay, chúng ta đang quyết tâm thực hiện thắng lợi công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, nên kinh tế hộ gia đình có vai trò rất quan
trọng. Để phát triển kinh tế hộ gia đình thì Đảng - Nhà nước phải có những chính
sách phù hợp, cụ thể, hỗ trợ, khuyến khích cán bộ và nhân dân như chính sách
cho vay vốn, chính sách hỗ trợ cây - con giống và khoa học kỹ thuật, chính sách
xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm cho nhân dân… Sự vận động của cơ chế thị
trường định hướng XHCN diễn ra rất phức tạp, để lãnh đạo điều hành nó đi đúng
định hướng XHCN thì đòi hỏi người cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre phải có tư duy
năng động, sáng tạo, có khả năng khái quát hoá những vấn đề sinh động của thực
tiễn cũng như việc phát hiện ra mâu thuẫn và giải quyết các mâu thuẫn kinh tế - xã
hội trên địa bàn họ quản lý.
Hiện nay, để lao động sản xuất có hiệu quả thì người lao động không chỉ
dựa vào kinh nghiệm, vào ý muốn chủ quan mà đòi hỏi có trình độ về mọi mặt,
tiếp thu được những thành tựu của khoa học kỹ thuật thông qua việc mở cửa, hội
nhập kinh tế, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá trên phạm vi toàn thế giới. Phát
triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn sẽ
tạo ra điều kiện khách quan cơ sở vật chất kỹ thuật để khắc phục sự trì trệ, bảo thủ
trong lối tư duy suy nghĩ của người sản xuất nhỏ, cũng như những tư tưởng phong
kiến, tiểu tư sản, những phong tục tập quán lạc hậu ảnh hưởng đến việc nâng cao
trình độ lý luận chính trị.
Hiện nay, đối với tỉnh Bến Tre kinh tế nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan
trọng trong việc ổn định đời sống nhân dân và tạo nên những tiền đề cho sự phát
triển công nghiệp. Vì vậy, đối với cấp cơ sở trong thời gian tới phải tập trung
phát triển toàn diện trên các lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông -
thuỷ- hải sản, phát triển dịch vụ, du lịch đặc biệt là phát triển du lịch sinh thái.
Tỉnh uỷ - Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre cần có những chính sách cụ thể, phù
hợp khuyến khích kêu gọi những nhà đầu tư trong và ngoài nước và áp dụng
những thành tựu tiên tiến của khoa học kỹ thuật, nhất là các lĩnh vực công nghệ
sinh học vào sản xuất. Tỉnh phải có chính sách phù hợp để thu hút nhân tài, các
nhà khoa học về công tác ở địa phương. Phát triển nhiều ngành nghề mới và
đồng thời khôi phục, tạo điều kiện thuận lợi cho các nghề truyền thống như đan
lát, rèn, dệt chiếu… phát triển nhằm tạo công ăn việc làm, thực hiện tốt chính
sách xã hội. Tận dụng tối đa lợi thế của tỉnh là với chiều dài 65 km bờ biển để
phát triển trồng rừng để làm khu du lịch sinh thái và đồng thời đầu tư phát triển
nuôi trrồng và đánh bắt thuỷ hải sản. Mở rộng, phát triển kết cấu hạ tầng như
mạng lưới giao thông nông thôn, điện, nguồn nước sạch cho sinh hoạt và sản
xuất, thông tin liên lạc, trường, trạm và các khu vui chơi giải trí khác. Thực hiện
nhất quán chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn, nhằm làm biến đổi căn bản toàn bộ bộ mặt kinh tế - xã hội của tầng
lớp nhân dân trong tỉnh, trong đó có bản thân đội ngũ cán bộ cơ sở.
Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện cần nhưng chưa đủ, mà để
nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre một
cách có hiệu quả thì đòi hỏi phải quan tâm đến việc nâng cao giáo dục - đào tạo
về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, trình độ hiểu biết về khoa học kỹ
thuật cho họ. Vì vậy, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước Đảng ta chủ trương: “Phát triển khoa học và công nghệ cùng với
phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [15, tr.112].
Quán triệt tư tưởng trên, Đại hội Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VIII (2005)
nêu rõ:
Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo; thực hiện tốt
các chính sách giáo dục đào tạo, thu hút mạnh nguồn nhân lực, nhất là
cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật; tập trung đào tạo lao động
có tay nghề; giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc. Nâng
cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ, khoa học nhân văn
theo hướng phục vụ phát triển sản xuất, đời sống. Tạo chuyển biến
trong đầu tư, phát triển toàn diện các hoạt động văn hóa [8, tr.42-43].
Đối với cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay, trước hết,
phải tốt nghiệp trung học phổ thông và phải được đào tạo về chuyên môn nghiệp
vụ, khắc phục tối đa những hạn chế học vấn đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt. Qua đó, tạo tiền đề cho họ tiếp thu tốt những kiến thức mới, những thành
tựu tiên tiến của khoa học - kỹ thuật, nhất là trình độ lý luận chính trị.
Ngoài việc trang bị, nâng cao trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị ra
người cán bộ cơ sở ở tỉnh còn phải được đào tạo từng chuyên môn, nghiệp vụ cụ
thể, làm cho họ có kiến thức sâu sắc thêm về một lĩnh vực nào đó mà họ đang
phụ trách, qua đó giúp họ vững vàng hơn trong cách xử lý các vấn đề, các lĩnh
vực mà họ quản lý một cách sinh động hơn và làm cho họ tránh được những giáo
điều, rập khuôn máy móc, lý luận suông và cũng như việc xem thường lý luận.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần tạo ra môi trường học tập tốt là một trong những giải pháp hiệu quả, cơ
bản nhằm để tạo điều kiện nâng cao trình độ nói chung, trình độ lý luận chính trị
nói riêng cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, nội dung, chương trình giáo dục lý luận chính trị phải xuất phát từ
yêu cầu của hoạt động thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy: học lý luận là để vận dụng vào thực
tiễn, phải mang lại lợi ích thiết thực cho hoạt động thực tiễn. Vì vậy, giáo dục lý
luận chính trị phải luôn chú ý kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, phải xuất phát
từ yêu cầu của hoạt động thực tiễn để đưa ra nội dung, chương trình giáo dục cho
thích hợp. Vì chỉ trên cơ sở gắn chặt giữa giáo dục lý luận chính trị với yêu cầu
của hoạt động thực tiễn thì giáo dục lý luận chính trị mới đem lại hiệu quả thiết
thực. Thông qua quá trình học tập, học viên không những nắm vững được những
vấn đề lý luận cơ bản để vận dụng vào trong công tác thực tiễn, mà còn giúp họ
hiểu biết, quán triệt một cách sâu sắc hơn trong những nhiệm vụ chính trị cụ thể
đang đặt ra trong mỗi thời kỳ cách mạng. Từ đó giúp họ chỉ đạo thực hiện một
cách hiệu quả những nhiệm vụ cụ thể của địa phương mình.
Trong giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở yêu cầu này hết sức quan
trọng. Do sự hạn chế về trình độ học vấn và khả năng nhận thức của đội ngũ cán bộ
này, nếu không kết hợp tốt giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình giáo dục lý luận
chính trị, việc học tập sẽ không hiệu quả. Thực tế cho thấy nếu chỉ bằng việc giảng
dạy lý luận đơn thuần, học viên sẽ rất khó tiếp thu, nắm vững các vấn đề lý luận
phức tạp, trừu tượng mang tính khái quát hóa cao. Do đó, để học viên có thể tiếp
thu, nắm vững các vấn đề lý luận đó một cách dễ dàng, không có con đường nào tốt
hơn là đưa lý luận trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn để minh họa, lý giải những
vấn đề lý luận. Như vậy, không những giúp cho học viên nắm vững lý luận mà còn
tạo cho họ tiếp xúc với thực tiễn, hiểu biết thực tiễn hơn qua những vấn đề lý luận.
Đây chính là cơ sở để học viên sau khi ra trường có thể vận dụng lý luận dễ dàng
vào trong công tác thực tiễn của địa phương mình. Do đó, nội dung chương trình
giáo dục lý luận chính trị càng gần với yêu cầu của hoạt động thực tiễn, càng gần
với nhiệm vụ chính trị, hiệu quả giáo dục càng cao. Học viên có thể vận dụng ngay
những kiến thức đã học ở trường vào công tác cụ thể của mình ở địa phương. Yêu
cầu của hoạt động thực tiễn của nước ta hiện nay là:
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy
động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị – xã hội;
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại [19, tr.23].
Vì vậy, chương trình, nội dung giáo dục lý luận chính trị ở trường chính
trị ngoài việc vận dụng đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và giảng dạy, đồng thời phải quan tâm đến những phương
hướng, nhiệm vụ cụ thể của mỗi địa phương, vận dụng vào công tác của mình.
Giáo dục lý luận chính trị phải gắn chặt hơn nữa với thực tiễn của địa phương để
cấu tạo, xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp.
Ba là, nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục lý luận chính trị phải
phù hợp với trình độ học vấn, khả năng nhận thức của cán bộ
Một trong những yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu quả của
giáo dục là phải có phương pháp phù hợp đối với từng đối tượng. Sự phù hợp ở đây
được thể hiện trên nhiều mặt, nhưng quan trọng nhất là phù hợp với trình độ học
vấn và khả năng tiếp cận của người học. Vì chỉ trên cơ sở đó, người học mới có thể
tiếp thu, nhận thức được đầy đủ, học tập có hiệu quả.
Trong công tác giáo dục lý luận chính trị đối với cán bộ cơ sở, đây là điều
cần phải hết sức quan tâm. Bởi vì, đây là một đội ngũ cán bộ được tăng cường,
bổ sung từ nhiều nguồn, do đó về trình độ học vấn, trình độ nhận thức cũng như
nhiều mặt không đồng đều; đặc biệt trình độ học vấn có sự chênh lệch nhau quá
lớn. Sự chênh lệch này ngay trong nội bộ của đội ngũ cán bộ cơ sở ở từng xã,
phường, thị trấn. Cán bộ ở phường, thị trấn thường có trình độ cao hơn cán bộ ở
các vùng nông thôn. Ngoài sự chênh lệch về trình độ học vấn, trong đội ngũ cán
bộ này còn có sự chênh lệch trên nhiều mặt khác: độ tuổi, kinh nghiệm công
tác… Tất cả sự chênh lệch này sẽ dẫn đến sự khác nhau về khả năng tiếp thu,
nhận thức trong quá trình học tập.
Do đó chất lượng học tập bị hạn chế là tất yếu. Đây cũng chính là một
trong những khó khăn của công tác giáo dục lý luận chính trị hiện nay. Cho nên,
cùng với việc đổi mới phương pháp giáo dục cho phù hợp với trình độ học vấn
và khả năng nhận thức của đối tượng, về nội dung cũng cần có sự đổi mới nhằm
đáp ứng yêu cầu của từng loại đối tượng. Thực hiện được những yêu cầu trên,
trong công tác giáo dục lý luận chính trị, về thực chất chính là quán triệt, thực hiện
đúng đắn tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) đối với công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ: “Lấy tiêu chuẩn cán bộ làm căn cứ xây dựng chương trình đào
tạo, bồi dưỡng… nội dung đào tạo phải thiết thực, phù hợp với yêu cầu đối với
từng loại cán bộ” [13, tr.84].
Như vậy, về nội dung chương trình đạo tạo, bồi dưỡng cán bộ, Nghị quyết
đã đặt ra những yêu cầu rất cụ thể. Trước hết, phải căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ
để xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Chỉ có như vậy, thông qua đào
tạo, bồi dưỡng, cán bộ mới có thể hoàn thành nhiệm vụ chính trị cũng như đáp
ứng những yêu cầu của Đảng đặt ra trong thời kỳ mới. Mặt khác, Nghị quyết
cũng nêu rõ, đối với cán bộ, tùy theo từng điều kiện, nhiệm vụ cụ thể lại có những
yêu cầu khác nhau. Do đó, ngoài những tiêu chuẩn chung, mỗi cán bộ lại có những
yêu cầu riêng. Vì vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng phải dựa trên những yêu
cầu cụ thể đó để đưa ra nội dung, chương trình đào tạo cho sát hợp. Chỉ trên cơ sở
đó, sau khi đào tạo, bồi dưỡng mỗi cán bộ mới có thể vận dụng một cách hiệu quả
vào công tác của mình, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác. Đó là những
yêu cầu hết sức cơ bản của Đảng đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hiện
nay.
Bốn là, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy và từng bước hiện đại
hóa cơ sở vật chất
Trong những năm qua, đội ngũ báo cáo viên, giảng viên các trung tâm bồi
dưỡng chính trị và Trường Chính trị tỉnh Bến Tre đã lớn mạnh, trưởng thành trên
nhiều mặt cả về số lượng và chất lượng. Lực lượng giảng viên trẻ có trình độ
chuyên môn, có học vị đã được đào tạo, bổ sung ngày càng tăng, chất lượng giáo
dục đào tạo đã được nâng lên. Song trên thực tế, muốn nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cần bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên hơn nữa về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức cũng như năng lực
chuyên môn.
Nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức là một trong những yếu
tố quan trọng hàng đầu đối với giáo viên lý luận chính trị. Đặc biệt trong điều
kiện hiện nay, trước những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị trên thế
giới, là những cán bộ làm công tác giáo dục, tuyên truyền của Đảng trên mặt trận
tư tưởng đội ngũ này càng phải vững vàng hơn. Để nâng cao phẩm chất chính trị,
tư tưởng, đạo đức của cán bộ giảng dạy trước hết phải giữ vững bản chất giai
cấp công nhân. Điều này hết sức quan trọng, vì chỉ trên cơ sở giữ vững bản chất
giai cấp công nhân đội ngũ giảng viên mới có thể tạo cho mình một nền tảng tư
tưởng vững chắc.
Bên cạnh những phẩm chất về chính trị tư tưởng, người giảng viên chính
trị còn cần phải có một phẩm chất đạo đức tốt, thể hiện phải trở thành khuôn
mẫu về mặt đạo đức, tư tưởng và lề lối làm việc. Ngoài ra, họ còn phải có sự say
mê nhiệt tình trong công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Đây chính là điều
căn bản vì chúng ta không thể nói phẩm chất đạo đức chung chung mà phải biểu
hiện bằng sự cống hiến, bằng hiệu quả trong công tác. Hiệu quả, năng suất lao
động chính là thước đo phẩm chất đạo đức cách mạng của mỗi người.
Song song với việc rèn luyện về đạo đức, chính trị, tư tưởng, nâng cao
trình độ chuyên môn là một yêu cầu hết sức quan trọng. Vì chỉ trên cơ sở nâng
cao trình độ chuyên môn của giáo viên mới có thể nâng cao được chất lượng,
hiệu quả trong giáo dục đào tạo. Điều này thể hiện ở hai phương diện chính:
Thứ nhất, không ngừng bổ sung, nâng cao trình độ học vấn, những tri
thức ngoài chuyên ngành, kết hợp giảng dạy và nghiên cứu khoa học, thường
xuyên tự học. Điều này được đặt ra như một yếu tố cơ bản để nâng cao chất
lượng của đội ngũ giảng viên chính trị. Thực tế cho thấy giảng viên thường được
đào tạo, bồi dưỡng qua các chuyên ngành khoa học chính trị, thiếu những kiến
thức cơ bản của các ngành khoa học xã hội – nhân văn, khoa học tự nhiên. Vì
vậy, một mặt không ngừng không ngừng đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu đối với
các chuyên ngành lý luận (đưa đi học cao học, nghiên cứu sinh), đơn vị cần phải
tạo điều kiện cho cán bộ bồi dưỡng thêm cho mình những tri thức khoa học
ngoài chuyên ngành. Mặt khác, người giảng viên ngoài nhiệm vụ giảng dạy còn
phải tham gia nghiên cứu khoa học, tự học tập để nâng cao kiến thức cho bản
thân. Ngoài ra, Hội đồng khoa học nhà trường cần phải thông qua bài giảng một
cách nghiêm túc kết hợp với dự giờ của giảng viên để rút kinh nghiệm cho
những lần lên lớp sau này hoàn thiện hơn.
Thứ hai, tăng cường vốn kinh nghiệm thực tiễn cho giảng viên. Trên cơ sở
có vốn kiến thức thực tiễn phong phú người giảng viên mới có thể có được
những bài giảng sinh động với hiệu quả cao.
Mặt khác, chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục lý luận chính trị
phụ thuộc rất lớn vào điều kiện, cơ sở vật chất. Cơ sở vật chất ở đây bao gồm
toàn bộ cơ sở hạ tầng với các điều kiện vật chất như nhà cửa và các phương tiện
phục vụ cho giảng dạy, học tập, phục vụ cho sinh hoạt. Vì vậy, nó có tác động
rất lớn đến công tác giáo dục đào tạo. Muốn có chất lượng, hiệu quả đào tạo cao
phải trên điều kiện cơ sở vật chất hiện đại. Bác Hồ đã từng nói: “Huấn luyện cán
bộ là công việc gốc của Đảng”, tuy tốn kém nhưng đã là công việc quan trọng thì
“không nên bủn xỉn về các khoản chi tiêu trong việc huấn luyện” [32, tr.273].
2.2.2. Một số kiến nghị
Đối với Trung ương
- Các ban ngành có liên quan như Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên
giáo Trung ương, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ
Tài chính, Bộ Nội vụ… thống nhất việc xây dựng mô hình Trường Chính trị tỉnh,
gồm cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy - học tập và phục vụ;
các chế độ chính sách đối với giảng viên và học viên như kinh phí đào tạo dành cho
một học viên/năm, chế độ phụ cấp giảng dạy, chế độ trợ cấp tiền ăn học viên, các
phương tiện được trang bị cho các khoa và giảng viên... tránh tình trạng mỗi nơi vận
dụng một cách khác nhau.
- Ban Tổ chức Trung ương: đề nghị xem xét và bổ sung đối tượng học
trung học chính trị, ngoài số đối tượng theo Quyết định 88/QĐ/TW của Ban Bí
thư Trung ương Đảng ngày 05 tháng 9 năm 1994 và Hướng dẫn số 07 TC/TW
của Ban Tổ chức Trung ương cần bổ sung thêm đối tượng là giáo viên, cán bộ
ngành giáo dục - đào tạo…
- Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục -
Đào tạo sớm ban hành thống nhất các nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ cơ sở một cách đồng bộ, thống nhất, ổn định, tránh chồng chéo, lãnh phí
khi một đối tượng cán bộ, công chức phải học lại khi tham gia học các chương
trình khác nhau.
Bên cạnh giáo trình đang thực hiện theo Quyết định của Giám đốc Học
viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, cần có tài liệu hướng dẫn bổ
sung ở từng thời điểm cụ thể và từng đối tượng cụ thể; như thế sẽ tránh việc biên
soạn giáo trình sau mỗi lần Đại hội Đảng toàn quốc hoặc địa phương phải biên
soạn giáo trình phục vụ cho các đối tượng phù hợp địa phương.
Đối với tỉnh Bến Tre
Một là, Tỉnh uỷ – ủy ban nhân dân Tỉnh Bến Tre phải xây dựng đề án tổng
thể để tuyển chọn, đào tạo, quy hoạch cán bộ, xem đó là chiến lược phát triển lâu
dài của tỉnh. Đồng thời cần quy hoạch đào tạo tuyển chọn đội ngũ giảng viên một
cách cụ thể theo từng giai đoạn; tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên hiện
có; cho biên chế dự phòng để tạo nguồn cán bộ giảng viên. Tỉnh ủy, Ban Tuyên
giáo, Ban Tổ chức và các Sở ban ngành cần khai thác, sử dụng tốt khả năng của đội
ngũ giảng viên như bố trí làm báo cáo viên kiêm chức, báo cáo viên chuyên đề,
nghiên cứu giúp các tổ chức cơ sở đảng, thu hút tham gia vào các chương trình
nghiên cứu khoa học, xây dựng - phản biện các chương trình kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội tỉnh nhà.
Hai là, Tỉnh uỷ - ủy ban nhân dân tỉnh phải đổi mới cơ chế, chính sách
thật tốt đối với đội ngũ giảng viên và học viên học tập lý luận chính trị và tạo
môi trường tốt để thu hút nhân tài về phục vụ cho tỉnh nhà.
Đối với giảng viên giảng dạy lý luận chính trị phần đông đời sống gặp
nhiều khó khăn, thu nhập rất thấp, nhà ở chưa có, nên lãnh đạo tỉnh xem xét cấp
đất, nhà ở, để họ an tâm học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ để phục vụ giảng
dạy tốt hơn. Tạo điều kiện cho lãnh đạo, giảng viên được tham gia vào các đoàn
nghiên cứu học tập ở nước ngoài do Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, tổ chức. Tỉnh cần có chế độ chính sách hỗ trợ cho cán bộ đặc biệt
là cán bộ giảng dạy lý luận chính trị học cao học và nghiên cứu sinh, sau khi học
xong có bằng về phải có chế độ cụ thể là thạc sĩ là 30 triệu đồng, tiến sĩ là 50
triệu đồng để tạo điều kiện khuyến khích họ đi học.
Đối với người học viên học tập lý luận chính trị, nếu là cán bộ ở xã thì
phải trợ cấp 600.000 ngàn đồng/ tháng và tiền xe đi về hàng tuần. Tài liệu học
tập nghiên cứu của học viên thì cơ sở đào tạo phải cấp phát đầy đủ.
Ba là, Tỉnh uỷ - ủy ban nhân dân tỉnh phải xúc tiến nhanh hơn nữa công tác
xây dựng khu nội trú và khu thể thao Trường Chính trị và TTBDCT các huyện, thị,
đồng thời từng bước hiện đại hóa các điều kiện vật chất khác nhằm bảo đảm tốt
cho công tác giảng dạy nâng cao trình độ lý luận chính trị và sức khỏe của đội
ngũ cán bộ tỉnh nhà.
Bốn là, Tỉnh uỷ - ủy ban nhân dân Tỉnh Bến Tre tiếp tục thực hiện chủ
trương đa dạng hoá nội dung chương trình, hình thức mở lớp đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, đảng viên phù hợp với từng đối tượng cụ thể trong hệ thống chính trị cơ
sở; vừa đẩy mạnh đào tạo cơ bản cho cán bộ dự nguồn, vừa chú trọng bồi dưỡng
nghiệp vụ chuyên môn theo chức danh, góp phần tiêu chuẩn hoá và nâng cao trình
độ, năng lực và kỹ năng công tác cho đội ngũ cán bộ cơ sở; kết hợp giữa đào tạo
chương trình trung cấp lý luận chính trị và một số chuyên ngành khác như hành
chính, pháp lý, tin học... qua đó nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cả
hệ thống chính trị ở cơ sở.
Tóm lại, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục lý luận
chính trị cho cán bộ cơ sở là yêu cầu cấp bách đối với tỉnh Bến Tre. Cùng với
việc đổi mới, cải tiến nội dung, chương trình giảng dạy, phải kiện toàn cơ cấu tổ
chức, củng cố xây dựng đội ngũ giảng viên mạnh cũng như cơ sở vật chất từng
bước hiện đại. Để thực hiện được điều đó cần phải có sự quan tâm, hỗ trợ của
các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là các cấp đảng bộ.
Kết luận
Lý luận chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình nhận
thức và hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ cơ sở nói
riêng. Trình độ lý luận chính trị giúp cho người cán bộ, đảng viên có khả năng đi
sâu nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực cũng
như quy luật vận động khách quan của các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy
của con người. Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở đồng
nghĩa với việc nâng cao khả năng nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng pháp luật của Nhà
nước, cũng như sự vận dụng chủ trương, đường lối, chính sách đó vào việc xây
dựng các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, cơ sở. Đồng thời,
thông qua đó đánh giá đúng thực chất về trình độ, năng lực của từng cán bộ. Vì
vậy, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định: “Mọi cán
bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải có kế hoạch thường
xuyên học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt
động thực tiễn” [12, tr.140-141]. Một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết
định sự thắng lợi của cách mạng là Đảng ta được soi sáng bởi một hệ thống lý
luận khoa học, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong điều kiện hiện nay, tình hình chính trị thế giới có nhiều biến động
phức tạp cùng với sự tác động của cơ chế thị trường đã dẫn đến sự dao động
trong tư tưởng của một bộ phận cán bộ cán bộ, đảng viên, cho nên công tác giáo
dục lý luận chính trị thực sự trở thành vấn đề cấp thiết trên mặt trận tư tưởng của
Đảng ta. Trong đó công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở là một bộ
phận hết sức quan trọng.
1. Trong nhiều năm qua, nhất là sau khi có Nghị quyết Trung ương 3
khóa VIII về chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về một số vấn đề cơ bản và cấp bách
trong công tác xây dựng Đảng hiện nay… Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã quán triệt và
vận dụng trong từng giai đoạn một cách cụ thể những Nghị quyết trên vào điều
kiện của tỉnh nhà, từ đó công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở đã
có bước phát triển mới. Số lượng và chất lượng cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng
ngày càng tăng lên. Hầu hết cán bộ sau khi ra trường trở về địa phương công tác
đều phát huy được khả năng của mình, vận dụng những tri thức lý luận đã học
vào trong thực tiễn một cách có hiệu quả; năng lực về lý luận chính trị cũng như
năng lực chỉ đạo thực tiễn so với trước được nâng lên.
2. Công tác giáo dục lý luận chính trị của tỉnh đã đạt được những kết quả
nhất định, song cũng còn nhiều hạn chế cần được quan tâm, chú trọng. Trước
hết, quy mô giáo dục được mở rộng hơn nhiều song chất lượng, hiệu quả còn
nhiều điều đáng quan tâm. Chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy đã được nâng
lên về nhiều mặt nhưng vẫn còn nhiều khiếm khuyết về khả năng sư phạm, vốn
kiến thức thực tiễn… Cơ sở vật chất đã được đầu tư, bổ sung ở mức độ khá
nhưng điều kiện vật chất cũng như phương tiện phục vụ cho việc giảng dạy, học
tập, sinh hoạt của học viên, giảng viên còn thiếu đồng bộ, chưa hiện đại. Khắc
phục những nhược điểm trên một mặt cần phải có sự quan tâm của các cấp, các
ngành, mặt khác đội ngũ cán bộ, giảng viên, học viên phải tự nổ lực phấn đấu
vươn lên, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Bên cạnh những thành tựu và hạn chế, Đảng bộ tỉnh Bến Tre trong quá
trình lãnh đạo công tác giáo dục lý luận chính trị cũng đã để lại một số kinh
nghiệm đáng được quan tâm như đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân và cán bộ cơ sở, tạo điều kiện vật chất và môi
trường học tập tốt; nội dung, chương trình giáo dục lý luận chính trị phải xuất
phát từ yêu cầu của hoạt động thực tiễn; nội dung, phương pháp và hình thức
giáo dục lý luận chính trị phải phù hợp với khả năng nhận thức của cán bộ; nâng
cao trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy và từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất…
Tóm lại, công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến
Tre hiện nay và trong thời gian tới vẫn là khâu hết sức quan trọng trên mặt trận
tư tưởng của Đảng. Vì vậy, để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ này, trước tiên phải đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, nâng cao đời
sống vật chất cũng như tinh thần cho toàn thể nhân dân. Đồng thời phải tiếp tục
đổi mới và đẩy mạnh công tác giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho
toàn thể cán bộ, đảng viên, tạo điều kiện cho họ phát huy ý thức tự giác học tập, tinh
thần cầu tiến vươn lên. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đánh giá, bố trí, sử dụng
cán bộ trên tinh thần công khai, dân chủ, đảm bảo tốt mọi điều kiện cho đội ngũ
giảng viên và học viên học tập lý luận chính trị, có chính sách đãi ngộ, thu hút nhân
tài. Các cấp uỷ Đảng quán triệt nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước,
quan tâm đầu tư thoả đáng trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ sở. Thực
hiện tốt công tác tổ chức tổng kết thực tiễn qua đó kịp thời uốn nắn những tư tưởng
lệch lạc, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, học tập các nghị quyết, chủ trương, đường,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Như vậy, mới có thể khắc phục được những hạn
chế, tồn tại và xây dựng được một đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh Bến Tre đủ phẩm
chất đạo đức và năng lực, “vừa hồng vừa chuyên”, đủ sức thực hiện thắng lợi các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, phấn đấu xây dựng tỉnh nhà phát
triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng… qua đó góp phần thực
hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện đúng mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
2. Lương Gia Ban (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và học tập lý luận",
Tạp chí Triết học, (1), tr.25-28.
3. Nguyễn Đức Bình (1999), "Xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị", Tạp chí
Giáo dục lý luận, (2), Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, tr.10-17.
4. Lê Bỉnh (2004), "Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính
trị", Lý luận chính trị, (3).
5. Lê Văn Cương (2005), Nhận dạng về các hoạt động chống phá Việt Nam trên
mặt trận chính trị của các thế lực thù địch, trong sách "Nhận dạng các
quan điểm sai trái, thù địch", Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Hà
Nội.
6. Đảng bộ tỉnh Bến Tre (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ VI .
7. Đảng bộ tỉnh Bến Tre (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ VII .
8. Đảng bộ tỉnh Bến Tre (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ VIII .
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (3/6/1995), Quyết định
về việc tổ chức trung tâm bồi dưỡng chính trị ở cấp huyện, số 100-
QĐ/TW.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị, Ban Chấp
hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung
ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Chính trị (12/5/1999), Quy định chế độ học tập
lý luận chính trị trong Đảng, số 54 QĐ/TW.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (Lưu hành nội bộ).
17. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
(27/3/2003), Chỉ thị về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Các nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Khoa Điềm (2004), "Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công
tác giáo dục lý luận chính trị trong tình hình mới", Tạp chí Thông tin
công tác tư tưởng lý luận, (1), tr.2-4.
21. Địa chí Bến Tre (2001), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Cao Duy Hạ, "Về giảng viên lý luận chính trị", Báo Nhân dân, ngày 5 tháng 5
năm 2005.
23. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ
của Đảng (2002), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng, lý luận,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Nguyễn Thị Hồng Lê (2004), Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
25. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
26. V.I Lênin (1981), Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
27. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
28. Lịch sử Trường Chính trị Bến Tre (2001), Trường Chính trị Bến Tre.
29. Đinh Xuân Lý (chủ biên) (2003), Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học Quốc
gia Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Khoa Minh (2003), V.I.Lênin về công tác tư tưởng và lý luận, trong sách "Một
số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh", Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
37. Ngô Kim Ngân (2001), "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp xã
trong thời kỳ mới", Tạp chí Giáo dục lý luận, (7).
38. Bùi Đình Phong - Phạm Ngọc Anh (2005), Công tác xây dựng Đảng trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Lao động, Hà
Nội.
39. Nguyễn Trọng Phúc (2000), Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đào Duy Quát (2004), Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Nguyễn Văn Sáu (2005), "Hội thi giảng viên dạy giỏi - hoạt động góp phần
đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường chính trị", Báo
Nhân dân.
42. Sở Nội vụ (2007), Công văn số 325/SNV-XDCQ 25/6/2007, về việc sơ lược
tình hình đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.
43. Lê Hanh Thông (2003), Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh Nam bộ, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
44. Nông Văn Tiềm (2001), Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
45. Nguyễn Đình Trãi (2001), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng
dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
46. Nguyễn Phú Trọng (1999), "Tạo chuyển biến mới trong việc học tập lý luận
chính trị của cán bộ, đảng viên", Tạp chí Cộng sản.
47. Tỉnh uỷ Bến Tre (2002), Chương trình hành động số 02 của Tỉnh uỷ về học tập
lý luận chính trị.
48. Tỉnh uỷ Bến Tre (2002), Chương trình hành động của Tỉnh uỷ về nhiệm vụ
chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.
49. Tỉnh uỷ Bến Tre (2004), Báo cáo 5 năm thực hiện Quy định 54 của BCT (khoá
VIII) về học tập lý luận chính trị trong Đảng.
50. Tỉnh uỷ Bến Tre (2005), Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Quyết định 100-
QĐ/TW của Ban Bí thư (khóa VII).
51. Trường Chính trị Bến Tre (1996), Báo cáo Công tác năm 1996 và phương
hướng công tác năm 1997.
52. Trường Chính trị Bến Tre (1997), Báo cáo Công tác năm 1997 và phương
hướng công tác năm 1998.
53. Trường Chính trị Bến Tre (1998), Báo cáo Công tác năm 1998 và phương
hướng công tác năm 1999.
54. Trường Chính trị Bến Tre (1999), Báo cáo Công tác năm 1999 và phương
hướng công tác năm 2000.
55. Trường Chính trị Bến Tre (2000), Báo cáo Công tác năm 2000 và phương
hướng công tác năm 2001.
56. Trường Chính trị Bến Tre (2001), Báo cáo Công tác năm 2001 và phương
hướng công tác năm 2002.
57. Trường Chính trị Bến Tre (2002), Báo cáo Công tác năm 2002 và phương
hướng công tác năm 2003.
58. Trường Chính trị Bến Tre (2003), Báo cáo Công tác năm 2003 và phương
hướng công tác năm 2004.
59. Trường Chính trị Bến Tre (2004), Báo cáo Công tác năm 2004 và phương
hướng công tác năm 2005.
60. Trường Chính trị Bến Tre (2005), Báo cáo Công tác năm 2005 và phương
hướng công tác năm 2006.
61. Đào Duy Tùng (1985), Một số vấn đề về công tác tư tưởng, Nxb Sách giáo
khoa Mác - Lênin.
62. Trần Ngọc Uẩn (2005), "Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở trường chính trị", Tạp chí Lịch sử Đảng, (2), tr. 12.
63. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2000), Quyết định 4051 về chế độ cho người đi
học ngoài tỉnh.
64. Vũ Quang Vinh (2002), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo – bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ", Tạp chí Công an nhân dân, (5), tr. 44-45.