MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,

đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;

đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của

dân tộc.

Hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay có bốn cấp từ

TW đến cơ sở, được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong hệ

thống đó, tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở), là cấp cuối cùng

được lập ra ở các xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn

vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị khác.

Tổ chức cơ sở Đảng là một trong những khâu quan trọng trong hệ

thống tổ chức của Đảng, là hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ sở. Tổ chức cơ sở

Đảng vừa là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính

sách của Đảng thành hành động cách mạng của đảng viên và quần chúng nhân

dân, vừa là nơi kiểm nghiệm, tập hợp những kinh nghiệm, sáng kiến, trí tuệ

của đảng viên và quần chúng nhân dân từ phong trào ở cơ sở để hình thành

nên đường lối, chính sách của Đảng; đồng thời cũng là nơi tiến hành các hoạt

động xây dựng nội bộ Đảng, lựa chọn, bồi dưỡng, rèn luyện, sàng lọc và kết

nạp đảng viên, đào tạo đội ngũ cán bộ nhằm bổ sung nguồn sinh lực mới, tăng

cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát triển liên

tục của Đảng. Thực tiễn phong phú, sinh động ở cơ sở là một trong những

nguồn trí tuệ cách mạng to lớn của Đảng.

Tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng, là gốc rễ, là những đơn vị cơ bản,

những tế bào của Đảng. Do đó chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng là một yếu

tố quan trọng tạo nên sức mạnh của Đảng và uy tín của Đảng trước quần

chúng nhân dân. Tổ chức cơ sở Đảng mạnh hay không mạnh, việc làm của tổ

1

chức cơ sở Đảng, đảng viên tốt hay không tốt đều có tác động mạnh mẽ đến

năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng

công tác xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của

tổ chức cơ sở Đảng, coi đó là một trong những nhiệm vụ thường xuyên và

quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ

rõ “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ mạnh,

chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” [19, tr.92], “Chi bộ là nền móng của

Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc đều sẽ tốt” [19, 210], “Cần phải ra sức củng cố

các chi bộ, để tất cả các chi bộ trở nên thật sự là hạt nhân lãnh đạo của Đảng ở

mọi bộ, mọi ngành, mọi nghề, mọi nơi” [18, 271].

Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đã

thu được những thành tựu to lớn, đất nước, xã hội, con người đều đổi mới.

Tuy nhiên trong công tác xây dựng Đảng, còn có mặt chưa đạt so với yêu cầu

nhiệm vụ đề ra: “Không ít tổ chức Đảng yếu kém, nhất là ở cơ sở, không làm

tròn vai trò hạt nhân chính trị và nền tảng của Đảng, không đủ sức giải quyết

những vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở, thậm chí có những tổ chức cơ sở

Đảng tê liệt, mất sức chiến đấu” [14, tr.263].

Những yếu kém của tổ chức cơ sở Đảng đã làm hạn chế năng lực lãnh

đạo, sức chiến đấu và uy tín của Đảng. Chính vì vậy công tác xây dựng, củng

cố tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và

sức chiến đấu cùng chất lượng tổ chức cơ sở Đảng luôn luôn là một nhiệm vụ

chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng - nhiệm vụ then chốt trong sự nghiệp

đổi mới hiện nay.

Từ một thành phố còn bộn bề khó khăn, đời sống của nhân dân còn

thấp, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thành phố Đà Nẵng đã thực

hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, làm cho thành phố có những biến đổi mạnh

mẽ, sâu sắc về mọi mặt.

2

Một trong những nguyên nhân đem lại những thắng lợi của công cuộc đổi

mới 20 năm là do Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng đã coi trọng công tác xây dựng

Đảng, phát huy năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.

Bên cạnh những thành công đó, nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở Đảng

của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng cũng còn một số tồn tại đòi hỏi phải có sự

nghiên cứu, tổng hợp và rút ra những kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề

đặt ra nhằm đưa công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà Nẵng

đạt được những kết quả cao hơn nữa.

Với những ý nghĩa khoa học thực tiễn đó và để thể hiện tấm lòng tri ân

đối với mảnh đất nơi tôi đang sinh sống và công tác, được sự khuyến khích

của thầy giáo hướng dẫn, tôi chọn đề tài: “Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng

lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở Đảng từ năm 1997 đến năm 2006” cho

luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Quá trình lãnh đạo của Đảng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng đã có nhiều

nhà lãnh đạo và khoa học nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Vấn đề xây

dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà Nẵng cũng có nhiều tài liệu liên

quan. Có thể chia thành các nhóm, loại công trình như sau:

Nhóm thứ nhất là các công trình chung, tiêu biểu là các cuốn sách: Hồ

Chí Minh: Về xây dựng Đảng (Nxb. Sự thật, 1981); Phạm Ngọc Quang, Trần

Đình Nghiêm: Thời kỳ mới và sứ mệnh của Đảng (Nxb. Chính trị quốc gia,

2001); Nguyễn Phú Trọng: Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới

(Nxb. Chính trị quốc gia, 2000); Lê Huy Bảo: Điều lệ Đảng từ Đại hội đến

Đại hội (Nxb. Chính trị quốc gia, 2003); Nguyễn Trọng Phúc: Vai trò lãnh

đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (Nxb. Chính trị quốc

gia, 2003); Nhiều tác giả: Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986

đến nay (Nxb. Chính trị quốc gia, 2006); Nhiều tác giả: Việt Nam 20 năm đổi

mới (Nxb. Chính trị quốc gia, 2006) v.v… Những tác phẩm nói trên chủ yếu

đề cập đến quan điểm, chủ trương, đường lối lãnh đạo xây dựng Đảng của

3

Đảng, trong đó có nội dung về lãnh đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở

Đảng, một vấn đề mà luận văn kế thừa khi giải quyết đề tài.

Nhóm thứ hai là những sách chuyên luận, chuyên khảo về vấn đề xây

dựng tổ chức cơ sở Đảng như: Mạch Quang Thắng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về

Đảng Cộng sản (Nxb. Chính trị quốc gia, 1995); Nguyễn Trọng Phúc: Tìm hiểu

Đảng Cộng sản Việt Nam qua các Đại hội và hội nghị TW (1930-2002) (Nxb.

Lao động, 2003); Nguyễn Hữu Tri, Nguyễn Thị Phương Hồng: Một số vấn đề

đổi mới tổ chức bộ máy Đảng Cộng sản Việt Nam (Nxb. Chính trị quốc gia,

2004); Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh: Công tác xây dựng Đảng trong thời

kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (Nxb. Lao động, 2006); Ngô Đăng Tri: Xây

dựng Đảng qua các thời kỳ cách mạng (1930-2006) in trong Một số chuyên đề

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập III (Nxb. Giáo dục, 2007) v.v… Nhóm

công trình này cung cấp cho đề tài tư liệu và sự nhìn nhận khái quát về xây

dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng, trong đó có tổ chức cơ sở Đảng.

Hiện nay chưa có một công trình khoa học cụ thể nào đi sâu nghiên cứu

về công công tác xây dựng Đảng tại Thành phố Đà Nẵng, nhất là trong thời

kỳ đổi mới. Những công trình trên góp phần cung cấp cơ sở phương pháp

luận chung, cách tiếp cận vấn đề, hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng

về công tác xây dựng Đảng, từ đó luận văn cố gắng làm rõ thêm những thành

tựu, hạn chế cũng như rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây

dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích:

- Phân tích quá trình xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành

phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến năm 2006.

* Nhiệm vụ:

- Sưu tầm, tổng hợp, hệ thống hóa tư liệu lịch sử về quá trình xây dựng,

củng cố tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng từ năm 1997

đến năm 2006.

4

- Hệ thống hóa các chủ trương, biện pháp và cách thức tổ chức thực

hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà

Nẵng từ năm 1997 đến năm 2006.

- Nêu lên những nhận xét, rút ra những kinh nghiệm và đặt ra những

vấn đề góp phần phục vụ công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch,

vững mạnh ở Thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu:

- Chủ trương, biện pháp lãnh đạo và kết quả của công tác tổ chức xây

dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến

năm 2006.

- Kết quả lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ

Thành phố Đà Nẵng.

* Phạm vi nghiên cứu:

- Nội dung nghiên cứu của luận văn là về quá trình lãnh đạo, chỉ đạo

xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ thành phố (chính trị, tư tưởng,

củng cố cơ sở Đảng, phát triển đảng viên, công tác cán bộ, công tác kiểm tra

và kỷ luật); tổng kết thành tựu, hạn chế, những kinh nghiệm trong xây dựng tổ

chức cơ sở Đảng ở Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng.

- Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng

xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong 10 năm từ năm 1997 đến năm 2006.

- Không gian mà đề tài nghiên cứu là ở Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng.

5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu chủ yếu

* Cơ sở lý luận:

Chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng Cộng sản và tư tưởng Hồ Chí Minh về

Đảng Cộng sản Việt Nam.

5

* Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp lịch sử, phương pháp logíc và sự kết hợp 2 phương pháp

đó là phương pháp chính để thực hiện đề tài. Ngoài ra trong quá trình hoàn

thành luận văn, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:

Phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích số

liệu, phương pháp so sánh, phương pháp đối chiếu... để làm rõ và phong phú

thêm những nội dung cần thể hiện.

* Nguồn tư liệu sử dụng:

- Văn kiện của TW Đảng (Đại hội Đảng toàn quốc, Hội nghị BCHTW,

BCT, Ban Bí thư, BTC) và của Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (1986-1996),

Thành phố Đà Nẵng (1997 - 2006).

- Các sách, báo, tạp chí nghiên cứu về Lịch sử Đảng và Xây dựng Đảng.

- Nguồn tư liệu chính được sử dụng trong luận văn là các Nghị quyết

Đại hội Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (từ khoá XVII đến khoá XIX), các nghị

quyết chuyên đề, các chương trình hành động, các bản báo cáo tổng kết công

tác xây dựng Đảng hàng năm, từng khoá, từng giai đoạn. Những tài liệu này

đã cung cấp chủ trương, đường lối, nhiệm vụ và kết quả đạt được trong công

tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng.

- Ngoài ra còn có các công trình liên quan trực tiếp đến lãnh đạo xây

dựng Đảng nói chung, tổ chức cơ sở Đảng nói riêng ở Thành phố Đà Nẵng:

như Lịch sử Đảng bộ Quang Nam - Đà Nẵng, (Sơ thảo) tập I, II, III, Lịch sử

Thành phố Đà Nẵng, xuất bản năm 2001. Đây là những công trình rất quan

trọng, cung cấp cho tác giả những số liệu, nội dung cần thiết và những thông

tin có giá trị, một cách nhìn tổng quát cho việc nghiên cứu đề tài.

6. Đóng góp của luận văn

- Góp phần nghiên cứu quá trình xây dựng, củng cố và phát triển tổ

chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên ở Đảng bộ Tành phố Đà Nẵng.

6

- Phân tích những kinh nghiệm và nêu ra những vấn đề cần giải quyết

trong xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Tành phố Đà Nẵng thời kỳ

1997 - 2006.

- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu về công tác

xây dựng Đảng ở Đảng bộ Tành phố Đà Nẵng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

cấu trúc của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về Thành phố Đà Nẵng và thực trạng xây dựng

tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà Nẵng từ năm 1986 đến năm 1996.

Chương 2: Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng lãnh đạo tổ chức xây dựng cơ

sở Đảng từ năm 1997 đến năm 2006.

Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm.

7

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

VÀ THỰC TRẠNG XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG

Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1996

1.1. Tổng quan về Thành phố Đà Nẵng

1.1.1. Điều kiện tự nhiên

Trong lịch sử dân tộc, Đà Nẵng được biết đến không chỉ là một thành

phố cảng lớn nhất miền Trung Việt Nam mà còn là một địa danh gắn liền với

công cuộc mở mang bờ cõi Đại Việt từ nhiều thế kỉ trước. Dấu vết của một

cửa ngõ giao lưu quốc tế gắn liền với xứ Đàng Trong vẫn còn, và trong dư ba

của lịch sử, đây là một tiền đồn quan trọng trong công cuộc chống ngoại xâm

của dân tộc Việt Nam.

Theo ngôn ngữ Chăm, địa danh “Đà Nẵng” có thể được giải thích là

“sông lớn”, “cửa sông lớn”. Địa danh này đã được ghi chú trên các bản đồ

được vẽ từ thế kỉ XVI trở đi. Điều đó có nghĩa là, từ rất sớm, trong cách hình

thành tên gọi, tính chất cửa sông lớn, tính chất cảng thị đã được lưu ý như một

điểm quan trọng của thành phố [38, tr.14].

Năm 1858, Pháp xâm lược Việt Nam khởi đầu bằng cuộc tấn công vào

Đà Nẵng. Sau khi thành lập Liên bang Đông Dương thì Pháp tách Đà Nẵng

khỏi Quảng Nam với tính cách là một nhượng địa (concession) và đổi tên là

Tourane. Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền

Đông Dương thay vì triều đình Huế - tuy thị trấn này nằm trong xứ Trung Kỳ.

Tháng 3 năm 1965, Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn

cứ quân sự hỗn hợp lớn. Năm 1967, Đà Nẵng là thành phố trực thuộc TW của

chính quyền Việt Nam Cộng, là trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa của

vùng I và II chiến thuật.

8

Kể từ sau ngày kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng, nước

nhà thống nhất (1975), hai tỉnh Quảng Đà và Quảng Nam nhập lại thành một

Quảng Nam - Đà Nẵng. Thành phố Đà Nẵng có hơn hai thập kỷ là thủ phủ

của tỉnh Quang Nam - Đà Nẵng, gắn bó cùng nhau khôi phục những hậu quả

nặng nề của cuộc chiến tranh, vượt qua mọi thử thách trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ quê hương, để vươn tới công cuộc đổi mới cùng cả nước.

Ngày 06 tháng 11 năm 1996, tại kỳ họp thứ 10, khóa IX, Quốc hội

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra nghị quyết quyết định tách

tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam và Thành phố Đà Nẵng

trực thuộc TW.

Nằm ở tọa độ 108o10‟30” đến 108o20‟30” kinh tuyến Đông và 16o đến 16o17‟30” vĩ tuyến Bắc, Thành phố Đà Nẵng ngày nay trải rộng trên một diện tích 1248,4 km2 bao gồm vùng nội thành có diện tích 205,87 km2 gồm 5 quận

(Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn và Liên Chiểu) chia làm 33

phường nằm dọc theo con sông Hàn và huyện Hòa Vang với 14 xã và huyện

đảo Trường Sa.

Với vị trí địa lý nằm ở trung độ của Việt Nam, trên trục giao thông

huyết mạch Bắc Nam về cả đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng

không, là cửa ngõ giao thông quan trọng của cả miền Trung và Tây Nguyên,

là điểm cuối của hành lang kinh tế Đông Tây đi qua các nước Myanma, Lào,

Thái Lan, Việt Nam, Đà Nẵng trở thành cửa ngõ giao thông quan trọng giữa

các địa phương trong cả nước, giữa nước ta với các nước trong khu vực và

trên thế giới, kể cả đường bộ. đường biển, đường hàng không, Đà Nẵng trở

thành một trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, là nơi hội

tụ các công ty lớn của ngành công nghiệp như dệt may, sản xuất hàng tiêu

dùng, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất vật

liệu xây dựng, ngoài ra Đà Nẵng còn là trung tâm lớn nhất của khu vực miền

Trung - Tây Nguyên về lĩnh vực tài chính, ngân hàng và giáo dục đào tạo.

9

Ngoài sự ưu đãi của thiên nhiên cho Đà Nẵng, thành phố còn được bao

bọc bởi ba Di sản văn hóa thế giới: Huế, Hội An, Mỹ Sơn. Xa hơn một chút

nữa là di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia phong Nha - Kẻ Bàng. Vì

thế Đà Nẵng được xem là điểm trung chuyển quan trọng trên con đường di

sản miền Trung. Nhờ vậy Đà Nẵng được xem là thành phố của du lịch, thành

phố của những di tích và của những danh lam thắng cảnh. Do nằm trong một

địa hình đặc biệt, có núi rừng, trung du, đồng bằng, biển cả… Đà Nẵng mang

trong mình một vẻ đẹp đa dạng. Có cái hùng vĩ, phóng khoáng của núi cao và

cái mênh mông, trữ tình của biển cả; có cái mềm mại, khỏe khoắn của sông

ngòi và cũng có những góc khuất, những đường vòng của đèo cao; có cái mơ

mộng, dịu dàng của bờ cát, của bến sông và cũng có cái tráng lệ, mạnh mẽ

của phố xá, của những tượng đài, cao ốc…

Với tất cả những thế mạnh đó, cùng với sự lãnh đạo của Đảng bộ thành

phố và lòng quyết tâm của nhân dân, Đà Nẵng sẽ trở thành một trung tâm

kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội của cả nước.

1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội

Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đặc biệt là đường lối đổi mới

được đề ra từ Đại hội lần thứ VI, Đảng bộ và nhân dân Thành phố Đà Nẵng

đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, từng bước xây dựng thành phố trở thành

một trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội của miền Trung cũng như

của cả nước.

Từ năm 1997, khi trở thành thành phố trực thuộc TW, Đà Nẵng đã có

nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Trong hơn 10 năm qua, Đà Nẵng đã liên

tục thay đổi gương mặt của mình. Chưa bao giờ trong quá trình phát triển, Đà

Nẵng quyết liệt như thế trong nhu cầu tự làm mới mình. Sự phát triển Đà

Nẵng vừa là nhu cầu tự thân, vừa là để đáp ứng yêu cầu của một thành phố

đầu tàu có sứ mệnh thúc đẩy phát triển đối với miền Trung trong giai đoạn

mới của đất nước.

10

Với một vị trí đặc biệt thuận lợi về giao thông, đường hàng không cũng

như đường biển, Đà Nẵng là một thương cảng lớn thứ 3 của nước ta, đây là

một thuận lớn rất lớn để Thành phố Đà Nẵng phát triển giao thông đường biển

ra thế giới, khu vực và trong nước nói riêng, phát triển kinh tế nói chung.

Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, bằng những

vận động nội lực thành phố Đà Nẵng ngày càng mở rộng tầm vóc của mình.

Bắt đầu từ kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là cơ sở về hạ tầng giao

thông, tiến hành chỉnh trang đô thị, xây dựng một môi trường mới hiểu theo

nghĩa rộng, tạo điều kiện cho công cuộc phát triển mới. Khai thác tốt những

lợi thế sẵn có, trong những năm qua Đà Nẵng đã có những biến đổi rõ rệt về

nhịp độ và khí thế phát triển. Tốc độ GDP bình quân tăng cao hơn mức bình

quân chung của cả nước, giá trị sản xuất các mặt hàng công nghiệp, nông

nghiệp, thủy sản phát triển toàn diện… kim ngạch xuất khẩu tăng, các ngành

du lịch thương mại, dịch vụ chuyển biến tích cực.

- Trong lĩnh vực phát triển kinh tế, thành phố chủ trương lấy công

nghiệp làm đòn bẩy phát triển, cơ cấu kinh tế Đà Nẵng có chuyển dịch đáng

kể theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ phù hợp với xu

thế chung của cả nước và những đô thị lớn. Để chuẩn bị cho một cuộc bứt phá

của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, với vai trò đầu tàu của mình, những

năm qua, Đà Nẵng đã nỗ lực cải thiện hình ảnh và vị thế của mình để đáp ứng

yêu cầu chung của khu vực.

Với vị thế là trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung - Tây Nguyên,

Đà Nẵng là nơi hội tụ các công ty lớn của các ngành dệt may, sản xuất hàng

tiêu dùng, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất

vật liệu xây dựng… Hiện nay Thành phố Đà Nẵng cũng là trung tâm lớn nhất

của khu vực miền Trung - Tây Nguyên về lĩnh vực tài chính ngân hàng với

hơn 40 ngân hàng thương mại nhà nước, thương mại cổ phần, liên doanh, và

công ty tài chính đang hoạt động, cùng với hàng chục trung tâm giao dịch

11

chứng khoán quy mô lớn… ngoài ra Thành phố Đà Nẵng hiện được xem là

một trong ba trung tâm bưu chính lớn nhất nước với tất cả các loại hình phục

vụ hiện đại và tiện lợi.

Bên cạnh đó, thành phố còn được sự ưu ái của thiên nhiên với nhiều

danh lam thắng cảnh, do đó du lịch cũng được coi là thế mạnh và góp phần

không nhỏ và sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

Về giáo dục, đào tạo, Đà Nẵng là một trung tâm giáo dục đào tạo lớn

nhất của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và thứ 3 cả nước (sau Hà Nội và

TP. Hồ Chí Minh), hiện nay, Đà Nẵng có 15 trường đại học, học viện, 17

trường cao đẳng; nhiều trường trung cấp chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề

và hơn 200 trường học từ bậc học phổ thông tới ngành học mầm non.

Đà Nẵng đã và đang hướng tới mục tiêu xây dựng thành phố “thành một

trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của miền

Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại du lịch và dịch vụ; là

thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải

trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính - viễn thông và tài chính - ngân

hàng; một trong những trung tâm văn hóa - thể thao, giáo dục - đào tạo và khoa

học công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về

quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước. Đà Nẵng phấn đấu

để trở thành một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH

và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020” [13, tr.3].

1.2. Thực trạng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà

Nẵng trong 10 năm đổi mới từ năm 1986 đến năm 1996

1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng

trong thời kỳ đổi mới

Sau khi đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải

phóng Tổ quốc, thực hiện thống nhất nước nhà, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân

12

cả nước tiến vào giai đoạn cách mạng mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo

vệ Tổ quốc.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng, từ tháng

3/1982 đến tháng 12/1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt

được những thành tựu quan trọng: ngăn chặn được đà giảm sút trong sản xuất

nông nghiệp và công nghiệp; cơ sở vật chất - kỹ thuật bước đầu được xây

dựng; giành thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ vững chắc

Tổ quốc; thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế với Lào và Campuchia… Bên cạnh đó

vẫn còn nhiều khó khăn đặt ra đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải giải quyết:

“Đời sống của nhân dân, nhất là công nhân, viên chức còn nhiều khó khăn.

Nhiều người lao động chưa có và chưa đủ việc làm. Nhiều nhu cầu chính

đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hoá chưa được bảo

đảm” [15, tr.320]; hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển. Công bằng xã

hội bị vi phạm. Pháp luật, kỷ cương không nghiêm, những hành vi lộng

quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước, những hoạt

động của bọn làm ăn phi pháp... chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời.

“Thực trạng nói trên làm giảm lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo

của Đảng và sự điều hành của các cơ quan nhà nước” [15, tr.320].

Trong bối cảnh đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội và yêu

cầu bức thiết đặt ra là phải đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI của Đảng được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 5-18/12/986.

Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự

thật” Đại hội đã thẳng thắn đánh giá những thành tựu, chỉ ra những sai lầm,

khuyết điểm, những khó khăn của đất nước. Đại hội khẳng định sai lầm chủ

yếu của Đảng trong thời gian qua là “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ

và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh

hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm

chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng” [15, tr.327]. Những sai lầm và

13

khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội “bắt nguồn từ những khuyết điểm

trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là

nguyên nhân của mọi nguyên nhân” [15, tr.327].

- Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan

liêu, lời nói không đi đôi với việc làm, không tuân thủ quy trình làm việc và

ra quyết định. “Trong các đảng bộ và các cấp uỷ có sự vi phạm nguyên tắc

lêninnít trong sinh hoạt Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập

thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng

cấp trên, toàn Đảng phục tùng TW” [15, tr.328].

- “Về mặt tổ chức, đã để cho bộ máy nhà nước, bộ máy của Đảng và

các đoàn thể phình ra quá lớn, chồng chéo và phân tán” [15, tr.329].

Trên cơ sở của những thành tựu, sai lầm, khuyết điểm và những nguyên

nhân của các yếu kém trên tất cả các mặt, nhất là trong công tác xây dựng

Đảng, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó đổi mới kinh tế

là trọng tâm, nhất là tư duy về kinh tế, trên cơ sở thành tựu đạt được trên lĩnh

vực kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị.

Về phương hướng xây dựng Đảng, Đại hội khẳng định “Đảng phải

chăm lo xây dựng mình vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, để từ đó

tác động quyết định đến sự phát triển của cách mạng nước ta” [15, tr.414].

- “Tổ chức cơ sở phải là người nắm vững và bảo đảm cho mọi hoạt

động ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Công

tác quần chúng có vị trí quan trọng trong hoạt động của tổ chức cơ sở. Mỗi

chi bộ, đảng viên phải chăm lo giáo dục chính trị, tư tưởng cho quần chúng và

bằng hành động gương mẫu của người cộng sản mà động viên quần chúng

phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ lao động sản xuất và chiến đấu. Tổ chức

cơ sở Đảng, mà trực tiếp là chi bộ cần chăm lo việc giáo dục, rèn luyện đảng

viên; đảng viên nào cũng được giao công tác và phải làm tròn nhiệm vụ. Đi

đôi với việc kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách, cần

14

thu hút vào Đảng những người ưu tú xuất hiện trong phong trào cách mạng

của quần chúng” [9, tr.141-142].

- Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Tổ chức cơ sở Đảng

phải là nơi nắm vững và bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng đường

lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, chăm lo việc giáo dục, rèn luyện đảng

viên, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách và thu hút vào

Đảng những người ưu tú xuất hiện trong phong trào cách mạng của quần chúng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là Đại hội có ý nghĩa

lịch sử to lớn, đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quá trình kế thừa và

đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đường lối đổi

mới toàn diện đất nước là cơ sở hết sức quan trọng để tăng cường hơn nữa sự

đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và toàn dân để vượt qua mọi khó khăn,

thử thách, xây dựng thành công CNXH ở nước ta.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ VI, toàn Đảng,

toàn dân ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, khắc phục từng bước

những sai lầm, khuyết điểm trước đây, mở ra những hướng mới, cách làm

mới nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội và từng bước

đưa đất nước phát triển.

Những thành tựu đạt được trong 5 năm đầu đã chứng tỏ đường lối đổi

mới do Đại hội lần thứ VI đề ra là đúng đắn, đây là cơ sở quan trọng để Đại

hội lần thứ VII (1991) đề ra phương hướng, kế thừa và tiếp tục phát triển

đường lối đổi mới. Đại hội khẳng định công cuộc đổi mới toàn diện đất nước

hiện nay “đòi hỏi Đảng nhất thiết phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một

nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự

nghiệp đổi mới, sự ổn định và phát triển của đất nước và đối với vận mệnh

của bản thân Đảng. Đây cũng là nguyện vọng và đòi hỏi của nhân dân” [16,

tr.212]. Về công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, Đại hội nêu rõ:

15

- “Chấn chỉnh tổ chức và hoạt động của các tổ chức cơ cở đảng cho phù

hợp với sự thay đổi của các tổ chức kinh tế, xã hội và phương thức lãnh đạo của

Đảng trong tình hình mới. Khắc phục bằng được tổ chức cơ sở Đảng kém nát.

Chú ý củng cố tổ chức Đảng ở các vùng tôn giáo, dân tộc thiểu số” [16, tr.125].

- Làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Mọi đảng viên phải ra sức rèn luyện, học tập để có đủ phẩm chất, kiến thức và

năng lực phù hợp với nhiệm vụ được giao. Các cấp ủy đảng phải thường

xuyên tổ chức bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất và trình độ nhận thức về các

mặt của đảng viên.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng là "Đại hội của

trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết", Đại hội diễn ra trong bối

cảnh trong nước cũng như thế giới có nhiều khó khăn phức tạp, song với tinh

thần cách mạng, Đảng ta khẳng định kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã

hội, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới được Đảng đề ra tại Đại

hội lần thứ VI. Kết quả của Đại hội lần thứ VII của Đảng đã từng bước đặt

nền tảng vững chắc cho thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta.

Sau mười năm tiến hành đổi mới, 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991), tháng 6/1996 Đại hội

lần thứ VIII của Đảng họp để tổng kết 10 năm đổi mới đồng thời vạch ra

những phương hướng mục tiêu nhiệm vụ của toàn Đảng và toàn dân ta trong

thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Đánh giá về công tác xây dựng Đảng, văn kiện Đại hội lần thứ VIII đã

nhận định "Toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới gắn liền

với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng ta. Sự lãnh đạo và hoạt động

của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới. Đồng

thời chính trong quá trình lãnh đạo đổi mới mà Đảng ngày càng trưởng thành,

nhận rõ hơn những mặt yếu kém của mình để có biện pháp khắc phục. Thắng

16

lợi của công cuộc đổi mới chứng tỏ: Đảng ta tiếp tục giữ vững và phát huy

được bản lĩnh và kinh nghiệm của các thời kỳ trước, lãnh đạo có kết quả công

cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong những tình huống mới hết sức phức

tạp” [11, tr.135].

Để tăng cường và thực hiện có kết quả công tác xây dựng chỉnh đốn

Đảng phục vụ yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Nghị quyết Đại hội

lần thứ VIII của Đảng đã xác định tập trung làm tốt những nhiệm vụ sau:

1- Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.

2- Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên.

3- Củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung

dân chủ.

4- Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ.

5- Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.

6- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

7- Đổi mới công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng [11, tr.139-151].

Để nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, Nghị quyết Đại hội

chỉ rõ phương hướng chủ yếu “là làm cho các cơ sở này quán triệt đường lối

chính sách của Đảng và Nhà nước, đề ra được chủ trương, giải pháp đúng và

lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ của đơn vị, phát triển kinh tế, xóa

đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao động, chống tham nhũng ức

hiếp quần chúng, lãnh đạo giải quyết những nguyện vọng chính đáng, thiết thực,

bức xúc của nhân dân. Chấn chính và cải tiến sinh hoạt Đảng; có quy định chặt

chẽ đối với những trường hợp đảng viên đi công tác, làm việc lưu động ở nơi xa,

ở nước ngoài. Thực hiện có nền nếp quản lý đảng viên” [11, tr.148].

Đại hội Đại biểu lần thứ VIII của Đảng đánh dấu bước ngoặt chuyển

đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nước

Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định

hướng XHCN, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác

17

với nhân dân trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh

dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ 21.

Để bổ sung và củng cố nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và vai trò

tiên phong gương mẫu của đảng viên, ngày 26/11/1996, Bộ Chính trị quy định

về chức năng nhiệm vụ của đảng viên chi bộ cơ sở.

- Quy định số 16/QĐ - TW Về chức năng nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ

trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ

phần tư [20, tr.34].

- Quy định số 15/QĐ - TW Về chức năng nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ

trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài [21, tr.29].

1.2.2. Thực trạng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà

Nẵng trong 10 năm đổi mới từ năm 1986 đến năm 1996

Bước vào thời kỳ đổi mới cùng cả nước, Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng

(trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng) có 95 tổ chức cơ sở Đảng, với 2.673

đảng viên, phân bố không đều. Trong tổng số 2.673 đảng viên của Đảng bộ,

có 15,86% đảng viên trẻ (từ 18 đến 30 tuổi). Ở các chi, đảng bộ xã, tiểu khu,

HTX tiểu thủ công nghiệp, đảng viên ở độ tuổi trên 50 chiếm tỷ lệ rất cao,

nhiều đảng viên chưa đề cao ý thức tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập

thể của quần chúng, công tác phát triển Đảng còn chậm, “năm 1985 mới kết

nạp được 265 đảng viên, số Đảng bộ, Chi bộ vững mạnh đạt 25,70%, số cơ sở

loại khá đạt 70%, số đơn vị yếu kém còn 4,30%” [1, tr.21].

Tính đến cuối năm 1987, “Đảng bộ thành phố có 70% chi bộ, đảng bộ

cơ sở làm tốt công tác cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng. Số

đảng viên tích cực đạt tỷ lệ 77,1% (tăng 17,2% so với năm 1986). Số đảng

viên mới được kết nạp trong năm 1987 tăng 20% so với năm 1985 và tăng

70% so với năm 1986, có trình độ văn hoá và kỹ thuật, có tinh thần trách

nhiệm trong công tác" [42, tr.42-43].

18

Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng bộ thành phố không

đều. Số đảng viên trung bình và kém còn chiếm 20,9%. Ở các cơ sở Đảng,

việc thực hiện nguyên tắc tập trung, dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ

trách chưa tốt; việc tổ chức sơ, tổng kết rút kinh nghiệm chưa kịp thời; có

việc, có mặt chỉ đạo chưa chặt chẽ, đồng bộ. Một số cơ sở Đảng thiếu chủ

động, sáng tạo, còn trông chờ, ỷ lại [42, tr.48].

Cuối năm 1987, Đảng bộ thành phố tiếp nhận một số cơ sở Đảng do

Tỉnh uỷ Quảng Nam bàn giao, do vậy số lượng cơ sở Đảng từ 95, với 2.763

đảng viên tăng lên đến 147 cơ sở Đảng và 7.764 đảng viên. Đầu năm 1988,

Đảng bộ thành phố tiếp nhận thêm một số cơ sở Đảng, nâng số đảng viên của

Đảng bộ lên tới 8.207 đồng chí, sinh hoạt trong 186 tổ chức cơ sở Đảng. Đáng

nói là hiện tượng số đảng viên phân bố không đều.

Nhằm đẩy mạnh công tác phát triển Đảng của các tổ chức cơ sở Đảng,

ngày 15/11/1988, BTV Thành uỷ ra Nghị quyết số 153 Về công tác phát triển

Đảng chỉ rõ trách nhiệm cụ thể của từng cấp uỷ, chi bộ đối với công tác phát

triển Đảng; giao nhiệm vụ cho Đoàn Thanh niên giáo dục, lựa chọn, bồi

dưỡng đoàn viên ưu tú giới thiệu để Đảng xem xét kết nạp. Sau 3 tháng,

Thành đoàn đã giới thiệu cho Đảng được gần 750 đoàn viên ưu tú và kết nạp

được 78 đảng viên mới, nâng số đảng viên mới được kết nạp năm 1988 lên

274 đồng chí (68% là đoàn viên thanh niên [42, tr.69].

Tháng 9 năm 1989, Đại hội lần thứ IV Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng

xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng 2 năm 1990-1991 đó là “tăng cường công

tác xây dựng Đảng, nhanh chóng kiện toàn tổ chức, nhất là tổ chức cơ sở, làm

tốt công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đảng viên, đẩy mạnh cuộc vận động

xây dựng chi bộ, đảng bộ vững mạnh và trong sạch. Tăng cường công tác tư

tưởng. Tiến hành cuộc vận động xây dựng, thường xuyên tự phê bình và phê

bình. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên mới, kiên quyết đưa ra khỏi

19

đảng những đảng viên không đủ tư cách. Tiến hành tốt công tác phát thẻ đảng

viên” [2, tr.27].

Năm 1989, Đảng bộ thành phố có 157 tổ chức cơ sở Đảng với 9.538

đảng viên trong đó đảng viên dự bị là 513 người. Kết quả loại như sau: “Dự

phân loại 8.937 (93,70%) ; đảng viên đủ tư cách: 7.623 (85,30%); đảng viên

không đủ tư cách 498 (5,58%); đảng viên phải xem xét 223 (2,5%); phải đưa

ra ngay khỏi Đảng 9 (0,10%)” [23, tr.1].

Ngày 13/7/1991, BTV Thành uỷ thông qua Nghị quyết số 97/NQ-TP

“Về thực hiện Nghị quyết 08 của Tỉnh uỷ về nhiệm vụ trước mắt của công tác

tư tưởng”, nhằm nâng cao chất lượng và vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở

Đảng trong toàn Đảng bộ thành phố gắn liền với nhiệm vụ phân loại và phát

thẻ đảng viên [24, tr.1-2].

Năm 1991, toàn Đảng bộ có 169 tổ chức cơ sở Đảng với 11.172 đảng viên.

Căn cứ yêu cầu của TW “Về phát thẻ đảng viên” và Nghị quyết số 25

của Tỉnh uỷ “Về việc tăng cường củng cố cơ sở Đảng, làm tốt công tác phát

thẻ đảng viên”, qua hơn 2 năm tiến hành phát thẻ đảng, với nguyên tắc và

phương pháp xử lý “cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về phương pháp”, năm

1991 “có 10.328 đảng viên/11.172 đảng viên được công nhận đủ tư cách đảng

viên, được làm thẻ Đảng chiếm 92,45% số đảng viên toàn Đảng bộ, 168/169

tổ chức cơ sở Đảng được phát thẻ đảng chiếm 99,4% số tổ chức cơ sở Đảng

trong toàn Đảng bộ thành phố. Công tác phát thẻ đảng viên có tác dụng thiết

thực quan trọng, giúp đảng viên và cơ sở Đảng xác định đúng vai trò, vị trí

lãnh đạo, chiến đấu của mình, trở thành những nhân tố quan trọng quyết định

thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của thành phố” [24, tr.2].

Song song với nhiệm vụ phát thẻ đảng viên và thực hiện Nghị quyết 25

của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng về “Tăng cường củng cố cơ sở Đảng, làm tốt

công tác phát thẻ đảng viên”, Thành uỷ Đà Nẵng rất coi trọng công tác củng

cố, kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng, coi đó là điều kiện cơ sở để quyết định trao

20

thẻ đảng viên cho các chi, đảng bộ. “Nhiều cơ sở, cấp uỷ khuyết, yếu được bổ

sung thay thế, nhờ vậy nâng cao được sự hoạt động của cấp uỷ, bảo đảm sự

lãnh đạo đối với các mặt công tác” [24, tr.6].

Một số tổ chức cơ sở Đảng yếu kém đã được Thành uỷ tập trung chỉ

đạo cử nhiều cán bộ xuống trực tiếp tăng cường giúp cơ sở củng cố. Nhờ vậy

qua phân loại, năm 1992, Đảng bộ thành phố có 165 tổ chức cơ sở Đảng:

Vững mạnh 32 (19,3%); khá 115 (69,8%); yếu từng mặt: 169 (7%); yếu kém

2 (1,2%), không có cơ sở kém nát.

Cùng với việc củng cố tổ chức cơ sở Đảng, công tác phát triển Đảng

cũng được chú trọng. Trong 3 năm 1990-1992, dưới sự chỉ đạo của Thành uỷ,

ở 120 tổ chức cơ sở Đảng đã phát triển được 1.174 đảng viên mới [3, tr.13].

Công tác kiểm tra đã giúp cấp uỷ xử lý kỷ luật đảng viên đảm bảo

phương châm: Công minh, thận trọng, chính xác, kịp thời. Tính từ đầu Đại

hội IV Đảng bộ thành phố (5/1989) đến hết năm 11/1992, Thành uỷ và các tổ

chức cơ sở Đảng tiến hành kiểm tra đảng viên vi phạm kỷ luật và đã xử lý kỷ

luật 516 vụ. Biểu hiện sai phạm là bỏ công tác, sinh hoạt 45 vụ; giác ngộ

chính trị quá thấp 48 vụ; thiếu trách nhiệm 97; tham ô, móc ngoặc 102… Số

người bị kỷ luật chiếm 4,4% so với tổng số đảng viên, trong đó khai trừ chiếm

1,1% [3, tr.18].

Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991),

Nghị quyết Đại hội lần thứ V Đảng bộ thành phố (11/1992) đã nhấn mạnh

công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong nhiệm kỳ 5 năm 1992-1996 là:

“phấn đấu trong 3 năm tới không còn cơ sở Đảng yếu kém. Bảo đảm chế độ

sinh hoạt Đảng đều đặn, đúng nội dung, tự phê và phê bình, tăng cường đoàn

kết thống nhất. Đưa công tác quản lý đảng viên vào nề nếp. Công tác phát

triển Đảng viên mới phải tiến hành thường xuyên. Các đảng uỷ cơ sở đều phải

thành lập ban kiểm tra và tăng cường công tác kiểm tra, giữ gìn nề nếp, kỷ

luật của Đảng” [3, tr.29].

21

Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội lần thứ V Đảng bộ thành phố (11/1992),

BCH Thành uỷ họp ngày 15/12/1992 ra Nghị quyết số 02/NQ-ĐN Về những

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 1993 xác định “tăng cường công tác tư

tưởng kết hợp với công tác tổ chức để xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng

viên có đủ năng lực, có phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, kịp thời

đưa những phần tử thoái hoá biến chất về chính trị, phẩm chất ra khỏi Đảng,

đồng thời đưa những quần chúng cách mạng có đủ tiêu chuẩn bổ sung cho đội

ngũ của Đảng” [25, tr.5].

Ngày 20/11/1994, Thành uỷ thông qua Nghị quyết số 234/NQ-TU Về

việc chỉ đạo kiểm tra và giải quyết cơ sở Đảng yếu - kém, trong đó sẽ “chỉ

đạo kiểm tra ở 2 đảng bộ và chỉ đạo giải quyết dứt điểm 3 cơ sở Đảng yếu

kém kéo dài” [26, tr.1-2].

Tính đến hết năm 1994, Thành uỷ đã tập trung giải quyết 10 cơ sở yếu

kém, mở 4 hội nghị trao đổi kinh nghiệm củng cố cơ sở yếu kém và hướng

dẫn đại hội ở cơ sở [27, tr.4-5].

Ngày 27/1/1995, Thành uỷ thông qua Nghị quyết số 09/NQ-TU của

BTV về một số công tác trước mắt trong xây dựng Đảng đảm bảo hoàn thành

thắng lợi nhiệm vụ chính trị của thành phố năm 1995 trong đó xác định 4 nội

dung cụ thể: “(1)- Đẩy mạnh việc xây dựng Đảng bộ cơ sở trong sạch, vững

mạnh; (2)- Tiếp tục kiện toàn cán bộ và đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng đội

ngũ cán bộ cốt cán; (3)- Nâng cao chất lượng lãnh đạo của các cấp uỷ từ cơ sở

đến thành phố; (4)- Tăng cường công tác quần chúng của Đảng” [28, tr.2-6].

Năm 1995, quán triệt Nghị quyết 15 của BTV Tỉnh uỷ, Thành uỷ đã chấn

chỉnh củng cố nhiều cơ sở Đảng yếu kém, đã chỉ đạo đại hội ở các cơ sở Đảng.

Tính cả nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ thành phố khoá V (11/1992 đến

3/1996), các cấp uỷ từ thành phố xuống cơ sở đã kết nạp được 652 đảng viên

mới, trong đó, trình độ đại học chiếm 33,9%; nữ chiếm 27%; thành phần giai

22

cấp công nhân chiếm 34%; cán bộ công nhân viên chiếm 33%; ở phường, xã,

hợp tác xã thủ công chiếm 7% [4, tr.27].

Trong 3 năm (1993-1995), Thành uỷ tập trung lãnh đạo kiểm tra,

hướng dẫn các tổ chức cơ sở Đảng tự kiểm tra. Công tác kiểm tra Đảng đều

gắn với nhiệm vụ chính trị, giáo dục ngăn ngừa vi phạm kỷ luật “từ xa”, nhờ

vậy số đảng viên vi phạm kỷ luật đã giảm dần từ 1,26% (1992) xuống 0,85%

(1995), đã kiểm tra và kết luận 112/121 vụ (92,5%) [29, tr.11]. Tính chung

công tác thi hành kỷ luật nhiệm kỳ khoá V đã đưa ra khỏi Đảng 133 đảng

viên, kỷ luật từ khiển trách trở lên 155 đảng viên, làm trong sạch đội ngũ

đảng viên, củng cố cơ sở Đảng vững mạnh, giữ vững sự đoàn kết nhất trí

trong nội bộ Đảng [30, tr.4].

Dưới sự chỉ đạo của Thành uỷ, phong trào thi đua được phát triển và

mở rộng trong toàn Đảng bộ, đã có 23 đảng bộ, chi bộ giữ vững cờ vững

mạnh 5 năm liên tục (1991-1995), 20 cơ sở từ khá vươn lên vững mạnh, tuy

có 1 số cơ sở yếu kém vươn lên, song cũng có 1 số cơ sở ngược lại từ vững

mạnh xuống khá, hoặc yếu. Tính đến hết năm 1995, Đảng bộ thành phố đã

thanh toán xong tổ chức cơ sở Đảng kém nát.

Trong 10 năm (1986-1996), Đảng bộ thành phố có nhiều biến động về

tổ chức (chuyển giao, tiếp nhận, phân cấp quản lý), sắp xếp lại tổ chức (thành

lập các đảng bộ và chỉ định cấp uỷ lâm thời), đảng bộ cơ sở với đủ các loại

hình cơ sở Đảng đã luôn luôn bám sát nhiệm vụ chính trị lãnh đạo nhân thành

phố hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị

của địa phương gắn liền với sự tiến bộ trong hoạt động của hệ thống Đảng,

chính quyền và đoàn thể quần chúng. Nắm vững các nghị quyết, nội dung các

cuộc vận động xây dựng Đảng vững mạnh, trong sạch, Thành Đảng bộ Đà

Nẵng đã có nhiều chủ trương, kế hoạch cụ thể để nhanh chóng kiện toàn và

củng cố hệ thống chính trị từ thành xuống các cơ sở, mà hạt nhân lãnh đạo là

23

tổ chức cơ sở Đảng, lãnh đạo cơ sở thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế và

quản lý xã hội theo 4 chế độ: 1- Chế độ trách nhiệm; 2- Chế độ kỷ luật; 3-

Chế độ bảo vệ của công; 4- Chế độ phục vụ nhân dân.

Bước vào thời kỳ đổi mới, đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng bộ thành

phố nhìn chung có độ tuổi cao (trên 50 tuổi chiếm trên 50%) trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ thấp (văn hoá cấp I). Do vậy, Đảng bộ thành phố đã có có

nhiều chương trình thực hiện từng bước nâng cao phẩm chất chính trị, trình

độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu

mới. Nhờ đó, trình độ, năng lực, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên của

Đảng bộ thành phố được nâng lên rõ rệt, đáp ứng yêu cầu công tác.

Công tác xây dựng, củng cố để từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo

và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng được Đảng bộ thành phố xác định là

công tác trọng tâm. Thành ủy đã dành rất nhiều tâm huyết để xây dựng những

mục tiêu phấn đấu, biện pháp thực hiện để giữ vững những tổ chức Đảng

trong sạch, vững mạnh, đồng thời đã thường xuyên đi sâu, đi sát, thậm chí đã

cử đoàn và cán bộ Thành uỷ trực tiếp phụ trách hoặc xuống chỉ đạo giải quyết

dứt điểm các cơ sở Đảng nội bộ mất đoàn kết kéo dài, mất sức chiến đấu hoặc

tê liệt năng lực lãnh đạo; đưa ra hướng dẫn, giải pháp khắc phục tình trạng

trên, giữ vững vai trò hạt nhân ở cơ sở. Đồng thời, Thành ủy cũng đề ra cho

cấp uỷ cơ sở kịp thời có những hình thức kỷ luật và đưa ra khỏi Đảng những

đảng viên thoái hoá, biến chất, vi phạm kỷ luật, không được quần chúng tín

nhiệm.

Đảng bộ thành phố đã có những nghị quyết chuyên đề để nâng cao chất

lượng đội ngũ đảng viên thông qua những đợt vận động xây dựng Đảng, tạo

nên phong trào cách mạng sâu, rộng và tâm lý phấn khởi của đội ngũ cán bộ,

Thành uỷ đã chỉ đạo các cơ sở Đảng chú trọng đẩy mạnh công tác phát triển

Đảng, nhằm làm tăng sinh lực và sức chiến đấu cho Đảng, theo phương châm:

coi trọng chất lượng, đúng tiêu chuẩn, tuổi trẻ, nữ, đảm bảo thành phần lao

24

động và trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật. Giao cụ thể công tác phát triển

Đảng cho cấp uỷ và đảng viên như: lên nguồn tuyển chọn quần chúng tiêu

biểu, mở ngay lớp bồi dưỡng, phân công đảng viên làm công tác tuyên truyền,

giác ngộ, rèn luyện quần chúng cảm tình, bồi dưỡng cho Bí thư cơ sở và chi

bộ biết làm công tác phát triển Đảng. “Trung bình từ năm 1986 đến năm

1996, Đảng bộ thành phố đã kết nạp mỗi năm từ 175 đến 217 quần chúng ưu

tú vào Đảng, trong đó hơn 50% tuổi trẻ. Tuy nhiên, việc phát triển đảng viên

mới có cố gắng nhưng chưa đồng đều, còn khoảng 25 - 30% cơ sở Đảng của

Đảng bộ thành phố không thường xuyên, chậm hoặc không phát triển được

đảng viên mới” [30, tr.7].

Trong thời kỳ 1991 - 1995, bên cạnh những thành tựu cơ bản đạt được

ở Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong

một số cấp ủy cơ sở chưa được coi trọng. “Phương thức lãnh đạo và phong

cách công tác chậm đổi mới. Chất lượng lãnh đạo, hiệu quả hoạt động của

nhiều cấp ủy Đảng còn thấp, có nơi còn buông lỏng vị trí lãnh đạo, nhất là

Đảng bộ một số doanh nghiệp cơ quan. Một số cán bộ đảng viên còn bàng

quan trước những quan điểm sai trái. Trong khi đó công tác tư tưởng chưa sắc

bén, thiếu kịp thời, chưa giải đáp có tính thuyết phục nhiều vấn đề do thực

tiễn đặt ra. Nhiều cán bộ đảng viên chưa cố gắng tu dưỡng, rèn luyện, nâng

cao trình độ. Tình trạng mất đoàn kết ở một số tổ chức Đảng còn xẩy ra, chưa

được giải quyết kịp thời” [4, tr.41].

Năm 1996, Đại hội lần thứ VI Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (1996 -

2000, xác định nhiệm kỳ theo tỉnh Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng) đã đánh

giá lại những thành tựu, hạn chế, rút ra 4 bài học kinh nghiệm lãnh đạo và đề

ra phương hướng nhiệm vụ công tác giai đoạn 1996 - 2000. Căn cứ những

thành tựu, hạn chế, để công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững

mạnh phát huy được vai trò hạt nhân chính trị, lãnh đạo cơ sở nâng cao năng

25

lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cơ sở Đảng, nghị quyết Đại hội VI lần thứ

Đảng bộ thành phố xác định các nội dung cụ thể như sau:

- Củng cố hệ thống tổ chức cơ sở Đảng, coi trọng việc tổng kết các mô

hình tổ chức cơ sở Đảng về chức năng, nhiệm vụ, phương thức lãnh đạo của

cấp uỷ, từng bước thu hẹp và tiến tới không còn tổ chức cơ sở Đảng yếu kém,

thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và nâng cao chất lượng sinh hoạt

Đảng, quản lý chặt chẽ đảng viên.

- Xử lý kịp thời và nghiêm minh những đảng viên thoái hoá biến chất vi

phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước. Tiếp tục đưa những người không

đủ tư cách ra khỏi Đảng.

- “Làm tốt công tác phát triển Đảng trong tất cả các lĩnh vực nhất là

trong thanh niên, phụ nữ, trong các nhà máy, trường học, doanh nghiệp Nhà

nước, lực lượng vũ trang, trong các khu dân cư ở phường xã để tăng cường

sinh lực của Đảng.

- Căn cứ vào từng loại hình tổ chức cơ sở Đảng mà xây dựng đội ngũ

cán bộ cho phù hợp. Trẻ hoá đội ngũ cán bộ, chú trọng cán bộ nữ, chống hẹp

hòi, thành kiến phân biệt đối xử trong công tác cán bộ.

- Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh trong đó có 65% tổ chức cơ

sở Đảng trong sạch vững mạnh trở lên, không còn chi bộ yếu kém, duy trì

sinh hoạt chi bộ mỗi tháng một lần” [4, tr.69].

Từ ngày 23 đến ngày 27 tháng 4 năm 1996, Đại hội Đảng bộ tỉnh

Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XVI được tổ chức tại Đà Nẵng, Đại hội đã

đánh giá thành tựu, hạn chế của công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ XV và đề

ra phương hướng công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ XVI.

Về thành tựu trong công tác xây dựng Đảng, văn kiện Đại hội xác định

công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng đạt được một số kết quả cụ thể, góp phần

tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng bộ:

26

- “Công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng về tổ chức theo tinh thần Nghị

quyết TW 3 đạt được nhiều kết quả, nâng cao tỷ lệ tổ chức cơ sở Đảng trong

sạch vững mạnh (từ 23% năm 1991 lên 32% năm 1995), giảm dần tổ chức cơ

sở Đảng yếu kém (từ 14% năm 1992 xuống còn 9% năm 1995). Dân chủ

trong Đảng được mở rộng, các tổ chức nguyên tắc sinh hoạt Đảng được tăng

cường” [5, tr.24].

- Công tác nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng, thực

hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ

Đảng, chấp hành chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước được coi

trọng. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chú trọng và tăng cường.

- Nhiệm kỳ XV (1991-1996) Đảng bộ Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng “đã

kết nạp được 4.000 đảng viên mới, khai trừ và đưa ra khỏi Đảng bằng các

hình thức 1.853 người, tổ chức cho trên 6.000 cán bộ các cấp đi học các lớp

tập huấn lý luận chính trị và chuyên môn, nghiệp vụ các loại” [5, tr.25].

Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội cũng đã chỉ ra những yếu kém trong

công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ:

- “Việc nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng thiếu

những biện pháp đồng bộ, nhất là việc quản lý đảng viên, cải tiến sinh hoạt chi

bộ, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ… còn nhiều yếu kém, khuyết điểm.

Tình trạng một số cán bộ, đảng viên - trong đó có không ít cán bộ chủ chốt -

thiếu tu dưỡng , rèn luyện; thoái hóa biến chất, sa sút về đạo đức, lối sống đang

là vấn đề nhức nhối, làm phương hại đến uy tín của Đảng” [5, tr.32].

- Nhiều doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước

ngoài vẫn chưa có tổ chức Đảng, nhiều nơi chưa có đảng viên… Đảng còn

chậm đổi mới về phương thức lãnh đạo, lúng túng trong việc xác định chức

năng, nhiệm vụ, mối quan hệ và lề lối làm việc giữa tổ chức Đảng với các cơ

quan trong hệ thống chính trị.

27

Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được và những mặt còn hạn chế, Đại

hội đã xác định phương hướng công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ XVI:

- “Tiếp tục đổi mới - chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch và nâng cao chất

lương đội ngũ đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng. Tăng cường công tác quản lý

đảng viên, cải tiến sinh hoạt chi bộ, mở rộng dân chủ đi đôi với thực hiện

nghiêm túc các nguyên tắc về tổ chức và sinh hoạt của Đảng. Chú trọng củng

cố cở sở Đảng ở xã, phường, tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp, hình

thành các cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài” [5, tr.59]. Cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ và phương

thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng cho phù hợp với đặc

điểm cụ thể từng nơi. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên, chú trọng

thành phần công nhân, dân tộc ít người, nữ, trẻ và trí thức.

* *

*

Đạt được những thành tựu trong công tác xây dựng Đảng những năm

1986 -1996 là do có sự đoàn kết, thống nhất cao độ từ ý chí đến hành động từ

thành phố xuống cơ sở. Sự đoàn kết, nhất trí, trẻ hoá tập thể Thành uỷ là trung

tâm của sự đoàn kết, nhất trí trong toàn Đảng bộ. BCH Đảng bộ luôn đảm bảo

nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy được tính năng động, sáng tạo, bảo

đảm chế độ sinh hoạt định kỳ và có nhiều hội nghị và nghị quyết chuyên đề

về những công tác lớn. BTV Thành uỷ đã xây dựng được quy chế và chế độ

làm việc hàng tuần. BTV Thành uỷ và BCH Đảng bộ thành phố đã phân công

cụ thể cho cấp ủy và từng đồng chí phụ trách ngành, phụ trách cơ sở với 3 yêu

cầu là: “(1)- Một là, phải thống nhất về mặt nhận thức để đi đến nhất trí cao

trong việc đánh giá tình hình cũng như phương hướng nhiệm vụ; (2)- Hai là,

phải có chương trình hành động cách mạng cụ thể và thiết thực, có hiệu quả

cao; (3)- Ba là, phải biết tổ chức vận động quần chúng thực hiện chương trình

28

hành động đã đề ra, biến nghị quyết, chương trình hành động thành hiện thực”

[32, tr.9].

Tuy nhiên, nhìn nhận thẳng thắn thì sự tiến bộ trong công tác xây dựng

Đảng không đều, chưa vững chắc. Tỷ lệ cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh

còn thấp, chất lượng đảng viên chưa cao, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo

của nhiều tổ chức cơ sở Đảng còn hạn chế. Công tác xây dựng Đảng ở các cơ

sở Đảng chưa gắn chặt với nhiệm vụ chính trị và mục tiêu kinh tế. Ở một số

chi, đảng bộ cơ quan còn coi nhẹ công tác xây dựng Đảng, có nơi cấp uỷ và

Bí thư chi, đảng bộ thờ ơ hoặc thiếu trách nhiệm trong việc đôn đốc công tác,

kiểm tra xử lý.

Từ những thành tựu và hạn chế của 10 năm đầu đổi mới cùng cả nước

quá độ lên CNXH (1986 - 1996), để tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ và cơ

bản đảm bảo hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị, đưa Đảng bộ thành phố

trở thành Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, điều quan trọng là Đảng bộ cần

nhận thức và đánh giá đúng thực trạng công tác xây dựng Đảng và có quyết

tâm sửa chữa, khắc phục. Đó là nhân tố quan trọng để Đảng bộ thành phố

chuyển sang chặng đường mới với những bước đi vững chắc.

29

Chương 2

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC

XÂY DỰNG CƠ SỞ ĐẢNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2006

2.1. Quá trình xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành

phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến năm 2000

2.1.1. Chủ trương xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành

phố Đà Nẵng

Ngày 6/11/1996, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX, Tỉnh Quảng Nam

- Đà Nẵng được tách thành 2 tỉnh: Quảng Nam và Thành phố Đà Nẵng trực

thuộc TW.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Hội nghị Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng

ngày 20/11/1996, Thành ủy tập trung chỉ đạo làm tốt công tác tư tưởng, động

viên cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố phát huy truyền thống đoàn kết,

tích cực hỗ trợ và tạo điều kiện giúp đỡ hàng trăm gia đình cán bộ cư trú tại

thành phố chuyển vào tỉnh Quảng Nam nhanh chóng ổn định đời sống.

Ngày 22/12/1996, Bộ Chính trị ra Quyết định số 131/QĐNS/TW về

việc kết thúc hoạt động Đảng bộ và Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, đồng

thời thành lập Thành ủy lâm thời Thành phố Đà Nẵng và BCH Đảng bộ lâm

thời gồm 35 đồng chí. Quyết định này có hiệu lực từ 1/1/1997.

Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng lúc mới thành lập có 21.000 đảng viên

(chiếm 46,6% tổng số đảng viên trong toàn tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng) có

mặt ở các lĩnh vực hoạt động của 6 đảng bộ quận, huyện và 12 đảng bộ trực

thuộc Thành ủy. Dân số toàn thành phố là 792.572 người [49].

Theo yêu cầu của TW, tháng 9/1997, Thành ủy tập trung chỉ đạo các cơ

sở Đảng trong Đảng bộ tiến hành Đại hội nhằm đánh giá tình hình kinh tế-xã

hội từ sau ngày chia tách tỉnh, đồng thời bàn phương hướng nhiệm vụ từ năm

1997 đến năm 2000.

30

Trong 2 ngày (23-24/10/1997), Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ

XVII (Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng xác định nhiệm kỳ theo tỉnh Đảng bộ

Quảng Nam - Đà Nẵng) được triệu tập nhằm đánh giá 2 năm thực hiện Nghị

quyết Đại hội XVI Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, đánh giá tình hình

hoạt động của Đảng bộ thành phố kể từ khi thành lập (12/1996), phân tích

đúng thực trạng cũng như triển vọng và những vấn đề mới nảy sinh. Trên cơ

sở đó, đề ra phương hướng, nhiệm vụ giải pháp thực hiện từ nay đến năm

2000, đồng thời bầu ra BCH mới nhằm lãnh đạo thành phố vươn lên xứng

đáng với tiềm năng, vị trí của mình, góp phần cả nước tiến vào thế kỷ XXI.

Đánh giá về công tác xây dựng Đảng, Báo cáo chính trị của Đại hội

Đảng bộ lần thứ XVII khẳng định: Công tác xây dựng Đảng được tập trung

chỉ đạo, nhằm tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết

TW 3 (khóa VII):

- Về chính trị tư tưởng, các cấp ủy và tổ chức Đảng đã tổ chức cho cán

bộ, đảng viên và nhân dân nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Đại hội VIII của

Đảng. Các Nghị quyết 2, 3 của BCH TW (khóa VIII) và Nghị quyết về

phương hướng, nhiệm kỳ năm 1997 của Thành ủy. Công tác tư tưởng đã được

coi trọng từ đầu nhằm tạo sự nhất trí cao với chủ trương chia tách tỉnh, động

viên cán bộ, đảng viên và nhân dân khắc phục khó khăn ban đầu, phát huy

thuận lợi mới, chống những biểu hiện tiêu cực lệch lạc, chủ quan, tạo chuyển

biến trên các mặt hoạt động của thành phố.

- Về tổ chức bộ máy, sau khi tách tỉnh, Thành ủy lâm thời đã chỉ đạo

kiện toàn một bước hệ thống chính trị, bao gồm các cơ quan Đảng, chính

quyền, Mặt trận, đoàn thể cấp thành phố; thành lập các Quận mới; chỉ định

BCH lâm thời các đảng bộ trực thuộc mới thành lập, tiếp nhận các đảng bộ

được chuyển giao, bổ sung BCH, BTV Huyện ủy Hòa Vang. BTV Thành ủy

lâm thời đã quyết định thành lập các ban cán sự Đảng, Đảng đoàn cấp thành

phố, ban hành quy chế hoạt động của một số ban Đảng, quy định tạm thời về

31

chức năng, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của ban cán sự Đảng và Đảng

đoàn. Đến nay, các tổ chức cơ sở Đảng và Đảng bộ trực thuộc Thành ủy đã

tiến hành Đại hội bầu BCH chính thức.

- “Các cấp ủy Đảng đã quan tâm xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở

Đảng, tăng cường công tác quản lý đảng viên. Đại bộ phận đảng viên ở cơ sở

đã được phân công công tác, giao nhiệm vụ cụ thể theo khả năng của mỗi

người. Sinh hoạt Đảng ủy, Chi ủy và Chi bộ có nội dung thiết thực hơn, chú

trọng giáo dục chính trị tư tưởng, lấy nhiệm vụ kinh tế - xã hội hoặc công tác

chuyên môn làm nội dung chủ yếu. Nhiều cấp ủy đã tiến hành sơ kết rút kinh

nghiệm công tác phát triển Đảng trong thời gian qua, hướng dẫn các tổ chức

cơ sở Đảng tạo nguồn, bồi dưỡng, kết nạp đảng viên mới. Chín tháng đầu

năm, toàn thành phố đã kết nạp được 563 đảng viên mới” [6, tr.31].

Cấp ủy và UBKT các cấp đã chú trọng tăng cường công tác kiểm tra

đảng viên và tổ chức Đảng trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, chủ trương

đường lối của Đảng và pháp luật Nhà nước, xử lý kịp thời các trường hợp vi

phạm. Theo chủ trương của TW, các cấp ủy đã tiến hành kiểm tra tỉnh hình

thực hiện Chỉ thị 15 của Bộ Chính trị về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham

nhũng của các tổ chức Đảng trong lực lượng công an nhân dân thành phố.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Đại hội cũng chỉ ra những điểm

hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng:

- Công tác xây dựng Đảng còn thiếu sót, khuyết điểm. Công tác tư

tưởng trong Đảng và trong nhân dân còn thiếu sắc bén, chưa chủ động kịp

thời, phương thức chưa linh hoạt. Một số cấp ủy chưa chú ý đúng mức công

tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ các mặt cho cán

bộ, đảng viên.

- “Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp, nhất

là doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuy được

quan tâm chỉ đạo, nhưng kết quả còn hạn chế. Vai trò hạt nhân lãnh đạo của

32

một số tổ chức Đảng ở cơ sở chưa được phát huy mạnh mẽ. Công tác quản lý

đảng viên về tư tưởng và sinh hoạt thực hiện chưa chặt chẽ. Việc phân tích

chất lượng đảng viên ở một số nơi còn hình thức, chưa phản ảnh đúng thực

trạng. Việc xem xét xử lý đảng viên vi phạm tư cách ở một số cơ sở Đảng

chưa kịp thời. Công tác bồi dưỡng kết nạp đảng viên tuy có cố gắng nhưng

chưa đáp ứng yêu cầu phát triển Đảng trong tình hình hiện nay” [6, tr.38].

Trên cơ sở những thành tựu, hạn chế trong công tác xây dựng Đảng,

căn cứ vào những thuận lợi, khó khăn trong nhiệm kỳ 1997 - 2000, Đại hội đã

xác định phương hướng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng:

- Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đối đôi với nâng cao

năng lực lãnh đạo chính trị, giữ vững và tăng cường bản chất của giai cấp

công nhân của Đảng.

- Chú trọng việc giáo dục, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm

chất cách mạng và trình độ nghiệp vụ của cán bộ, đảng viên. Các tổ chức

Đảng cần làm tốt công tác giáo dục, nâng cao tinh thần trách nhiệm, rèn luyện

ý thức tổ chức kỷ luật, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạng, nếp sống văn

minh đô thị cho cán bộ, đảng viên.

- “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở

Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, thực hiện đúng các nguyên

tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Cải tiến sinh hoạt chi bộ và cấp ủy, mở rộng

dân chủ đi đôi với thực hiện nghiêm kỷ luật trong Đảng. Tiếp tục khảo sát

đánh giá đúng thực trạng các tổ chức Đảng để có kế hoạch phát huy những

mặt mạnh, khắc phục những mặt yếu, thu hẹp diện tổ chức Đảng yếu kém, mở

rộng diện trong sạch vững mạnh, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ có trên 65% tổ

chức cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh. Tập trung củng cố cơ

sở Đảng, phường, xã, chi bộ đường phố, chi bộ thôn, tổ chức Đảng trong các

doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và cơ quan hành chính sự nghiệp, hình

33

thành và củng cố cơ sở Đảng trong và các doanh nghiệp tư nhân, doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” [6, tr.79-80].

Ngày 2/02/1999, Hội nghị BCH TW (Khoá VIII) đã họp Hội nghị TW6

(lần 2) và ra Nghị quyết "Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác

xây dựng Đảng hiện nay". Nghị quyết nêu rõ: "Để đáp ứng yêu cầu của thời

kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu

điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố chỉnh đốn để

ngày càng vững mạnh về mọi mặt đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức,

lối sống, tổ chức và cán bộ" [11, tr.24].

Trong đó tăng cường giáo dục rèn luyện phẩm chất đạo đức lối sống

của cán bộ đảng viên, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự

phê bình và phê bình trong Đảng và củng cố tổ chức, tăng cường sức chiến

đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng là những nội dung quan

trọng cần phải thực hiện nghiêm túc đầy đủ.

Về xây dựng, chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng, Nghị quyết TW6 (lần 2)

chỉ rõ: “Củng cố tổ chức, tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của

các tổ chức cơ sở Đảng. Kiểm tra, bổ sung, hoàn thiện quy định chức năng,

nhiệm vụ và quy chế hoạt động cụ thể của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng.

Chấn chỉnh nền nếp sinh hoạt chi bộ, phân công và kiểm tra công tác

đảng viên. Đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự

nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở nơi cư trú theo

quy định cụ thể của Bộ Chính trị và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân

nơi cư trú. Đổi mới công tác phân tích chất lượng các tổ chức cơ sở Đảng và đội

ngũ đảng viên, khắc phục cách làm hình thức, chiếu lệ, thành tích chủ nghĩa.

Tiếp tục kiện toàn cấp ủy, nhất là bí thư cấp ủy. Các cấp ủy phân công

bí thư, phó bí thư và ủy viên thường vụ phụ trách các cơ sở trọng điểm” [11,

tr.32-33].

34

Những chủ trương nhiệm vụ công tác xây dựng củng cố và phát triển tổ

chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên theo tinh thần

Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và trực tiếp là Nghị quyết Đại hội lần thứ

XVII Đảng bộ thành phố, đã có tác dụng như ngọn đuốc soi sáng đưa đường

Đảng bộ và toàn thể đội ngũ đảng viên phấn đấu vượt khó khăn hoàn thành

xuất sắc công việc được giao.

2.1.2. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở Đảng

Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Nghị quyết

Đại hội lần thứ XVII, thành ủy Đà Nẵng xác định phương hướng, nhiệm vụ

trong công tác xây dựng Đảng, tập trung vào những nội dung chính sau đây:

- “Củng cố, kiện toàn tổ chức Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của Đảng…tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, thực hiện

nghiêm các nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

Ngăn chặn và xử lý nghiêm những hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật, mất

đoàn kết nội bộ, thoái hóa về phẩm chất đạo đức và lối sống” [33, tr.10].

- “Nghiên cứu sắp xếp lại tổ chức Đảng ở các đảng bộ trực thuộc cho

phù hợp với yêu cầu quản lý. Thành lập các tổ chức Đảng ở các doanh nghiệp

tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tiếp tục củng cố nâng cao

chất lượng sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ và cấp ủy… Tập trung củng cố tổ

chức cơ sở Đảng ở xã, phường, các chi bộ đường phố, chi bộ thôn; tổ chức

Đảng trong các doanh nghiệp, cơ quan hành chính sự nghiệp” [35, tr.12].

- Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên. Nâng cao chất lượng đảng

viên trên cơ sở bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng.

- Tiếp thu và triển khai Nghị quyết TW 6 (lần 2) "Về một số vấn đề cơ

bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay".

- Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy Đảng về chấp hành chủ

trương, đường lối, chính sách, thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chương

trình hành động của Thành ủy; bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ và đường lối của Đảng.

35

- Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ theo Chỉ thị 39-CT/TW

của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ cấp bách của công tác bảo vệ chính trị

nội bộ trong tình hình mới.

Công tác xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng được Thành uỷ và các

cấp uỷ Đảng thành phố tập trung chỉ đạo thực hiện tạo ra những chuyển biến

quan trọng, trở thành động lực thúc đẩy thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính

trị. Thành uỷ đã tập trung chỉ đạo thành công Đại hội Đảng cơ sở và Đại hội

Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII.

Ngày 19 tháng 07 năm 1997, Hội nghị BCH Đảng bộ Thành phố lần

thứ 4 (mở rộng) đã kiểm điểm tình hình 6 tháng đầu năm, bàn các giải pháp

để thực hiện nhiệm vụ còn lại trong 6 tháng cuối năm 2007, Hội nghị đã nhấn

mạnh những vấn đề lớn sau:

-“Công tác xây dựng Đảng được chú trọng trên cả 3 mặt chính trị, tư

tưởng và tổ chức. Thành ủy đã tập trung chỉ đạo các ủy đẩy nhanh phát triển

kinh tế - xã hội đi đôi với lãnh đạo tốt công tác tư tưởng, nhanh chóng ổn định

tổ chức bộ máy sau khi chia tách tỉnh. Công tác chỉ đạo chuẩn bị đại hội các

cấp được tiến hành khẩn trương” [31, tr.5].

- “Các địa phương tập trung chỉ đạo triển khai quán triệt các chuyên đề

Nghị quyết Đại hội 8, Nghị quyết Hội nghị TW 2 cho cán bộ, đảng viên trong

toàn đảng bộ. Công tác bồi dưỡng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

được các đảng bộ quan tâm. Việc thực hiện Nghị quyết TW 3 (khoá VII) về

đổi mới và chỉnh đốn đảng được duy trì thường xuyên” [31, tr.6].

Qua Đại hội, các Đảng bộ đã thay đổi 238 cấp uỷ viên trong đó 19 Bí

thư, riêng phường xã 7 Bí thư, 1 Chủ tịch ở các doanh nghiệp, đơn vị sự

nghiệp có 78 đồng chí cấp trưởng, 35 đồng chí cấp phó trực tiếp làm Bí thư

cấp uỷ. Một số cơ sở phường khó khăn thật sự không chọn được cán bộ chủ

chốt, Thành uỷ đã chỉ đạo tăng cường cán bộ về, có nơi tăng cường cả 2 chức

danh Bí thư và Chủ tịch UBND. “Năm 1997 Thành uỷ đã tổ chức 10 hội nghị

36

báo cáo viên với 1579 lượt người nghe, ra được 2.040 bản thông tin nội bộ”

[34, tr.4].

Nhờ vậy năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng

được nâng lên một bước. Kết quả phân loại tổ chức cơ sở Đảng năm 1997

gồm 468 chi đảng bộ trực thuộc như sau: “Chi, đảng bộ trong sạch vững

mạnh: 306 (65,5%). Chi, đảng bộ khá: 162 (34,5%). Không có chi, đảng bộ

cơ sở yếu” [39, tr.6].

Công tác chăm lo chỉnh đốn đội ngũ đảng viên được chú trọng, phương

châm đảng viên "Lời nói đi đôi với việc làm", "Nói và làm theo Nghị quyết"

đã được quán triệt sâu sắc trong nhận thức và hành động của đảng viên. Đội

ngũ đảng viên đã nêu cao tính tiên phong gương mẫu trong rèn luyện tu

dưỡng đạo đức tác phong đời sống cũng như trong công tác được giao, công

tác vận động quần chúng noi theo, làm theo.

Kết quả phân loại chất lượng đảng viên năm 1997 như sau: “Loại I:

17.791 đảng viên (85,7%); Loại II: 2.730 đảng viên (13,15%); Loại III: 214

đảng viên (1,03%); Loại IV: 25 đảng viên (0,12%)” [39, tr.8].

Công tác phát triển đảng viên mới được các cấp uỷ quan tâm. Năm 1997

toàn Đảng bộ kết nạp được 752 đảng viên mới [34, tr.5]. Nét nổi bật của công

tác phát triển Đảng năm 1997 là đi đôi với tăng về số lượng, các cấp uỷ đã chỉ

đạo tổ chức cơ sở Đảng coi trọng về chất lượng và cơ cấu nên nhìn chung số

đảng viên mới kết nạp đều đảm bảo tiêu chuẩn. “Trong số đảng viên mới có

33,39% là nữ, dưới 30 tuổi chiếm 27,48%, trình độ cao đẳng và đại họcchiếm

43,22%, đảng viên mới kết nạp trong giáo viên, sinh viên chiếm 15,26%. Riêng

tỷ lệ Đoàn viên thanh niên được kết nạp chiếm 41,7%” [34, tr.5].

Cùng với công tác tổ chức, công tác kiểm tra của cấp ủy và của UBKT

các cấp đã được tăng cường. BTV Thành uỷ đã thành lập các Đoàn kiểm tra

để tiến hành kiểm tra việc thực hiện NQ TW2, TW3, TW4 tại một số quận,

huyện và ban, ngành. “UBKT các cấp đã tiến hành kiểm tra 45 đảng viên và

37

cấp ủy viên cùng cấp có dấu hiệu vi phạm, 3 tổ chức Đảng cấp dưới có dấu

hiệu vi phạm, 230 tổ chức Đảng cấp dưới về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.

Qua kiểm tra, UBKT các cấp đã thi hành kỷ luật 98 đảng viên, trong đó khiển

trách 42, cảnh cáo 40, cách chức 4 và khai trừ ra khỏi đảng 12 trường hợp;

ngoài ra còn đưa ra khỏi đảng bằng các hình thức khác 25 trường hợp. UBKT

các cấp đã thụ lý giải quyết 51 (trên tổng số 62 đơn thư tố cáo và giải quyết

khiếu nại 3 (trên tổng số 6) trường hợp kỷ luật đảng viên” [34, tr.5].

Như vậy, năm đầu tiên (1997) công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng

của Đảng bộ Đà Nẵng đã có những bước tiến bộ quan trọng đạt yêu cầu và

phát triển so với những năm trước.

Trong thời kỳ từ năm 1997 đến năm 2000 có nhiều biến động lớn về

mặt tổ chức, làm ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư, nguyện vọng của cán bộ

đảng viên, nhân dân thành phố, Đảng bộ thành phố đã tập trung lãnh đạo thực

hiện có hiệu quả các mặt công tác đề ra. Trong công tác xây dựng tổ chức cơ

sở Đảng trong sạch vững mạnh, với đặc điểm Đảng bộ thành phố có nhiều

loại hình cơ sở Đảng trong đó có loại hình tổ chức cơ sở Đảng được lập ra và

hoạt động trong các công ty cổ phần còn rất mới mẻ đang từng bước nghiên

cứu chỉ đạo cho phù hợp.

Trong 4 năm, dưới sự chỉ đạo sát sao của Thành uỷ, tính đến hết năm

2000, các loại hình cơ sở Đảng đã thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao với

kết quả tổng quát như sau:

* Đối với đảng bộ phường, xã: “Đây là nơi nắm dân, nơi tổ chức thực

hiện mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Đây cũng là nơi có số lượng đảng viên chiếm tới 44,2% tổng số đảng viên

toàn Đảng bộ” [39, tr.2]. Từ năm 1997 đến năm 2000, đảng bộ các xã,

phường đã có nhiều cố gắng do vậy đều hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

Cơ sở hạ tầng "điện, đường, trường, trạm" được quan tâm đầu tư, sự nghiệp

38

văn hoá giáo dục đạt kết quả tốt, an ninh chính trị được giữ vững trật tự an

toàn xã hội được bảo đảm.

* Đối với các cơ sở Đảng trong doanh nghiệp: “Tuy còn gặp nhiều khó

khăn nhưng do phát huy tốt vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, tinh thần trách

nhiệm của đảng viên nên nhiệm vụ đặt ra hàng năm được lãnh đạo thực hiện

có hiệu quả. 55,2% đơn vị liên tục hoàn thành kế hoạch” [39, tr.2]. Một số

doanh nghiệp mới chuyển sang công ty cổ phần dần đi vào ổn định, tổ chức

sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giải quyết việc làm cho người lao động.

* Đối với cơ sở Đảng trong các đơn vị cơ quan hành chính sự nghiệp:

“Tuy số lượng đảng viên chỉ chiếm 12,30% tổng số đảng viên toàn Đảng bộ”

[39, tr.2], song phần lớn đảng viên giữ vai trò tham mưu lãnh đạo. Do xác

định đúng vị trí vai trò chức năng và công việc được giao do vậy các cơ sở

Đảng loại hình này đã có đóng góp tích cực vào công tác thực hiện nhiệm vụ

chính trị của Thành phố.

* Đối với cơ sở Đảng trong đơn vị sự nghiệp (bệnh viện, trường học):

hoạt động của các tổ chức Đảng được duy trì tốt, các cấp uỷ Đảng coi trọng

công tác nâng cao chất lượng đội ngũ đặc biệt là kiến thức về nghiệp vụ

chuyên môn, tinh thần trách nhiệm trong công việc. Thời kỳ 1997 - 2000, các

đơn vị đều hoàn thành nhiệm vụ được giao góp phần vào sự nghiệp phát triển

văn hoá giáo dục của Thành phố.

Giữa lúc thực hiện công tác xây dựng Đảng thời kỳ 1997 - 2000, ngày

02/02/1999 BCH TW khoá VIII họp Hội nghị TW6 (lần 2) và ra Nghị quyết

"Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện

nay" [11]. Nghị quyết TW 6 (lần 2) khoá VIII là văn bản hướng dẫn quan

trọng để lập lại trật tự kỷ cương trong Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và

sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên.

Quán triệt mục tiêu yêu cầu về xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh

thần Nghị quyết TW3 (Khoá VII) 6/1992, Nghị quyết TW6 (lần 2) khoá VIII,

39

căn cứ vào Hướng dẫn số 416/HD-TW của BTC TW "Về xây dựng tổ chức cơ

sở Đảng trong sạch vững mạnh", ngay từ năm 1994 BTV Thành uỷ đã có

hướng dẫn số 50/HD-TU Về phân loại các tổ chức cơ sở Đảng, thực hiện sự

chỉ đạo của Thành uỷ, các cơ sở Đảng đã cụ thể hoá tiêu chuẩn phân loại đối

với tổ chức Đảng của đơn vị mình, phối hợp với các cơ quan chủ quản tháo

dỡ những khó khăn trong khâu quản lý và công tác cán bộ để khắc phục tình

trạng yếu kém, tạo ra những chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng

Đảng ở cơ sở.

Bảng 2.1: Phân loại chất lượng tổ chức cơ sở Đảng 4 năm 1997 - 2000

Năm 1997 1998 1999 2000

T.số % T.số % T.số % T.số %

TCCSĐ 468 476 489 496

TSVM 306 65,3 339 71,2 370 75,6 404 81,4

162 34,7 123 25,9 107 21,8 77 15,5 Khá

14 2,9 12 2,6 15 3,1 Yếu

Nguồn: Thành ủy Đà Nẵng (2001), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng

tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh 5 năm (1996-2000), Đà Nẵng,

tr.11.

“Bình quân 4 năm (1997-2000), số tổ chức cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn

trong sạch vững mạnh chiếm 73,3%. Số cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch

vững mạnh 4 năm liên tục (1997-2000) có 157 đơn vị” [39, tr.6]. Toàn Đảng

bộ tính đến 10/2001 có 503 tổ chức cơ sở Đảng (trong đó có 12 đảng bộ trực

thuộc Thành ủy) so với năm 1997 tăng 35 cơ sở Đảng.

Công tác tuyên truyền, bồi dưỡng phát triển đảng viên mới được tiến

hành thường xuyên Số lượng đảng viên toàn Đảng bộ tính đến hết năm 2000

là 25.105 đảng viên tăng 4.028 đảng viên so với năm 1997. (Tổng số đảng

viên đến hết năm 1996 là 21.077 đảng viên)

40

Đi đôi với việc củng cố nâng cao chất lượng các cơ sở Đảng, việc kiện

toàn mô hình tổ chức chi bộ cơ sở cũng được chú trọng tiến hành song song.

Đến thời điểm 6/2000, các chi bộ trực thuộc các đảng bộ cơ sở được sắp xếp

như sau:

* Mô hình tổ chức các chi bộ gắn với địa bàn dân cư ở phường, xã,

không bố trí đảng bộ bộ phận mà tổ chức thành các chi bộ trực thuộc để giảm

bớt tổ chức trung gian dưới cơ sở, bảo đảm bộ máy gọn nhẹ và sự lãnh đạo

trực tiếp của đảng ủy cơ sở đến các chi bộ, gắn với địa bàn dân cư có hiệu lực

và hiệu quả hơn.

* Mô hình sinh hoạt theo đặc điểm bộ phận công tác gắn với các đơn vị

doanh nghiệp và cơ quan hành chính sự nghiệp. Ở khối xã, phường, đảng viên

công tác chuyên trách Đảng, HĐND, UBND ở một số cơ sở được tổ chức

thành chi bộ văn phòng trực thuộc đảng ủy. Các cơ quan chuyên môn như

trường PTCS, công an phường đều có chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở.

* Tổ chức 3 Đảng bộ ở khối Đảng, Chính quyền, Đoàn thể trực thuộc

thành ủy và có quy chế hoạt động trong khối để đảm bảo sự lãnh đạo của

thành ủy đối với công tác nội chính.

* Các chi, Đảng bộ khối nội chính là tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc

thành ủy và có quy chế hoạt động trong khối để đảm bảo sự lãnh đạo của

thành ủy đối với công tác nội chính.

* Mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của tổ chức Đảng ở một số

công ty cổ phần là vấn đề mới, nhưng đã có những kinh nghiệm bước đầu

giúp cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy trong quá trình xây dựng

Đảng hiệu quả hơn.

Đây là cơ sở quan trọng giúp cấp uỷ chi đảng bộ xác định rõ hơn chức

năng nhiệm vụ công tác, đồng thời cũng tạo điều kiện để nâng cao chất lượng

sinh hoạt, quản lý đảng viên gắn với phân công nhiệm vụ cho đảng viên được

rõ ràng sát thực hơn.

41

“Công tác bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại cán bộ được đẩy mạnh với

nhiều phương thức đa dạng, tạo thuận lợi cho cán bộ, đảng viên theo học, góp

phần nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, nhất là trình độ lý luận chính trị.

Nhiệm kỳ 1997 - 2000 có 2.400 cán bộ đảng viên trong đảng bộ được học các

chương trình lý luận chính trị” [7, tr.24], chế độ thông tin báo cáo phục vụ

công tác lãnh đạo được coi trọng. Thông qua hội nghị giao ban định kỳ, hội

nghị báo cáo viên, sổ tay chi bộ, thông tin nội bộ, các chủ trương cơ chế chính

sách của TW, của tỉnh và thành phố đã được truyền tải đến tận cơ sở, giúp cho

cấp uỷ các chi đảng bộ nắm được yêu cầu nhiệm vụ công tác trong từng thời

kỳ để vận dụng chỉ đạo sát hơn với những vấn đề thực tiến đặt ra ở các cơ sở.

“Trường Chính trị Thành phố cũng đã mở 29 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị

phổ thông cho 4.028 đảng viên mới, 72 lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng cho

10.077 quần chúng ưu tú” [39, tr.10]. Đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp của

Thành phố đến thời điểm báo cáo có trình độ Đại học và tương đương trở lên

chiếm 46,32%. Số có trình độ lý luận từ trung cấp trở lên là 90,7%. “Đội ngũ

cán bộ từng bước trẻ hoá. Tuổi bình quân của cán bộ chủ chốt, (Bí thư, Phó Bí

thư, Chủ tịch HĐND, UBND) là 45,5” [39, tr.10]. Có thể nói công tác cán bộ

có hiệu quả đã có tác động rất lớn đến sự chuyển biến công tác xây dựng

Đảng, làm tăng thêm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở

Đảng của đội ngũ đảng viên. Để hợp nhất công tác chỉ đạo gọn, mạnh có hiệu

quả, theo chủ trương lồng ghép của Thành uỷ, ở 47 xã phường, xã có 31 đồng

chí Bí thư kiêm Chủ tịch HĐND, 23 Bí thư kiêm Chủ tịch UBND, 24 phó Bí

thư kiêm Chủ tịch UBND, 3 đơn vị có 2 Phó Bí thư và thường trực Đảng uỷ

được phân công kiêm nhiệm phó Chủ tịch HĐND hoặc lãnh đạo các đoàn thể

ở các đơn vị doanh nghiệp và cơ quan hành chính sự nghiệp, có 67 Bí thư

đồng thời là cấp trưởng, 14 là cấp phó [39, tr.10].

Việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng gắn với những yêu

cầu tinh thần Nghị quyết TW6 (lần 2) khoá VIII và cuộc vận động xây dựng

42

chỉnh đốn Đảng đã được các cấp uỷ quan tâm chỉ đạo, làm chuyển biến tốt

công tác. Nhận thức về vị trí vai trò của tổ chức Đảng, trách nhiệm của cấp uỷ

và đảng viên được nâng lên. Tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị

quyết TW 6 (lần 2) được chỉ đạo tiến hành thường xuyên, là cơ sở để thực

hiện đánh giá phân loại Đảng viên hàng năm của chi, đảng bộ. “Năm 2000

trong toàn Đảng bộ, số đảng viên đủ tư cách là 99,7%, số đảng viên loại III và

loại IV đều giảm so với năm 1996” [38, tr.6].

Bảng 2.2: Phân loại chất lượng đảng viên 4 năm 1997 - 2000

1997 1998 1999 2000

Kết quả phân loại T.số % T.số % T.số % T.số %

21.829 22.877 24.024 25.105 Tổng số đảng viên

Dự P.loại 20.760 95,10 21.456 93,79 23.236 96,72 24.523 97,68

Loại I 17.791 85,70 17.993 83,86 19.917 85,72 21.119 86,12

Loại II 2.730 13,15 3.253 15,16 3.170 13,64 3.274 13,35

Loại III 214 1,03 193 0,9 137 0,59 123 0,5

Loại IV 25 0,12 17 0,08 11 0,05 7 0,03

Nguồn: Thành ủy Đà Nẵng (2002), Báo cáo tổng kết ba nghị quyết của

TW về công tác tổ chức và cán bộ, số 16-BC/TU, Đà Nẵng, tr.9.

Công tác phát triển Đảng luôn được các cấp uỷ quan tâm chỉ đạo các cơ

sở Đảng rất chú trọng giới thiệu những người ưu tú đi tham gia học cảm tình

Đảng. Do vậy công tác phát triển Đảng đạt kết quả khá cao. Từ năm 1997 đến năm

2000, trung bình mỗi năm Thành phố kết nạp được 1.007 đảng viên mới.

Tính từ năm 1997 đến năm 2000 Thành uỷ đã tổ chức được 72 lớp bồi

dưỡng nhận thức về Đảng cho 10.077 quần chúng ưu tú, xét kết nạp được

4.028 đảng viên mới.

Trong tổng số đảng viên mới kết nạp, trình độ văn hoá chuyên môn, tỷ lệ

đoàn viên thanh niên, nữ đều tăng. “Số có trình độ trung học chuyên nghiệp trở

43

lên chiếm 73,8% (năm 1996 là 56,6%), tỷ lệ nữ là 36,19% (năm 1996 là 34,7%)”

[7, tr.25]. Đặc biệt ở khối các trường thuộc ngành Giáo dục-Đào tạo, sau hơn 3

năm thực hiện chỉ thị số 34/CT-TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 02/CQ-

TU ngày 30 tháng 5 năm 1997 của BTV Tỉnh uỷ về "Xây dựng và củng cố tổ

chức Đảng trong giáo dục - đào tạo đến năm 2000", công tác phát triển Đảng

được chỉ đạo tích cực hơn. “Sau 2 năm thực hiện, tổ chức Đảng trong các nhà

trường được củng cố kiện toàn, số đảng viên mới được kết nạp tăng lên, trong

năm 1998 ngành giáo dục đã kết nạp được 160 đảng viên mới” [36, tr.6], “năm

1999 kết nạp được 173 đảng viên” [37, tr.6]. Tính đến năm 2000 số đảng viên

mới được kết nạp ở các trường tăng 38% so với năm 1996. Đến tháng 10/2000,

100% số trường thuộc Sở giáo dục thành phố đã có đảng viên.

Trong tổng số đảng viên mới kết nạp 4 năm (1997-2000) không có

trường hợp nào có trình độ văn hoá cấp 1, tất cả đều từ cấp 2 trở lên.

Bảng 2.3: Kết quả phát triển Đảng 4 năm 1997 - 2000

Năm 1997 1998 1999 2000

Tổng số Kết nạp Kết nạp Kết nạp Kết nạp Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ %

4.028 Số lượng 752 (1) 1048 (2) 1147 (3) 1081 (4)

Trong đó

Phụ nữ 244 32,40 350 33,39 469 40,70 430 39,80

ĐH, CĐ 296 39,40 453 43,22 408 35,60 414 38,30

ĐVTN 340 45,20 528 48,80

Nguồn: (1): [34, tr.7], (2): [36, tr.6], (3): [37, tr.6], (4): [38, tr.5] Đi đôi với công tác phát triển Đảng, làm tăng sinh lực sức mạnh cho

Đảng, công tác kiểm tra đảng viên thi hành kỷ luật Đảng luôn được các cấp

uỷ Đảng quan tâm nhằm làm trong sạch đội ngũ chiến đấu của Đảng. Theo

tinh thần Nghị quyết Đại hội XVII Đảng bộ thành phố về công tác kiểm tra:

44

“Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng trên các mặt

kiểm tra, hướng dẫn tổ chức Đảng và đảng viên chấp hành điều lệ Đảng,

đường lối chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật

của Nhà nước, phát hiện quan liêu, tham nhũng, xử lý công minh, chính xác,

kịp thời những đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm kỷ luật Đảng; đưa ra

khỏi Đảng những người không còn đủ tư cách đảng biên. Công tác kiểm tra

phải có chương trình, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm: phải kết hợp chặt

chẽ với các cơ quan chức năng để có kết luận rõ ràng, chủ trương xuất khẩu

đúng đắn. Thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm kê, kiểm toán để theo

dõi hoạt động của tổ chức Đảng và cá nhân đảng viên” [6, tr.83], UBKT các

cấp đã thực hiện tốt chức năng tham mưu giúp cấp uỷ về công tác kiểm tra

theo Điều lệ Đảng.

Bảng 2.4: Tình hình thi hành kiểm tra và kỷ luật đảng viên (1998 - 2000)

Nội dung

Tổng số 1998 (1) 1999 (2) 2000 (3) A. Kiểm tra

50 129 126 305 Đảng viên và cấp ủy viên cùng cấp có dấu hiệu vi phạm

Tổ chức Đảng cấp dưới có dấu hiệu vi phạm 3 5 2

Tổ chức Đảng về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra 7 145 387 235

18 18 Tổ chức Đảng cấp dưới trong việc thi hành kỷ luật đảng

B. Kỷ luật 102 116 120 305

Trong đó

44 47 53 144 Kiển trách

41 48 46 135 Cảnh cáo

4 4 6 14 Cách chức

13 17 15 45 Khai trừ

30 30 Khai trừ bằng hình thức khác

Nguồn: (1): [36, tr.14], (2): [37, tr.14], (3): [38, tr.8].

45

Qua kết quả thực tế cho thấy công tác kiểm tra đã được các cấp uỷ quan

tâm, nắm vững phương châm, phương pháp, nguyên tắc thủ tục thi hành kỷ

luật, coi trọng công tác giáo dục phòng ngừa. Vì vậy số cán bộ, đảng viên vi

phạm phải áp dụng hình thức kỷ luật giảm nhiều so với thời gian trước kia.

Tình trạng mất đoàn kết, chia rẽ bè cánh trong tổ chức Đảng được hạn chế ở

mức thấp nhất, các đơn vị thư tố cáo khiếu nại, ý kiến phản ánh của cán bộ,

đảng viên và quần chúng nhân dân đã được các cấp từ Thành uỷ đến cơ sở,

UBKT quan tâm giải quyết khách quan nghiêm túc, công bằng đúng trình tự,

những đồng chí đảng viên, cán bộ bị tố cáo sai được minh oan, cán bộ đảng

viên có vi phạm đã xử lý nghiêm minh theo đúng Điều lệ Đảng, pháp luật của

Nhà nước.

Tuy nhiên công tác kiểm tra xử lý kỷ luật của Thành Đảng bộ Đà Nẵng

còn bộc lộ hạn chế thiếu sót. Nhận thức của một số cấp uỷ cơ sở về công tác

kiểm tra chưa đầy đủ, chưa coi công tác kiểm tra là của cấp uỷ nên còn tình

trạng "khoán trắng" cho UBKT, vì vậy khi cấp uỷ viên, đảng viên mắc khuyết

điểm, nội bộ mâu thuẫn phức tạp thì bị động, lúng túng, trông chờ vào sự giải

quyết của cấp trên.

Hoạt động của UBKT ở một số cơ sở Đảng chưa tốt, chưa chủ động

tham mưu cho cấp uỷ về công tác kiểm tra. Do đó tác dụng giáo dục phòng

ngừa còn hạn chế. Có UBKT cơ sở chưa nắm vững phương châm, phương

pháp thủ tục nguyên tắc khi tiến hành kiểm tra và thi hành kỷ luật Đảng, dẫn

đến một số vụ vi phạm của cán bộ, đảng viên không được xử lý hoặc xử lý

chưa nghiêm, chưa kiên quyết còn để kéo dài, cá biệt có trường hợp cấp uỷ

cấp trên phải thay đổi hình thức kỷ luật.

Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh 4 năm

(1997 -2000) đã được Thành uỷ cho đến cơ sở thực hiện đạt kết quả tốt đẹp.

Trong 4 năm, quán triệt Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, Nghị quyết Đại

hội Đảng bộ thành phố, thành ủy đã gắn nhiệm vụ đổi mới, xây dựng, củng cố

46

và chỉnh đốn Đảng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ Thành

phố đã khơi dậy và phát huy những tiềm năng sáng tạo lao động to lớn trong

nhân dân, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, góp phần vào quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn.

Những cố gắng nỗ lực trên đã góp phần quan trọng vào kết quả thực

hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ Thành phố.

- Về kinh tế - xã hội:

Bảng 2.5: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố từ 1998 đến 2000

Du lịch Giá trị CN và XD Lương thực (tấn) Năm GDP (tăng %) Thủy sản (tấn-tăng %) (*) Giá trị DV và TM (%) (*) Xuất khẩu (triệu USD) (*) (tăng %) (*) (tăng %) (*) (Quy thóc)

1998 9,0 15,4 6,54 59.500 22.000 - 11 165 6

1999 9,51 8,2 59.765 186 12,3 27 25.000 - 6,84

2000 9,8 10,4 53.630 27.500 - 8 235 29,2 16

(*: tăng năm sau so với năm trước)

Nguồn: Văn kiện Đại hội đại biểu Thành phố Đà Nẵng lần thứ XVIII,

tr.15.

- Về Giáo dục và Đào tạo:

Ngành giáo dục - đào tạo thành phố đã huy động các nguồn lực theo

phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để đầu tư xây dựng cơ sở

trường học, từng bước giải quyết sức ép về tăng quy mô. Chất lượng giáo dục

luôn được chú trọng: tỷ lệ học sinh đủ điều kiện lên lớp, học sinh khá, giỏi

cuối cấp và học sinh giỏi cấp quốc gia khá ổn định, năm sau cao hơn năm

trước (năm học 1998-1999 có 70% học sinh tiểu học, 48% học sinh THCS,

36% học sinh PTTH được xếp loại khá, giỏi về học lực, năm học 1999-2000

47

toàn thành phố có 99,7% học sinh tốt nghiệp tiểu học, 80,6% học sinh tốt

nghiệp THCS, 92,8% học sinh tốt nghiệp THPT), 100% xã, phường (47/47)

trên địa bàn thành phố đã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và

chống mù chữ, 95,7% xã phường (45/47) hoàn thành phổ cập trung học cơ sở,

đến năm 2000, thành phố có 16 trường đạt chuẩn quốc gia.

Bình quân hằng năm (từ 1997 đến 2000), thành phố giải quyết được

15.117 lao động có việc làm. “Theo chuẩn cũ, đến năm 2000 thành phố không

còn hộ đói, số hộ nghèo còn 2.417 hộ, bằng l,65% tổng số hộ” [37, tr.4].

Thành tựu đó đã góp phần ổn định đời sống nhân dân trên địa bàn

thành phố. An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội về cơ bản

được bảo đảm. Các chỉ tiêu về công tác quốc phòng - quân sự địa phương

hằng năm đều được hoàn thành. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an

ninh nhân dân được củng cố ngày càng vững chắc. Nội dung, phương thức

hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng tiếp tục có nhiều

đổi mới. Nhiều phong trào thi đua có nội dung thiết thực được phát động và

được quần chúng hưởng ứng. Điển hình là các phong trào “Toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống ở khu dân cư” của Mặt trận Tổ quốc, “Thi đua lao động

giỏi” trong công nhân, viên chức của Liên đoàn Lao động, “Thanh niên lập

nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước” của Đoàn Thanh niên, “Xóa đói, giảm nghèo”,

“Vay vốn giúp nhau phát triển kinh tế” của Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu

chiến binh… Trong tất cả mọi hoạt động, Đảng bộ luôn luôn dựa vào dân, sâu

sát từng cơ sở để được nghe ý kiến của nhân dân. Quan điểm “lấy dân làm

gốc” đã được Đảng bộ quán triệt một cách sâu sắc. Đây chính là một nhân tố

có tính chất quyết định giúp cho Thành phố Đà Nẵng luôn trở thành một đơn

vị có phong trào thi đua khá trong cả nước.

Có được những thành tích quan trọng nêu trên là do Đảng bộ Thành

phố đã xác định đúng đắn nội dung nhiệm vụ công tác, lấy "Phát triển kinh tế

làm nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt" quán triệt và vận dụng

48

sáng tạo các Nghị quyết TW về xây dựng chỉnh đốn đổi mới Đảng, công tác

xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng

lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ

đảng viên có kết quả. Quán triệt quan điểm tổ chức của Đảng “Tập thể lãnh

đạo, cá nhân phụ trách”, trong nhiệm kỳ XVII (1997 - 2000), BCH Đảng bộ

thành, BTV Thành ủy đã tổ chức nhiều kỳ họp để lãnh đạo, chỉ đạo các mặt

công tác của Đảng bộ, tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết Đại

hội Đảng các cấp. Việc xây dựng các nghị quyết chuyên đề, các chương trình

hành động đều được các cơ quan tham mưu giúp việc nghiên cứu đề xuất và

đưa ra BCH, BTV thảo luận và bàn bạc kỹ, thống nhất cao, phát huy dân chủ

và trí tuệ tập thể nên các chủ trương, giải pháp đề ra cơ bản sát, đúng và đi

vào cuộc sống. Chính vì vậy đã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong

thời kỳ quá độ lên CNXH, trong thời kỳ cả nước đẩy mạnh CNH, HĐH đất

nước. Điều đó đòi hỏi Đảng bộ Thành phố giữ vững và phát huy truyền thống

thế mạnh, không ngừng chăm lo củng cố Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư

tưởng, tổ chức, nhất là tổ chức cơ sở Đảng, thực hiện có hiệu quả công tác

xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao chất lượng đội

ngũ đảng viên, hoàn chỉnh công tác cán bộ. Qua đó góp phần quyết định phát

triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng, nâng cao hơn nữa đời

sống nhân dân, ổn định chính trị, góp phần xây dựng thành phố, tỉnh ngày

càng đẹp giàu, văn minh, công bằng dân chủ, vững bước trong giai đoạn cách

mạng mới.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác xây dựng Đảng của

thành phố vẫn còn những hạn chế cần khắc phục:

- Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng tuy được tiến hành thường xuyên

nhưng vẫn còn những biểu hiện đáng lo ngại. Một số vấn đề về con đường đi

lên chủ nghĩa xã hội, về nguyên tắc tập trung dân chủ, về một số chủ trương,

chính sách đổi mới chưa được nhận thức đúng để nhất trí cao trong một bộ

49

phận cán bộ, đảng viên. Việc định hướng tư tưởng cho đảng viên, quần chúng

làm chưa tốt. Chưa có biện pháp thật cụ thể, sâu sát để tăng cường công tác

quản lý, giáo dục đảng viên về phẩm chất, đạo đức, lối sống; một số ít cán bộ,

đảng viên sa ngã trước cám dỗ của mặt trái kinh tế thị trường. Việc thực hiện

dân chủ và tăng cường kỷ cương trong Đảng chưa đúng mức. Tinh thần tự phê

bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng chưa cao, trong một số tổ chức Đảng và

cấp ủy đảng vẫn còn tình trạng nể nang, chưa thật sự tin cậy lẫn nhau.

- Công tác cán bộ chưa được đổi mới một cách cơ bản, còn thiếu mạnh

dạn trong việc luân chuyển, thay thế, trẻ hóa cán bộ. Việc tạo nguồn cán bộ

chưa được quan tâm đúng mức; công tác quy hoạch cán bộ mới chỉ thực hiện

được ở các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Công tác đào tạo,

đào tạo lại chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, chuyên

môn của cán bộ, công chức, nhất là đối với những ngành kinh tế - kỹ thuật

quan trọng. Chậm ban hành chính sách thu hút nhân tài, ưu đãi, khuyến khích

cán bộ đem hết tài năng cống hiến cho sự nghiệp xây dựng quê hương. Chưa

tranh thủ phát huy được tiềm năng to lớn của đội ngũ cán bộ các cơ quan TW,

các cơ sở nghiên cứu khoa học trên địa bàn. Tư tưởng cục bộ địa phương còn

nặng trong một bộ phận cán bộ đảng viên, ảnh hưởng không tốt đến công tác

cán bộ, gây trở ngại cho việc luân chuyển, bố trí đúng cán bộ.

- Phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của một số cấp ủy đảng chưa

được đổi mới.

Những yếu kém, khuyết điểm nêu trên có tác động không nhỏ của các

nguyên nhân khách quan, trong đó có yếu tố khó lường như khủng hoảng tài

chính tiền tệ khu vực và tình hình thiên tai, bão lũ. Bên cạnh đó, những tác

động mặt trái của cơ chế thị trường ngày càng bộc lộ phức tạp hơn, kẻ thù và

các phần tử xấu luôn ra sức tuyên truyền kích động và gây rối, tạo ra những

hậu quả nhất định về mặt tư tưởng, tâm trạng xã hội. Tuy nhiên, nguyên nhân

chủ quan là chính, đặc biệt là vấn đề cán bộ. Cơ cấu cán bộ nhìn chung chưa

50

đồng bộ ở các cấp, các lĩnh vực. Trình độ lý luận lẫn năng lực thực tiễn của cán

bộ, công chức chưa đáp ứng tốt yêu cầu công việc, một bộ phận thiếu nhiệt tình

và tinh thần trách nhiệm, đùn đẩy ngại va chạm, không dám chịu trách nhiệm

cá nhân, trong khi đó, việc đánh giá vẫn còn tình trạng bình quân, thiếu sự

khuyến khích người giỏi, nhiệt tình say mê công việc. Những biểu hiện tiêu

cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân, nói không đi đôi với làm, vun vén

cá nhân của một bộ phận cán bộ công chức, nhất là cán bộ có chức, có quyền

chưa được phát hiện kịp thời và xử lý đúng mức. Cơ chế phối hợp trong hoạt

động của bộ máy đảng, chính quyền, các đoàn thể chưa chặt chẽ và đồng bộ, có

ảnh hưởng nhất định đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.

2.2. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng từ

năm 2001 đến năm 2006

2.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng tại

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001)

Năm 2001, cùng với nhân dân cả nước, Đảng bộ và nhân dân thành phố

Đà Nẵng bước sang một thế kỷ mới với một khí thế mới, thi đua thực hiện

thắng lợi những nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội VIII. Đây là giai đoạn tiếp

tục đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhằm thực hiện thắng lợi mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi

lên chủ nghĩa xã hội.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, từ năm

1996 đến năm 2000, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được những thành

tựu quan trọng: kinh tế tăng trưởng khá; văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ; tình

hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng

được chú trọng; quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng; đời sống của

nhân dân không ngừng được cải thiện… Bên cạnh đó vẫn còn bộc lộ những

yếu kém, khuyết điểm, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư

tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng

51

viên. Bước vào thế kỷ XXI, cách mạng nước ta vừa đứng trước thời cơ vận

hội lớn, vừa phải đối mặc với những thách thức không thể xem thường. Với

tinh thần tiến công cách mạng tiếp tục trên con đường đổi mới, Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã được triệu tập từ ngày19 đến ngày

22/4/2001 tại Thủ đô Hà Nội.

Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá những thành tựu và khuyết điểm trong

nhiệm kỳ qua, đề ra những quyết sách cho thời kỳ mới “phát huy sức mạnh

toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, Đại hội

khẳng định: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống

chính trị được củng cố. Nhiều nghị quyết TW đã đề ra những chủ trương, giải

pháp củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng cường vai trò

lãnh đạo của Đảng. Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn

Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết TW 6 (lần

2) khoá VIII. Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, nền hành chính

được cải cách một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi

mới nội dung và phương thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân trên

các lĩnh vực được phát huy; một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền dân

chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện” [12, tr.71].

Tuy nhiên “trong công tác xây dựng Đảng, bên cạnh những ưu điểm,

đang nổi lên một số mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về

công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và

đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống. Một số tổ

chức Đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn; dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ

cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết; chất lượng sinh hoạt Đảng giảm sút.

Công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém, bất cập; công tác tổ chức,

cán bộ còn một số biểu hiện trì trệ. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của

Đảng còn lúng túng, chưa đi sâu làm rõ đặc điểm và yêu cầu về sự lãnh đạo

52

của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, chưa phát huy đầy đủ hiệu lực

quản lý của các cơ quan nhà nước, tính tích cực của các đoàn thể và quyền

làm chủ của nhân dân. Tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra việc thực hiện

các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước còn yếu” [12, 138-139].

Đại hội xác định phương hướng là toàn Đảng tiếp tục thực hiện các

nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết TW 6 (lần 2) khoá VIII, tập

trung làm tốt những công tác quan trọng sau đây:

- Giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ

nghĩa cá nhân.

Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh. Mỗi cấp uỷ, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm việc thực

hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng,

chống chủ nghĩa cá nhân. Chống tư tưởng cơ hội, thực dụng.

Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, làm trong sạch

đội ngũ đảng viên. Các cấp uỷ tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra đảng viên học

tập, không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp

vụ, kiến thức lãnh đạo, quản lý và vận động nhân dân, phát huy vai trò tiên

phong gương mẫu. Cán bộ, đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp

hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng và pháp luật

của Nhà nước. Thi hành kỷ luật nghiêm khắc mọi vi phạm về nguyên tắc, nhất

là đối với những vấn đề về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng. Trong các hoạt động kinh tế, đảng viên phải chấp hành đúng pháp luật

của Nhà nước và các quy định của Đảng.

Kiện toàn tổ chức và cán bộ ở những cơ quan, đơn vị để xảy ra những

biểu hiện không chấp hành nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước,

làm việc trì trệ, độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, mất đoàn kết nội

bộ. Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan kiểm tra đảng,

53

thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân. Tiếp tục coi trọng và làm tốt công

tác bảo vệ chính trị nội bộ.

- Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ

Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các

cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có

trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân. Có cơ

chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng

dụng những người có đức, có tài. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn

cán bộ, chú ý cán bộ nữ và cán bộ các dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các

lĩnh vực.

- Xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở Đảng

Tất cả các đảng bộ, chi bộ ở cơ sở đều nắm vững và thực hiện đúng

chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, đoàn thể, các tổ

chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở,

nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, buông lỏng vai

trò lãnh đạo. Cấp uỷ cấp trên tập trung chỉ đạo củng cố các đảng bộ, chi bộ

yếu kém, kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở những nơi có

nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ,

chi bộ. Phân công, hướng dẫn, kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát

huy vai trò tiên phong gương mẫu trong công tác, học tập và lối sống; giữ mối

liên hệ với quần chúng nơi công tác, với chi bộ và nhân dân nơi cư trú. Phát

triển đảng viên theo đúng tiêu chuẩn quy định, chú ý những người ưu tú trong

công nhân, trí thức, lao động thuộc các thành phần kinh tế, đoàn viên ĐTNCS

Hồ Chí Minh, những nơi còn ít hoặc chưa có đảng viên. Đổi mới việc phân

tích, đánh giá chất lượng các tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên.

- Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt

cấp uỷ ở cơ sở đến BCH TW, trong công tác cán bộ và trong xây dựng, hoàn

54

thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đảng viên có quyền được

bảo lưu ý kiến nhưng phải nói và làm theo nghị quyết của Đảng. Chống dân

chủ hình thức, dân chủ cực đoan hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích

riêng, cục bộ, bản vị.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta là một sự kiện chính

trị nổi bật họp vào thời điểm có ý nghĩa trọng đại, dân tộc ta đã đi qua thế kỷ

XX với nhiều hy sinh, mất mát những cũng đầy từ hào vì những kết quả đã

giành được, đó là những hành trang cho toàn Đảng, toàn dân ta bước vào thế

kỷ XXI một thế kỷ nhiều biến động và khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo

đúng đắn của Đảng, dân tộc ta nhất định sẽ đi đến đích cuối cùng.

2.2.2. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng về xây dựng tổ

chức cơ sở Đảng

Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh

đạo, những thành tựu đạt được trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hết

sức to lớn, đang động viên và phát huy sức mạnh toàn dân tộc tiếp tục đổi

mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, vững bước tiến vào thế kỷ XXI. Để đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ công tác của những năm tiếp theo, theo tinh thần Nghị quyết

của BCH Đảng bộ thành phố về phương hướng nhiệm vụ năm 2001, công tác

xây dựng tổ chức cơ sở Đảng năm 2001 được đề ra với mục tiêu cụ thể là:

“Phấn đấu trong năm 2001 có trên 70% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch,

vững mạnh một cách thực chất, hạn chế thấp nhất tổ chức cơ sở Đảng yếu

kém” [38, tr.7]. Cụ thể như sau:

- “Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực

hiện việc tự phê bình và phê bình trong toàn đảng bộ thành nền nếp thường

xuyên nhằm xây dựng Đảng bộ thành phố thật sự trong sạch, vững mạnh”

[38, tr.8] Kiên trì tạo chuyển biến thật sự về nhận thức tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống và tổ chức chỉ đạo, điều hành trong các cấp đảng bộ của thành

phố. Phát huy mạnh mẽ dân chủ nội bộ, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc

55

về tổ chức và sinh hoạt Đảng, tăng cường kỷ luật, lành mạnh hoá các quan hệ

nội bộ.

- “Thường xuyên chỉ đạo việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng,

chấn chỉnh các cơ sở yếu kém, giữ vững nền nếp sinh hoạt, nâng cao chất

lượng sinh hoạt chi bộ. Các chi, đảng bộ phải làm tốt công tác quản lý đảng

viên, phân công nhiệm vụ và kiểm tra đảng viên thực hiện nhiệm vụ được

giao” [38, tr.9]; thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ Chính trị về những

điều đảng viên không được làm. “Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh

đạo của cấp uỷ đảng ở các phường, xã, các tổ chức kinh tế, nhất là trong các

doanh nghiệp tư nhân, các đơn vị liên doanh nước ngoài” [38, tr.9].

- “Tăng cường công tác kiểm tra của cấp uỷ, chú trọng hướng dẫn các

tổ chức Đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, các chủ trương, đường

lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện tốt chương trình công tác

kiểm tra của cấp uỷ năm 2001” [38, tr.11]. Lãnh đạo Uỷ ban Kiểm tra các cấp

thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định. Giải quyết kịp

thời, dứt điểm các đơn thư tố cáo, khiếu nại của đảng viên, phục vụ tốt Đại

hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVIII.

Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quán triệt phương châm

“phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt”, tăng cường khối

đoàn kết thống nhất, phát huy cao độ nội lực kết hợp khai thác mọi nguồn lực

bên ngoài, tận dụng mọi thời cơ thuận lợi để phát triển nhanh và bền vững,

phấn đấu xây dựng Đà Nẵng giàu về kinh tế, phát triển về văn hóa và khoa học

- công nghệ, đảm bảo quốc phòng - an ninh, hệ thống chính trị vững mạnh, dân

trí ngày càng được nâng cao, cảnh quan thiên nhiên, môi trường đô thị lành

mạnh, sạch đẹp, vươn lên xứng đáng là một trong những trung tâm kinh tế, văn

hóa, khoa học - công nghệ của miền Trung và cả nước. Từ ngày 12-14/2-2001

Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố đã được tổ chức.

56

Đại hội khẳng định trong nhiệm kỳ XVIII, công tác xây dựng, chỉnh

đốn Đảng phải thực hiện tốt những nhiệm vụ:

- Tiếp tục thực hiện NQTW6 (lần 2), bảo đảm cuộc vận động xây dựng,

chỉnh đốn Đảng có ý nghĩa thiết thực, tác động đến sự phát triển kinh tế - xã

hội, tạo sự chuyển biến sâu sắc, toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng và

tổ chức.

- “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng. Nhiệm

vụ quan trọng hàng đầu của công tác chính trị tư tưởng hiện nay là làm cho

cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố hiểu rõ tình hình, thấu suốt quan

điểm, đường lối của Đảng, đoàn kết gắn bó, chủ động vượt qua khó khăn,

thách thức sẵn sàng đón nhận thời cơ, vận hội mới để đưa công cuộc xây

dựng thành phố phát triển mạnh mẽ, lành mạnh và bền vững, theo kịp đà phát

triển chung của đất nước” [7, tr.64] Công tác tư tưởng phải nâng cao nhận

thức và sự thống nhất của cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ

nghĩa, về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tổ chức quán triệt

nghiêm túc nghị quyết của Đảng gắn với cụ thể hóa thể chế hóa và tổ chức

thực hiện nghị quyết, đưa nghị quyết vào cuộc sống. Chú trọng giáo dục toàn

diện, gắn giáo dục lý luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng với nâng

cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên. Thông qua hệ

thống báo cáo viên, tuyên truyền viên và các hình thức khác, làm tốt công tác

tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước cho

cán bộ, đảng viên và nhân dân. Quan tâm đầu tư và có kế hoạch cụ thể chỉ đạo

công tác biên soạn lịch sử đảng bộ và lịch sử địa phương ở cấp thành phố và

cấp cơ sở.

Các cấp ủy đảng phải chủ động nắm diễn biến tư tưởng chính trị của

cán bộ, đảng viên và nhân dân, thường xuyên cung cấp thông tin, định hướng

tư tưởng đúng đắn, tạo sự nhất trí về quan điểm, đường lối của đảng. Mặt

khác phải kịp thời uốn nắn những nhận thức lệch lạc, những quan điểm mơ

57

hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa

xã hội và sự lãnh đạo của Đảng. Cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng các cấp

phải chủ động đấu tranh chống lại âm mưu phá hoại về tư tưởng của các thế

lực thù địch, cảnh giác đối với những tư tưởng sai trái, đấu tranh chống chủ

nghĩa cá nhân, tư tưởng thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống,

buông lỏng kỷ luật trong Đảng. Thực hiện tốt phương châm “xây” đi đôi với

“chống”, lấy „xây” làm chính. Các tổ chức Đảng từ thành phố đến cơ sở phải

đề cao kỷ luật phát ngôn, nói và làm theo nghị quyết của Đảng, ngăn chặn kịp

thời những dư luận xã hội không lành mạnh làm tổn hại đến sự đoàn kết thống

nhất trong Đảng.

- “Đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức. Tiếp tục củng

cố, kiện toàn các ban của Đảng, các đảng ủy trực thuộc và các tổ chức khác

trong hệ thống chính trị thật sự tinh, gọn, bảo đảm chức năng nhiệm vụ rõ

ràng, không trùng lắp, quyền hạn đi đôi với trách nhiệm” [7, tr.66]. Phát huy

tốt vai trò chủ động của từng cơ quan và của cả hệ thống chính trị trong việc

thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng bộ.

Thường xuyên chỉ đạo việc xây dựng và chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng,

“chấn chỉnh các cơ sở yếu kém, giữ vững nền nếp sinh hoạt định kỳ, nâng cao

chất lượng sinh hoạt chi ủy, chi bộ, đưa việc tự phê bình, phê bình trở thành

nhiệm vụ thường xuyên của các chi bộ đảng. Cấp ủy cấp trên phải bám sát cơ

sở, tập trung củng cố các cơ sở trọng điểm ở phường, xã, doanh nghiệp, trường

học” [7, tr.66]. Mở rộng dân chủ trong sinh hoạt Đảng, chống mọi sự vi phạm

dân chủ, dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, bè phái. Phát huy dân

chủ phải đi đôi với giữ vững kỷ cương, tăng cường kỷ luật và pháp luật nhà

nước. Từng cấp, từng ngành và từng cán bộ, đảng viên phải đấu tranh kiên

quyết với những biểu hiện gây mất đoàn kết nội bộ, cục bộ, bè phái, chấp hành

kỷ luật không nghiêm, nói và làm không theo nghị quyết của Đảng.

58

“Các tổ chức cơ sở Đảng phải thường xuyên tuyên truyền, bồi dưỡng

phát triển đảng viên mới bảo đảm tiêu chuẩn, đồng thời xem xét đưa ra khỏi

đảng những đảng viên thoái hóa, biến chất, không còn đủ tiêu chuẩn” [7,

tr.68]. Làm tốt việc tạo nguồn để tăng cường phát triển đảng viên mới ở các

đơn vị, địa phương chưa có hoặc còn ít đảng viên. Chú ý phát triển đảng viên

mới trong công nhân lao động, giáo viên, cán bộ khoa học... “Thực hiện việc

phân loại, đánh giá chất lượng các tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên hàng năm

phải đúng thực chất, không hình thức và chạy theo thành tích. Phấn đấu hàng

năm có trên 70% tổ chức cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh”

[7, tr.68].

- Bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Chi bộ phải làm

tốt công tác giáo dục và quản lý đảng viên, phân công nhiệm vụ và kiểm tra

đảng viên thực hiện nhiệm vụ được giao. Cấp ủy phải có kế hoạch cụ thể

nhằm tạo điều kiện cho đảng viên được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao phẩm chất, đạo đức, lối

sống và trình độ năng lực lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,

HĐH và quá trình thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ

nghĩa, chủ động hội nhập quốc tế. Đảng viên đang công tác ở các cơ quan,

đơn vị phải thường xuyên giữ mối liên hệ với cấp ủy và nhân dân nơi cư trú,

gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân. Nêu cao vai trò tiên phong, gương

mẫu của cán bộ, đảng viên về chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng,

pháp luật của Nhà nước, và về đạo đức, lối sống.

- Coi trọng và chấp hành nghiêm các quy định về công tác bảo vệ chính

trị nội bộ, tiếp tục triển khai thực hiện tốt Chỉ thị 39-CT/TW của Bộ Chính trị

trong tình hình mới.

“Thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra của cấp ủy, chú trọng kiểm

tra các tổ chức Đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, đường lối chủ

trương của Đảng và pháp luật Nhà nước” [7, tr.70]. Tăng cường lãnh đạo, chỉ

59

đạo việc thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ do

cấp ủy cùng cấp giao cho UBKT các cấp; chú ý củng cố kiện toàn về tổ chức

và nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của Uỷ ban Kiểm tra các cấp.

Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2/2001) là một sự

kiện chính trị quan trọng. Với việc tổng kết nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XVII

(1996 - 2000), Đại hội lần thứ XVIII đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục

tiêu cho thời kỳ xây dựng phát triển thành phố 5 năm (2001 - 2005), Đại hội

lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố là Đại hội dân chủ, trí tuệ, trách nhiệm, kỷ

cương, đoàn kết thống nhất.

2.2.3. Thực trạng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà

Nẵng từ năm 2001 đến năm 2006

Đầu năm 2001, Thành uỷ và BTV Thành uỷ tập trung lãnh đạo công tác

xây dựng Đảng, trọng tâm là tổ chức Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ

XVIII đảm bảo đúng nguyên tắc, quy trình và yêu cầu của Chỉ thị 54-CT/TW

Bộ Chính trị. Đại hội XVIII thắng lợi góp phần củng cố sự nhất trí về tư

tưởng chính trị và quyết tâm đổi mới của Đảng bộ và nhân dân thành phố. Sau

Đại hội, Thành uỷ đã xây dựng Quy chế làm việc, thông qua Chương trình

công tác toàn khoá và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội

IX của Đảng và Nghị quyết Đại hội XVIII của Đảng bộ thành phố. Theo đó,

Thành uỷ đã chuyển mạnh trọng tâm lãnh đạo vào việc tăng cường công tác

xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiện toàn tổ chức và cán bộ để thực hiện thắng lợi

nhiệm vụ Đại hội đã đề ra. BTV Thành uỷ đã mở 4 lớp quán triệt Nghị quyết

Đại hội IX cho hơn 330 cán bộ chủ chốt các cấp và 2 lớp cho gần 700 cán bộ

hưu trí trung, cao cấp. Các cấp uỷ đảng, đoàn thể đã triển khai nghiêm túc và

hoàn thành sớm việc phổ biến, quán triệt Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ

thành phố và Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đến cán bộ, đảng viên và nhân

dân, tạo sự tin tưởng, phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân.

60

Sau Đại hội, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp và Trung

tâm giáo dục chính trị thành phố được củng cố một bước; các lực lượng làm

công tác tư tưởng hướng về cơ sở, tiến hành nhiều hình thức, phương pháp tư

tưởng để củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng bộ và sự đồng thuận

trong nhân dân. Trung tâm giáo dục chính trị thành phố đã mở 24 lớp bồi

dưỡng lý luận chính trị phổ thông; bồi dưỡng nghiệp vụ cho cấp uỷ viên, báo

cáo viên cơ sở cho trên 3.000 học viên; phối hợp với Phân viện Đà Nẵng -

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Trường Chính trị thành phố mở

5 lớp cao cấp, 5 lớp trung cấp chính trị cho 657 học viên.

BTV Thành uỷ đã mở hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện chủ trương đưa

đảng viên đương chức về sinh hoạt để giữ mối liên hệ thường xuyên với cấp uỷ

nơi cư trú; chỉ đạo sơ kết 2 năm thực hiện Chỉ thị 39-CT/TW của Bộ Chính trị

về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; chỉ đạo sắp xếp một bước các đảng uỷ khối

trực thuộc Thành uỷ; đồng thời tiến hành rà soát quy hoạch cán bộ thuộc diện

Thành uỷ quản lý; đề bạt, luân chuyển, bổ sung cán bộ chủ chốt của các cơ

quan, đơn vị thuộc thành phố. Thành ủy đã chỉ đạo mở được 28 lớp bồi dưỡng

đối tượng Đảng cho gần 3.400 quần chúng ưu tú. “Toàn Đảng bộ thành phố kết

nạp được 1.337 đảng viên mới, tăng 23,6% so với năm 2000, trong đó số đảng

viên có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 45,9%” [40, tr.8].

Năm 2001, Đảng bộ thành phố có 503 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc,

trong đó xã phường 47, khối doanh nghiệp Nhà nước 147, doanh nghiệp cổ

phần 16, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 5, đơn vị sự nghiệp 36, cơ

quan hành chính 189, quân đội 26, công an 35, cơ sở khác 2. Tổng số tổ chức

Đảng trực thuộc Đảng bộ cơ sở là 1.628 với 25.516 đảng viên. Kết quả đánh

giá phân loại tổ chức cơ sở Đảng năm 2001: “Trong sạch, vững mạnh: 408 cơ

sở Đảng, chiếm 82,3%. Hoàn thành nhiệm vụ: 84 cơ sở Đảng chiếm 12,90%;

Yếu kém: 4 cơ sở Đảng (0,80%)” [8, tr.97].

61

Kết quả phân loại đảng viên năm 2001: “Đảng viên đủ tư cách hoàn

thành tốt nhiệm vụ: 20.258 (89,40%). Đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm

vụ: 2.249 (9,9%). Đảng viên vi phạm tư cách: 149 (0,60%)” [8, tr.98].

Như vậy so với năm 2000, năm 2001 công tác xây dựng tổ chức cơ sở

Đảng trong sạch, vững mạnh đạt kết quả khá. Số đảng viên đạt tiêu chuẩn loại

I tăng hơn.

Công tác phát triển đảng viên mới được BTC, cấp ủy và các tổ chức cơ

sở Đảng trực thuộc quan tâm chú ý và thực hiện có hiệu quả. Số đảng viên

mới kết nạp đảm bảo số lượng, chất lượng và tăng cao hơn so với năm 2000.

Song song với công tác xây dựng, phát triển đảng, năm 2001, BTV

Thành uỷ đã tổ chức hội nghị quán triệt các quy định của TW về công tác

kiểm tra và kỷ luật trong Đảng; triển khai quy chế làm việc của UBKT TW

(khoá IX) và của UBKT Thành uỷ; thành lập Đoàn kiểm tra tiến hành kiểm

tra, đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TU của Thành ủy về

phương hướng, nhiệm vụ năm 2001 tại 7 đơn vị. Đi đôi với tăng cường công

tác kiểm tra của Thành uỷ, BTV Thành uỷ đã chỉ đạo tăng cường công tác

kiểm tra của các cấp uỷ và UBKT các cấp. Trong năm, “Uỷ ban kiểm tra các

cấp đã tiến hành kiểm tra 108 trường hợp đảng viên có dấu hiệu vi phạm, 11

tổ chức Đảng cấp dưới có dấu hiệu vi phạm; 385 tổ chức Đảng cấp dưới thực

hiện nhiệm vụ kiểm tra; kiểm tra việc thu nộp, quản lý, sử dụng đảng phí đối

với 461 tổ chức Đảng. Qua kiểm tra, cấp uỷ và UBKT các cấp đã xử lý kỷ

luật 88 đảng viên, trong đó khiển trách 44, cảnh cáo 40, cách chức 1, khai trừ

3. Ngoài ra UBKT các cấp đã tiếp nhận 28 đơn thư tố cáo và 1 đơn khiếu nại

kỷ luật Đảng, đã giải quyết xong 26 đơn tố cáo và 1 đơn khiếu nại” [40, tr.9].

Để thực hiện nghị quyết cấp trên, nhiệm vụ công tác Đảng năm 2002

được Thành ủy xác định với các nội dung: (1)- Hướng mạnh về cơ sở, đẩy

mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, tăng cường

giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối,

62

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là giáo dục về đạo đức

cách mạng; (2)- Tiếp tục kiện toàn bộ máy và cán bộ các cơ quan đảng, chính

quyền, đoàn thể, các cơ quan bảo vệ pháp luật và các đảng uỷ khối, xác định

chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, quyền hạn đi đôi với trách nhiệm. Làm tốt công

tác đào tạo, quy hoạch để khắc phục có hiệu quả tình trạng hụt hẫng cán bộ kế

cận; chú trọng cán bộ nữ, trẻ. Đổi mới và thực hiện đúng quy trình, quy chế

quản lý, đề bạt, đào tạo cán bộ; quản lý chặt chẽ việc chiêu sinh, mở lớp, đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ; (3)- Thực hiện nghiêm tinh thần Chỉ thị 37-CT/TW

của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, Quy định 75-QĐ/TW

của Bộ Chính trị và các hướng dẫn của TW trong việc đề bạt, bổ nhiệm và kết

nạp đảng viên mới. Tiến hành tổng kết NQ TW 8B (khoá VI) về đổi mới công

tác quần chúng của Đảng, Nghị quyết TW 3 (khoá VII), Nghị quyết TW 3 và

Nghị quyết TW7 (khoá VIII) về công tác tổ chức và cán bộ. Xây dựng hệ

thống chính trị cơ sở vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết TW 5 (khoá IX);

(4)- Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và hiệu quả hoạt động của

các cấp uỷ đảng, đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp uỷ cơ

sở phường, xã, địa bàn dân cư, các tổ chức kinh tế, các đơn vị liên doanh với

nước ngoài. Phát huy vai trò của tổ chức cơ sở Đảng trong việc quản lý, giáo

dục đảng viên. Rà soát, chấn chỉnh việc phân tích chất lượng đảng viên và

phân loại tổ chức cơ sở Đảng; phấn đấu năm 2002 có trên 70% tổ chức cơ sở

Đảng đạt trong sạch, vững mạnh một cách thực chất, hạn chế thấp nhất cơ sở

Đảng yếu kém; (5)- Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp uỷ và uỷ ban

kiểm tra các cấp. Thực hiện tốt chương trình công tác kiểm tra của cấp uỷ

năm 2002. Giải quyết tốt các đơn thư khiếu nại tố cáo của đảng viên theo qui

định mới của TW. Thực hiện nghiêm những quy định của TW về những điều

đảng viên không được làm [41, tr.11-12].

Công tác xây dựng cơ sở Đảng năm 2002 cũng được thành ủy chú trọng

theo. Kết quả phân loại đảng viên và cơ sở Đảng năm 2002 đạt kết quả cao.

63

Bảng 2.6: Phân loại chất lượng tổ chức cơ sở Đảng 4 năm 2001 - 2004

NĂM

2001 2002 2003 2004 NỘI DUNG

Tổng số Tỉ lệ % Tổng số Tỉ lệ % Tổng số Tỉ lệ % Tổng số Tỉ lệ %

1 2 3 4 5 6 7 8 9

503 509 515 524 Số TCCSĐ có đến cuối năm

496 502 508 509

1. Số TCCSĐ được đánh giá chất lượng

Kết quả đánh giá

sạch, 408 82,30 393 72,80 417 82,10 345 76,88 + Trong vững mạnh

Trong đó:

183 36,00 78 15,30

+ Trong sạch vững mạnh, tiêu biểu

thành 84 12,90 103 20,50 91 17,90 162 31,80 + Hoàn nhiệm vụ

+ Yếu kém 6 4 0,80 1,10 2 0,40

7 1,39 7 1,37 15 2,90

2. Số TCCSĐ chưa được đánh giá chất lượng

Trong đó:

+ Mới thành lập 6 2

Nguồn: Văn kiện Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng,

tr.97-98.

Qua số liệu thống kê phân tích chất lượng tổ chức cơ sở Đảng của

Thành ủy, số tổ chức cơ sở Đảng xếp loại trong sạch, vững mạnh luôn được

duy trì ở mức cao. Số tổ chức cơ sở Đảng yếu kém giảm.

64

Ngày 11/10/2003, để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác xây dựng tổ

chức cơ sở Đảng, BTV Thành ủy ra Hướng dẫn số 58-HD/TU Hướng dẫn

đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên năm 2003 [43]. Công tác

quy hoạch cán bộ, thường xuyên gửi đi đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ

chủ chốt đã góp phần quan trọng cho công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng

đạt kết quả cao.

Triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ thành phố lần thứ XVIII, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến

đấu tổ chức cơ sở Đảng, trong thời kỳ 2001 - 2006 công tác giáo dục chính trị,

tư tưởng được Đảng bộ thành phố đặc biệt coi trọng để củng cố, nâng cao

niềm tin, bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên,

trước hết là cán bộ chủ chốt. Thành ủy đã duy trì có nề nếp việc bồi dưỡng

các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, quán triệt sâu

sắc các chỉ dẫn của cấp trên và thành phố, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu

nước, tạo sự thống nhất ý chí và hành động, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

chính trị của Đảng bộ.

Năm 2003 Thành ủy đã chỉ đạo giải thể Trung tâm bồi dưỡng chính trị

thành phố, thành lập Trung tâm thông tin công tác tư tưởng trực thuộc Ban

tuyên giáo Thành ủy và các trung tâm bồi dưỡng chính trị các quận, huyện mở

228 lớp cho 27.434 lượt cán bộ là cấp ủy viên cơ sở, chi ủy viên, cán bộ chính

quyền, đoàn thể từ cấp cơ sở và dưới cơ sở bồi dưỡng lý luận chính trị,

chuyên môn nghiệp vụ, công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể nhằm nâng cao

năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở [46, tr.9].

Chế độ thông tin, báo cáo phục vụ công tác lãnh đạo được coi trọng.

Thông qua hội nghị giao ban định kỳ, hội nghị báo cáo viên, sổ tay chi bộ,

thông tin nội bộ... các chủ trương, chính sách của TW, của tỉnh và thành phố

đã được truyền tải đến tận cơ sở, giúp cho cấp ủy các chi, đảng bộ nắm được

yêu cầu nhiệm vụ công tác trong từng thời kỳ để vận dụng chỉ đạo sát hơn với

những vấn đề thực tiễn đặt ra ở cơ sở. Tuy công tác giáo dục chính trị tư

65

tưởng của các tổ chức cơ sở Đảng có tiến bộ, là một nội dung quan trọng để

xây dựng cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, nhưng còn một số cơ sở Đảng

chưa quan tâm đúng mức. Việc triển khai quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của

Đảng còn mang tính hình thức, chất lượng chưa cao. Năng lực và trình độ đội

ngũ báo cáo viên của nhiều cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều chỉ thị,

nghị quyết của Đảng, nhiều vấn đề có liên quan mật thiết đến đảng viên

không được phổ biến quán triệt, học tập đầy đủ, kịp thời do đó cán bộ đảng

viên kể cả cán bộ chủ chốt ở cơ sở chỉ nắm chung chung.

Đi đôi với việc đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, Đảng

bộ thành phố đã quan tâm chăm lo xây dựng, củng cố về tổ chức, bảo đảm nội

bộ đoàn kết, thống nhất, có sức chiến đấu cao. Nhiều tổ chức Đảng đã thực

hiện tốt vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Các cấp ủy Đảng đã chỉ đạo đẩy

mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với việc thực

hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Nhiều cấp ủy cơ sở đã làm tốt công tác quản lý

đảng viên, thông qua việc thực hiện các quy định của Bộ Chính trị về những

điều đảng viên không được làm; giới thiệu đảng viên đang công tác thường

xuyên giữ mối liên hệ với cấp ủy và hương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân

nơi cư trú, hầu hết đảng viên đã phát huy tốt tính tiên phong, gương mẫu, tích

cực vận động gia đình và nhân dân chấp hành đường lối chủ trương của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước, gương mẫu tham gia hoạt động ở khu dân

cư và các phong trào của địa phương. Dân chủ trong Đảng bộ được mở rộng,

kỷ luật được tăng cường. Tình trạng mất đoàn kết nội bộ ở một số cơ sở cơ

bản đã được khắc phục. Công tác nghiệp vụ quản lý đảng viên từ thành phố

đến cơ sở đã được thực hiện tốt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, bảo đảm quy

định, quy trình hướng dẫn của TW.

Nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các cấp uỷ đảng, nâng cao

chất lượng công tác quản lý đảng viên, BTV Thành uỷ đã chỉ đạo triển khai

Đề án 47 về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan

Đảng; triển khai dự án xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu đảng viên, Đảng bộ

66

thành phố đã tiến hành tổng kết Chỉ thị số 29-CT/TW Về công tác đổi thẻ

đảng viên của Ban Bí thư TW ngày 17/10/2003. “Tính đến tháng 12 năm

2005, Thành ủy đã hoàn thành việc đổi thẻ và phát thẻ cho 29.175 đảng viên,

đạt 99,83% số đảng viên chính thức” [45, tr.10]. Việc đổi thẻ được tiến hành

đúng quy định, đúng kế hoạch và được tổ chức trang trọng, có ý nghĩa giáo

dục, nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng. Ngoài ra, BTV

Thành ủy đã ban hành quy định về nhiệm vụ, nội dung hoạt động của chi bộ

khu dân cư, chi bộ thôn...

Công tác chuyển sinh hoạt Đảng từ cơ sở đến Thành ủy được thực hiện

theo đúng quy định của TW, duy trì thường xuyên việc kiểm tra công tác

quản lý hồ sơ đảng viên của các tổ chức cơ sở Đảng. Mặt công tác này đã

được các cấp ủy quan tâm bảo quản chu đáo và khoa học.

Thành ủy đã chỉ đạo sát so việc đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt

động của tổ chức cơ sở Đảng, trong đó quan tâm tới mô hình tổ chức chi bộ

dưới cơ sở theo địa bàn xóm, tổ dân phố. Đồng thời Thành ủy rất quan tâm

đến công tác xây dựng tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị xã hội trong các

doanh nghiệp tư nhân, qua đó góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện

của Đảng bộ.

Những bước chuyển biến quan trọng của công tác xây dựng và chỉnh

đốn tổ chức cơ sở Đảng có ý nghĩa rất lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ chính

trị trên địa bàn thành phố. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ

sở Đảng được nâng lên, thể hiện được vai trò hạt nhân chính trị lãnh đạo toàn

diện ở địa phương và cơ sở. Nghị quyết của các chi, đảng bộ đã được cụ thể

hóa và đề ra được các chủ trương, biện pháp sát hợp thực tế.

Thực hiện Nghị quyết TW 5 (Khóa IX) về kiện toàn mô hình các chi

bộ, Thành ủy đã chỉ đạo việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động và sắp

xếp lại tổ chức Đảng và các đoàn thể chính trị gắn liền với địa bàn xóm, tổ

dân phố. Trong 47 đảng bộ xã, phường tính đến tháng 9 năm 2005 có 56 tổ

chức cơ sở Đảng trong đó có 941/2.074 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng

67

bộ cơ sở, chiếm 45,90% với số lượng đảng viên là 13.918/30.467 chiếm

45,68%. Chất lượng sinh hoạt chi bộ xóm, tổ dân phố được Thành ủy chỉ đạo

cải tiến với nội dung thiết thực, sát với thực tế mà chi bộ cần phải tập trung

lãnh đạo. Công tác xây dựng tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị xã hội

trong doanh nghiệp tư nhân cũng được Thành ủy quan tâm và góp phần nâng

cao năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ.

Từ năm 2001 đến năm 2006, hàng năm có gần 70% tổng số tổ chức cơ

sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh, trong đó có trên 15% đạt trong sạch vững

mạnh tiêu biểu, không có tổ chức cơ sở Đảng yếu kém. Thành ủy đã quy định

cụ thể về nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ; nhiều nơi triển khai thực hiện

nghiêm túc, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy,

quan tâm chỉ đạo công tác phát triển đảng viên, nhất là trong trường học và

các khu dân cư. Nhiệm kỳ qua, toàn đảng bộ thành phố đã kết nạp được 7.114

đảng viên, trong đó có 2.869 nữ (40,32%), 3.834 có trình độ cao đẳng, đại học

trở lên (53,66%).

Các cấp ủy trong Đảng bộ thành phố đã coi trọng các biện pháp để đổi

mới nội dung, phương thức lãnh đạo. Đặc biệt là phương thức lãnh đạo của

cấp ủy cơ sở phân biệt rõ chức năng lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng với

chức năng quản lý nhà nước. Hầu hết các cấp ủy từ thành phố xuống cơ sở đã

xây dựng được quy chế làm việc của cấp ủy và lãnh đạo điều hành công việc

theo quy chế, quan tâm đổi mới quy trình chuẩn bị và ra nghị quyết, nâng cao

chất lượng các quyết định, nguyên tắc dân chủ được đề cao, nội dung sinh

hoạt cấp ủy, chi bộ, đảng bộ từng bước được đổi mới. Công tác lãnh đạo của

cấp ủy đảng, việc điều hành của chính quyền và hoạt động của các đoàn thể

đã có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, giúp cho quá trình tổ chức thực hiện

nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị đạt kết quả tốt.

Công tác giáo dục, quản lý và phân công công việc cho đảng viên, đặc

biệt là thực hiện Quy định 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị “đảng viên đang công

tác về giữ mối liên hệ và thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú” được Thành

68

ủy chỉ đạo, tổ chức triển khai trong toàn Đảng bộ. “Tính đến tháng 9 năm

2005 đã có 12.992/13.352 đảng viên đang công tác ở các cơ quan hành chính,

doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp được giới thiệu về chi ủy, đảng ủy

cơ sở nơi cư trú (đạt 97,30%)” [44, tr.4]. Qua đánh giá, việc tổ chức thực hiện

đã khẳng định vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chi bộ và bản thân đảng viên

đã nâng lên rõ rệt. Đảng viên được giới thiệu về sinh hoạt nơi cư trú đã phát

huy tốt tính tiên phong, gương mẫu, tích cực vận động gia đình chấp hành

đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, gương

mẫu thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”

cũng như các phong trào, các cuộc vận động ở địa phương.

Để tăng cường sức chiến đấu và nâng cao năng lực lãnh đạo, số lượng

và đặc biệt chất lượng của đội ngũ đảng viên là một nội dung quan trọng của

công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng. Công tác quản lý và nâng cao chất

lượng đảng viên đã được cấp ủy từ thành phố đến cơ sở coi trọng. Đặc biệt là

việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc sinh hoạt Đảng, phân công nhiệm vụ

cho đảng viên; thực hiện tự phê bình và phê bình. “Việc duy trì sinh hoạt

Đảng ở các cơ sở được thực hiện tương đối tốt, nhất là ở đảng bộ khối xã -

phường Đây cũng là nơi có số đảng viên đông, chiếm tới 45,68% số đảng viên

của Đảng bộ” [46, tr.2], tiếp đó là “chi đảng bộ cơ quan hành chính, đơn vị sự

nghiệp, doanh nghiệp nhà nước với số lượng đảng viên chiếm 43,80%” [46,

tr.2]. Nội dung sinh hoạt thiết thực hơn, đã bám sát nhiệm vụ chính trị cụ thể

của địa phương, đơn vị; tập trung lãnh đạo giải quyết những vấn đề búc xúc

ngay ở cơ sở. Việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng gắn với

những yêu cầu theo tinh thần NQTW 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng

chỉnh đốn Đảng đã được các cấp ủy quan tâm. Nhận thức về vị trí vai trò của

tổ chức Đảng, trách nhiệm của cấp ủy và đảng viên được nâng lên. Việc tự

phê bình và phê bình nghiêm túc làm cho nguyên tắc tổ chức Đảng được đề

cao, ý thức trách nhiệm, lề lối làm việc được chấn chỉnh, do được Thành ủy

chỉ đạo tiến hành thường xuyên, là cơ sở để thực hiện đánh giá phân loại đảng

69

viên hàng năm của chi, đảng bộ. Theo sự hướng dẫn của các cấp bộ Đảng cấp

trên và trực tiếp của Thành ủy, các tổ chức cơ sở Đảng thực hiện đúng các

nguyên tắc, nội dung để đánh giá, phân loại đội ngũ đảng viên. Điều đó có tác

dụng làm cho đảng viên luôn giữ được vai trò tiên phong gương mẫu trong

công tác, giữ vững được phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống.

Bảng 2.7: Phân loại chất lượng đảng viên 4 năm 2001 - 2004

NĂM

2001 2002 2003 2004 NỘI DUNG

Tổng số Tỉ lệ % Tổng số Tỉ lệ % Tổng số Tỉ lệ % Tổng số Tỉ lệ %

1 2 3 4 5 6 7 8 9

25.514 27.414 28.479 30.189

2.697 1.355 1.200 1.318

161 834 422 566

22.656 100 25.225 100 26.857 100 28.305 100

Đảng viên có mặt đến điểm thời đánh giá chất lượng Chia ra: + Đảng viên được miễn giá đánh chất lượng + Đảng viên được chưa đánh giá chất lượng + Đảng viên được đã giá đánh chất lượng Phân tích kết quả ĐV được đã đánh giá chất lượng

70

1 2 3 4 5 6 7 8 9

20.258 89,40 14.052 55,70 16.606 61,80 15.707 55,50

3.068 11,40 1.750 6,20

2.249 9,92 10.992 43,50 10.143 37,80 12.434 43,90

1.752 6,50 1.597 5,60

149 0,60 181 0,70 108 0,40 164 0,60

1. ĐV đủ tư hoàn cách tốt thành nhiệm vụ Trong đó: Đủ tư cách thành hoàn xuất sắc nhiệm vụ 2. ĐV đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ Trong đó: Đủ tư cách nhưng có mặt còn hạn chế 3. ĐV vi phạm tư cách

Nguồn: Văn kiện Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng,

tr.97-98

Trong 4 năm từ 2001 đến 2004, tỷ lệ đảng viên đủ tư cách, hoàn thành

nhiệm tốt nhiệm vụ chiếm 65,6% số đảng viên dự phân loại. “Số đảng viên

hoàn thành nhiệm vụ tăng, số đảng viên vi phạm tư cách giảm, năm 2001

chiếm 0,60%, đến năm 2004 chiếm 0,60%, trong đó năm 2003 là 0,40% ”

[46, tr.8].

Những thành tựu đạt được trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng

và nâng cao chất lượng đảng viên có ý nghĩa quan trọng. Tuy vậy, ở Đảng bộ

thành phố nhìn thẳng vào thực tế, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một

số tổ chức cơ sở Đảng còn yếu, chưa thể hiện rõ vai trò là hạt nhân chính trị ở

71

cơ sở. Có một số tổ chức cơ sở Đảng từ 3 đến 5 năm liền không đạt trong

sạch, vững mạnh. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên

hàng năm ở một số cơ cở chưa làm chặt chẽ, chưa phản ánh đúng thực tế ở cơ

sở. Còn tư tưởng chạy theo thành tích, nể nang, ngại va chạm. Sinh hoạt Đảng

ở một số chi, đảng bộ cơ sở chưa đều (nhất là các cơ sở Đảng trong doanh

nghiệp, cơ quan hành chính sự nghiệp). Ở phường, xã tuy sinh hoạt đều hơn,

song tỷ lệ đảng viên dự sinh hoạt còn thấp. Nội dung sinh hoạt cấp ủy, chi bộ

chậm đổi mới, ở nhiều nơi thuộc khối doanh nghiệp, cơ quan hành chính sự

nghiệp thậm chí còn lẫn lộn giữa nội dung sinh hoạt chi bộ với sinh hoạt

chuyên môn. Tinh thần tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng chưa

cao, việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên chưa rõ ràng. Tính lãnh đạo, tính

giáo dục và tính chiến đấu chưa được thể hiện rõ trong sinh hoạt chi bộ. Lãnh

đạo chủ chốt của cấp ủy nhất là trong doanh nghiệp, cơ quan hành chính sự

nghiệp chưa coi trọng công tác đảng, nặng về chuyên môn, còn có biểu hiện

coi nhẹ vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động

của tổ chức Đảng không được thực hiện nghiêm túc, nhất là nguyên tắc tập

trung dân chủ. Đây là những vấn đề hạn chế đang tồn tại đặt ra cho Đảng bộ

thành phố cần có sự khảo sát, phân tích, đánh giá đúng thực trạng một cách

nghiêm túc để từ đó đề ra những chủ trương, biện pháp khắc phục tình trạng

nêu trên trong thời gian sắp đến.

Công tác kiểm tra được Thành ủy chú trọng chỉ đạo các cơ sở Đảng

thực hiện nghiêm túc, đã góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị,

nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, tăng cường

đoàn kết thống nhất trong đảng bộ, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng, pháp luật

của Nhà nước, đảm bảo phương châm: công minh, chính xác, kịp thời. Ngay

từ đầu nhiệm kỳ, Thành ủy và UBKT các cấp đã xây dựng chương trình công

tác, tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cấp ủy và UBKT các cấp, đồng thời tổ

chức tốt các cuộc kiểm tra của cấp ủy về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các mục

72

tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, công tác xây dựng Đảng, xây dựng

hệ thống chính trị. Trong 6 năm từ 2001 đến 2006, BTV Thành ủy đã tổ chức

kiểm tra về thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, tại 18 đơn vị, 15 cuộc kiểm tra

về chấp hành Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước;

ngoài ra BTV Thành ủy đã thành lập các Đoàn kiểm tra để kiểm tra việc thực

hiện Kết luận Hội nghị TW 4 (khóa IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW

6 (lần 2) khóa VIII; kiểm tra tài chính đảng tại các đơn vị thụ hưởng ngân

sách Đảng; kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng,

Nghị quyết Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố giữa nhiệm kỳ. Thực

hiện Kế hoạch số 03, 04-KH/TW của Ban Bí thư TW, Kế hoạch 05-KH/TW

của Bộ Chính trị, BTV Thành ủy đã chỉ đạo các cấp ủy đảng tổ chức kiểm tra

và thành lập các Đoàn kiểm tra của Thành ủy kiểm tra việc thực hiện các Kết

luận của Ban Bí thư về các cuộc kiểm tra trong từng năm; kiểm tra việc thực

hành tiết kiệm, chống lãng phí; kiểm tra việc quản lý, sử dụng đất đai và các

công trình xây dựng cơ bản trên địa bàn thành phố. Đồng thời, BTV Thành uỷ

cũng đã chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy và ủy ban kiểm tra

các cấp, góp phần thực hiện nghiêm kỷ luật trong Đảng.

Từ năm 2001đến năm 2006, UBKT Thành ủy đã trực tiếp tổ chức kiểm

tra 526 đảng viên có dấu hiệu vi phạm; 65 tổ chức Đảng có dấu hiệu vi phạm;

2.661 tổ chức cơ sở Đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra; 3.065 tổ

chức Đảng về việc thu nộp, quản lý, sử dụng đảng phí; thi hành kỷ luật 4 tổ

chức Đảng và 650 đảng viên, trong đó khiển trách: 343, cảnh cáo: 242, cách

chức: 20, khai trừ: 45. Tiếp nhận 145 đơn thư tố cáo, 15 khiếu nại đối với tổ

chức và đảng viên. Đã tham mưu cho cấp ủy và trực tiếp giải quyết 141/145

đơn thư tố cáo (đạt 91,8%), 15/15 đơn khiếu nại (đạt 100%).

73

Bảng 2.8 : Tình hình thi hành kỷ luật đảng viên (2001 - 1005)

Hình thức xử lý kỷ luật Đảng viên do từng cấp quản lý Là cấp ủy viên các cấp

Năm

Khiển trách Cảnh cáo Cách chức Khai trừ Cấp TP Chi bộ Đảng ủy cơ sở Thành ủy viên Chi ủy viên

Tổng số đảng viên bị kỷ luật Huyện ủy viên và tương đương Đảng ủy viên cấp ủy viên Cấp quận, huyện và tương đương

3 4 5 6 7 9 10 11 12 13 14 2 1 8

42 42 1 3 31 50 1 6 10 88 2001 7

53 35 3 7 2 25 55 1 16 15 98 2002 16

60 33 5 1 20 49 4 20 15 99 2003 30

62 42 6 12 2 45 58 15 12 122 2004 17

59 44 3 17 5 30 66 6 12 14 123 2005 22

TS 40 9 420 331 32 151 278 1 11 69 66 868 92

Nguồn: Văn kiện Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, tr.96

74

Thời kỳ 2001-2006, công tác kiểm tra đã được các cấp ủy quan tâm,

nắm vững phương châm, phương pháp, nguyên tắc, thủ tục thi hành kỷ luật,

coi trọng công tác giáo dục phòng ngừa. Vì vậy số cán bộ, đảng viên ở cơ sở

vi phạm phải áp dụng hình thức kỷ luật giảm nhiều so với các năm trước đây.

Tình trạng mất đoàn kết, chia rẽ trong tổ chức Đảng được hạn chế, các đơn

thư tố cáo, khiếu nại, phản ánh của cán bộ, đảng viên và nhân dân được cấp

ủy quan tâm giải quyết khách quan, nghiêm túc đúng trình tự, cán bộ đảng

viên vi phạm đã được xử lý nghiêm theo đúng Điều lệ Đảng. Tuy nhiên, bên

cạnh những thành tựu trên, công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật của Đảng bộ

thành phố Đà Nẵng còn bộc lộ một số hạn chế, tồn tại như nhận thức của một

số cấp ủy cơ sở về công tác kiểm tra chưa đầy đủ, chưa coi công tác kiểm tra

là của cấp ủy nên còn tình trạng khoán trắng cho UBKT. Hoạt động của

UBKT ở một số cơ sở Đảng còn yếu, chưa chủ động tham mưu cho cấp ủy về

công tác kiểm tra, chưa nắm chắc phương châm, phương pháp thủ tục, nguyên

tắc khi tiến hành kiểm tra và thi hành kỷ luật Đảng.

Với sự tâm lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, của chính quyền các cấp, của

Mặt trận Tổ quốc, công tác dân vận từ năm 2001 đến năm 2006 đã đạt được

kết quả thiết thực và những chuyển biến rõ nét, góp phần giữ vững ổn định

chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo môi trường thuận lợi cho

phát triển kinh tế-xã hội. Ban Dân vận đã làm tốt công tác tham mưu cho cấp

ủy, chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những vấn đề liên quan

đến công tác vận động quần chúng, công tác tôn giáo, dân tộc, giải quyết

khiếu nại, tố cáo của công dân, những vụ việc bức xúc, ngăn chặn truyền đạo

trái phép, bài trừ mê tín dị đoan góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự

an toàn xã hội trên địa bàn thành phố. Việc thực hiện quy chế dân chủ đã phát

huy được tác dụng tích cực trong đời sống xã hội. Thành ủy đã tổ chức tổng

kết 12 năm thực hiện Nghị quyết TW 8b (Khóa VI) về đổi mới công tác vận

động quần chúng của Đảng; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 04 của Bộ

75

Chính trị (Khóa VII) về công tác thanh niên trong thời kỳ mới. Nhiều phong

trào thi đua yêu nước được các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực. Trong đó

nổi bật là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”;

phong trào “Cựu chiến binh gương mẫu”; phong trào thi đua “Lao động giỏi,

sáng tạo, tiết kiệm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao”, phong trào thi

đua “Sản xuất nông, lâm nghiệp giỏi”; phong trào “Thanh niên tình nguyện

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động

sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Hoạt động của Hội người cao tuổi,

Hội khuyến học, Hội luật gia, Hội chữ thập đỏ đã đáp ứng được nhu cầu hoạt

động đa dạng của các tầng lớp nhân dân, góp phần làm phong phú đời sống xã

hội trên địa bàn.

Công tác phát triển Đảng được Đảng bộ thành phố Đà Nẵng quan tâm

và xác định là nhiệm vụ thường xuyên, là nhu cầu tất yếu nhằm bổ sung sinh

lực, sự kế thừa và phát triển của Đảng, là một nội dung quan trọng nhằm tăng

cường và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.

Năm 2000, năm bản lề của thiên niên kỷ mới, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số

51-CT/TW (21/1/2000), trong đó nêu rõ: “Kết nạp đảng viên là một nhiệm vụ

quan trọng, thường xuyên, có tính quy luật trong công tác xây dựng Đảng,

nhằm tăng cường thêm sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát triển của

Đảng”. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (4/2001) cũng xác định: “Phát triển

đảng viên theo đúng tiêu chuẩn quy định, chú ý những người ưu tú trong công

nhân, trí thức, lao động thuộc các thành phần kinh tế, đoàn viên Đoàn Thanh

niên Cộng sản Hồ Chí Minh, những nơi còn ít, hoặc chưa có đảng viên” [12,

tr.143].

Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (4/2001) và Nghị quyết Đại

hội XVIII Đảng bộ thành phố (2/2001), các cấp uỷ Đảng từ thành phố đến cơ

sở đã xây dựng kế hoạch và những biện pháp thực hiện công tác phát triển

Đảng. Với phương châm coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, bảo

76

đảm chặt chẽ về tiêu chuẩn, nguyên tắc, công tác phát triển Đảng được hầu

hết các cơ sở coi trọng công tác tuyên truyền, bồi dưỡng, chính trị cho quần

chúng, có nhiều biện pháp tạo nguồn phát triển đảng viên, biểu hiện cụ thể là:

* Về tạo nguồn phát triển Đảng: Cấp uỷ từ thành phố xuống cơ sở đã

quan tâm chỉ đạo thường xuyên các tổ chức đoàn thể nhất là ĐTNCS Hồ Chí

Minh, tuyên truyền, giáo dục, thông qua các phong trào để giới thiệu quần

chúng về lịch sử và truyền thống cách mạng của Đảng, lựa chọn những quần

chúng tích cực, tự nguyện giới thiệu với Đảng bồi dưỡng kết nạp. Trung tâm

bồi dưỡng chính trị của các quận, huyện (được thành lập từ 2003) dưới sự chỉ

đạo của Thành uỷ, hàng năm đã xây dựng và tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng đối

tượng kết nạp Đảng với nhiều hình thức thích hợp như tập trung ở các quận,

huyện, tổ chức theo cụm, khu vực, trường Cao đẳng, Đại học,... thông qua đó

đã giúp quần chúng là đối tượng Đảng nhận thức tốt hơn về Đảng, có động cơ

đúng đắn và tự nguyện phấn đấu vào Đảng, góp phần tích cực đến chất lượng

kết nạp đảng viên mới.

* Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ và thực hiện các nguyên tắc, thủ tục,

hồ sơ được thực hiện tốt. Hàng năm, Thành uỷ đã tổ chức các lớp tập huấn

nghiệp vụ về công tác đảng viên và phát triển Đảng, hướng dẫn các cơ sở

Đảng thực hiện đúng các biểu mẫu, hồ sơ, thủ tục đã quy định của TW.

* Công tác xét duyệt kết nạp Đảng đã đảm bảo thời gian và đúng nguyên

tắc, thủ tục của TW. Chất lượng của đảng viên mới kết nạp được nâng cao, đã

chú trọng đến cơ cấu theo tinh thần phát triển Đảng của Nghị quyết Đại hội

Đảng các cấp. Thành uỷ đã giao nhiệm vụ tiếp tục bồi dưỡng đảng viên mới

cho các trung tâm bồi dưỡng chính trị các quận, huyện với những chuyên đề lý

luận gắn liền với thực tiễn tình hình địa phương, đất nước và thế giới.

* Đã rèn luyện và thử thách quần chúng ưu tú thông qua những hoạt

động và hành động thiết thực. Sau khi được tổ chức kết nạp tiếp tục được cấp

uỷ quan tâm và bồi dưỡng để phát huy năng lực và hoàn thiện phẩm chất

77

người đảng viên của đảng viên mới bằng việc phân công công tác cho đảng

viên mới phù hợp với đặc điểm nơi công tác và nơi cư trú.

Từ năm 2001 đến năm 2006, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã kết nạp

được 8.992 đảng viên, trong đó có 3.659 nữ (40,69%), 4.845 trình độ cao

đẳng, đại học trở lên (53,88%). Cơ cấu, chất lượng đảng viên mới có xu

hướng tăng.

Bảng 2.9: Trình độ học vấn phổ thông, chuyên môn đảng viên mới 2001 - 2005

NĂM

Tổng cộng 2001 2002 2003 2004

9 tháng 2005 6 3 2 5 1

4 1337 1444 1465 1527 1341 1337 1444 1465 1527 1341 7 7114 7114

1 84 54

1 109 45 74 1279 1359 1391 1473 1296 935 1107 1248 1298 1122 2 366 6746 5710

60 74 97 132 363

Đảng viên mới kết nạp 1. Trình độ học vấn phổ thông + Tiểu học + Trung học cơ sở + Trung học phổ thông 2. Trình độ chuyên môn kỹ thuật + Công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ + Trung học chuyên nghiệp + Cao đẳng + Đại học + Thạc sỹ + Tiến sỹ + Tiến sỹ khoa học 235 96 633 19 7 313 63 775 21 2 300 68 658 18 3 345 74 756 21 5 320 601 14

1513 301 3423 93 17 Nguồn: Thành ủy Đà Nẵng (12/2005), Văn kiện trình Đại hội đại biểu

Thành phố lần thứ XIX nhiệm kỳ 2006 - 2010, tr.95.

78

Bảng 2.10: Thống kê cơ cấu và chất lượng đảng viên mới 2001 - 9/2005

NĂM

DANH MỤC Tổng cộng 2001 2002 2003 2004

9 tháng 2005

1 2 3 4 5 6 7

Đảng viên mới kết nạp 1337 1444 1465 1527 1341 7114

Trong đó:

+ Kết nạp lại 2 3 3 8

552 590 571 630 526 2869 + Phụ nữ

+ Dân tộc ít người 1

+ Tôn giáo

+ Là đoàn viên TNCSHCM 616 499 771 507 674 3067

+ Cán bộ công chức Nhà nước 129 242 239 158 224 992

311 268 270 297 218 1364

+ Viên chức hoạt động sự nghiệp

+ Viên chức kinh doanh 61 198 150 198 343 950

+ CN, LĐ các thành phần KT 356 398 434 271 187 1646

+ Nông dân 80 91 97 75 5 348

+ Sỹ quan, chiến sỹ quân đội 36 94 92 48 95 365

+ Sinh viên, học sinh 14 19 38 21 45 137

Nguồn: Thành ủy Đà Nẵng (12/2005), Văn kiện trình Đại hội đại biểu

Thành phố lần thứ XIX nhiệm kỳ 2006 - 2010, tr. 94.

79

Bảng 2.11: Số lượng tổ chức cơ sở Đảng từ năm 2001 đến tháng 9 - 2005

NĂM

Tổng 9

cộng 2001 2002 2003 2004 tháng

2005

1 2 3 4 5 6 7

503 509 515 524 573 Tổng số TCCSĐ có đến cuối

kỳ

Trong đó

+ Số không còn quần chúng 23 23 21 25 29

+ Số TCCSĐ có kết nạp đv 337 353 332 334 307

Nguồn: Thành ủy Đà Nẵng (12/2005), Văn kiện trình Đại hội đại biểu

Thành phố lần thứ XIX nhiệm kỳ 2006 - 2010, tr.95.

Qua các bảng thống kê, có thể nhận thấy cơ cấu và chất lượng đảng

viên mới ở Đảng bộ thành phố đã theo đúng tinh thần của Nghị quyết các cấp

bộ Đảng và được vận dụng linh hoạt, đúng đắn về tiêu chuẩn, thành phần theo

đặc điểm địa phương. Công tác phát triển Đảng là nữ được chú trọng theo Chỉ

thị số 37-CT/TW của Ban Bí thư “Về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong

tình hình mới”, tính chung 6 năm 2001 - 2006 kết nạp được 3.659 /8.992 đảng

viên mới là nữ chiếm 40,69%, tăng 4,50% so với thời kỳ 1997-2000

(36,19%). “Nhiều đảng viên nữ, trong đó có đảng viên mới kết nạp đã được

bồi dưỡng, quy hoạch, cất nhắc, đề bạt nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng

trong các cơ quan Đảng, chính quyền và tổ chức đoàn thể của thành phố và đã

phát huy được tốt vai trò của mình” [8, tr.33].

Theo Nghị quyết 02/CQ-TU (1997) của BTV Thành uỷ “Về xây dựng

và củng cố tổ chức Đảng trong giáo dục - đào tạo đến năm 2000”, công tác

phát triển Đảng trong các trường học các cấp trên địa bàn thành phố những

80

năm gần đây đạt kết quả khả quan, khắc phục được cơ bản tình trạng “trắng”

đảng viên và chi bộ đảng cơ sở thời kỳ trước đó.

Theo chủ trương trẻ hoá và phát triển Đảng từ đội hậu bị là đoàn viên

thanh niên của Thành uỷ xác định: “Tổ chức Đoàn phải là nơi đào tạo để bổ

sung lực lượng đoàn viên ưu tú cho Đảng”, Thành uỷ giao nhiệm vụ cụ thể

cho các chi, đảng bộ cơ sở, coi việc bồi dưỡng kết nạp đảng viên mới trong

thanh niên là một trong những chỉ tiêu quan trọng của công tác xây dựng

Đảng. Dưới sự chỉ đạo đó của Thành uỷ, cấp uỷ cơ sở đã cụ thể hoá kế hoạch

bồi dưỡng, tạo điều kiện cho đoàn viên thanh niên rèn luyện, phấn đấu. Thông

qua hoạt động Đoàn, số đoàn viên ưu tú được chọn kết nạp Đảng hàng năm

đều tăng. Tính chung 6 năm kết nạp được 4.302/8.992 đảng viên mới là đoàn

viên, chiếm tỷ lệ 47,84%. Nhìn chung thời kỳ 2001-2006, đảng viên mới được

kết nạp hàng năm ở Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đều tăng về số lượng và chất

lượng, tuổi đời giảm xuống và được trẻ hoá.

Bảng 2.12: Tuổi đời đảng viên mới kết nạp 2001 - 2005

NĂM

DANH MỤC Tổng cộng 2001 2002 2003 2004

9 tháng 2005

1 2 3 4 5 6 7

Đảng viên mới kết nạp 1337 1444 1465 1527 1341 7114

470 587 684 750 643 3134 + 18 đến 30 tuổi

592 549 521 535 473 2670 + 31 đến 40 tuổi

265 280 241 234 211 1231 + 41 đến 50 tuổi

10 28 19 8 14 79 + 51 tuổi trở lên

Nguồn: Thành ủy Đà Nẵng (12/2005), Văn kiện trình Đại hội đại biểu

thành phố lần thứ XIX nhiệm kỳ 2006 - 2010, tr.95.

81

Bảng 2.13: Số lượng đảng viên 2001 - 2005

STT Loại cơ sở 2001 2002 2003 2004 2005

1 Xã 2239 2386 2539 2737 1997

2 Phường 9868 10201 10591 11761 11921

3 DN Nhà nước 6113 6692 6865 6878 7330

4 330 482 617 1059 1101 DN cổ phần

5 DN tư nhân 3 3

6 Công ty TNHH 4 17 18

7 C.ty cổ phần tư nhân 4

8 DN có vốn n.ngoài 34 37 39 40 39

9 Đ.vị sự nghiệp 1319 1553 2078 2273 2273

10 Cơ quan HC 3755 3855 3591 3667 3749

11 Quân đội 728 749 785 809 809

1084 1161 1198 1226 1226 12 Công an

46 13 Cơ sở khác

25516 27122 28305 30469 30467 Tổng số

Nguồn: Văn kiện Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng,

tr.98.

Đạt được những thành tựu trong công tác phát triển đảng là do những

nguyên nhân sau:

+ Về chủ quan: Các cấp uỷ Đảng từ thành phố xuống tổ chức cơ sở

Đảng đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác phát triển Đảng, do

vậy đã tích cực và làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng về

Đảng, kịp thời tiến hành kiểm điểm, rút kinh nghiệm và có kế hoạch cùng các

biện pháp cụ thể tạo nguồn phát triển Đảng. Thành uỷ cũng thường xuyên bổ

82

sung, hoàn thiện các biện pháp chỉ đạo và hướng dẫn các cơ sở Đảng thực

hiện mặt công tác này phù hợp với điều kiện, đặc điểm ở cơ sở, đồng thời

tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc các cơ sở tổ chức thực hiện.

+ Về khách quan: Những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện

đường lối do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đã củng cố niềm tin của cán bộ

đảng viên và quần chúng vào Đảng. Từ đó, quần chúng tự nguyện rèn luyện,

xác định rõ được mục tiêu phấn đấu vào Đảng.

Bên cạnh những thành tựu nêu trên, trong thời gian qua, công tác phát

triển Đảng ở Đảng bộ thành phố còn có hạn chế nhất định, thể hiện ở chỗ:

Một số cấp uỷ chưa quan tâm, chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, yêu cầu của

công tác phát triển Đảng, do vậy có những nơi có số lượng quần chúng đông

nhưng không kết nạp được đảng viên, chưa gắn phát triển Đảng với nhiệm vụ

xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng. Việc xét công nhận đảng viên chính

thức ở một số chi, đảng bộ cơ sở còn chậm, chưa đảm bảo thời gian quy định

của Điều lệ Đảng. Các kỹ thuật về nguyên tắc, thủ tục và quy định, biểu mẫu

trong hồ sơ kết nạp chưa được cấp uỷ cơ sở nắm vững do đó phải làm lại

nhiều lần.

Quán triệt các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết TW3 (Khóa

VIII), Nghị quyết Đại hội lần thứ IX về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước, Kết luận Hội nghị TW6 (Khóa IX) về công tác tổ chức

và cán bộ, Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ lãnh đạo

quản lý, các chỉ thị nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác tổ

chức, cán bộ; nhận thức của các cấp ủy ở Đảng bộ thành phố được nâng lên,

phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc có nhiều đổi mới thúc đẩy việc thực hiện

có hiệu quả nhiệm vụ công tác của các cấp ủy. Giai đoạn 2001-2005 là thời

quãng Đảng bộ thành phố triển khai tương đối toàn diện thực hiện Nghị quyết

Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố, triển khai thực hiện các các nghị

quyết của TW, của tỉnh, tổ chức cuộc bầu cử HĐND 3 cấp, đồng thời lãnh

83

đạo tiến hành đại hội nhiệm kỳ các cơ sở Đảng và Đại hội Đảng bộ thành phố

nhiệm kỳ XIX (2006 - 2010). Những nhiệm vụ trên liên quan trực tiếp đến

công tác cán bộ vì vậy đã được các cấp ủy đảng chỉ đạo chặt chẽ. Các văn bản

hướng dẫn về công tác quy hoạch đào tạo, nhận xét, đánh giá, luân chuyển, đề

bạt, bổ nhiệm cán bộ và về công tác nhân sự qua các kỳ đại hội Đảng, bầu cử

HĐND đã được cấp ủy cơ sở triển khai thực hiện nghiêm túc. Các phương án

nhân sự cán bộ chủ chốt qua đại hội nhiệm kỳ của Đảng, qua bầu cử HĐND

hầu hết đúng với chuẩn bị của cấp ủy. Đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cơ sở,

đặc biệt đối với các xã, phường đã từng bước được trẻ hóa, chất lượng cán bộ

được nâng lên so với nhiệm kỳ trước, tuổi bình quân cán bộ chủ chốt (Bí thư,

Phó bí thư, Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND) là 45 tuổi, số có trình độ

trung cấp trở lên chiếm 76,50%. Nhiều đồng chí trong diện quy hoạch đã

trưởng thành qua hoạt động thực tiễn và đang đảm nhiệm các vị trí chủ chốt ở

cơ sở. Việc bố trí cán bộ theo hướng kiêm nhiệm để thuận lợi cho công tác

lãnh đạo đã phát huy tác dụng tốt.

Những kết quả đạt được trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng

của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng thời kỳ 2001 - 2006 đã tác động tích cực và

hiệu quả đến việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương và cơ

sở. Thực hiện phương châm “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây

dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, công tác xây dựng, chỉnh trang đô thị được

coi là khâu đột phá”, từ Thành ủy đến các cơ sở Đảng trực thuộc đều quan

tâm đến nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, phấn

đấu hoàn thành toàn diện, vượt mức các mục tiêu kinh tế-xã hội, quốc phòng

an ninh được giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện. Công tác lãnh đạo,

chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền có nhiều tiến bộ. Năng lực, sức

chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm

vụ trong thời kỳ cách mạng mới. Tổ chức bộ máy chính quyền các cấp được

đổi mới theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các

84

đoàn thể nhân dân được nâng lên, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân

ngày càng được phát huy.

Vì vậy sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XVIII, Đảng bộ

cùng với nhân dân thành phố đã đạt được những thành tựu cụ thể sau:

Về phát triển kinh tế

- “Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của thành phố giai

đoạn 2001-2005 là 13%. Tính đến năm 2005, GDP tăng gấp 2,2 lần so với

năm 2000. GDP bình quân đầu người từ 6,91 triệu (2000) tăng lên 15,23 triệu

đồng/người/năm (2005), giá trị sản xuất công nghiệp tăng 20,10%/năm, giá trị

dịch vụ tăng 11,40%/năm, giá trị thủy sản - nông - lâm tăng bình quân

5,90%/năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng 17,50%/năm, qua 5 năm đã thu hút

được 50 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư 291,5 triệu USD,

nâng tổng số dự án là 79 với tổng vốn đầu tư là 506,4 triệu USD” [8, tr.87].

- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, đời sống vật chất

và tinh thần của nhân dân được ổn định và nâng cao. Với phương châm "đổi

đất lấy hạ tầng” và “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, bộ mặt đô thị thành

phố có nhiều khởi sắc, hạ tầng kỹ thuật từng bước phát triển theo hướng hiện

đại, bộ mặt nông thôn có những biến đổi rõ nét. Kết cấu hạ tầng, nhất là hệ

thống giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế… được đầu tư theo hướng

kiên cố hóa. Đã xuất hiện nhiều mô hình, nhân tố mới trong nông nghiệp và

phát triển nông thôn, góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát

triển ngành nghề, phân công lại lao động, giải quyết việc làm, xóa đói giảm

nghèo. “Trong 6 năm (2001 - 2006) đã tạo được việc làm cho 146.657 lao

động, đến hết năm 2006 hộ đói nghèo chiếm 7,54% trên tổng số hộ” [47, tr.5].

Về xây dựng cơ sở hạ tầng

- “Tiến trình đô thị hóa được đẩy mạnh, công tác quy hoạch, xây dựng

cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị được đặc biệt chú trọng. Tổng vốn đầu tư phát

85

triển nhanh qua các năm, ước đạt 23.912 tỷ đồng trong 5 năm (2001 - 2005),

tăng bình quân 28,20%/năm” [8, tr.20].

Về giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa - xã hội

- Toàn thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục bậc tiểu học và trung

học cơ sở đúng độ tuổi; đến nay đã có 47/56 xã phường đạt chuẩn phổ cập bậc

trung học. Thành phố có một số chính sách mang tính đột phá trong việc thu

hút chất xám, đào tạo nhân tài. Số lượng các trường trung học chuyên nghiệp

cũng tăng nhanh.

- Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, sức khỏe sinh sản, dân số

- kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ - chăm sóc - giáo dục trẻ em, vì sự tiến bộ của

phụ nữ… tiếp tục được triển khai có hiệu quả trên diện rộng. Việc chăm sóc

sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, xóa nhà tạm đã đạt những kết quả tốt.

- Các hoạt động văn hóa thấu suốt quan điểm kế thừa và phát huy bản

sắc dân tộc và địa phương gắn với yêu cầu hiện đại. Môi trường văn hóa

thành phố nhìn chung khá lành mạnh. Tiềm năng văn hóa cơ sở được tiếp tục

phát huy. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”

theo tinh thần Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) được quan tâm chỉ đạo, đạt hiệu

quả khá tốt. Hoạt động văn học - nghệ thuật tiếp tục có những chuyển biến tốt

và sôi động hơn, một số tác phẩm của các loại hình nghệ thuật đã được dư

luận đánh giá cao. Báo chí, xuất bản ngày càng cố gắng vươn lên đáp ứng yêu

cầu phát triển mới, xứng đáng với vai trò là tiếng nói của Đảng và chính

quyền, là diễn đàn của nhân dân.

*

* *

Năm 2006, đánh dấu mốc thời gian 10 năm Đà Nẵng trở thành đơn vị

hành chính trực thuộc TW. Trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của

Đảng, mặc dù còn những hạn chế, thành phố Đà Nẵng đã có bước phát triển

năng động, đạt được những thành quả to lớn đáng tự hào. Những thành quả đó

86

là kết tinh công sức, trí tuệ của quân và dân thành phố dưới sự lãnh đạo của

đảng bộ thời gian qua; đồng thời không tách rời những thành tựu to lớn rất

quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

- Quán triệt quan điểm “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây

dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, 10 năm qua, toàn Đảng bộ thành phố đã

đoàn kết, thống nhất, vừa tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, vừa chú

trọng công tác xây dựng Đảng. Các cấp ủy Đảng đã xây dựng Chương trình

hành động, thành lập Ban Chỉ đạo TW 6 (lần 2) và bộ phận chuyên trách nhằm

tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 6 (lần 2), Kết luận Hội nghị TW 4 và Nghị

quyết Hội nghị TW 9 (khóa IX), đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn

Đảng, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhũng nhiễu,

giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và các vụ việc nổi cộm, bức xúc.

- Công tác chính trị, tư tưởng được quán triệt là nhiệm vụ quan trọng

hàng đầu của Đảng bộ. Các cấp ủy coi trọng lãnh đạo công tác tư tưởng, triển

khai công tác tư tưởng qua nhiều kênh khác nhau, phù hợp với nhiều đối

tượng. Cán bộ chủ chốt các cấp chủ động nắm tình hình, thường xuyên đối

thoại với nhân dân, trực tiếp giải quyết những vướng mắc nảy sinh trong thực

tiễn. Đảng bộ chú trọng chăm lo công tác giáo dục tư tưởng chính trị, nghiên

cứu học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết thực tiễn, tuyên truyền, phổ biến

pháp luật, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao chất lượng

các đợt học tập quán triệt nghị quyết của Đảng.

- Công tác tổ chức có nhiều chuyển biến mới, tích cực. Thành ủy chú

trọng củng cố các ban tham mưu, sắp xếp lại các đảng ủy trực thuộc, kiện

toàn các cơ quan chuyên môn của chính quyền; điều chỉnh, bổ sung chức

năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính

trị; đặc biệt tập trung củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ

sở và dưới cơ sở, coi đây là khâu quan trọng trong việc xây dựng hệ thống

chính trị các cấp. Công tác cán bộ được quan tâm chỉ đạo và đạt được một số

87

kết quả. Đã chỉ đạo rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ; tăng cường công tác

đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ và thực hiện chính sách đối với cán

bộ; gần cuối nhiệm kỳ, công tác luân chuyển cán bộ có nhiều chuyển biến tích

cực. Hầu hết cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phường, xã đã được trẻ hóa; thành phố

đã hình thành quỹ lương cho cán bộ chuyên trách công tác đảng, mặt trận,

đoàn thể cơ sở.

- Công tác quản lý đảng viên và xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng

được chú trọng. Thành ủy đã chỉ đạo triển khai dự án xây dựng và quản lý cơ

sở dữ liệu đảng viên; tiến hành đổi và phát thẻ đảng viên theo tinh thần Chỉ

thị 29-CT/TW của Bộ Chính trị; đề ra quy chế khen thưởng tổ chức Đảng

trong sạch vững mạnh và đảng viên tiêu biểu hàng năm. Thành ủy chú trọng

củng cố các cơ sở Đảng yếu kém trong các doanh nghiệp, cơ quan hành chính,

sự nghiệp và phường, xã; lãnh đạo thực hiện đúng các quy định của TW về

chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng. Các tổ chức Đảng

thường xuyên đẩy mạnh tự phê bình, phê bình; đấu tranh chống tệ quan liêu,

tham nhũng, lãng phí, bước đầu tạo được một số chuyển biến ở các cấp, phát

huy vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở Đảng trên địa bàn dân cư.

Thành ủy đã quy định cụ thể về nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ; nhiều

nơi triển khai thực hiện nghiêm túc, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt

chi bộ, sinh hoạt cấp ủy, quan tâm chỉ đạo công tác phát triển đảng viên, nhất

là trong trường học và các khu dân cư.

- Công tác kiểm tra của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp được tăng

cường, nhất là kiểm tra việc chấp hành chủ trương, nghị quyết, Điều lệ Đảng;

chấp hành chính sách về quản lý tài chính, tài sản của các cấp ủy đảng và

những quy định về những điều đảng viên không được làm ; kiểm tra đảng

viên có dấu hiệu vi phạm và tổ chức Đảng cấp dưới về thực hiện nhiệm vụ

kiểm tra; giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo, khiếu nại; xử lý nghiêm minh

những cán bộ, đảng viên sai phạm, được dư luận đồng tình.

88

- Phương thức lãnh đạo của đảng bộ có nhiều đổi mới. Thành ủy không

những chỉ đề ra chủ trương mà còn chú trọng chỉ đạo tổ chức thực hiện, quan

tâm đến việc đề ra các giải pháp, lựa chọn các giải pháp đột phá, các khâu

trọng tâm, trọng điểm; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện

chủ trương, nghị quyết của Đảng. Trong tổ chức thực hiện, Thành ủy chú

trọng phân công, phân cấp rõ ràng, đề cao trách nhiệm cá nhân, chỉ đạo phối

hợp hoạt động giữa các cơ quan Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể. Lãnh

đạo thành phố luôn bám sát cơ sở, trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo việc tổ chức thực

hiện; đối thoại với quần chúng, với doanh nghiệp để tìm giải pháp tháo gỡ

khó khăn, tổ chức thực hiện bằng được chủ trương đã đề ra. Việc ứng dụng tin

học vào hoạt động của các cơ quan Đảng đạt được những kết quả bước đầu,

góp phần đổi mới lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả công tác.

Đây là những tiền đề rất quan trọng để Đảng bộ và nhân dân thành phố

vững vàng bước vào thời kỳ phát triển mới với niềm tin thắng lợi mới.

Những thành tựu nói trên có nguyên nhân quan trọng từ quá trình Đảng

bộ thành phố xác định rõ công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng là then chốt.

Từ năm 1997 đến năm 2006, từ Thành ủy đến các cơ sở Đảng không ngừng

chăm lo mặt công tác này làm nền tảng, cơ sở để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

chính trị, kinh tế-xã hội dược giao. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được

của 15 năm xây dựng, củng cố và đổi mới xây dựng cơ sở Đảng, bước vào

thiên kỷ mới, đáp ứng thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, công tác xây

dựng tổ chức cơ sở Đảng thời kỳ 1997 - 2006 được Đảng bộ thành phố tập

trung vào những nội dung giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng chính trị quy hoạch

và đào tạo cán bộ, chấn chỉnh công tác và sinh hoạt chi bộ, nâng cao sức

chiến đấu tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt. Trong công tác tổ chức,

trên cơ sở nghị quyết của Đảng bộ cấp trên, Đảng bộ thành phố cụ thể là BCH

và BTV Thành ủy thường xuyên ra các nghị quyết, chuyên đề về công tác xây

dựng Đảng, hướng dẫn các chi, đảng bộ cơ sở phấn đấu thực hiện. Công tác

89

sắp xếp, chuyển giao và củng cố cơ sở Đảng được Đảng bộ thành phố hết sức

quan tâm. Việc sắp xếp chi, đảng bộ theo địa bàn dân cư và nhiệm vụ công

tác đã đi vào ổn định, nhân sự cấp ủy được nâng cao chất lượng là hạt nhân

giữ vững và phát huy sức mạnh đoàn kết ở cơ sở. Nhờ vậy năng lực lãnh đạo

và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng được nâng lên, giữ vững và phát huy

được vị trí hạt nhân, vai trò lãnh đạo toàn diện ở cơ sở, địa phương và lĩnh

vực công tác.

Một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng cơ sở Đảng được

Đảng bộ thành phố thực hiện rất hiệu quả đó là bồi dưỡng đội ngũ đảng viên

và phát triển Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, Trung tâm giáo dục chính

trị tại các quận huyện đã mở rất nhiều lớp bồi dưỡng chính trị và chuyên môn

cho cán bộ, đảng viên, Ban Tuyên giáo cho tổ chức nhiều hội nghị và phát

hành đầy đủ thông tin tuyên truyền. Thời kỳ 1997 - 2006 Đảng bộ thành phố

đã kết nạp được nhiều đảng viên nhất trong cả 20 năm đổi mới (1986 - 2006).

Đáng chú ý là đội ngũ đảng viên mới rất trẻ, có năng lực, trình độ chuyên

môn và nhiệt tình trong công tác, đáp ứng được yêu cầu phát triển mới của địa

phương và đất nước.

Bên cạnh hoạt động xây dựng cơ sở Đảng, Đảng bộ thành phố còn chú

trọng đến việc giữ vững kỷ luật. Công tác kiểm tra, giám sát, giải quyết đơn

thư tố cáo được thực hiện kịp thời, nghiêm túc, công minh từ thành xuống cơ

sở. Công tác kỷ luật nghiêm, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử

thoái hóa, biến chất... đã góp phần làm trong sạch đội ngũ, gây niềm tin tưởng

trong quần chúng nhân dân.

Tuy vậy, công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Đảng bộ thành phố

còn một số hạn chế.

- Một số tổ chức Đảng chưa chú trọng đúng mức công tác xây dựng

Đảng; chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng chưa ngang tầm với yêu

90

cầu nhiệm vụ then chốt. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa tạo

được chuyển biến cơ bản, vững chắc.

- Công tác chính trị tư tưởng chưa thật chủ động, nhạy bén nắm bắt tình

hình; còn thiếu những biện pháp cụ thể và có hiệu quả trong việc giáo dục lý

tưởng cách mạng, phẩm chất, đạo đức, lối sống trong điều kiện hiện nay. Một

bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thật sự gương mẫu chấp hành chủ trương,

nghị quyết của Đảng; chưa tự giác rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống; tự

phê bình và phê bình yếu. Các biểu hiện tư tưởng chạy theo thành tích, nể

nang, xuê xoa, ngại va chạm trong sinh hoạt Đảng chưa được đấu tranh phê

phán mạnh mẽ, kiên quyết, thường xuyên; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,

nhũng nhiễu chưa đuợc ngăn chặn và đẩy lùi.

- Công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều mặt bất cập so với yêu cầu. Đội

ngũ cán bộ, công chức thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu

phát triển trong thời kỳ mới. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn liền với

công tác quy hoạch, sử dụng cán bộ; chậm triển khai thực hiện công tác luân

chuyển cán bộ; thiếu giải pháp đột phá trong việc phát hiện, đào tạo cán bộ

lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Chất lượng sinh hoạt cấp

ủy, sinh hoạt chi bộ chưa được nâng cao, chưa bảo đảm 3 tính chất theo quy

định (tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu); còn nhiều tổ chức cơ sở

Đảng chưa phát triển được đảng viên mới.

- Công tác kiểm tra của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp chưa được

tiến hành thường xuyên, hiệu quả một số cuộc kiểm tra chưa cao. Một số tổ

chức Đảng có biểu hiện bao che, giấu giếm vi phạm vì sợ ảnh hưởng thành

tích của đơn vị, sợ mất cán bộ.

- Việc tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết còn yếu, nhiều cơ sở đề

ra chủ trương còn chung chung, thiếu biện pháp cụ thể; thiếu kiểm tra, đôn

đốc thường xuyên.

91

Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quyết tâm của Đảng bộ và

nhân dân thành phố, Đà Nẵng đã và đang ngày càng phát triển toàn diện,

xứng đáng với vị thế là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội của

miền Trung cũng như của cả nước.

92

Bảng: 2.14. Số lượng tổ chức cơ sở Đảng (2001 - 2005)

Tổng số TS TC CS Đảng Phường Xã

Công an Quân đội DN N.Nước

Cơ quan HC Trong đó CT C.t.y TNHH CP TN

Cơ sở khác 2 ĐVSN DN vốn NN 5 36 503 35 26 189 DN tư nhân DN cổ phần 16 147 33 14

TSTC CS Đảng

2001 1628 63 55 218 118 15 489 516 154

TSTC Đảng trực thuộc ĐBCS

509 35 26 182 43 5 1 21 149 33 14

TSTC CS Đảng

2002 1685 68 55 217 129 32 485 533 166

TSTC Đảng trực thuộc ĐBCS

93

515 35 26 175 67 4 1 27 133 33 14

TSTCCS Đảng

1821 68 67 234 160 37 513 571 171

2003

524 35 26 174 67 4 4 1 36 130 33 14

TSTC Đảng trực thuộc ĐBCS TSTCCS Đảng

2004 2020 70 68 242 157 70 519 718 176

542 36 27 162 67 4 4 1 36 149 45 11

TSTC Đảng trực thuộc ĐBCS TSTC CS Đảng

2074 73 71 242 157 70 5220 804 137

2005

TSTC Đảng trực thuộc ĐBCS

Nguồn: Văn kiện ĐHĐB Thành phố Đà Nẵng lần thứ XIX nhiệm kỳ 2006-2010, ĐN 12/2005, tr.94

94

Chương 3

NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

3.1. Nhận xét chung

3.1.1. Những thành tựu cơ bản

Những thành tích đạt được trong thời kỳ đổi mới của Đảng bộ thành

phố Đà Nẵng trong công tác lãnh đạo các nhiệm vụ chiến lược của Đảng gắn

liền với quá trình không ngừng xây dựng Đảng bộ vững mạnh về mọi mặt,

trong đó đặc biệt nhấn mạnh công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong

sạch vững mạnh, bảo đảm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được

thực hiện với kết quả cao nhất.

Sau khi trở thành thành phố trực thuộc TW, từ năm 1997 đến năm

2006, công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Thành Đảng bộ Đà Nẵng có

những chuyến biến rõ nét, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của

cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên, tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh

là một nhân tố quyết định bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của

Đảng, nhiệm vụ chính trị của địa phương. Từ năm 1997 đến năm 2006, công

tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng đã thu

được một số thành tựu quan trọng.

Thứ nhất, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã không ngừng đổi mới nhận

thức về công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, coi việc nâng cao chất lượng

tổ chức cơ sở Đảng là kết quả của việc nâng cao chất lượng của công tác giáo

dục chính trị, tư tưởng.

Công tác xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng là những vấn đề

hết sức quan trọng đối với một Đảng cầm quyền. Công tác giáo dục chính trị

tư tưởng được Đảng bộ thành phố từ Thành ủy xuống các tổ chức cơ sở Đảng

thực hiện nghiêm túc, thể hiện tính Đảng, tính cách mạng, kịp thời thông tin,

tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

95

nước đến đảng viên và quần chúng nhân dân. Các chương trình giáo dục sơ,

trung cấp lý luận được Thành ủy giao cho Trung tâm giáo dục chính trị các

quận, huyện đảm nhiệm và bồi dưỡng thêm kiến thức quản lý, nghiệp vụ công

tác Đảng và kiên thức chuyên môn. Điều đó góp phần nâng cao chất lượng

đội ngũ cán bộ đảng viên thành phố. Đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế

được Đảng bộ thành phố thực hiện có hiệu quả nhằm tháo gỡ và giải quyết

những khó khăn do khủng hoảng kinh tế - xã hội gây ra. Trải qua 10 năm,

công tác tư tưởng đã góp phần khẳng định và nâng cao nhận thức về chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về CNXH và con đường đi lên

CNXH và vai trò lãnh đạo của Đảng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng

cao niềm tin của cán bộ, đảng viên trong quần chúng. Đặc biệt, quan điểm

“phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then

chốt” được quán triệt và thực thi thiết thực trong toàn Đảng bộ thành phố.

Đảng bộ hết sức coi trọng sinh hoạt của các chi đảng bộ. Nội dung sinh hoạt

đã khắc phục tình trạng giáo điều, sơ cứng của giai đoạn trước. Nội dung sinh

hoạt chi bộ được chuẩn bị kỹ, phong phú về nội dung và bàn bạc những vấn

đề thiết thực và cần thiết theo phương châm “Dân cần gì, Đảng bàn việc đó” .

Thông qua sinh hoạt trong Đảng để giáo dục chính trị tư tưởng cho đảng viên,

khắc phục những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do vô tổ chức,

bệnh quan liêu mệnh lệnh, tham nhũng, xa rời quần chúng. Nguyên tắc tập

trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt tư tưởng được thực

hiện và tôn trọng ở các tổ chức cơ sở Đảng thành phố. Điều đó có tác dụng

thống nhất ý chí và hành động từ cơ sở Đảng đến toàn Đảng bộ thành phố và

góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị địa phương, cơ sở.

Thứ hai, các tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ thành phố Đà

Nẵng đã được xác lập, củng cố và nâng cao vị trí hạt nhân chính trị, vai trò

lãnh đạo toàn diện cơ sở.

96

Trong 4 năm đầu sau khi tách ra khỏi tỉnh Quảng Nam (1997 - 2000),

Đảng bộ thành phố luôn có trên 2,5 vạn đảng viên sinh hoạt tại 496 tổ chức cơ

sở Đảng với đủ các loại hình. Sự phân bố đảng viên không đều, quá đông

hoặc quá ít. Số cơ sở Đảng vững mạnh chiếm tỷ lệ 73,30%. Tỷ lệ yếu kém

chiếm 2,15%, nhiều cơ sở nội bộ mất đoàn kết, làm ảnh hưởng lớn đến vai trò

lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.

Giai đoạn từ năm 2001 đến 2006, tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây

dựng chỉnh đốn Đảng qua các nghị quyết TW5 (Khóa VI), TW3 (Khóa VII),

TW 6 lần 2 (Khóa VIII) của TW, Nghị quyết lần thứ XVIII, XIX Đảng bộ

tthành phố Đà Nẵng, công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững

mạnh của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đạt được kết quả khả quan đáng khích

lệ: từ năm 2001 đến tháng 9 năm 2005 tổng số tổ chức cơ sở Đảng từ 503

tăng lên 573, tổng số tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ cơ sở từ 1.628

năm 2001 tăng lên 2.074 năm 2005. Vị trí hạt nhân, vai trò lãnh đạo của các

tổ chức cơ sở Đảng được xác lập, củng cố và sức chiến đấu được nâng cao. Số

chi đảng bộ cơ sở trong sạch vững mạnh tăng lên hàng năm và chiếm đại đa

số. Số chi đảng bộ cơ sở yếu kém thu hẹp và giảm xuống mức thấp nhất. Đến

năm 2005 không còn cơ sở Đảng nào bị xếp loại yếu. Đồng thời dưới sự chỉ

đạo sát sao của Thành uỷ, những cơ sở yếu trước kia nay đã vươn lên khá,

vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước.

Chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng là một yếu tố quan trọng tạo nên

sức mạnh của Đảng và uy tín của Đảng trước quần chúng nhân dân. Nhận

thức vai trò hạt nhân lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng, dưới có mạnh trên mới

chắc, Thành uỷ đã sắp xếp kiện toàn loại hình cơ sở Đảng cho phù hợp yêu

cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, chủ yếu là xây dựng chi bộ theo

địa bàn dân cư (thôn, xóm, tổ, khối phối) và đặc điểm công tác. Cho đến hiện

tại, loại hình chi bộ đảng sinh hoạt theo địa bàn dân cư là phù hợp, phát huy

97

được vai trò lãnh đạo cơ sở, quản lý đảng viên và thực hiện có hiệu quả nhiệm

vụ công tác được giao.

Công tác dân vận được Thành ủy chỉ đạo các tổ chức cơ sở Đảng và

đảng viên làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tập trung lãnh

đạo, chỉ đạo giải quyết những vấn đề liên quan đến công tác vận động quần

chúng, công tác tôn giáo, dân tộc, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân,

những vụ việc bức xúc, ngăn chặn truyền đạo trái phép, bài trừ mê tín dị đoan

góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành

phố. Những phong trào thi đua yêu nước trong hơn 10 năm sau khi tách tỉnh

là những minh chứng rõ nét vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng.

Thứ ba, công tác phát triển Đảng của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã

có chuyển biến tích cực về số lượng và chất lượng.

Phát triển Đảng là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, có tính quy

luật trong công tác xây dựng Đảng, nhằm tăng cường thêm sức chiến đấu và

bảo đảm sự kế thừa, phát triển của Đảng.

Từ năm 1997 đến năm 2000, đội ngũ đảng viên của Đảng bộ thành phố

có độ tuổi tương đối cao. Do vậy, để đảm bảo sự kế thừa và phát triển, Thành

ủy đã giao nhiệm vụ phát triển Đảng cụ thể cho cấp ủy và đảng viên cơ sở

Đảng là: phải lên nguồn tuyển chọn quần chúng tiêu biểu, mở ngay lớp bồi

dưỡng, phân công đảng viên làm công tác tuyên truyền, giác ngộ, rèn luyện

quần chúng cảm tình, bồi dưỡng cho Bí thư cơ sở và chi bộ biết làm công tác

phát triển Đảng. Mặc dù rất cố gắng nhưng Đảng bộ thành phố mới kết nạp

được hơn 4.028 đảng viên mới, nhưng còn hơn 30% cơ sở Đảng thực hiện

không tốt phát triển Đảng.

Bước sang thời kỳ từ năm 2001 đến năm 2006, Thành uỷ rất quan tâm

đến công tác phát triển Đảng, coi đó là một trong những nội dung để đánh giá

chất lượng đổi mới và chỉnh đốn tổ chức, nâng cao sức chiến đấu và năng lực

lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng. Bằng những chủ trương, biện pháp và cách

98

thức tổ chức thực hiện sát hợp với thực tiễn từng loại hình cơ sở, công tác

phát triển Đảng đạt được những thành tựu tốt hơn trước. Phương châm “cốt

tinh bất cốt đa”, “chất lượng hơn số lượng”, do vậy thời kỳ 2001 - 2006, Đảng

bộ thành phố kết nạp được 8.992 đảng viên mới. Đặc biệt trong giai đoạn này,

với phương châm “coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, bảo đảm

chặt chẽ về tiêu chuẩn, nguyên tắc”, công tác phát triển Đảng được hầu hết tổ

chức cơ sở Đảng coi trọng và có nhiều biện pháp thực hiện. 10 năm từ 1997

đến 2006, Đảng bộ thành phố đã kết nạp được 13.020 đảng viên mới, độ tuổi

bình quân là hơn 30 tuổi, đoàn viên chiếm trên 45% Phát triển Đảng được

Đảng bộ thực hiện theo đúng tiêu chuẩn và hướng dẫn của TW, kết hợp với

đặc điểm địa phương. Đáng chú ý là thời kỳ 1997 - 2006, đảng viên mới kết

nạp không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng được nâng cao rõ rệt về trình

độ văn hóa, chuyên môn, được trẻ hóa, đa số là Đoàn viên thanh niên, tăng

cường kết nạp đảng viên nữ. Đảng viên mới đã được phân công công tác, phát

huy được vai trò tiên phong trong công tác, đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ

đi sâu vào đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Thứ tư, đi đôi chăm lo phát triển Đảng viên mới, công tác xây dựng

chất lượng đội ngũ đảng viên được Đảng bộ thành phố Đà Nẵng quan tâm chỉ

đạo và đạt kết quả khá tốt.

Thời kỳ 1997 - 2000, đội ngũ đảng viên của Đảng bộ thành phố trình

độ văn hóa và chuyên môn hạn chế đã ảnh hưởng không tốt đến việc thực

hiện các mặt công tác theo yêu cầu phát triển mới. Mặc dù Thành ủy rất cố

gắng và có nhiều chương trình thực hiện từng bước nâng cao, nhưng chất

lượng đội ngũ đảng viên chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, gần 40% số

đảng viên trong toàn Đảng bộ thành phố chưa phát huy tác dụng toàn diện.

Bước sang thời kỳ 2001 - 2006, việc bồi dưỡng và nâng cao chất lượng

đội ngũ đảng viên được Đảng bộ thành phố xác định là một nội dung quan

trọng, nhiệm vụ hàng đầu trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong

99

sạch, vững mạnh. Nâng cao chất lượng đảng viên được Thành ủy xác định là

phải căn cứ vào tiêu chuẩn và nhiệm vụ của đảng viên để đánh giá, xếp loại.

Công tác chăm lo chỉnh đốn đội ngũ đảng viên được chú trọng, phương châm

đảng viên "Lời nói đi đôi với việc làm", "Nói và làm theo Nghị quyết" đã

được quán triệt sâu sắc trong nhận thức và hành động của đảng viên. Đảng

viên hoàn thành nhiệm vụ có xu hướng tăng lên từng năm và có nhiều sự thay

đổi theo hướng tích cực.

Thứ năm, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh là nhiệm vụ then

chốt thì công tác cán bộ là then chốt. Đội ngũ cán bộ của Đảng bộ thành phố

Đà Nẵng đã từng bước được kiện toàn, chất lượng được nâng cao, đáp ứng

yêu cầu của thời kỳ mới.

Cán bộ là vấn đề cực kỳ quan trọng, có vai trò to lớn thúc đẩy hoặc kìm

hãm tiến trình cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: Cán bộ là cái

dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ

dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người mang chính

sách của chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì

dù chính sách hay cũng không thể thực hiện được.

Chính vì vậy, sau 10 năm trở thành thành phố trực thuộc TW, công tác

đánh giá và đào tạo cán bộ được Thành uỷ chỉ đạo đem lại hiệu quả cao, theo

phương châm “từ việc mà xếp người”. Thành uỷ đã khảo sát, lựa chọn quy

hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ qua trường lớp và thực tế, đề bạt và luân

chuyển cán bộ chủ chốt cơ sở Đảng, chỉ đạo các cấp uỷ thực hiện nghiêm túc

tổ chức sinh hoạt Đảng trực tiếp và thống nhất lãnh đạo, quản lý đội ngũ cán

bộ, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình đánh giá tuyển

chọn bố trí sắp xếp cán bộ. Lấy hiệu quả công tác làm thước đo đánh giá cán

bộ, kịp thời biểu dương khen thưởng cơ sở Đảng và đảng viên có thành tích,

không ngừng nâng cao nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng, quản lý kinh tế và

100

quản lý Nhà nước cho cán bộ cơ sở nhất là các đồng chí giữ cương vị chủ

chốt (Bí thư, giám đốc, thủ trưởng).

Đội ngũ cán bộ từng bước trẻ hóa. Độ tuổi bình quân của cán bộ chủ

chốt (Bí thư, Phó Bí thư, chủ tịch HĐND, UBND) thời kỳ 1997 - 2000 là 47.

Thời kỳ 2001 - 2006 giảm xuống còn là 42. Chất lượng cán bộ được nâng lên

theo từng nhiệm kỳ. Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân

phụ trách được phân định rõ. Những cố gắng nêu trên của Thành ủy đã tạo ra

sự thống nhất, đồng bộ trong công tác lãnh đạo ngay tại địa phương, cơ sở.

Công tác kiện toàn cấp uỷ và nhất thể hóa Bí thư kiêm cấp trưởng, phó

đơn vị được Thành ủy chỉ đạo thực hiên, đã có tác động trực tiếp đến sức

mạnh của tổ chức cơ sở Đảng. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ

chức cơ sở Đảng được nâng lên một bước, đội ngũ cán bộ đảng viên gương

mẫu được quần chúng tin yêu tín nhiệm. Nhờ vậy công tác vận động quần

chúng tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao đạt kết quả cao.

Thứ sáu, công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ thành phố Đà Nẵng

được quan tâm từ Thành ủy xuống cơ sở, góp phần quan trọng vào hoàn thành

nhiệm vụ xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng và làm trong sạch đội ngũ

đảng viên thành phố.

Thông qua kiểm tra đã kịp thời phát hiện những biểu hiện lệch lạc,

thoái hóa, biến chất, đấu tranh với những sai trái và kiên quyết xử lý kỷ luật

đảng viên vi phạm điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Các đơn thư tố cáo

đảng viên và tổ chức Đảng được Thành ủy và UBKT tiến hành điều tra thận

trọng, làm rõ và thông báo công khai kết luận để minh oan hoặc đủ cơ sở xử

lý. Phương châm kiểm tra là công minh, chính xác, kịp thời, thận trọng, dân

chủ, đúng người, đúng bản chất sự việc. Kết quả kiểm tra và giải quyết đơn

thư tố cáo đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ thành phố đã góp

phần giáo dục, loại bỏ những phần tử thoái hóa, biên chất. Điều đó làm trong

sạch hàng ngũ chiến đấu của cơ sở Đảng, mang lại niềm tin tưởng của quần

101

chúng nhân dân vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đi sâu vào KTTT định

hướng XHCN, nhiều tiêu cực nảy sinh trong đảng viên và tổ chức Đảng trực

thuộc Đảng bộ thành phố. Những vi phạm đảng viên mắc phải rất nhiều ở

tham ô, lãnh phí, quan liêu… Đó là những tệ nạn đáng phê phán ở Đảng bộ

thành phố và là một trong bốn nguy cơ đe dọa chế độ XHCN mà nhân dân ta

đang xây dựng.

* Để đạt được những thành tựu trên là:

- Nhờ có đường lối đổi mới của Đảng, định hướng đúng đắn của các

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, các Nghị quyết

Hội nghị TW, các Chỉ thị của Ban Bí thư, Bộ Chính trị về công tác xây dựng

chỉnh đốn Đảng.

- Đảng bộ thành phố, cũng như các tổ chức cơ sở Đảng cấp dưới quán

triệt, nắm vững quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng, đã căn cứ vào chức năng

nhiệm vụ cụ thể của tổ chức Đảng, phù hợp với đặc điểm địa phương cơ sở

mà cụ thể hoá thành hành động.

- Đảng bộ thành phố là một Đảng bộ có truyền thống cách mạng, có ý

thức Đảng cao nên các cấp uỷ Đảng và toàn Đảng bộ đều nhận thức được

công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng là một lĩnh vực công tác quan trọng

của Đảng. Nắm vững phương châm "Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng là nhiệm

vụ then chốt thường xuyên" của Đảng, BTV Tỉnh uỷ và trực tiếp là Thành uỷ

đã chủ động đề ra các chủ trương biện pháp xây dựng và củng cố tổ chức cơ

sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, tích cực chỉ đạo thực hiện

nghiêm túc công tác này thể hiện qua các nghị quyết, quy định, hướng dẫn và

tổ chức triển khai.

- Đội ngũ cán bộ đảng viên và cấp uỷ từ thành đến cơ sở đoàn kết dân

chủ, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, vững vàng về chính trị tư

tưởng, kiên định đường lối lập trường giai cấp, trình độ chuyên môn năng lực

thực tiến, vai trò lãnh đạo cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình

102

mới, luôn luôn thể hiện tính tiên phòng gương mẫu đi trước, rèn luyện đạo

đức lối sống trong sáng vô tư lãnh mạnh, gần dân, sát dân, lắng nghe ý kiến

đóng góp xây dựng của nhân dân, do vậy được nhân dân tin yêu tín nhiệm và

thực hiện đầy đủ mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật

của Nhà nước.

3.1.2. Một số hạn chế, tồn tại

Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác xây dựng tổ chức cơ sở

Đảng của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ 1997 - 2006 còn bộc lộ

những tồn tại hạn chế nhất định.

Một là, việc sắp xếp các chi bộ ở một số phường xã thuộc Đảng bộ

thành phố Đà Nẵng chưa hợp lý.

Vẫn còn chi bộ có số đảng viên từ 30 đồng chí trở lên, cá biệt một số

chi bộ có từ 50 đến 60 đồng chí, nên việc tổ chức sinh hoạt công tác quản lý

đảng viên, việc ra Nghị quyết của chi bộ gặp khó khăn. Một số xã có chi bộ

hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp… nhưng đảng viên không ở cùng cụm

dân cư nên việc sinh hoạt quản lý và phân công nhiệm vụ cho đảng viên gắn

với nơi cư trú chưa phù hợp.

Một số cán bộ chủ chốt của cấp uỷ nhất là trong các doanh nghiệp chưa

coi trọng công tác Đảng, còn có biểu biện coi nhẹ vai trò lãnh đạo của tổ chức

Đảng. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi còn mang

tính hình thức. Nhận thức của một số cấp uỷ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt về

tầm quan trọng của cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần

Nghị quyết TW6 (lần 2) khoá VIII còn hạn chế nên trong lãnh đạo, chỉ đạo và

tổ chức thực hiện còn chung chung, làm lướt hiệu quả quá thấp.

Hai là, sinh hoạt Đảng ở một số tổ chức cơ sở Đảng thuộc Đảng bộ

thành phố Đà Nẵng chưa đều.

Có nơi Đảng uỷ, chi bộ từ 2 đến 3 tháng mới sinh hoạt một lần (tập

trung ở một số đơn vị doanh nghiệp và cơ quan hành chính sự nghiệp), cá biệt

103

có doanh nghiệp do không đủ việc làm, đảng viên phải nghỉ chờ việc thì sinh

hoạt thất thường hơn. Ở phường, xã, tuy sinh hoạt đều song ở một số nơi tỷ lệ

đảng viên dự sinh hoạt chi bộ chỉ chiếm 70-80%. Nội dung sinh hoạt cấp uỷ

chi bộ chậm đổi mới. ở một số phường xã sinh hoạt chi bộ còn nặng nề, trao

đổi thông tin thời sự phê phán cấp trên ít đưa ra bàn chủ trương giải quyết

những vấn đề cụ thể sát thực cần lãnh đạo thực hiện ngay tại cơ sở, tính chiến

đấu tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ chưa cao. Việc

phân công nhiệm vụ cho đảng viên chưa rõ ràng thiếu sự kiểm tra đôn đốc

nên hiệu quả hoạt động của cấp uỷ chi bộ còn hạn hế. Tính lãnh đạo, tính học

tập, tính chiến đấu chưa được thể hiện rõ trong sinh hoạt chi bộ, nhất là trong

các chi bộ cơ quan và doanh nghiệp. Việc triển khai quán triệu các chỉ thị,

nghị quyết ở một số cơ sở Đảng còn mang tính hình thức, chất lượng chưa

cao, một số các hoạt động thông tin tuyên truyền chưa nhanh nhạy trước

những vấn đề mới nảy sinh, chưa đi sâu đi sát nắm bắt diến biến tư tưởng của

đội ngũ đảng viên, chưa quan tâm nâng cao trình độ nhận thức lý luận cho đội

ngũ đảng viên nhất là trong các đơn vị doanh nghiệp. Một số cơ sở chưa duy

trì thường xuyên các hoạt động tuyên truyền thời sự chính sách. Năng lực và

trình độ của đội ngũ báo cáo viên của nhiều cơ sở chưa theo kịp đòi hỏi của

tình hình mới.

Ba là, công tác phát triển Đảng ở Đảng bộ thành phố Đà Nẵng tuy đã

có chuyển biến tích cực song việc chọn cử đối tượng để bồi dưỡng kết nạp

Đảng chỉ đạo chưa chặt chẽ, còn trì trệ, có lúc lại chạy theo số lượng.

Từ năm 1997 đến năm 2006, trước những biến động lớn của tình hình

thế giới và những khó khăn của đất nước, mặc dù Thành ủy rất cố gắng chỉ

đạo, nhưng công tác phát triển Đảng rất khó khăn. Về khách quan là do nhận

thức của quần chúng còn hạn chế, nhưng cơ bản là do lề lối quan liêu, tác

phong gia trưởng trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động phát triển Đảng của cấp

ủy và bi thư chi bộ, nhất là ở nông thôn thành phố.

104

Thời kỳ 1997 - 2000, trong tổng số 10.717 đối tượng đã qua lớp bồi

dưỡng thì số kết nạp mới chỉ chiếm 37,50%, khá nhiều đơn vị, quần chúng

khi được kết nạp phải học qua lần thứ 2, ở phường xã tỷ lệ quần chúng sinh

hoạt ở đường phố nông thôn được kết nạp Đảng mới chỉ chiếm 13,3% tổng số

đảng viên được kết nạp. Thời kỳ 2001 - 2006, Đảng bộ đã kết nạp được 8.992

đảng viên, vượt 44,79% so với thời kỳ 1997 - 2000. Tuy vậy, cấp ủy ở một số

cơ sở còn chưa quan tâm, nhận thức đầy đủ về công tác phát triển Đảng, chưa

gắn công tác phát triển Đảng với nhiệm vụ xây dựng củng cố tổ chức cơ sở

Đảng, do vậy có những nơi đông quần chúng nhưng không kết nạp được đảng

viên, việc xét duyệt còn chậm.

Bốn là, một số cấp uỷ của tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ

thành phố Đà Nẵng chưa thực sự quan tâm đến công tác quy hoạch đào tạo

bồi dưỡng cán bộ và công tác kiểm tra Đảng.

Điều đó dẫn đến còn hẫng hụt trong việc bố trí cán bộ lãnh đạo khi có

biến động nhất là ở phường, xã. Một số cán bộ chủ chốt còn hạn chế về năng

lực và phương pháp công tác, chưa thể hiện được vai trò là trung tâm đoàn kết

của Đảng bộ, cá biệt có nơi cán bộ chủ chốt của cấp uỷ còn vi phạm nguyên

tắc tổ chức của Đảng, ý thức tiếp thu phê bình kém, nói và làm mang động cơ

cá nhân dẫn đến mất đoàn kết nội bộ phải xử lý kỷ luật. Một số đảng viên

thiếu tu dưỡng rèn luyện còn vi phạm Quy định 55/QĐ - TW của Bộ Chính

trị, sau là Quy định số 19-QĐ/TW (2002) (về 19 điều đảng viên không được

làm), nói và làm trái với Nghị quyết làm giảm vai trò vị trí của mình, và làm

giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với tổ chức Đảng. Một số cơ sở

Đảng thuộc ngành chưa coi trọng trong việc phối hợp giữa Ban cán sự Đảng

lãnh đạo ngành chủ quản với cấp uỷ thành phố trong công tác quản lý sử dụng

bố trí cán bộ theo quy định của TW và của tỉnh.

Nhận thức của một số cấp uỷ cơ sở về công tác kiểm tra chưa đầy đủ,

chưa coi công tác kiểm tra là của cấp trên nên còn tình trạng khoán trắng cho

105

UBKT. Vì vậy khi cấp uỷ viên, đảng viên mắc khuyết điểm, nội bộ mâu thuẫn

phức tạp thì bị động, lúng túng ỷ lại trong chờ vào sự giải quyết của cấp trên.

Hoạt động của uỷ ban kiểm tra ở một số cơ sở Đảng chưa tốt, chưa chủ động

tham mưu cho cấp uỷ về công tác kiểm tra do đó tác dụng giáo dục, phòng

ngừa còn hạn chế. Có uỷ ban kiểm tra cơ sở chưa nắm vững phương châm,

phương pháp thủ tục nguyên tắc khi tiến hành kiểm tra và thi hành kỷ luật

Đảng, dẫn đến một số vụ vi phạm của cán bộ, đảng viên không được xử ký

hoặc xử lý chưa nghiêm chưa kiên quyết, còn để kéo dài, cá biệt có trường

hợp cấp uỷ cấp trên phải thay đổi hình thức kỷ luật.

Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế:

- Về khách quan: Việc chuyển đổi cơ chế tập trung quan liệu hành

chính cao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ lâu

nhưng một bộ phận cấp uỷ cán bộ đảng viên vẫn còn nếp cũ, cách làm cũ. Tổ

chức cơ sở Đảng còn lúng túng trước nội dung yêu cầu, nhiệm vụ trong tình

hình mới, kinh tế thị trường tác động mạnh mẽ đến đời sống tâm tư tình cảm

của cán bộ, đảng viên. Nhưng do chủ quan là chủ yếu.

- Về chủ quan: Các cấp các ngành, các địa phương nhất là chính các cơ

sở Đảng chưa chủ động sáng tạo trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ

chức Đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Các cấp uỷ Đảng còn tư tưởng

chờ đợi, ngại va chạm, nể nang né tránh, chưa chú ý tổng kết sâu các mô hình

tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh điển hình tiên tiến để rút kinh nghiệm

nhân ra rộng.

+ Vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, trình độ năng lực của đội ngũ

cán bộ chủ chốt ở nhiều đơn vị còn hạn chế. Một số cán bộ, đảng viên sa sút ý

chí phấn đấu chưa được kiểm điểm giao dục, sửa chữa kịp thời. Nguyên tắc

tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng ở một số tổ chức Đảng thực hiện chưa

tốt dân chủ chưa đi đôi với kỷ cương, quyền lợi chưa gắn liền với trách

nhiệm.

106

+ Nội dung sinh hoạt chi bộ còn đơn điệu tẻ nhạt chung chung không rõ

ràng cụ thể. Phương thức hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng còn lúng túng

chưa thích ứng với yêu cầu của thời kỳ đổi mới.

+ Thành uỷ chưa thật sự chú ý nâng cao chất lượng cán bộ ở bộ máy

làm tốt công tác tổ chức và cán bộ của thành phố cũng như ở cơ sở. Chủ

trương luân chuyển cán bộ được thực hiện từ năm 1992 nhưng chậm được

tổng kết rút kinh nghiệm. Tình trạng mất đoàn kết ở một số đảng bộ vẫn còn

đã làm suy yếu tổ chức cơ sở Đảng.

3.2. Những kinh nghiệm chủ yếu

3.2.1. Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng phải căn cứ vào nhiệm

vụ chính trị của từng loại hình cơ sở Đảng

Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh đạt kết

quả song song với phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự

an toàn xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở đơn vị

cơ sở.

Từ chỗ xác định vai trò hạt nhân lãnh đạo cơ sở, các chi, đảng bộ phải

chấp hành đầy đủ, biến thành hành động và tổ chức thực hiện có kết quả

nhiệm vụ được giao. Giữ đúng vai trò đó, chi đảng bộ cơ sở có trách nhiệm

lãnh đạo chính quyền, đoàn thể quần chúng và nhân dân thực hiện đầy đủ chủ

trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Công tác quy

hoạch đội ngũ cán bộ 10 năm (1997 - 2006) của Đảng bộ thành phố đã đạt

được kết quả khả quan.

Nắm vững phương châm "phát triển kinh tế làm trọng tâm, xây dựng

Đảng là then chốt", thành Đảng bộ Đà Nẵng đã củng cố kiện toàn tổ chức cơ

sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, gắn chặt với việc đề ra và tổ

chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của địa phương nhất là

trong quả lý đô thị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, phát

107

huy quyền làm chủ của nhân dân. Công tác chăm lo sức khoẻ cho nhân dân và

các chính sách xã hội rất được coi trọng và đạt được tiến bộ đáng kể.

Thành phố đã cấp đất cho nhân dân hình thành nên các khu phố mới

khang trang sạch đẹp. Phong trào "đền ơn đáp nghĩa", "xoá đói giảm nghèo"

được các cấp ngành và toàn thể nhân dân Thành phố hưởng ứng. Theo phân

công của chi đảng bộ, đảng viên đã được giao các công việc gần dân, sát dân.

Qua đó tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể có những giải

pháp giúp đỡ các hộ, các gia đình đói nghèo, giải quyết công ăn việc làm, hạn

chế các tệ nạn xã hội và tiêu cực phát sinh.

Mô hình chi đảng bộ theo địa bàn dân cư là hợp lý. Các chi bộ tổ dân

phố, thôn xóm, đã góp phần tạo ra sự gắn bó mật thiết hơn giữa Đảng với

quần chúng nhân dân. Bí thư chi bộ đồng thời là tổ trưởng, xóm trưởng,

trưởng khu phố đã góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở

Đảng. Nhờ đó mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước

được phổ biến đến tận người dân.

Từ năm 1998 thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở do Chính phủ ban

hành các chi đảng bộ trực thuộc Thành phố đã tích cực xây dựng và chỉ đạo

thực hiện quy chế. Các phòng trào "xây dựng nếp sống văn minh, gia đình

văn hoá" bài trừ các tập tục lạc hậu, các tệ nạn xã hội có sự đóng góp quan

trọng của các tổ chức cơ sở Đảng.

Có thể khẳng định công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch

vững mạnh là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội, vì Đảng bộ có

mạnh, năng lực điều hành hoạt động chính quyền đoàn thể có tốt thì ở đó kinh

tế-xã hội phát triển đời sống nhân dân được cải thiện nâng cao, trật tự an toàn

xã hội được giữ vững, an ninh chính trị đảm bảo, các chủ trương chính sách

của Đảng và Nhà nước được thực hiện có hiệu quả.

108

3.2.2. Bồi dưỡng nâng cao kiến thức về xây dựng Đảng, xây dựng tổ

chức cơ sở Đảng cho đội ngũ cán bộ đảng viên

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006)

nhấn mạnh: “Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến

đấu của tổ chức cơ sở Đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong sạch, vững

mạnh; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, giám sát đảng

viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức, lối sống; đấu

tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong Đảng. Phải đổi mới mạnh mẽ

công tác xây dựng cơ sở, lấy chuyển biến từ cơ sở làm mục tiêu và thước đo

kết quả tổng hợp của công tác xây dựng Đảng” [14, tr.298].

Mặc dù vị trí vai trò chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ

sở Đảng đã được Ban Bí thư (khoá VII), Bộ Chính trị (khoá VIII) quy định rõ

nhưng hiện nay một thực tế là có lúc có nơi các cấp uỷ Đảng chưa coi trọng

vai trò của tổ chức Đảng, có nơi còn không xác định rõ chức năng nhiệm vụ

của cơ sở dẫn tới tình trạng vô kỷ luật, vô nguyên tắc, lấn sân quản lý, bao

biện làm thay.

Thời kỳ 1997 - 2006, ở Thành phố Đà Nẵng, nhiều chi đảng bộ cơ sở

còn lúng túng trong công tác nhất là đối với các chi đảng bộ mới được lập ra

trong các công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Vì vậy ở mỗi

loại hình tổ chức cơ sở Đảng phải cụ thể nội dung và phương thức hành động

phù hợp với vị trí, chức năng, vai trò nhiệm vụ bảo đảm nội dung chung sinh

hoạt đẩy đủ cả 3 mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, giáo dục và phân công

nhiệm vụ cụ thể cho đảng viên. Góp phần thực hiện thắng lợi phát triển sản

xuất kinh doanh của cơ sở.

Đặc biệt để nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, các ban

ngành của thành phố, theo sự chỉ đạo của Thành uỷ, Trung tâm bồi dưỡng

chính trị các quận, huyện mở thêm nhiều lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác

Đảng, giúp cán bộ chủ chốt các cơ sở Đảng quán triệt nhiệm vụ yêu cầu trong

109

tình hình mới. Đồng thời Thành uỷ trực tiếp đưa ra các quy chế hoạt động của

tổ chức cơ sở Đảng phù hợp với đặc điểm địa bàn và yêu cầu công tác.

3.2.3. Công tác phát triển Đảng gắn liền với nâng cao chất lượng đội

ngũ cán bộ, đảng viên

Phát triển Đảng là một vấn đề hết sức quan trọng đối với một Đảng

cầm quyền, là một hoạt động cơ bản nhằm bổ sung sinh lực, sự kế thừa và

phát triển của Đảng. Từ những thành tựu trong công tác phát triển Đảng thời

kỳ 1997 - 2006, đòi hỏi Đảng bộ thành phố Đà Nẵng tiếp tục giữ vững và phát

huy mặt công tác, góp phần xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững

mạnh. Trên cơ sở tiêu chuẩn của TW, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng cần vận

dụng sáng tạo và linh hoạt công tác phát triển Đảng phù hợp các loại hình cơ

sở Đảng trực thuộc. Đảm bảo cơ cấu, tỷ lệ thanh niên, nam-nữ, thành phần

giai cấp, nhất là từ đoàn viên thanh niên ưu tú được đứng vào hàng ngũ chiến

đấu của Đảng - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và

dân tộc Việt Nam.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chọn lọc đảng viên mới cũng là một nhiệm vụ

quan trọng. Chi bộ cần thường xuyên giáo dục quần chúng, bồi dưỡng những

phần tử hăng hái, nâng cao trình độ giác ngộ của họ đến tiêu chuẩn đảng

viên” [17, tr.243]. Chi, đảng bộ cơ sở là trường giáo dục, rèn luyện kết nạp

đảng viên, là nơi quản lý và phân công công tác cho đảng viên, kiểm tra thi

hành kỷ luật đảng viên.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh "Chi bộ tốt là do Đảng viên tốt" trước

yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của tình hình mới, chi đảng bộ cần làm tốt

công tác Đảng, công tác cán bộ, tổ chức sinh hoạt chi bộ đều đặt để giáo dục,

nâng cao nhận thức của đảng viên mạnh về chính trị tư tưởng, vững vàng về

bản lĩnh, kiên định lập trường giai cấp. Tổ chức phân công công tác cho đảng

viên đồng thời giúp đỡ gia đình đảng viên có hoàn cảnh khó khăn. Qua đó

110

đảng viên luôn thể hiện tính tiên phong gương mẫu trong công việc và nhận

được sự tin yêu tín nhiệm của quần chúng nhân dân.

Chi, đảng bộ chú ý phát hiện những thanh niên ưu tú để giáo dục bồi

dưỡng và kết nạp vào Đảng. Kết nạp vào Đảng những đảng viên trẻ bên cạnh

những đảng viên lâu năm sẽ làm cho các tổ chức cơ sở Đảng tiêu biểu cho

phong trào cách mạng, làm cho sức chiến đấu của chi bộ được tăng lên theo

kịp với yêu cầu cầu nhiệm vụ chính trị mới.

Công tác phát triển Đảng phải gắn liền với thực hiện nhiệm vụ xây

dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

nói: “Chi bộ tốt là do đảng viên tốt. Đảng viên tốt thì mọi việc sẽ tốt” [17,

tr.92]. Do vậy, phát triển Đảng là nội dung quan trọng trong quá trình xây

dựng tổ chức cơ sở Đảng song song với lãnh đạo hiệu quả nhiệm vụ phát triển

kinh tế-xã hội của cơ sở, đơn vị và địa phương.

Nâng cao nhận thức của cấp uỷ và Bí thư chi bộ về công tác phát triển

Đảng. Cấp uỷ và lãnh đạo cơ sở quan tâm và sâu sát với công tác phát triển

Đảng thì hiệu quả công tác sẽ cao và ngược lại. Do vậy, Thành uỷ cần chỉ đạo

Trung tâm bồi dưỡng chính trị các quận, huyện tiếp tục mở nhiều lớp bồi

dưỡng cán bộ công tác Đảng, giúp cấp uỷ và cán bộ chủ chốt cơ sở nắm vững

kỹ năng, nguyên tắc, yêu cầu và ý nghĩa của mặt công tác này, đồng thời

Thành uỷ cần sâu sát, kiểm tra cơ sở thực hiện chỉ tiêu đề ra, coi đó là tiêu chí

đánh giá cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh.

Làm tốt công tác đào tạo nguồn liên tục để phát triển Đảng. Các tổ chức

cơ sở Đảng phải là trường giáo dục rèn luyện, kết nạp đảng viên. Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã nói: “Chi bộ cần thường xuyên giáo dục quần chúng, bồi dưỡng

những phần tử hăng hái, nâng cao trình độ giác ngộ của họ đến tiêu chuẩn

đảng viên” [19, tr.243]. Do đó, cấp uỷ thường xuyên phối hợp với các tổ

chức, đoàn thể trong việc tuyên truyền, giáo dục về lý tưởng, mục tiêu của

Đảng và Điều lệ Đảng, giác ngộ những quần chúng ưu tú, đặc biệt là trong

111

ĐTNCS Hồ Chí Minh có nhận thức sâu sắc về Đảng, qua đó nâng cao niềm

tin vào lý tưởng, tự giác, tự nguyện xác định trách nhiệm và động cơ phấn đấu

để trở thành đảng viên, được phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, suốt đời

đấu tranh vì lý tưởng mục tiêu của Đảng.

Chú trọng nâng cao chất lượng đảng viên mới kết nạp. Đó là yêu cầu

quan trọng trong quá trình CNH, HĐH đất nước và yêu cầu của nền kinh tế tri

thức. Đồng thời phải coi trọng công tác vận động quần chúng tham gia giám

sát, đóng góp ý kiến xây dựng và phát triển Đảng, để lựa chọn được những

phần tử ưu tú, tích cực trong phong trào để giới thiệu với Đảng, vào Đảng,

bảo đảm sự kế thừa và phát triển liên tục của Đảng.

Tăng cường sự chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên đối với cơ sở Đảng trong

công tác phát triển Đảng. Ngoài nỗ lực của quần chúng ưu tú và sự đánh giá,

ghi nhận, hướng dẫn khách quan của tổ chức Đảng cơ sở, đòi hỏi Thành uỷ và

các đồng chí phụ trách phải có sự chỉ đạo thường xuyên, kiểm tra, quan tâm

sát sao công tác phát triển Đảng để uốn nắn, khắc phục sự trông chờ, ỷ lại

hoặc định kiến, hẹp hòi đưa ra tiêu chuẩn quá cao hoặc lại quá lỏng lẻo, xuê

xoa, đại khái trong quá trình xem xét, thử thách và kết nạp đảng viên mới, để

đảm bảo đúng tiêu chuẩn, nguyên tắc và thủ tục.

Coi trọng củng cố kiện toàn và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ

chủ chốt ở cơ sở (Bí thư, phó Bí thư, thủ trưởng). Chất lượng tổ chức cơ sở

Đảng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở trước hết là

của cấp uỷ Đảng và Bí thư chi bộ. Năng lực lãnh đạo và trình độ chuyên môn,

sự đoàn kết nhất trí trong cấp uỷ là nhân tố đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ

chính trị địa phương cơ sở. Tổ chức cơ sở Đảng phải chú ý uốn nắn đấu tranh

trước những biểu hiện tiêu cực, quan liêu xa rời quần chúng, vi phạm Điều lệ

Đảng và pháp luật của Nhà nước. Kinh nghiệm chỉ ra ở nơi nào, tổ chức cơ sở

Đảng vững mạnh thì ở nơi đó có đội ngũ cán bộ đảng viên đoàn kết, gương

112

mẫu thực hiện nhiệm vụ được giao, được quần chúng tín nhiệm, không có chỗ

cho tiêu cực nẩy sinh.

Thực tế 10 năm từ năm 1997 đến năm 2006, từ Thành uỷ đến cơ sở

Đảng đã quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thành uỷ

đã nhận thức để củng cố tổ chức cơ sở Đảng, phải đổi mới chỉnh đốn, nâng

cao năng lực và sức chiến đấu của các cấp uỷ Đảng, đảng viên và đặc biệt là

đội ngũ cán bộ chủ chốt, hàng năm trung tâm bồi dưỡng chính trị thành phố

đã mở nhiều lớp bồi dưỡng chính trị, bồi dưỡng quản lý kinh tế, quản lý Nhà

nước về công tác Đảng cho cán bộ đảng viên.

Để nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở

Đảng trong tình hình mới phải chú ý đến công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử

dụng cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Việc bố trí cán bộ

phải căn cứ vào tiêu chuẩn và lấy hiệu quả công tác thực tiến làm thước đo,

phải có tín nhiệm trong đảng viên và quần chúng. Bố trí cán bộ phải đúng

người, đúng việc, chú ý kiện toàn những cơ sở còn yếu, còn thiếu, kiên quyết

xử lý các trường hợp có sai phạm, làm giảm sút lòng tin của quần chúng với

Đảng. Thực hiện tốt việc phê bình và tự phê bình thường xuyên trong sinh

hoạt Đảng. Đảng viên là cán bộ chủ chốt thực sự đầu tầu gương mẫu trong

công tác và tổ chức thực hiện công việc.

Những cán bộ đảng viên trẻ có năng lực được cử đi học ở các trường

TW và địa phương để bồi dưỡng đội ngũ kế cận đồng thời Thành uỷ đã thực

hiện có hiệu quả công tác tăng cường đội ngũ cán bộ về cơ sở trực tiếp làm Bí

thư hoặc phó chủ tịch UBND phường, xã. Chính nhờ việc phát triển đảng viên

mới kết hợp nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên là một nguyên nhân quan

trọng mang lại thành công trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của

Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, xứng đáng với danh hiệu trong sạch vững mạnh,

đơn vị lá cờ đầu trong cả nước.

113

3.2.4. Đổi mới nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ phù hợp với các

loại hình chi, đảng bộ cơ sở, coi trọng công tác dân vận, xác lập mối quan

hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, cách mạng là sự nghiệp của

quần chúng được tổ chức và giác ngộ, cùng phương châm tin dân, dựa vào

dân, vì dân của Đảng “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và chỉ dẫn

của Hồ Chí Minh: “Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây

chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng. Nhiệm vụ của chi bộ là: Luôn luôn

tuyên truyền cho nhân dân và tổ chức nhân dân, để thực hiện khẩu hiệu và

chính sách của Đảng. Luôn luôn chú ý đến tư tưởng và nhu cầu của nhân dân

và kịp thời báo cáo cho cấp trên biết rõ. Luôn luôn quan tâm đến đời sống

kinh tế, chính trị và văn hoá của nhân dân, đồng thời giáo dục nhân dân, tổ

chức nhân dân để giải quyết các vấn đề cho nhân dân” [17, tr.243].

Sinh hoạt chi bộ có vị trí quan trọng trong việc củng cố kiến toàn tổ

chức cơ sở Đảng, chất lượng sinh hoạt tác động trực tiếp đến chất lượng lãnh

đạo và xây dựng tổ chức cơ sở Đảng. Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng

toàn quốc, Nghị quyết TW 3 (Khoá VII) 6/1992, Nghị quyết TW 6 (lần 2)

khoá VIII 1999, Thành uỷ Đà Nẵng đã đề ra những biện pháp cải tiến và nâng

cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, duy trì đều đặn sinh hoạt đều đặn đúng kỳ

mỗi tháng một lần. Trong sinh hoạt thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân

chủ, thẳng thắn, nghiêm túc tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh

trước những biểu hiện tiêu cực, thảo luận kỹ đường lối chủ trương của Đảng

và Nhà nước, nhiệm vụ cụ thể của địa phương từ đó đề ra kế hoạch thực hiện

có hiệu quả công tác.

Các BTC, Ban Tuyên giáo xây dựng những chuyên đề cụ thể để phân

công công tác sinh hoạt chi bộ cho các cấp uỷ. Trong sinh hoạt chi bộ cần

phải phát huy dân chủ tuy vậy Ban Chi uỷ nhất là đồng chí Bí thư phải thể

hiện vai trò đầu tàu tổ chức sinh hoạt cụ thể phù hợp với yêu cầu công tác của

114

đơn vị đồng thời đáp ứng được mong mỏi của quần chúng nhân dân. Kiên

quyết khắc phục những mặt yếu, tồn tại trong sinh hoạt Đảng như thiếu

nghiêm túc, hình thức, sinh hoạt chung chung, vô tổ chức, vô kỷ luật. mà phải

cụ thể rõ ràng bảo đảm tính Đảng để giữ vững kỷ luật Đảng, tạo không khí

dân chủ xây dựng trong sinh hoạt chi bộ.

Tăng cường lãnh đạo và đổi mới công tác vận động quần chúng, vận

động nhân dân, tăng tường mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân là

vấn đề có ý nghĩa chiến lược, mối quan hệ máu thịt gắn bó mật thiết giữa

Đảng với nhân dân là sức mạnh to lớn bền vững, là truyền thống quý báu đã

được thử thách theo thời gian năm tháng từ khi có Đảng, các tổ chức cơ sở

Đảng phải quán triệt quan điểm "lấy dân làm gốc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh

để vận dụng vào công tác vận động quần chúng.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác vận động nhân dân, Đảng bộ

thành phố Đà Nẵng và các tổ chức cơ sở Đảng đã từng bước đổi mới về nội

dung và phương thức hoạt động nên đạt được hiệu quả thiết thực. Việc tổ

chức Đảng phân công đảng viên phụ trách công tác gần gũi quần chúng và

đưa đảng viên về giữ mối liên lạc với chi bộ nơi cư trú đã góp phần tham mưu

kiến nghị giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, thực hiện quyền

làm chủ của nhân dân.

Với vai trò hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ sở, các chi đảng bộ cơ sở cần

tích cực hơn nữa củng cố chính quyền, các đoàn thể quần chúng hội phụ nữ,

hội nông dân, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên để đoàn kết các tầng lớp

nhân dân, khơi dậy phát huy sức mạnh to lớn đông đảo của quần chúng, thực

hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra, góp phần củng cố nâng cao

vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, đáp ứng nhiệm vụ

trong giai đoạn mới.

115

3.2.5. Thường xuyên giữ vững đoàn kết thống nhất trong nội bộ

Đảng, đồng thời, tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát đối với tổ chức

cơ sở Đảng

Đoàn kết nhất trí là một truyền thống quý báu của dân tộc ta, được

Đảng ta kế thừa và vận dụng lên tầm cao mới. Trong công tác xây dựng củng

cố tổ chức cơ sở Đảng, cần phải có sự đoàn kết thì mới thành công. Đây là

một bài học kinh nghiệm được đúc kết qua bao thế hệ của dân tộc, của Đảng

ta. Chủ tịch Hồ chi Minh đã viết “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành

công, thành công, đại thành công”. Đoàn kết là phải từ Thành ủy, cấp uỷ chi

bộ đến toàn thể đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đoàn kết thống nhất

phải dựa trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ và dựa trên sự kết hợp hài

hòa lợi ích giữa cá nhân - tập thể - xã hội.

Đoàn kết nhất trí trong tổ chức Đảng, phát huy sức mạnh của chính

quyền, đoàn thể, các tầng lớp nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm

vụ ở địa phương, theo đúng nguyên tắc cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền

quản lý điều hành, nhân dân làm chủ. Thấu suốt quan điểm đoàn kết xây dựng

Đảng bộ thành một khối vững chắc, từ Thành ủy đến các tổ chức cơ sở Đảng

cần tập trung giải quyết dứt điểm các vấn đề nổi cộm ở một số cơ sở do nội bộ

mất đoàn kết cục bộ địa phương, kèn cựa đấu đá, từ đó đề ra những biện pháp

và thực hiện có hiệu quả công tác chấn chỉnh củng cố nội bộ cơ sở Đảng.

Trong công tác xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững

mạnh ngoài bản thân từng chi đảng bộ cơ sở và đội ngũ đảng viên nỗ lực phấn

đấu, đòi hỏi phải có sự quan tâm chỉ đạo sát sao kịp thời của cấp uỷ cấp trên,

để tránh được sự trông chờ ỷ lại, đi trệch hướng công tác, các tiêu cực phát

sinh. Chính vì vậy trong thời gian qua và thời gian sắp tới, Thành uỷ trong

công tác chỉ đạo cần tạo điều kiện cho các chi đảng bộ cơ sở thực hiện đúng

chức năng hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ sở, phát huy được quyền chủ động

sáng tạo. Đồng thời Thành uỷ cần thường xuyên kiểm tra giám sát uốn nắn

116

kịp thời những sai lệch, giải quyết những vụ việc mới phát sinh và xử lý

nghiêm minh các trường hợp vi phạm. Thành uỷ cần đánh giá đúng thực trạng

cơ sở Đảng để đề ra chủ trương kế hoạch chỉ đạo đối với từng loại hình cụ

thể, chăm lo đội ngũ cán bộ, đảng viên, kịp thời phổ biến kinh nghiệm và điển

hình tiên tiến ra toàn Đảng bộ học tập, noi theo.

117

KẾT LUẬN

Từ việc nghiên cứu quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ

sở Đảng của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ 1997 - 2006 có thể rút

ra những kết luận như sau:

1. Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng là nhiệm vụ quan trọng, Đảng bộ

thành phố Đà Nẵng đã nhận thức đúng đắn và ra sức thực hiện nhiệm vụ xây

dựng tổ chức cơ sở Đảng từ năm 1997 đến năm 2006. Quá trình xây dựng tổ

chức cơ sở Đảng của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến năm 2006

qua 2 thời kỳ, thời kỳ từ năm 1997 đến năm 2000 là 15 năm đầu (1986 -

2000) thành phố Đà Nẵng cùng với cả nước thực hiện công cuộc đổi mới đất

nước toàn diện với những bước đi vững chắc. Công tác xây dựng tổ chức cơ

sở Đảng của Đảng bộ thành phố thời kỳ trên được thực hiện theo tinh thần

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), NQTW3 khóa VII

(1992), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), NQTW6 (lần 2) khóa

VIII (1999), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVII (1997).

Điểm trọng tâm công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng thời kỳ này là từng

bước đổi mới, chỉnh đốn lại chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn kết công tác

xây dựng Đảng với việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội

của địa phương theo phương châm “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm,

xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” của Đảng đã được Đảng bộ thành phố

vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương, có tác

dụng động viên, khích lệ tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và các tầng lớp

nhân dân thành phố phát huy cao độ tinh thần yêu nước, thực hiện có hiệu quả

kế hoạch đề ra. Do vậy, những kết quả tích cực đạt được trong công tác xây

dựng tổ chức cơ sở Đảng đã góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu

kinh tế - xã hội của thành phố.

Từ năm 2001 đến năm 2006, phát huy những thành quả của giai đoạn

trước, công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng

118

có sự chuyển biến mạnh mẽ để theo kịp yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất

nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Dưới ánh sáng chỉ dẫn của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX

(2001), NQTW5 khóa IX, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ

XVIII (2001), XIX (2006), công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng có sự phát

triển hơn thời đoạn trước. Thành ủy đã thực hiện tốt vai trò là người lãnh đạo,

chỉ đạo toàn diện mọi mặt công tác của Đảng bộ thành phố. đặc biệt với

phương châm “hướng về cơ sở”, Thành ủy chỉ đạo sát sao các cơ sở Đảng

thực hiện đúng đắn vị trí hạt nhân lãnh đạo cơ sở của cơ sở Đảng. Các mặt

công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư

tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo của cơ sở Đảng và sức chiến

đấu của đội ngũ đảng viên, phát triển Đảng gắn kết nâng cao chất lượng cán

bộ, thường xuyên kiểm tra, giám sát hoặc xử lý được Đảng bộ thành phố từ

Thành ủy xuống các cơ sở Đảng thực hiện nghiêm túc, đầy đủ theo nguyên

tắc tập trung, dân chủ. Kết quả xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững

mạnh từ năm 2001 đến năm 2006 của Đảng bộ thành phố đã góp phần đưa

Đảng bộ giữ vững thành tích là Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Kết quả trên

góp phần quan trọng vào những thành tựu đạt được về phát triển kinh tế-xã

hội của địa phương và cơ sở, làm bộ mặt thành phố đổi thay tích cực, đời

sống vật chất tinh thần của nhân dân thành phố được nâng cao.

2. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng thời kỳ 1997 - 2006 của Đảng

bộ thành phố Đà Nẵng đã thu được nhiều thành tựu quan trọng có ý nghĩa to

lớn đối với sự phát triển của hiện tại và tương lai của thành phố.

Tổ chức cơ sở Đảng đã thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình,

đảm bảo sự lãnh của đảng tại đơn vị cơ sở thể hiện ở chỗ quán triệt và vân

dụng sáng tạo đường nối chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với đặc

điểm địa phương và phổ biến sâu sát đến tận cơ sở từng người dân. Vai trò

119

lãnh đạo của tổ chức Đảng, cán bộ đảng viên được phát huy trong lãnh đạo

phong trào quần chúng.

Tổ chức cơ sở Đảng ở thành phố Đà Nẵng đã tập trung xây dựng và

kiện toàn các tổ chức chính quyền, các đơn vị kinh tế cơ sở và các đoàn thể

quần chúng, các tổ chức xã hội vững mạnh, bảo đảm chấp hành đúng đường

lối chủ trương của Đảng, các chính sách pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị

nghị quyết của cấp trên và của tổ chức Đảng được thực hiện có hiệu quả, tổ

chức thực hiện tốt qui chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân

dân, bước đầu triển khai thực hiện cải cách hành chính có hiệu quả.

Tổ chức cơ sở Đảng ở thành phố Đà Nẵng đã chăm lo xây dựng nội bộ

vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức, chăm lo đào tạo đội ngũ cán bộ

nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên, thường xuyên

chú trọng kết nạp đảng viên mới trẻ khoẻ, có trình độ chuyên môn và đầy

nhiệt tình cách mạng, thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt Đảng, tự phê

bình và phê bình tăng cường đoàn kết thống nhất trong đảng giữ gìn kỷ luật.

Trong công tác kiểm tra Đảng, các tổ chức cơ sở Đảng đã thực hiện

đúng phương pháp thủ tục nguyên tắc khi kiểm tra đảng viên chấp hành điều

lệ Đảng, qua đó đã phát hiện các lệnh lạc sai trái để có biện pháp uốn nắn kịp

thời, đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm kỷ luật

Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhờ vậy đã góp phần chấn chỉnh kỷ cương

làm trong sạch đội ngũ chiến đấu của Đảng và bộ máy Nhà nước.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác dân vận, trong những năm

từ 1997 đến 2006, tổ chức cơ sở Đảng ở thành phố Đà Nẵng đã không ngừng

chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của dân, bảo đảm lợi ích chính đáng

của dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lãnh đạo nhân dân thực hiện

tốt đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, thu

hút nhân dân vào các hoạt động các tổ chức xã hội đoàn thể tạo ra các phong

120

trào cách mạng sâu rộng, gắn bó đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong sự

nghiệp đổi mới đất nước.

3. Năm 2005, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng không còn cơ sở Đảng yếu

kém nhưng còn một số cơ sở Đảng trung bình (nhiều năm không đạt tiêu

chuẩn trong sạch, vững mạnh), một số cơ sở Đảng đã có những lúc nội bộ mất

đoàn kết, thiếu thống nhất nên sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo còn hạn

chế, chưa phát huy được ưu điểm và khắc phục được nhược điểm, tồn tại. Một

bộ phận không nhiều đảng viên chưa phát huy tốt vai trò hoặc còn vi phạm kỷ

luật . Sinh hoạt chi bộ còn chậm đổi mới. Không ít cơ sở Đảng còn lúng túng

trước yêu cầu nhiệm vụ công tác mới, hoạt động còn dập khuôn máy móc còn

ỷ lại cấp trên. Công tác vận động nhân dân chậm đổi mới, công tác kiểm tra

vẫn còn tư tưởng bao che cả nể, chưa đấu tranh mạnh mẽ trước những sai trái.

Đây là những vấn đề đặt ra cần giải quyết nhanh chóng để củng cố nâng cao

năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng

viên ở Đảng bộ thành phố.

4. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ những

thành tựu và hạn chế trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng

bộ thành phố Đà Nẵng đã để lại những bài học kinh nghiệm có giá trị lý luận

và thực tiễn sâu sắc. Những kinh nghiệm phong phú nảy sinh từ thực tiễn như:

Đảng bộ thành phố Đà Nẵng có nhiều loại hình tổ chức cơ sở Đảng, do đó để

xây dựng, củng cố phải căn cứ vào nhiệm vụ chính trị của từng loại hình cơ

sở Đảng đó; xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, phải nâng

cao kiến thức về xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng cho đội ngũ

cán bộ đảng viên; chú trọng công tác phát triển Đảng gắn liền với nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; đổi mới nâng cao chất lượng sinh hoạt

chi bộ phù hợp với các loại hình chi, đảng bộ cơ sở, coi trọng công tác dân

vận, tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân; thường xuyên giữ

vững đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng, nhất là trong đội ngũ cán bộ

121

chủ chốt, tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp trên đối với tổ

chức cơ sở Đảng.

Những kinh nghiệm nêu trên đã làm rõ nhận định: Sự lãnh đạo sáng

tạo, đúng đắn của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng là nhân tố hàng đầu, quyết

định dẫn tới những thành công trong công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ

sở Đảng.

5. Vấn đề đặt ra cho công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Đảng bộ

thành phố Đà Nẵng trong tiến trình thời gian tiếp theo theo chúng tôi là:

Trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát

triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo

nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công

nghiệp theo hướng hiện đại, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng cần chủ động, sáng

tạo hơn nữa trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.

Cần phát huy hơn nữa những thành tựu đạt được đồng thời khắc phục những

hạn chế bằng những giải pháp thiết thực trong công tác xây dựng tổ chức cơ

sở Đảng. Vấn đề then chốt để có được thành công trong hoạt động là phải có

đường lối đúng đắn và những phương pháp sáng tạo, trên cơ sở hướng dẫn

của cấp bộ đảng cấp trên và phù hợp với thực tiễn thành phố. Cần coi trọng

công tác giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu

của cán bộ đảng viên, quy hoạch cán bộ “đúng người, đúng việc”, đẩy mạnh

phát triển đảng viên chú trọng đối tượng trẻ, đoàn viên thanh niên, phụ nữ

đồng thời uốn nắn những lệch lạc trong tư tưởng và hành động, kịp thời đưa

ra khỏi hàng ngũ những đảng viên yếu kém, thoái hóa biên chất. Chú trọng

công tác dân vận, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, có những giải pháp

thích hợp để quần chúng tham gia chủ động và tích cực hơn vào công tác phê

bình, góp ý xây dựng Đảng. Từ Thành ủy đến cơ sở Đảng phải giữ gìn sự

đoàn kết thống nhất từ ý chí đến hành động trên cơ sở nguyên tắc tổ chức của

Đảng và những lợi ích chung. Thành ủy nên chỉ đạo kịp thời giải quyết những

122

chi, đảng bộ trung bình, nội bộ mất đoàn kết, cơ sở Đảng quan liêu. Cần phát

huy mạnh mẽ hơn nữa nguyên tắc tập trung dân chủ, quy luật phát triển tự phê

bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ, nhìn thẳng, nói thật trên tinh thần

đồng chí và xây dựng, kết hợp nhuần nhuyễn phương châm “phát triển kinh tế

là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” trong lãnh đạo,

chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của địa phương, đơn vị và cơ sở.

Từ những gì đã làm được và chưa được, đúc kết các bài học kinh

nghiệm về công tác xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng thời kỳ 1997 -

2006, chúng tôi tin tưởng Đảng bộ thành phố Đà Nẵng sẽ đề ra và thực hiện

các giải pháp thiết thực theo tinh thần các nghị quyết của TW Đảng, Bộ Chính

trị, Thành ủy Đà Nẵng bàn về công tác xây dựng Đảng để tiếp tục phát huy

cao hơn nữa thành tựu xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh,

đảm bảo vai trò nền tảng với chức năng hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ sở,

xứng đáng với danh hiệu Đảng bộ vững mạnh, trong sạch, đơn vị lá cờ đầu

của cả nước, góp phần xây dựng thành phố ngày thêm văn minh, giàu mạnh.

123

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành

phố Đà Nẵng lần thứ III, Nxb. Đà Nẵng.

2. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (1989), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành

phố Đà Nẵng lần thứ IV, Nxb. Đà Nẵng.

3. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (1992), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành

phố Đà Nẵng lần thứ V, Nxb. Đà Nẵng.

4. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành

phố Đà Nẵng lần thứ VI, Nxb. Đà Nẵng.

5. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu

Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XVI, Nxb. Đà Nẵng.

6. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành

phố Đà Nẵng lần thứ XVII, Nxb. Đà Nẵng.

7. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành

phố Đà Nẵng lần thứ XVIII, Nxb. Đà Nẵng.

8. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành

phố Đà Nẵng lần thứ XIX, Nxb. Đà Nẵng.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2)

BCHTW khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

124

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết của Bộ Chính trị số 33-

NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 47, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Tạp chí Xây dựng Đảng (12/1996).

21. Tạp chí Xây dựng Đảng (1/1997).

22. Thành ủy Đà Nẵng (1987), Báo cáo tổng kết công tác năm 1987 và

phương hướng nhiệm vụ năm 1988, số 10/BC-TU, Đà Nẵng.

23. Thành ủy Đà Nẵng (1991), Báo cáo kết quả kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ

đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; xây dựng và thực hiện

Quy chế làm việc của cấp ủy, số 17-BC/TU, Đà Nẵng.

24. Thành ủy Đà Nẵng (1991), Báo cáo tổng kết công tác phát thẻ đảng viên

(năm 1990-1991), số 25/BC-TU, Đà Nẵng.

25. Thành ủy Đà Nẵng (1992), Nghị quyết của BCH Đảng bộ thành phố về

những nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 1993, số 02/NQ-TP, Đà Nẵng.

26. Thành ủy Đà Nẵng (1994), Nghị quyết của BCH Đảng bộ thành phố về

việc chỉ đạo kiểm tra và giải quyết cơ sở Đảng yếu - kém, số 234/NQ-

TP, Đà Nẵng.

27. Thành ủy Đà Nẵng (1994), Báo cáo tình hình nhiệm vụ năm 1994 và

phương hướng nhiệm vụ năm 1995, số 63/BC-TU, Đà Nẵng.

125

28. Thành ủy Đà Nẵng (1995), Nghị quyết của BTV Thành ủy về một số công

tác trước mắt trong xây dựng Đảng, đảm bảo hoàn thành thắng lợi

nhiệm vụ chính trị của thành phố năm 1995, số 07/NQ-TP, Đà Nẵng.

29. Thành ủy Đà Nẵng (1995), Báo cáo tình hình thực hiện các mặt công tác

năm 1995 và phương hướng nhiệm vụ năm 1996, số 77/BC-TU, Đà

Nẵng.

30. Thành ủy Đà Nẵng (1996), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng

nhiệm kỳ lần thứ VI của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.

31. Thành ủy Đà Nẵng (1996), Báo cáo tình hình thực hiện kinh tế - xã hội 9

tháng đầu năm và nhiệm vụ những tháng còn lại, số 08/BC-TU, Đà

Nẵng.

32. Thành ủy Đà Nẵng (1996), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng

cấp quận, huyện, số 75/BC-TU, Đà Nẵng.

33. Thành ủy Đà Nẵng (1997), Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ năm

1997, số 01-NQ/TU, Đà Nẵng.

34. Thành ủy Đà Nẵng (1997), Báo cáo tình hình thực hiện các mặt công tác

năm 1997, số 56-BC/TU, Đà Nẵng.

35. Thành ủy Đà Nẵng (1998), Nghị quyết Hội nghị Thành uỷ lần thứ 3 về

phương hướng, nhiệm vụ năm 1998, số 01-NQ/TU, Đà Nẵng.

36. Thành ủy Đà Nẵng (1998), Báo cáo tình hình thực hiện các mặt công tác

năm 1998, số 51-BC/TU, Đà Nẵng.

37. Thành ủy Đà Nẵng (1999), Báo cáo tình hình công tác năm 1999, số 49-

BC/TU, Đà Nẵng.

38. Thành ủy Đà Nẵng (2000), Báo cáo tình hình công tác năm 2000 và

phương hướng nhiệm vụ năm 2001, số 66-BC/TU, Đà Nẵng.

39. Thành ủy Đà Nẵng (2001), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng tổ chức

cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh 5 năm (1996-2000), số 34-BC/TU,

Đà Nẵng.

126

40. Thành ủy Đà Nẵng (2002), Báo cáo tổng kết tình hình năm 2001, số 18-

BC/TU, Đà Nẵng.

41. Thành ủy Đà Nẵng (2002), Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ năm

2002, số 03-NQ/TU, Đà Nẵng.

42. Thành ủy Đà Nẵng (2002), Báo cáo tổng kết thực hiện Quy định 17 của

Bộ Chính trị (Khóa VIII), số 46-BC/TU, Đà Nẵng.

43. Thành ủy Đà Nẵng (2003), Báo cáo thành tích thực hiện chỉ thị 37-

CT/TW về công tác cán bộ nữ, số 48-BC/TU, Đà Nẵng.

44. Thành ủy Đà Nẵng (2004), Báo cáo đánh giá kết quả công tác năm

2003, phương hướng nhiệm vụ năm 2004 cơ quan khối Đảng, số 60-

BC/CQKĐ, Đà Nẵng.

45. Thành ủy Đà Nẵng (2005), Báo cáo tình hình công tác năm 2005, số

153-BC/TU, Đà Nẵng.

46. Thành ủy Đà Nẵng (2006), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng tổ chức

cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh 5 năm (2001-2005), số 56-BC/TU,

Đà Nẵng.

47. Thành ủy Đà Nẵng (2006), Báo cáo tổng kết tình hình năm 2006, số 40-

BC/TU, Đà Nẵng.

48. Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng (2001), Lịch sử thành phố Đà

Nẵng, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.

49. http://www.cucthongke.danang.gov.vn

127