MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc.
Hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay có bốn cấp từ
TW đến cơ sở, được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong hệ
thống đó, tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở), là cấp cuối cùng
được lập ra ở các xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn
vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị khác.
Tổ chức cơ sở Đảng là một trong những khâu quan trọng trong hệ
thống tổ chức của Đảng, là hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ sở. Tổ chức cơ sở
Đảng vừa là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng thành hành động cách mạng của đảng viên và quần chúng nhân
dân, vừa là nơi kiểm nghiệm, tập hợp những kinh nghiệm, sáng kiến, trí tuệ
của đảng viên và quần chúng nhân dân từ phong trào ở cơ sở để hình thành
nên đường lối, chính sách của Đảng; đồng thời cũng là nơi tiến hành các hoạt
động xây dựng nội bộ Đảng, lựa chọn, bồi dưỡng, rèn luyện, sàng lọc và kết
nạp đảng viên, đào tạo đội ngũ cán bộ nhằm bổ sung nguồn sinh lực mới, tăng
cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát triển liên
tục của Đảng. Thực tiễn phong phú, sinh động ở cơ sở là một trong những
nguồn trí tuệ cách mạng to lớn của Đảng.
Tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng, là gốc rễ, là những đơn vị cơ bản,
những tế bào của Đảng. Do đó chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng là một yếu
tố quan trọng tạo nên sức mạnh của Đảng và uy tín của Đảng trước quần
chúng nhân dân. Tổ chức cơ sở Đảng mạnh hay không mạnh, việc làm của tổ
1
chức cơ sở Đảng, đảng viên tốt hay không tốt đều có tác động mạnh mẽ đến
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng
công tác xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở Đảng, coi đó là một trong những nhiệm vụ thường xuyên và
quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ mạnh,
chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” [19, tr.92], “Chi bộ là nền móng của
Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc đều sẽ tốt” [19, 210], “Cần phải ra sức củng cố
các chi bộ, để tất cả các chi bộ trở nên thật sự là hạt nhân lãnh đạo của Đảng ở
mọi bộ, mọi ngành, mọi nghề, mọi nơi” [18, 271].
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đã
thu được những thành tựu to lớn, đất nước, xã hội, con người đều đổi mới.
Tuy nhiên trong công tác xây dựng Đảng, còn có mặt chưa đạt so với yêu cầu
nhiệm vụ đề ra: “Không ít tổ chức Đảng yếu kém, nhất là ở cơ sở, không làm
tròn vai trò hạt nhân chính trị và nền tảng của Đảng, không đủ sức giải quyết
những vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở, thậm chí có những tổ chức cơ sở
Đảng tê liệt, mất sức chiến đấu” [14, tr.263].
Những yếu kém của tổ chức cơ sở Đảng đã làm hạn chế năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu và uy tín của Đảng. Chính vì vậy công tác xây dựng, củng
cố tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu cùng chất lượng tổ chức cơ sở Đảng luôn luôn là một nhiệm vụ
chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng - nhiệm vụ then chốt trong sự nghiệp
đổi mới hiện nay.
Từ một thành phố còn bộn bề khó khăn, đời sống của nhân dân còn
thấp, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thành phố Đà Nẵng đã thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, làm cho thành phố có những biến đổi mạnh
mẽ, sâu sắc về mọi mặt.
2
Một trong những nguyên nhân đem lại những thắng lợi của công cuộc đổi
mới 20 năm là do Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng đã coi trọng công tác xây dựng
Đảng, phát huy năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
Bên cạnh những thành công đó, nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng cũng còn một số tồn tại đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu, tổng hợp và rút ra những kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề
đặt ra nhằm đưa công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà Nẵng
đạt được những kết quả cao hơn nữa.
Với những ý nghĩa khoa học thực tiễn đó và để thể hiện tấm lòng tri ân
đối với mảnh đất nơi tôi đang sinh sống và công tác, được sự khuyến khích
của thầy giáo hướng dẫn, tôi chọn đề tài: “Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng
lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở Đảng từ năm 1997 đến năm 2006” cho
luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Quá trình lãnh đạo của Đảng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng đã có nhiều
nhà lãnh đạo và khoa học nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Vấn đề xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà Nẵng cũng có nhiều tài liệu liên
quan. Có thể chia thành các nhóm, loại công trình như sau:
Nhóm thứ nhất là các công trình chung, tiêu biểu là các cuốn sách: Hồ
Chí Minh: Về xây dựng Đảng (Nxb. Sự thật, 1981); Phạm Ngọc Quang, Trần
Đình Nghiêm: Thời kỳ mới và sứ mệnh của Đảng (Nxb. Chính trị quốc gia,
2001); Nguyễn Phú Trọng: Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới
(Nxb. Chính trị quốc gia, 2000); Lê Huy Bảo: Điều lệ Đảng từ Đại hội đến
Đại hội (Nxb. Chính trị quốc gia, 2003); Nguyễn Trọng Phúc: Vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (Nxb. Chính trị quốc
gia, 2003); Nhiều tác giả: Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986
đến nay (Nxb. Chính trị quốc gia, 2006); Nhiều tác giả: Việt Nam 20 năm đổi
mới (Nxb. Chính trị quốc gia, 2006) v.v… Những tác phẩm nói trên chủ yếu
đề cập đến quan điểm, chủ trương, đường lối lãnh đạo xây dựng Đảng của
3
Đảng, trong đó có nội dung về lãnh đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở
Đảng, một vấn đề mà luận văn kế thừa khi giải quyết đề tài.
Nhóm thứ hai là những sách chuyên luận, chuyên khảo về vấn đề xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng như: Mạch Quang Thắng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đảng Cộng sản (Nxb. Chính trị quốc gia, 1995); Nguyễn Trọng Phúc: Tìm hiểu
Đảng Cộng sản Việt Nam qua các Đại hội và hội nghị TW (1930-2002) (Nxb.
Lao động, 2003); Nguyễn Hữu Tri, Nguyễn Thị Phương Hồng: Một số vấn đề
đổi mới tổ chức bộ máy Đảng Cộng sản Việt Nam (Nxb. Chính trị quốc gia,
2004); Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh: Công tác xây dựng Đảng trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (Nxb. Lao động, 2006); Ngô Đăng Tri: Xây
dựng Đảng qua các thời kỳ cách mạng (1930-2006) in trong Một số chuyên đề
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập III (Nxb. Giáo dục, 2007) v.v… Nhóm
công trình này cung cấp cho đề tài tư liệu và sự nhìn nhận khái quát về xây
dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng, trong đó có tổ chức cơ sở Đảng.
Hiện nay chưa có một công trình khoa học cụ thể nào đi sâu nghiên cứu
về công công tác xây dựng Đảng tại Thành phố Đà Nẵng, nhất là trong thời
kỳ đổi mới. Những công trình trên góp phần cung cấp cơ sở phương pháp
luận chung, cách tiếp cận vấn đề, hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng
về công tác xây dựng Đảng, từ đó luận văn cố gắng làm rõ thêm những thành
tựu, hạn chế cũng như rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
- Phân tích quá trình xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành
phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến năm 2006.
* Nhiệm vụ:
- Sưu tầm, tổng hợp, hệ thống hóa tư liệu lịch sử về quá trình xây dựng,
củng cố tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng từ năm 1997
đến năm 2006.
4
- Hệ thống hóa các chủ trương, biện pháp và cách thức tổ chức thực
hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà
Nẵng từ năm 1997 đến năm 2006.
- Nêu lên những nhận xét, rút ra những kinh nghiệm và đặt ra những
vấn đề góp phần phục vụ công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch,
vững mạnh ở Thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
- Chủ trương, biện pháp lãnh đạo và kết quả của công tác tổ chức xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến
năm 2006.
- Kết quả lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ
Thành phố Đà Nẵng.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung nghiên cứu của luận văn là về quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ thành phố (chính trị, tư tưởng,
củng cố cơ sở Đảng, phát triển đảng viên, công tác cán bộ, công tác kiểm tra
và kỷ luật); tổng kết thành tựu, hạn chế, những kinh nghiệm trong xây dựng tổ
chức cơ sở Đảng ở Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng.
- Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng
xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong 10 năm từ năm 1997 đến năm 2006.
- Không gian mà đề tài nghiên cứu là ở Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu chủ yếu
* Cơ sở lý luận:
Chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng Cộng sản và tư tưởng Hồ Chí Minh về
Đảng Cộng sản Việt Nam.
5
* Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp lịch sử, phương pháp logíc và sự kết hợp 2 phương pháp
đó là phương pháp chính để thực hiện đề tài. Ngoài ra trong quá trình hoàn
thành luận văn, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
Phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích số
liệu, phương pháp so sánh, phương pháp đối chiếu... để làm rõ và phong phú
thêm những nội dung cần thể hiện.
* Nguồn tư liệu sử dụng:
- Văn kiện của TW Đảng (Đại hội Đảng toàn quốc, Hội nghị BCHTW,
BCT, Ban Bí thư, BTC) và của Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (1986-1996),
Thành phố Đà Nẵng (1997 - 2006).
- Các sách, báo, tạp chí nghiên cứu về Lịch sử Đảng và Xây dựng Đảng.
- Nguồn tư liệu chính được sử dụng trong luận văn là các Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (từ khoá XVII đến khoá XIX), các nghị
quyết chuyên đề, các chương trình hành động, các bản báo cáo tổng kết công
tác xây dựng Đảng hàng năm, từng khoá, từng giai đoạn. Những tài liệu này
đã cung cấp chủ trương, đường lối, nhiệm vụ và kết quả đạt được trong công
tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng.
- Ngoài ra còn có các công trình liên quan trực tiếp đến lãnh đạo xây
dựng Đảng nói chung, tổ chức cơ sở Đảng nói riêng ở Thành phố Đà Nẵng:
như Lịch sử Đảng bộ Quang Nam - Đà Nẵng, (Sơ thảo) tập I, II, III, Lịch sử
Thành phố Đà Nẵng, xuất bản năm 2001. Đây là những công trình rất quan
trọng, cung cấp cho tác giả những số liệu, nội dung cần thiết và những thông
tin có giá trị, một cách nhìn tổng quát cho việc nghiên cứu đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần nghiên cứu quá trình xây dựng, củng cố và phát triển tổ
chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên ở Đảng bộ Tành phố Đà Nẵng.
6
- Phân tích những kinh nghiệm và nêu ra những vấn đề cần giải quyết
trong xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Tành phố Đà Nẵng thời kỳ
1997 - 2006.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu về công tác
xây dựng Đảng ở Đảng bộ Tành phố Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
cấu trúc của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về Thành phố Đà Nẵng và thực trạng xây dựng
tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà Nẵng từ năm 1986 đến năm 1996.
Chương 2: Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng lãnh đạo tổ chức xây dựng cơ
sở Đảng từ năm 1997 đến năm 2006.
Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm.
7
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
VÀ THỰC TRẠNG XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1996
1.1. Tổng quan về Thành phố Đà Nẵng
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Trong lịch sử dân tộc, Đà Nẵng được biết đến không chỉ là một thành
phố cảng lớn nhất miền Trung Việt Nam mà còn là một địa danh gắn liền với
công cuộc mở mang bờ cõi Đại Việt từ nhiều thế kỉ trước. Dấu vết của một
cửa ngõ giao lưu quốc tế gắn liền với xứ Đàng Trong vẫn còn, và trong dư ba
của lịch sử, đây là một tiền đồn quan trọng trong công cuộc chống ngoại xâm
của dân tộc Việt Nam.
Theo ngôn ngữ Chăm, địa danh “Đà Nẵng” có thể được giải thích là
“sông lớn”, “cửa sông lớn”. Địa danh này đã được ghi chú trên các bản đồ
được vẽ từ thế kỉ XVI trở đi. Điều đó có nghĩa là, từ rất sớm, trong cách hình
thành tên gọi, tính chất cửa sông lớn, tính chất cảng thị đã được lưu ý như một
điểm quan trọng của thành phố [38, tr.14].
Năm 1858, Pháp xâm lược Việt Nam khởi đầu bằng cuộc tấn công vào
Đà Nẵng. Sau khi thành lập Liên bang Đông Dương thì Pháp tách Đà Nẵng
khỏi Quảng Nam với tính cách là một nhượng địa (concession) và đổi tên là
Tourane. Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền
Đông Dương thay vì triều đình Huế - tuy thị trấn này nằm trong xứ Trung Kỳ.
Tháng 3 năm 1965, Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn
cứ quân sự hỗn hợp lớn. Năm 1967, Đà Nẵng là thành phố trực thuộc TW của
chính quyền Việt Nam Cộng, là trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa của
vùng I và II chiến thuật.
8
Kể từ sau ngày kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng, nước
nhà thống nhất (1975), hai tỉnh Quảng Đà và Quảng Nam nhập lại thành một
Quảng Nam - Đà Nẵng. Thành phố Đà Nẵng có hơn hai thập kỷ là thủ phủ
của tỉnh Quang Nam - Đà Nẵng, gắn bó cùng nhau khôi phục những hậu quả
nặng nề của cuộc chiến tranh, vượt qua mọi thử thách trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ quê hương, để vươn tới công cuộc đổi mới cùng cả nước.
Ngày 06 tháng 11 năm 1996, tại kỳ họp thứ 10, khóa IX, Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra nghị quyết quyết định tách
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam và Thành phố Đà Nẵng
trực thuộc TW.
Nằm ở tọa độ 108o10‟30” đến 108o20‟30” kinh tuyến Đông và 16o đến 16o17‟30” vĩ tuyến Bắc, Thành phố Đà Nẵng ngày nay trải rộng trên một diện tích 1248,4 km2 bao gồm vùng nội thành có diện tích 205,87 km2 gồm 5 quận
(Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn và Liên Chiểu) chia làm 33
phường nằm dọc theo con sông Hàn và huyện Hòa Vang với 14 xã và huyện
đảo Trường Sa.
Với vị trí địa lý nằm ở trung độ của Việt Nam, trên trục giao thông
huyết mạch Bắc Nam về cả đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng
không, là cửa ngõ giao thông quan trọng của cả miền Trung và Tây Nguyên,
là điểm cuối của hành lang kinh tế Đông Tây đi qua các nước Myanma, Lào,
Thái Lan, Việt Nam, Đà Nẵng trở thành cửa ngõ giao thông quan trọng giữa
các địa phương trong cả nước, giữa nước ta với các nước trong khu vực và
trên thế giới, kể cả đường bộ. đường biển, đường hàng không, Đà Nẵng trở
thành một trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, là nơi hội
tụ các công ty lớn của ngành công nghiệp như dệt may, sản xuất hàng tiêu
dùng, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất vật
liệu xây dựng, ngoài ra Đà Nẵng còn là trung tâm lớn nhất của khu vực miền
Trung - Tây Nguyên về lĩnh vực tài chính, ngân hàng và giáo dục đào tạo.
9
Ngoài sự ưu đãi của thiên nhiên cho Đà Nẵng, thành phố còn được bao
bọc bởi ba Di sản văn hóa thế giới: Huế, Hội An, Mỹ Sơn. Xa hơn một chút
nữa là di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia phong Nha - Kẻ Bàng. Vì
thế Đà Nẵng được xem là điểm trung chuyển quan trọng trên con đường di
sản miền Trung. Nhờ vậy Đà Nẵng được xem là thành phố của du lịch, thành
phố của những di tích và của những danh lam thắng cảnh. Do nằm trong một
địa hình đặc biệt, có núi rừng, trung du, đồng bằng, biển cả… Đà Nẵng mang
trong mình một vẻ đẹp đa dạng. Có cái hùng vĩ, phóng khoáng của núi cao và
cái mênh mông, trữ tình của biển cả; có cái mềm mại, khỏe khoắn của sông
ngòi và cũng có những góc khuất, những đường vòng của đèo cao; có cái mơ
mộng, dịu dàng của bờ cát, của bến sông và cũng có cái tráng lệ, mạnh mẽ
của phố xá, của những tượng đài, cao ốc…
Với tất cả những thế mạnh đó, cùng với sự lãnh đạo của Đảng bộ thành
phố và lòng quyết tâm của nhân dân, Đà Nẵng sẽ trở thành một trung tâm
kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội của cả nước.
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đặc biệt là đường lối đổi mới
được đề ra từ Đại hội lần thứ VI, Đảng bộ và nhân dân Thành phố Đà Nẵng
đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, từng bước xây dựng thành phố trở thành
một trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội của miền Trung cũng như
của cả nước.
Từ năm 1997, khi trở thành thành phố trực thuộc TW, Đà Nẵng đã có
nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Trong hơn 10 năm qua, Đà Nẵng đã liên
tục thay đổi gương mặt của mình. Chưa bao giờ trong quá trình phát triển, Đà
Nẵng quyết liệt như thế trong nhu cầu tự làm mới mình. Sự phát triển Đà
Nẵng vừa là nhu cầu tự thân, vừa là để đáp ứng yêu cầu của một thành phố
đầu tàu có sứ mệnh thúc đẩy phát triển đối với miền Trung trong giai đoạn
mới của đất nước.
10
Với một vị trí đặc biệt thuận lợi về giao thông, đường hàng không cũng
như đường biển, Đà Nẵng là một thương cảng lớn thứ 3 của nước ta, đây là
một thuận lớn rất lớn để Thành phố Đà Nẵng phát triển giao thông đường biển
ra thế giới, khu vực và trong nước nói riêng, phát triển kinh tế nói chung.
Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, bằng những
vận động nội lực thành phố Đà Nẵng ngày càng mở rộng tầm vóc của mình.
Bắt đầu từ kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là cơ sở về hạ tầng giao
thông, tiến hành chỉnh trang đô thị, xây dựng một môi trường mới hiểu theo
nghĩa rộng, tạo điều kiện cho công cuộc phát triển mới. Khai thác tốt những
lợi thế sẵn có, trong những năm qua Đà Nẵng đã có những biến đổi rõ rệt về
nhịp độ và khí thế phát triển. Tốc độ GDP bình quân tăng cao hơn mức bình
quân chung của cả nước, giá trị sản xuất các mặt hàng công nghiệp, nông
nghiệp, thủy sản phát triển toàn diện… kim ngạch xuất khẩu tăng, các ngành
du lịch thương mại, dịch vụ chuyển biến tích cực.
- Trong lĩnh vực phát triển kinh tế, thành phố chủ trương lấy công
nghiệp làm đòn bẩy phát triển, cơ cấu kinh tế Đà Nẵng có chuyển dịch đáng
kể theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ phù hợp với xu
thế chung của cả nước và những đô thị lớn. Để chuẩn bị cho một cuộc bứt phá
của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, với vai trò đầu tàu của mình, những
năm qua, Đà Nẵng đã nỗ lực cải thiện hình ảnh và vị thế của mình để đáp ứng
yêu cầu chung của khu vực.
Với vị thế là trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung - Tây Nguyên,
Đà Nẵng là nơi hội tụ các công ty lớn của các ngành dệt may, sản xuất hàng
tiêu dùng, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng… Hiện nay Thành phố Đà Nẵng cũng là trung tâm lớn nhất
của khu vực miền Trung - Tây Nguyên về lĩnh vực tài chính ngân hàng với
hơn 40 ngân hàng thương mại nhà nước, thương mại cổ phần, liên doanh, và
công ty tài chính đang hoạt động, cùng với hàng chục trung tâm giao dịch
11
chứng khoán quy mô lớn… ngoài ra Thành phố Đà Nẵng hiện được xem là
một trong ba trung tâm bưu chính lớn nhất nước với tất cả các loại hình phục
vụ hiện đại và tiện lợi.
Bên cạnh đó, thành phố còn được sự ưu ái của thiên nhiên với nhiều
danh lam thắng cảnh, do đó du lịch cũng được coi là thế mạnh và góp phần
không nhỏ và sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Về giáo dục, đào tạo, Đà Nẵng là một trung tâm giáo dục đào tạo lớn
nhất của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và thứ 3 cả nước (sau Hà Nội và
TP. Hồ Chí Minh), hiện nay, Đà Nẵng có 15 trường đại học, học viện, 17
trường cao đẳng; nhiều trường trung cấp chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề
và hơn 200 trường học từ bậc học phổ thông tới ngành học mầm non.
Đà Nẵng đã và đang hướng tới mục tiêu xây dựng thành phố “thành một
trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của miền
Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại du lịch và dịch vụ; là
thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải
trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính - viễn thông và tài chính - ngân
hàng; một trong những trung tâm văn hóa - thể thao, giáo dục - đào tạo và khoa
học công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về
quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước. Đà Nẵng phấn đấu
để trở thành một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH
và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020” [13, tr.3].
1.2. Thực trạng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà
Nẵng trong 10 năm đổi mới từ năm 1986 đến năm 1996
1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng
trong thời kỳ đổi mới
Sau khi đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải
phóng Tổ quốc, thực hiện thống nhất nước nhà, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân
12
cả nước tiến vào giai đoạn cách mạng mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng, từ tháng
3/1982 đến tháng 12/1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt
được những thành tựu quan trọng: ngăn chặn được đà giảm sút trong sản xuất
nông nghiệp và công nghiệp; cơ sở vật chất - kỹ thuật bước đầu được xây
dựng; giành thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc; thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế với Lào và Campuchia… Bên cạnh đó
vẫn còn nhiều khó khăn đặt ra đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải giải quyết:
“Đời sống của nhân dân, nhất là công nhân, viên chức còn nhiều khó khăn.
Nhiều người lao động chưa có và chưa đủ việc làm. Nhiều nhu cầu chính
đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hoá chưa được bảo
đảm” [15, tr.320]; hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển. Công bằng xã
hội bị vi phạm. Pháp luật, kỷ cương không nghiêm, những hành vi lộng
quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước, những hoạt
động của bọn làm ăn phi pháp... chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời.
“Thực trạng nói trên làm giảm lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo
của Đảng và sự điều hành của các cơ quan nhà nước” [15, tr.320].
Trong bối cảnh đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội và yêu
cầu bức thiết đặt ra là phải đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 5-18/12/986.
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật” Đại hội đã thẳng thắn đánh giá những thành tựu, chỉ ra những sai lầm,
khuyết điểm, những khó khăn của đất nước. Đại hội khẳng định sai lầm chủ
yếu của Đảng trong thời gian qua là “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ
và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh
hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm
chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng” [15, tr.327]. Những sai lầm và
13
khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội “bắt nguồn từ những khuyết điểm
trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân” [15, tr.327].
- Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan
liêu, lời nói không đi đôi với việc làm, không tuân thủ quy trình làm việc và
ra quyết định. “Trong các đảng bộ và các cấp uỷ có sự vi phạm nguyên tắc
lêninnít trong sinh hoạt Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng
cấp trên, toàn Đảng phục tùng TW” [15, tr.328].
- “Về mặt tổ chức, đã để cho bộ máy nhà nước, bộ máy của Đảng và
các đoàn thể phình ra quá lớn, chồng chéo và phân tán” [15, tr.329].
Trên cơ sở của những thành tựu, sai lầm, khuyết điểm và những nguyên
nhân của các yếu kém trên tất cả các mặt, nhất là trong công tác xây dựng
Đảng, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó đổi mới kinh tế
là trọng tâm, nhất là tư duy về kinh tế, trên cơ sở thành tựu đạt được trên lĩnh
vực kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị.
Về phương hướng xây dựng Đảng, Đại hội khẳng định “Đảng phải
chăm lo xây dựng mình vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, để từ đó
tác động quyết định đến sự phát triển của cách mạng nước ta” [15, tr.414].
- “Tổ chức cơ sở phải là người nắm vững và bảo đảm cho mọi hoạt
động ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Công
tác quần chúng có vị trí quan trọng trong hoạt động của tổ chức cơ sở. Mỗi
chi bộ, đảng viên phải chăm lo giáo dục chính trị, tư tưởng cho quần chúng và
bằng hành động gương mẫu của người cộng sản mà động viên quần chúng
phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ lao động sản xuất và chiến đấu. Tổ chức
cơ sở Đảng, mà trực tiếp là chi bộ cần chăm lo việc giáo dục, rèn luyện đảng
viên; đảng viên nào cũng được giao công tác và phải làm tròn nhiệm vụ. Đi
đôi với việc kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách, cần
14
thu hút vào Đảng những người ưu tú xuất hiện trong phong trào cách mạng
của quần chúng” [9, tr.141-142].
- Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Tổ chức cơ sở Đảng
phải là nơi nắm vững và bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, chăm lo việc giáo dục, rèn luyện đảng
viên, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách và thu hút vào
Đảng những người ưu tú xuất hiện trong phong trào cách mạng của quần chúng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là Đại hội có ý nghĩa
lịch sử to lớn, đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quá trình kế thừa và
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đường lối đổi
mới toàn diện đất nước là cơ sở hết sức quan trọng để tăng cường hơn nữa sự
đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và toàn dân để vượt qua mọi khó khăn,
thử thách, xây dựng thành công CNXH ở nước ta.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ VI, toàn Đảng,
toàn dân ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, khắc phục từng bước
những sai lầm, khuyết điểm trước đây, mở ra những hướng mới, cách làm
mới nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội và từng bước
đưa đất nước phát triển.
Những thành tựu đạt được trong 5 năm đầu đã chứng tỏ đường lối đổi
mới do Đại hội lần thứ VI đề ra là đúng đắn, đây là cơ sở quan trọng để Đại
hội lần thứ VII (1991) đề ra phương hướng, kế thừa và tiếp tục phát triển
đường lối đổi mới. Đại hội khẳng định công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
hiện nay “đòi hỏi Đảng nhất thiết phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một
nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự
nghiệp đổi mới, sự ổn định và phát triển của đất nước và đối với vận mệnh
của bản thân Đảng. Đây cũng là nguyện vọng và đòi hỏi của nhân dân” [16,
tr.212]. Về công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, Đại hội nêu rõ:
15
- “Chấn chỉnh tổ chức và hoạt động của các tổ chức cơ cở đảng cho phù
hợp với sự thay đổi của các tổ chức kinh tế, xã hội và phương thức lãnh đạo của
Đảng trong tình hình mới. Khắc phục bằng được tổ chức cơ sở Đảng kém nát.
Chú ý củng cố tổ chức Đảng ở các vùng tôn giáo, dân tộc thiểu số” [16, tr.125].
- Làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Mọi đảng viên phải ra sức rèn luyện, học tập để có đủ phẩm chất, kiến thức và
năng lực phù hợp với nhiệm vụ được giao. Các cấp ủy đảng phải thường
xuyên tổ chức bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất và trình độ nhận thức về các
mặt của đảng viên.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng là "Đại hội của
trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết", Đại hội diễn ra trong bối
cảnh trong nước cũng như thế giới có nhiều khó khăn phức tạp, song với tinh
thần cách mạng, Đảng ta khẳng định kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới được Đảng đề ra tại Đại
hội lần thứ VI. Kết quả của Đại hội lần thứ VII của Đảng đã từng bước đặt
nền tảng vững chắc cho thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta.
Sau mười năm tiến hành đổi mới, 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991), tháng 6/1996 Đại hội
lần thứ VIII của Đảng họp để tổng kết 10 năm đổi mới đồng thời vạch ra
những phương hướng mục tiêu nhiệm vụ của toàn Đảng và toàn dân ta trong
thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đánh giá về công tác xây dựng Đảng, văn kiện Đại hội lần thứ VIII đã
nhận định "Toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới gắn liền
với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng ta. Sự lãnh đạo và hoạt động
của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới. Đồng
thời chính trong quá trình lãnh đạo đổi mới mà Đảng ngày càng trưởng thành,
nhận rõ hơn những mặt yếu kém của mình để có biện pháp khắc phục. Thắng
16
lợi của công cuộc đổi mới chứng tỏ: Đảng ta tiếp tục giữ vững và phát huy
được bản lĩnh và kinh nghiệm của các thời kỳ trước, lãnh đạo có kết quả công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong những tình huống mới hết sức phức
tạp” [11, tr.135].
Để tăng cường và thực hiện có kết quả công tác xây dựng chỉnh đốn
Đảng phục vụ yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Nghị quyết Đại hội
lần thứ VIII của Đảng đã xác định tập trung làm tốt những nhiệm vụ sau:
1- Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
2- Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên.
3- Củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung
dân chủ.
4- Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ.
5- Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
6- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
7- Đổi mới công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng [11, tr.139-151].
Để nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, Nghị quyết Đại hội
chỉ rõ phương hướng chủ yếu “là làm cho các cơ sở này quán triệt đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước, đề ra được chủ trương, giải pháp đúng và
lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ của đơn vị, phát triển kinh tế, xóa
đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao động, chống tham nhũng ức
hiếp quần chúng, lãnh đạo giải quyết những nguyện vọng chính đáng, thiết thực,
bức xúc của nhân dân. Chấn chính và cải tiến sinh hoạt Đảng; có quy định chặt
chẽ đối với những trường hợp đảng viên đi công tác, làm việc lưu động ở nơi xa,
ở nước ngoài. Thực hiện có nền nếp quản lý đảng viên” [11, tr.148].
Đại hội Đại biểu lần thứ VIII của Đảng đánh dấu bước ngoặt chuyển
đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định
hướng XHCN, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác
17
với nhân dân trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh
dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ 21.
Để bổ sung và củng cố nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và vai trò
tiên phong gương mẫu của đảng viên, ngày 26/11/1996, Bộ Chính trị quy định
về chức năng nhiệm vụ của đảng viên chi bộ cơ sở.
- Quy định số 16/QĐ - TW Về chức năng nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ
trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần tư [20, tr.34].
- Quy định số 15/QĐ - TW Về chức năng nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài [21, tr.29].
1.2.2. Thực trạng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà
Nẵng trong 10 năm đổi mới từ năm 1986 đến năm 1996
Bước vào thời kỳ đổi mới cùng cả nước, Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng
(trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng) có 95 tổ chức cơ sở Đảng, với 2.673
đảng viên, phân bố không đều. Trong tổng số 2.673 đảng viên của Đảng bộ,
có 15,86% đảng viên trẻ (từ 18 đến 30 tuổi). Ở các chi, đảng bộ xã, tiểu khu,
HTX tiểu thủ công nghiệp, đảng viên ở độ tuổi trên 50 chiếm tỷ lệ rất cao,
nhiều đảng viên chưa đề cao ý thức tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập
thể của quần chúng, công tác phát triển Đảng còn chậm, “năm 1985 mới kết
nạp được 265 đảng viên, số Đảng bộ, Chi bộ vững mạnh đạt 25,70%, số cơ sở
loại khá đạt 70%, số đơn vị yếu kém còn 4,30%” [1, tr.21].
Tính đến cuối năm 1987, “Đảng bộ thành phố có 70% chi bộ, đảng bộ
cơ sở làm tốt công tác cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng. Số
đảng viên tích cực đạt tỷ lệ 77,1% (tăng 17,2% so với năm 1986). Số đảng
viên mới được kết nạp trong năm 1987 tăng 20% so với năm 1985 và tăng
70% so với năm 1986, có trình độ văn hoá và kỹ thuật, có tinh thần trách
nhiệm trong công tác" [42, tr.42-43].
18
Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng bộ thành phố không
đều. Số đảng viên trung bình và kém còn chiếm 20,9%. Ở các cơ sở Đảng,
việc thực hiện nguyên tắc tập trung, dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách chưa tốt; việc tổ chức sơ, tổng kết rút kinh nghiệm chưa kịp thời; có
việc, có mặt chỉ đạo chưa chặt chẽ, đồng bộ. Một số cơ sở Đảng thiếu chủ
động, sáng tạo, còn trông chờ, ỷ lại [42, tr.48].
Cuối năm 1987, Đảng bộ thành phố tiếp nhận một số cơ sở Đảng do
Tỉnh uỷ Quảng Nam bàn giao, do vậy số lượng cơ sở Đảng từ 95, với 2.763
đảng viên tăng lên đến 147 cơ sở Đảng và 7.764 đảng viên. Đầu năm 1988,
Đảng bộ thành phố tiếp nhận thêm một số cơ sở Đảng, nâng số đảng viên của
Đảng bộ lên tới 8.207 đồng chí, sinh hoạt trong 186 tổ chức cơ sở Đảng. Đáng
nói là hiện tượng số đảng viên phân bố không đều.
Nhằm đẩy mạnh công tác phát triển Đảng của các tổ chức cơ sở Đảng,
ngày 15/11/1988, BTV Thành uỷ ra Nghị quyết số 153 Về công tác phát triển
Đảng chỉ rõ trách nhiệm cụ thể của từng cấp uỷ, chi bộ đối với công tác phát
triển Đảng; giao nhiệm vụ cho Đoàn Thanh niên giáo dục, lựa chọn, bồi
dưỡng đoàn viên ưu tú giới thiệu để Đảng xem xét kết nạp. Sau 3 tháng,
Thành đoàn đã giới thiệu cho Đảng được gần 750 đoàn viên ưu tú và kết nạp
được 78 đảng viên mới, nâng số đảng viên mới được kết nạp năm 1988 lên
274 đồng chí (68% là đoàn viên thanh niên [42, tr.69].
Tháng 9 năm 1989, Đại hội lần thứ IV Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng
xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng 2 năm 1990-1991 đó là “tăng cường công
tác xây dựng Đảng, nhanh chóng kiện toàn tổ chức, nhất là tổ chức cơ sở, làm
tốt công tác cán bộ, nâng cao chất lượng đảng viên, đẩy mạnh cuộc vận động
xây dựng chi bộ, đảng bộ vững mạnh và trong sạch. Tăng cường công tác tư
tưởng. Tiến hành cuộc vận động xây dựng, thường xuyên tự phê bình và phê
bình. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên mới, kiên quyết đưa ra khỏi
19
đảng những đảng viên không đủ tư cách. Tiến hành tốt công tác phát thẻ đảng
viên” [2, tr.27].
Năm 1989, Đảng bộ thành phố có 157 tổ chức cơ sở Đảng với 9.538
đảng viên trong đó đảng viên dự bị là 513 người. Kết quả loại như sau: “Dự
phân loại 8.937 (93,70%) ; đảng viên đủ tư cách: 7.623 (85,30%); đảng viên
không đủ tư cách 498 (5,58%); đảng viên phải xem xét 223 (2,5%); phải đưa
ra ngay khỏi Đảng 9 (0,10%)” [23, tr.1].
Ngày 13/7/1991, BTV Thành uỷ thông qua Nghị quyết số 97/NQ-TP
“Về thực hiện Nghị quyết 08 của Tỉnh uỷ về nhiệm vụ trước mắt của công tác
tư tưởng”, nhằm nâng cao chất lượng và vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng trong toàn Đảng bộ thành phố gắn liền với nhiệm vụ phân loại và phát
thẻ đảng viên [24, tr.1-2].
Năm 1991, toàn Đảng bộ có 169 tổ chức cơ sở Đảng với 11.172 đảng viên.
Căn cứ yêu cầu của TW “Về phát thẻ đảng viên” và Nghị quyết số 25
của Tỉnh uỷ “Về việc tăng cường củng cố cơ sở Đảng, làm tốt công tác phát
thẻ đảng viên”, qua hơn 2 năm tiến hành phát thẻ đảng, với nguyên tắc và
phương pháp xử lý “cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về phương pháp”, năm
1991 “có 10.328 đảng viên/11.172 đảng viên được công nhận đủ tư cách đảng
viên, được làm thẻ Đảng chiếm 92,45% số đảng viên toàn Đảng bộ, 168/169
tổ chức cơ sở Đảng được phát thẻ đảng chiếm 99,4% số tổ chức cơ sở Đảng
trong toàn Đảng bộ thành phố. Công tác phát thẻ đảng viên có tác dụng thiết
thực quan trọng, giúp đảng viên và cơ sở Đảng xác định đúng vai trò, vị trí
lãnh đạo, chiến đấu của mình, trở thành những nhân tố quan trọng quyết định
thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của thành phố” [24, tr.2].
Song song với nhiệm vụ phát thẻ đảng viên và thực hiện Nghị quyết 25
của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng về “Tăng cường củng cố cơ sở Đảng, làm tốt
công tác phát thẻ đảng viên”, Thành uỷ Đà Nẵng rất coi trọng công tác củng
cố, kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng, coi đó là điều kiện cơ sở để quyết định trao
20
thẻ đảng viên cho các chi, đảng bộ. “Nhiều cơ sở, cấp uỷ khuyết, yếu được bổ
sung thay thế, nhờ vậy nâng cao được sự hoạt động của cấp uỷ, bảo đảm sự
lãnh đạo đối với các mặt công tác” [24, tr.6].
Một số tổ chức cơ sở Đảng yếu kém đã được Thành uỷ tập trung chỉ
đạo cử nhiều cán bộ xuống trực tiếp tăng cường giúp cơ sở củng cố. Nhờ vậy
qua phân loại, năm 1992, Đảng bộ thành phố có 165 tổ chức cơ sở Đảng:
Vững mạnh 32 (19,3%); khá 115 (69,8%); yếu từng mặt: 169 (7%); yếu kém
2 (1,2%), không có cơ sở kém nát.
Cùng với việc củng cố tổ chức cơ sở Đảng, công tác phát triển Đảng
cũng được chú trọng. Trong 3 năm 1990-1992, dưới sự chỉ đạo của Thành uỷ,
ở 120 tổ chức cơ sở Đảng đã phát triển được 1.174 đảng viên mới [3, tr.13].
Công tác kiểm tra đã giúp cấp uỷ xử lý kỷ luật đảng viên đảm bảo
phương châm: Công minh, thận trọng, chính xác, kịp thời. Tính từ đầu Đại
hội IV Đảng bộ thành phố (5/1989) đến hết năm 11/1992, Thành uỷ và các tổ
chức cơ sở Đảng tiến hành kiểm tra đảng viên vi phạm kỷ luật và đã xử lý kỷ
luật 516 vụ. Biểu hiện sai phạm là bỏ công tác, sinh hoạt 45 vụ; giác ngộ
chính trị quá thấp 48 vụ; thiếu trách nhiệm 97; tham ô, móc ngoặc 102… Số
người bị kỷ luật chiếm 4,4% so với tổng số đảng viên, trong đó khai trừ chiếm
1,1% [3, tr.18].
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991),
Nghị quyết Đại hội lần thứ V Đảng bộ thành phố (11/1992) đã nhấn mạnh
công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong nhiệm kỳ 5 năm 1992-1996 là:
“phấn đấu trong 3 năm tới không còn cơ sở Đảng yếu kém. Bảo đảm chế độ
sinh hoạt Đảng đều đặn, đúng nội dung, tự phê và phê bình, tăng cường đoàn
kết thống nhất. Đưa công tác quản lý đảng viên vào nề nếp. Công tác phát
triển Đảng viên mới phải tiến hành thường xuyên. Các đảng uỷ cơ sở đều phải
thành lập ban kiểm tra và tăng cường công tác kiểm tra, giữ gìn nề nếp, kỷ
luật của Đảng” [3, tr.29].
21
Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội lần thứ V Đảng bộ thành phố (11/1992),
BCH Thành uỷ họp ngày 15/12/1992 ra Nghị quyết số 02/NQ-ĐN Về những
nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 1993 xác định “tăng cường công tác tư
tưởng kết hợp với công tác tổ chức để xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng
viên có đủ năng lực, có phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, kịp thời
đưa những phần tử thoái hoá biến chất về chính trị, phẩm chất ra khỏi Đảng,
đồng thời đưa những quần chúng cách mạng có đủ tiêu chuẩn bổ sung cho đội
ngũ của Đảng” [25, tr.5].
Ngày 20/11/1994, Thành uỷ thông qua Nghị quyết số 234/NQ-TU Về
việc chỉ đạo kiểm tra và giải quyết cơ sở Đảng yếu - kém, trong đó sẽ “chỉ
đạo kiểm tra ở 2 đảng bộ và chỉ đạo giải quyết dứt điểm 3 cơ sở Đảng yếu
kém kéo dài” [26, tr.1-2].
Tính đến hết năm 1994, Thành uỷ đã tập trung giải quyết 10 cơ sở yếu
kém, mở 4 hội nghị trao đổi kinh nghiệm củng cố cơ sở yếu kém và hướng
dẫn đại hội ở cơ sở [27, tr.4-5].
Ngày 27/1/1995, Thành uỷ thông qua Nghị quyết số 09/NQ-TU của
BTV về một số công tác trước mắt trong xây dựng Đảng đảm bảo hoàn thành
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của thành phố năm 1995 trong đó xác định 4 nội
dung cụ thể: “(1)- Đẩy mạnh việc xây dựng Đảng bộ cơ sở trong sạch, vững
mạnh; (2)- Tiếp tục kiện toàn cán bộ và đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ cốt cán; (3)- Nâng cao chất lượng lãnh đạo của các cấp uỷ từ cơ sở
đến thành phố; (4)- Tăng cường công tác quần chúng của Đảng” [28, tr.2-6].
Năm 1995, quán triệt Nghị quyết 15 của BTV Tỉnh uỷ, Thành uỷ đã chấn
chỉnh củng cố nhiều cơ sở Đảng yếu kém, đã chỉ đạo đại hội ở các cơ sở Đảng.
Tính cả nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ thành phố khoá V (11/1992 đến
3/1996), các cấp uỷ từ thành phố xuống cơ sở đã kết nạp được 652 đảng viên
mới, trong đó, trình độ đại học chiếm 33,9%; nữ chiếm 27%; thành phần giai
22
cấp công nhân chiếm 34%; cán bộ công nhân viên chiếm 33%; ở phường, xã,
hợp tác xã thủ công chiếm 7% [4, tr.27].
Trong 3 năm (1993-1995), Thành uỷ tập trung lãnh đạo kiểm tra,
hướng dẫn các tổ chức cơ sở Đảng tự kiểm tra. Công tác kiểm tra Đảng đều
gắn với nhiệm vụ chính trị, giáo dục ngăn ngừa vi phạm kỷ luật “từ xa”, nhờ
vậy số đảng viên vi phạm kỷ luật đã giảm dần từ 1,26% (1992) xuống 0,85%
(1995), đã kiểm tra và kết luận 112/121 vụ (92,5%) [29, tr.11]. Tính chung
công tác thi hành kỷ luật nhiệm kỳ khoá V đã đưa ra khỏi Đảng 133 đảng
viên, kỷ luật từ khiển trách trở lên 155 đảng viên, làm trong sạch đội ngũ
đảng viên, củng cố cơ sở Đảng vững mạnh, giữ vững sự đoàn kết nhất trí
trong nội bộ Đảng [30, tr.4].
Dưới sự chỉ đạo của Thành uỷ, phong trào thi đua được phát triển và
mở rộng trong toàn Đảng bộ, đã có 23 đảng bộ, chi bộ giữ vững cờ vững
mạnh 5 năm liên tục (1991-1995), 20 cơ sở từ khá vươn lên vững mạnh, tuy
có 1 số cơ sở yếu kém vươn lên, song cũng có 1 số cơ sở ngược lại từ vững
mạnh xuống khá, hoặc yếu. Tính đến hết năm 1995, Đảng bộ thành phố đã
thanh toán xong tổ chức cơ sở Đảng kém nát.
Trong 10 năm (1986-1996), Đảng bộ thành phố có nhiều biến động về
tổ chức (chuyển giao, tiếp nhận, phân cấp quản lý), sắp xếp lại tổ chức (thành
lập các đảng bộ và chỉ định cấp uỷ lâm thời), đảng bộ cơ sở với đủ các loại
hình cơ sở Đảng đã luôn luôn bám sát nhiệm vụ chính trị lãnh đạo nhân thành
phố hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị
của địa phương gắn liền với sự tiến bộ trong hoạt động của hệ thống Đảng,
chính quyền và đoàn thể quần chúng. Nắm vững các nghị quyết, nội dung các
cuộc vận động xây dựng Đảng vững mạnh, trong sạch, Thành Đảng bộ Đà
Nẵng đã có nhiều chủ trương, kế hoạch cụ thể để nhanh chóng kiện toàn và
củng cố hệ thống chính trị từ thành xuống các cơ sở, mà hạt nhân lãnh đạo là
23
tổ chức cơ sở Đảng, lãnh đạo cơ sở thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế và
quản lý xã hội theo 4 chế độ: 1- Chế độ trách nhiệm; 2- Chế độ kỷ luật; 3-
Chế độ bảo vệ của công; 4- Chế độ phục vụ nhân dân.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng bộ thành
phố nhìn chung có độ tuổi cao (trên 50 tuổi chiếm trên 50%) trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ thấp (văn hoá cấp I). Do vậy, Đảng bộ thành phố đã có có
nhiều chương trình thực hiện từng bước nâng cao phẩm chất chính trị, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu
mới. Nhờ đó, trình độ, năng lực, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng bộ thành phố được nâng lên rõ rệt, đáp ứng yêu cầu công tác.
Công tác xây dựng, củng cố để từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng được Đảng bộ thành phố xác định là
công tác trọng tâm. Thành ủy đã dành rất nhiều tâm huyết để xây dựng những
mục tiêu phấn đấu, biện pháp thực hiện để giữ vững những tổ chức Đảng
trong sạch, vững mạnh, đồng thời đã thường xuyên đi sâu, đi sát, thậm chí đã
cử đoàn và cán bộ Thành uỷ trực tiếp phụ trách hoặc xuống chỉ đạo giải quyết
dứt điểm các cơ sở Đảng nội bộ mất đoàn kết kéo dài, mất sức chiến đấu hoặc
tê liệt năng lực lãnh đạo; đưa ra hướng dẫn, giải pháp khắc phục tình trạng
trên, giữ vững vai trò hạt nhân ở cơ sở. Đồng thời, Thành ủy cũng đề ra cho
cấp uỷ cơ sở kịp thời có những hình thức kỷ luật và đưa ra khỏi Đảng những
đảng viên thoái hoá, biến chất, vi phạm kỷ luật, không được quần chúng tín
nhiệm.
Đảng bộ thành phố đã có những nghị quyết chuyên đề để nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên thông qua những đợt vận động xây dựng Đảng, tạo
nên phong trào cách mạng sâu, rộng và tâm lý phấn khởi của đội ngũ cán bộ,
Thành uỷ đã chỉ đạo các cơ sở Đảng chú trọng đẩy mạnh công tác phát triển
Đảng, nhằm làm tăng sinh lực và sức chiến đấu cho Đảng, theo phương châm:
coi trọng chất lượng, đúng tiêu chuẩn, tuổi trẻ, nữ, đảm bảo thành phần lao
24
động và trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật. Giao cụ thể công tác phát triển
Đảng cho cấp uỷ và đảng viên như: lên nguồn tuyển chọn quần chúng tiêu
biểu, mở ngay lớp bồi dưỡng, phân công đảng viên làm công tác tuyên truyền,
giác ngộ, rèn luyện quần chúng cảm tình, bồi dưỡng cho Bí thư cơ sở và chi
bộ biết làm công tác phát triển Đảng. “Trung bình từ năm 1986 đến năm
1996, Đảng bộ thành phố đã kết nạp mỗi năm từ 175 đến 217 quần chúng ưu
tú vào Đảng, trong đó hơn 50% tuổi trẻ. Tuy nhiên, việc phát triển đảng viên
mới có cố gắng nhưng chưa đồng đều, còn khoảng 25 - 30% cơ sở Đảng của
Đảng bộ thành phố không thường xuyên, chậm hoặc không phát triển được
đảng viên mới” [30, tr.7].
Trong thời kỳ 1991 - 1995, bên cạnh những thành tựu cơ bản đạt được
ở Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong
một số cấp ủy cơ sở chưa được coi trọng. “Phương thức lãnh đạo và phong
cách công tác chậm đổi mới. Chất lượng lãnh đạo, hiệu quả hoạt động của
nhiều cấp ủy Đảng còn thấp, có nơi còn buông lỏng vị trí lãnh đạo, nhất là
Đảng bộ một số doanh nghiệp cơ quan. Một số cán bộ đảng viên còn bàng
quan trước những quan điểm sai trái. Trong khi đó công tác tư tưởng chưa sắc
bén, thiếu kịp thời, chưa giải đáp có tính thuyết phục nhiều vấn đề do thực
tiễn đặt ra. Nhiều cán bộ đảng viên chưa cố gắng tu dưỡng, rèn luyện, nâng
cao trình độ. Tình trạng mất đoàn kết ở một số tổ chức Đảng còn xẩy ra, chưa
được giải quyết kịp thời” [4, tr.41].
Năm 1996, Đại hội lần thứ VI Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (1996 -
2000, xác định nhiệm kỳ theo tỉnh Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng) đã đánh
giá lại những thành tựu, hạn chế, rút ra 4 bài học kinh nghiệm lãnh đạo và đề
ra phương hướng nhiệm vụ công tác giai đoạn 1996 - 2000. Căn cứ những
thành tựu, hạn chế, để công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững
mạnh phát huy được vai trò hạt nhân chính trị, lãnh đạo cơ sở nâng cao năng
25
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cơ sở Đảng, nghị quyết Đại hội VI lần thứ
Đảng bộ thành phố xác định các nội dung cụ thể như sau:
- Củng cố hệ thống tổ chức cơ sở Đảng, coi trọng việc tổng kết các mô
hình tổ chức cơ sở Đảng về chức năng, nhiệm vụ, phương thức lãnh đạo của
cấp uỷ, từng bước thu hẹp và tiến tới không còn tổ chức cơ sở Đảng yếu kém,
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và nâng cao chất lượng sinh hoạt
Đảng, quản lý chặt chẽ đảng viên.
- Xử lý kịp thời và nghiêm minh những đảng viên thoái hoá biến chất vi
phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước. Tiếp tục đưa những người không
đủ tư cách ra khỏi Đảng.
- “Làm tốt công tác phát triển Đảng trong tất cả các lĩnh vực nhất là
trong thanh niên, phụ nữ, trong các nhà máy, trường học, doanh nghiệp Nhà
nước, lực lượng vũ trang, trong các khu dân cư ở phường xã để tăng cường
sinh lực của Đảng.
- Căn cứ vào từng loại hình tổ chức cơ sở Đảng mà xây dựng đội ngũ
cán bộ cho phù hợp. Trẻ hoá đội ngũ cán bộ, chú trọng cán bộ nữ, chống hẹp
hòi, thành kiến phân biệt đối xử trong công tác cán bộ.
- Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh trong đó có 65% tổ chức cơ
sở Đảng trong sạch vững mạnh trở lên, không còn chi bộ yếu kém, duy trì
sinh hoạt chi bộ mỗi tháng một lần” [4, tr.69].
Từ ngày 23 đến ngày 27 tháng 4 năm 1996, Đại hội Đảng bộ tỉnh
Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XVI được tổ chức tại Đà Nẵng, Đại hội đã
đánh giá thành tựu, hạn chế của công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ XV và đề
ra phương hướng công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ XVI.
Về thành tựu trong công tác xây dựng Đảng, văn kiện Đại hội xác định
công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng đạt được một số kết quả cụ thể, góp phần
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng bộ:
26
- “Công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng về tổ chức theo tinh thần Nghị
quyết TW 3 đạt được nhiều kết quả, nâng cao tỷ lệ tổ chức cơ sở Đảng trong
sạch vững mạnh (từ 23% năm 1991 lên 32% năm 1995), giảm dần tổ chức cơ
sở Đảng yếu kém (từ 14% năm 1992 xuống còn 9% năm 1995). Dân chủ
trong Đảng được mở rộng, các tổ chức nguyên tắc sinh hoạt Đảng được tăng
cường” [5, tr.24].
- Công tác nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng, thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ
Đảng, chấp hành chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước được coi
trọng. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chú trọng và tăng cường.
- Nhiệm kỳ XV (1991-1996) Đảng bộ Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng “đã
kết nạp được 4.000 đảng viên mới, khai trừ và đưa ra khỏi Đảng bằng các
hình thức 1.853 người, tổ chức cho trên 6.000 cán bộ các cấp đi học các lớp
tập huấn lý luận chính trị và chuyên môn, nghiệp vụ các loại” [5, tr.25].
Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội cũng đã chỉ ra những yếu kém trong
công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ:
- “Việc nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng thiếu
những biện pháp đồng bộ, nhất là việc quản lý đảng viên, cải tiến sinh hoạt chi
bộ, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ… còn nhiều yếu kém, khuyết điểm.
Tình trạng một số cán bộ, đảng viên - trong đó có không ít cán bộ chủ chốt -
thiếu tu dưỡng , rèn luyện; thoái hóa biến chất, sa sút về đạo đức, lối sống đang
là vấn đề nhức nhối, làm phương hại đến uy tín của Đảng” [5, tr.32].
- Nhiều doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước
ngoài vẫn chưa có tổ chức Đảng, nhiều nơi chưa có đảng viên… Đảng còn
chậm đổi mới về phương thức lãnh đạo, lúng túng trong việc xác định chức
năng, nhiệm vụ, mối quan hệ và lề lối làm việc giữa tổ chức Đảng với các cơ
quan trong hệ thống chính trị.
27
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được và những mặt còn hạn chế, Đại
hội đã xác định phương hướng công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ XVI:
- “Tiếp tục đổi mới - chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch và nâng cao chất
lương đội ngũ đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng. Tăng cường công tác quản lý
đảng viên, cải tiến sinh hoạt chi bộ, mở rộng dân chủ đi đôi với thực hiện
nghiêm túc các nguyên tắc về tổ chức và sinh hoạt của Đảng. Chú trọng củng
cố cở sở Đảng ở xã, phường, tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp, hình
thành các cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài” [5, tr.59]. Cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ và phương
thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng cho phù hợp với đặc
điểm cụ thể từng nơi. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên, chú trọng
thành phần công nhân, dân tộc ít người, nữ, trẻ và trí thức.
* *
*
Đạt được những thành tựu trong công tác xây dựng Đảng những năm
1986 -1996 là do có sự đoàn kết, thống nhất cao độ từ ý chí đến hành động từ
thành phố xuống cơ sở. Sự đoàn kết, nhất trí, trẻ hoá tập thể Thành uỷ là trung
tâm của sự đoàn kết, nhất trí trong toàn Đảng bộ. BCH Đảng bộ luôn đảm bảo
nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy được tính năng động, sáng tạo, bảo
đảm chế độ sinh hoạt định kỳ và có nhiều hội nghị và nghị quyết chuyên đề
về những công tác lớn. BTV Thành uỷ đã xây dựng được quy chế và chế độ
làm việc hàng tuần. BTV Thành uỷ và BCH Đảng bộ thành phố đã phân công
cụ thể cho cấp ủy và từng đồng chí phụ trách ngành, phụ trách cơ sở với 3 yêu
cầu là: “(1)- Một là, phải thống nhất về mặt nhận thức để đi đến nhất trí cao
trong việc đánh giá tình hình cũng như phương hướng nhiệm vụ; (2)- Hai là,
phải có chương trình hành động cách mạng cụ thể và thiết thực, có hiệu quả
cao; (3)- Ba là, phải biết tổ chức vận động quần chúng thực hiện chương trình
28
hành động đã đề ra, biến nghị quyết, chương trình hành động thành hiện thực”
[32, tr.9].
Tuy nhiên, nhìn nhận thẳng thắn thì sự tiến bộ trong công tác xây dựng
Đảng không đều, chưa vững chắc. Tỷ lệ cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh
còn thấp, chất lượng đảng viên chưa cao, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo
của nhiều tổ chức cơ sở Đảng còn hạn chế. Công tác xây dựng Đảng ở các cơ
sở Đảng chưa gắn chặt với nhiệm vụ chính trị và mục tiêu kinh tế. Ở một số
chi, đảng bộ cơ quan còn coi nhẹ công tác xây dựng Đảng, có nơi cấp uỷ và
Bí thư chi, đảng bộ thờ ơ hoặc thiếu trách nhiệm trong việc đôn đốc công tác,
kiểm tra xử lý.
Từ những thành tựu và hạn chế của 10 năm đầu đổi mới cùng cả nước
quá độ lên CNXH (1986 - 1996), để tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ và cơ
bản đảm bảo hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị, đưa Đảng bộ thành phố
trở thành Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, điều quan trọng là Đảng bộ cần
nhận thức và đánh giá đúng thực trạng công tác xây dựng Đảng và có quyết
tâm sửa chữa, khắc phục. Đó là nhân tố quan trọng để Đảng bộ thành phố
chuyển sang chặng đường mới với những bước đi vững chắc.
29
Chương 2
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC
XÂY DỰNG CƠ SỞ ĐẢNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2006
2.1. Quá trình xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành
phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến năm 2000
2.1.1. Chủ trương xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành
phố Đà Nẵng
Ngày 6/11/1996, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX, Tỉnh Quảng Nam
- Đà Nẵng được tách thành 2 tỉnh: Quảng Nam và Thành phố Đà Nẵng trực
thuộc TW.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Hội nghị Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng
ngày 20/11/1996, Thành ủy tập trung chỉ đạo làm tốt công tác tư tưởng, động
viên cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố phát huy truyền thống đoàn kết,
tích cực hỗ trợ và tạo điều kiện giúp đỡ hàng trăm gia đình cán bộ cư trú tại
thành phố chuyển vào tỉnh Quảng Nam nhanh chóng ổn định đời sống.
Ngày 22/12/1996, Bộ Chính trị ra Quyết định số 131/QĐNS/TW về
việc kết thúc hoạt động Đảng bộ và Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, đồng
thời thành lập Thành ủy lâm thời Thành phố Đà Nẵng và BCH Đảng bộ lâm
thời gồm 35 đồng chí. Quyết định này có hiệu lực từ 1/1/1997.
Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng lúc mới thành lập có 21.000 đảng viên
(chiếm 46,6% tổng số đảng viên trong toàn tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng) có
mặt ở các lĩnh vực hoạt động của 6 đảng bộ quận, huyện và 12 đảng bộ trực
thuộc Thành ủy. Dân số toàn thành phố là 792.572 người [49].
Theo yêu cầu của TW, tháng 9/1997, Thành ủy tập trung chỉ đạo các cơ
sở Đảng trong Đảng bộ tiến hành Đại hội nhằm đánh giá tình hình kinh tế-xã
hội từ sau ngày chia tách tỉnh, đồng thời bàn phương hướng nhiệm vụ từ năm
1997 đến năm 2000.
30
Trong 2 ngày (23-24/10/1997), Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ
XVII (Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng xác định nhiệm kỳ theo tỉnh Đảng bộ
Quảng Nam - Đà Nẵng) được triệu tập nhằm đánh giá 2 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội XVI Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, đánh giá tình hình
hoạt động của Đảng bộ thành phố kể từ khi thành lập (12/1996), phân tích
đúng thực trạng cũng như triển vọng và những vấn đề mới nảy sinh. Trên cơ
sở đó, đề ra phương hướng, nhiệm vụ giải pháp thực hiện từ nay đến năm
2000, đồng thời bầu ra BCH mới nhằm lãnh đạo thành phố vươn lên xứng
đáng với tiềm năng, vị trí của mình, góp phần cả nước tiến vào thế kỷ XXI.
Đánh giá về công tác xây dựng Đảng, Báo cáo chính trị của Đại hội
Đảng bộ lần thứ XVII khẳng định: Công tác xây dựng Đảng được tập trung
chỉ đạo, nhằm tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết
TW 3 (khóa VII):
- Về chính trị tư tưởng, các cấp ủy và tổ chức Đảng đã tổ chức cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Đại hội VIII của
Đảng. Các Nghị quyết 2, 3 của BCH TW (khóa VIII) và Nghị quyết về
phương hướng, nhiệm kỳ năm 1997 của Thành ủy. Công tác tư tưởng đã được
coi trọng từ đầu nhằm tạo sự nhất trí cao với chủ trương chia tách tỉnh, động
viên cán bộ, đảng viên và nhân dân khắc phục khó khăn ban đầu, phát huy
thuận lợi mới, chống những biểu hiện tiêu cực lệch lạc, chủ quan, tạo chuyển
biến trên các mặt hoạt động của thành phố.
- Về tổ chức bộ máy, sau khi tách tỉnh, Thành ủy lâm thời đã chỉ đạo
kiện toàn một bước hệ thống chính trị, bao gồm các cơ quan Đảng, chính
quyền, Mặt trận, đoàn thể cấp thành phố; thành lập các Quận mới; chỉ định
BCH lâm thời các đảng bộ trực thuộc mới thành lập, tiếp nhận các đảng bộ
được chuyển giao, bổ sung BCH, BTV Huyện ủy Hòa Vang. BTV Thành ủy
lâm thời đã quyết định thành lập các ban cán sự Đảng, Đảng đoàn cấp thành
phố, ban hành quy chế hoạt động của một số ban Đảng, quy định tạm thời về
31
chức năng, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của ban cán sự Đảng và Đảng
đoàn. Đến nay, các tổ chức cơ sở Đảng và Đảng bộ trực thuộc Thành ủy đã
tiến hành Đại hội bầu BCH chính thức.
- “Các cấp ủy Đảng đã quan tâm xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở
Đảng, tăng cường công tác quản lý đảng viên. Đại bộ phận đảng viên ở cơ sở
đã được phân công công tác, giao nhiệm vụ cụ thể theo khả năng của mỗi
người. Sinh hoạt Đảng ủy, Chi ủy và Chi bộ có nội dung thiết thực hơn, chú
trọng giáo dục chính trị tư tưởng, lấy nhiệm vụ kinh tế - xã hội hoặc công tác
chuyên môn làm nội dung chủ yếu. Nhiều cấp ủy đã tiến hành sơ kết rút kinh
nghiệm công tác phát triển Đảng trong thời gian qua, hướng dẫn các tổ chức
cơ sở Đảng tạo nguồn, bồi dưỡng, kết nạp đảng viên mới. Chín tháng đầu
năm, toàn thành phố đã kết nạp được 563 đảng viên mới” [6, tr.31].
Cấp ủy và UBKT các cấp đã chú trọng tăng cường công tác kiểm tra
đảng viên và tổ chức Đảng trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, chủ trương
đường lối của Đảng và pháp luật Nhà nước, xử lý kịp thời các trường hợp vi
phạm. Theo chủ trương của TW, các cấp ủy đã tiến hành kiểm tra tỉnh hình
thực hiện Chỉ thị 15 của Bộ Chính trị về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham
nhũng của các tổ chức Đảng trong lực lượng công an nhân dân thành phố.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Đại hội cũng chỉ ra những điểm
hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng:
- Công tác xây dựng Đảng còn thiếu sót, khuyết điểm. Công tác tư
tưởng trong Đảng và trong nhân dân còn thiếu sắc bén, chưa chủ động kịp
thời, phương thức chưa linh hoạt. Một số cấp ủy chưa chú ý đúng mức công
tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ các mặt cho cán
bộ, đảng viên.
- “Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp, nhất
là doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuy được
quan tâm chỉ đạo, nhưng kết quả còn hạn chế. Vai trò hạt nhân lãnh đạo của
32
một số tổ chức Đảng ở cơ sở chưa được phát huy mạnh mẽ. Công tác quản lý
đảng viên về tư tưởng và sinh hoạt thực hiện chưa chặt chẽ. Việc phân tích
chất lượng đảng viên ở một số nơi còn hình thức, chưa phản ảnh đúng thực
trạng. Việc xem xét xử lý đảng viên vi phạm tư cách ở một số cơ sở Đảng
chưa kịp thời. Công tác bồi dưỡng kết nạp đảng viên tuy có cố gắng nhưng
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển Đảng trong tình hình hiện nay” [6, tr.38].
Trên cơ sở những thành tựu, hạn chế trong công tác xây dựng Đảng,
căn cứ vào những thuận lợi, khó khăn trong nhiệm kỳ 1997 - 2000, Đại hội đã
xác định phương hướng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng:
- Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đối đôi với nâng cao
năng lực lãnh đạo chính trị, giữ vững và tăng cường bản chất của giai cấp
công nhân của Đảng.
- Chú trọng việc giáo dục, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm
chất cách mạng và trình độ nghiệp vụ của cán bộ, đảng viên. Các tổ chức
Đảng cần làm tốt công tác giáo dục, nâng cao tinh thần trách nhiệm, rèn luyện
ý thức tổ chức kỷ luật, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạng, nếp sống văn
minh đô thị cho cán bộ, đảng viên.
- “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, thực hiện đúng các nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Cải tiến sinh hoạt chi bộ và cấp ủy, mở rộng
dân chủ đi đôi với thực hiện nghiêm kỷ luật trong Đảng. Tiếp tục khảo sát
đánh giá đúng thực trạng các tổ chức Đảng để có kế hoạch phát huy những
mặt mạnh, khắc phục những mặt yếu, thu hẹp diện tổ chức Đảng yếu kém, mở
rộng diện trong sạch vững mạnh, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ có trên 65% tổ
chức cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh. Tập trung củng cố cơ
sở Đảng, phường, xã, chi bộ đường phố, chi bộ thôn, tổ chức Đảng trong các
doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và cơ quan hành chính sự nghiệp, hình
33
thành và củng cố cơ sở Đảng trong và các doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” [6, tr.79-80].
Ngày 2/02/1999, Hội nghị BCH TW (Khoá VIII) đã họp Hội nghị TW6
(lần 2) và ra Nghị quyết "Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác
xây dựng Đảng hiện nay". Nghị quyết nêu rõ: "Để đáp ứng yêu cầu của thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu
điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố chỉnh đốn để
ngày càng vững mạnh về mọi mặt đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống, tổ chức và cán bộ" [11, tr.24].
Trong đó tăng cường giáo dục rèn luyện phẩm chất đạo đức lối sống
của cán bộ đảng viên, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự
phê bình và phê bình trong Đảng và củng cố tổ chức, tăng cường sức chiến
đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng là những nội dung quan
trọng cần phải thực hiện nghiêm túc đầy đủ.
Về xây dựng, chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng, Nghị quyết TW6 (lần 2)
chỉ rõ: “Củng cố tổ chức, tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của
các tổ chức cơ sở Đảng. Kiểm tra, bổ sung, hoàn thiện quy định chức năng,
nhiệm vụ và quy chế hoạt động cụ thể của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng.
Chấn chỉnh nền nếp sinh hoạt chi bộ, phân công và kiểm tra công tác
đảng viên. Đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở nơi cư trú theo
quy định cụ thể của Bộ Chính trị và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân
nơi cư trú. Đổi mới công tác phân tích chất lượng các tổ chức cơ sở Đảng và đội
ngũ đảng viên, khắc phục cách làm hình thức, chiếu lệ, thành tích chủ nghĩa.
Tiếp tục kiện toàn cấp ủy, nhất là bí thư cấp ủy. Các cấp ủy phân công
bí thư, phó bí thư và ủy viên thường vụ phụ trách các cơ sở trọng điểm” [11,
tr.32-33].
34
Những chủ trương nhiệm vụ công tác xây dựng củng cố và phát triển tổ
chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và trực tiếp là Nghị quyết Đại hội lần thứ
XVII Đảng bộ thành phố, đã có tác dụng như ngọn đuốc soi sáng đưa đường
Đảng bộ và toàn thể đội ngũ đảng viên phấn đấu vượt khó khăn hoàn thành
xuất sắc công việc được giao.
2.1.2. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Nghị quyết
Đại hội lần thứ XVII, thành ủy Đà Nẵng xác định phương hướng, nhiệm vụ
trong công tác xây dựng Đảng, tập trung vào những nội dung chính sau đây:
- “Củng cố, kiện toàn tổ chức Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng…tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, thực hiện
nghiêm các nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Ngăn chặn và xử lý nghiêm những hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật, mất
đoàn kết nội bộ, thoái hóa về phẩm chất đạo đức và lối sống” [33, tr.10].
- “Nghiên cứu sắp xếp lại tổ chức Đảng ở các đảng bộ trực thuộc cho
phù hợp với yêu cầu quản lý. Thành lập các tổ chức Đảng ở các doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tiếp tục củng cố nâng cao
chất lượng sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ và cấp ủy… Tập trung củng cố tổ
chức cơ sở Đảng ở xã, phường, các chi bộ đường phố, chi bộ thôn; tổ chức
Đảng trong các doanh nghiệp, cơ quan hành chính sự nghiệp” [35, tr.12].
- Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên. Nâng cao chất lượng đảng
viên trên cơ sở bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng.
- Tiếp thu và triển khai Nghị quyết TW 6 (lần 2) "Về một số vấn đề cơ
bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay".
- Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy Đảng về chấp hành chủ
trương, đường lối, chính sách, thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chương
trình hành động của Thành ủy; bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ và đường lối của Đảng.
35
- Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ theo Chỉ thị 39-CT/TW
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ cấp bách của công tác bảo vệ chính trị
nội bộ trong tình hình mới.
Công tác xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng được Thành uỷ và các
cấp uỷ Đảng thành phố tập trung chỉ đạo thực hiện tạo ra những chuyển biến
quan trọng, trở thành động lực thúc đẩy thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính
trị. Thành uỷ đã tập trung chỉ đạo thành công Đại hội Đảng cơ sở và Đại hội
Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII.
Ngày 19 tháng 07 năm 1997, Hội nghị BCH Đảng bộ Thành phố lần
thứ 4 (mở rộng) đã kiểm điểm tình hình 6 tháng đầu năm, bàn các giải pháp
để thực hiện nhiệm vụ còn lại trong 6 tháng cuối năm 2007, Hội nghị đã nhấn
mạnh những vấn đề lớn sau:
-“Công tác xây dựng Đảng được chú trọng trên cả 3 mặt chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Thành ủy đã tập trung chỉ đạo các ủy đẩy nhanh phát triển
kinh tế - xã hội đi đôi với lãnh đạo tốt công tác tư tưởng, nhanh chóng ổn định
tổ chức bộ máy sau khi chia tách tỉnh. Công tác chỉ đạo chuẩn bị đại hội các
cấp được tiến hành khẩn trương” [31, tr.5].
- “Các địa phương tập trung chỉ đạo triển khai quán triệt các chuyên đề
Nghị quyết Đại hội 8, Nghị quyết Hội nghị TW 2 cho cán bộ, đảng viên trong
toàn đảng bộ. Công tác bồi dưỡng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
được các đảng bộ quan tâm. Việc thực hiện Nghị quyết TW 3 (khoá VII) về
đổi mới và chỉnh đốn đảng được duy trì thường xuyên” [31, tr.6].
Qua Đại hội, các Đảng bộ đã thay đổi 238 cấp uỷ viên trong đó 19 Bí
thư, riêng phường xã 7 Bí thư, 1 Chủ tịch ở các doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp có 78 đồng chí cấp trưởng, 35 đồng chí cấp phó trực tiếp làm Bí thư
cấp uỷ. Một số cơ sở phường khó khăn thật sự không chọn được cán bộ chủ
chốt, Thành uỷ đã chỉ đạo tăng cường cán bộ về, có nơi tăng cường cả 2 chức
danh Bí thư và Chủ tịch UBND. “Năm 1997 Thành uỷ đã tổ chức 10 hội nghị
36
báo cáo viên với 1579 lượt người nghe, ra được 2.040 bản thông tin nội bộ”
[34, tr.4].
Nhờ vậy năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng
được nâng lên một bước. Kết quả phân loại tổ chức cơ sở Đảng năm 1997
gồm 468 chi đảng bộ trực thuộc như sau: “Chi, đảng bộ trong sạch vững
mạnh: 306 (65,5%). Chi, đảng bộ khá: 162 (34,5%). Không có chi, đảng bộ
cơ sở yếu” [39, tr.6].
Công tác chăm lo chỉnh đốn đội ngũ đảng viên được chú trọng, phương
châm đảng viên "Lời nói đi đôi với việc làm", "Nói và làm theo Nghị quyết"
đã được quán triệt sâu sắc trong nhận thức và hành động của đảng viên. Đội
ngũ đảng viên đã nêu cao tính tiên phong gương mẫu trong rèn luyện tu
dưỡng đạo đức tác phong đời sống cũng như trong công tác được giao, công
tác vận động quần chúng noi theo, làm theo.
Kết quả phân loại chất lượng đảng viên năm 1997 như sau: “Loại I:
17.791 đảng viên (85,7%); Loại II: 2.730 đảng viên (13,15%); Loại III: 214
đảng viên (1,03%); Loại IV: 25 đảng viên (0,12%)” [39, tr.8].
Công tác phát triển đảng viên mới được các cấp uỷ quan tâm. Năm 1997
toàn Đảng bộ kết nạp được 752 đảng viên mới [34, tr.5]. Nét nổi bật của công
tác phát triển Đảng năm 1997 là đi đôi với tăng về số lượng, các cấp uỷ đã chỉ
đạo tổ chức cơ sở Đảng coi trọng về chất lượng và cơ cấu nên nhìn chung số
đảng viên mới kết nạp đều đảm bảo tiêu chuẩn. “Trong số đảng viên mới có
33,39% là nữ, dưới 30 tuổi chiếm 27,48%, trình độ cao đẳng và đại họcchiếm
43,22%, đảng viên mới kết nạp trong giáo viên, sinh viên chiếm 15,26%. Riêng
tỷ lệ Đoàn viên thanh niên được kết nạp chiếm 41,7%” [34, tr.5].
Cùng với công tác tổ chức, công tác kiểm tra của cấp ủy và của UBKT
các cấp đã được tăng cường. BTV Thành uỷ đã thành lập các Đoàn kiểm tra
để tiến hành kiểm tra việc thực hiện NQ TW2, TW3, TW4 tại một số quận,
huyện và ban, ngành. “UBKT các cấp đã tiến hành kiểm tra 45 đảng viên và
37
cấp ủy viên cùng cấp có dấu hiệu vi phạm, 3 tổ chức Đảng cấp dưới có dấu
hiệu vi phạm, 230 tổ chức Đảng cấp dưới về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
Qua kiểm tra, UBKT các cấp đã thi hành kỷ luật 98 đảng viên, trong đó khiển
trách 42, cảnh cáo 40, cách chức 4 và khai trừ ra khỏi đảng 12 trường hợp;
ngoài ra còn đưa ra khỏi đảng bằng các hình thức khác 25 trường hợp. UBKT
các cấp đã thụ lý giải quyết 51 (trên tổng số 62 đơn thư tố cáo và giải quyết
khiếu nại 3 (trên tổng số 6) trường hợp kỷ luật đảng viên” [34, tr.5].
Như vậy, năm đầu tiên (1997) công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
của Đảng bộ Đà Nẵng đã có những bước tiến bộ quan trọng đạt yêu cầu và
phát triển so với những năm trước.
Trong thời kỳ từ năm 1997 đến năm 2000 có nhiều biến động lớn về
mặt tổ chức, làm ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư, nguyện vọng của cán bộ
đảng viên, nhân dân thành phố, Đảng bộ thành phố đã tập trung lãnh đạo thực
hiện có hiệu quả các mặt công tác đề ra. Trong công tác xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng trong sạch vững mạnh, với đặc điểm Đảng bộ thành phố có nhiều
loại hình cơ sở Đảng trong đó có loại hình tổ chức cơ sở Đảng được lập ra và
hoạt động trong các công ty cổ phần còn rất mới mẻ đang từng bước nghiên
cứu chỉ đạo cho phù hợp.
Trong 4 năm, dưới sự chỉ đạo sát sao của Thành uỷ, tính đến hết năm
2000, các loại hình cơ sở Đảng đã thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao với
kết quả tổng quát như sau:
* Đối với đảng bộ phường, xã: “Đây là nơi nắm dân, nơi tổ chức thực
hiện mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đây cũng là nơi có số lượng đảng viên chiếm tới 44,2% tổng số đảng viên
toàn Đảng bộ” [39, tr.2]. Từ năm 1997 đến năm 2000, đảng bộ các xã,
phường đã có nhiều cố gắng do vậy đều hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Cơ sở hạ tầng "điện, đường, trường, trạm" được quan tâm đầu tư, sự nghiệp
38
văn hoá giáo dục đạt kết quả tốt, an ninh chính trị được giữ vững trật tự an
toàn xã hội được bảo đảm.
* Đối với các cơ sở Đảng trong doanh nghiệp: “Tuy còn gặp nhiều khó
khăn nhưng do phát huy tốt vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, tinh thần trách
nhiệm của đảng viên nên nhiệm vụ đặt ra hàng năm được lãnh đạo thực hiện
có hiệu quả. 55,2% đơn vị liên tục hoàn thành kế hoạch” [39, tr.2]. Một số
doanh nghiệp mới chuyển sang công ty cổ phần dần đi vào ổn định, tổ chức
sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giải quyết việc làm cho người lao động.
* Đối với cơ sở Đảng trong các đơn vị cơ quan hành chính sự nghiệp:
“Tuy số lượng đảng viên chỉ chiếm 12,30% tổng số đảng viên toàn Đảng bộ”
[39, tr.2], song phần lớn đảng viên giữ vai trò tham mưu lãnh đạo. Do xác
định đúng vị trí vai trò chức năng và công việc được giao do vậy các cơ sở
Đảng loại hình này đã có đóng góp tích cực vào công tác thực hiện nhiệm vụ
chính trị của Thành phố.
* Đối với cơ sở Đảng trong đơn vị sự nghiệp (bệnh viện, trường học):
hoạt động của các tổ chức Đảng được duy trì tốt, các cấp uỷ Đảng coi trọng
công tác nâng cao chất lượng đội ngũ đặc biệt là kiến thức về nghiệp vụ
chuyên môn, tinh thần trách nhiệm trong công việc. Thời kỳ 1997 - 2000, các
đơn vị đều hoàn thành nhiệm vụ được giao góp phần vào sự nghiệp phát triển
văn hoá giáo dục của Thành phố.
Giữa lúc thực hiện công tác xây dựng Đảng thời kỳ 1997 - 2000, ngày
02/02/1999 BCH TW khoá VIII họp Hội nghị TW6 (lần 2) và ra Nghị quyết
"Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện
nay" [11]. Nghị quyết TW 6 (lần 2) khoá VIII là văn bản hướng dẫn quan
trọng để lập lại trật tự kỷ cương trong Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên.
Quán triệt mục tiêu yêu cầu về xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh
thần Nghị quyết TW3 (Khoá VII) 6/1992, Nghị quyết TW6 (lần 2) khoá VIII,
39
căn cứ vào Hướng dẫn số 416/HD-TW của BTC TW "Về xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng trong sạch vững mạnh", ngay từ năm 1994 BTV Thành uỷ đã có
hướng dẫn số 50/HD-TU Về phân loại các tổ chức cơ sở Đảng, thực hiện sự
chỉ đạo của Thành uỷ, các cơ sở Đảng đã cụ thể hoá tiêu chuẩn phân loại đối
với tổ chức Đảng của đơn vị mình, phối hợp với các cơ quan chủ quản tháo
dỡ những khó khăn trong khâu quản lý và công tác cán bộ để khắc phục tình
trạng yếu kém, tạo ra những chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng
Đảng ở cơ sở.
Bảng 2.1: Phân loại chất lượng tổ chức cơ sở Đảng 4 năm 1997 - 2000
Năm 1997 1998 1999 2000
T.số % T.số % T.số % T.số %
TCCSĐ 468 476 489 496
TSVM 306 65,3 339 71,2 370 75,6 404 81,4
162 34,7 123 25,9 107 21,8 77 15,5 Khá
14 2,9 12 2,6 15 3,1 Yếu
Nguồn: Thành ủy Đà Nẵng (2001), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng
tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh 5 năm (1996-2000), Đà Nẵng,
tr.11.
“Bình quân 4 năm (1997-2000), số tổ chức cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn
trong sạch vững mạnh chiếm 73,3%. Số cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch
vững mạnh 4 năm liên tục (1997-2000) có 157 đơn vị” [39, tr.6]. Toàn Đảng
bộ tính đến 10/2001 có 503 tổ chức cơ sở Đảng (trong đó có 12 đảng bộ trực
thuộc Thành ủy) so với năm 1997 tăng 35 cơ sở Đảng.
Công tác tuyên truyền, bồi dưỡng phát triển đảng viên mới được tiến
hành thường xuyên Số lượng đảng viên toàn Đảng bộ tính đến hết năm 2000
là 25.105 đảng viên tăng 4.028 đảng viên so với năm 1997. (Tổng số đảng
viên đến hết năm 1996 là 21.077 đảng viên)
40
Đi đôi với việc củng cố nâng cao chất lượng các cơ sở Đảng, việc kiện
toàn mô hình tổ chức chi bộ cơ sở cũng được chú trọng tiến hành song song.
Đến thời điểm 6/2000, các chi bộ trực thuộc các đảng bộ cơ sở được sắp xếp
như sau:
* Mô hình tổ chức các chi bộ gắn với địa bàn dân cư ở phường, xã,
không bố trí đảng bộ bộ phận mà tổ chức thành các chi bộ trực thuộc để giảm
bớt tổ chức trung gian dưới cơ sở, bảo đảm bộ máy gọn nhẹ và sự lãnh đạo
trực tiếp của đảng ủy cơ sở đến các chi bộ, gắn với địa bàn dân cư có hiệu lực
và hiệu quả hơn.
* Mô hình sinh hoạt theo đặc điểm bộ phận công tác gắn với các đơn vị
doanh nghiệp và cơ quan hành chính sự nghiệp. Ở khối xã, phường, đảng viên
công tác chuyên trách Đảng, HĐND, UBND ở một số cơ sở được tổ chức
thành chi bộ văn phòng trực thuộc đảng ủy. Các cơ quan chuyên môn như
trường PTCS, công an phường đều có chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở.
* Tổ chức 3 Đảng bộ ở khối Đảng, Chính quyền, Đoàn thể trực thuộc
thành ủy và có quy chế hoạt động trong khối để đảm bảo sự lãnh đạo của
thành ủy đối với công tác nội chính.
* Các chi, Đảng bộ khối nội chính là tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc
thành ủy và có quy chế hoạt động trong khối để đảm bảo sự lãnh đạo của
thành ủy đối với công tác nội chính.
* Mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của tổ chức Đảng ở một số
công ty cổ phần là vấn đề mới, nhưng đã có những kinh nghiệm bước đầu
giúp cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy trong quá trình xây dựng
Đảng hiệu quả hơn.
Đây là cơ sở quan trọng giúp cấp uỷ chi đảng bộ xác định rõ hơn chức
năng nhiệm vụ công tác, đồng thời cũng tạo điều kiện để nâng cao chất lượng
sinh hoạt, quản lý đảng viên gắn với phân công nhiệm vụ cho đảng viên được
rõ ràng sát thực hơn.
41
“Công tác bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại cán bộ được đẩy mạnh với
nhiều phương thức đa dạng, tạo thuận lợi cho cán bộ, đảng viên theo học, góp
phần nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, nhất là trình độ lý luận chính trị.
Nhiệm kỳ 1997 - 2000 có 2.400 cán bộ đảng viên trong đảng bộ được học các
chương trình lý luận chính trị” [7, tr.24], chế độ thông tin báo cáo phục vụ
công tác lãnh đạo được coi trọng. Thông qua hội nghị giao ban định kỳ, hội
nghị báo cáo viên, sổ tay chi bộ, thông tin nội bộ, các chủ trương cơ chế chính
sách của TW, của tỉnh và thành phố đã được truyền tải đến tận cơ sở, giúp cho
cấp uỷ các chi đảng bộ nắm được yêu cầu nhiệm vụ công tác trong từng thời
kỳ để vận dụng chỉ đạo sát hơn với những vấn đề thực tiến đặt ra ở các cơ sở.
“Trường Chính trị Thành phố cũng đã mở 29 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị
phổ thông cho 4.028 đảng viên mới, 72 lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng cho
10.077 quần chúng ưu tú” [39, tr.10]. Đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp của
Thành phố đến thời điểm báo cáo có trình độ Đại học và tương đương trở lên
chiếm 46,32%. Số có trình độ lý luận từ trung cấp trở lên là 90,7%. “Đội ngũ
cán bộ từng bước trẻ hoá. Tuổi bình quân của cán bộ chủ chốt, (Bí thư, Phó Bí
thư, Chủ tịch HĐND, UBND) là 45,5” [39, tr.10]. Có thể nói công tác cán bộ
có hiệu quả đã có tác động rất lớn đến sự chuyển biến công tác xây dựng
Đảng, làm tăng thêm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng của đội ngũ đảng viên. Để hợp nhất công tác chỉ đạo gọn, mạnh có hiệu
quả, theo chủ trương lồng ghép của Thành uỷ, ở 47 xã phường, xã có 31 đồng
chí Bí thư kiêm Chủ tịch HĐND, 23 Bí thư kiêm Chủ tịch UBND, 24 phó Bí
thư kiêm Chủ tịch UBND, 3 đơn vị có 2 Phó Bí thư và thường trực Đảng uỷ
được phân công kiêm nhiệm phó Chủ tịch HĐND hoặc lãnh đạo các đoàn thể
ở các đơn vị doanh nghiệp và cơ quan hành chính sự nghiệp, có 67 Bí thư
đồng thời là cấp trưởng, 14 là cấp phó [39, tr.10].
Việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng gắn với những yêu
cầu tinh thần Nghị quyết TW6 (lần 2) khoá VIII và cuộc vận động xây dựng
42
chỉnh đốn Đảng đã được các cấp uỷ quan tâm chỉ đạo, làm chuyển biến tốt
công tác. Nhận thức về vị trí vai trò của tổ chức Đảng, trách nhiệm của cấp uỷ
và đảng viên được nâng lên. Tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị
quyết TW 6 (lần 2) được chỉ đạo tiến hành thường xuyên, là cơ sở để thực
hiện đánh giá phân loại Đảng viên hàng năm của chi, đảng bộ. “Năm 2000
trong toàn Đảng bộ, số đảng viên đủ tư cách là 99,7%, số đảng viên loại III và
loại IV đều giảm so với năm 1996” [38, tr.6].
Bảng 2.2: Phân loại chất lượng đảng viên 4 năm 1997 - 2000
1997 1998 1999 2000
Kết quả phân loại T.số % T.số % T.số % T.số %
21.829 22.877 24.024 25.105 Tổng số đảng viên
Dự P.loại 20.760 95,10 21.456 93,79 23.236 96,72 24.523 97,68
Loại I 17.791 85,70 17.993 83,86 19.917 85,72 21.119 86,12
Loại II 2.730 13,15 3.253 15,16 3.170 13,64 3.274 13,35
Loại III 214 1,03 193 0,9 137 0,59 123 0,5
Loại IV 25 0,12 17 0,08 11 0,05 7 0,03
Nguồn: Thành ủy Đà Nẵng (2002), Báo cáo tổng kết ba nghị quyết của
TW về công tác tổ chức và cán bộ, số 16-BC/TU, Đà Nẵng, tr.9.
Công tác phát triển Đảng luôn được các cấp uỷ quan tâm chỉ đạo các cơ
sở Đảng rất chú trọng giới thiệu những người ưu tú đi tham gia học cảm tình
Đảng. Do vậy công tác phát triển Đảng đạt kết quả khá cao. Từ năm 1997 đến năm
2000, trung bình mỗi năm Thành phố kết nạp được 1.007 đảng viên mới.
Tính từ năm 1997 đến năm 2000 Thành uỷ đã tổ chức được 72 lớp bồi
dưỡng nhận thức về Đảng cho 10.077 quần chúng ưu tú, xét kết nạp được
4.028 đảng viên mới.
Trong tổng số đảng viên mới kết nạp, trình độ văn hoá chuyên môn, tỷ lệ
đoàn viên thanh niên, nữ đều tăng. “Số có trình độ trung học chuyên nghiệp trở
43
lên chiếm 73,8% (năm 1996 là 56,6%), tỷ lệ nữ là 36,19% (năm 1996 là 34,7%)”
[7, tr.25]. Đặc biệt ở khối các trường thuộc ngành Giáo dục-Đào tạo, sau hơn 3
năm thực hiện chỉ thị số 34/CT-TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 02/CQ-
TU ngày 30 tháng 5 năm 1997 của BTV Tỉnh uỷ về "Xây dựng và củng cố tổ
chức Đảng trong giáo dục - đào tạo đến năm 2000", công tác phát triển Đảng
được chỉ đạo tích cực hơn. “Sau 2 năm thực hiện, tổ chức Đảng trong các nhà
trường được củng cố kiện toàn, số đảng viên mới được kết nạp tăng lên, trong
năm 1998 ngành giáo dục đã kết nạp được 160 đảng viên mới” [36, tr.6], “năm
1999 kết nạp được 173 đảng viên” [37, tr.6]. Tính đến năm 2000 số đảng viên
mới được kết nạp ở các trường tăng 38% so với năm 1996. Đến tháng 10/2000,
100% số trường thuộc Sở giáo dục thành phố đã có đảng viên.
Trong tổng số đảng viên mới kết nạp 4 năm (1997-2000) không có
trường hợp nào có trình độ văn hoá cấp 1, tất cả đều từ cấp 2 trở lên.
Bảng 2.3: Kết quả phát triển Đảng 4 năm 1997 - 2000
Năm 1997 1998 1999 2000
Tổng số Kết nạp Kết nạp Kết nạp Kết nạp Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ %
4.028 Số lượng 752 (1) 1048 (2) 1147 (3) 1081 (4)
Trong đó
Phụ nữ 244 32,40 350 33,39 469 40,70 430 39,80
ĐH, CĐ 296 39,40 453 43,22 408 35,60 414 38,30
ĐVTN 340 45,20 528 48,80
Nguồn: (1): [34, tr.7], (2): [36, tr.6], (3): [37, tr.6], (4): [38, tr.5] Đi đôi với công tác phát triển Đảng, làm tăng sinh lực sức mạnh cho
Đảng, công tác kiểm tra đảng viên thi hành kỷ luật Đảng luôn được các cấp
uỷ Đảng quan tâm nhằm làm trong sạch đội ngũ chiến đấu của Đảng. Theo
tinh thần Nghị quyết Đại hội XVII Đảng bộ thành phố về công tác kiểm tra:
44
“Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng trên các mặt
kiểm tra, hướng dẫn tổ chức Đảng và đảng viên chấp hành điều lệ Đảng,
đường lối chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, phát hiện quan liêu, tham nhũng, xử lý công minh, chính xác,
kịp thời những đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm kỷ luật Đảng; đưa ra
khỏi Đảng những người không còn đủ tư cách đảng biên. Công tác kiểm tra
phải có chương trình, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm: phải kết hợp chặt
chẽ với các cơ quan chức năng để có kết luận rõ ràng, chủ trương xuất khẩu
đúng đắn. Thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm kê, kiểm toán để theo
dõi hoạt động của tổ chức Đảng và cá nhân đảng viên” [6, tr.83], UBKT các
cấp đã thực hiện tốt chức năng tham mưu giúp cấp uỷ về công tác kiểm tra
theo Điều lệ Đảng.
Bảng 2.4: Tình hình thi hành kiểm tra và kỷ luật đảng viên (1998 - 2000)
Nội dung
Tổng số 1998 (1) 1999 (2) 2000 (3) A. Kiểm tra
50 129 126 305 Đảng viên và cấp ủy viên cùng cấp có dấu hiệu vi phạm
Tổ chức Đảng cấp dưới có dấu hiệu vi phạm 3 5 2
Tổ chức Đảng về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra 7 145 387 235
18 18 Tổ chức Đảng cấp dưới trong việc thi hành kỷ luật đảng
B. Kỷ luật 102 116 120 305
Trong đó
44 47 53 144 Kiển trách
41 48 46 135 Cảnh cáo
4 4 6 14 Cách chức
13 17 15 45 Khai trừ
30 30 Khai trừ bằng hình thức khác
Nguồn: (1): [36, tr.14], (2): [37, tr.14], (3): [38, tr.8].
45
Qua kết quả thực tế cho thấy công tác kiểm tra đã được các cấp uỷ quan
tâm, nắm vững phương châm, phương pháp, nguyên tắc thủ tục thi hành kỷ
luật, coi trọng công tác giáo dục phòng ngừa. Vì vậy số cán bộ, đảng viên vi
phạm phải áp dụng hình thức kỷ luật giảm nhiều so với thời gian trước kia.
Tình trạng mất đoàn kết, chia rẽ bè cánh trong tổ chức Đảng được hạn chế ở
mức thấp nhất, các đơn vị thư tố cáo khiếu nại, ý kiến phản ánh của cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân đã được các cấp từ Thành uỷ đến cơ sở,
UBKT quan tâm giải quyết khách quan nghiêm túc, công bằng đúng trình tự,
những đồng chí đảng viên, cán bộ bị tố cáo sai được minh oan, cán bộ đảng
viên có vi phạm đã xử lý nghiêm minh theo đúng Điều lệ Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
Tuy nhiên công tác kiểm tra xử lý kỷ luật của Thành Đảng bộ Đà Nẵng
còn bộc lộ hạn chế thiếu sót. Nhận thức của một số cấp uỷ cơ sở về công tác
kiểm tra chưa đầy đủ, chưa coi công tác kiểm tra là của cấp uỷ nên còn tình
trạng "khoán trắng" cho UBKT, vì vậy khi cấp uỷ viên, đảng viên mắc khuyết
điểm, nội bộ mâu thuẫn phức tạp thì bị động, lúng túng, trông chờ vào sự giải
quyết của cấp trên.
Hoạt động của UBKT ở một số cơ sở Đảng chưa tốt, chưa chủ động
tham mưu cho cấp uỷ về công tác kiểm tra. Do đó tác dụng giáo dục phòng
ngừa còn hạn chế. Có UBKT cơ sở chưa nắm vững phương châm, phương
pháp thủ tục nguyên tắc khi tiến hành kiểm tra và thi hành kỷ luật Đảng, dẫn
đến một số vụ vi phạm của cán bộ, đảng viên không được xử lý hoặc xử lý
chưa nghiêm, chưa kiên quyết còn để kéo dài, cá biệt có trường hợp cấp uỷ
cấp trên phải thay đổi hình thức kỷ luật.
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh 4 năm
(1997 -2000) đã được Thành uỷ cho đến cơ sở thực hiện đạt kết quả tốt đẹp.
Trong 4 năm, quán triệt Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ thành phố, thành ủy đã gắn nhiệm vụ đổi mới, xây dựng, củng cố
46
và chỉnh đốn Đảng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ Thành
phố đã khơi dậy và phát huy những tiềm năng sáng tạo lao động to lớn trong
nhân dân, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, góp phần vào quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn.
Những cố gắng nỗ lực trên đã góp phần quan trọng vào kết quả thực
hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ Thành phố.
- Về kinh tế - xã hội:
Bảng 2.5: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố từ 1998 đến 2000
Du lịch Giá trị CN và XD Lương thực (tấn) Năm GDP (tăng %) Thủy sản (tấn-tăng %) (*) Giá trị DV và TM (%) (*) Xuất khẩu (triệu USD) (*) (tăng %) (*) (tăng %) (*) (Quy thóc)
1998 9,0 15,4 6,54 59.500 22.000 - 11 165 6
1999 9,51 8,2 59.765 186 12,3 27 25.000 - 6,84
2000 9,8 10,4 53.630 27.500 - 8 235 29,2 16
(*: tăng năm sau so với năm trước)
Nguồn: Văn kiện Đại hội đại biểu Thành phố Đà Nẵng lần thứ XVIII,
tr.15.
- Về Giáo dục và Đào tạo:
Ngành giáo dục - đào tạo thành phố đã huy động các nguồn lực theo
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để đầu tư xây dựng cơ sở
trường học, từng bước giải quyết sức ép về tăng quy mô. Chất lượng giáo dục
luôn được chú trọng: tỷ lệ học sinh đủ điều kiện lên lớp, học sinh khá, giỏi
cuối cấp và học sinh giỏi cấp quốc gia khá ổn định, năm sau cao hơn năm
trước (năm học 1998-1999 có 70% học sinh tiểu học, 48% học sinh THCS,
36% học sinh PTTH được xếp loại khá, giỏi về học lực, năm học 1999-2000
47
toàn thành phố có 99,7% học sinh tốt nghiệp tiểu học, 80,6% học sinh tốt
nghiệp THCS, 92,8% học sinh tốt nghiệp THPT), 100% xã, phường (47/47)
trên địa bàn thành phố đã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và
chống mù chữ, 95,7% xã phường (45/47) hoàn thành phổ cập trung học cơ sở,
đến năm 2000, thành phố có 16 trường đạt chuẩn quốc gia.
Bình quân hằng năm (từ 1997 đến 2000), thành phố giải quyết được
15.117 lao động có việc làm. “Theo chuẩn cũ, đến năm 2000 thành phố không
còn hộ đói, số hộ nghèo còn 2.417 hộ, bằng l,65% tổng số hộ” [37, tr.4].
Thành tựu đó đã góp phần ổn định đời sống nhân dân trên địa bàn
thành phố. An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội về cơ bản
được bảo đảm. Các chỉ tiêu về công tác quốc phòng - quân sự địa phương
hằng năm đều được hoàn thành. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an
ninh nhân dân được củng cố ngày càng vững chắc. Nội dung, phương thức
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng tiếp tục có nhiều
đổi mới. Nhiều phong trào thi đua có nội dung thiết thực được phát động và
được quần chúng hưởng ứng. Điển hình là các phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống ở khu dân cư” của Mặt trận Tổ quốc, “Thi đua lao động
giỏi” trong công nhân, viên chức của Liên đoàn Lao động, “Thanh niên lập
nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước” của Đoàn Thanh niên, “Xóa đói, giảm nghèo”,
“Vay vốn giúp nhau phát triển kinh tế” của Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu
chiến binh… Trong tất cả mọi hoạt động, Đảng bộ luôn luôn dựa vào dân, sâu
sát từng cơ sở để được nghe ý kiến của nhân dân. Quan điểm “lấy dân làm
gốc” đã được Đảng bộ quán triệt một cách sâu sắc. Đây chính là một nhân tố
có tính chất quyết định giúp cho Thành phố Đà Nẵng luôn trở thành một đơn
vị có phong trào thi đua khá trong cả nước.
Có được những thành tích quan trọng nêu trên là do Đảng bộ Thành
phố đã xác định đúng đắn nội dung nhiệm vụ công tác, lấy "Phát triển kinh tế
làm nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt" quán triệt và vận dụng
48
sáng tạo các Nghị quyết TW về xây dựng chỉnh đốn đổi mới Đảng, công tác
xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ
đảng viên có kết quả. Quán triệt quan điểm tổ chức của Đảng “Tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách”, trong nhiệm kỳ XVII (1997 - 2000), BCH Đảng bộ
thành, BTV Thành ủy đã tổ chức nhiều kỳ họp để lãnh đạo, chỉ đạo các mặt
công tác của Đảng bộ, tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết Đại
hội Đảng các cấp. Việc xây dựng các nghị quyết chuyên đề, các chương trình
hành động đều được các cơ quan tham mưu giúp việc nghiên cứu đề xuất và
đưa ra BCH, BTV thảo luận và bàn bạc kỹ, thống nhất cao, phát huy dân chủ
và trí tuệ tập thể nên các chủ trương, giải pháp đề ra cơ bản sát, đúng và đi
vào cuộc sống. Chính vì vậy đã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, trong thời kỳ cả nước đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước. Điều đó đòi hỏi Đảng bộ Thành phố giữ vững và phát huy truyền thống
thế mạnh, không ngừng chăm lo củng cố Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức, nhất là tổ chức cơ sở Đảng, thực hiện có hiệu quả công tác
xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên, hoàn chỉnh công tác cán bộ. Qua đó góp phần quyết định phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng, nâng cao hơn nữa đời
sống nhân dân, ổn định chính trị, góp phần xây dựng thành phố, tỉnh ngày
càng đẹp giàu, văn minh, công bằng dân chủ, vững bước trong giai đoạn cách
mạng mới.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác xây dựng Đảng của
thành phố vẫn còn những hạn chế cần khắc phục:
- Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng tuy được tiến hành thường xuyên
nhưng vẫn còn những biểu hiện đáng lo ngại. Một số vấn đề về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, về nguyên tắc tập trung dân chủ, về một số chủ trương,
chính sách đổi mới chưa được nhận thức đúng để nhất trí cao trong một bộ
49
phận cán bộ, đảng viên. Việc định hướng tư tưởng cho đảng viên, quần chúng
làm chưa tốt. Chưa có biện pháp thật cụ thể, sâu sát để tăng cường công tác
quản lý, giáo dục đảng viên về phẩm chất, đạo đức, lối sống; một số ít cán bộ,
đảng viên sa ngã trước cám dỗ của mặt trái kinh tế thị trường. Việc thực hiện
dân chủ và tăng cường kỷ cương trong Đảng chưa đúng mức. Tinh thần tự phê
bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng chưa cao, trong một số tổ chức Đảng và
cấp ủy đảng vẫn còn tình trạng nể nang, chưa thật sự tin cậy lẫn nhau.
- Công tác cán bộ chưa được đổi mới một cách cơ bản, còn thiếu mạnh
dạn trong việc luân chuyển, thay thế, trẻ hóa cán bộ. Việc tạo nguồn cán bộ
chưa được quan tâm đúng mức; công tác quy hoạch cán bộ mới chỉ thực hiện
được ở các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Công tác đào tạo,
đào tạo lại chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, chuyên
môn của cán bộ, công chức, nhất là đối với những ngành kinh tế - kỹ thuật
quan trọng. Chậm ban hành chính sách thu hút nhân tài, ưu đãi, khuyến khích
cán bộ đem hết tài năng cống hiến cho sự nghiệp xây dựng quê hương. Chưa
tranh thủ phát huy được tiềm năng to lớn của đội ngũ cán bộ các cơ quan TW,
các cơ sở nghiên cứu khoa học trên địa bàn. Tư tưởng cục bộ địa phương còn
nặng trong một bộ phận cán bộ đảng viên, ảnh hưởng không tốt đến công tác
cán bộ, gây trở ngại cho việc luân chuyển, bố trí đúng cán bộ.
- Phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của một số cấp ủy đảng chưa
được đổi mới.
Những yếu kém, khuyết điểm nêu trên có tác động không nhỏ của các
nguyên nhân khách quan, trong đó có yếu tố khó lường như khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực và tình hình thiên tai, bão lũ. Bên cạnh đó, những tác
động mặt trái của cơ chế thị trường ngày càng bộc lộ phức tạp hơn, kẻ thù và
các phần tử xấu luôn ra sức tuyên truyền kích động và gây rối, tạo ra những
hậu quả nhất định về mặt tư tưởng, tâm trạng xã hội. Tuy nhiên, nguyên nhân
chủ quan là chính, đặc biệt là vấn đề cán bộ. Cơ cấu cán bộ nhìn chung chưa
50
đồng bộ ở các cấp, các lĩnh vực. Trình độ lý luận lẫn năng lực thực tiễn của cán
bộ, công chức chưa đáp ứng tốt yêu cầu công việc, một bộ phận thiếu nhiệt tình
và tinh thần trách nhiệm, đùn đẩy ngại va chạm, không dám chịu trách nhiệm
cá nhân, trong khi đó, việc đánh giá vẫn còn tình trạng bình quân, thiếu sự
khuyến khích người giỏi, nhiệt tình say mê công việc. Những biểu hiện tiêu
cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân, nói không đi đôi với làm, vun vén
cá nhân của một bộ phận cán bộ công chức, nhất là cán bộ có chức, có quyền
chưa được phát hiện kịp thời và xử lý đúng mức. Cơ chế phối hợp trong hoạt
động của bộ máy đảng, chính quyền, các đoàn thể chưa chặt chẽ và đồng bộ, có
ảnh hưởng nhất định đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
2.2. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng từ
năm 2001 đến năm 2006
2.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001)
Năm 2001, cùng với nhân dân cả nước, Đảng bộ và nhân dân thành phố
Đà Nẵng bước sang một thế kỷ mới với một khí thế mới, thi đua thực hiện
thắng lợi những nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội VIII. Đây là giai đoạn tiếp
tục đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhằm thực hiện thắng lợi mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, từ năm
1996 đến năm 2000, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng: kinh tế tăng trưởng khá; văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ; tình
hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng
được chú trọng; quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng; đời sống của
nhân dân không ngừng được cải thiện… Bên cạnh đó vẫn còn bộc lộ những
yếu kém, khuyết điểm, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng
51
viên. Bước vào thế kỷ XXI, cách mạng nước ta vừa đứng trước thời cơ vận
hội lớn, vừa phải đối mặc với những thách thức không thể xem thường. Với
tinh thần tiến công cách mạng tiếp tục trên con đường đổi mới, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã được triệu tập từ ngày19 đến ngày
22/4/2001 tại Thủ đô Hà Nội.
Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá những thành tựu và khuyết điểm trong
nhiệm kỳ qua, đề ra những quyết sách cho thời kỳ mới “phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, Đại hội
khẳng định: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống
chính trị được củng cố. Nhiều nghị quyết TW đã đề ra những chủ trương, giải
pháp củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng. Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết TW 6 (lần
2) khoá VIII. Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, nền hành chính
được cải cách một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân trên
các lĩnh vực được phát huy; một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền dân
chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện” [12, tr.71].
Tuy nhiên “trong công tác xây dựng Đảng, bên cạnh những ưu điểm,
đang nổi lên một số mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về
công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và
đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống. Một số tổ
chức Đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn; dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ
cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết; chất lượng sinh hoạt Đảng giảm sút.
Công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém, bất cập; công tác tổ chức,
cán bộ còn một số biểu hiện trì trệ. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng còn lúng túng, chưa đi sâu làm rõ đặc điểm và yêu cầu về sự lãnh đạo
52
của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, chưa phát huy đầy đủ hiệu lực
quản lý của các cơ quan nhà nước, tính tích cực của các đoàn thể và quyền
làm chủ của nhân dân. Tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra việc thực hiện
các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước còn yếu” [12, 138-139].
Đại hội xác định phương hướng là toàn Đảng tiếp tục thực hiện các
nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết TW 6 (lần 2) khoá VIII, tập
trung làm tốt những công tác quan trọng sau đây:
- Giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ
nghĩa cá nhân.
Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Mỗi cấp uỷ, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm việc thực
hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân. Chống tư tưởng cơ hội, thực dụng.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, làm trong sạch
đội ngũ đảng viên. Các cấp uỷ tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra đảng viên học
tập, không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp
vụ, kiến thức lãnh đạo, quản lý và vận động nhân dân, phát huy vai trò tiên
phong gương mẫu. Cán bộ, đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp
hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng và pháp luật
của Nhà nước. Thi hành kỷ luật nghiêm khắc mọi vi phạm về nguyên tắc, nhất
là đối với những vấn đề về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng. Trong các hoạt động kinh tế, đảng viên phải chấp hành đúng pháp luật
của Nhà nước và các quy định của Đảng.
Kiện toàn tổ chức và cán bộ ở những cơ quan, đơn vị để xảy ra những
biểu hiện không chấp hành nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
làm việc trì trệ, độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, mất đoàn kết nội
bộ. Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan kiểm tra đảng,
53
thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân. Tiếp tục coi trọng và làm tốt công
tác bảo vệ chính trị nội bộ.
- Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ
Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các
cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có
trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân. Có cơ
chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng
dụng những người có đức, có tài. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn
cán bộ, chú ý cán bộ nữ và cán bộ các dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các
lĩnh vực.
- Xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở Đảng
Tất cả các đảng bộ, chi bộ ở cơ sở đều nắm vững và thực hiện đúng
chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, đoàn thể, các tổ
chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở,
nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, buông lỏng vai
trò lãnh đạo. Cấp uỷ cấp trên tập trung chỉ đạo củng cố các đảng bộ, chi bộ
yếu kém, kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở những nơi có
nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ,
chi bộ. Phân công, hướng dẫn, kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát
huy vai trò tiên phong gương mẫu trong công tác, học tập và lối sống; giữ mối
liên hệ với quần chúng nơi công tác, với chi bộ và nhân dân nơi cư trú. Phát
triển đảng viên theo đúng tiêu chuẩn quy định, chú ý những người ưu tú trong
công nhân, trí thức, lao động thuộc các thành phần kinh tế, đoàn viên ĐTNCS
Hồ Chí Minh, những nơi còn ít hoặc chưa có đảng viên. Đổi mới việc phân
tích, đánh giá chất lượng các tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên.
- Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt
cấp uỷ ở cơ sở đến BCH TW, trong công tác cán bộ và trong xây dựng, hoàn
54
thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đảng viên có quyền được
bảo lưu ý kiến nhưng phải nói và làm theo nghị quyết của Đảng. Chống dân
chủ hình thức, dân chủ cực đoan hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích
riêng, cục bộ, bản vị.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta là một sự kiện chính
trị nổi bật họp vào thời điểm có ý nghĩa trọng đại, dân tộc ta đã đi qua thế kỷ
XX với nhiều hy sinh, mất mát những cũng đầy từ hào vì những kết quả đã
giành được, đó là những hành trang cho toàn Đảng, toàn dân ta bước vào thế
kỷ XXI một thế kỷ nhiều biến động và khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng, dân tộc ta nhất định sẽ đi đến đích cuối cùng.
2.2.2. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng về xây dựng tổ
chức cơ sở Đảng
Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo, những thành tựu đạt được trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hết
sức to lớn, đang động viên và phát huy sức mạnh toàn dân tộc tiếp tục đổi
mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, vững bước tiến vào thế kỷ XXI. Để đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ công tác của những năm tiếp theo, theo tinh thần Nghị quyết
của BCH Đảng bộ thành phố về phương hướng nhiệm vụ năm 2001, công tác
xây dựng tổ chức cơ sở Đảng năm 2001 được đề ra với mục tiêu cụ thể là:
“Phấn đấu trong năm 2001 có trên 70% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch,
vững mạnh một cách thực chất, hạn chế thấp nhất tổ chức cơ sở Đảng yếu
kém” [38, tr.7]. Cụ thể như sau:
- “Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực
hiện việc tự phê bình và phê bình trong toàn đảng bộ thành nền nếp thường
xuyên nhằm xây dựng Đảng bộ thành phố thật sự trong sạch, vững mạnh”
[38, tr.8] Kiên trì tạo chuyển biến thật sự về nhận thức tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống và tổ chức chỉ đạo, điều hành trong các cấp đảng bộ của thành
phố. Phát huy mạnh mẽ dân chủ nội bộ, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc
55
về tổ chức và sinh hoạt Đảng, tăng cường kỷ luật, lành mạnh hoá các quan hệ
nội bộ.
- “Thường xuyên chỉ đạo việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng,
chấn chỉnh các cơ sở yếu kém, giữ vững nền nếp sinh hoạt, nâng cao chất
lượng sinh hoạt chi bộ. Các chi, đảng bộ phải làm tốt công tác quản lý đảng
viên, phân công nhiệm vụ và kiểm tra đảng viên thực hiện nhiệm vụ được
giao” [38, tr.9]; thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ Chính trị về những
điều đảng viên không được làm. “Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh
đạo của cấp uỷ đảng ở các phường, xã, các tổ chức kinh tế, nhất là trong các
doanh nghiệp tư nhân, các đơn vị liên doanh nước ngoài” [38, tr.9].
- “Tăng cường công tác kiểm tra của cấp uỷ, chú trọng hướng dẫn các
tổ chức Đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, các chủ trương, đường
lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện tốt chương trình công tác
kiểm tra của cấp uỷ năm 2001” [38, tr.11]. Lãnh đạo Uỷ ban Kiểm tra các cấp
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định. Giải quyết kịp
thời, dứt điểm các đơn thư tố cáo, khiếu nại của đảng viên, phục vụ tốt Đại
hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVIII.
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quán triệt phương châm
“phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt”, tăng cường khối
đoàn kết thống nhất, phát huy cao độ nội lực kết hợp khai thác mọi nguồn lực
bên ngoài, tận dụng mọi thời cơ thuận lợi để phát triển nhanh và bền vững,
phấn đấu xây dựng Đà Nẵng giàu về kinh tế, phát triển về văn hóa và khoa học
- công nghệ, đảm bảo quốc phòng - an ninh, hệ thống chính trị vững mạnh, dân
trí ngày càng được nâng cao, cảnh quan thiên nhiên, môi trường đô thị lành
mạnh, sạch đẹp, vươn lên xứng đáng là một trong những trung tâm kinh tế, văn
hóa, khoa học - công nghệ của miền Trung và cả nước. Từ ngày 12-14/2-2001
Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố đã được tổ chức.
56
Đại hội khẳng định trong nhiệm kỳ XVIII, công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng phải thực hiện tốt những nhiệm vụ:
- Tiếp tục thực hiện NQTW6 (lần 2), bảo đảm cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng có ý nghĩa thiết thực, tác động đến sự phát triển kinh tế - xã
hội, tạo sự chuyển biến sâu sắc, toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng và
tổ chức.
- “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng. Nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của công tác chính trị tư tưởng hiện nay là làm cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố hiểu rõ tình hình, thấu suốt quan
điểm, đường lối của Đảng, đoàn kết gắn bó, chủ động vượt qua khó khăn,
thách thức sẵn sàng đón nhận thời cơ, vận hội mới để đưa công cuộc xây
dựng thành phố phát triển mạnh mẽ, lành mạnh và bền vững, theo kịp đà phát
triển chung của đất nước” [7, tr.64] Công tác tư tưởng phải nâng cao nhận
thức và sự thống nhất của cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tổ chức quán triệt
nghiêm túc nghị quyết của Đảng gắn với cụ thể hóa thể chế hóa và tổ chức
thực hiện nghị quyết, đưa nghị quyết vào cuộc sống. Chú trọng giáo dục toàn
diện, gắn giáo dục lý luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng với nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên. Thông qua hệ
thống báo cáo viên, tuyên truyền viên và các hình thức khác, làm tốt công tác
tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Quan tâm đầu tư và có kế hoạch cụ thể chỉ đạo
công tác biên soạn lịch sử đảng bộ và lịch sử địa phương ở cấp thành phố và
cấp cơ sở.
Các cấp ủy đảng phải chủ động nắm diễn biến tư tưởng chính trị của
cán bộ, đảng viên và nhân dân, thường xuyên cung cấp thông tin, định hướng
tư tưởng đúng đắn, tạo sự nhất trí về quan điểm, đường lối của đảng. Mặt
khác phải kịp thời uốn nắn những nhận thức lệch lạc, những quan điểm mơ
57
hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa
xã hội và sự lãnh đạo của Đảng. Cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng các cấp
phải chủ động đấu tranh chống lại âm mưu phá hoại về tư tưởng của các thế
lực thù địch, cảnh giác đối với những tư tưởng sai trái, đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân, tư tưởng thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống,
buông lỏng kỷ luật trong Đảng. Thực hiện tốt phương châm “xây” đi đôi với
“chống”, lấy „xây” làm chính. Các tổ chức Đảng từ thành phố đến cơ sở phải
đề cao kỷ luật phát ngôn, nói và làm theo nghị quyết của Đảng, ngăn chặn kịp
thời những dư luận xã hội không lành mạnh làm tổn hại đến sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng.
- “Đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức. Tiếp tục củng
cố, kiện toàn các ban của Đảng, các đảng ủy trực thuộc và các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị thật sự tinh, gọn, bảo đảm chức năng nhiệm vụ rõ
ràng, không trùng lắp, quyền hạn đi đôi với trách nhiệm” [7, tr.66]. Phát huy
tốt vai trò chủ động của từng cơ quan và của cả hệ thống chính trị trong việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng bộ.
Thường xuyên chỉ đạo việc xây dựng và chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng,
“chấn chỉnh các cơ sở yếu kém, giữ vững nền nếp sinh hoạt định kỳ, nâng cao
chất lượng sinh hoạt chi ủy, chi bộ, đưa việc tự phê bình, phê bình trở thành
nhiệm vụ thường xuyên của các chi bộ đảng. Cấp ủy cấp trên phải bám sát cơ
sở, tập trung củng cố các cơ sở trọng điểm ở phường, xã, doanh nghiệp, trường
học” [7, tr.66]. Mở rộng dân chủ trong sinh hoạt Đảng, chống mọi sự vi phạm
dân chủ, dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, bè phái. Phát huy dân
chủ phải đi đôi với giữ vững kỷ cương, tăng cường kỷ luật và pháp luật nhà
nước. Từng cấp, từng ngành và từng cán bộ, đảng viên phải đấu tranh kiên
quyết với những biểu hiện gây mất đoàn kết nội bộ, cục bộ, bè phái, chấp hành
kỷ luật không nghiêm, nói và làm không theo nghị quyết của Đảng.
58
“Các tổ chức cơ sở Đảng phải thường xuyên tuyên truyền, bồi dưỡng
phát triển đảng viên mới bảo đảm tiêu chuẩn, đồng thời xem xét đưa ra khỏi
đảng những đảng viên thoái hóa, biến chất, không còn đủ tiêu chuẩn” [7,
tr.68]. Làm tốt việc tạo nguồn để tăng cường phát triển đảng viên mới ở các
đơn vị, địa phương chưa có hoặc còn ít đảng viên. Chú ý phát triển đảng viên
mới trong công nhân lao động, giáo viên, cán bộ khoa học... “Thực hiện việc
phân loại, đánh giá chất lượng các tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên hàng năm
phải đúng thực chất, không hình thức và chạy theo thành tích. Phấn đấu hàng
năm có trên 70% tổ chức cơ sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh”
[7, tr.68].
- Bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Chi bộ phải làm
tốt công tác giáo dục và quản lý đảng viên, phân công nhiệm vụ và kiểm tra
đảng viên thực hiện nhiệm vụ được giao. Cấp ủy phải có kế hoạch cụ thể
nhằm tạo điều kiện cho đảng viên được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao phẩm chất, đạo đức, lối
sống và trình độ năng lực lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH và quá trình thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, chủ động hội nhập quốc tế. Đảng viên đang công tác ở các cơ quan,
đơn vị phải thường xuyên giữ mối liên hệ với cấp ủy và nhân dân nơi cư trú,
gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân. Nêu cao vai trò tiên phong, gương
mẫu của cán bộ, đảng viên về chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, và về đạo đức, lối sống.
- Coi trọng và chấp hành nghiêm các quy định về công tác bảo vệ chính
trị nội bộ, tiếp tục triển khai thực hiện tốt Chỉ thị 39-CT/TW của Bộ Chính trị
trong tình hình mới.
“Thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra của cấp ủy, chú trọng kiểm
tra các tổ chức Đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, đường lối chủ
trương của Đảng và pháp luật Nhà nước” [7, tr.70]. Tăng cường lãnh đạo, chỉ
59
đạo việc thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ do
cấp ủy cùng cấp giao cho UBKT các cấp; chú ý củng cố kiện toàn về tổ chức
và nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của Uỷ ban Kiểm tra các cấp.
Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố Đà Nẵng (2/2001) là một sự
kiện chính trị quan trọng. Với việc tổng kết nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XVII
(1996 - 2000), Đại hội lần thứ XVIII đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục
tiêu cho thời kỳ xây dựng phát triển thành phố 5 năm (2001 - 2005), Đại hội
lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố là Đại hội dân chủ, trí tuệ, trách nhiệm, kỷ
cương, đoàn kết thống nhất.
2.2.3. Thực trạng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Thành phố Đà
Nẵng từ năm 2001 đến năm 2006
Đầu năm 2001, Thành uỷ và BTV Thành uỷ tập trung lãnh đạo công tác
xây dựng Đảng, trọng tâm là tổ chức Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ
XVIII đảm bảo đúng nguyên tắc, quy trình và yêu cầu của Chỉ thị 54-CT/TW
Bộ Chính trị. Đại hội XVIII thắng lợi góp phần củng cố sự nhất trí về tư
tưởng chính trị và quyết tâm đổi mới của Đảng bộ và nhân dân thành phố. Sau
Đại hội, Thành uỷ đã xây dựng Quy chế làm việc, thông qua Chương trình
công tác toàn khoá và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội
IX của Đảng và Nghị quyết Đại hội XVIII của Đảng bộ thành phố. Theo đó,
Thành uỷ đã chuyển mạnh trọng tâm lãnh đạo vào việc tăng cường công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiện toàn tổ chức và cán bộ để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ Đại hội đã đề ra. BTV Thành uỷ đã mở 4 lớp quán triệt Nghị quyết
Đại hội IX cho hơn 330 cán bộ chủ chốt các cấp và 2 lớp cho gần 700 cán bộ
hưu trí trung, cao cấp. Các cấp uỷ đảng, đoàn thể đã triển khai nghiêm túc và
hoàn thành sớm việc phổ biến, quán triệt Nghị quyết Đại hội XVIII Đảng bộ
thành phố và Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đến cán bộ, đảng viên và nhân
dân, tạo sự tin tưởng, phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân.
60
Sau Đại hội, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp và Trung
tâm giáo dục chính trị thành phố được củng cố một bước; các lực lượng làm
công tác tư tưởng hướng về cơ sở, tiến hành nhiều hình thức, phương pháp tư
tưởng để củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng bộ và sự đồng thuận
trong nhân dân. Trung tâm giáo dục chính trị thành phố đã mở 24 lớp bồi
dưỡng lý luận chính trị phổ thông; bồi dưỡng nghiệp vụ cho cấp uỷ viên, báo
cáo viên cơ sở cho trên 3.000 học viên; phối hợp với Phân viện Đà Nẵng -
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Trường Chính trị thành phố mở
5 lớp cao cấp, 5 lớp trung cấp chính trị cho 657 học viên.
BTV Thành uỷ đã mở hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện chủ trương đưa
đảng viên đương chức về sinh hoạt để giữ mối liên hệ thường xuyên với cấp uỷ
nơi cư trú; chỉ đạo sơ kết 2 năm thực hiện Chỉ thị 39-CT/TW của Bộ Chính trị
về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; chỉ đạo sắp xếp một bước các đảng uỷ khối
trực thuộc Thành uỷ; đồng thời tiến hành rà soát quy hoạch cán bộ thuộc diện
Thành uỷ quản lý; đề bạt, luân chuyển, bổ sung cán bộ chủ chốt của các cơ
quan, đơn vị thuộc thành phố. Thành ủy đã chỉ đạo mở được 28 lớp bồi dưỡng
đối tượng Đảng cho gần 3.400 quần chúng ưu tú. “Toàn Đảng bộ thành phố kết
nạp được 1.337 đảng viên mới, tăng 23,6% so với năm 2000, trong đó số đảng
viên có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 45,9%” [40, tr.8].
Năm 2001, Đảng bộ thành phố có 503 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc,
trong đó xã phường 47, khối doanh nghiệp Nhà nước 147, doanh nghiệp cổ
phần 16, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 5, đơn vị sự nghiệp 36, cơ
quan hành chính 189, quân đội 26, công an 35, cơ sở khác 2. Tổng số tổ chức
Đảng trực thuộc Đảng bộ cơ sở là 1.628 với 25.516 đảng viên. Kết quả đánh
giá phân loại tổ chức cơ sở Đảng năm 2001: “Trong sạch, vững mạnh: 408 cơ
sở Đảng, chiếm 82,3%. Hoàn thành nhiệm vụ: 84 cơ sở Đảng chiếm 12,90%;
Yếu kém: 4 cơ sở Đảng (0,80%)” [8, tr.97].
61
Kết quả phân loại đảng viên năm 2001: “Đảng viên đủ tư cách hoàn
thành tốt nhiệm vụ: 20.258 (89,40%). Đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm
vụ: 2.249 (9,9%). Đảng viên vi phạm tư cách: 149 (0,60%)” [8, tr.98].
Như vậy so với năm 2000, năm 2001 công tác xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng trong sạch, vững mạnh đạt kết quả khá. Số đảng viên đạt tiêu chuẩn loại
I tăng hơn.
Công tác phát triển đảng viên mới được BTC, cấp ủy và các tổ chức cơ
sở Đảng trực thuộc quan tâm chú ý và thực hiện có hiệu quả. Số đảng viên
mới kết nạp đảm bảo số lượng, chất lượng và tăng cao hơn so với năm 2000.
Song song với công tác xây dựng, phát triển đảng, năm 2001, BTV
Thành uỷ đã tổ chức hội nghị quán triệt các quy định của TW về công tác
kiểm tra và kỷ luật trong Đảng; triển khai quy chế làm việc của UBKT TW
(khoá IX) và của UBKT Thành uỷ; thành lập Đoàn kiểm tra tiến hành kiểm
tra, đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TU của Thành ủy về
phương hướng, nhiệm vụ năm 2001 tại 7 đơn vị. Đi đôi với tăng cường công
tác kiểm tra của Thành uỷ, BTV Thành uỷ đã chỉ đạo tăng cường công tác
kiểm tra của các cấp uỷ và UBKT các cấp. Trong năm, “Uỷ ban kiểm tra các
cấp đã tiến hành kiểm tra 108 trường hợp đảng viên có dấu hiệu vi phạm, 11
tổ chức Đảng cấp dưới có dấu hiệu vi phạm; 385 tổ chức Đảng cấp dưới thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra; kiểm tra việc thu nộp, quản lý, sử dụng đảng phí đối
với 461 tổ chức Đảng. Qua kiểm tra, cấp uỷ và UBKT các cấp đã xử lý kỷ
luật 88 đảng viên, trong đó khiển trách 44, cảnh cáo 40, cách chức 1, khai trừ
3. Ngoài ra UBKT các cấp đã tiếp nhận 28 đơn thư tố cáo và 1 đơn khiếu nại
kỷ luật Đảng, đã giải quyết xong 26 đơn tố cáo và 1 đơn khiếu nại” [40, tr.9].
Để thực hiện nghị quyết cấp trên, nhiệm vụ công tác Đảng năm 2002
được Thành ủy xác định với các nội dung: (1)- Hướng mạnh về cơ sở, đẩy
mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, tăng cường
giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối,
62
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là giáo dục về đạo đức
cách mạng; (2)- Tiếp tục kiện toàn bộ máy và cán bộ các cơ quan đảng, chính
quyền, đoàn thể, các cơ quan bảo vệ pháp luật và các đảng uỷ khối, xác định
chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, quyền hạn đi đôi với trách nhiệm. Làm tốt công
tác đào tạo, quy hoạch để khắc phục có hiệu quả tình trạng hụt hẫng cán bộ kế
cận; chú trọng cán bộ nữ, trẻ. Đổi mới và thực hiện đúng quy trình, quy chế
quản lý, đề bạt, đào tạo cán bộ; quản lý chặt chẽ việc chiêu sinh, mở lớp, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ; (3)- Thực hiện nghiêm tinh thần Chỉ thị 37-CT/TW
của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, Quy định 75-QĐ/TW
của Bộ Chính trị và các hướng dẫn của TW trong việc đề bạt, bổ nhiệm và kết
nạp đảng viên mới. Tiến hành tổng kết NQ TW 8B (khoá VI) về đổi mới công
tác quần chúng của Đảng, Nghị quyết TW 3 (khoá VII), Nghị quyết TW 3 và
Nghị quyết TW7 (khoá VIII) về công tác tổ chức và cán bộ. Xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết TW 5 (khoá IX);
(4)- Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và hiệu quả hoạt động của
các cấp uỷ đảng, đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp uỷ cơ
sở phường, xã, địa bàn dân cư, các tổ chức kinh tế, các đơn vị liên doanh với
nước ngoài. Phát huy vai trò của tổ chức cơ sở Đảng trong việc quản lý, giáo
dục đảng viên. Rà soát, chấn chỉnh việc phân tích chất lượng đảng viên và
phân loại tổ chức cơ sở Đảng; phấn đấu năm 2002 có trên 70% tổ chức cơ sở
Đảng đạt trong sạch, vững mạnh một cách thực chất, hạn chế thấp nhất cơ sở
Đảng yếu kém; (5)- Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp uỷ và uỷ ban
kiểm tra các cấp. Thực hiện tốt chương trình công tác kiểm tra của cấp uỷ
năm 2002. Giải quyết tốt các đơn thư khiếu nại tố cáo của đảng viên theo qui
định mới của TW. Thực hiện nghiêm những quy định của TW về những điều
đảng viên không được làm [41, tr.11-12].
Công tác xây dựng cơ sở Đảng năm 2002 cũng được thành ủy chú trọng
theo. Kết quả phân loại đảng viên và cơ sở Đảng năm 2002 đạt kết quả cao.
63
Bảng 2.6: Phân loại chất lượng tổ chức cơ sở Đảng 4 năm 2001 - 2004
NĂM
2001 2002 2003 2004 NỘI DUNG
Tổng số Tỉ lệ % Tổng số Tỉ lệ % Tổng số Tỉ lệ % Tổng số Tỉ lệ %
1 2 3 4 5 6 7 8 9
503 509 515 524 Số TCCSĐ có đến cuối năm
496 502 508 509
1. Số TCCSĐ được đánh giá chất lượng
Kết quả đánh giá
sạch, 408 82,30 393 72,80 417 82,10 345 76,88 + Trong vững mạnh
Trong đó:
183 36,00 78 15,30
+ Trong sạch vững mạnh, tiêu biểu
thành 84 12,90 103 20,50 91 17,90 162 31,80 + Hoàn nhiệm vụ
+ Yếu kém 6 4 0,80 1,10 2 0,40
7 1,39 7 1,37 15 2,90
2. Số TCCSĐ chưa được đánh giá chất lượng
Trong đó:
+ Mới thành lập 6 2
Nguồn: Văn kiện Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng,
tr.97-98.
Qua số liệu thống kê phân tích chất lượng tổ chức cơ sở Đảng của
Thành ủy, số tổ chức cơ sở Đảng xếp loại trong sạch, vững mạnh luôn được
duy trì ở mức cao. Số tổ chức cơ sở Đảng yếu kém giảm.
64
Ngày 11/10/2003, để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác xây dựng tổ
chức cơ sở Đảng, BTV Thành ủy ra Hướng dẫn số 58-HD/TU Hướng dẫn
đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên năm 2003 [43]. Công tác
quy hoạch cán bộ, thường xuyên gửi đi đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ
chủ chốt đã góp phần quan trọng cho công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
đạt kết quả cao.
Triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ thành phố lần thứ XVIII, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu tổ chức cơ sở Đảng, trong thời kỳ 2001 - 2006 công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng được Đảng bộ thành phố đặc biệt coi trọng để củng cố, nâng cao
niềm tin, bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên,
trước hết là cán bộ chủ chốt. Thành ủy đã duy trì có nề nếp việc bồi dưỡng
các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, quán triệt sâu
sắc các chỉ dẫn của cấp trên và thành phố, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, tạo sự thống nhất ý chí và hành động, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị của Đảng bộ.
Năm 2003 Thành ủy đã chỉ đạo giải thể Trung tâm bồi dưỡng chính trị
thành phố, thành lập Trung tâm thông tin công tác tư tưởng trực thuộc Ban
tuyên giáo Thành ủy và các trung tâm bồi dưỡng chính trị các quận, huyện mở
228 lớp cho 27.434 lượt cán bộ là cấp ủy viên cơ sở, chi ủy viên, cán bộ chính
quyền, đoàn thể từ cấp cơ sở và dưới cơ sở bồi dưỡng lý luận chính trị,
chuyên môn nghiệp vụ, công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở [46, tr.9].
Chế độ thông tin, báo cáo phục vụ công tác lãnh đạo được coi trọng.
Thông qua hội nghị giao ban định kỳ, hội nghị báo cáo viên, sổ tay chi bộ,
thông tin nội bộ... các chủ trương, chính sách của TW, của tỉnh và thành phố
đã được truyền tải đến tận cơ sở, giúp cho cấp ủy các chi, đảng bộ nắm được
yêu cầu nhiệm vụ công tác trong từng thời kỳ để vận dụng chỉ đạo sát hơn với
những vấn đề thực tiễn đặt ra ở cơ sở. Tuy công tác giáo dục chính trị tư
65
tưởng của các tổ chức cơ sở Đảng có tiến bộ, là một nội dung quan trọng để
xây dựng cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, nhưng còn một số cơ sở Đảng
chưa quan tâm đúng mức. Việc triển khai quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng còn mang tính hình thức, chất lượng chưa cao. Năng lực và trình độ đội
ngũ báo cáo viên của nhiều cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, nhiều vấn đề có liên quan mật thiết đến đảng viên
không được phổ biến quán triệt, học tập đầy đủ, kịp thời do đó cán bộ đảng
viên kể cả cán bộ chủ chốt ở cơ sở chỉ nắm chung chung.
Đi đôi với việc đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, Đảng
bộ thành phố đã quan tâm chăm lo xây dựng, củng cố về tổ chức, bảo đảm nội
bộ đoàn kết, thống nhất, có sức chiến đấu cao. Nhiều tổ chức Đảng đã thực
hiện tốt vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Các cấp ủy Đảng đã chỉ đạo đẩy
mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Nhiều cấp ủy cơ sở đã làm tốt công tác quản lý
đảng viên, thông qua việc thực hiện các quy định của Bộ Chính trị về những
điều đảng viên không được làm; giới thiệu đảng viên đang công tác thường
xuyên giữ mối liên hệ với cấp ủy và hương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân
nơi cư trú, hầu hết đảng viên đã phát huy tốt tính tiên phong, gương mẫu, tích
cực vận động gia đình và nhân dân chấp hành đường lối chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, gương mẫu tham gia hoạt động ở khu dân
cư và các phong trào của địa phương. Dân chủ trong Đảng bộ được mở rộng,
kỷ luật được tăng cường. Tình trạng mất đoàn kết nội bộ ở một số cơ sở cơ
bản đã được khắc phục. Công tác nghiệp vụ quản lý đảng viên từ thành phố
đến cơ sở đã được thực hiện tốt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, bảo đảm quy
định, quy trình hướng dẫn của TW.
Nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các cấp uỷ đảng, nâng cao
chất lượng công tác quản lý đảng viên, BTV Thành uỷ đã chỉ đạo triển khai
Đề án 47 về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan
Đảng; triển khai dự án xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu đảng viên, Đảng bộ
66
thành phố đã tiến hành tổng kết Chỉ thị số 29-CT/TW Về công tác đổi thẻ
đảng viên của Ban Bí thư TW ngày 17/10/2003. “Tính đến tháng 12 năm
2005, Thành ủy đã hoàn thành việc đổi thẻ và phát thẻ cho 29.175 đảng viên,
đạt 99,83% số đảng viên chính thức” [45, tr.10]. Việc đổi thẻ được tiến hành
đúng quy định, đúng kế hoạch và được tổ chức trang trọng, có ý nghĩa giáo
dục, nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng. Ngoài ra, BTV
Thành ủy đã ban hành quy định về nhiệm vụ, nội dung hoạt động của chi bộ
khu dân cư, chi bộ thôn...
Công tác chuyển sinh hoạt Đảng từ cơ sở đến Thành ủy được thực hiện
theo đúng quy định của TW, duy trì thường xuyên việc kiểm tra công tác
quản lý hồ sơ đảng viên của các tổ chức cơ sở Đảng. Mặt công tác này đã
được các cấp ủy quan tâm bảo quản chu đáo và khoa học.
Thành ủy đã chỉ đạo sát so việc đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt
động của tổ chức cơ sở Đảng, trong đó quan tâm tới mô hình tổ chức chi bộ
dưới cơ sở theo địa bàn xóm, tổ dân phố. Đồng thời Thành ủy rất quan tâm
đến công tác xây dựng tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị xã hội trong các
doanh nghiệp tư nhân, qua đó góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện
của Đảng bộ.
Những bước chuyển biến quan trọng của công tác xây dựng và chỉnh
đốn tổ chức cơ sở Đảng có ý nghĩa rất lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị trên địa bàn thành phố. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở Đảng được nâng lên, thể hiện được vai trò hạt nhân chính trị lãnh đạo toàn
diện ở địa phương và cơ sở. Nghị quyết của các chi, đảng bộ đã được cụ thể
hóa và đề ra được các chủ trương, biện pháp sát hợp thực tế.
Thực hiện Nghị quyết TW 5 (Khóa IX) về kiện toàn mô hình các chi
bộ, Thành ủy đã chỉ đạo việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động và sắp
xếp lại tổ chức Đảng và các đoàn thể chính trị gắn liền với địa bàn xóm, tổ
dân phố. Trong 47 đảng bộ xã, phường tính đến tháng 9 năm 2005 có 56 tổ
chức cơ sở Đảng trong đó có 941/2.074 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng
67
bộ cơ sở, chiếm 45,90% với số lượng đảng viên là 13.918/30.467 chiếm
45,68%. Chất lượng sinh hoạt chi bộ xóm, tổ dân phố được Thành ủy chỉ đạo
cải tiến với nội dung thiết thực, sát với thực tế mà chi bộ cần phải tập trung
lãnh đạo. Công tác xây dựng tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị xã hội
trong doanh nghiệp tư nhân cũng được Thành ủy quan tâm và góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ.
Từ năm 2001 đến năm 2006, hàng năm có gần 70% tổng số tổ chức cơ
sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh, trong đó có trên 15% đạt trong sạch vững
mạnh tiêu biểu, không có tổ chức cơ sở Đảng yếu kém. Thành ủy đã quy định
cụ thể về nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ; nhiều nơi triển khai thực hiện
nghiêm túc, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy,
quan tâm chỉ đạo công tác phát triển đảng viên, nhất là trong trường học và
các khu dân cư. Nhiệm kỳ qua, toàn đảng bộ thành phố đã kết nạp được 7.114
đảng viên, trong đó có 2.869 nữ (40,32%), 3.834 có trình độ cao đẳng, đại học
trở lên (53,66%).
Các cấp ủy trong Đảng bộ thành phố đã coi trọng các biện pháp để đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo. Đặc biệt là phương thức lãnh đạo của
cấp ủy cơ sở phân biệt rõ chức năng lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng với
chức năng quản lý nhà nước. Hầu hết các cấp ủy từ thành phố xuống cơ sở đã
xây dựng được quy chế làm việc của cấp ủy và lãnh đạo điều hành công việc
theo quy chế, quan tâm đổi mới quy trình chuẩn bị và ra nghị quyết, nâng cao
chất lượng các quyết định, nguyên tắc dân chủ được đề cao, nội dung sinh
hoạt cấp ủy, chi bộ, đảng bộ từng bước được đổi mới. Công tác lãnh đạo của
cấp ủy đảng, việc điều hành của chính quyền và hoạt động của các đoàn thể
đã có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, giúp cho quá trình tổ chức thực hiện
nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị đạt kết quả tốt.
Công tác giáo dục, quản lý và phân công công việc cho đảng viên, đặc
biệt là thực hiện Quy định 76-QĐ/TW của Bộ Chính trị “đảng viên đang công
tác về giữ mối liên hệ và thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú” được Thành
68
ủy chỉ đạo, tổ chức triển khai trong toàn Đảng bộ. “Tính đến tháng 9 năm
2005 đã có 12.992/13.352 đảng viên đang công tác ở các cơ quan hành chính,
doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp được giới thiệu về chi ủy, đảng ủy
cơ sở nơi cư trú (đạt 97,30%)” [44, tr.4]. Qua đánh giá, việc tổ chức thực hiện
đã khẳng định vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chi bộ và bản thân đảng viên
đã nâng lên rõ rệt. Đảng viên được giới thiệu về sinh hoạt nơi cư trú đã phát
huy tốt tính tiên phong, gương mẫu, tích cực vận động gia đình chấp hành
đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, gương
mẫu thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
cũng như các phong trào, các cuộc vận động ở địa phương.
Để tăng cường sức chiến đấu và nâng cao năng lực lãnh đạo, số lượng
và đặc biệt chất lượng của đội ngũ đảng viên là một nội dung quan trọng của
công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng. Công tác quản lý và nâng cao chất
lượng đảng viên đã được cấp ủy từ thành phố đến cơ sở coi trọng. Đặc biệt là
việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc sinh hoạt Đảng, phân công nhiệm vụ
cho đảng viên; thực hiện tự phê bình và phê bình. “Việc duy trì sinh hoạt
Đảng ở các cơ sở được thực hiện tương đối tốt, nhất là ở đảng bộ khối xã -
phường Đây cũng là nơi có số đảng viên đông, chiếm tới 45,68% số đảng viên
của Đảng bộ” [46, tr.2], tiếp đó là “chi đảng bộ cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp, doanh nghiệp nhà nước với số lượng đảng viên chiếm 43,80%” [46,
tr.2]. Nội dung sinh hoạt thiết thực hơn, đã bám sát nhiệm vụ chính trị cụ thể
của địa phương, đơn vị; tập trung lãnh đạo giải quyết những vấn đề búc xúc
ngay ở cơ sở. Việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng gắn với
những yêu cầu theo tinh thần NQTW 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng
chỉnh đốn Đảng đã được các cấp ủy quan tâm. Nhận thức về vị trí vai trò của
tổ chức Đảng, trách nhiệm của cấp ủy và đảng viên được nâng lên. Việc tự
phê bình và phê bình nghiêm túc làm cho nguyên tắc tổ chức Đảng được đề
cao, ý thức trách nhiệm, lề lối làm việc được chấn chỉnh, do được Thành ủy
chỉ đạo tiến hành thường xuyên, là cơ sở để thực hiện đánh giá phân loại đảng
69
viên hàng năm của chi, đảng bộ. Theo sự hướng dẫn của các cấp bộ Đảng cấp
trên và trực tiếp của Thành ủy, các tổ chức cơ sở Đảng thực hiện đúng các
nguyên tắc, nội dung để đánh giá, phân loại đội ngũ đảng viên. Điều đó có tác
dụng làm cho đảng viên luôn giữ được vai trò tiên phong gương mẫu trong
công tác, giữ vững được phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống.
Bảng 2.7: Phân loại chất lượng đảng viên 4 năm 2001 - 2004
NĂM
2001 2002 2003 2004 NỘI DUNG
Tổng số Tỉ lệ % Tổng số Tỉ lệ % Tổng số Tỉ lệ % Tổng số Tỉ lệ %
1 2 3 4 5 6 7 8 9
25.514 27.414 28.479 30.189
2.697 1.355 1.200 1.318
161 834 422 566
22.656 100 25.225 100 26.857 100 28.305 100
Đảng viên có mặt đến điểm thời đánh giá chất lượng Chia ra: + Đảng viên được miễn giá đánh chất lượng + Đảng viên được chưa đánh giá chất lượng + Đảng viên được đã giá đánh chất lượng Phân tích kết quả ĐV được đã đánh giá chất lượng
70
1 2 3 4 5 6 7 8 9
20.258 89,40 14.052 55,70 16.606 61,80 15.707 55,50
3.068 11,40 1.750 6,20
2.249 9,92 10.992 43,50 10.143 37,80 12.434 43,90
1.752 6,50 1.597 5,60
149 0,60 181 0,70 108 0,40 164 0,60
1. ĐV đủ tư hoàn cách tốt thành nhiệm vụ Trong đó: Đủ tư cách thành hoàn xuất sắc nhiệm vụ 2. ĐV đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ Trong đó: Đủ tư cách nhưng có mặt còn hạn chế 3. ĐV vi phạm tư cách
Nguồn: Văn kiện Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng,
tr.97-98
Trong 4 năm từ 2001 đến 2004, tỷ lệ đảng viên đủ tư cách, hoàn thành
nhiệm tốt nhiệm vụ chiếm 65,6% số đảng viên dự phân loại. “Số đảng viên
hoàn thành nhiệm vụ tăng, số đảng viên vi phạm tư cách giảm, năm 2001
chiếm 0,60%, đến năm 2004 chiếm 0,60%, trong đó năm 2003 là 0,40% ”
[46, tr.8].
Những thành tựu đạt được trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
và nâng cao chất lượng đảng viên có ý nghĩa quan trọng. Tuy vậy, ở Đảng bộ
thành phố nhìn thẳng vào thực tế, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một
số tổ chức cơ sở Đảng còn yếu, chưa thể hiện rõ vai trò là hạt nhân chính trị ở
71
cơ sở. Có một số tổ chức cơ sở Đảng từ 3 đến 5 năm liền không đạt trong
sạch, vững mạnh. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên
hàng năm ở một số cơ cở chưa làm chặt chẽ, chưa phản ánh đúng thực tế ở cơ
sở. Còn tư tưởng chạy theo thành tích, nể nang, ngại va chạm. Sinh hoạt Đảng
ở một số chi, đảng bộ cơ sở chưa đều (nhất là các cơ sở Đảng trong doanh
nghiệp, cơ quan hành chính sự nghiệp). Ở phường, xã tuy sinh hoạt đều hơn,
song tỷ lệ đảng viên dự sinh hoạt còn thấp. Nội dung sinh hoạt cấp ủy, chi bộ
chậm đổi mới, ở nhiều nơi thuộc khối doanh nghiệp, cơ quan hành chính sự
nghiệp thậm chí còn lẫn lộn giữa nội dung sinh hoạt chi bộ với sinh hoạt
chuyên môn. Tinh thần tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng chưa
cao, việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên chưa rõ ràng. Tính lãnh đạo, tính
giáo dục và tính chiến đấu chưa được thể hiện rõ trong sinh hoạt chi bộ. Lãnh
đạo chủ chốt của cấp ủy nhất là trong doanh nghiệp, cơ quan hành chính sự
nghiệp chưa coi trọng công tác đảng, nặng về chuyên môn, còn có biểu hiện
coi nhẹ vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của tổ chức Đảng không được thực hiện nghiêm túc, nhất là nguyên tắc tập
trung dân chủ. Đây là những vấn đề hạn chế đang tồn tại đặt ra cho Đảng bộ
thành phố cần có sự khảo sát, phân tích, đánh giá đúng thực trạng một cách
nghiêm túc để từ đó đề ra những chủ trương, biện pháp khắc phục tình trạng
nêu trên trong thời gian sắp đến.
Công tác kiểm tra được Thành ủy chú trọng chỉ đạo các cơ sở Đảng
thực hiện nghiêm túc, đã góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, tăng cường
đoàn kết thống nhất trong đảng bộ, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, đảm bảo phương châm: công minh, chính xác, kịp thời. Ngay
từ đầu nhiệm kỳ, Thành ủy và UBKT các cấp đã xây dựng chương trình công
tác, tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cấp ủy và UBKT các cấp, đồng thời tổ
chức tốt các cuộc kiểm tra của cấp ủy về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các mục
72
tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, công tác xây dựng Đảng, xây dựng
hệ thống chính trị. Trong 6 năm từ 2001 đến 2006, BTV Thành ủy đã tổ chức
kiểm tra về thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, tại 18 đơn vị, 15 cuộc kiểm tra
về chấp hành Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
ngoài ra BTV Thành ủy đã thành lập các Đoàn kiểm tra để kiểm tra việc thực
hiện Kết luận Hội nghị TW 4 (khóa IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW
6 (lần 2) khóa VIII; kiểm tra tài chính đảng tại các đơn vị thụ hưởng ngân
sách Đảng; kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng,
Nghị quyết Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố giữa nhiệm kỳ. Thực
hiện Kế hoạch số 03, 04-KH/TW của Ban Bí thư TW, Kế hoạch 05-KH/TW
của Bộ Chính trị, BTV Thành ủy đã chỉ đạo các cấp ủy đảng tổ chức kiểm tra
và thành lập các Đoàn kiểm tra của Thành ủy kiểm tra việc thực hiện các Kết
luận của Ban Bí thư về các cuộc kiểm tra trong từng năm; kiểm tra việc thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí; kiểm tra việc quản lý, sử dụng đất đai và các
công trình xây dựng cơ bản trên địa bàn thành phố. Đồng thời, BTV Thành uỷ
cũng đã chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy và ủy ban kiểm tra
các cấp, góp phần thực hiện nghiêm kỷ luật trong Đảng.
Từ năm 2001đến năm 2006, UBKT Thành ủy đã trực tiếp tổ chức kiểm
tra 526 đảng viên có dấu hiệu vi phạm; 65 tổ chức Đảng có dấu hiệu vi phạm;
2.661 tổ chức cơ sở Đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra; 3.065 tổ
chức Đảng về việc thu nộp, quản lý, sử dụng đảng phí; thi hành kỷ luật 4 tổ
chức Đảng và 650 đảng viên, trong đó khiển trách: 343, cảnh cáo: 242, cách
chức: 20, khai trừ: 45. Tiếp nhận 145 đơn thư tố cáo, 15 khiếu nại đối với tổ
chức và đảng viên. Đã tham mưu cho cấp ủy và trực tiếp giải quyết 141/145
đơn thư tố cáo (đạt 91,8%), 15/15 đơn khiếu nại (đạt 100%).
73
Bảng 2.8 : Tình hình thi hành kỷ luật đảng viên (2001 - 1005)
Hình thức xử lý kỷ luật Đảng viên do từng cấp quản lý Là cấp ủy viên các cấp
Năm
Khiển trách Cảnh cáo Cách chức Khai trừ Cấp TP Chi bộ Đảng ủy cơ sở Thành ủy viên Chi ủy viên
Tổng số đảng viên bị kỷ luật Huyện ủy viên và tương đương Đảng ủy viên cấp ủy viên Cấp quận, huyện và tương đương
3 4 5 6 7 9 10 11 12 13 14 2 1 8
42 42 1 3 31 50 1 6 10 88 2001 7
53 35 3 7 2 25 55 1 16 15 98 2002 16
60 33 5 1 20 49 4 20 15 99 2003 30
62 42 6 12 2 45 58 15 12 122 2004 17
59 44 3 17 5 30 66 6 12 14 123 2005 22
TS 40 9 420 331 32 151 278 1 11 69 66 868 92
Nguồn: Văn kiện Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, tr.96
74
Thời kỳ 2001-2006, công tác kiểm tra đã được các cấp ủy quan tâm,
nắm vững phương châm, phương pháp, nguyên tắc, thủ tục thi hành kỷ luật,
coi trọng công tác giáo dục phòng ngừa. Vì vậy số cán bộ, đảng viên ở cơ sở
vi phạm phải áp dụng hình thức kỷ luật giảm nhiều so với các năm trước đây.
Tình trạng mất đoàn kết, chia rẽ trong tổ chức Đảng được hạn chế, các đơn
thư tố cáo, khiếu nại, phản ánh của cán bộ, đảng viên và nhân dân được cấp
ủy quan tâm giải quyết khách quan, nghiêm túc đúng trình tự, cán bộ đảng
viên vi phạm đã được xử lý nghiêm theo đúng Điều lệ Đảng. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu trên, công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật của Đảng bộ
thành phố Đà Nẵng còn bộc lộ một số hạn chế, tồn tại như nhận thức của một
số cấp ủy cơ sở về công tác kiểm tra chưa đầy đủ, chưa coi công tác kiểm tra
là của cấp ủy nên còn tình trạng khoán trắng cho UBKT. Hoạt động của
UBKT ở một số cơ sở Đảng còn yếu, chưa chủ động tham mưu cho cấp ủy về
công tác kiểm tra, chưa nắm chắc phương châm, phương pháp thủ tục, nguyên
tắc khi tiến hành kiểm tra và thi hành kỷ luật Đảng.
Với sự tâm lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, của chính quyền các cấp, của
Mặt trận Tổ quốc, công tác dân vận từ năm 2001 đến năm 2006 đã đạt được
kết quả thiết thực và những chuyển biến rõ nét, góp phần giữ vững ổn định
chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo môi trường thuận lợi cho
phát triển kinh tế-xã hội. Ban Dân vận đã làm tốt công tác tham mưu cho cấp
ủy, chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những vấn đề liên quan
đến công tác vận động quần chúng, công tác tôn giáo, dân tộc, giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân, những vụ việc bức xúc, ngăn chặn truyền đạo
trái phép, bài trừ mê tín dị đoan góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn thành phố. Việc thực hiện quy chế dân chủ đã phát
huy được tác dụng tích cực trong đời sống xã hội. Thành ủy đã tổ chức tổng
kết 12 năm thực hiện Nghị quyết TW 8b (Khóa VI) về đổi mới công tác vận
động quần chúng của Đảng; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 04 của Bộ
75
Chính trị (Khóa VII) về công tác thanh niên trong thời kỳ mới. Nhiều phong
trào thi đua yêu nước được các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực. Trong đó
nổi bật là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”;
phong trào “Cựu chiến binh gương mẫu”; phong trào thi đua “Lao động giỏi,
sáng tạo, tiết kiệm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao”, phong trào thi
đua “Sản xuất nông, lâm nghiệp giỏi”; phong trào “Thanh niên tình nguyện
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động
sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Hoạt động của Hội người cao tuổi,
Hội khuyến học, Hội luật gia, Hội chữ thập đỏ đã đáp ứng được nhu cầu hoạt
động đa dạng của các tầng lớp nhân dân, góp phần làm phong phú đời sống xã
hội trên địa bàn.
Công tác phát triển Đảng được Đảng bộ thành phố Đà Nẵng quan tâm
và xác định là nhiệm vụ thường xuyên, là nhu cầu tất yếu nhằm bổ sung sinh
lực, sự kế thừa và phát triển của Đảng, là một nội dung quan trọng nhằm tăng
cường và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
Năm 2000, năm bản lề của thiên niên kỷ mới, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số
51-CT/TW (21/1/2000), trong đó nêu rõ: “Kết nạp đảng viên là một nhiệm vụ
quan trọng, thường xuyên, có tính quy luật trong công tác xây dựng Đảng,
nhằm tăng cường thêm sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát triển của
Đảng”. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (4/2001) cũng xác định: “Phát triển
đảng viên theo đúng tiêu chuẩn quy định, chú ý những người ưu tú trong công
nhân, trí thức, lao động thuộc các thành phần kinh tế, đoàn viên Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, những nơi còn ít, hoặc chưa có đảng viên” [12,
tr.143].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (4/2001) và Nghị quyết Đại
hội XVIII Đảng bộ thành phố (2/2001), các cấp uỷ Đảng từ thành phố đến cơ
sở đã xây dựng kế hoạch và những biện pháp thực hiện công tác phát triển
Đảng. Với phương châm coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, bảo
76
đảm chặt chẽ về tiêu chuẩn, nguyên tắc, công tác phát triển Đảng được hầu
hết các cơ sở coi trọng công tác tuyên truyền, bồi dưỡng, chính trị cho quần
chúng, có nhiều biện pháp tạo nguồn phát triển đảng viên, biểu hiện cụ thể là:
* Về tạo nguồn phát triển Đảng: Cấp uỷ từ thành phố xuống cơ sở đã
quan tâm chỉ đạo thường xuyên các tổ chức đoàn thể nhất là ĐTNCS Hồ Chí
Minh, tuyên truyền, giáo dục, thông qua các phong trào để giới thiệu quần
chúng về lịch sử và truyền thống cách mạng của Đảng, lựa chọn những quần
chúng tích cực, tự nguyện giới thiệu với Đảng bồi dưỡng kết nạp. Trung tâm
bồi dưỡng chính trị của các quận, huyện (được thành lập từ 2003) dưới sự chỉ
đạo của Thành uỷ, hàng năm đã xây dựng và tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng đối
tượng kết nạp Đảng với nhiều hình thức thích hợp như tập trung ở các quận,
huyện, tổ chức theo cụm, khu vực, trường Cao đẳng, Đại học,... thông qua đó
đã giúp quần chúng là đối tượng Đảng nhận thức tốt hơn về Đảng, có động cơ
đúng đắn và tự nguyện phấn đấu vào Đảng, góp phần tích cực đến chất lượng
kết nạp đảng viên mới.
* Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ và thực hiện các nguyên tắc, thủ tục,
hồ sơ được thực hiện tốt. Hàng năm, Thành uỷ đã tổ chức các lớp tập huấn
nghiệp vụ về công tác đảng viên và phát triển Đảng, hướng dẫn các cơ sở
Đảng thực hiện đúng các biểu mẫu, hồ sơ, thủ tục đã quy định của TW.
* Công tác xét duyệt kết nạp Đảng đã đảm bảo thời gian và đúng nguyên
tắc, thủ tục của TW. Chất lượng của đảng viên mới kết nạp được nâng cao, đã
chú trọng đến cơ cấu theo tinh thần phát triển Đảng của Nghị quyết Đại hội
Đảng các cấp. Thành uỷ đã giao nhiệm vụ tiếp tục bồi dưỡng đảng viên mới
cho các trung tâm bồi dưỡng chính trị các quận, huyện với những chuyên đề lý
luận gắn liền với thực tiễn tình hình địa phương, đất nước và thế giới.
* Đã rèn luyện và thử thách quần chúng ưu tú thông qua những hoạt
động và hành động thiết thực. Sau khi được tổ chức kết nạp tiếp tục được cấp
uỷ quan tâm và bồi dưỡng để phát huy năng lực và hoàn thiện phẩm chất
77
người đảng viên của đảng viên mới bằng việc phân công công tác cho đảng
viên mới phù hợp với đặc điểm nơi công tác và nơi cư trú.
Từ năm 2001 đến năm 2006, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã kết nạp
được 8.992 đảng viên, trong đó có 3.659 nữ (40,69%), 4.845 trình độ cao
đẳng, đại học trở lên (53,88%). Cơ cấu, chất lượng đảng viên mới có xu
hướng tăng.
Bảng 2.9: Trình độ học vấn phổ thông, chuyên môn đảng viên mới 2001 - 2005
NĂM
Tổng cộng 2001 2002 2003 2004
9 tháng 2005 6 3 2 5 1
4 1337 1444 1465 1527 1341 1337 1444 1465 1527 1341 7 7114 7114
1 84 54
1 109 45 74 1279 1359 1391 1473 1296 935 1107 1248 1298 1122 2 366 6746 5710
60 74 97 132 363
Đảng viên mới kết nạp 1. Trình độ học vấn phổ thông + Tiểu học + Trung học cơ sở + Trung học phổ thông 2. Trình độ chuyên môn kỹ thuật + Công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ + Trung học chuyên nghiệp + Cao đẳng + Đại học + Thạc sỹ + Tiến sỹ + Tiến sỹ khoa học 235 96 633 19 7 313 63 775 21 2 300 68 658 18 3 345 74 756 21 5 320 601 14
1513 301 3423 93 17 Nguồn: Thành ủy Đà Nẵng (12/2005), Văn kiện trình Đại hội đại biểu
Thành phố lần thứ XIX nhiệm kỳ 2006 - 2010, tr.95.
78
Bảng 2.10: Thống kê cơ cấu và chất lượng đảng viên mới 2001 - 9/2005
NĂM
DANH MỤC Tổng cộng 2001 2002 2003 2004
9 tháng 2005
1 2 3 4 5 6 7
Đảng viên mới kết nạp 1337 1444 1465 1527 1341 7114
Trong đó:
+ Kết nạp lại 2 3 3 8
552 590 571 630 526 2869 + Phụ nữ
+ Dân tộc ít người 1
+ Tôn giáo
+ Là đoàn viên TNCSHCM 616 499 771 507 674 3067
+ Cán bộ công chức Nhà nước 129 242 239 158 224 992
311 268 270 297 218 1364
+ Viên chức hoạt động sự nghiệp
+ Viên chức kinh doanh 61 198 150 198 343 950
+ CN, LĐ các thành phần KT 356 398 434 271 187 1646
+ Nông dân 80 91 97 75 5 348
+ Sỹ quan, chiến sỹ quân đội 36 94 92 48 95 365
+ Sinh viên, học sinh 14 19 38 21 45 137
Nguồn: Thành ủy Đà Nẵng (12/2005), Văn kiện trình Đại hội đại biểu
Thành phố lần thứ XIX nhiệm kỳ 2006 - 2010, tr. 94.
79
Bảng 2.11: Số lượng tổ chức cơ sở Đảng từ năm 2001 đến tháng 9 - 2005
NĂM
Tổng 9
cộng 2001 2002 2003 2004 tháng
2005
1 2 3 4 5 6 7
503 509 515 524 573 Tổng số TCCSĐ có đến cuối
kỳ
Trong đó
+ Số không còn quần chúng 23 23 21 25 29
+ Số TCCSĐ có kết nạp đv 337 353 332 334 307
Nguồn: Thành ủy Đà Nẵng (12/2005), Văn kiện trình Đại hội đại biểu
Thành phố lần thứ XIX nhiệm kỳ 2006 - 2010, tr.95.
Qua các bảng thống kê, có thể nhận thấy cơ cấu và chất lượng đảng
viên mới ở Đảng bộ thành phố đã theo đúng tinh thần của Nghị quyết các cấp
bộ Đảng và được vận dụng linh hoạt, đúng đắn về tiêu chuẩn, thành phần theo
đặc điểm địa phương. Công tác phát triển Đảng là nữ được chú trọng theo Chỉ
thị số 37-CT/TW của Ban Bí thư “Về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong
tình hình mới”, tính chung 6 năm 2001 - 2006 kết nạp được 3.659 /8.992 đảng
viên mới là nữ chiếm 40,69%, tăng 4,50% so với thời kỳ 1997-2000
(36,19%). “Nhiều đảng viên nữ, trong đó có đảng viên mới kết nạp đã được
bồi dưỡng, quy hoạch, cất nhắc, đề bạt nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng
trong các cơ quan Đảng, chính quyền và tổ chức đoàn thể của thành phố và đã
phát huy được tốt vai trò của mình” [8, tr.33].
Theo Nghị quyết 02/CQ-TU (1997) của BTV Thành uỷ “Về xây dựng
và củng cố tổ chức Đảng trong giáo dục - đào tạo đến năm 2000”, công tác
phát triển Đảng trong các trường học các cấp trên địa bàn thành phố những
80
năm gần đây đạt kết quả khả quan, khắc phục được cơ bản tình trạng “trắng”
đảng viên và chi bộ đảng cơ sở thời kỳ trước đó.
Theo chủ trương trẻ hoá và phát triển Đảng từ đội hậu bị là đoàn viên
thanh niên của Thành uỷ xác định: “Tổ chức Đoàn phải là nơi đào tạo để bổ
sung lực lượng đoàn viên ưu tú cho Đảng”, Thành uỷ giao nhiệm vụ cụ thể
cho các chi, đảng bộ cơ sở, coi việc bồi dưỡng kết nạp đảng viên mới trong
thanh niên là một trong những chỉ tiêu quan trọng của công tác xây dựng
Đảng. Dưới sự chỉ đạo đó của Thành uỷ, cấp uỷ cơ sở đã cụ thể hoá kế hoạch
bồi dưỡng, tạo điều kiện cho đoàn viên thanh niên rèn luyện, phấn đấu. Thông
qua hoạt động Đoàn, số đoàn viên ưu tú được chọn kết nạp Đảng hàng năm
đều tăng. Tính chung 6 năm kết nạp được 4.302/8.992 đảng viên mới là đoàn
viên, chiếm tỷ lệ 47,84%. Nhìn chung thời kỳ 2001-2006, đảng viên mới được
kết nạp hàng năm ở Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đều tăng về số lượng và chất
lượng, tuổi đời giảm xuống và được trẻ hoá.
Bảng 2.12: Tuổi đời đảng viên mới kết nạp 2001 - 2005
NĂM
DANH MỤC Tổng cộng 2001 2002 2003 2004
9 tháng 2005
1 2 3 4 5 6 7
Đảng viên mới kết nạp 1337 1444 1465 1527 1341 7114
470 587 684 750 643 3134 + 18 đến 30 tuổi
592 549 521 535 473 2670 + 31 đến 40 tuổi
265 280 241 234 211 1231 + 41 đến 50 tuổi
10 28 19 8 14 79 + 51 tuổi trở lên
Nguồn: Thành ủy Đà Nẵng (12/2005), Văn kiện trình Đại hội đại biểu
thành phố lần thứ XIX nhiệm kỳ 2006 - 2010, tr.95.
81
Bảng 2.13: Số lượng đảng viên 2001 - 2005
STT Loại cơ sở 2001 2002 2003 2004 2005
1 Xã 2239 2386 2539 2737 1997
2 Phường 9868 10201 10591 11761 11921
3 DN Nhà nước 6113 6692 6865 6878 7330
4 330 482 617 1059 1101 DN cổ phần
5 DN tư nhân 3 3
6 Công ty TNHH 4 17 18
7 C.ty cổ phần tư nhân 4
8 DN có vốn n.ngoài 34 37 39 40 39
9 Đ.vị sự nghiệp 1319 1553 2078 2273 2273
10 Cơ quan HC 3755 3855 3591 3667 3749
11 Quân đội 728 749 785 809 809
1084 1161 1198 1226 1226 12 Công an
46 13 Cơ sở khác
25516 27122 28305 30469 30467 Tổng số
Nguồn: Văn kiện Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng,
tr.98.
Đạt được những thành tựu trong công tác phát triển đảng là do những
nguyên nhân sau:
+ Về chủ quan: Các cấp uỷ Đảng từ thành phố xuống tổ chức cơ sở
Đảng đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác phát triển Đảng, do
vậy đã tích cực và làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng về
Đảng, kịp thời tiến hành kiểm điểm, rút kinh nghiệm và có kế hoạch cùng các
biện pháp cụ thể tạo nguồn phát triển Đảng. Thành uỷ cũng thường xuyên bổ
82
sung, hoàn thiện các biện pháp chỉ đạo và hướng dẫn các cơ sở Đảng thực
hiện mặt công tác này phù hợp với điều kiện, đặc điểm ở cơ sở, đồng thời
tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc các cơ sở tổ chức thực hiện.
+ Về khách quan: Những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện
đường lối do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đã củng cố niềm tin của cán bộ
đảng viên và quần chúng vào Đảng. Từ đó, quần chúng tự nguyện rèn luyện,
xác định rõ được mục tiêu phấn đấu vào Đảng.
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, trong thời gian qua, công tác phát
triển Đảng ở Đảng bộ thành phố còn có hạn chế nhất định, thể hiện ở chỗ:
Một số cấp uỷ chưa quan tâm, chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, yêu cầu của
công tác phát triển Đảng, do vậy có những nơi có số lượng quần chúng đông
nhưng không kết nạp được đảng viên, chưa gắn phát triển Đảng với nhiệm vụ
xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng. Việc xét công nhận đảng viên chính
thức ở một số chi, đảng bộ cơ sở còn chậm, chưa đảm bảo thời gian quy định
của Điều lệ Đảng. Các kỹ thuật về nguyên tắc, thủ tục và quy định, biểu mẫu
trong hồ sơ kết nạp chưa được cấp uỷ cơ sở nắm vững do đó phải làm lại
nhiều lần.
Quán triệt các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết TW3 (Khóa
VIII), Nghị quyết Đại hội lần thứ IX về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước, Kết luận Hội nghị TW6 (Khóa IX) về công tác tổ chức
và cán bộ, Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ lãnh đạo
quản lý, các chỉ thị nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác tổ
chức, cán bộ; nhận thức của các cấp ủy ở Đảng bộ thành phố được nâng lên,
phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc có nhiều đổi mới thúc đẩy việc thực hiện
có hiệu quả nhiệm vụ công tác của các cấp ủy. Giai đoạn 2001-2005 là thời
quãng Đảng bộ thành phố triển khai tương đối toàn diện thực hiện Nghị quyết
Đại hội lần thứ XVIII Đảng bộ thành phố, triển khai thực hiện các các nghị
quyết của TW, của tỉnh, tổ chức cuộc bầu cử HĐND 3 cấp, đồng thời lãnh
83
đạo tiến hành đại hội nhiệm kỳ các cơ sở Đảng và Đại hội Đảng bộ thành phố
nhiệm kỳ XIX (2006 - 2010). Những nhiệm vụ trên liên quan trực tiếp đến
công tác cán bộ vì vậy đã được các cấp ủy đảng chỉ đạo chặt chẽ. Các văn bản
hướng dẫn về công tác quy hoạch đào tạo, nhận xét, đánh giá, luân chuyển, đề
bạt, bổ nhiệm cán bộ và về công tác nhân sự qua các kỳ đại hội Đảng, bầu cử
HĐND đã được cấp ủy cơ sở triển khai thực hiện nghiêm túc. Các phương án
nhân sự cán bộ chủ chốt qua đại hội nhiệm kỳ của Đảng, qua bầu cử HĐND
hầu hết đúng với chuẩn bị của cấp ủy. Đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cơ sở,
đặc biệt đối với các xã, phường đã từng bước được trẻ hóa, chất lượng cán bộ
được nâng lên so với nhiệm kỳ trước, tuổi bình quân cán bộ chủ chốt (Bí thư,
Phó bí thư, Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND) là 45 tuổi, số có trình độ
trung cấp trở lên chiếm 76,50%. Nhiều đồng chí trong diện quy hoạch đã
trưởng thành qua hoạt động thực tiễn và đang đảm nhiệm các vị trí chủ chốt ở
cơ sở. Việc bố trí cán bộ theo hướng kiêm nhiệm để thuận lợi cho công tác
lãnh đạo đã phát huy tác dụng tốt.
Những kết quả đạt được trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng thời kỳ 2001 - 2006 đã tác động tích cực và
hiệu quả đến việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương và cơ
sở. Thực hiện phương châm “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, công tác xây dựng, chỉnh trang đô thị được
coi là khâu đột phá”, từ Thành ủy đến các cơ sở Đảng trực thuộc đều quan
tâm đến nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, phấn
đấu hoàn thành toàn diện, vượt mức các mục tiêu kinh tế-xã hội, quốc phòng
an ninh được giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện. Công tác lãnh đạo,
chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền có nhiều tiến bộ. Năng lực, sức
chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong thời kỳ cách mạng mới. Tổ chức bộ máy chính quyền các cấp được
đổi mới theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các
84
đoàn thể nhân dân được nâng lên, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
ngày càng được phát huy.
Vì vậy sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XVIII, Đảng bộ
cùng với nhân dân thành phố đã đạt được những thành tựu cụ thể sau:
Về phát triển kinh tế
- “Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của thành phố giai
đoạn 2001-2005 là 13%. Tính đến năm 2005, GDP tăng gấp 2,2 lần so với
năm 2000. GDP bình quân đầu người từ 6,91 triệu (2000) tăng lên 15,23 triệu
đồng/người/năm (2005), giá trị sản xuất công nghiệp tăng 20,10%/năm, giá trị
dịch vụ tăng 11,40%/năm, giá trị thủy sản - nông - lâm tăng bình quân
5,90%/năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng 17,50%/năm, qua 5 năm đã thu hút
được 50 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư 291,5 triệu USD,
nâng tổng số dự án là 79 với tổng vốn đầu tư là 506,4 triệu USD” [8, tr.87].
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được ổn định và nâng cao. Với phương châm "đổi
đất lấy hạ tầng” và “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, bộ mặt đô thị thành
phố có nhiều khởi sắc, hạ tầng kỹ thuật từng bước phát triển theo hướng hiện
đại, bộ mặt nông thôn có những biến đổi rõ nét. Kết cấu hạ tầng, nhất là hệ
thống giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế… được đầu tư theo hướng
kiên cố hóa. Đã xuất hiện nhiều mô hình, nhân tố mới trong nông nghiệp và
phát triển nông thôn, góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển ngành nghề, phân công lại lao động, giải quyết việc làm, xóa đói giảm
nghèo. “Trong 6 năm (2001 - 2006) đã tạo được việc làm cho 146.657 lao
động, đến hết năm 2006 hộ đói nghèo chiếm 7,54% trên tổng số hộ” [47, tr.5].
Về xây dựng cơ sở hạ tầng
- “Tiến trình đô thị hóa được đẩy mạnh, công tác quy hoạch, xây dựng
cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị được đặc biệt chú trọng. Tổng vốn đầu tư phát
85
triển nhanh qua các năm, ước đạt 23.912 tỷ đồng trong 5 năm (2001 - 2005),
tăng bình quân 28,20%/năm” [8, tr.20].
Về giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa - xã hội
- Toàn thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục bậc tiểu học và trung
học cơ sở đúng độ tuổi; đến nay đã có 47/56 xã phường đạt chuẩn phổ cập bậc
trung học. Thành phố có một số chính sách mang tính đột phá trong việc thu
hút chất xám, đào tạo nhân tài. Số lượng các trường trung học chuyên nghiệp
cũng tăng nhanh.
- Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, sức khỏe sinh sản, dân số
- kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ - chăm sóc - giáo dục trẻ em, vì sự tiến bộ của
phụ nữ… tiếp tục được triển khai có hiệu quả trên diện rộng. Việc chăm sóc
sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, xóa nhà tạm đã đạt những kết quả tốt.
- Các hoạt động văn hóa thấu suốt quan điểm kế thừa và phát huy bản
sắc dân tộc và địa phương gắn với yêu cầu hiện đại. Môi trường văn hóa
thành phố nhìn chung khá lành mạnh. Tiềm năng văn hóa cơ sở được tiếp tục
phát huy. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
theo tinh thần Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) được quan tâm chỉ đạo, đạt hiệu
quả khá tốt. Hoạt động văn học - nghệ thuật tiếp tục có những chuyển biến tốt
và sôi động hơn, một số tác phẩm của các loại hình nghệ thuật đã được dư
luận đánh giá cao. Báo chí, xuất bản ngày càng cố gắng vươn lên đáp ứng yêu
cầu phát triển mới, xứng đáng với vai trò là tiếng nói của Đảng và chính
quyền, là diễn đàn của nhân dân.
*
* *
Năm 2006, đánh dấu mốc thời gian 10 năm Đà Nẵng trở thành đơn vị
hành chính trực thuộc TW. Trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng, mặc dù còn những hạn chế, thành phố Đà Nẵng đã có bước phát triển
năng động, đạt được những thành quả to lớn đáng tự hào. Những thành quả đó
86
là kết tinh công sức, trí tuệ của quân và dân thành phố dưới sự lãnh đạo của
đảng bộ thời gian qua; đồng thời không tách rời những thành tựu to lớn rất
quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
- Quán triệt quan điểm “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, 10 năm qua, toàn Đảng bộ thành phố đã
đoàn kết, thống nhất, vừa tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, vừa chú
trọng công tác xây dựng Đảng. Các cấp ủy Đảng đã xây dựng Chương trình
hành động, thành lập Ban Chỉ đạo TW 6 (lần 2) và bộ phận chuyên trách nhằm
tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 6 (lần 2), Kết luận Hội nghị TW 4 và Nghị
quyết Hội nghị TW 9 (khóa IX), đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhũng nhiễu,
giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và các vụ việc nổi cộm, bức xúc.
- Công tác chính trị, tư tưởng được quán triệt là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của Đảng bộ. Các cấp ủy coi trọng lãnh đạo công tác tư tưởng, triển
khai công tác tư tưởng qua nhiều kênh khác nhau, phù hợp với nhiều đối
tượng. Cán bộ chủ chốt các cấp chủ động nắm tình hình, thường xuyên đối
thoại với nhân dân, trực tiếp giải quyết những vướng mắc nảy sinh trong thực
tiễn. Đảng bộ chú trọng chăm lo công tác giáo dục tư tưởng chính trị, nghiên
cứu học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết thực tiễn, tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao chất lượng
các đợt học tập quán triệt nghị quyết của Đảng.
- Công tác tổ chức có nhiều chuyển biến mới, tích cực. Thành ủy chú
trọng củng cố các ban tham mưu, sắp xếp lại các đảng ủy trực thuộc, kiện
toàn các cơ quan chuyên môn của chính quyền; điều chỉnh, bổ sung chức
năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính
trị; đặc biệt tập trung củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ
sở và dưới cơ sở, coi đây là khâu quan trọng trong việc xây dựng hệ thống
chính trị các cấp. Công tác cán bộ được quan tâm chỉ đạo và đạt được một số
87
kết quả. Đã chỉ đạo rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ; tăng cường công tác
đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ và thực hiện chính sách đối với cán
bộ; gần cuối nhiệm kỳ, công tác luân chuyển cán bộ có nhiều chuyển biến tích
cực. Hầu hết cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phường, xã đã được trẻ hóa; thành phố
đã hình thành quỹ lương cho cán bộ chuyên trách công tác đảng, mặt trận,
đoàn thể cơ sở.
- Công tác quản lý đảng viên và xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng
được chú trọng. Thành ủy đã chỉ đạo triển khai dự án xây dựng và quản lý cơ
sở dữ liệu đảng viên; tiến hành đổi và phát thẻ đảng viên theo tinh thần Chỉ
thị 29-CT/TW của Bộ Chính trị; đề ra quy chế khen thưởng tổ chức Đảng
trong sạch vững mạnh và đảng viên tiêu biểu hàng năm. Thành ủy chú trọng
củng cố các cơ sở Đảng yếu kém trong các doanh nghiệp, cơ quan hành chính,
sự nghiệp và phường, xã; lãnh đạo thực hiện đúng các quy định của TW về
chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng. Các tổ chức Đảng
thường xuyên đẩy mạnh tự phê bình, phê bình; đấu tranh chống tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, bước đầu tạo được một số chuyển biến ở các cấp, phát
huy vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở Đảng trên địa bàn dân cư.
Thành ủy đã quy định cụ thể về nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ; nhiều
nơi triển khai thực hiện nghiêm túc, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ, sinh hoạt cấp ủy, quan tâm chỉ đạo công tác phát triển đảng viên, nhất
là trong trường học và các khu dân cư.
- Công tác kiểm tra của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp được tăng
cường, nhất là kiểm tra việc chấp hành chủ trương, nghị quyết, Điều lệ Đảng;
chấp hành chính sách về quản lý tài chính, tài sản của các cấp ủy đảng và
những quy định về những điều đảng viên không được làm ; kiểm tra đảng
viên có dấu hiệu vi phạm và tổ chức Đảng cấp dưới về thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra; giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo, khiếu nại; xử lý nghiêm minh
những cán bộ, đảng viên sai phạm, được dư luận đồng tình.
88
- Phương thức lãnh đạo của đảng bộ có nhiều đổi mới. Thành ủy không
những chỉ đề ra chủ trương mà còn chú trọng chỉ đạo tổ chức thực hiện, quan
tâm đến việc đề ra các giải pháp, lựa chọn các giải pháp đột phá, các khâu
trọng tâm, trọng điểm; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện
chủ trương, nghị quyết của Đảng. Trong tổ chức thực hiện, Thành ủy chú
trọng phân công, phân cấp rõ ràng, đề cao trách nhiệm cá nhân, chỉ đạo phối
hợp hoạt động giữa các cơ quan Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể. Lãnh
đạo thành phố luôn bám sát cơ sở, trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo việc tổ chức thực
hiện; đối thoại với quần chúng, với doanh nghiệp để tìm giải pháp tháo gỡ
khó khăn, tổ chức thực hiện bằng được chủ trương đã đề ra. Việc ứng dụng tin
học vào hoạt động của các cơ quan Đảng đạt được những kết quả bước đầu,
góp phần đổi mới lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả công tác.
Đây là những tiền đề rất quan trọng để Đảng bộ và nhân dân thành phố
vững vàng bước vào thời kỳ phát triển mới với niềm tin thắng lợi mới.
Những thành tựu nói trên có nguyên nhân quan trọng từ quá trình Đảng
bộ thành phố xác định rõ công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng là then chốt.
Từ năm 1997 đến năm 2006, từ Thành ủy đến các cơ sở Đảng không ngừng
chăm lo mặt công tác này làm nền tảng, cơ sở để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị, kinh tế-xã hội dược giao. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được
của 15 năm xây dựng, củng cố và đổi mới xây dựng cơ sở Đảng, bước vào
thiên kỷ mới, đáp ứng thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, công tác xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng thời kỳ 1997 - 2006 được Đảng bộ thành phố tập
trung vào những nội dung giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng chính trị quy hoạch
và đào tạo cán bộ, chấn chỉnh công tác và sinh hoạt chi bộ, nâng cao sức
chiến đấu tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt. Trong công tác tổ chức,
trên cơ sở nghị quyết của Đảng bộ cấp trên, Đảng bộ thành phố cụ thể là BCH
và BTV Thành ủy thường xuyên ra các nghị quyết, chuyên đề về công tác xây
dựng Đảng, hướng dẫn các chi, đảng bộ cơ sở phấn đấu thực hiện. Công tác
89
sắp xếp, chuyển giao và củng cố cơ sở Đảng được Đảng bộ thành phố hết sức
quan tâm. Việc sắp xếp chi, đảng bộ theo địa bàn dân cư và nhiệm vụ công
tác đã đi vào ổn định, nhân sự cấp ủy được nâng cao chất lượng là hạt nhân
giữ vững và phát huy sức mạnh đoàn kết ở cơ sở. Nhờ vậy năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng được nâng lên, giữ vững và phát huy
được vị trí hạt nhân, vai trò lãnh đạo toàn diện ở cơ sở, địa phương và lĩnh
vực công tác.
Một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng cơ sở Đảng được
Đảng bộ thành phố thực hiện rất hiệu quả đó là bồi dưỡng đội ngũ đảng viên
và phát triển Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, Trung tâm giáo dục chính
trị tại các quận huyện đã mở rất nhiều lớp bồi dưỡng chính trị và chuyên môn
cho cán bộ, đảng viên, Ban Tuyên giáo cho tổ chức nhiều hội nghị và phát
hành đầy đủ thông tin tuyên truyền. Thời kỳ 1997 - 2006 Đảng bộ thành phố
đã kết nạp được nhiều đảng viên nhất trong cả 20 năm đổi mới (1986 - 2006).
Đáng chú ý là đội ngũ đảng viên mới rất trẻ, có năng lực, trình độ chuyên
môn và nhiệt tình trong công tác, đáp ứng được yêu cầu phát triển mới của địa
phương và đất nước.
Bên cạnh hoạt động xây dựng cơ sở Đảng, Đảng bộ thành phố còn chú
trọng đến việc giữ vững kỷ luật. Công tác kiểm tra, giám sát, giải quyết đơn
thư tố cáo được thực hiện kịp thời, nghiêm túc, công minh từ thành xuống cơ
sở. Công tác kỷ luật nghiêm, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử
thoái hóa, biến chất... đã góp phần làm trong sạch đội ngũ, gây niềm tin tưởng
trong quần chúng nhân dân.
Tuy vậy, công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Đảng bộ thành phố
còn một số hạn chế.
- Một số tổ chức Đảng chưa chú trọng đúng mức công tác xây dựng
Đảng; chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng chưa ngang tầm với yêu
90
cầu nhiệm vụ then chốt. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa tạo
được chuyển biến cơ bản, vững chắc.
- Công tác chính trị tư tưởng chưa thật chủ động, nhạy bén nắm bắt tình
hình; còn thiếu những biện pháp cụ thể và có hiệu quả trong việc giáo dục lý
tưởng cách mạng, phẩm chất, đạo đức, lối sống trong điều kiện hiện nay. Một
bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thật sự gương mẫu chấp hành chủ trương,
nghị quyết của Đảng; chưa tự giác rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống; tự
phê bình và phê bình yếu. Các biểu hiện tư tưởng chạy theo thành tích, nể
nang, xuê xoa, ngại va chạm trong sinh hoạt Đảng chưa được đấu tranh phê
phán mạnh mẽ, kiên quyết, thường xuyên; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
nhũng nhiễu chưa đuợc ngăn chặn và đẩy lùi.
- Công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều mặt bất cập so với yêu cầu. Đội
ngũ cán bộ, công chức thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển trong thời kỳ mới. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn liền với
công tác quy hoạch, sử dụng cán bộ; chậm triển khai thực hiện công tác luân
chuyển cán bộ; thiếu giải pháp đột phá trong việc phát hiện, đào tạo cán bộ
lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Chất lượng sinh hoạt cấp
ủy, sinh hoạt chi bộ chưa được nâng cao, chưa bảo đảm 3 tính chất theo quy
định (tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu); còn nhiều tổ chức cơ sở
Đảng chưa phát triển được đảng viên mới.
- Công tác kiểm tra của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp chưa được
tiến hành thường xuyên, hiệu quả một số cuộc kiểm tra chưa cao. Một số tổ
chức Đảng có biểu hiện bao che, giấu giếm vi phạm vì sợ ảnh hưởng thành
tích của đơn vị, sợ mất cán bộ.
- Việc tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết còn yếu, nhiều cơ sở đề
ra chủ trương còn chung chung, thiếu biện pháp cụ thể; thiếu kiểm tra, đôn
đốc thường xuyên.
91
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quyết tâm của Đảng bộ và
nhân dân thành phố, Đà Nẵng đã và đang ngày càng phát triển toàn diện,
xứng đáng với vị thế là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội của
miền Trung cũng như của cả nước.
92
Bảng: 2.14. Số lượng tổ chức cơ sở Đảng (2001 - 2005)
Tổng số TS TC CS Đảng Phường Xã
Công an Quân đội DN N.Nước
Cơ quan HC Trong đó CT C.t.y TNHH CP TN
Cơ sở khác 2 ĐVSN DN vốn NN 5 36 503 35 26 189 DN tư nhân DN cổ phần 16 147 33 14
TSTC CS Đảng
2001 1628 63 55 218 118 15 489 516 154
TSTC Đảng trực thuộc ĐBCS
509 35 26 182 43 5 1 21 149 33 14
TSTC CS Đảng
2002 1685 68 55 217 129 32 485 533 166
TSTC Đảng trực thuộc ĐBCS
93
515 35 26 175 67 4 1 27 133 33 14
TSTCCS Đảng
1821 68 67 234 160 37 513 571 171
2003
524 35 26 174 67 4 4 1 36 130 33 14
TSTC Đảng trực thuộc ĐBCS TSTCCS Đảng
2004 2020 70 68 242 157 70 519 718 176
542 36 27 162 67 4 4 1 36 149 45 11
TSTC Đảng trực thuộc ĐBCS TSTC CS Đảng
2074 73 71 242 157 70 5220 804 137
2005
TSTC Đảng trực thuộc ĐBCS
Nguồn: Văn kiện ĐHĐB Thành phố Đà Nẵng lần thứ XIX nhiệm kỳ 2006-2010, ĐN 12/2005, tr.94
94
Chương 3
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
3.1. Nhận xét chung
3.1.1. Những thành tựu cơ bản
Những thành tích đạt được trong thời kỳ đổi mới của Đảng bộ thành
phố Đà Nẵng trong công tác lãnh đạo các nhiệm vụ chiến lược của Đảng gắn
liền với quá trình không ngừng xây dựng Đảng bộ vững mạnh về mọi mặt,
trong đó đặc biệt nhấn mạnh công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong
sạch vững mạnh, bảo đảm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được
thực hiện với kết quả cao nhất.
Sau khi trở thành thành phố trực thuộc TW, từ năm 1997 đến năm
2006, công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Thành Đảng bộ Đà Nẵng có
những chuyến biến rõ nét, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên, tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh
là một nhân tố quyết định bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của
Đảng, nhiệm vụ chính trị của địa phương. Từ năm 1997 đến năm 2006, công
tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng đã thu
được một số thành tựu quan trọng.
Thứ nhất, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã không ngừng đổi mới nhận
thức về công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, coi việc nâng cao chất lượng
tổ chức cơ sở Đảng là kết quả của việc nâng cao chất lượng của công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng.
Công tác xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng là những vấn đề
hết sức quan trọng đối với một Đảng cầm quyền. Công tác giáo dục chính trị
tư tưởng được Đảng bộ thành phố từ Thành ủy xuống các tổ chức cơ sở Đảng
thực hiện nghiêm túc, thể hiện tính Đảng, tính cách mạng, kịp thời thông tin,
tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
95
nước đến đảng viên và quần chúng nhân dân. Các chương trình giáo dục sơ,
trung cấp lý luận được Thành ủy giao cho Trung tâm giáo dục chính trị các
quận, huyện đảm nhiệm và bồi dưỡng thêm kiến thức quản lý, nghiệp vụ công
tác Đảng và kiên thức chuyên môn. Điều đó góp phần nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ đảng viên thành phố. Đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế
được Đảng bộ thành phố thực hiện có hiệu quả nhằm tháo gỡ và giải quyết
những khó khăn do khủng hoảng kinh tế - xã hội gây ra. Trải qua 10 năm,
công tác tư tưởng đã góp phần khẳng định và nâng cao nhận thức về chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về CNXH và con đường đi lên
CNXH và vai trò lãnh đạo của Đảng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng
cao niềm tin của cán bộ, đảng viên trong quần chúng. Đặc biệt, quan điểm
“phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt” được quán triệt và thực thi thiết thực trong toàn Đảng bộ thành phố.
Đảng bộ hết sức coi trọng sinh hoạt của các chi đảng bộ. Nội dung sinh hoạt
đã khắc phục tình trạng giáo điều, sơ cứng của giai đoạn trước. Nội dung sinh
hoạt chi bộ được chuẩn bị kỹ, phong phú về nội dung và bàn bạc những vấn
đề thiết thực và cần thiết theo phương châm “Dân cần gì, Đảng bàn việc đó” .
Thông qua sinh hoạt trong Đảng để giáo dục chính trị tư tưởng cho đảng viên,
khắc phục những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do vô tổ chức,
bệnh quan liêu mệnh lệnh, tham nhũng, xa rời quần chúng. Nguyên tắc tập
trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt tư tưởng được thực
hiện và tôn trọng ở các tổ chức cơ sở Đảng thành phố. Điều đó có tác dụng
thống nhất ý chí và hành động từ cơ sở Đảng đến toàn Đảng bộ thành phố và
góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị địa phương, cơ sở.
Thứ hai, các tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ thành phố Đà
Nẵng đã được xác lập, củng cố và nâng cao vị trí hạt nhân chính trị, vai trò
lãnh đạo toàn diện cơ sở.
96
Trong 4 năm đầu sau khi tách ra khỏi tỉnh Quảng Nam (1997 - 2000),
Đảng bộ thành phố luôn có trên 2,5 vạn đảng viên sinh hoạt tại 496 tổ chức cơ
sở Đảng với đủ các loại hình. Sự phân bố đảng viên không đều, quá đông
hoặc quá ít. Số cơ sở Đảng vững mạnh chiếm tỷ lệ 73,30%. Tỷ lệ yếu kém
chiếm 2,15%, nhiều cơ sở nội bộ mất đoàn kết, làm ảnh hưởng lớn đến vai trò
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
Giai đoạn từ năm 2001 đến 2006, tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây
dựng chỉnh đốn Đảng qua các nghị quyết TW5 (Khóa VI), TW3 (Khóa VII),
TW 6 lần 2 (Khóa VIII) của TW, Nghị quyết lần thứ XVIII, XIX Đảng bộ
tthành phố Đà Nẵng, công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững
mạnh của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đạt được kết quả khả quan đáng khích
lệ: từ năm 2001 đến tháng 9 năm 2005 tổng số tổ chức cơ sở Đảng từ 503
tăng lên 573, tổng số tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ cơ sở từ 1.628
năm 2001 tăng lên 2.074 năm 2005. Vị trí hạt nhân, vai trò lãnh đạo của các
tổ chức cơ sở Đảng được xác lập, củng cố và sức chiến đấu được nâng cao. Số
chi đảng bộ cơ sở trong sạch vững mạnh tăng lên hàng năm và chiếm đại đa
số. Số chi đảng bộ cơ sở yếu kém thu hẹp và giảm xuống mức thấp nhất. Đến
năm 2005 không còn cơ sở Đảng nào bị xếp loại yếu. Đồng thời dưới sự chỉ
đạo sát sao của Thành uỷ, những cơ sở yếu trước kia nay đã vươn lên khá,
vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước.
Chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng là một yếu tố quan trọng tạo nên
sức mạnh của Đảng và uy tín của Đảng trước quần chúng nhân dân. Nhận
thức vai trò hạt nhân lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng, dưới có mạnh trên mới
chắc, Thành uỷ đã sắp xếp kiện toàn loại hình cơ sở Đảng cho phù hợp yêu
cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, chủ yếu là xây dựng chi bộ theo
địa bàn dân cư (thôn, xóm, tổ, khối phối) và đặc điểm công tác. Cho đến hiện
tại, loại hình chi bộ đảng sinh hoạt theo địa bàn dân cư là phù hợp, phát huy
97
được vai trò lãnh đạo cơ sở, quản lý đảng viên và thực hiện có hiệu quả nhiệm
vụ công tác được giao.
Công tác dân vận được Thành ủy chỉ đạo các tổ chức cơ sở Đảng và
đảng viên làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo giải quyết những vấn đề liên quan đến công tác vận động quần
chúng, công tác tôn giáo, dân tộc, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân,
những vụ việc bức xúc, ngăn chặn truyền đạo trái phép, bài trừ mê tín dị đoan
góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành
phố. Những phong trào thi đua yêu nước trong hơn 10 năm sau khi tách tỉnh
là những minh chứng rõ nét vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng.
Thứ ba, công tác phát triển Đảng của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã
có chuyển biến tích cực về số lượng và chất lượng.
Phát triển Đảng là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, có tính quy
luật trong công tác xây dựng Đảng, nhằm tăng cường thêm sức chiến đấu và
bảo đảm sự kế thừa, phát triển của Đảng.
Từ năm 1997 đến năm 2000, đội ngũ đảng viên của Đảng bộ thành phố
có độ tuổi tương đối cao. Do vậy, để đảm bảo sự kế thừa và phát triển, Thành
ủy đã giao nhiệm vụ phát triển Đảng cụ thể cho cấp ủy và đảng viên cơ sở
Đảng là: phải lên nguồn tuyển chọn quần chúng tiêu biểu, mở ngay lớp bồi
dưỡng, phân công đảng viên làm công tác tuyên truyền, giác ngộ, rèn luyện
quần chúng cảm tình, bồi dưỡng cho Bí thư cơ sở và chi bộ biết làm công tác
phát triển Đảng. Mặc dù rất cố gắng nhưng Đảng bộ thành phố mới kết nạp
được hơn 4.028 đảng viên mới, nhưng còn hơn 30% cơ sở Đảng thực hiện
không tốt phát triển Đảng.
Bước sang thời kỳ từ năm 2001 đến năm 2006, Thành uỷ rất quan tâm
đến công tác phát triển Đảng, coi đó là một trong những nội dung để đánh giá
chất lượng đổi mới và chỉnh đốn tổ chức, nâng cao sức chiến đấu và năng lực
lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng. Bằng những chủ trương, biện pháp và cách
98
thức tổ chức thực hiện sát hợp với thực tiễn từng loại hình cơ sở, công tác
phát triển Đảng đạt được những thành tựu tốt hơn trước. Phương châm “cốt
tinh bất cốt đa”, “chất lượng hơn số lượng”, do vậy thời kỳ 2001 - 2006, Đảng
bộ thành phố kết nạp được 8.992 đảng viên mới. Đặc biệt trong giai đoạn này,
với phương châm “coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, bảo đảm
chặt chẽ về tiêu chuẩn, nguyên tắc”, công tác phát triển Đảng được hầu hết tổ
chức cơ sở Đảng coi trọng và có nhiều biện pháp thực hiện. 10 năm từ 1997
đến 2006, Đảng bộ thành phố đã kết nạp được 13.020 đảng viên mới, độ tuổi
bình quân là hơn 30 tuổi, đoàn viên chiếm trên 45% Phát triển Đảng được
Đảng bộ thực hiện theo đúng tiêu chuẩn và hướng dẫn của TW, kết hợp với
đặc điểm địa phương. Đáng chú ý là thời kỳ 1997 - 2006, đảng viên mới kết
nạp không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng được nâng cao rõ rệt về trình
độ văn hóa, chuyên môn, được trẻ hóa, đa số là Đoàn viên thanh niên, tăng
cường kết nạp đảng viên nữ. Đảng viên mới đã được phân công công tác, phát
huy được vai trò tiên phong trong công tác, đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ
đi sâu vào đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Thứ tư, đi đôi chăm lo phát triển Đảng viên mới, công tác xây dựng
chất lượng đội ngũ đảng viên được Đảng bộ thành phố Đà Nẵng quan tâm chỉ
đạo và đạt kết quả khá tốt.
Thời kỳ 1997 - 2000, đội ngũ đảng viên của Đảng bộ thành phố trình
độ văn hóa và chuyên môn hạn chế đã ảnh hưởng không tốt đến việc thực
hiện các mặt công tác theo yêu cầu phát triển mới. Mặc dù Thành ủy rất cố
gắng và có nhiều chương trình thực hiện từng bước nâng cao, nhưng chất
lượng đội ngũ đảng viên chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, gần 40% số
đảng viên trong toàn Đảng bộ thành phố chưa phát huy tác dụng toàn diện.
Bước sang thời kỳ 2001 - 2006, việc bồi dưỡng và nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên được Đảng bộ thành phố xác định là một nội dung quan
trọng, nhiệm vụ hàng đầu trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong
99
sạch, vững mạnh. Nâng cao chất lượng đảng viên được Thành ủy xác định là
phải căn cứ vào tiêu chuẩn và nhiệm vụ của đảng viên để đánh giá, xếp loại.
Công tác chăm lo chỉnh đốn đội ngũ đảng viên được chú trọng, phương châm
đảng viên "Lời nói đi đôi với việc làm", "Nói và làm theo Nghị quyết" đã
được quán triệt sâu sắc trong nhận thức và hành động của đảng viên. Đảng
viên hoàn thành nhiệm vụ có xu hướng tăng lên từng năm và có nhiều sự thay
đổi theo hướng tích cực.
Thứ năm, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh là nhiệm vụ then
chốt thì công tác cán bộ là then chốt. Đội ngũ cán bộ của Đảng bộ thành phố
Đà Nẵng đã từng bước được kiện toàn, chất lượng được nâng cao, đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ mới.
Cán bộ là vấn đề cực kỳ quan trọng, có vai trò to lớn thúc đẩy hoặc kìm
hãm tiến trình cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: Cán bộ là cái
dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ
dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người mang chính
sách của chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì
dù chính sách hay cũng không thể thực hiện được.
Chính vì vậy, sau 10 năm trở thành thành phố trực thuộc TW, công tác
đánh giá và đào tạo cán bộ được Thành uỷ chỉ đạo đem lại hiệu quả cao, theo
phương châm “từ việc mà xếp người”. Thành uỷ đã khảo sát, lựa chọn quy
hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ qua trường lớp và thực tế, đề bạt và luân
chuyển cán bộ chủ chốt cơ sở Đảng, chỉ đạo các cấp uỷ thực hiện nghiêm túc
tổ chức sinh hoạt Đảng trực tiếp và thống nhất lãnh đạo, quản lý đội ngũ cán
bộ, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình đánh giá tuyển
chọn bố trí sắp xếp cán bộ. Lấy hiệu quả công tác làm thước đo đánh giá cán
bộ, kịp thời biểu dương khen thưởng cơ sở Đảng và đảng viên có thành tích,
không ngừng nâng cao nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng, quản lý kinh tế và
100
quản lý Nhà nước cho cán bộ cơ sở nhất là các đồng chí giữ cương vị chủ
chốt (Bí thư, giám đốc, thủ trưởng).
Đội ngũ cán bộ từng bước trẻ hóa. Độ tuổi bình quân của cán bộ chủ
chốt (Bí thư, Phó Bí thư, chủ tịch HĐND, UBND) thời kỳ 1997 - 2000 là 47.
Thời kỳ 2001 - 2006 giảm xuống còn là 42. Chất lượng cán bộ được nâng lên
theo từng nhiệm kỳ. Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách được phân định rõ. Những cố gắng nêu trên của Thành ủy đã tạo ra
sự thống nhất, đồng bộ trong công tác lãnh đạo ngay tại địa phương, cơ sở.
Công tác kiện toàn cấp uỷ và nhất thể hóa Bí thư kiêm cấp trưởng, phó
đơn vị được Thành ủy chỉ đạo thực hiên, đã có tác động trực tiếp đến sức
mạnh của tổ chức cơ sở Đảng. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng được nâng lên một bước, đội ngũ cán bộ đảng viên gương
mẫu được quần chúng tin yêu tín nhiệm. Nhờ vậy công tác vận động quần
chúng tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao đạt kết quả cao.
Thứ sáu, công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ thành phố Đà Nẵng
được quan tâm từ Thành ủy xuống cơ sở, góp phần quan trọng vào hoàn thành
nhiệm vụ xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng và làm trong sạch đội ngũ
đảng viên thành phố.
Thông qua kiểm tra đã kịp thời phát hiện những biểu hiện lệch lạc,
thoái hóa, biến chất, đấu tranh với những sai trái và kiên quyết xử lý kỷ luật
đảng viên vi phạm điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Các đơn thư tố cáo
đảng viên và tổ chức Đảng được Thành ủy và UBKT tiến hành điều tra thận
trọng, làm rõ và thông báo công khai kết luận để minh oan hoặc đủ cơ sở xử
lý. Phương châm kiểm tra là công minh, chính xác, kịp thời, thận trọng, dân
chủ, đúng người, đúng bản chất sự việc. Kết quả kiểm tra và giải quyết đơn
thư tố cáo đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ thành phố đã góp
phần giáo dục, loại bỏ những phần tử thoái hóa, biên chất. Điều đó làm trong
sạch hàng ngũ chiến đấu của cơ sở Đảng, mang lại niềm tin tưởng của quần
101
chúng nhân dân vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đi sâu vào KTTT định
hướng XHCN, nhiều tiêu cực nảy sinh trong đảng viên và tổ chức Đảng trực
thuộc Đảng bộ thành phố. Những vi phạm đảng viên mắc phải rất nhiều ở
tham ô, lãnh phí, quan liêu… Đó là những tệ nạn đáng phê phán ở Đảng bộ
thành phố và là một trong bốn nguy cơ đe dọa chế độ XHCN mà nhân dân ta
đang xây dựng.
* Để đạt được những thành tựu trên là:
- Nhờ có đường lối đổi mới của Đảng, định hướng đúng đắn của các
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, các Nghị quyết
Hội nghị TW, các Chỉ thị của Ban Bí thư, Bộ Chính trị về công tác xây dựng
chỉnh đốn Đảng.
- Đảng bộ thành phố, cũng như các tổ chức cơ sở Đảng cấp dưới quán
triệt, nắm vững quan điểm và sự chỉ đạo của Đảng, đã căn cứ vào chức năng
nhiệm vụ cụ thể của tổ chức Đảng, phù hợp với đặc điểm địa phương cơ sở
mà cụ thể hoá thành hành động.
- Đảng bộ thành phố là một Đảng bộ có truyền thống cách mạng, có ý
thức Đảng cao nên các cấp uỷ Đảng và toàn Đảng bộ đều nhận thức được
công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng là một lĩnh vực công tác quan trọng
của Đảng. Nắm vững phương châm "Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng là nhiệm
vụ then chốt thường xuyên" của Đảng, BTV Tỉnh uỷ và trực tiếp là Thành uỷ
đã chủ động đề ra các chủ trương biện pháp xây dựng và củng cố tổ chức cơ
sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, tích cực chỉ đạo thực hiện
nghiêm túc công tác này thể hiện qua các nghị quyết, quy định, hướng dẫn và
tổ chức triển khai.
- Đội ngũ cán bộ đảng viên và cấp uỷ từ thành đến cơ sở đoàn kết dân
chủ, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, vững vàng về chính trị tư
tưởng, kiên định đường lối lập trường giai cấp, trình độ chuyên môn năng lực
thực tiến, vai trò lãnh đạo cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
102
mới, luôn luôn thể hiện tính tiên phòng gương mẫu đi trước, rèn luyện đạo
đức lối sống trong sáng vô tư lãnh mạnh, gần dân, sát dân, lắng nghe ý kiến
đóng góp xây dựng của nhân dân, do vậy được nhân dân tin yêu tín nhiệm và
thực hiện đầy đủ mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước.
3.1.2. Một số hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ 1997 - 2006 còn bộc lộ
những tồn tại hạn chế nhất định.
Một là, việc sắp xếp các chi bộ ở một số phường xã thuộc Đảng bộ
thành phố Đà Nẵng chưa hợp lý.
Vẫn còn chi bộ có số đảng viên từ 30 đồng chí trở lên, cá biệt một số
chi bộ có từ 50 đến 60 đồng chí, nên việc tổ chức sinh hoạt công tác quản lý
đảng viên, việc ra Nghị quyết của chi bộ gặp khó khăn. Một số xã có chi bộ
hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp… nhưng đảng viên không ở cùng cụm
dân cư nên việc sinh hoạt quản lý và phân công nhiệm vụ cho đảng viên gắn
với nơi cư trú chưa phù hợp.
Một số cán bộ chủ chốt của cấp uỷ nhất là trong các doanh nghiệp chưa
coi trọng công tác Đảng, còn có biểu biện coi nhẹ vai trò lãnh đạo của tổ chức
Đảng. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi còn mang
tính hình thức. Nhận thức của một số cấp uỷ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt về
tầm quan trọng của cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần
Nghị quyết TW6 (lần 2) khoá VIII còn hạn chế nên trong lãnh đạo, chỉ đạo và
tổ chức thực hiện còn chung chung, làm lướt hiệu quả quá thấp.
Hai là, sinh hoạt Đảng ở một số tổ chức cơ sở Đảng thuộc Đảng bộ
thành phố Đà Nẵng chưa đều.
Có nơi Đảng uỷ, chi bộ từ 2 đến 3 tháng mới sinh hoạt một lần (tập
trung ở một số đơn vị doanh nghiệp và cơ quan hành chính sự nghiệp), cá biệt
103
có doanh nghiệp do không đủ việc làm, đảng viên phải nghỉ chờ việc thì sinh
hoạt thất thường hơn. Ở phường, xã, tuy sinh hoạt đều song ở một số nơi tỷ lệ
đảng viên dự sinh hoạt chi bộ chỉ chiếm 70-80%. Nội dung sinh hoạt cấp uỷ
chi bộ chậm đổi mới. ở một số phường xã sinh hoạt chi bộ còn nặng nề, trao
đổi thông tin thời sự phê phán cấp trên ít đưa ra bàn chủ trương giải quyết
những vấn đề cụ thể sát thực cần lãnh đạo thực hiện ngay tại cơ sở, tính chiến
đấu tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ chưa cao. Việc
phân công nhiệm vụ cho đảng viên chưa rõ ràng thiếu sự kiểm tra đôn đốc
nên hiệu quả hoạt động của cấp uỷ chi bộ còn hạn hế. Tính lãnh đạo, tính học
tập, tính chiến đấu chưa được thể hiện rõ trong sinh hoạt chi bộ, nhất là trong
các chi bộ cơ quan và doanh nghiệp. Việc triển khai quán triệu các chỉ thị,
nghị quyết ở một số cơ sở Đảng còn mang tính hình thức, chất lượng chưa
cao, một số các hoạt động thông tin tuyên truyền chưa nhanh nhạy trước
những vấn đề mới nảy sinh, chưa đi sâu đi sát nắm bắt diến biến tư tưởng của
đội ngũ đảng viên, chưa quan tâm nâng cao trình độ nhận thức lý luận cho đội
ngũ đảng viên nhất là trong các đơn vị doanh nghiệp. Một số cơ sở chưa duy
trì thường xuyên các hoạt động tuyên truyền thời sự chính sách. Năng lực và
trình độ của đội ngũ báo cáo viên của nhiều cơ sở chưa theo kịp đòi hỏi của
tình hình mới.
Ba là, công tác phát triển Đảng ở Đảng bộ thành phố Đà Nẵng tuy đã
có chuyển biến tích cực song việc chọn cử đối tượng để bồi dưỡng kết nạp
Đảng chỉ đạo chưa chặt chẽ, còn trì trệ, có lúc lại chạy theo số lượng.
Từ năm 1997 đến năm 2006, trước những biến động lớn của tình hình
thế giới và những khó khăn của đất nước, mặc dù Thành ủy rất cố gắng chỉ
đạo, nhưng công tác phát triển Đảng rất khó khăn. Về khách quan là do nhận
thức của quần chúng còn hạn chế, nhưng cơ bản là do lề lối quan liêu, tác
phong gia trưởng trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động phát triển Đảng của cấp
ủy và bi thư chi bộ, nhất là ở nông thôn thành phố.
104
Thời kỳ 1997 - 2000, trong tổng số 10.717 đối tượng đã qua lớp bồi
dưỡng thì số kết nạp mới chỉ chiếm 37,50%, khá nhiều đơn vị, quần chúng
khi được kết nạp phải học qua lần thứ 2, ở phường xã tỷ lệ quần chúng sinh
hoạt ở đường phố nông thôn được kết nạp Đảng mới chỉ chiếm 13,3% tổng số
đảng viên được kết nạp. Thời kỳ 2001 - 2006, Đảng bộ đã kết nạp được 8.992
đảng viên, vượt 44,79% so với thời kỳ 1997 - 2000. Tuy vậy, cấp ủy ở một số
cơ sở còn chưa quan tâm, nhận thức đầy đủ về công tác phát triển Đảng, chưa
gắn công tác phát triển Đảng với nhiệm vụ xây dựng củng cố tổ chức cơ sở
Đảng, do vậy có những nơi đông quần chúng nhưng không kết nạp được đảng
viên, việc xét duyệt còn chậm.
Bốn là, một số cấp uỷ của tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ
thành phố Đà Nẵng chưa thực sự quan tâm đến công tác quy hoạch đào tạo
bồi dưỡng cán bộ và công tác kiểm tra Đảng.
Điều đó dẫn đến còn hẫng hụt trong việc bố trí cán bộ lãnh đạo khi có
biến động nhất là ở phường, xã. Một số cán bộ chủ chốt còn hạn chế về năng
lực và phương pháp công tác, chưa thể hiện được vai trò là trung tâm đoàn kết
của Đảng bộ, cá biệt có nơi cán bộ chủ chốt của cấp uỷ còn vi phạm nguyên
tắc tổ chức của Đảng, ý thức tiếp thu phê bình kém, nói và làm mang động cơ
cá nhân dẫn đến mất đoàn kết nội bộ phải xử lý kỷ luật. Một số đảng viên
thiếu tu dưỡng rèn luyện còn vi phạm Quy định 55/QĐ - TW của Bộ Chính
trị, sau là Quy định số 19-QĐ/TW (2002) (về 19 điều đảng viên không được
làm), nói và làm trái với Nghị quyết làm giảm vai trò vị trí của mình, và làm
giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với tổ chức Đảng. Một số cơ sở
Đảng thuộc ngành chưa coi trọng trong việc phối hợp giữa Ban cán sự Đảng
lãnh đạo ngành chủ quản với cấp uỷ thành phố trong công tác quản lý sử dụng
bố trí cán bộ theo quy định của TW và của tỉnh.
Nhận thức của một số cấp uỷ cơ sở về công tác kiểm tra chưa đầy đủ,
chưa coi công tác kiểm tra là của cấp trên nên còn tình trạng khoán trắng cho
105
UBKT. Vì vậy khi cấp uỷ viên, đảng viên mắc khuyết điểm, nội bộ mâu thuẫn
phức tạp thì bị động, lúng túng ỷ lại trong chờ vào sự giải quyết của cấp trên.
Hoạt động của uỷ ban kiểm tra ở một số cơ sở Đảng chưa tốt, chưa chủ động
tham mưu cho cấp uỷ về công tác kiểm tra do đó tác dụng giáo dục, phòng
ngừa còn hạn chế. Có uỷ ban kiểm tra cơ sở chưa nắm vững phương châm,
phương pháp thủ tục nguyên tắc khi tiến hành kiểm tra và thi hành kỷ luật
Đảng, dẫn đến một số vụ vi phạm của cán bộ, đảng viên không được xử ký
hoặc xử lý chưa nghiêm chưa kiên quyết, còn để kéo dài, cá biệt có trường
hợp cấp uỷ cấp trên phải thay đổi hình thức kỷ luật.
Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế:
- Về khách quan: Việc chuyển đổi cơ chế tập trung quan liệu hành
chính cao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ lâu
nhưng một bộ phận cấp uỷ cán bộ đảng viên vẫn còn nếp cũ, cách làm cũ. Tổ
chức cơ sở Đảng còn lúng túng trước nội dung yêu cầu, nhiệm vụ trong tình
hình mới, kinh tế thị trường tác động mạnh mẽ đến đời sống tâm tư tình cảm
của cán bộ, đảng viên. Nhưng do chủ quan là chủ yếu.
- Về chủ quan: Các cấp các ngành, các địa phương nhất là chính các cơ
sở Đảng chưa chủ động sáng tạo trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ
chức Đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Các cấp uỷ Đảng còn tư tưởng
chờ đợi, ngại va chạm, nể nang né tránh, chưa chú ý tổng kết sâu các mô hình
tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh điển hình tiên tiến để rút kinh nghiệm
nhân ra rộng.
+ Vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, trình độ năng lực của đội ngũ
cán bộ chủ chốt ở nhiều đơn vị còn hạn chế. Một số cán bộ, đảng viên sa sút ý
chí phấn đấu chưa được kiểm điểm giao dục, sửa chữa kịp thời. Nguyên tắc
tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng ở một số tổ chức Đảng thực hiện chưa
tốt dân chủ chưa đi đôi với kỷ cương, quyền lợi chưa gắn liền với trách
nhiệm.
106
+ Nội dung sinh hoạt chi bộ còn đơn điệu tẻ nhạt chung chung không rõ
ràng cụ thể. Phương thức hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng còn lúng túng
chưa thích ứng với yêu cầu của thời kỳ đổi mới.
+ Thành uỷ chưa thật sự chú ý nâng cao chất lượng cán bộ ở bộ máy
làm tốt công tác tổ chức và cán bộ của thành phố cũng như ở cơ sở. Chủ
trương luân chuyển cán bộ được thực hiện từ năm 1992 nhưng chậm được
tổng kết rút kinh nghiệm. Tình trạng mất đoàn kết ở một số đảng bộ vẫn còn
đã làm suy yếu tổ chức cơ sở Đảng.
3.2. Những kinh nghiệm chủ yếu
3.2.1. Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng phải căn cứ vào nhiệm
vụ chính trị của từng loại hình cơ sở Đảng
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh đạt kết
quả song song với phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở đơn vị
cơ sở.
Từ chỗ xác định vai trò hạt nhân lãnh đạo cơ sở, các chi, đảng bộ phải
chấp hành đầy đủ, biến thành hành động và tổ chức thực hiện có kết quả
nhiệm vụ được giao. Giữ đúng vai trò đó, chi đảng bộ cơ sở có trách nhiệm
lãnh đạo chính quyền, đoàn thể quần chúng và nhân dân thực hiện đầy đủ chủ
trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Công tác quy
hoạch đội ngũ cán bộ 10 năm (1997 - 2006) của Đảng bộ thành phố đã đạt
được kết quả khả quan.
Nắm vững phương châm "phát triển kinh tế làm trọng tâm, xây dựng
Đảng là then chốt", thành Đảng bộ Đà Nẵng đã củng cố kiện toàn tổ chức cơ
sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, gắn chặt với việc đề ra và tổ
chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của địa phương nhất là
trong quả lý đô thị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, phát
107
huy quyền làm chủ của nhân dân. Công tác chăm lo sức khoẻ cho nhân dân và
các chính sách xã hội rất được coi trọng và đạt được tiến bộ đáng kể.
Thành phố đã cấp đất cho nhân dân hình thành nên các khu phố mới
khang trang sạch đẹp. Phong trào "đền ơn đáp nghĩa", "xoá đói giảm nghèo"
được các cấp ngành và toàn thể nhân dân Thành phố hưởng ứng. Theo phân
công của chi đảng bộ, đảng viên đã được giao các công việc gần dân, sát dân.
Qua đó tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể có những giải
pháp giúp đỡ các hộ, các gia đình đói nghèo, giải quyết công ăn việc làm, hạn
chế các tệ nạn xã hội và tiêu cực phát sinh.
Mô hình chi đảng bộ theo địa bàn dân cư là hợp lý. Các chi bộ tổ dân
phố, thôn xóm, đã góp phần tạo ra sự gắn bó mật thiết hơn giữa Đảng với
quần chúng nhân dân. Bí thư chi bộ đồng thời là tổ trưởng, xóm trưởng,
trưởng khu phố đã góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng. Nhờ đó mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
được phổ biến đến tận người dân.
Từ năm 1998 thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở do Chính phủ ban
hành các chi đảng bộ trực thuộc Thành phố đã tích cực xây dựng và chỉ đạo
thực hiện quy chế. Các phòng trào "xây dựng nếp sống văn minh, gia đình
văn hoá" bài trừ các tập tục lạc hậu, các tệ nạn xã hội có sự đóng góp quan
trọng của các tổ chức cơ sở Đảng.
Có thể khẳng định công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch
vững mạnh là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội, vì Đảng bộ có
mạnh, năng lực điều hành hoạt động chính quyền đoàn thể có tốt thì ở đó kinh
tế-xã hội phát triển đời sống nhân dân được cải thiện nâng cao, trật tự an toàn
xã hội được giữ vững, an ninh chính trị đảm bảo, các chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước được thực hiện có hiệu quả.
108
3.2.2. Bồi dưỡng nâng cao kiến thức về xây dựng Đảng, xây dựng tổ
chức cơ sở Đảng cho đội ngũ cán bộ đảng viên
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006)
nhấn mạnh: “Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở Đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong sạch, vững
mạnh; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, giám sát đảng
viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức, lối sống; đấu
tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong Đảng. Phải đổi mới mạnh mẽ
công tác xây dựng cơ sở, lấy chuyển biến từ cơ sở làm mục tiêu và thước đo
kết quả tổng hợp của công tác xây dựng Đảng” [14, tr.298].
Mặc dù vị trí vai trò chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ
sở Đảng đã được Ban Bí thư (khoá VII), Bộ Chính trị (khoá VIII) quy định rõ
nhưng hiện nay một thực tế là có lúc có nơi các cấp uỷ Đảng chưa coi trọng
vai trò của tổ chức Đảng, có nơi còn không xác định rõ chức năng nhiệm vụ
của cơ sở dẫn tới tình trạng vô kỷ luật, vô nguyên tắc, lấn sân quản lý, bao
biện làm thay.
Thời kỳ 1997 - 2006, ở Thành phố Đà Nẵng, nhiều chi đảng bộ cơ sở
còn lúng túng trong công tác nhất là đối với các chi đảng bộ mới được lập ra
trong các công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Vì vậy ở mỗi
loại hình tổ chức cơ sở Đảng phải cụ thể nội dung và phương thức hành động
phù hợp với vị trí, chức năng, vai trò nhiệm vụ bảo đảm nội dung chung sinh
hoạt đẩy đủ cả 3 mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, giáo dục và phân công
nhiệm vụ cụ thể cho đảng viên. Góp phần thực hiện thắng lợi phát triển sản
xuất kinh doanh của cơ sở.
Đặc biệt để nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, các ban
ngành của thành phố, theo sự chỉ đạo của Thành uỷ, Trung tâm bồi dưỡng
chính trị các quận, huyện mở thêm nhiều lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác
Đảng, giúp cán bộ chủ chốt các cơ sở Đảng quán triệt nhiệm vụ yêu cầu trong
109
tình hình mới. Đồng thời Thành uỷ trực tiếp đưa ra các quy chế hoạt động của
tổ chức cơ sở Đảng phù hợp với đặc điểm địa bàn và yêu cầu công tác.
3.2.3. Công tác phát triển Đảng gắn liền với nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên
Phát triển Đảng là một vấn đề hết sức quan trọng đối với một Đảng
cầm quyền, là một hoạt động cơ bản nhằm bổ sung sinh lực, sự kế thừa và
phát triển của Đảng. Từ những thành tựu trong công tác phát triển Đảng thời
kỳ 1997 - 2006, đòi hỏi Đảng bộ thành phố Đà Nẵng tiếp tục giữ vững và phát
huy mặt công tác, góp phần xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững
mạnh. Trên cơ sở tiêu chuẩn của TW, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng cần vận
dụng sáng tạo và linh hoạt công tác phát triển Đảng phù hợp các loại hình cơ
sở Đảng trực thuộc. Đảm bảo cơ cấu, tỷ lệ thanh niên, nam-nữ, thành phần
giai cấp, nhất là từ đoàn viên thanh niên ưu tú được đứng vào hàng ngũ chiến
đấu của Đảng - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chọn lọc đảng viên mới cũng là một nhiệm vụ
quan trọng. Chi bộ cần thường xuyên giáo dục quần chúng, bồi dưỡng những
phần tử hăng hái, nâng cao trình độ giác ngộ của họ đến tiêu chuẩn đảng
viên” [17, tr.243]. Chi, đảng bộ cơ sở là trường giáo dục, rèn luyện kết nạp
đảng viên, là nơi quản lý và phân công công tác cho đảng viên, kiểm tra thi
hành kỷ luật đảng viên.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh "Chi bộ tốt là do Đảng viên tốt" trước
yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của tình hình mới, chi đảng bộ cần làm tốt
công tác Đảng, công tác cán bộ, tổ chức sinh hoạt chi bộ đều đặt để giáo dục,
nâng cao nhận thức của đảng viên mạnh về chính trị tư tưởng, vững vàng về
bản lĩnh, kiên định lập trường giai cấp. Tổ chức phân công công tác cho đảng
viên đồng thời giúp đỡ gia đình đảng viên có hoàn cảnh khó khăn. Qua đó
110
đảng viên luôn thể hiện tính tiên phong gương mẫu trong công việc và nhận
được sự tin yêu tín nhiệm của quần chúng nhân dân.
Chi, đảng bộ chú ý phát hiện những thanh niên ưu tú để giáo dục bồi
dưỡng và kết nạp vào Đảng. Kết nạp vào Đảng những đảng viên trẻ bên cạnh
những đảng viên lâu năm sẽ làm cho các tổ chức cơ sở Đảng tiêu biểu cho
phong trào cách mạng, làm cho sức chiến đấu của chi bộ được tăng lên theo
kịp với yêu cầu cầu nhiệm vụ chính trị mới.
Công tác phát triển Đảng phải gắn liền với thực hiện nhiệm vụ xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: “Chi bộ tốt là do đảng viên tốt. Đảng viên tốt thì mọi việc sẽ tốt” [17,
tr.92]. Do vậy, phát triển Đảng là nội dung quan trọng trong quá trình xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng song song với lãnh đạo hiệu quả nhiệm vụ phát triển
kinh tế-xã hội của cơ sở, đơn vị và địa phương.
Nâng cao nhận thức của cấp uỷ và Bí thư chi bộ về công tác phát triển
Đảng. Cấp uỷ và lãnh đạo cơ sở quan tâm và sâu sát với công tác phát triển
Đảng thì hiệu quả công tác sẽ cao và ngược lại. Do vậy, Thành uỷ cần chỉ đạo
Trung tâm bồi dưỡng chính trị các quận, huyện tiếp tục mở nhiều lớp bồi
dưỡng cán bộ công tác Đảng, giúp cấp uỷ và cán bộ chủ chốt cơ sở nắm vững
kỹ năng, nguyên tắc, yêu cầu và ý nghĩa của mặt công tác này, đồng thời
Thành uỷ cần sâu sát, kiểm tra cơ sở thực hiện chỉ tiêu đề ra, coi đó là tiêu chí
đánh giá cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh.
Làm tốt công tác đào tạo nguồn liên tục để phát triển Đảng. Các tổ chức
cơ sở Đảng phải là trường giáo dục rèn luyện, kết nạp đảng viên. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói: “Chi bộ cần thường xuyên giáo dục quần chúng, bồi dưỡng
những phần tử hăng hái, nâng cao trình độ giác ngộ của họ đến tiêu chuẩn
đảng viên” [19, tr.243]. Do đó, cấp uỷ thường xuyên phối hợp với các tổ
chức, đoàn thể trong việc tuyên truyền, giáo dục về lý tưởng, mục tiêu của
Đảng và Điều lệ Đảng, giác ngộ những quần chúng ưu tú, đặc biệt là trong
111
ĐTNCS Hồ Chí Minh có nhận thức sâu sắc về Đảng, qua đó nâng cao niềm
tin vào lý tưởng, tự giác, tự nguyện xác định trách nhiệm và động cơ phấn đấu
để trở thành đảng viên, được phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, suốt đời
đấu tranh vì lý tưởng mục tiêu của Đảng.
Chú trọng nâng cao chất lượng đảng viên mới kết nạp. Đó là yêu cầu
quan trọng trong quá trình CNH, HĐH đất nước và yêu cầu của nền kinh tế tri
thức. Đồng thời phải coi trọng công tác vận động quần chúng tham gia giám
sát, đóng góp ý kiến xây dựng và phát triển Đảng, để lựa chọn được những
phần tử ưu tú, tích cực trong phong trào để giới thiệu với Đảng, vào Đảng,
bảo đảm sự kế thừa và phát triển liên tục của Đảng.
Tăng cường sự chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên đối với cơ sở Đảng trong
công tác phát triển Đảng. Ngoài nỗ lực của quần chúng ưu tú và sự đánh giá,
ghi nhận, hướng dẫn khách quan của tổ chức Đảng cơ sở, đòi hỏi Thành uỷ và
các đồng chí phụ trách phải có sự chỉ đạo thường xuyên, kiểm tra, quan tâm
sát sao công tác phát triển Đảng để uốn nắn, khắc phục sự trông chờ, ỷ lại
hoặc định kiến, hẹp hòi đưa ra tiêu chuẩn quá cao hoặc lại quá lỏng lẻo, xuê
xoa, đại khái trong quá trình xem xét, thử thách và kết nạp đảng viên mới, để
đảm bảo đúng tiêu chuẩn, nguyên tắc và thủ tục.
Coi trọng củng cố kiện toàn và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ
chủ chốt ở cơ sở (Bí thư, phó Bí thư, thủ trưởng). Chất lượng tổ chức cơ sở
Đảng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở trước hết là
của cấp uỷ Đảng và Bí thư chi bộ. Năng lực lãnh đạo và trình độ chuyên môn,
sự đoàn kết nhất trí trong cấp uỷ là nhân tố đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ
chính trị địa phương cơ sở. Tổ chức cơ sở Đảng phải chú ý uốn nắn đấu tranh
trước những biểu hiện tiêu cực, quan liêu xa rời quần chúng, vi phạm Điều lệ
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Kinh nghiệm chỉ ra ở nơi nào, tổ chức cơ sở
Đảng vững mạnh thì ở nơi đó có đội ngũ cán bộ đảng viên đoàn kết, gương
112
mẫu thực hiện nhiệm vụ được giao, được quần chúng tín nhiệm, không có chỗ
cho tiêu cực nẩy sinh.
Thực tế 10 năm từ năm 1997 đến năm 2006, từ Thành uỷ đến cơ sở
Đảng đã quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thành uỷ
đã nhận thức để củng cố tổ chức cơ sở Đảng, phải đổi mới chỉnh đốn, nâng
cao năng lực và sức chiến đấu của các cấp uỷ Đảng, đảng viên và đặc biệt là
đội ngũ cán bộ chủ chốt, hàng năm trung tâm bồi dưỡng chính trị thành phố
đã mở nhiều lớp bồi dưỡng chính trị, bồi dưỡng quản lý kinh tế, quản lý Nhà
nước về công tác Đảng cho cán bộ đảng viên.
Để nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng trong tình hình mới phải chú ý đến công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử
dụng cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Việc bố trí cán bộ
phải căn cứ vào tiêu chuẩn và lấy hiệu quả công tác thực tiến làm thước đo,
phải có tín nhiệm trong đảng viên và quần chúng. Bố trí cán bộ phải đúng
người, đúng việc, chú ý kiện toàn những cơ sở còn yếu, còn thiếu, kiên quyết
xử lý các trường hợp có sai phạm, làm giảm sút lòng tin của quần chúng với
Đảng. Thực hiện tốt việc phê bình và tự phê bình thường xuyên trong sinh
hoạt Đảng. Đảng viên là cán bộ chủ chốt thực sự đầu tầu gương mẫu trong
công tác và tổ chức thực hiện công việc.
Những cán bộ đảng viên trẻ có năng lực được cử đi học ở các trường
TW và địa phương để bồi dưỡng đội ngũ kế cận đồng thời Thành uỷ đã thực
hiện có hiệu quả công tác tăng cường đội ngũ cán bộ về cơ sở trực tiếp làm Bí
thư hoặc phó chủ tịch UBND phường, xã. Chính nhờ việc phát triển đảng viên
mới kết hợp nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên là một nguyên nhân quan
trọng mang lại thành công trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của
Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, xứng đáng với danh hiệu trong sạch vững mạnh,
đơn vị lá cờ đầu trong cả nước.
113
3.2.4. Đổi mới nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ phù hợp với các
loại hình chi, đảng bộ cơ sở, coi trọng công tác dân vận, xác lập mối quan
hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng được tổ chức và giác ngộ, cùng phương châm tin dân, dựa vào
dân, vì dân của Đảng “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và chỉ dẫn
của Hồ Chí Minh: “Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây
chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng. Nhiệm vụ của chi bộ là: Luôn luôn
tuyên truyền cho nhân dân và tổ chức nhân dân, để thực hiện khẩu hiệu và
chính sách của Đảng. Luôn luôn chú ý đến tư tưởng và nhu cầu của nhân dân
và kịp thời báo cáo cho cấp trên biết rõ. Luôn luôn quan tâm đến đời sống
kinh tế, chính trị và văn hoá của nhân dân, đồng thời giáo dục nhân dân, tổ
chức nhân dân để giải quyết các vấn đề cho nhân dân” [17, tr.243].
Sinh hoạt chi bộ có vị trí quan trọng trong việc củng cố kiến toàn tổ
chức cơ sở Đảng, chất lượng sinh hoạt tác động trực tiếp đến chất lượng lãnh
đạo và xây dựng tổ chức cơ sở Đảng. Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc, Nghị quyết TW 3 (Khoá VII) 6/1992, Nghị quyết TW 6 (lần 2)
khoá VIII 1999, Thành uỷ Đà Nẵng đã đề ra những biện pháp cải tiến và nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, duy trì đều đặn sinh hoạt đều đặn đúng kỳ
mỗi tháng một lần. Trong sinh hoạt thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ, thẳng thắn, nghiêm túc tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh
trước những biểu hiện tiêu cực, thảo luận kỹ đường lối chủ trương của Đảng
và Nhà nước, nhiệm vụ cụ thể của địa phương từ đó đề ra kế hoạch thực hiện
có hiệu quả công tác.
Các BTC, Ban Tuyên giáo xây dựng những chuyên đề cụ thể để phân
công công tác sinh hoạt chi bộ cho các cấp uỷ. Trong sinh hoạt chi bộ cần
phải phát huy dân chủ tuy vậy Ban Chi uỷ nhất là đồng chí Bí thư phải thể
hiện vai trò đầu tàu tổ chức sinh hoạt cụ thể phù hợp với yêu cầu công tác của
114
đơn vị đồng thời đáp ứng được mong mỏi của quần chúng nhân dân. Kiên
quyết khắc phục những mặt yếu, tồn tại trong sinh hoạt Đảng như thiếu
nghiêm túc, hình thức, sinh hoạt chung chung, vô tổ chức, vô kỷ luật. mà phải
cụ thể rõ ràng bảo đảm tính Đảng để giữ vững kỷ luật Đảng, tạo không khí
dân chủ xây dựng trong sinh hoạt chi bộ.
Tăng cường lãnh đạo và đổi mới công tác vận động quần chúng, vận
động nhân dân, tăng tường mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược, mối quan hệ máu thịt gắn bó mật thiết giữa
Đảng với nhân dân là sức mạnh to lớn bền vững, là truyền thống quý báu đã
được thử thách theo thời gian năm tháng từ khi có Đảng, các tổ chức cơ sở
Đảng phải quán triệt quan điểm "lấy dân làm gốc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh
để vận dụng vào công tác vận động quần chúng.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác vận động nhân dân, Đảng bộ
thành phố Đà Nẵng và các tổ chức cơ sở Đảng đã từng bước đổi mới về nội
dung và phương thức hoạt động nên đạt được hiệu quả thiết thực. Việc tổ
chức Đảng phân công đảng viên phụ trách công tác gần gũi quần chúng và
đưa đảng viên về giữ mối liên lạc với chi bộ nơi cư trú đã góp phần tham mưu
kiến nghị giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân.
Với vai trò hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ sở, các chi đảng bộ cơ sở cần
tích cực hơn nữa củng cố chính quyền, các đoàn thể quần chúng hội phụ nữ,
hội nông dân, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên để đoàn kết các tầng lớp
nhân dân, khơi dậy phát huy sức mạnh to lớn đông đảo của quần chúng, thực
hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra, góp phần củng cố nâng cao
vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, đáp ứng nhiệm vụ
trong giai đoạn mới.
115
3.2.5. Thường xuyên giữ vững đoàn kết thống nhất trong nội bộ
Đảng, đồng thời, tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát đối với tổ chức
cơ sở Đảng
Đoàn kết nhất trí là một truyền thống quý báu của dân tộc ta, được
Đảng ta kế thừa và vận dụng lên tầm cao mới. Trong công tác xây dựng củng
cố tổ chức cơ sở Đảng, cần phải có sự đoàn kết thì mới thành công. Đây là
một bài học kinh nghiệm được đúc kết qua bao thế hệ của dân tộc, của Đảng
ta. Chủ tịch Hồ chi Minh đã viết “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công”. Đoàn kết là phải từ Thành ủy, cấp uỷ chi
bộ đến toàn thể đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đoàn kết thống nhất
phải dựa trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ và dựa trên sự kết hợp hài
hòa lợi ích giữa cá nhân - tập thể - xã hội.
Đoàn kết nhất trí trong tổ chức Đảng, phát huy sức mạnh của chính
quyền, đoàn thể, các tầng lớp nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm
vụ ở địa phương, theo đúng nguyên tắc cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền
quản lý điều hành, nhân dân làm chủ. Thấu suốt quan điểm đoàn kết xây dựng
Đảng bộ thành một khối vững chắc, từ Thành ủy đến các tổ chức cơ sở Đảng
cần tập trung giải quyết dứt điểm các vấn đề nổi cộm ở một số cơ sở do nội bộ
mất đoàn kết cục bộ địa phương, kèn cựa đấu đá, từ đó đề ra những biện pháp
và thực hiện có hiệu quả công tác chấn chỉnh củng cố nội bộ cơ sở Đảng.
Trong công tác xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững
mạnh ngoài bản thân từng chi đảng bộ cơ sở và đội ngũ đảng viên nỗ lực phấn
đấu, đòi hỏi phải có sự quan tâm chỉ đạo sát sao kịp thời của cấp uỷ cấp trên,
để tránh được sự trông chờ ỷ lại, đi trệch hướng công tác, các tiêu cực phát
sinh. Chính vì vậy trong thời gian qua và thời gian sắp tới, Thành uỷ trong
công tác chỉ đạo cần tạo điều kiện cho các chi đảng bộ cơ sở thực hiện đúng
chức năng hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ sở, phát huy được quyền chủ động
sáng tạo. Đồng thời Thành uỷ cần thường xuyên kiểm tra giám sát uốn nắn
116
kịp thời những sai lệch, giải quyết những vụ việc mới phát sinh và xử lý
nghiêm minh các trường hợp vi phạm. Thành uỷ cần đánh giá đúng thực trạng
cơ sở Đảng để đề ra chủ trương kế hoạch chỉ đạo đối với từng loại hình cụ
thể, chăm lo đội ngũ cán bộ, đảng viên, kịp thời phổ biến kinh nghiệm và điển
hình tiên tiến ra toàn Đảng bộ học tập, noi theo.
117
KẾT LUẬN
Từ việc nghiên cứu quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ 1997 - 2006 có thể rút
ra những kết luận như sau:
1. Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng là nhiệm vụ quan trọng, Đảng bộ
thành phố Đà Nẵng đã nhận thức đúng đắn và ra sức thực hiện nhiệm vụ xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng từ năm 1997 đến năm 2006. Quá trình xây dựng tổ
chức cơ sở Đảng của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến năm 2006
qua 2 thời kỳ, thời kỳ từ năm 1997 đến năm 2000 là 15 năm đầu (1986 -
2000) thành phố Đà Nẵng cùng với cả nước thực hiện công cuộc đổi mới đất
nước toàn diện với những bước đi vững chắc. Công tác xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng của Đảng bộ thành phố thời kỳ trên được thực hiện theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), NQTW3 khóa VII
(1992), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), NQTW6 (lần 2) khóa
VIII (1999), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVII (1997).
Điểm trọng tâm công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng thời kỳ này là từng
bước đổi mới, chỉnh đốn lại chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn kết công tác
xây dựng Đảng với việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương theo phương châm “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm,
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” của Đảng đã được Đảng bộ thành phố
vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương, có tác
dụng động viên, khích lệ tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và các tầng lớp
nhân dân thành phố phát huy cao độ tinh thần yêu nước, thực hiện có hiệu quả
kế hoạch đề ra. Do vậy, những kết quả tích cực đạt được trong công tác xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng đã góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu
kinh tế - xã hội của thành phố.
Từ năm 2001 đến năm 2006, phát huy những thành quả của giai đoạn
trước, công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng
118
có sự chuyển biến mạnh mẽ để theo kịp yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Dưới ánh sáng chỉ dẫn của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
(2001), NQTW5 khóa IX, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ
XVIII (2001), XIX (2006), công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng có sự phát
triển hơn thời đoạn trước. Thành ủy đã thực hiện tốt vai trò là người lãnh đạo,
chỉ đạo toàn diện mọi mặt công tác của Đảng bộ thành phố. đặc biệt với
phương châm “hướng về cơ sở”, Thành ủy chỉ đạo sát sao các cơ sở Đảng
thực hiện đúng đắn vị trí hạt nhân lãnh đạo cơ sở của cơ sở Đảng. Các mặt
công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo của cơ sở Đảng và sức chiến
đấu của đội ngũ đảng viên, phát triển Đảng gắn kết nâng cao chất lượng cán
bộ, thường xuyên kiểm tra, giám sát hoặc xử lý được Đảng bộ thành phố từ
Thành ủy xuống các cơ sở Đảng thực hiện nghiêm túc, đầy đủ theo nguyên
tắc tập trung, dân chủ. Kết quả xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững
mạnh từ năm 2001 đến năm 2006 của Đảng bộ thành phố đã góp phần đưa
Đảng bộ giữ vững thành tích là Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Kết quả trên
góp phần quan trọng vào những thành tựu đạt được về phát triển kinh tế-xã
hội của địa phương và cơ sở, làm bộ mặt thành phố đổi thay tích cực, đời
sống vật chất tinh thần của nhân dân thành phố được nâng cao.
2. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng thời kỳ 1997 - 2006 của Đảng
bộ thành phố Đà Nẵng đã thu được nhiều thành tựu quan trọng có ý nghĩa to
lớn đối với sự phát triển của hiện tại và tương lai của thành phố.
Tổ chức cơ sở Đảng đã thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình,
đảm bảo sự lãnh của đảng tại đơn vị cơ sở thể hiện ở chỗ quán triệt và vân
dụng sáng tạo đường nối chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với đặc
điểm địa phương và phổ biến sâu sát đến tận cơ sở từng người dân. Vai trò
119
lãnh đạo của tổ chức Đảng, cán bộ đảng viên được phát huy trong lãnh đạo
phong trào quần chúng.
Tổ chức cơ sở Đảng ở thành phố Đà Nẵng đã tập trung xây dựng và
kiện toàn các tổ chức chính quyền, các đơn vị kinh tế cơ sở và các đoàn thể
quần chúng, các tổ chức xã hội vững mạnh, bảo đảm chấp hành đúng đường
lối chủ trương của Đảng, các chính sách pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị
nghị quyết của cấp trên và của tổ chức Đảng được thực hiện có hiệu quả, tổ
chức thực hiện tốt qui chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, bước đầu triển khai thực hiện cải cách hành chính có hiệu quả.
Tổ chức cơ sở Đảng ở thành phố Đà Nẵng đã chăm lo xây dựng nội bộ
vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức, chăm lo đào tạo đội ngũ cán bộ
nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên, thường xuyên
chú trọng kết nạp đảng viên mới trẻ khoẻ, có trình độ chuyên môn và đầy
nhiệt tình cách mạng, thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt Đảng, tự phê
bình và phê bình tăng cường đoàn kết thống nhất trong đảng giữ gìn kỷ luật.
Trong công tác kiểm tra Đảng, các tổ chức cơ sở Đảng đã thực hiện
đúng phương pháp thủ tục nguyên tắc khi kiểm tra đảng viên chấp hành điều
lệ Đảng, qua đó đã phát hiện các lệnh lạc sai trái để có biện pháp uốn nắn kịp
thời, đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm kỷ luật
Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhờ vậy đã góp phần chấn chỉnh kỷ cương
làm trong sạch đội ngũ chiến đấu của Đảng và bộ máy Nhà nước.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác dân vận, trong những năm
từ 1997 đến 2006, tổ chức cơ sở Đảng ở thành phố Đà Nẵng đã không ngừng
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của dân, bảo đảm lợi ích chính đáng
của dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lãnh đạo nhân dân thực hiện
tốt đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, thu
hút nhân dân vào các hoạt động các tổ chức xã hội đoàn thể tạo ra các phong
120
trào cách mạng sâu rộng, gắn bó đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong sự
nghiệp đổi mới đất nước.
3. Năm 2005, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng không còn cơ sở Đảng yếu
kém nhưng còn một số cơ sở Đảng trung bình (nhiều năm không đạt tiêu
chuẩn trong sạch, vững mạnh), một số cơ sở Đảng đã có những lúc nội bộ mất
đoàn kết, thiếu thống nhất nên sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo còn hạn
chế, chưa phát huy được ưu điểm và khắc phục được nhược điểm, tồn tại. Một
bộ phận không nhiều đảng viên chưa phát huy tốt vai trò hoặc còn vi phạm kỷ
luật . Sinh hoạt chi bộ còn chậm đổi mới. Không ít cơ sở Đảng còn lúng túng
trước yêu cầu nhiệm vụ công tác mới, hoạt động còn dập khuôn máy móc còn
ỷ lại cấp trên. Công tác vận động nhân dân chậm đổi mới, công tác kiểm tra
vẫn còn tư tưởng bao che cả nể, chưa đấu tranh mạnh mẽ trước những sai trái.
Đây là những vấn đề đặt ra cần giải quyết nhanh chóng để củng cố nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng
viên ở Đảng bộ thành phố.
4. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ những
thành tựu và hạn chế trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng
bộ thành phố Đà Nẵng đã để lại những bài học kinh nghiệm có giá trị lý luận
và thực tiễn sâu sắc. Những kinh nghiệm phong phú nảy sinh từ thực tiễn như:
Đảng bộ thành phố Đà Nẵng có nhiều loại hình tổ chức cơ sở Đảng, do đó để
xây dựng, củng cố phải căn cứ vào nhiệm vụ chính trị của từng loại hình cơ
sở Đảng đó; xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, phải nâng
cao kiến thức về xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng cho đội ngũ
cán bộ đảng viên; chú trọng công tác phát triển Đảng gắn liền với nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; đổi mới nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ phù hợp với các loại hình chi, đảng bộ cơ sở, coi trọng công tác dân
vận, tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân; thường xuyên giữ
vững đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng, nhất là trong đội ngũ cán bộ
121
chủ chốt, tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp trên đối với tổ
chức cơ sở Đảng.
Những kinh nghiệm nêu trên đã làm rõ nhận định: Sự lãnh đạo sáng
tạo, đúng đắn của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng là nhân tố hàng đầu, quyết
định dẫn tới những thành công trong công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ
sở Đảng.
5. Vấn đề đặt ra cho công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Đảng bộ
thành phố Đà Nẵng trong tiến trình thời gian tiếp theo theo chúng tôi là:
Trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo
nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng cần chủ động, sáng
tạo hơn nữa trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.
Cần phát huy hơn nữa những thành tựu đạt được đồng thời khắc phục những
hạn chế bằng những giải pháp thiết thực trong công tác xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng. Vấn đề then chốt để có được thành công trong hoạt động là phải có
đường lối đúng đắn và những phương pháp sáng tạo, trên cơ sở hướng dẫn
của cấp bộ đảng cấp trên và phù hợp với thực tiễn thành phố. Cần coi trọng
công tác giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của cán bộ đảng viên, quy hoạch cán bộ “đúng người, đúng việc”, đẩy mạnh
phát triển đảng viên chú trọng đối tượng trẻ, đoàn viên thanh niên, phụ nữ
đồng thời uốn nắn những lệch lạc trong tư tưởng và hành động, kịp thời đưa
ra khỏi hàng ngũ những đảng viên yếu kém, thoái hóa biên chất. Chú trọng
công tác dân vận, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, có những giải pháp
thích hợp để quần chúng tham gia chủ động và tích cực hơn vào công tác phê
bình, góp ý xây dựng Đảng. Từ Thành ủy đến cơ sở Đảng phải giữ gìn sự
đoàn kết thống nhất từ ý chí đến hành động trên cơ sở nguyên tắc tổ chức của
Đảng và những lợi ích chung. Thành ủy nên chỉ đạo kịp thời giải quyết những
122
chi, đảng bộ trung bình, nội bộ mất đoàn kết, cơ sở Đảng quan liêu. Cần phát
huy mạnh mẽ hơn nữa nguyên tắc tập trung dân chủ, quy luật phát triển tự phê
bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ, nhìn thẳng, nói thật trên tinh thần
đồng chí và xây dựng, kết hợp nhuần nhuyễn phương châm “phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” trong lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của địa phương, đơn vị và cơ sở.
Từ những gì đã làm được và chưa được, đúc kết các bài học kinh
nghiệm về công tác xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng thời kỳ 1997 -
2006, chúng tôi tin tưởng Đảng bộ thành phố Đà Nẵng sẽ đề ra và thực hiện
các giải pháp thiết thực theo tinh thần các nghị quyết của TW Đảng, Bộ Chính
trị, Thành ủy Đà Nẵng bàn về công tác xây dựng Đảng để tiếp tục phát huy
cao hơn nữa thành tựu xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh,
đảm bảo vai trò nền tảng với chức năng hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ sở,
xứng đáng với danh hiệu Đảng bộ vững mạnh, trong sạch, đơn vị lá cờ đầu
của cả nước, góp phần xây dựng thành phố ngày thêm văn minh, giàu mạnh.
123
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành
phố Đà Nẵng lần thứ III, Nxb. Đà Nẵng.
2. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (1989), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành
phố Đà Nẵng lần thứ IV, Nxb. Đà Nẵng.
3. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (1992), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành
phố Đà Nẵng lần thứ V, Nxb. Đà Nẵng.
4. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành
phố Đà Nẵng lần thứ VI, Nxb. Đà Nẵng.
5. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XVI, Nxb. Đà Nẵng.
6. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành
phố Đà Nẵng lần thứ XVII, Nxb. Đà Nẵng.
7. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành
phố Đà Nẵng lần thứ XVIII, Nxb. Đà Nẵng.
8. Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Thành
phố Đà Nẵng lần thứ XIX, Nxb. Đà Nẵng.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2)
BCHTW khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
124
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết của Bộ Chính trị số 33-
NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 47, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Tạp chí Xây dựng Đảng (12/1996).
21. Tạp chí Xây dựng Đảng (1/1997).
22. Thành ủy Đà Nẵng (1987), Báo cáo tổng kết công tác năm 1987 và
phương hướng nhiệm vụ năm 1988, số 10/BC-TU, Đà Nẵng.
23. Thành ủy Đà Nẵng (1991), Báo cáo kết quả kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ
đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; xây dựng và thực hiện
Quy chế làm việc của cấp ủy, số 17-BC/TU, Đà Nẵng.
24. Thành ủy Đà Nẵng (1991), Báo cáo tổng kết công tác phát thẻ đảng viên
(năm 1990-1991), số 25/BC-TU, Đà Nẵng.
25. Thành ủy Đà Nẵng (1992), Nghị quyết của BCH Đảng bộ thành phố về
những nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 1993, số 02/NQ-TP, Đà Nẵng.
26. Thành ủy Đà Nẵng (1994), Nghị quyết của BCH Đảng bộ thành phố về
việc chỉ đạo kiểm tra và giải quyết cơ sở Đảng yếu - kém, số 234/NQ-
TP, Đà Nẵng.
27. Thành ủy Đà Nẵng (1994), Báo cáo tình hình nhiệm vụ năm 1994 và
phương hướng nhiệm vụ năm 1995, số 63/BC-TU, Đà Nẵng.
125
28. Thành ủy Đà Nẵng (1995), Nghị quyết của BTV Thành ủy về một số công
tác trước mắt trong xây dựng Đảng, đảm bảo hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của thành phố năm 1995, số 07/NQ-TP, Đà Nẵng.
29. Thành ủy Đà Nẵng (1995), Báo cáo tình hình thực hiện các mặt công tác
năm 1995 và phương hướng nhiệm vụ năm 1996, số 77/BC-TU, Đà
Nẵng.
30. Thành ủy Đà Nẵng (1996), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng
nhiệm kỳ lần thứ VI của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
31. Thành ủy Đà Nẵng (1996), Báo cáo tình hình thực hiện kinh tế - xã hội 9
tháng đầu năm và nhiệm vụ những tháng còn lại, số 08/BC-TU, Đà
Nẵng.
32. Thành ủy Đà Nẵng (1996), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng
cấp quận, huyện, số 75/BC-TU, Đà Nẵng.
33. Thành ủy Đà Nẵng (1997), Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ năm
1997, số 01-NQ/TU, Đà Nẵng.
34. Thành ủy Đà Nẵng (1997), Báo cáo tình hình thực hiện các mặt công tác
năm 1997, số 56-BC/TU, Đà Nẵng.
35. Thành ủy Đà Nẵng (1998), Nghị quyết Hội nghị Thành uỷ lần thứ 3 về
phương hướng, nhiệm vụ năm 1998, số 01-NQ/TU, Đà Nẵng.
36. Thành ủy Đà Nẵng (1998), Báo cáo tình hình thực hiện các mặt công tác
năm 1998, số 51-BC/TU, Đà Nẵng.
37. Thành ủy Đà Nẵng (1999), Báo cáo tình hình công tác năm 1999, số 49-
BC/TU, Đà Nẵng.
38. Thành ủy Đà Nẵng (2000), Báo cáo tình hình công tác năm 2000 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2001, số 66-BC/TU, Đà Nẵng.
39. Thành ủy Đà Nẵng (2001), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng tổ chức
cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh 5 năm (1996-2000), số 34-BC/TU,
Đà Nẵng.
126
40. Thành ủy Đà Nẵng (2002), Báo cáo tổng kết tình hình năm 2001, số 18-
BC/TU, Đà Nẵng.
41. Thành ủy Đà Nẵng (2002), Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ năm
2002, số 03-NQ/TU, Đà Nẵng.
42. Thành ủy Đà Nẵng (2002), Báo cáo tổng kết thực hiện Quy định 17 của
Bộ Chính trị (Khóa VIII), số 46-BC/TU, Đà Nẵng.
43. Thành ủy Đà Nẵng (2003), Báo cáo thành tích thực hiện chỉ thị 37-
CT/TW về công tác cán bộ nữ, số 48-BC/TU, Đà Nẵng.
44. Thành ủy Đà Nẵng (2004), Báo cáo đánh giá kết quả công tác năm
2003, phương hướng nhiệm vụ năm 2004 cơ quan khối Đảng, số 60-
BC/CQKĐ, Đà Nẵng.
45. Thành ủy Đà Nẵng (2005), Báo cáo tình hình công tác năm 2005, số
153-BC/TU, Đà Nẵng.
46. Thành ủy Đà Nẵng (2006), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng tổ chức
cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh 5 năm (2001-2005), số 56-BC/TU,
Đà Nẵng.
47. Thành ủy Đà Nẵng (2006), Báo cáo tổng kết tình hình năm 2006, số 40-
BC/TU, Đà Nẵng.
48. Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Nẵng (2001), Lịch sử thành phố Đà
Nẵng, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
49. http://www.cucthongke.danang.gov.vn