TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI --------***--------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006-2008 VÀ ĐỊNH HƯỚNG GIAI ĐOẠN TỚI
Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Thu Hà
Lớp : Anh 9
Khóa : 44C
Giáo viên hướng dẫn : TS. Trần Sĩ Lâm
Hà Nội, tháng 5 năm 2009
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới TS. Trần Sĩ Lâm giảng viên Bộ
môn Vận tải – Bảo hiểm, đã hướng dẫn em nhiệt tình trong thời gian thực
hiện Khoá luận cùng sự giúp đỡ của anh Bùi Văn Thảo, Trưởng phòng Bảo
hiểm hàng hoá; anh Nguyễn Viết Sơn, Phó Trưởng phòng Bảo hiểm hàng
hoá và các anh chị khác trong Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội đã giúp đỡ
em về nguồn tài liệu, kinh nghiệm thực tiễn về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu chuyên chở bằng đường biển và những đóng góp thiết thực về nội dung
để em có thể hoàn thành Khoá luận một cách tốt nhất.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ BỒI THƢỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN ................................................. 4
I. BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN ................................................................................................... 4
1.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG TRONG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ................. 5
1.1.1 NGƯỜI BẢO HIỂM................................................................................ 5 1.1.2 NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM ................................................................... 5 1.1.3 ĐỐI TƯỢNG BẢO HIỂM VÀ QUYỀN LỢI BẢO HIỂM ......................... 6 1.1.4 HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM ........................................................................ 7 1.1.5 GIÁ TRỊ BẢO HIỂM, SỐ TIỀN BẢO HIỂM VÀ PHÍ BẢO HIỂM ........... 9 1.1.6 MỘT SỐ NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG ..................................................... 10 1.2 RỦI RO TRONG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ............................................................................................... 12
1.2.1 KHÁI NIỆM .......................................................................................... 12 1.2.2 PHÂN LOẠI RỦI RO ............................................................................ 13 1.3 TỔN THẤT TRONG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ................................................................................... 14
1.3.1 KHÁI NIỆM .......................................................................................... 14 1.3.2 PHÂN LOẠI TỔN THẤT ...................................................................... 15 1.4 VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ............................................................................................... 18
II. GIÁM ĐỊNH TỔN THẤT HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN ........................................................................... 20
2.1 KHÁI NIỆM VÀ MỤC ĐÍCH .................................................................. 20
2.1.1 KHÁI NIỆM .......................................................................................... 20 2.1.2 MỤC ĐÍCH CỦA CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH ........................................ 21 2.2 QUY TRÌNH THỰC HIỆN GIÁM ĐỊNH TỔN THẤT HÀNG HOÁ...... 22
2.2.1 CHẤP NHẬN YÊU CẦU GIÁM ĐỊNH ................................................. 23
2.2.2 TIẾN HÀNH GIÁM ĐỊNH .................................................................... 23 2.2.3 LẬP CHỨNG THƯ GIÁM ĐỊNH.......................................................... 25 III. BỒI THƢỜNG TỔN THẤT HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN ......................................................... 26
3.1 KHIẾU NẠI ĐÒI BỒI THƯỜNG TỔN THẤT ........................................ 26
3.2 KHÁI NIỆM, VAI TRÒ VÀ NGUYÊN TẮC TRONG BỒI THƯỜNG TỔN THẤT ..................................................................................................... 28
3.2.1 KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA BỒI THƯỜNG TỔN THẤT ................ 28 3.2.2 NGUYÊN TẮC TRONG BỒI THƯỜNG TỔN THẤT ............................ 28 3.3 CÁCH TÍNH TOÁN BỒI THƯỜNG TỔN THẤT ................................... 30
3.3.1 TỔN THẤT BỘ PHẬN .......................................................................... 30 3.3.2 TỔN THẤT TOÀN BỘ .......................................................................... 32 3.3.3 CÁC CHI PHÍ ĐƯỢC BẢO HIỂM BỒI THƯỜNG ............................... 32 CHƢƠNG II: ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BỒI THƢỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 .................. 35
I. TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 ................................................................................ 35
1.1 GIỚI THIỆU VỀ VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI VÀ CÁC NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM ĐANG TRIỂN KHAI .......................................... 35
1.1.1 GIỚI THIỆU VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI ....................... 35 1.1.2 CÁC NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CHỦ YẾU ĐANG TRIỂN KHAI TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI...................................................... 37 1.2 TÌNH HÌNH KINH DOANH DỊCH VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 ................................................................................................................ 41
II. CÔNG TÁC BỒI THƢỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 ................................................................................ 44
2.1 HOẠT ĐỘNG BỒI THƯỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 ................................ 44
2.2 QUY TRÌNH GIÁM ĐỊNH TỔN THẤT CỦA VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI .............................................................................................. 47
2.3 QUY TRÌNH THỰC HIỆN BỒI THƯỜNG TỔN THẤT HÀNG HOÁ CỦA CÔNG TY .............................................................................................. 52
III. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BỒI THƢỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 .................................................... 59
3.1 CÁC NHÂN TỐ KHÁCH QUAN TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG TẠI CÔNG TY .............................................................................. 59
3.1.1 CÁC YẾU TỐ THUẬN LỢI .................................................................. 59 3.1.2 CÁC YẾU TỐ KHÓ KHĂN ................................................................... 61 3.2 NHỮNG ĐIỂM MẠNH VÀ ĐIỂM YẾU TRONG CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ TẠI CÔNG TY TRONG GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 .................................................................................................... 62
3.2.1 NHỮNG ĐIỂM MẠNH ......................................................................... 63 3.2.2 NHỮNG ĐIỂM YẾU ............................................................................ 66 CHƢƠNG III: ĐỊNH HƢỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC BỒI THƢỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN TỚI .. 71
I. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN TỚI ................................................................. 71
1.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM BẢO HIỂM CỦA PJICO TRONG GIAI ĐOẠN TỚI ................................................................. 71
1.2 CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN TỚI ................................................................. 73
1.3 NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI ........ 76
II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC BỒI THƢỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN TỚI............................... 78
2.1 ĐỐI VỚI PJICO ....................................................................................... 79
2.1.1 GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHÒNG NGỪA RỦI RO VÀ HẠN CHẾ TỔN THẤT ........................................................................................... 79 2.1.2 GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH TỔN THẤT ............... 81 2.1.3 GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG ............................... 85 2.2 ĐỐI VỚI HIỆP HỘI BẢO HIỂM VIỆT NAM ........................................ 91
2.3 ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC ............................................................................. 93
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 98
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết thƣờng
Bồi thường BT
Bồi thường viên BTV
Đơn vị bồi thường ĐVBT
Đơn vị giám định ĐVGĐ
Đơn vị khai thác ĐVKT
Giám định viên GĐV
Giá trị bảo hiểm GTBH
Người được bảo hiểm NĐBH
Người được phân công NĐPC
Người được uỷ quyền NĐUQ
Người yêu cầu NYC
Phòng kế toán PKT
Số tiền bảo hiểm STBH
Số tiền bồi thường STBT
Tái bảo hiểm TBH
Tổng giám đốc TGĐ
Trách nhiệm dân sự TNDS
Tổn thất chung TTC
Tổn thất riêng TTR
Xuất nhập khẩu XNK
DANH MỤC BẢNG BIỂU & SƠ ĐỒ
Tên bảng Trang
Bảng 1 37
Bảng 2 41
Bảng 3 44
Doanh thu các nghiệp vụ bảo hiểm tại PJICO giai đoạn 2006 – 2008 Tình hình kinh doanh bảo hiểm hàng hoá XNK tại PJICO giai đoạn 2006 – 2008 Tình hình bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK tại PJICO giai đoạn 2006 – 2008
Bảng 4 66
Các yếu tố tác động tới công tác bồi thường của PJICO
Tên sơ đồ Trang
Sơ đồ 1 Cơ cấu tổ chức của PJICO 35
Sơ đồ 2 Quy trình giám định tổn thất hàng hoá tại PJICO 46
Sơ đồ 3 Quy trình bồi thường tổn thất hàng hoá tại PJICO 51
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, cùng với sự phát triển về khoa học
kỹ thuật đã giúp cho các quốc gia cải thiện năng lực sản xuất, chất lượng sản
phẩm và làm gia tăng lượng hàng hoá buôn bán giữa các quốc gia với nhau. Bên
cạnh đó là những khó khăn, rủi ro mà các chuyến hàng vận chuyển bằng đường
biển phải đối mặt tăng lên cả về số lượng và mức độ thiệt hại. Do đó, bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu (XNK) chuyên chở bằng đường biển ngày càng được
quan tâm và phát triển. Trong bảo hiểm công tác tính toán, phân bổ số tiền bồi
thường cho các bên là rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các công
ty bảo hiểm và đối với cả khách hàng tham gia bảo hiểm, nhất là khi giải quyết
bồi thường không chính xác, kịp thời thì sẽ gây hậu quả xấu cho các bên. Ở Việt
Nam hiện nay, công tác dự báo rủi ro, phòng ngừa và hạn chế tổn thất cho hàng
hoá XNK chuyên chở bằng đường biển còn yếu kém, chưa hiệu quả trong khi
kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng gia tăng. Vì vậy nhu cầu nâng cao hiệu quả
công tác bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển ngày
càng trở nên cấp thiết.
Trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam, Công ty Cổ phần Bảo
hiểm Petrolimex (PJICO) là một trong 4 công ty bảo hiểm hàng đầu Việt Nam,
nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển,
PJICO được đánh giá là Công ty hoạt động có hiệu quả nhất do tỷ lệ bồi thường
thấp so với toàn thị trường. Tuy nhiên, Công ty vẫn phải đối mặt với những khó
khăn khi giải quyết bồi thường như xác định tổn thất được bồi thường không
1
chính xác, hiện tượng trục lợi bảo hiểm, thời gian giải quyết bồi thường còn kéo
dài… nhất là trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các công ty
bảo hiểm cả trong và ngoài nước. Vấn đề đặt ra cho Công ty trong thời gian tới
là làm thế nào để giải quyết được những khó khăn này, do đó em đã chọn đề tài
Khoá luận tốt nghiệp là: “Đánh giá công tác bồi thường bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển tại Văn phòng Công ty PJICO
Hà Nội giai đoạn 2006 – 2008 và định hướng giai đoạn tới”.
2. Tình hình nghiên cứu trước đây
Trong các khoá luận trước đây cũng đã có một số bài nghiên cứu về bảo
hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển tại Công ty Bảo Việt hoặc
Bảo Minh, tuy nhiên cho đến nay chưa có khoá luận nào nghiên cứu về công tác
bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển tại PJICO. Do
vậy, đề tài này hoàn toàn không trùng lặp với các đề tài đã nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích nghiên cứu
Khoá luận được thực hiện nhằm các mục đích nghiên cứu sau:
Nghiên cứu cơ sở lý luận về nghiệp vụ giám định – bồi thường hàng
hoá XNK chuyên chở bằng đường biển.
Phân tích, đánh giá công tác bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK
chuyên chở bằng đường biển tại PJICO giai đoạn 2006 – 2008.
Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển
tại Công ty.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: công tác giám định bồi thường tổn thất hàng hoá
2
XNK chuyên chở bằng đường biển tại Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: công tác giám định bồi thường bảo hiểm hàng hoá
XNK chuyên chở bằng đường biển tại Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội trong
giai đoạn 2006 – 2008.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận được hoàn thành dựa trên phương pháp phân tích, tổng hợp,
diễn giải; phương pháp so sánh; phương pháp hệ thống; phương pháp phân tích
SWOT…
6. Kết cấu khoá luận
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, Khoá luận được chia làm 3 chương với các
nội dung sau:
Chương I: Khái quát về bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên
chở bằng đường biển
Chương II: Đánh giá công tác bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK
chuyên chở bằng đường biển tại Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội giai đoạn
2006 – 2008
Chương III: Định hướng nâng cao hiệu quả công tác bồi thường bảo
hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển tại Văn phòng Công ty PJICO
Hà Nội giai đoạn tới
3
Và sau đây là toàn bộ bài Khoá luận của em.
CHƢƠNG I:
KHÁI QUÁT VỀ BỒI THƢỜNG BẢO HIỂM
HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN
I. BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ
BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
Thương mại quốc tế là hoạt động buôn bán giữa các chủ thể kinh doanh
của nước này với nước khác, bao gồm các giao dịch xuất nhập khẩu hàng hoá và
dịch vụ. Thương mại quốc tế là một hoạt động phức tạp vì các bên tham gia vào
hoạt động kinh doanh quốc tế thường là những chủ thể có quốc tịch khác nhau,
có sự xa cách về mặt địa lý, khác biệt về truyền thống, pháp luật, tập quán
thương mại và chính sách kinh tế đối ngoại, khác biệt về ngôn ngữ, đồng thời
thiếu hiểu biết và tin cậy lẫn nhau so với các đối tác trong nước. Bên cạnh đó,
điều kiện tự nhiên, kinh tế - chính trị - xã hội ở mỗi nước trong hành trình vận
chuyển đều có thể gây ra những khó khăn không thể lường trước, đôi khi là bất
khả kháng đối với các bên khi thực hiện hợp đồng như rủi ro về chính trị, rủi ro
về tiền tệ và tỷ giá trong thanh toán, rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng
hoá…
Hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế được thực hiện bởi nhiều hình
thức vận tải khác nhau (đường bộ, đường biển, đường sông, đường hàng
không…), nhưng thực tế có trên 80% hàng hoá xuất nhập khẩu được vận chuyển
bằng đường biển. Vì vậy, rủi ro hay xảy ra nhất trong vận chuyển hàng hoá xuất
nhập khẩu là rủi ro trong hành trình vận chuyển bằng đường biển và thường gây
4
ra những thiệt hại, mất mát to lớn cho các bên liên quan đến hành trình.
Đối mặt với rủi ro, các thương nhân đã tìm ra biện pháp để hạn chế, ngăn
ngừa hậu quả và nguyên nhân dẫn đến rủi ro, tổn thất, đó chính là bảo hiểm. Do
hình thức giao thương đầu tiên và phổ biến nhất là bằng đường biển nên bảo
hiểm hàng hải nói chung, bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển nói
riêng cũng là loại hình bảo hiểm xuất hiện sớm và phát triển nhất cho đến ngày
nay. Bảo hiểm hàng hải có các loại: Bảo hiểm thân tàu, Bảo hiểm trách nhiệm
dân sự chủ tàu và Bảo hiểm hàng hoá chuyên chở bằng đường biển.
Những phần sau sẽ đi sâu nghiên cứu về bảo hiểm và bồi thường bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển vì đây là hình thức bảo
hiểm lâu đời nhất và phát triển nhất trong kinh doanh bảo hiểm.
1.1 Một số khái niệm và nguyên tắc áp dụng trong bảo hiểm hàng hoá XNK
chuyên chở bằng đƣờng biển
1.1.1 Người bảo hiểm
Là người đứng ra nhận bảo hiểm cho các cá nhân hoặc tổ chức khi có yêu
cầu; là người nhận trách nhiệm về rủi ro, được hưởng phí bảo hiểm và phải bồi
thường tổn thất trong phạm vi bảo hiểm. [12]
Các công ty bảo hiểm thường thực hiện rất nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác
nhau (bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm hàng không, bảo hiểm
nội địa, tái bảo hiểm…) bên cạnh thực hiện các hoạt động kinh doanh khác. Một
số các công ty bảo hiểm hiện nay như: Lloyd, Prudential, Bảo Việt, PJICO, PVI,
Bảo Minh…
1.1.2 Người được bảo hiểm
Người được bảo hiểm là người có lợi ích bảo hiểm và là người bị thiệt hại
khi rủi ro xảy ra và được người bảo hiểm bồi thường. Người được bảo hiểm là
5
người nộp phí bảo hiểm và có tên trong hợp đồng bảo hiểm. [11]
Trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển
thì người mua bảo hiểm có thể là người bán hoặc người mua tuỳ theo điều kiện
giao hàng là gì. Ví dụ nếu bán hàng theo điều kiện FOB Incoterms 2000 thì
người bán không có trách nhiệm mua bảo hiểm cho hàng hoá, người mua vì
quyền lợi của mình sẽ tiến hành mua bảo hiểm; ngược lại, bán hàng theo điều
kiện CIF Incoterms 2000 thì người bán có trách nhiệm mua bảo hiểm cho
chuyến hàng.
1.1.3 Đối tượng bảo hiểm và quyền lợi bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở
bằng đường biển chính là hàng hoá. Theo định nghĩa trong Bộ Luật Hàng hải
Việt Nam 2005, Điều 225: “Đối tượng bảo hiểm hàng hải có thể là bất kỳ quyền
lợi vật chất nào liên quan đến các hoạt động hàng hải mà có thể quy ra tiền, bao
gồm tàu biển, tàu biển đang đóng, hàng hoá, tiền cước vận chuyển hàng hoá, tiền
công vận chuyển hành khách, tiền thuê tàu, tiền thuê mua tàu, tiền lãi ước tính
của hàng hoá, các khoản hoa hồng, chi phí tổn thất chung, trách nhiệm dân sự và
các khoản tiền được đảm bảo bằng tàu, hàng hoá hoặc tiền cước vận chuyển”.
Cùng với sự phát triển của các ngành và hoạt động ngoại thương giữa các
quốc gia thì hàng hoá là đối tượng của bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở
bằng đường biển ngày càng gia tăng và rất đa dạng như hàng rời (ngô, than đá,
khô đậu tượng…), hàng lỏng (dầu, hoá chất…), hàng siêu trường siêu trọng
(máy móc, thiết bị…), hàng đóng trong container… Tuy nhiên không phải tất cả
hàng hoá đều là đối tượng của bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường
biển mà được phân thành hàng hoá nói chung và hàng hoá là đối tượng của bảo
hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển căn cứ vào hợp đồng mua bán
6
ngoại thương. Chỉ có những hàng hoá nào được xác định rõ trong các hợp đồng
mua bán ngoại thương là đối tượng của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng
đường biển thì mới được xem là đối tượng của bảo hiểm hàng hoá, còn các tài
sản khác được mang theo để phục vụ sinh hoạt cá nhân chứ không có mục đích
thương mại (được gọi là hành lý) thì không thuộc phạm vi của đối tượng bảo
hiểm hàng hoá.
Ngoài quyền lợi bảo hiểm đối với hàng hoá, chủ hàng còn có quyền lợi
bảo hiểm khác như lãi ước tính (theo tập quán thì chủ hàng có thể mua bảo hiểm
cho phần lãi này với mức tối đa là 10% trị giá CIF của lô hàng), trị giá tăng thêm
(được bảo hiểm riêng), thuế nhập khẩu.
Khi xảy ra tổn thất người được bảo hiểm phải chứng minh là mình có
quyền lợi bảo hiểm nằm trong đối tượng bảo hiểm tại thời điểm bị tổn thất. Nếu
không chứng minh được thì khiếu nại bồi thường sẽ bị từ chối. Ngay cả khi trong
đơn bảo hiểm có ghi là người được bảo hiểm không cần thiết phải chứng minh
thì nhà bảo hiểm cũng có thể từ chối khiếu nại khi nhà bảo hiểm nghi ngờ người
được bảo hiểm không có quyền lợi đó.
1.1.4 Hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường
biển là sự thoả thuận giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm, theo đó
người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người được bảo hiểm những hư hỏng
hoặc mất mát của hàng hoá hay trách nhiệm liên quan đến hàng hoá bảo hiểm do
một rủi ro đã thoả thuận gây ra, còn người được bảo hiểm cam kết trả phí bảo
hiểm. [11]
Loại hợp đồng này mang tính chất là một hợp đồng bồi thường, một hợp
đồng tín nhiệm và có thể chuyển nhượng được.
7
Có hai loại hợp đồng bảo hiểm chủ yếu:
Hợp đồng bảo hiểm chuyến: là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến
hàng từ địa điểm này đến một địa điểm khác ghi trên hợp đồng bảo hiểm. Người
bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về hàng hoá trong phạm vi một chuyến hàng.
Trên đó ghi rõ chi tiết về hàng hoá, sắp xếp, phương tiện vận chuyển, hành
trình…
Hợp đồng bảo hiểm bao: là hợp đồng bảo hiểm cho nhiều chuyến hàng
trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Hợp đồng bảo hiểm bao có
thể đưa ra dự kiến tổng số tiền bảo hiểm hoặc ấn định thời hạn trong đó việc bảo
hiểm hàng hoá sẽ được thực hiện có tính chất tự động, linh hoạt khi có chuyến
hàng xuất khẩu hay nhập khẩu mặc dù chưa kịp khai báo và nếu vì một lý do nào
đó chưa kịp gửi giấy yêu cầu bảo hiểm mà hàng hoá đã bị tổn thất thì người bảo
hiểm vẫn chịu trách nhiệm bồi thường.
Trong hợp đồng bảo hiểm có điều khoản “từ kho đến kho” thể hiện thời
hạn của hợp đồng bảo hiểm. Theo đó, trách nhiệm bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực
từ khi hàng hoá được bảo hiểm rời kho hoặc nơi chứa hàng tại địa điểm ghi trong
hợp đồng bảo hiểm để bắt đầu vận chuyển và tiếp tục có hiệu lực trong suốt quá
trình vận chuyển bình thường. Trách nhiệm của người bảo hiểm kết thúc tại một
trong số các thời điểm sau tuỳ thuộc trường hợp nào xảy ra trước:
- Giao hàng vào kho hay nơi chứa hàng cuối cùng của người nhận
hoặc người khác có tên trong hợp đồng, hoặc
- Khi giao hàng vào kho hay nơi chứa hàng khác dù trước khi đến địa
điểm nhận hàng ghi trong hợp đồng mà người được bảo hiểm đã chọn dùng làm
nơi chia hay phân phối hàng, hoặc là nơi chứa hàng ngoài hành trình vận chuyển
bình thường, hoặc
- Sau 60 ngày kể từ ngày hoàn thành việc dỡ hàng khỏi tàu biển hoặc
8
xà lan tại cảng dỡ hàng cuối cùng ghi trên hợp đồng bảo hiểm.
1.1.5 Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm – V
Theo Điều 232, Bộ Luật Hàng hải Việt Nam 2005: “Giá trị bảo hiểm của
hàng hoá là giá trị hàng hoá ghi trên hoá đơn ở nơi bốc hàng hoặc giá thị trường
ở nơi và thời điểm bốc hàng cộng với phí bảo hiểm, tiền cước vận chuyển và có
thể cả tiền lãi ước tính”. Như vậy giá trị bảo hiểm chính là giá CIF của hàng hoá.
Vậy: V = CIF + a%CIF (thường V=110%CIF, hay a = 10%CIF)
Trong đó: V: giá trị bảo hiểm
C: giá trị bản thân lô hàng
I: phí bảo hiểm
F: cước phí vận chuyển
a =< 10%CIF
Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường sử dụng công thức sau để xác
định giá trị bảo hiểm:
x (1 +a%) V = C + F 1 – R
Trong đó R là tỉ lệ phí bảo hiểm do công ty bảo hiểm đặt ra và tính theo
phần trăm của giá trị bảo hiểm. R cao hay thấp phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm
của hàng hoá, phương tiện vận chuyển hay điều kiện bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm – A
Số tiền bảo hiểm là toàn bộ hay một phần giá trị bảo hiểm do người được
bảo hiểm yêu cầu và được bảo hiểm. Đó cũng là giới hạn trách nhiệm mà nhà
9
bảo hiểm phải chi trả khi hàng bị tổn thất.
Thường thì các công ty bảo hiểm chỉ chấp nhận bảo hiểm ngang giá trị
hoặc là bảo hiểm dưới giá trị. Nếu mà người được bảo hiểm mua bảo hiểm trên
giá trị, khi tổn thất xảy ra thì người bảo hiểm vẫn chỉ bồi thường trong phạm vi
số tiền bảo hiểm. Trong trường hợp bảo hiểm trùng thì trách nhiệm của các công
ty bảo hiểm cũng chỉ giới hạn trong phạm vi số tiền bảo hiểm.
Phí bảo hiểm – I
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà người được bảo hiểm phải trả cho
người bảo hiểm để được bồi thường khi có tổn thất do các rủi ro đã được thoả
thuận gây nên.
Phí bảo hiểm thường được tính toán dựa trên cơ sở tỷ lệ phí bảo hiểm và
phụ thuộc vào số tiền bảo hiểm hoặc giá trị bảo hiểm và phải đảm bảo trang trải
tiền bồi thường và có lãi.
Công thức tính I: I = R . A (nếu A Khi xuất nhập khẩu theo điều kiện FOB hoặc CFR thì C + F I = R . CIF = R . 1 - R Nếu xuất nhập khẩu theo điều kiện CIF hay CIP thì: I = R . 110%CIF (hoặc CIP) [11] 1.1.6 Một số nguyên tắc áp dụng Nguyên tắc mua bảo hiểm trước Theo nguyên tắc này, người mua bảo hiểm phải thoả thuận với công ty bảo hiểm để mua bảo hiểm cho chuyến hàng với những điều kiện nhất định trước khi xảy ra tổn thất. Nguyên tắc này dựa trên cơ sở nguyên tắc bảo hiểm một sự 10 rủi ro chứ không bảo hiểm một sự chắc chắn, nghĩa là bảo hiểm một sự cố, tai hoạ bất ngờ, ngẫu nhiên nằm ngoài ý muốn của con người chứ không bảo hiểm cho những rủi ro chắc chắn, đương nhiên xảy ra. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối Nguyên tắc này chỉ ra các bên liên quan tới hợp đồng bảo hiểm phải tuyệt đối thành thật, tin tưởng lẫn nhau, không được lừa dối nhau. Nếu bên nào vi phạm nguyên tắc này thì hợp đồng coi như vô hiệu. Sự trung thực tuyệt đối thể hiện ở những yếu tố sau: - Người bảo hiểm phải công khai tuyên bố những điều kiện, nguyên tắc, thể lệ, giá cả bảo hiểm cho người được bảo hiểm biết; không nhận bảo hiểm khi biết chuyến hàng đã đến nơi an toàn. - Người được bảo hiểm phải khai báo chính xác tình trạng hàng hoá, phải thông báo kịp thời những thay đổi về đối tượng bảo hiểm, về những rủi ro, mối đe doạ nguy hiểm làm gia tăng thêm rủi ro… mà mình biết hoặc đáng lẽ phải biết; không được mua bảo hiểm cho hàng hoá khi biết hàng đã bị tổn thất. Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm Theo nguyên tắc này, người mua bảo hiểm nhất thiết phải có lợi ích bảo hiểm. Lợi ích bảo hiểm là lợi ích, quyền lợi liên quan đến, gắn liền với hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng bảo hiểm. Quyền lợi này có thể đã có hoặc sẽ có trong đối tượng bảo hiểm. Trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển thì lợi ích bảo hiểm không nhất thiết phải có khi ký kết hợp đồng bảo hiểm nhưng nhất thiết phải có khi xảy ra tổn thất. Nghĩa là khi đối tượng bảo hiểm gặp tổn thất thì người đó phải bị thiệt hại về tài chính. 11 Nguyên tắc bồi thường Nguyên tắc này chỉ ra khi đối tượng bảo hiểm bị tổn thất thì người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vị thế tài chính như trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn không kém. Các bên không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi. Nguyên tắc thế quyền Theo nguyên tắc này, người bảo hiểm, sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm đi đòi người thứ ba có trách nhiệm bồi thường cho mình. Khi đó, người được bảo hiểm phải cung cấp đầy đủ các giấy tờ, chứng từ… cần thiết cho người bảo hiểm. [14] 1.2 Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đƣờng biển 1.2.1 Khái niệm Rủi ro hàng hải là những tai nạn, tai hoạ, sự cố xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên hoặc những mối đe doạ nguy hiểm khi xảy ra thì gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm. Ví dụ như cháy, đắm tàu, hàng bị hư hỏng, chiến tranh, cướp biển, mất mát hàng hoá… Sự tồn tại của rủi ro chính là cơ sở để bảo hiểm tồn tại. Tuy nhiên, không phải mọi rủi ro đều được bảo hiểm mà rủi ro đó phải đáp ứng một số yêu cầu sau: Phải có khả năng xảy ra: đây là điều kiện quan trọng đầu tiên vì nếu rủi ro không xảy ra, không gây hư hại, tổn thất cho hàng hoá thì không cần bảo hiểm. Ví dụ như nếu hàng hoá là sắt thép thì không thể mua bảo hiểm cho hàng dễ vỡ như đối với mặt hàng là kính được. Phải có tính chất không xác định: tính không xác định thể hiện ở những 12 yếu tố như không xác định được rủi ro có xảy ra hay không, hoặc có thể xác định được khả năng xảy ra rủi ro nhưng lại không biết nó sẽ xảy ra vào thời điểm nào, hoặc có thể xác định được thời điểm xảy ra rủi ro nhưng lại không xác định được mức độ tổn thất mà hàng hoá gặp phải. Ví dụ như hao hụt về nhiên liệu của tàu chở hàng trong hành trình đi biển là yếu tố tất nhiên, không mang tính không xác định nên không được bảo hiểm. Phải có tính chất có thể xảy ra trong tương lai: nghĩa là khi ký kết hợp đồng bảo hiểm thì đối tượng bảo hiểm chưa gặp rủi ro. Nếu rủi ro đối với hàng hoá đã xảy ra hoặc rủi ro đã bị huỷ bỏ thì hợp đồng không còn hiệu lực. Phải có tính hợp pháp: công ty bảo hiểm sẽ không bồi thường cho những rủi ro không hợp pháp như buôn lậu, hành vi cố ý của thuyền trưởng hay thuyền viên gây thiệt hại hàng hoá. 1.2.2 Phân loại rủi ro Có rất nhiều loại rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển tuỳ thuộc vào mỗi cách phân chia. Sau đây là một số loại rủi ro chủ yếu: Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh - Thiên tai (Act of God): là những hiện tượng tự nhiên mà con người không chi phối được như biển động, bão tố, sóng thần, mưa đá, bùn trôi… Tuy nhiên để xác định các hiện tượng tự nhiên này có phải là thiên tai hay không cần phải dựa vào các tiêu chuẩn của các ngành chuyên môn khí tượng, thuỷ văn. - Tai hoạ của biển (Perils of the Sea): là những tai nạn xảy ra đối với tàu ở ngoài biển như đâm va, mắc cạn, cháy nổ, tàu bị mất tích… Các rủi ro này còn 13 được gọi là rủi ro chính. - Các tai nạn bất ngờ khác: là những tai hoạ ngẫu nhiên bên ngoài không thuộc những tai hoạ của biển nói trên. Tai nạn này có thể xảy ra trên biển, trên bộ, trên sông, trong quá trình vận chuyển, bốc dỡ… như hàng bị cong, bẹp, mất trộm… (được gọi là rủi ro phụ). - Rủi ro do các hiện tượng chính trị - xã hội hoặc do lỗi của người được bảo hiểm gây ra như rủi ro chiến tranh, đình công, khủng bố… - Rủi ro do bản chất hoặc tính chất đặc biệt của đối tượng bảo hiểm: như nội tỳ, ẩn tỳ hoặc những thiệt hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm trễ. Căn cứ vào khía cạnh bảo hiểm - Rủi ro thông thường được bảo hiểm: bao gồm cả rủi ro chính và rủi ro phụ, thường được bảo hiểm theo các điều kiện bảo hiểm A, B, C. Theo các điều kiện bảo hiểm hiện hành thì có 6 điều kiện bảo hiểm chính là FPA, WA, AR, A, B, C (ICC 1963, ICC 1982). Trong đó các rủi ro tàu bị mắc cạn, chìm đắm, đâm va và rủi ro cháy nổ là các rủi ro được bảo hiểm trong tất cả các điều kiện bảo hiểm hàng hoá. Các rủi ro vứt hàng xuống biển, tàu mất tích và rủi ro phụ chỉ được bảo hiểm trong các điều kiện bảo hiểm có phạm vi rộng nhất như AR, A. - Rủi ro phải bảo hiểm riêng: là những rủi ro mà muốn được bảo hiểm thì phải thoả thuận thêm, thoả thuận riêng chứ không được bồi thường theo các điều kiện bảo hiểm gốc A, B, C, bao gồm các rủi ro chiến tranh, đình công, khủng bố. - Rủi ro không được bảo hiểm: là những rủi ro mà trong mọi trường hợp người bảo hiểm không nhận bảo hiểm hoặc không được người bảo hiểm bồi thường trong mọi trường hợp như buôn lậu, nội tỳ/ẩn tỳ của hàng hoá, hao hụt tự nhiên. [14] 1.3 Tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đƣờng biển 14 1.3.1 Khái niệm Tổn thất là những thiệt hại, hư hỏng, mất mát của đối tượng bảo hiểm do rủi ro gây ra. Nếu rủi ro là mối đe dọa, là nguyên nhân gây ra tổn thất thì tổn thất chính là cái đã xảy ra rồi và là hậu quả của rủi ro. Ví dụ như hàng bị giông tố cuốn trôi mất một phần; hàng bị ngấm nước dẫn đến bị thối, mốc; hàng bị đổ vỡ, gỉ sét… Tổn thất chính là điều gây nhiều lo lắng, quan ngại đối với các thương nhân khi thực hiện các chuyến hàng chuyên chở bằng đường biển. Vì tổn thất có thể làm cho lợi nhuận của họ trong thương vụ làm ăn bị giảm thậm chí là mất trắng toàn bộ lô hàng đó. Và do vậy các nhà xuất nhập khẩu đã tìm đến bảo hiểm để nhằm giảm bớt thiệt hại khi có rủi ro xảy ra. 1.3.2 Phân loại tổn thất Cũng như rủi ro có rất nhiều loại khác nhau, tổn thất đối với hàng hoá chuyên chở bằng đường biển cũng đa dạng và phức tạp không kém. Có nhiều tiêu chí để phân loại các tổn thất, dưới đây là hai cách phân chia phổ biến nhất: Căn cứ vào mức độ của tổn thất: - Tổn thất bộ phận (Partial Loss): là một phần của đối tượng bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm bị hư hỏng, mất mát, thiệt hại vế số lượng, trọng lượng, phẩm chất, giá trị. Ví dụ như một lô hàng linh kiện điện điện tử có 50 kiện thì bị mất 5 kiện; lô hàng cùi dừa bị ẩm mốc mất một phần, cháy một phần… - Tổn thất toàn bộ (Total Loss): là toàn bộ đối tượng của hợp đồng bảo hiểm bị hư hỏng, thiệt hại, mất mát. Có hai loại: + Tổn thất toàn bộ thực tế: là toàn đối tượng bảo hiểm theo một hợp đồng bảo hiểm bị mất mát, hư hại hoặc bị biến chất, biến dạng không còn như lúc mới bảo hiểm nữa hay là bị mất đi, bị tước đoạt không lấy lại được nữa. Ví 15 dụ như tàu hàng bị mất tích, tàu chở cơm dừa bị đắm khiến cho hàng bị ẩm mốc, thối không thể sử dụng được nữa… Trong trường hợp này người bảo hiểm phải bồi thường toàn bộ số tiền bảo hiểm hoặc giá trị bảo hiểm. + Tổn thất toàn bộ ước tính: là tổn thất chưa đến mức tổn thất toàn bộ nhưng dù có dùng biện pháp và chi phí hợp lý vẫn không thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực tế, hoặc nếu có bỏ ra các chi phí để cứu giúp các hàng này thì các chi phí có thể lớn hơn giá trị hàng tại cảng đến. Trong trường hợp này nếu cứ tiếp tục hợp đồng thì đều không có lợi cho cả bên bảo hiểm và bên được bảo hiểm, vì chắc chắn là tổn thất toàn bộ thực tế sẽ xảy ra. Do đó, theo tập quán và các quy tắc thì người được bảo hiểm trong tình huống này có quyền từ bỏ hàng để được coi là tổn thất toàn bộ thực tế. Từ bỏ hàng là một hành động của người được bảo hiểm từ bỏ mọi quyền lợi liên quan đến hàng hoá cho người bảo hiểm trong trường hợp tổn thất toàn bộ ước tính để được bồi thường toàn bộ. Khi từ bỏ hàng, người bảo hiểm chấp nhận thì quyền sở hữu về hàng sẽ được chuyển sang cho người bảo hiểm và người bảo hiểm phải bồi thường như đối với hàng bị tổn thất toàn bộ thực tế. Căn cứ vào tính chất của tổn thất: - Tổn thất riêng (TTR): là tổn thất chỉ gây thiệt hại cho riêng quyền lợi của một vài chủ sở hữu đối với tài sản trong hành trình vận chuyển trên biển. Đó có thể là tổn thất bộ phận hay toàn bộ, có thế xảy ra ở bất kỳ đâu chứ không chỉ trên biển. - Tổn thất chung (TTC): là những hy sinh hay chi phí đặc biệt được tiến hành một cách cố ý và hợp lý nhằm cứu tàu, cước phí và hàng hoá trên tàu thoát khỏi một sự nguy hiểm chung, thực sự đối với chúng. Tổn thất được xem là tổn thất chung khi nó phát sinh từ hành động tổn 16 thất chung – hành động xảy ra vì an toàn chung của số đông quyền lợi có mặt trên tàu và nó chính là sự hi sinh quyền lợi của số ít nhằm cứu vãn những tài sản còn lại trong tai nạn. Một tổn thất chung có các đặc trưng như phải là hành động tự nguyện, hữu ý của thuyền viên, thuyền trưởng trên tàu; sự hy sinh phải là đặc biệt, phi thường; sự hy sinh hoặc chi phí phải hợp lý và vì an toàn chung cho tất cả các quyền lợi trong hành trình; tai hoạ phải thực sự xảy ra và nghiêm trọng; mất mát thiệt hại hoặc chi phí phải là hậu quả trực tiếp của hành động tổn thất chung; xảy ra ở trên biển… Tổn thất chung được chia làm hai bộ phận là hy sinh tổn thất chung và chi phí tổn thất chung. Hy sinh tổn thất chung: đó là sự hy sinh một phần tài sản để cứu những tài sản còn lại. Ví dụ như tàu bị mắc cạn phải vứt bớt hàng xuống biển để làm nhẹ tàu, tránh mắc cạn và phần hàng hoá bị vất xuống biển đó gọi là hy sinh tổn thất chung. Các dạng hy sinh tổn thất chung thường gặp bao gồm: tàu bị mắc cạn, hàng hoá bị cháy, bị cướp biển truy đuổi… Chi phí tổn thất chung: là những chi phí liên quan đến hành động tổn thất chung như chi phí hoa tiêu, chi phí bốc dỡ lưu kho hàng hoá, chi phí thuê tàu lai dắt… Vậy chi phí tổn thất chung là chi phí cho người thứ ba trong việc cứu tàu, hàng và cước phí thoát nạn hoặc chi phí làm tiếp tục hành trình. Khi xảy ra tổn thất chung thì việc phân bổ tổn thất chung là một công việc hết sức quan trọng nhằm xác định mức độ thiệt hại, bồi thường cho các bên đã thực hiện hành động cứu vãn hành trình đồng thời xác định trách nhiệm của các bên có hàng và quyền lợi được cứu. Phân bổ tổn thất chung có 5 Bước sau: Giá trị TTC = Hy sinh TTC + Chi phí TTC 17 + Bước 1: Xác định giá trị tổn thất chung + Bước 2: Xác định giá trị chịu phân bổ TTC: là giá trị của toàn bộ lô Cách 1 = Giá trị tàu và hàng khi rời bến – TTR của tài sản xảy ra trước TTC Cách 2 = Giá trị cứu được của tàu và hàng – Hy sinh TTC hàng và tàu tại thời điểm xảy ra TTC. Có 2 cách: Giá trị TTC x 100% = T Giá trị chịu phân bổ TTC + Bước 3: Xác định tỷ lệ phân bổ TTC x Tỷ lệ phân bổ TTC = Giá trị chịu phân bổ
TTC Số tiền đóng góp
TTC của từng bên + Bước 4: Số tiền đóng góp TTC của các bên + Bước 5: Xác định kết quả tài chính – – = Chi phí
TTC của
từng bên Đóng góp
TTC của
từng bên Hy sinh
TTC của
từng bên Kết quả tài
chính của các
bên [14] Hàng hoá xuất nhập khẩu chủ yếu là được chuyên chở bằng đường biển, lượng hàng cũng như giá trị của mỗi chuyến hàng thường là rất cao nên khi gặp rủi ro trong quá trình vận chuyển thì gây ra tổn thất và thiệt hại lớn đối với các bên có liên quan đến chuyến hàng đó (người nhập khẩu, người xuất khẩu, người bảo hiểm…). Vì vậy mua bảo hiểm là một biện pháp được sử dụng chủ yếu để giảm thiểu rủi ro và tổn thất. Qua thực tiễn của hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển, vai trò của nghiệp vụ này thể hiện ở một số khía cạnh sau: Góp phần bù đắp hậu quả do rủi ro gây ra, ổn định hoạt động sản 18 xuất kinh doanh của các bên Trong hành trình vận chuyển, chuyến hàng có thể gặp rủi ro, gây ra tổn thất cho hàng hoá (thiếu hụt, mất mát về số lượng; giảm phẩm chất; giảm giá trị thương mại của lô hàng…), do đó ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh, đặc biệt là lợi nhuận của các bên liên quan. Nếu đã mua bảo hiểm cho chuyến hàng bị tổn thất đó, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường theo hợp đồng, do vậy các bên có thể ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình một cách nhanh chóng. Bảo hiểm còn có tác dụng hạn chế, đề phòng tổn thất Trong quá trình giám định bồi thường, người bảo hiểm luôn thống kê, ghi chép lại những nguyên nhân, loại tổn thất và tìm ra các biện pháp phù hợp để phòng ngừa, hạn chế thiệt hại đối với từng loại hàng hoá. Do đó, công ty bảo hiểm có thể dự đoán và thông báo các rủi ro, thiên tai có thể gặp đối với một hành trình để các bên tham gia bảo hiểm biết và phòng tránh. Bên cạnh đó, người được bảo hiểm và người chuyên chở cũng phải nâng cao trách nhiệm của mình trong việc bảo quản, chăm sóc hàng hoá trong hành trình và khi xảy ra tổn thất để đảm bảo sẽ được công ty bảo hiểm bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm. Hai vai trò trên có thể nói là vai trò lớn nhất và quan trọng nhất của hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển. Bên cạnh đó dịch vụ kinh doanh bảo hiểm còn có một số vai trò khác như: Bảo hiểm có khả năng tập trung vốn và tiến hành đầu tư vào các lĩnh vực khác Doanh thu của nhà bảo hiểm chủ yếu là từ các khoản phí bảo hiểm và chi phí là số tiền để thực hiện bồi thường cho các tổn thất được bảo hiểm. Do có độ chênh về thời điểm thu phí bảo hiểm và thực hiện thanh toán bồi thường nên số 19 tiền mà công ty bảo hiểm thu được trở thành nguồn vốn nhàn rỗi trong thời gian đó và không phải tất cả các trường hợp mua bảo hiểm đều phải bồi thường nên nguồn vốn này được đem đầu tư vào các lĩnh vực khác. Góp phần tăng thu ngân sách nhà nước Thông qua số thuế mà công ty nộp vào Ngân sách Nhà nước dựa trên lợi nhuận hàng năm của công ty, bảo hiểm trong nước còn góp phần tăng thu, giảm chi ngoại tệ - hạn chế thâm hụt cán cân thanh toán quốc gia. II. GIÁM ĐỊNH TỔN THẤT HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN Trong bảo hiểm hàng hoá, sản phẩm của bảo hiểm hàng hoá là vô hình, mang tính trừu tượng, thể hiện là giấy chứng nhận bảo hiểm trong đó có ghi nhận sự cam kết bồi thường của nhà bảo hiểm khi có tổn thất phát sinh. Khi tổn thất xảy ra thì trách nhiệm của nhà bảo hiểm hay chính là “sản phẩm” của bảo hiểm mới thể hiện rõ thông qua nghiệp vụ giám định và bồi thường tổn thất hàng hoá. Đây là nghiệp vụ cơ bản và quan trọng nhất, thể hiện chất lượng “sản phẩm” của dịch vụ bảo hiểm của công ty bảo hiểm, khi đó người tham gia bảo hiểm mới cảm nhận rõ ràng được sản phẩm mà mình đã mua của công ty bảo hiểm. Công tác giám định giúp nhà bảo hiểm và các bên liên quan xác định rõ được mức độ, nguyên nhân tổn thất, đồng thời góp phần làm hạn chế tổn thất phát sinh. 2.1 Khái niệm và mục đích 2.1.1 Khái niệm Giám định tổn thất hàng hoá là công việc quan trọng trong bảo hiểm hàng 20 hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Giám định tổn thất hàng hoá là nghiệp vụ do chuyên viên giám định, người bảo hiểm hoặc công ty giám định do người bảo hiểm uỷ quyền nhằm đánh giá, phân tích, xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất, giảm giá trị thương mại của hàng hoá, lấy đó làm cơ sở cho việc tính toán, chi trả tiền bồi thường tổn thất. [14] Việc giám định được thực hiện khi hàng hoá bị hư hỏng, đổ vỡ, mất mát, giảm phẩm chất… khi đến cảng đến hoặc ở cảng dọc đường và do người được bảo hiểm yêu cầu. Còn đối với các tổn thất do đắm tàu, mất tích thì không cần và cũng không thể tiến hành giám định. Những người thực hiện giám định hàng hoá tổn thất trong vận chuyển bằng đường biển được gọi là các giám định viên hàng hải. Công việc của giám định viên hàng hải là ghi nhận một cách trung thực tình trạng của hàng hoá, đánh giá mức độ tổn thất, thiệt hại và tìm ra nguyên nhân chính xác gây ra tổn thất đó. Bên cạnh đó, giám định viên phải đề xuất các biện pháp thích hợp để bảo vệ đối tượng bảo hiểm, hạn chế tổn thất gia tăng và thông báo kịp thời tình hình cho người bảo hiểm và lập Biên bản giám định. Giám định viên cũng có vai trò hướng dẫn khách hàng làm các thủ tục để thực hiện việc khiếu nại đòi bồi thường. Kết quả của công tác giám định ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của các bên liên quan trong việc thực hiện bồi thường, do đó việc giám định đòi hỏi phải được thực hiện một cách khách quan, nghiêm túc, nhanh chóng. Để làm được điều đó, đội ngũ cán bộ giám định viên hàng hải phải có năng lực chuyên môn cũng như kinh nghiệm thực tiễn, phải trung thực, công minh, làm việc có trách nhiệm, và phải có sự hợp tác tích cực giữa các bên có liên quan. 21 2.1.2 Mục đích của công tác giám định Công tác giám định được thực hiện khi hàng hoá bị tổn thất nhằm các mục đích sau: Giám định tổn thất hàng hoá nhằm xác định và chứng nhận loại tổn thất, mức độ tổn thất, nguyên nhân và thời gian tổn thất xảy ra đồng thời hỗ trợ cho khiếu nại bảo hiểm. Ví dụ khi hàng đến cảng đến và phát hiện ra hàng bị ẩm, vón cục khi đó giám định viên cần tìm xem hàng bị ẩm là do nước biển tràn vào hay do hệ thống thông hơi trên tàu kém, xác định xem có bao nhiêu bao kiện bị ẩm, vón cục và giá trị thương mại của hàng bị tổn thất đó bị giảm bao nhiêu… Trong quá trình thực hiện giám định, giám định viên đề xuất các biện pháp nhằm hạn chế tổn thất gia tăng, tiến hành sửa chữa hàng hư hỏng và góp ý về thị trường mà hàng bị tổn thất loại đó có thể tiêu thụ vì họ là những người có nhiều kinh nghiệm trong việc này. Đánh giá xem các chi phí sửa chữa, khắc phục tổn thất có đúng mức và hợp lý không nhằm ngăn chặn trường hợp trục lợi bảo hiểm như: khai tăng giá trị tổn thất, hợp lý hoá ngày sự kiện bảo hiểm xảy ra để được bồi thường… Với những mục đích và vai trò trên có thể khẳng định một lần nữa là công tác giám định rất quan trọng trong hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển khi có tổn thất xảy ra. 2.2 Quy trình thực hiện giám định tổn thất hàng hoá Khi tổn thất xảy ra tại cảng đến hoặc bất kỳ cảng dọc đường nào thì người được bảo hiểm phải nhanh chóng gửi thông báo tình hình tổn thất tới công ty hoặc đại lý giải quyết khiếu nại của công ty bảo hiểm tại cảng đó. Đồng thời chuẩn bị mọi giấy tờ, chứng từ cần thiết, bản yêu cầu giám định gửi tới đại lý 22 giám định của cơ quan bảo hiểm ở đó để được giám định và đánh giá tổn thất đối với hàng hoá. Khi nhận được yêu cầu giám định của người được bảo hiểm, công việc của đại lý giám định tiến hành theo trình tự sau: 2.2.1 Chấp nhận yêu cầu giám định Sau khi nhận được yêu cầu giám định của người được bảo hiểm, cơ quan giám định phải tiến hành kiểm tra xem có chấp nhận yêu cầu giám định không căn cứ vào các yếu tố: - Thời gian hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm. - Hàng bị tổn thất có thuộc phạm vi của đối tượng bảo hiểm hay không. - Tổn thất là do rủi ro đã được bảo hiểm gây ra hay là rủi ro loại trừ. Nếu kiểm tra thấy không phù hợp phải thông báo ngay cho người được bảo hiểm để họ có biện pháp xử lý khác. Nếu đã phù hợp thì cần kiểm tra có đủ các giấy tờ, chứng từ theo quy định chưa, thông báo cho bên yêu cầu giám định bổ sung hồ sơ cho đầy đủ và thông báo là chấp nhận giám định, gửi giám định viên đến để giám định. 2.2.2 Tiến hành giám định Phương pháp giám định Căn cứ vào yêu cầu giám định, loại hàng hoá bị tổn thất, loại tổn thất… người bảo hiểm sẽ lựa chọn phương pháp nào phù hợp nhất. Trong thực tế thường có 3 phương pháp giám định sau: - Phương pháp giám định cảm quan: sử dụng các giác quan của con người để kiểm đếm, ngửi mùi vị, nhìn tình trạng hàng hoá bị hoen gỉ, lây bẩn, ngấm nước, mối mọt để đánh giá mức độ giảm giá trị sử dụng hoặc giá trị thương mại của hàng hoá. Yêu cầu giám định viên phải có kinh nghiệm lành 23 nghề. - Phương pháp giám định điều tra chọn mẫu: áp dụng toán xác suất thống kê bằng cách lấy một số ít hàng hoá có tính chất điển hình để xác định mức độ tổn thất và kết luận chung cho cả lô hàng. Thường sử dụng cho lô hàng có tổn thất đồng đều, khối lượng lớn và phải có sự thoả thuận nhất trí với người được bảo hiểm. - Phương pháp giám định đo lường tính toán: dùng máy móc, thiết bị đo lường để kiểm tra khối lượng và chất lượng của hàng hoá. Phương pháp này tốn kém và mất thời gian nhưng kết quả chính xác hơn. Tuỳ từng tổn thất mà áp dụng một hay kết hợp cả 3 phương pháp trên để có kết quả chính xác và nhanh chóng nhất. Chuẩn bị giám định Cơ quan giám định xác định thời gian, địa điểm và phương pháp giám định sao cho phù hợp nhất. Sau đó tiến hành cử giám định viên hàng hải, có thể mời thêm các chuyên gia, cơ quan giám định khác và các bên liên quan (chủ hàng, chủ tàu, hải quan…) tham gia giám định trên nguyên tắc giám định đối tịch. Trình tự thực hiện giám định Khi đến hiện trường nơi có hàng hoá bị tổn thất, giám định viên tiến hành như sau: - Giám định hiện trường nơi xảy ra tổn thất: xem hiện trường có giữ nguyên hay không, kiểm tra phương tiện vận chuyển, điều kiện hầm hàng, cách sắp xếp hàng hoá, trực tiếp tìm hiểu những người liên quan (chủ phương tiện, người áp tải, chủ hàng…). Hướng dẫn chủ hàng tiến hành các biện pháp để hạn 24 chế tổn thất và làm dự kháng khiếu nại với bên thứ 3 có trách nhiệm. - Giám định bên ngoài kiện hàng: kiểm tra tên hàng, ký mã hiệu trên bao bì xem có đúng, đủ theo quy định không; quy cách đóng gói bao bì, chất lượng bao bì có an toàn, phù hợp với hàng hoá và tính chất vận chuyển không. - Giám định bên trong hàng hoá: bao gồm giám định cách sắp xếp, chèn lót hàng hoá trong kiện hàng hay hầm hàng, tính chất hàng hoá và các dấu vết biểu hiện hàng hoá bị mất, mốc, mối mọt, vật lạ bên trong. - Xác định mức độ và phân loại tổn thất: căn cứ vào phương pháp giám định để xác định tổn thất về số lượng, khối lượng, phẩm chất, trang trí bên ngoài và bao bì, xác định mức độ giảm giá trị thương mại của hàng hoá. Phân loại xem tổn thất đó là tổn thất toàn bộ hay là bộ phận. Từ đó tìm biện pháp xử lý hàng tổn thất để tránh thiệt hại tiếp theo. Ngoài ra cần xác định các chi phí liên quan đến hàng hoá bị tổn thất như chi phí cứu vớt hàng, chỉnh lý, sửa chữa, đóng gói… - Xác định nguyên nhân gây ra tổn thất: xác định người chịu trách nhiệm gây ra tổn thất cho hàng hoá dựa trên các chứng cứ, thông tin thu được trong khi giám định. Các kết luận này không được vội vã đưa ra một cách thiếu cơ sở khoa học mà phải chỉ rõ là do ai gây ra để phân chia trách nhiệm cho chính xác. Ví dụ nếu hàng bị han gỉ thì có thể do một số nguyên nhân sau: do nước biển, nước mưa, nước ngọt, không khí ẩm, tàu bị hấp hơi, hàng hấp hơi… 2.2.3 Lập chứng thư giám định Khi tiến hành giám định xong, giám định viên tiến hành lập biên bản báo cáo lại quá trình giám định, kết quả giám định, biên bản đó được gọi là chứng thư giám định hay là biên bản giám định. Chứng thư giám định là báo cáo chi tiết của giám định viên về kết quả của việc giám định hàng tổn thất. Chứng thư giám định do công ty bảo hiểm hoặc đại lý uỷ quyền của công ty bảo hiểm lập dưới sự chứng kiến của các bên liên quan 25 tham gia giám định. Chứng thư giám định là một văn bản quan trọng theo đó trách nhiệm của các bên liên quan được xác định. Dựa vào đó, công ty bảo hiểm tiến hành bồi thường cho người được bảo hiểm và người được bảo hiểm lấy đó là căn cứ để thực hiện khiếu nại đòi bồi thường đối với công ty bảo hiểm. Nội dung của chứng thư giám định phải thể hiện tính trung thực, chính xác rõ ràng, súc tích, thực tế và được sắp xếp theo trình tự thời gian. Các kết luận trong chứng thư giám định phải cụ thể và có cơ sở khoa học và thường bao gồm các nội dung chủ yếu: - Thông tin về thời gian, địa điểm tiến hành giám định; các bên tham gia giám định. - Mô tả hàng hoá, phương tiện vận chuyển bị tổn thất khi đến nơi giám định; những diễn biến xảy ra trước và sau sự cố. - Những hồ sơ tài liệu, chứng cớ thu thập được trong khi giám định. - Mô tả tình trạng hàng hoá vào thời điểm giám định. - Kết luận về mức độ tổn thất và nguyên nhân tổn thất. - Một số nhận định, đề xuất với chuyến hàng tiếp theo hoặc về việc tiến hành đòi người thứ ba. Cần chú ý là biên bản giám định này cần phải được gửi tới cơ quan khiếu nại của công ty bảo hiểm để tiến hành đòi bồi thường trong thời hạn khiếu nại cùng với các giấy tờ, chứng từ khác. [18] III. BỒI THƯỜNG TỔN THẤT HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN 3.1 Khiếu nại đòi bồi thƣờng tổn thất Khi tổn thất xảy ra đối với hàng hoá trong hành trình vận chuyển, người được bảo hiểm phải nhanh chóng thông báo ngay cho đại lý giải quyết khiếu nại 26 nếu hư hỏng, mất mát đối với hàng hoá có thể được bồi thường. Sau khi đã có kết quả giám định, người bảo hiểm cần tiến hành khiếu nại để được bồi thường. Thông thường hồ sơ khiếu nại bao gồm các chứng từ, giấy tờ khác nhau tuỳ thuộc vào loại tổn thất và người được bảo hiểm phải chứng minh bằng văn bản các yếu tố sau: - Người khiếu nại có lợi ích bảo hiểm; - Hàng hoá hư hỏng hoặc mất mát đã được bảo hiểm; - Tổn thất thuộc một rủi ro đã được bảo hiểm; - Hư hỏng hoặc mất mát xảy ra trong thời hiệu của bảo hiểm; - Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm; - Mức độ tổn thất đối với hàng hoá; - Số tiền bồi thường; - Đảm bảo người bảo hiểm có thể đòi người thứ ba bồi thường. Các chứng từ có trong hồ sơ khiếu nại bao gồm: - Đơn bảo hiểm hoặc Giấy chứng nhận bảo hiểm; - Vận đơn đường biển bản gốc và Hợp đồng thuê tàu (nếu có); - Bản gốc hoặc bản sao Hoá đơn thương mại; - Hoá đơn về các chi phí khác (nếu có); - Giấy chứng nhận số lượng, trọng lượng; - Biên bản kết toán nhận hàng với tàu (ROROC); - Phiếu đóng gói (bản chính); - Kháng nghị hàng hải hoặc Nhật ký hàng hải; - Thư khiếu nại có ghi rõ số tiền yêu cầu bồi thường. Ngoài ra còn có thể có các giấy tờ sau: Biên bản giám định, Thư dự kháng, Biên bản dỡ hàng, Giấy chứng nhận hàng thiếu do đại lý tàu biển cấp, Văn bản tuyên bố tổn thất chung của Thuyền trưởng, Bản tính toán, phân bổ tổn 27 thất chung của Lý toán sư… Để khiếu nại có hiệu lực thì phải chú ý đến thời hạn khiếu nại (2 năm kể từ ngày có tổn thất hoặc phát hiện tổn thất); tuy nhiên bộ hồ sơ khiếu nại phải gửi đến cho Công ty bảo hiểm trong vòng 9 tháng để người bảo hiểm còn kịp thời khiếu nại các bên liên quan. [11] 3.2 Khái niệm, vai trò và nguyên tắc trong bồi thƣờng tổn thất 3.2.1 Khái niệm và vai trò của bồi thường tổn thất “Sản phẩm” cuối cùng của bảo hiểm chính là bồi thường, một công việc được tiến hành khi có tổn thất xảy ra đối với đối tượng được bảo hiểm. Do đó có thể hiểu bồi thường là sự đền bù chính xác về tài chính đủ để khôi phục tình trạng tài chính ban đầu của người được bảo hiểm như trước khi xảy ra tổn thất. Qua thực tế có thể thấy bồi thường có vai trò rất lớn đối với người được bảo hiểm, người bảo hiểm và cả đối với nền kinh tế nói chung. Đối với người được bảo hiểm: bồi thường góp phần giảm thiểu tổn thất mà họ gặp phải, nhanh chóng khôi phục lại tình hình tài chính giúp họ tiếp tục sản xuất kinh doanh và hoạt động. Có thể nhận thấy đây chính là mục đích chính của người được bảo hiểm khi tiến hành mua bảo hiểm. Đối với người bảo hiểm: bồi thường thể hiện chất lượng sản phẩm, dịch vụ của họ. Nếu họ thực hiện bồi thường đúng, đầy đủ và nhanh chóng thì góp phần nâng cao uy tín cho dịch vụ của họ, nói cách khác chính là cho công ty bảo hiểm. Đối với xã hội và nền kinh tế: bồi thường giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh, buôn bán không bị gián đoạn. 28 3.2.2 Nguyên tắc trong bồi thường tổn thất Việc thực hiện bồi thường hàng hoá của các công ty bảo hiểm thường tuân theo các nguyên tắc sau: Bồi thường bằng tiền, không bồi thường bằng hiện vật Đồng tiền bồi thường là đồng tiền được các bên thoả thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp không có thoả thuận thì nộp phí bảo hiểm bằng loại tiền tệ nào thì bồi thường bằng loại tiền đó. Trách nhiệm của người bảo hiểm chỉ giới hạn trong phạm vi số tiền bảo hiểm Tuy nhiên nếu số tiền bồi thường tổn thất cộng với các chi phí cứu hộ, chi phí đã bỏ ra để cứu vớt hàng hoá, chi phí đánh giá và bán lại hàng hoá, chi phí giám định thì dù có nhiều hơn số tiền bảo hiểm người bảo hiểm vẫn phải bồi thường. Khi thanh toán tiền bồi thường tổn thất chung, người bảo hiểm có thể khấu trừ những khoản thu nhập mà người được bảo hiểm đã đòi được ở người thứ ba Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng trong việc thanh toán tiền bồi thường tổn thất chung. Tránh hiện tượng trục lợi trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, người được bảo hiểm vừa được bên thứ ba bồi thường vừa được người bảo hiểm bồi thường. Ngoài ra, trong hợp đồng bảo hiểm hàng hoá còn có nguyên tắc bồi thường dựa trên “mức miễn thường”. Nghĩa là khi tổn thất xảy ra đạt và vượt mức miễn thường thì người bảo hiểm sẽ bồi thường. Nếu tổn thất nhỏ hơn mức miễn thường thì người tham gia bảo hiểm sẽ gánh chịu. Mức miễn thường gồm 29 có hai loại: - Miễn thường có khấu trừ: nếu tổn thất đạt và vượt mức miễn thường thì người bảo hiểm phải thanh toán. Số tiền bồi thường = Tổn thất thực tế - Mức miễn thường - Mức miễn thường không có khấu trừ: nếu tổn thất đạt mức miễn thường thì bảo hiểm sẽ bồi thường. Số tiền bồi thường = Tổn thất thực tế Tuỳ từng loại hàng hoá có mức miễn thường khác nhau phụ thuộc vào đặc tính và bản chất của hàng đó. Ví dụ: mức miễn thường có khấu trừ đối với phân bón xác định trọng lượng bằng phương pháp đo mớn nước là 0,3%. 3.3 Cách tính toán bồi thƣờng tổn thất Sau khi xác định được nguyên nhân, mức độ tổn thất và trách nhiệm thuộc về người bảo hiểm - mặt định tính – thì công việc tiếp theo của người bảo hiểm là xác định mức độ tổn thất và tính toán số tiền bồi thường của người bảo hiểm - mặt định lượng. Đây là công việc rất quan trọng có tính chất quyết định đến mức độ bù đắp của người bảo hiểm đối với tổn thất của hàng hoá được bảo hiểm. 3.3.1 Tổn thất bộ phận Tổn thất chung Cách tính toán phân bổ tổn thất chung đã được nêu ở phần trên và công việc này do Lý toán sư thực hiện. Do vậy, công ty bảo hiểm trong trường hợp này không cần tính toán lại mà chỉ cần xem xét và kiểm tra lại kết quả của Lý toán sư. Nếu không có gì trái ngược hoặc không hợp lý thì người bảo hiểm sẽ tiến hành bồi thường giá trị tổn thất chính là trị giá phải đóng góp của hàng hoá đã được cứu theo tính toán của Lý toán sư. 30 Tổn thất riêng - Trường hợp hàng hoá bị hỏng: Khi toàn bộ hay một phần hàng hoá được giao cho nơi nhận hàng trong Giá trị tổn thất = Giá trị phần hàng bị tổn thất x Tỷ lệ % tổn thất Giá trị thị trường hàng tốt – Giá trị thị trường hàng tổn thất = Tỷ lệ %
tổn thất Giá trị thị trường hàng tốt tình trạng bị tổn thất, giá trị phần hàng tổn thất được tính theo công thức: Giá trị thị trường hàng tốt là giá bán buôn tại cảng đến (đã bao gồm cả cước phí, giá trị hàng hoá, phí dỡ hàng, thuế nhập khẩu…); giá trị thị trường hàng tổn thất là giá ước tính hay thu nhập trên cùng một cơ sở như giá trị thị trường hàng tốt. Tỷ lệ giảm giá phải căn cứ vào giá trị thị trường hàng tốt và giá trị thị trường hàng tổn thất trên cùng một cơ sở, tại cùng một nơi, cùng một thời điểm và cùng một thị trường, đồng thời phải xem xét tới các phí tổn cần thiết đem lại trạng thái ban đầu như phí tổn để chế biến lại, chỉnh lý bao bì… Nếu không thoả thuận được sự giảm giá, có thể tiến hành bán đấu giá hàng tổn thất để xác định sự khác nhau giữa giá hàng tốt và giá hàng bị tổn thất. - Trường hợp một phần hàng hoá bị tổn thất toàn bộ: Giá trị hàng tổn thất Giá trị tổn thất = Giá trị bảo hiểm x Toàn bộ lô hàng Giá trị tổn thất là một phần của số tiền bảo hiểm ghi trong đơn bảo hiểm: - Trường hợp hàng hoá bị tổn thất được bán tại cảng dọc đường: Khi hàng hoá bị tổn thất và theo tính toán thì nếu cứ tiếp tục chở hàng tới cảng đích thì không kinh tế và có thể gây hại cho các hàng hoá khác, thuyền trưởng có thể cho bán hàng tại cảng dọc đường theo yêu cầu của giám định viên. Giá trị hàng tổn thất Giá trị tổn thất = Giá trị bảo hiểm x Toàn bộ lô hàng Số tiền
bán hàng
tổn thất - 31 Khi đó hàng được coi như là một phần hàng hoá bị tổn thất toàn bộ. 3.3.2 Tổn thất toàn bộ Đối với tổn thất toàn bộ thực tế Người bảo hiểm sẽ bồi thường toàn bộ số tiền bảo hiểm hoặc giá trị bảo hiểm (nếu mua bảo hiểm dưới giá trị). Đối với tổn thất toàn bộ ước tính Trường hợp 1: Nếu người được bảo hiểm có thông báo từ bỏ hàng và được người bảo hiểm chấp nhận thì sẽ được bồi thường như đối với tổn thất toàn bộ thực tế. Trường hợp 2: Nếu người được bảo hiểm không từ bỏ hàng hoặc từ bỏ nhưng người bảo hiểm không chấp nhận thì bồi thường như tổn thất bộ phận. 3.3.3 Các chi phí được bảo hiểm bồi thường Trong quá trình cứu vớt hàng tổn thất, hạn chế thiệt hại thì người được bảo hiểm có thể phải bỏ ra một số chi phí và chi phí đó có thể được bồi thường. Người giải quyết khiếu nại bồi thường phải bóc tách được các chi phí không được bồi thường với các chi phí được bồi thường. Những chi phí được bồi thường phải là hậu quả trực tiếp của một rủi ro được bảo hiểm, bao gồm các chi phí như: - Chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất; - Chi phí gửi hàng tiếp; - Chi phí tổn thất riêng; - Chi phí tổn thất chung; - Chi phí cứu hộ; 32 - Chi phí đặc biệt. Trong thực tiễn khi thực hiện bồi thường bảo hiểm còn xảy ra hiện tượng trục lợi bảo hiểm, đây là hành vi kiếm lời bất hợp pháp của các chủ thể tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm. Khi đó các bên tham gia hoạt động bảo hiểm thực hiện hành vi lừa dối để được hưởng quyền lợi tài chính mà lẽ ra mình không được hưởng hoặc hưởng lợi lớn hơn quyền lợi tài chính mà mình được hưởng. Người được bảo hiểm có thể cố ý gây tổn thất cho hàng hoá được bảo hiểm, mua bảo hiểm trùng hoặc khai tăng giá trị tổn thất, hoặc cấu kết với nhân viên bảo hiểm mua bảo hiểm cho hàng đã xảy ra tổn thất hay làm hồ sơ giả để được bồi thường…; hoặc nhân viên bảo hiểm cố tình trì hoãn trả tiền bồi thường, tổ chức trung gian, môi giới chiếm đoạt phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm… Các hành vi trục lợi bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển luôn là vấn đề đáng quan ngại, làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển lành mạnh, công bằng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm hay ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của bên tham gia bảo hiểm. Do đó, các bên liên quan, cả người bảo hiểm và người được bảo hiểm đều phải xem xét thận trọng liệu có hành vi trục lợi bảo hiểm khi thực hiện một hợp đồng bảo hiểm hàng hoá hay không. [18] Nội dung của Chương này đã đưa ra những khái niệm, định nghĩa và những nét tổng quát nhất về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển, và đặc biệt là tìm hiểu sâu hơn nghiệp vụ bồi thường hàng hoá bị tổn thất, một nghiệp vụ không thể thiếu của bảo hiểm, một nghiệp vụ thể hiện rõ nhất bản chất và là “sản phẩm” của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Cùng với nghiệp vụ bồi thường là nghiệp vụ giám định tổn thất hàng hoá, hoạt động hỗ trợ cho công tác bồi thường tổn thất trong việc tìm hiểu nguyên nhân, xác định mức độ tổn thất của hàng hoá được bảo hiểm. Những kiến thức đó đã được tổng hợp 33 lại và có thể coi là mô hình chung cho hoạt động bảo hiểm và nghiệp vụ bồi thường tổn thất hàng hoá trên thế giới. Trong thực tiễn, mỗi quốc gia, mỗi khu vực có những đặc điểm khác nhau về các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội, điều kiện tự nhiên, do đó hoạt động thực tế của nghiệp vụ bồi thường tổn thất 34 hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển cũng khác nhau. CHƢƠNG II: ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BỒI THƢỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 I. TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 1.1 Giới thiệu về Văn phòng công ty PJICO Hà Nội và các nghiệp vụ bảo hiểm đang triển khai 1.1.1 Giới thiệu Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex – PJICO được Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội cấp phép và thành lập ngày 15/06/1995 theo chính sách đổi mới kinh tế của Nhà nước. PJICO là Công ty cổ phần bảo hiểm đầu tiên tại thị trường Việt Nam do 7 cổ đông sáng lập đều là các tổ chức kinh tế lớn của Nhà nước có tiềm năng, uy tín cả trong và ngoài nước, bao gồm: Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE), Tổng công ty thép Việt Nam (VSC), Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ (MATEXIM), Công ty điện tử Hanel, Công ty thiết bị an toàn (AT) với vốn điều lệ là 55 tỷ đồng. Trong đó Tổng công ty xăng dầu Việt Nam là cổ đông lớn nhất chiếm cổ phần chi phối (51%). Trong quá trình phát triển, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng với sự nỗ lực của mình doanh thu của Công ty đã tăng mạnh từ năm 2003. Công ty đã tăng 35 dần vốn điều lệ qua các năm, từ 55 tỷ ban đầu tăng lên thành 70 tỷ đồng năm 2004, năm 2005 là 140 tỷ đồng, cuối năm 2007 vốn điều lệ là 336 tỷ đồng, năm 2008 vẫn đang nằm trong lộ trình tăng vốn điều lệ lên 500 tỷ đồng. [3] Trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, PJICO luôn là một trong số bốn công ty bảo hiểm hàng đầu (Bảo Việt, Bảo Minh, PVI và PJICO). Doanh thu từ hoạt động bảo hiểm năm 2008 của PJICO đạt 1.308 tỷ đồng, đứng sau Bảo Việt (3.783 tỷ đồng), PVI (2.668 tỷ đồng) và Bảo Minh (1.815 tỷ đồng). [21], [25] Dưới đây là cơ cấu tổ chức của Công ty: Sơ đồ 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của PJICO Đại hội đồng cổ đông Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Tổng giám đốc Phó tổng Giám đốc Phó tổng Giám đốc Phó tổng Giám đốc Phòng ban khác Các phòng nghiệp
vụ bảo hiểm Các chi nhánh Các Văn phòng
đại diện Các Tổng đại lý
& Đại lý Nguồn: www.pjico.com.vn Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và tiến hành các hoạt động đầu tư khác. Cho đến nay, 36 PJICO có 50 Chi nhánh và hơn 4.500 Đại lý trên phạm vi cả nước với Trụ sở chính đặt tại Hà Nội (Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội). Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội có các phòng ban chính như Phòng bảo hiểm hàng hoá, Phòng đào tạo, Phòng tài sản, Phòng tái bảo hiểm, Phòng đầu tư, Phòng kế toán, Phòng công nghệ thông tin, Phòng bảo hiểm phi hàng hải… Sau 15 năm phát triển, PJICO không ngừng lớn mạnh, tạo dựng niềm tin cho khách hàng trong nước và cả khách hàng nước ngoài. 1.1.2 Các nghiệp vụ bảo hiểm chủ yếu đang triển khai tại Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự xuất hiện nhu cầu bảo hiểm ở nhiều lĩnh vực khác nhau ngày càng gia tăng làm cho các sản phẩm bảo hiểm hiện nay rất đa dạng. Hiện Văn phòng PJICO Hà Nội đang triển khai thực hiện trên 80 sản phẩm bảo hiểm và chiếm lĩnh thị trường trên nhiều lĩnh vực như: xây dựng và lắp đặt công trình, xăng dầu, hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm con người và bảo hiểm tàu thuỷ. Trong số đó các sản phẩm bảo hiểm chính của PJICO bao gồm: Bảo hiểm xe cơ giới, Bảo hiểm hàng hoá, Bảo hiểm tài sản và trách nhiệm, Bảo hiểm tàu thuỷ, Bảo hiểm trách nhiệm, Bảo hiểm con người. Không chỉ giới hạn trong các nghiệp vụ bảo hiểm trên, cũng giống phần lớn các công ty bảo hiểm khác, PJICO còn thực hiện tái bảo hiểm và các hoạt động đầu tư khác. Bảng số liệu sau sẽ thể hiện rõ ràng doanh thu tăng lên qua các năm và tỷ lệ các nghiệp vụ bảo hiểm tại PJICO trong giai đoạn 2006 37 – 2008. Bảng 1: Doanh thu các nghiệp vụ bảo hiểm tại PJICO giai đoạn 2006 – 2008 Đơn vị: tỷ đồng 280 41,9 463 52,2 507 47,7 82 12,3 90 10,2 137 12,9 84 12,6 101 11,4 130 12,2 67 10,0 80 9,0 101 9,5 BH tài sản & trách 69 10,3 75 8,5 93 8,8 nhiệm 84 12,6 74 8,4 91 8,6 2 0,3 2 0,2 3 0,3 Tổng 668 100,0 885 100,0 1.062 100,0 Nguồn: Báo cáo thường niên của PJICO Bảo hiểm xe cơ giới Nghiệp vụ bảo hiểm này chiếm tỷ trọng doanh thu lớn nhất trong số các nghiệp vụ bảo hiểm tại Công ty trong những năm qua (năm 2008 chiếm 47,7%). Bảo hiểm xe cơ giới bao gồm các loại như Bảo hiểm bắt buộc/tự nguyện TNDS chủ xe cơ giới, Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá trên xe, Bảo hiểm vật chất xe… Đối tượng tham gia là mọi chủ xe tham gia trên đường giao thông. Trên thị trường bảo hiểm xe cơ giới Việt Nam, PJICO đứng thứ 3 sau Bảo Việt, Bảo Minh về thị phần; trong đó có bảo hiểm mô tô, xe máy dẫn 38 đầu thị trường với thị phần lên tới 30%. Bảo hiểm hàng hoá Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá của Công ty bao gồm Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu và Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển nội địa. Đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ này là các loại hàng hoá được vận chuyển trên các phương tiện vận tải như tàu biển, thuyền, ô tô, tàu hoả, máy bay… cả trong và ngoài nước. Công ty tiến hành bồi thường cho các rủi ro, tổn thất gây ra bởi cháy nổ, đâm va, mắc cạn, bão lụt, đường hầm bị sập đổ… và các chi phí hợp lý liên quan như hy sinh tổn thất chung, chi phí cứu hộ, chi phí ngăn ngừa tổn thất chung… Nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hoá XNK thường chiếm tỷ lệ chủ yếu trong nghiệp vụ này (chiếm tới trên 90% doanh thu Bảo hiểm hàng hoá). Trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, thị phần nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hoá của Công ty đứng thứ ba (chiếm 13%), và tỷ lệ bồi thường khá thấp, chỉ khoảng 11%. Bảo hiểm thân tàu và P&I Đối tượng bảo hiểm của sản phẩm bảo hiểm này bao gồm cấu trúc nổi có hoặc không có động cơ, chuyên dùng để hoạt động trên biển, sông hồ và các vùng nước có liên quan, trách nhiệm dân sự của chủ tàu, người quản lý tàu…. Công ty bảo hiểm cho các hư hỏng về vỏ tàu, máy móc, trang thiết bị của tàu do những hiểm hoạ không lường trước được như đắm, mất tích, đâm va, những ốm đau của thuyền viên… Loại hình bảo hiểm này có doanh thu đứng thứ ba trong số các nghiệp vụ bảo hiểm đang triển khai tại PJICO. Trong những năm gần đây doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm này tăng vì: Hội P&I tăng phí, số lượng đội tàu và trọng tải tàu tăng mạnh, các đội tàu đánh giá lại giá trị làm tăng thêm giá trị của tàu tham gia bảo hiểm… song tổng phí bảo hiểm chỉ tăng nhẹ là do các công ty bảo hiểm hạ tỷ lệ phí bảo hiểm để cạnh tranh giành dịch vụ. 39 Bảo hiểm con người Bên cạnh các sản phẩm truyền thống, PJICO đưa ra các sản phẩm bảo hiểm mới như Bảo hiểm y tế chất lượng cao, Bảo hiểm tai nạn cho người vay tín dụng… Năm 2007 Công ty tập trung mạnh vào bảo hiểm sinh viên của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, giáo viên (đối tượng có tỷ lệ bồi thường tương đối thấp). PJICO đứng thứ ba trong thị trường bảo hiểm con người (thị phần 7,2%). Tuy nhiên, trong thời gian qua các sản phẩm bảo hiểm con người mới của Công ty chưa mang lại tăng trưởng đột biến về doanh thu, chưa tương xứng với tiềm năng tăng trưởng, đặc biệt một số sản phẩm bảo hiểm bắt buộc theo luật (Bảo hiểm người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế, Bảo hiểm tai nạn vận chuyển hành khách trên đường thuỷ nội địa) chưa được triển khai mạnh mẽ. Bảo hiểm tài sản & trách nhiệm, kỹ thuật, bảo hiểm hỗn hợp khác Loại hình bảo hiểm này bao gồm các sản phẩm: Bảo hiểm mọi rủi ro tài sản, Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt (cần thiết cho các hầm mỏ, nhà máy sản xuất điện, cơ sở sản xuất vật liệu nổ…), Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp (dành cho các cá nhân làm công tác luật sư, bác sĩ, tư vấn…), Bảo hiểm tiền (trong két và vận chuyển)… Nghiệp vụ này có thị phần đứng thứ tư trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. [6], [26] Trên đây là những nét khái quát nhất về một số nghiệp vụ bảo hiểm chính của Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội. Trong đó, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tuy không chiếm tỷ trọng doanh thu lớn nhất trong số các nghiệp vụ nhưng tiềm năng phát triển, tăng trưởng trong tương lai là rất lớn không 40 những đối với toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam mà đặc biệt là đối với PJICO. 1.2 Tình hình kinh doanh dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đƣờng biển giai đoạn 2006 – 2008 Toàn bộ hệ thống PJICO trong cả nước đều áp dụng Bộ Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hoá chuyên chở bằng đường biển do Công ty soạn thảo dựa trên Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hoá của ICC 1982 (điều kiện bảo hiểm A, B, C). Đây là một chuẩn mực chung của Công ty, vừa thống nhất với các điều kiện bảo hiểm quốc tế vừa phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội – chính trị tại Việt Nam. Các loại hàng hoá thường mua bảo hiểm tại PJICO bao gồm: xăng dầu, hoá chất, gas, nhựa đường, phân bón, thức ăn gia súc, sắt thép, máy móc thiết bị, hàng may mặc, các loại hàng xá… Đáng chú ý là bảo hiểm hàng xá mới được triển khai áp dụng lại sau một thời gian Công ty không tiến hành bảo hiểm cho loại hàng này. Nguyên nhân là do năm 2006 tình hình bảo hiểm cho loại hàng xá luôn bị lỗ nên PJICO quyết định không bán bảo hiểm cho mặt hàng này. Tuy nhiên, đây lại là mặt hàng trọng điểm có doanh thu cao, nên quý III năm 2007 Công ty đã quay lại khai thác mặt hàng này nhờ công tác kiểm soát, quản lý rủi ro chung đối với hàng xá của toàn thị trường được cải thiện đáng kể. Nhìn chung các mặt hàng mua bảo hiểm tại Công ty có giá trị không cao, và chủ yếu là các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam (như hàng nông sản, hàng hoá mới qua sơ chế, mặt hàng may mặc, thủ công mỹ nghệ, nguyên vật liệu…) nên giá trị bảo hiểm của một hợp đồng thường không cao. Theo báo cáo của Công ty, giá trị bảo hiểm của các lô hàng mua bảo hiểm tại Công ty cũng rất đa dạng, giá trị nhỏ nhất của một đơn bảo hiểm là 30.000 USD, nhưng cũng có bảo hiểm cho một lô hàng lớn có giá trị lên tới khoảng 110 triệu USD. Các hợp đồng bảo hiểm cho hàng nhập 41 khẩu tại PJICO còn hạn chế là do thói quen bán hàng của Việt Nam là mua CIF (nhà xuất khẩu nước ngoài giành được quyền mua bảo hiểm cho hợp đồng ngoại thương), bán FOB (nhà xuất khẩu Việt Nam không có nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hàng hoá theo hợp đồng), điều đó làm giảm một lượng lớn doanh thu từ hoạt động bảo hiểm khi mà Việt Nam luôn nhập siêu và giá trị hàng nhập lớn. Các khách hàng chính của Công ty bao gồm Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (Cổ đông lớn nhất của Công ty), Công ty Cổ phần Hoá dầu Petrolimex, Tổng công ty thép Việt Nam, Tổng công ty Chăn nuôi Việt Nam, Công ty Liên doanh Thép Vina Kyoei, Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoà Phát, Công ty Cổ phần Tập đoàn Phú Thái… trong đó có một số là Cổ đông của PJICO. Chính vì vậy mà mảng sắt thép, xăng dầu được coi là thế mạnh của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá tại PJICO nhờ tận dụng được lợi thế của các cổ đông lớn. Và thị trường chính của Công ty trong công tác khai thác bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển có Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương – những đầu mối giao thương lớn và quan trọng tại Việt Nam. Bảng số liệu sau đây thể hiện hoạt động bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển tại PJICO trong giai đoạn 2006 – 2008: Bảng 2: Tình hình kinh doanh bảo hiểm hàng hoá XNK tại PJICO giai đoạn 2006 – 2008 STT Chỉ tiêu Đơn vị 2006 2007 2008 1. Doanh thu Tỷ đồng 78,34 82,50 130,35 2. Số tiền bồi thường Tỷ đồng 17,04 8,02 14,12 3. Lợi nhuận trước thuế Tỷ đồng 10,38 17,01 24,9 4. Số lượng đơn BH đã cấp Đơn 2.425 2.752 3.351 42 Nguồn: Phòng Bảo hiểm hàng hoá PJICO Hà Nội Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển chiếm tỷ trọng rất lớn trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá nói chung tại PJICO (thường chiếm tới hơn 90% doanh thu của cả nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá). Qua bảng số liệu có thể thấy số lượng đơn bảo hiểm của PJICO tăng dần qua các năm, đặc biệt là năm 2008 tăng lên 21,76% so với năm 2007 tương đương với 599 hợp đồng bảo hiểm. Do đó doanh thu từ hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cũng tăng lên tương ứng: năm 2008 tăng 58% so với năm 2007, trong khi đó năm 2007 chỉ tăng 5,3% so với 2006. Có sự gia tăng mạnh như vậy là do hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng mạnh và một phần cũng là do trong năm 2008 giá cả các mặt hàng nguyên liệu (xăng, dầu…) và các mặt hàng thiết yếu khác tăng đột biến so với mức giá cả trung bình trong năm 2006, 2007 nên phí bảo hiểm cũng trên đà tăng theo. Tỷ lệ bồi thường của Công ty trong nghiệp vụ này là khá thấp so với các nghiệp vụ khác trong Công ty, thường dao động ở mức 10% trong năm 2007 và 2008, riêng năm 2006 tỷ lệ này là khá cao (lên tới 21,75%) do số lượng đơn bảo hiểm là không nhiều trong khi số vụ bồi thường lại cao hơn hai năm còn lại. Trong năm 2008, số vụ bồi thường chênh lệch với năm 2007 chỉ là 01 vụ nhưng số tiền bồi thường lại chênh lệch lên tới 6,1 tỷ đồng, điều này chứng tỏ giá trị bảo hiểm của các lô hàng theo đơn bảo hiểm đã tăng lên và cũng thể hiện rằng hậu quả của rủi ro, thiệt hại là tăng lên đáng kể. Lợi nhuận trước thuế của nghiệp vụ này tăng đều qua các năm, năm 2008 đạt 24,9 tỷ đồng, tăng 46,38% so với năm 2007 và năm 2007 tăng 63,87% so với 2006. Tỷ trọng của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của Công ty thường xếp thứ hai trong tổng doanh thu các nghiệp vụ bảo hiểm: năm 2006 tỷ trọng này là 11,43%, năm 2007 chiếm 9,32% và năm 2008 tỷ lệ này là 12,27%. 43 Năm 2007, tỷ lệ giảm là do doanh thu các nghiệp vụ bảo hiểm khác tăng đáng kể trong khi tốc độ tăng trưởng doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá chậm hơn. PJICO luôn là một trong 4 doanh nghiệp hàng đầu thị trường bảo hiểm Việt Nam về bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển, như năm 2007 PJICO đạt doanh thu đứng thứ 3 trên toàn thị trường, trong đó dẫn đầu là Bảo Việt với doanh thu đạt được là 194,26 tỷ đồng, tiếp theo là Bảo Minh đạt 130,7 tỷ đồng và tiếp đến là PJICO có doanh thu là 83,7 tỷ đồng. Trong những năm qua, doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK tại PJICO tăng mạnh theo xu thế của thị trường (năm 2008 doanh thu bảo hiểm này của toàn thị trường tăng 38% so với năm 2007). Nhìn chung, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK của Công ty đang có những bước tiến lớn vững chắc qua từng năm, đóng góp vào mục tiêu phát triển của Công ty trong tương lai. II. CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 2.1 Hoạt động bồi thƣờng bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đƣờng biển giai đoạn 2006 – 2008 Mạng lưới chi nhánh của PJICO bao phủ trên toàn quốc nên việc giải quyết khiếu nại bồi thường được thực hiện một cách nhanh chóng và kịp thời. Đồng thời công tác bồi thường của Công ty được thực hiện thống nhất theo Quy trình chung về Giám định và Bồi thường do Công ty soạn thảo. Riêng với công tác giám định tổn thất hàng hoá, trong trường hợp người được bảo hiểm có yêu cầu thuê giám định ngoài thì Công ty sẽ hợp tác với các công ty giám định đã được phê duyệt (Công ty Cổ phần Giám định Đại Minh Việt, Công ty Cổ phần Giám định FCC…), PJICO cũng luôn theo dõi sát sao quá trình giám định này để 44 kịp thời xử lý khiếu nại bồi thường. Mức phí giám định giữa PJICO và các công ty giám định này tuỳ theo biểu phí giám định thoả thuận giữa các bên, thường vào khoảng 10-20% phí bảo hiểm. Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hoá XNK, doanh thu của công ty bảo hiểm đến từ các nguồn như là phí bảo hiểm gốc, phí nhận tái bảo hiểm còn chi phí mà công ty phải bỏ ra bao gồm số tiền bồi thường, phí nhượng tái bảo hiểm và các chi phí khác. Thông thường tỷ lệ bồi thường sẽ quyết định phần lớn tới lợi nhuận của nghiệp vụ bảo hiểm này của Công ty. Doanh thu và lợi nhuận của nghiệp vụ bảo hiểm này của Công ty thể hiện qua bảng sau: Bảng 3: Tình hình bồi thƣờng bảo hiểm hàng hoá XNK tại PJICO giai đoạn 2006 – 2008 STT Chỉ tiêu Đơn vị 2006 2007 2008 Số lượng đơn BH đã 1. Đơn 2.425 2.752 3.351 cấp 2. Doanh thu Tỷ đồng 78,34 82,50 130,35 3. Số vụ bồi thường Vụ 116 101 102 4. Số tiền bồi thường Tỷ đồng 17,04 8,02 14,12 % 5. Tỷ lệ bồi thường 21,75 9,72 10,83 6. Các chi phí khác Tỷ đồng 50,09 57,47 91,33 7. Lợi nhuận trước thuế Tỷ đồng 10,38 17,01 24,9 Nguồn: Phòng bảo hiểm Hàng hoá tại Văn phòng PJICO Hà Nội Hoạt động bồi thường của PJICO thực hiện khá tốt trong thời gian qua. Số 45 tiền bồi thường (STBT) của Công ty nhỏ nhất đã từng trả cho khách hàng là 150.000 đồng, và STBT tổn thất lớn nhất mà PJICO đã trả là 34 tỷ do tàu chở 5.000 MT phôi thép bị tổn thất toàn bộ, còn mức bồi thường trung bình tại Công ty đã giảm dần qua các năm. Năm 2006, STBT trung bình là 146,89 triệu đồng, năm 2007 con số này giảm xuống còn 79,4 triệu đồng, giảm gần một nửa so với năm 2006; tuy nhiên năm 2008 STBT trung bình lại tăng lên 138,43 triệu đồng. Sự tăng giảm đó thể hiện phần nào công tác phòng ngừa, hạn chế tổn thất của Công ty đã hoạt động hiệu quả, đồng thời phản ánh tình mức độ rủi ro, tổn thất trong năm 2008 là tăng lên đáng kể. Theo Bảng 3, số vụ bồi thường chiếm tỷ lệ khá thấp trong tổng số đơn bảo hiểm được ký kết với Công ty: năm 2006 số vụ bồi thường là 116/2.425 đơn bảo hiểm (4,78%), năm 2007 tỷ lệ này giảm xuống còn 101/2.752 đơn bảo hiểm (3,67%), và năm 2008 là 102/3.351 đơn bảo hiểm (3,04%). Vậy tỷ lệ vụ việc bồi thường đã giảm qua các năm. Xét về mặt giá trị, số tiền bồi thường của Công ty trong năm 2006 cao nhất (17,04 tỷ đồng) là do số vụ bồi thường cũng cao nhất, năm 2007 số tiền mà Công ty phải bồi thường đã giảm xuống còn 8,02 tỷ đồng, năm 2008 lại tăng lên là 14,12 tỷ đồng do giá trị của đơn bảo hiểm đã tăng mức độ thiệt hại đối với một chuyến hàng là rất lớn. Tuy nhiên, nhìn chung tỷ lệ bồi thường của PJICO trong thời gian qua là khá thấp so với toàn thị trường và so với cả các nghiệp vụ bảo hiểm khác, thường chỉ khoảng 10% tổng doanh thu trong khi tỷ lệ của các nghiệp vụ khác có thể lên tới trên 50%, hoặc trung bình ở mức là 30% và tỷ lệ bồi thường chung của toàn thị trường dao động quanh mức 20%. Hoạt động bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển tại PJICO được đánh giá là có hiệu quả nhất vì tỷ lệ bồi thường thấp, năm 2007 là 9,72% trong khi tỷ lệ đó tại Bảo Minh lên tới 45,4%, tại PVI là 33,83%. Các mặt hàng thường gặp tổn thất, thiệt hại mà Công ty phải thực hiện bồi 46 thường như các mặt hàng xá (khô đậu tương), sắt thép, thức ăn cho gia súc… Năm 2008 Công ty đã tiến hành bồi thường một số mặt hàng như trường hợp bồi thường cho Công ty thép Vinakyoei chuyến hàng chở phôi thép (30/03/2008) có giá trị bảo hiểm là 7.868.677,88 USD với số tiền bồi thường là 316.041.037 VNĐ (tương đương gần 19.154 USD) do nguyên nhân là tàu giao hàng thiếu; Công ty cũng đã bồi thường cho Công ty Cổ phần hoá dầu Petrolimex số tiền là 175.956.521 VNĐ (khoảng 9.117 USD) trên giá trị bảo hiểm là 2.743.063,76 USD (11/06/2008), hay như vụ bồi thường cho Tổng công ty Chăn nuôi Việt Nam (hàng khô dầu đậu nành) 99.453.672 VNĐ… Các con số này thể hiện mặt hàng sắt thép, xăng dầu vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong doanh thu cũng như bồi thường của Công ty. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK tại PJICO đã được triển khai rất tốt trong thời gian qua, luôn đảm bảo được tỷ lệ bồi thường tổn thất ở mức thấp một phần là nhờ vào công tác giám định và bồi thường tại PJICO. 2.2 Quy trình giám định tổn thất của Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội Nhằm thực hiện tốt và theo một quy trình chuẩn trong toàn bộ Công ty, PJICO đã thống nhất soạn thảo “Quy trình giám định bảo hiểm hàng hoá QT.26.2” được áp dụng chung trong toàn bộ hệ thống từ 06/2007. Quy trình này áp dụng cho cả hàng vận chuyển nội địa và hàng hoá xuất nhập khẩu. Nội dung 47 thực hiện quy trình giám định tại PJICO như sau: Sơ đồ 2: Quy trình Giám định tổn thất hàng hoá tại PJICO Nhận yêu cầu giám định Báo cáo lãnh đạo nếu có
tổn thất lớn, báo TBH Xử lý thông tin ban đầu Tiến hành giám định Thuê giám
định ngoài ĐVKT, ĐVGĐ Lập biên bản giám định GĐV Thoả thuận & theo dõi
khắc phục hậu quả ĐVKT, GĐV
ĐVKT/TGĐ/
NĐUQ, GĐV Cấp Báo cáo giám định,
thu phí giám định ĐVGĐ, ĐVKT/
NĐUQ/TGĐ Lưu trữ hồ sơ GĐV, NYC,
ĐVKT ĐVGĐ, ĐVKT Nguồn: Quy trình Giám định tổn thất hàng hoá QT.26.2 của PJICO Bước1: Nhận yêu cầu giám định/thông tin tổn thất từ người được bảo hiểm (NĐBH)/khách hàng - Khi nhận được thông tin tổn thất từ NĐBH/khách hàng, ĐVKT cần gửi ngay cho ĐVGĐ Giấy đề nghị thu xếp giám định hàng hoá, báo ngay cho cấp trên nếu tổn thất lớn và phức tạp và vào Sổ thống kê giám định tổn thất hàng 48 hoá. - Nếu các vụ việc phát sinh ngoài giờ làm việc/vào ngày nghỉ/ngày lễ thì chấp nhận yêu cầu giám định qua điện thoại nhưng ĐVKT cần phải có văn bản yêu cầu chính thức gửi tới ĐVGĐ vào ngày làm việc tiếp theo. Trong đơn bảo hiểm của PJICO đã có điều khoản quy định rõ là nếu tổn thất ước tính dưới 200 USD và có các giấy tờ xác nhận tình trạng tổn thất của người chuyên chở hoặc người thứ ba gây tổn thất thì không phải yêu cầu giám định mà có thể yêu cầu Công ty bồi thường luôn. Bước 2: Xử lý thông tin ban đầu Nếu cần phải chỉ định ĐVGĐ độc lập trong nước thì chỉ định các công ty giám định độc lập có tên trong danh sách đã được Công ty phê duyệt (như Công ty CP Giám định FCC, Công ty CP Giám định hàng hoá XNK Châu Á…); nếu chỉ định ĐVGĐ ở nước ngoài thì chỉ định các công ty có tên trong danh bạ đại lý của Lloyd’s (tham khảo tại http://agents.lloydsagency.com/agentdirectory.aspx). Tuy nhiên hiện nay PJICO có xu hướng thuê giám định độc lập trong tất cả các trường hợp yêu cầu giám định vì sẽ đảm bảo tính khách quan và tận dụng được trình độ chuyên môn của các công ty chuyên về giám định. Bước 3: Tiến hành giám định - Công tác chuẩn bị: Trên cơ sở các thông tin về tổn thất được cung cấp, GĐV phải tự chuẩn bị đầy đủ những vấn đề liên quan đến tổn thất như kiến thức về rủi ro hoặc tổn thất, các dụng cụ cần thiết… - Khi tiến hành giám định, GĐV cần kiểm tra tính chính xác, phù hợp về mặt giấy tờ của đối tượng bảo hiểm; ghi nhận chính xác thời gian, địa điểm, diễn biến, mức độ thiệt hại và nguyên nhân gây ra tổn thất; liên lạc với đơn vị cấp 49 trên để thông báo tình hình và xin ý kiến chỉ đạo về các bước xử lý tiếp theo; - Xác định tình trạng tổn thất: GĐV phải tiến hành kiểm tra từ bên ngoài kiện hàng, container rồi mới kiểm tra tình trạng bên trong container, kiện hàng để phát hiện tổn thất và nguyên nhân tổn thất một cách cẩn thận. - Xác định mức độ tổn thất: GĐV phải + Nếu có điều kiện, cần xác định mức độ tổn thất cho hàng hoá theo từng nguyên nhân khác nhau để xác định tổn thất chung và tổn thất riêng hoặc người chịu trách nhiệm hợp lý; đồng thời xác định các chi phí cứu chữa, sửa chữa, chỉnh lý hàng hợp lý để ghi vào biên bản (nếu có); + Khi tổn thất lớn hoặc dạng đặc biệt cần lấy mẫu và phân tích theo các chỉ tiêu kỹ thuật của hàng nguyên chất (có thể thuê cơ quan chuyên môn); đối với các lô hàng lớn bị tổn thất nặng không có khả năng giám định toàn bộ lô hàng thì có thể giám định mẫu một bộ phận lô hàng (tối thiểu 10%); + Nếu thiếu số lượng: nêu rõ kích cỡ, thứ loại hàng thiếu hụt hư hỏng so với phiếu đóng gói, xem xét khả năng đóng gói thiếu hoặc nhầm từ kiện này sang kiện khác… + Nếu thiếu trọng lượng: xem xét khả năng dò chảy, vương vãi không thu hồi lại được, hao hụt tự nhiên, độ ẩm, tạp chất, chú ý kiểm tra cả bao bì và cân sử dụng để tính đúng trọng lượng hàng thiếu hụt; + Hàng bị hư hỏng: xác định số lượng, trọng lượng từng loại hàng hỏng theo từng mức độ, xét khả năng sử dụng của từng loại theo từng mức độ hư hỏng để xác định mức độ tổn thất hợp lý; với mặt hàng là máy móc thiết bị cần xem xét tới ảnh hưởng của độ bền và công suất. - Xác định nguyên nhân gây ra tổn thất: nguyên nhân phải được nêu rõ ràng, chính xác, phù hợp với tổn thất thực tế và nêu chính xác thời gian, địa điểm xảy ra tổn thất. Do đó, GĐV phải xác định chính xác nguyên nhân và là người 50 chịu trách nhiệm về tổn thất đó. GĐV cần căn cứ trên các cơ sở sau để xác định nguyên nhân gây tổn thất: tính chất và đặc điểm bao bì, hàng hoá; đặc điểm và tình trạng phương tiện; hành trình; dạng tổn thất; tình trạng bốc dỡ, lưu kho, chuyển tải; tình hình giao nhận của các bên liên quan; ảnh chụp hiện trường và các tài liệu liên quan khác. Bước 4: Lập biên bản giám định hiện trường Kết thúc quá trình thực hiện giám định tại hiện trường, GĐV lập Biên bản giám định hiện trường, Biên bản giám định có chữ ký của đại diện các bên tham gia giám định. Bước 5: Thoả thuận và theo dõi khắc phục hậu quả - Nếu không thống nhất giá trị thiệt hại cần tiến hành bán đấu giá tổn thất để xác định mức độ giảm giá trị thương mại hàng tổn thất được chính xác. - GĐV đề xuất các biện pháp bảo quản và đề phòng hạn chế tổn thất, sửa chữa, khắc phục, thay thế hoặc cứu vớt hàng hoá bị tổn thất. Bước 6: Báo cáo giám định hàng tổn thất và cấp Báo cáo giám định, thu phí giám định - ĐVGĐ cấp Báo cáo giám định cho NYC theo số lượng yêu cầu (cấp bằng cả tiếng nước ngoài nếu có yêu cầu). Nếu không có yêu cầu cụ thể thì cấp 02 bản gốc tiếng Việt, trong đó 01 bản cấp cho NYC, 01 bản lưu tại ĐVGĐ. - Phí giám định: ĐVKT có trách nhiệm thu đòi phí giám định từ NĐBH/ khách hàng; PJICO báo nợ đơn vị yêu cầu nếu PJICO yêu cầu giám định. Bước 7: Công ty giám định độc lập tiến hành giám định NĐPC phải theo dõi tiến độ và đánh giá việc thực hiện giám định của 51 công ty giám định thuê ngoài căn cứ vào sự tinh thông nghiệp vụ và mẫn cán của GĐV, thời gian hoàn thành… Nếu có vấn đề phát sinh cần giải quyết, NĐPC phải báo cáo Trưởng ĐVGĐ để có phương hướng xử lý. Sau khi thực hiện xong việc giám định, một bộ hồ sơ giám định được lập bao gồm: Giấy yêu cầu giám định, Các chứng từ liên quan đến lô hàng (B/L, Invoice, Packing List…), thông báo tổn thất và các công văn trao đổi giữa các bên liên quan, Báo cáo giám định của PJICO hoặc của công ty giám định thuê ngoài. Bộ hồ sơ này phải được đánh số trang theo thứ tự tài liệu và phải được lưu trữ trong vòng 10 năm tại ĐVGĐ và các phòng liên quan. 2.3 Quy trình thực hiện bồi thƣờng tổn thất hàng hoá của Công ty Cũng giống như giám định, công tác bồi thường tổn thất hàng hoá của Công ty cũng được chuẩn hoá thành “Quy trình bồi thường bảo hiểm hàng hoá” áp dụng trong toàn bộ hệ thống PJICO. Quy trình bồi thường tổn thất thể hiện 52 trong sơ đồ sau: Sơ đồ 3: Quy trình bồi thƣờng tổn thất hàng hoá tại PJICO Trách nhiệm Tiến trình Tiếp nhận hồ sơ BT Bồi thường viên
(BTV) Bổ sung Kiểm tra và hoàn
thiện hồ sơ BTV BTV Tính toán BT Trình duyệt BT BTV/NĐPC/Trưởng ĐVBT,
GĐ đơn vị, TGĐ/NĐUQ/Các
phòng liên quan Tái bảo
hiểm BTV/ĐVBT/Phòng kế
toán (Phòng Tài chính –
Kế toán công ty – PKT) Xác báo/ Thông báo
BT/ Thanh toán tiền
BT BTV/ĐV BT/ Phòng tài
sản/Các phòng liên quan Đòi người thứ 3, xử
lý tài sản hư hỏng
(nếu có) Lưu trữ hồ sơ BT BTV Nguồn: Quy trình bồi thường bảo hiểm hàng hoá QT.26.3 của PJICO Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại từ khách hàng BTV/NĐPC tiếp nhận hồ sơ và vào Sổ thống kê bồi thường hàng hoá, sắp xếp theo thứ tự ưu tiên giải quyết trên cơ sở sắp hết hạn khiếu nại người thứ ba, 53 tổn thất lớn phức tạp, thiếu các chứng từ cần yêu cầu bổ sung. Bước 2: Kiểm tra và hoàn thiện hồ sơ - BTV/NĐPC: + Căn cứ vào loại hình tham gia bảo hiểm, quy tắc bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm, kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ đính kèm hồ sơ. Nếu chưa có đủ chứng từ theo yêu cầu, hướng dẫn khách hàng bổ sung cho đầy đủ. + Đề nghị PKT xác định tình trạng nộp phí bảo hiểm của đơn bảo hiểm, đồng thời liên hệ với các ĐVKT để thu thập các văn bản thoả thuận giữa PJICO và khách hàng về việc nộp phí. - Trường hợp hồ sơ bồi thường do trên phân cấp: + Đơn vị kiểm tra hồ sơ, tính toán bồi thường và làm tờ trình gửi Công ty đề xuất số tiền bồi thường; + Nếu TGĐ/NĐUQ Công ty đồng ý duyệt bồi thường, Công ty sẽ có công văn gửi đơn vị thông báo cho khách hàng; nếu còn vướng mắc, Công ty sẽ yêu cầu đơn vị làm việc tiếp với khách hàng để hoàn thiện bộ hồ sơ. - Trường hợp đồng bảo hiểm: Nếu PJICO không phải là người bảo hiểm chính thì không phải thực hiện các bước trên, Công ty căn cứ vào tỷ lệ đồng bảo hiểm để tính toán STBT. Nếu PJICO là người bảo hiểm chính thì thực hiện như trên. Bước 3: Tính toán bồi thường - BTV/NĐPC căn cứ vào STBH, thời điểm thanh toán phí bảo hiểm, quyền lợi bảo hiểm, thời hiệu khiếu nại của hợp đồng bảo hiểm để xem xét tổn thất đó có được bảo hiểm hay không. - Sau khi xác định được tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường 54 bảo hiểm, BTV dựa trên cơ sở tổn thất hoặc ước tính, so sánh STBH và GTBH để xác định đúng STBT sau khi đã trừ đi những phần không thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Tổng STBH x Lượng hàng bị tổn thất STBT = Tổng lượng hàng được bảo hiểm + Nếu giá trị của từng đơn vị hàng bằng nhau: Tổng STBH x Trị giá hoá đơn của lượng hàng tổn thất STBT = Tổng giá trị hoá đơn + Nếu giá trị của từng đơn vị hàng khác nhau: - Đối với tổn thất chất lượng (rò rỉ, đổ vỡ, hư hỏng…) có ba cách tính toán STBT: + Giảm giá trị thương mại: BTV tính số tiền khiếu nại bằng cách nhân STBH của hàng hoá bị tổn thất với tỷ lệ phần trăm giảm giá trị thương mại. + Tổn thất trừ phần cứu vớt: STBT = STBH của hàng hoá bị tổn thất – Số tiền bán hàng tổn thất cứu vớt được + Thoả thuận bồi thường tổn thất riêng: áp dụng trong trường hợp khách S.M.V – D.M.V STBH x STBT
= S.M.V hàng không chấp nhận tỷ lệ giảm giá trị thương mại. Trong đó: S.M.V (Sound Market Value) – Giá trị hàng tốt và D.M.V (Damage Market Value) – Giá trị hàng tổn thất trên thị trường tại nơi đến. + Sửa chữa máy móc thiết bị: nếu không có giá chi tiết phụ tùng thì bồi 55 thường theo giá sửa chữa hoặc chi tiết tương tự của hợp đồng khác. - Đối với tổn thất về chi phí: ngoài tổn thất hàng do các rủi ro được bảo hiểm gây nên, PJICO cũng bồi thường cho các chi phí như Chi phí đề phòng, hạn chế tổn thất (chi phí đóng gói, thay bao bì, cứu hàng…) nhưng tổng phí không được vượt quá STBH; Chi phí riêng (chi phí dỡ hàng, bảo quản và sắp xếp hàng tại cảng lánh nạn); Đóng góp tổn thất chung; Chi phí cứu hộ và các chi phí khác. - Đối với đóng góp tổn thất chung: phải kiểm tra xem việc tính toán, phân bổ có đúng và phù hợp không, nếu chưa đúng hoặc có ý kiến khác thì trao đổi lại với nhà phân bổ để điều chỉnh lại. - Tạm ứng bồi thường: nếu xác định tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm, nhưng hồ sơ đang trong quá trình giải quyết (như thiếu chứng từ) thì có thể tạm ứng bồi thường một phần tổn thất (nếu có yêu cầu) nhưng tối đa không quá 50% giá trị tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Bước 4: Trình duyệt bồi thường - BTV/NĐPC làm tờ trình duyệt bồi thường trong đó phân tích nguyên nhân tổn thất, phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm và cách tính STBT, nêu rõ lý do chấp nhận bồi thường hoặc từ chối, lý do tăng giảm số tiền bồi thường so với số tiền khách hàng đòi, đòi người thứ ba… - Trưởng ĐVBT: xem xét, ký tờ trình, trình GĐ đơn vị/TGĐ/NĐUQ xem xét; đối với các vụ phức tạp có thể đề xuất chuyển qua lấy ý kiến của các Phòng có liên quan. Nếu có ý kiến trái ngược thì cần phải xem xét lại để có ý kiến thống nhất trước khi trình GĐ đơn vị/TGĐ/NĐUQ. - Trưởng các phòng liên quan xem xét và có ý kiến bằng văn bản. - GĐ đơn vị/TGĐ/NĐUQ xem xét, phê duyệt hoặc có ý kiến khác. 56 Bước 5: Bồi thường thương mại Trong một số trường hợp tổn thất không thuộc trách nhiệm bảo hiểm nhưng NĐBH/khách hàng là khách hàng lớn, có tiềm năng thì ĐVKT và ĐVBT cần kết hợp để trình GĐ đơn vị/TGĐ/NĐUQ giải quyết bồi thường thương mại để làm tốt công tác khai thác và nâng cao uy tín PJICO. ĐVKT cần làm tờ trình nêu rõ các lý do cần thiết phải giải quyết bồi thường thương mại. Bước 6: Xác báo bồi thường - Sau khi trình GĐ đơn vị/TGĐ/NĐUQ đồng ý duyệt bồi thường, nếu số tiền chấp nhận bồi thường thấp hơn số tiền khách hàng yêu cầu, BTV/NĐPC cần làm công văn thông báo cho khách hàng về việc giải quyết hồ sơ khiếu nại. - Nếu khách hàng đồng ý, BTV/NĐPC đề nghị họ xác nhận bằng văn bản. - Nếu không đồng ý, BTV/NĐPC tiếp tục giải thích, đề nghị cung cấp bổ sung bằng chứng, trình GĐ đơn vị/TGĐ/NĐUQ xem xét cho đến khi đạt được thoả thuận với khách hàng về việc bồi thường. Bước 7: Thông báo bồi thường - BTV/NĐPC gửi cho khách hàng bản thông báo bồi thường kèm theo Biên nhận và Thế quyền đòi bồi thường để khách hàng ký, đóng dấu phục vụ cho công tác đòi người thứ ba nếu hội đủ hai điều kiện: số tiền chấp nhận bồi thường lớn hơn 1.000 USD, và người gây tổn thất đã được xác định rõ ràng. - BTV/NĐPC gửi PKT một bản kèm theo bản thanh toán bồi thường để làm thủ tục chuyển tiền; gửi Phòng Tái bảo hiểm một bản đề làm thủ tục đòi các nhà tái bảo hiểm; gửi ĐVKT một bản để biết kết quả giải quyết khiếu nại phục vụ cho công tác khai thác và gửi thông báo bồi thường cho các công ty đồng bảo hiểm khác nếu PJICO là người bảo hiểm chính. 57 Bước 8: Thanh toán bồi thường - Sau khi nhận được bộ hồ sơ bồi thường từ ĐVBT, PKT phải kiểm tra lại các chứng từ, nếu phát hiện vấn đề không phù hợp, trong vòng 01 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ bồi thường, PKT phải có văn bản đề nghị ĐVBT/ĐVKT giải thích và/hoặc trình GĐ đơn vị/TGĐ/NĐUQ xem xét, chỉ đạo. - Nếu không có ý kiến gì thì STBT sẽ được chuyển cho khách hàng trong vòng 03 ngày. Bước 9: Đòi bồi thường người thứ ba, xử lý tài sản bị hư hỏng - BTV/NĐPC làm thủ tục thế quyền từ người được bảo hiểm, lập hồ sơ đòi người thứ ba và theo dõi giải quyết tiếp. - Việc xử lý tài sản hư hỏng sau khi bồi thường cho khách hàng theo quy định của PJICO và pháp luật liên quan. Bước 10: Lưu trữ hồ sơ bồi thường Sau khi hoàn tất công tác bồi thường, các hồ sơ bồi thường cần được lưu trữ, phân loại thích hợp để dễ quản lý và được lưu trữ trong 10 năm. Hai quy trình Giám định và Bồi thường nêu trên của PJICO khá rõ ràng, mạch lạc cho cán bộ giám định - bồi thường cũng như khách hàng hiểu được cách thức tiến hành giải quyết khiếu nại bồi thường khi có tổn thất xảy ra đối với hàng hoá XNK đã được bảo hiểm tại Công ty. Tuy nhiên quá trình thực hiện trong thực tế so với lý thuyết có thể có những khác biệt vì những điều kiện khác tác động tới quá trình giám định – bồi thường của Công ty, đó có thể là những yếu tố khách quan hoặc yếu tố chủ quan. Phần tiếp theo sẽ đánh giá chi tiết hơn 58 công tác bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK tại Công ty trong thời gian qua. III. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006 – 2008 3.1 Các nhân tố khách quan tác động đến công tác bồi thƣờng tại Công ty Công tác bồi thường của bất cứ công ty bảo hiểm nào cũng chịu tác động của những yếu tố khách quan, cả thuận lợi và khó khăn. Hơn thế nữa khi toàn cầu hoá diễn ra trên diện rộng thì tác động đó không chỉ là các nhân tố trong nước mà còn có cả các yếu tố nước ngoài. 3.1.1 Các yếu tố thuận lợi Kinh nghiệm về bảo hiểm hàng hoá XNK được tích luỹ lâu dài Ngành bảo hiểm hàng hải nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển có lịch sử lâu đời nhất trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Do đó kinh nghiệm về rủi ro, tổn thất và cách thức bồi thường được tích luỹ nhiều hơn, đa dạng hơn. Có thể nói đây là một thuận lợi cho công tác bồi thường của PJICO vì dựa vào những bài học về bồi thường tổn thất của các công ty bảo hiểm khác trên thế giới (được tổng hợp thành sách hay là được truyền miệng) mà PJICO có thể dự đoán trước về những trường hợp bồi thường có khả năng xảy ra, cách thức bồi thường sao cho phù hợp và các nguy cơ trục lợi có thể xảy ra. Nhờ đó hiệu quả của hoạt động bồi thường tăng lên đáng kể. Toàn cầu hoá giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường Bên cạnh đó, khi mà toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và đặc biệt là Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào đầu năm 2007 đã tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty có quan hệ hợp tác kinh doanh với các công ty, đại lý bảo 59 hiểm - giám định có mạng lưới kinh doanh rộng khắp, có kinh nghiệm dày dạn và có uy tín trên thế giới như của Lloyd’s. Công ty có thể thực hiện tái bảo hiểm dễ dàng hơn tại các công ty khác nhằm tránh rủi ro trong trường hợp có tổn thất lớn xảy ra, góp phần làm giảm số tiền thực chi bồi thường của Công ty. Bên cạnh đó, khi tổn thất xảy ra thì sự sẵn có các đại lý giám định bảo hiểm tại nhiều cảng, nhiều khu vực trên thế giới giúp cho công tác giám định được triển khai nhanh hơn, làm giảm tổn thất và giúp người được bảo hiểm nhanh chóng lập được bộ hồ sơ khiếu nại đòi bồi thường, do vậy Công ty cũng dễ dàng giải quyết bồi thường hơn. Đồng thời sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường bảo hiểm Việt Nam là một động lực thúc đẩy Công ty tiến hành đổi mới, nâng cao chất lượng công tác bồi thường để giữ được khách hàng và thu hút thêm nhiều khách hàng mới. Khoa học kỹ thuật phát triển Một yếu tố thuận lợi khác là sự phát triển của khoa học kỹ thuật góp phần cải thiện cơ sở vật chất của các công ty bảo hiểm nói chung và của PJICO nói riêng. Máy móc được trang bị hiện đại hơn tạo điều kiện cho việc giám định tổn thất chính xác, nhanh chóng hơn; phương tiện truyền thông hiện đại và được kết nối toàn cầu giúp cho Công ty nắm bắt nhanh chóng tình hình hình tổn thất, trao đổi thông tin trong việc báo tổn thất giữa các bên dễ dàng, thuận tiện, việc tìm kiếm thông tin về khách hàng và về người chuyên chở (xem khách hàng có đáng tin cậy hay không nhằm tránh trường hợp trục lợi bảo hiểm, tiềm năng mua bảo hiểm của họ trong tương lai thế nào để xem xét có tiến hành bồi thường thương mại hay không; theo dõi được hành trình của chuyến hàng…) cũng dễ dàng hơn; việc lưu trữ thông tin, phân loại về bồi thường của Công ty được cải thiện. Dựa 60 vào đó việc đánh giá bồi thường cho tổn thất nào, chấp nhận những chi phí nào được bồi thường có cơ sở chắc chắn và việc bồi thường được thực hiện có hiệu quả hơn tại Công ty. Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao Nguồn nhân lực về giám định, bồi thường có kinh nghiệm, được đào tạo bài bản hơn và ngày càng dồi dào hơn trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, được tiếp xúc với môi trường làm việc chuyên nghiệp hơn. Do đó, trình độ chuyên môn của các cán bộ giám định, cán bộ bồi thường của PJICO cũng được cải thiện đáng kể, nhất là có cơ hội tuyển dụng được những nhân viên có năng lực do tính cạnh tranh trong thị trường lao động ngày càng cao, những người có trình độ, năng lực thực sự mới có cơ hội có việc làm tốt. Hệ thống quy định pháp lý đầy đủ và hợp lý hơn Các quy định pháp lý về bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển đã được quy định cụ thể, rõ ràng và đầy đủ hơn trong Luật kinh doanh bảo hiểm 2000, Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 và các thông tư, nghị định khác và nhất là các văn bản đó đã khá tương thích với hệ thống pháp luật về bảo hiểm trên thế giới. Việc đó giúp cho hoạt động bồi thường của Công ty được tiến hành dễ dàng hơn và phù hợp với các tiêu chuẩn và cách tính toán bồi thường của thế giới, tạo dựng niềm tin cho khách hàng trong nước và quốc tế. 3.1.2 Các yếu tố khó khăn Bên cạnh những yếu tố thuận lợi nêu trên, Công ty cũng phải đối mặt với những điều kiện gây khó khăn cho công tác bồi thường tổn thất hàng hoá XNK 61 chuyên chở bằng đường biển tại Công ty. Rủi ro gây ra tổn thất ngày càng cao Các rủi ro gây ra tổn thất ngày càng phức tạp và gây ra hậu quả to lớn cho các chuyến hàng được vận chuyển bằng đường biển như mưa bão, sóng thần, các cuộc chiến tranh tại các cảng dọc đường và nhất là hiện tượng cướp biển hiện nay hoành hành dữ dội hơn, khiến cho nhiều tàu chở hàng bị bắt giữ, do đó người bảo hiểm sẽ phải bồi thường rất lớn nếu có điều khoản bảo hiểm đó trong hợp đồng. Đây là những yếu tố khách quan mà các công ty bảo hiểm nói chung và PJICO nói riêng khó có thể can thiệp nên tỷ lệ bồi thường gia tăng, làm giảm doanh thu hoạt động bảo hiểm. Sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các công ty bảo hiểm Môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong lĩnh vực bảo hiểm, đôi khi đó là sự cạnh tranh không lành mạnh như giảm phí bảo hiểm hay mở rộng phạm vi bảo hiểm cho những trường hợp có rủi ro cao. Điều đó khiến cho PJICO cũng phải tham gia vào cuộc cạnh tranh để giữ thị trường dẫn đến nguy cơ giảm doanh thu, mà số tiền bồi thường còn có nguy cơ tăng cao và làm giảm hiệu quả kinh doanh của mình. Với những nhân tố khách quan này, hoạt động bồi thường tổn thất hàng hoá tại PJICO bị ảnh hưởng ít nhiều. Tuy nhiên, xét trên phương diện tổng thể thì có thể thấy là các yếu tố thuận lợi nhiều hơn các nhân tố khó khăn nên công tác bồi thường tại PJICO ngày càng tốt hơn nhờ các yếu tố ngoại lực này. 3.2 Những điểm mạnh và điểm yếu trong công tác bồi thƣờng bảo hiểm hàng hoá tại Công ty trong giai đoạn 2006 – 2008 Bồi thường tổn thất là một trong các tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của một công ty bảo hiểm, và cũng là tiêu chí để khách hàng, 62 người tham gia bảo hiểm đánh giá chất lượng dịch vụ và uy tín của công ty đó. Các yếu tố tác động đến hiệu quả công tác bồi thường bên cạnh các yếu tố khách quan kể trên còn có các yếu tố chủ quan, phát sinh từ chính trong nội bộ Công ty như trình độ chuyên môn của cán bộ nhân viên, trang thiết bị làm việc… Và những điểm mạnh cũng như các hạn chế trong công tác bồi thường tại PJICO trong giai đoạn 2006 – 2008 cũng xuất phát từ các nguyên nhân này. 3.2.1 Những điểm mạnh Nhìn một cách tổng quát thì việc thực hiện bồi thường tổn thất hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển tại PJICO trong giai đoạn 2006 – 2008 đã được thực hiện khá tốt và đáp ứng được mục tiêu của Công ty và phát huy vai trò của nghiệp vụ bồi thường bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung (bù đắp một phần tổn thất cho khách hàng/người được bảo hiểm, tích luỹ vốn, khắc phục hậu quả của rủi ro cho khách hàng…). Nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao Nguồn nhân lực của Công ty chuyên về nghiệp vụ giám định – bồi thường ngày càng được cải thiện về trình độ chuyên môn và đảm bảo tinh thần trách nhiệm làm việc nghiêm túc trong khi giải quyết bồi thường cho các vụ việc. Phần lớn là những người có trình độ học vấn đại học và trên đại học, lại thường được tham gia vào các khoá học nâng cao kiến thức, các hội thảo về bảo hiểm hàng hoá (như Hội nghị CEO phi nhân thọ lần thứ VI được tổ chức vào ngày 15/09/2008) và có nhiều kinh nghiệm trong việc giám định và tính toán bồi thường tổn thất. Đồng thời các nhân viên giám định, nhân viên bồi thường đều nắm rõ các quy tắc, quy trình thực hiện giám định và bồi thường cũng như các 63 điều kiện bảo hiểm nên việc giám định, bồi thường được thực hiện nhanh chóng và theo đúng trình tự nên việc phát hiện ra sai sót trong khâu nào của quy trình cũng dễ dàng phát hiện hiện tượng trục lợi bảo hiểm (như vụ trục lợi bảo hiểm của Công ty Việt Thái Phong năm 2002). Khi tính toán số tiền bồi thường, nhân viên bồi thường của Công ty tính toán kỹ lưỡng, cẩn thận nhưng cũng đảm bảo thực hiện kịp thời để bồi thường hoặc thông báo từ chối bồi thường cho bên yêu cầu bồi thường. Do đó, với chất lượng nhân viên được nâng cao thì khách hàng cũng thêm tin tưởng và đánh giá cao chất lượng dịch vụ của PJICO. Có quy trình bồi thường chuẩn được áp dụng thống nhất Cách tính toán số tiền bồi thường tuân theo các công thức tính toán số tiền bồi thường trong hoạt động bảo hiểm (tuỳ trường hợp là tổn thất chung hay riêng, tổn thất toàn bộ hay bộ phận…) và các chi phí hợp lý khác phát sinh theo thoả thuận và theo tập quán chung giúp Công ty đảm bảo tính minh bạch trong công việc tính toán bồi thường của mình và các bên có thể dễ dàng kiểm tra lại. Việc thực hiện bồi thường của PJICO cho các trường hợp tổn thất đều tuân thủ theo các nguyên tắc bồi thường trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói chung như thanh toán tiền bồi thường bằng tiền không bằng hiện vật, trách nhiệm của người bảo hiểm chỉ nằm trong phạm vi số tiền bảo hiểm, Công ty có quyền đòi bên thứ ba hoặc khấu trừ luôn vào số tiền bồi thường nhằm tránh được trục lợi từ bảo hiểm trùng của người được bảo hiểm và cũng giúp cho Công ty thu hồi/giảm bớt phần nào số tiền bồi thường phải trả cho khách hàng nên tăng lợi nhuận. Quy trình thủ tục đơn giản, linh hoạt Thủ tục giấy tờ về yêu cầu bồi thường và quy trình thực hiện bồi thường được PJICO tiêu chuẩn hoá và thay đổi cho phù hợp với từng thời kỳ. Khi hàng 64 hoá đã mua bảo hiểm tại PJICO mà xảy ra tổn thất thì người bảo hiểm phải lập một bộ hồ sơ khiếu nại đòi bồi thường gửi tới PJICO hoặc các đại lý của PJICO. Tuỳ từng trường hợp mà giấy tờ trong hồ sơ là khác nhau nên khách hàng có thể gặp khó khăn trong việc thu thập đủ tài liệu, chứng từ theo quy định thì khi đó nhân viên bồi thường của Công ty sẽ nhanh chóng thông báo và hướng dẫn khách hàng bổ sung thêm tài liệu giúp cho việc giải quyết bồi thường được thực hiện nhanh hơn và đúng theo quy định (quy định là trong 1 ngày phải hoàn thiện hồ sơ khiếu nại đòi bồi thường). Đồng thời các quy trình giám định – bồi thường cũng được chuẩn hoá trong Công ty nên việc thực hiện sẽ thống nhất, nếu có sai sót ở khâu nào thì sẽ dễ dàng phát hiện và xử lý (được ban hành mới vào năm 2007 và tiếp tục áp dụng cho tới nay). Đối với khách hàng của PJICO, điểm mạnh này giúp cho khách hàng nhanh chóng được bồi thường, khắc phục hậu quả tổn thất và nắm rõ được quy trình thực hiện của Công ty xem có sai sót gì không. Đáng chú ý là trong việc thực hiện bồi thường của Công ty còn có quy định về bồi thường thương mại – bồi thường cho những tổn thất không lớn, không thuộc phạm vi bảo hiểm để giữ khách hàng tiềm năng cho Công ty – là điểm tiến bộ trong quy định của Công ty. Công ty đã tiến hành bồi thường thương mại cho một số công ty lớn, có hiệu quả nhưng theo quy định của Bộ Tài chính thì khoản này không được tính vào chi phí bồi thường hợp lý nên trong năm 2008 khoản chi bồi thường của Công ty không còn bao gồm khoản này. Mạng lưới hoạt động rộng khắp Hệ thống chi nhánh rộng khắp cả nước giúp cho việc tiến hành giám định thuận tiện hơn, hỗ trợ cho việc tính toán và ra quyết định bồi thường hay không một cách nhanh nhất. Hơn nữa, với những tổn thất nhỏ dưới 200 USD thì khách hàng không phải yêu cầu giám định mà có thể làm hồ sơ yêu cầu bồi thường 65 luôn, điều này giúp cho khách hàng nhận được khoản tiền bồi thường sớm và cả hai bên đều giảm được các chi phí không cần thiết như chi phí đi lại, chi phí giám định, thời gian… Cơ sở hạ tầng được trang bị hiện đại Về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ cho công tác bồi thường đã được nâng cấp và cải thiện trong các năm qua. Do đó các vụ bồi thường có thể được lưu trữ, thống kê lại một cách có hệ thống và có hiệu quả để lấy đó làm tư liệu cho các vụ bồi thường có thể xảy ra sau này. Những điểm mạnh này của PJICO nói chung và Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội nói riêng đã đóng góp rất lớn vào việc duy trì tỷ lệ bồi thường hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển trong những năm qua ở mức thấp so với thị trường bảo hiểm Việt Nam (thường dao động quanh mức 10% tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc). Điều đó giúp Công ty luôn giữ vững vị trí là một trong các công ty bảo hiểm hàng đầu Việt Nam về bảo hiểm hàng hoá XNK. Và những yếu tố thuận lợi của Công ty cũng đã đem lại lợi ích cho khách hàng trong việc nhanh chóng bù đắp được tổn thất, an tâm sản xuất kinh doanh. 3.2.2 Những điểm yếu Mặc dù có những điểm mạnh, những thuận lợi giúp cho hoạt động bồi thường tại Công ty được tiến hành nhanh chóng và chính xác thì vẫn tồn tại các điểm yếu, các hạn chế trong quá trình bồi thường tổn thất hàng hoá XNK. Trình độ chuyên môn không đồng đều Đa số nhân viên giám định – bồi thường là những người có kinh nghiệm, trình độ chuyên môn cao ở Văn phòng Công ty, ở những chi nhánh đặt tại các thành phố lớn nhưng cũng có không ít các nhân viên giám định – bồi thường ở các địa bàn khác có trình độ chuyên môn chưa sâu, không nắm được bản chất hàng hoá nên việc giám định thiếu chính xác dẫn đến việc tính toán bồi thường 66 sai sót và gây tranh cãi giữa các bên liên quan. Bên cạnh đó hiện tượng thiếu trách nhiệm trong công việc, quan liêu hách dịch vẫn còn xảy ra ở một số chi nhánh địa phương dẫn đến việc bồi thường chậm trễ, hay cùng với bên được bảo hiểm trục lợi. Với một số ít đó làm cho một bộ phận khách hàng cảm thấy việc tự giám định và tự tính toán bồi thường của Công ty là không khách quan. Còn sai sót, nhầm lẫn khi ký kết hợp đồng Ngoài ra còn do sơ suất của một số nhân viên trong quá trình ký kết, nộp phí bảo hiểm không cẩn thận nên hợp đồng không đầy đủ, khách hàng nộp phí không đủ, không đúng hạn và khi xảy ra tổn thất thì họ không bảo lưu quyền khiếu nại đòi bồi thường của chủ hàng gây khó khăn không ít cho việc giải quyết bồi thường. Ví dụ như, có trường hợp khách hàng không đóng phí đầy đủ khi có tổn thất xảy ra thì lại phải mất một khoảng thời gian để xác định thông tin này và yêu cầu khách hàng nộp phí đầy đủ thì Công ty mới tiến hành bồi thường; hay có trường hợp khách hàng không bảo lưu quyền khiếu nại nên Công ty gặp khó khăn khi thực hiện quyền đòi người thứ ba, thậm chí là không đòi được từ bên gây tổn thất đó nên số tiền bồi thường chi ra lớn mà không thu về được một phần nào. Trục lợi bảo hiểm ngày càng tinh vi hơn Vấn đề trục lợi bảo hiểm luôn là vấn đề nhức nhối và gây khó khăn cho công tác giám định của các công ty bảo hiểm trên thế giới chứ không chỉ riêng đối với PJICO. Mặc dù sau vụ trục lợi bảo hiểm lớn và đáng chú ý tại PJICO vào năm 2002 do sự móc ngoặc của nhân viên bảo hiểm với khách hàng thì nhìn chung tỷ lệ số vụ trục lợi bảo hiểm đã giảm đáng kể trong giai đoạn 2006 – 2008, và không có vụ trục lợi bảo hiểm nào mang tính chất nghiêm trọng. Nhưng thực tế là vẫn tồn tại một số trường hợp trục lợi bảo hiểm nhỏ mà Công ty khó có thể 67 kiểm soát hết được, gây thất thoát một số tiền dành cho hoạt động bồi thường. Chi phí thuê giám định ngoài cao Hiện nay Công ty chưa có quy định về mức thiệt hại cần giám định ngoài mà có xu hướng thuê giám định ngoài khi có yêu cầu giám định nhằm đảm bảo tính khách quan cho kết quả giám định. Nhưng có thể thấy điều này chưa thật sự hợp lý vì việc thuê giám định ngoài thường có chi phí cao hơn và nguồn nhân lực về giám định của Công ty không được sử dụng tối đa, đôi khi nhân viên giám định của công ty giám định độc lập đó móc nối với khách hàng để khai báo, giám định tổn thất tăng lên khiến cho Công ty phải bồi thường nhiều hơn. Nhất là những trường hợp tổn thất xảy ra ở nước ngoài, Công ty phải thuê các đại lý giám định tại nơi xảy ra tổn thất làm cho việc kiểm soát quy trình giám định còn khó khăn và việc bồi thường, do đó, cũng bị ảnh hưởng theo. Trang thiết bị còn thiếu, chưa đồng bộ Công ty đã được trang bị máy móc, dụng cụ chuyên môn cho công tác giám định nhưng với nguồn kinh phí hạn hẹp thì chất lượng và độ chính xác của các thiết bị đó chưa thật cao, chưa đáp ứng được các trường hợp tổn thất phức tạp. Do đó dẫn tới trường hợp không xác định được nguyên nhân chính xác gây ra tổn thất, mức độ tổn thất của hàng hoá và người gây ra tổn thất, đặc biệt là không xác định chính xác được mức độ giảm giá trị thương mại của hàng hoá bị tổn thất. Vì vậy công tác tính toán bồi thường gặp khó khăn, thời gian bồi thường bị kéo dài. Những điểm yếu trên làm cho công tác bồi thường còn gặp nhiều khó khăn và bất cập nên hiệu quả kinh doanh dịch vụ bảo hiểm hàng hoá XNK của Công ty bị ảnh hưởng (tăng số tiền bồi thường, giảm lợi nhuận). Những nhân tố tác động tới công tác bồi thường của Công ty được tổng 68 hợp trong bảng sau: Bảng 4: Các yếu tố tác động tới công tác bồi thƣờng của PJICO Kinh nghiệm lâu năm; Rủi ro ngày càng cao; Toàn cầu hoá; Sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các công ty bảo hiểm. Khoa học kỹ thuật phát triển; Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao; Hệ thống quy định pháp lý đầy đủ và hợp lý hơn. Nguồn nhân lực có trình độ Trình độ chuyên môn không chuyên môn nghiệp vụ cao; đồng đều; Quy trình bồi thường chuẩn Sai sót, nhầm lẫn khi ký kết được áp dụng thống nhất. hợp đồng; Quy trình thủ tục đơn giản, Trục lợi bảo hiểm ngày càng linh hoạt; tinh vi hơn. Mạng lưới hoạt động rộng Chi phí thuê giám định ngoài khắp; cao; Cơ sở hạ tầng hiện đại. Trang thiết bị còn thiếu, chưa đồng bộ. Nguồn: Tác giả tự tổng hợp Nhìn chung, công tác bồi thường của Công ty đã có những bước tiến đáng kể trong thời gian qua giúp cho Công ty đảm bảo hiệu quả kinh doanh, đảm bảo thị phần khách hàng trên thị trường bảo hiểm Việt Nam và tăng uy tín cho dịch 69 vụ kinh doanh bảo hiểm của Công ty. Sự đóng góp đó không chỉ riêng từ khâu bồi thường mà còn xuất phát và chịu ảnh hưởng rất lớn từ nghiệp vụ giám định tổn thất hàng hoá của Công ty. Trong những năm qua, Công ty đã nỗ lực hết sức để phát huy, tận dụng những cơ hội khách quan và chủ quan đồng thời hạn chế những khó khăn, thách thức của thị trường và có biện pháp giảm thiểu hạn chế chủ quan của Công ty để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác giám định, tăng sự minh bạch, giảm thời gian giải quyết bồi thường và bồi thường một cách chính xác và đầy đủ cho khách hàng trong các trường hợp xảy ra tổn thất đối với hàng 70 hoá XNK chuyên chở bằng đường biển đã được bảo hiểm. CHƢƠNG III: ĐỊNH HƢỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC BỒI THƢỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN TỚI I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN TỚI 1.1 Định hƣớng phát triển các sản phẩm bảo hiểm của PJICO trong giai đoạn tới Sau 15 năm phát triển, Công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolimex được đánh giá là một trong các công ty bảo hiểm có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thị trường, luôn là một trong 4 công ty bảo hiểm hàng đầu Việt Nam cho đến thời điểm hiện nay. Đạt được kết quả đó là do Công ty có những chiến lược phát triển đúng đắn và phù hợp trong từng giai đoạn phát triển của Việt Nam. Do đó, PJICO đã xác định Sứ mệnh của mình và luôn kiên trì thực hiện Sứ mệnh này cả trong những năm qua và trong thời gian tới, Sứ mệnh đó là: Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm đồng bộ, đa dạng và có chất lượng cao định hướng vào khách hàng; Tạo một môi trường làm việc chuyên nghiệp, minh bạch, năng động và thân thiện để nhân viên phát huy hết tài năng và sáng tạo; Hợp tác hiệu quả với các đối tác để cùng phát triển và đóng góp xây dựng cộng đồng; Phát triển bền vững để gia tăng giá trị cho các cổ đông thông qua đa dạng hoá hoạt động bảo hiểm và đầu tư tài chính; Học hỏi từ thất bại, khích lệ những thành công và luôn không 71 hài lòng với chất lượng dịch vụ của mình. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế – chính trị – xã hội mà Công ty xây dựng những chiến lược phát triển khác nhau. Hiện nay Việt Nam đã gia nhập WTO, điều đó cũng đồng nghĩa với nhiều cơ hội và thách thức mở ra cho ngành bảo hiểm của Việt Nam nói chung và cho PJICO nói riêng. Dựa vào những đặc điểm đó, PJICO đã xác định chiến lược phát triển đến năm 2015 là trở thành Tổng công ty bảo hiểm hàng đầu Việt Nam về chất lượng và hiệu quả, PJICO chú trọng hơn đến phát triển chiều sâu và chất lượng. Để có thể thực hiện tốt chiến lược, mục tiêu đó, Công ty sẽ tăng vốn điều lệ trước mắt lên 500 tỷ đồng và tiếp tục tăng lên trong những năm sau để đảm bảo có đủ vốn phát triển hoạt động kinh doanh và đầu tư. Những năm tới, Công ty dần chuyển sang mô hình Tổng công ty để hoạt động có hiệu quả hơn, đồng thời với niềm tin vào sức mạnh nội lực của mình, PJICO phấn đấu tiếp tục giữ vững vị trí đứng đầu trong thế mạnh của mình (bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm hàng hoá XNK) và tăng cường khả năng cạnh tranh trong các lĩnh vực bảo hiểm khác, phát triển thêm các sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm mới của các cá nhân và tổ chức trên thị trường. Trong đó, định hướng đối với các sản phẩm của PJICO là tiếp tục phát triển 6 nhóm sản phẩm chủ lực: Bảo hiểm tàu thuyền, Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, Bảo hiểm cháy và tài sản, Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, Bảo hiểm con người và Bảo hiểm xe cơ giới. Trong đó nhóm sản phẩm bao gồm Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, Bảo hiểm tàu thuyền, Bảo hiểm cháy và tài sản, Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt duy trì tỷ trọng khoảng 40% tổng phí thu bảo hiểm gốc hàng năm. Đối với nguồn nhân lực, Công ty ngày càng đầu tư nhiều hơn để nâng cao trình độ chuyên môn, tiến hành công tác đào tạo lại nguồn nhân lực; Công ty cũng lựa chọn và triển khai 72 chương trình phần mềm trọn gói quản trị doanh nghiệp của nước ngoài, nâng cao chất lượng quản lý trong mọi lĩnh vực hoạt động của Công ty. Điều đó thể hiện các chiến lược phát triển toàn diện và bền vững của Công ty trong thời gian tới. Cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra trên toàn cầu hiện nay cũng có tác động không nhỏ tới chiến lược kinh doanh của Công ty. Một mặt để cạnh tranh với các công ty khác khi có hiện tượng giảm phí bảo hiểm quá mức, hay việc phân chia hoa hồng cho các đại lý… một mặt Công ty vẫn phải duy trì thực hiện Sứ mệnh của mình trong thời gian tới nên Công ty cũng phải tiến hành giảm phí bảo hiểm, mở rộng phạm vi bảo hiểm một cách hợp lý, đồng thời tìm kiếm và mở rộng thị trường cho các sản phẩm của mình vì nhu cầu mua bảo hiểm ngày càng tăng lên. Do đó, trong giai đoạn tới Công ty sẽ tiến hành mở rộng thị trường ra các nước khác chứ không chỉ giới hạn trong thị trường Việt Nam. Những chiến lược phát triển này của Công ty là đảm bảo cho sự phát triển của Công ty, vừa đảm bảo thực hiện được chiến lược, định hướng phát triển của quốc gia đúng hướng và bền vững, góp phần tăng cường sức mạnh của ngành tài chính – ngân hàng ở Việt Nam nói chung và lĩnh vực bảo hiểm nói riêng. 1.2 Chiến lƣợc phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đƣờng biển tại Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội giai đoạn tới Với những định hướng chung như trên, Công ty đã xây dựng cho mỗi nghiệp vụ bảo hiểm một chiến lược, định hướng khác nhau để có thể phát huy hết thế mạnh của nghiệp vụ đó cũng như phải phù hợp với mục tiêu chung của toàn Công ty. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển của Công ty như đã được xác định trong phần định hướng của sản phẩm thì đây là một trong những sản phẩm chủ đạo của Công ty, được Công ty đầu tư nhiều 73 trong thời gian tới. Những năm trước, Chiến lược kinh doanh phát triển của Công ty là Ổn định, An toàn, Hiệu quả và Phát triển bền vững. Vì vậy công tác quản lý rủi ro được đặc biệt quan tâm. Đối với hoạt động giám định bồi thường thì việc thực hiện tốt công tác giám định bồi thường, hạn chế trục lợi bảo hiểm cũng là hoạt động quản lý rủi ro và bảo toàn vốn của doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên PJICO cũng xác định, tăng cường hoạt động quản lý rủi ro không đồng nghĩa với việc thắt chặt công tác bồi thường. Giải quyết bồi thường chuyên nghiệp Nhanh - Đúng - Đủ là phương châm hoạt động của PJICO trong lĩnh vực bồi thường hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển. Trong hoạt động bảo hiểm gốc PJICO tập trung về con người và vật chất để đầu tư vào những nghiệp vụ có tỷ lệ bồi thường thấp và hiệu quả cao. Tuy nhiên hiện nay, khi Việt Nam đã thực sự gia nhập WTO, kim ngạch XNK tăng lên nhiều, quan hệ hợp tác kinh doanh với các nước khác cũng trở nên thuận tiện và phát triển hơn, tuy nhiên những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra trên toàn thế giới gây không ít khó khăn cho các hoạt động kinh tế, không riêng gì lĩnh vực bảo hiểm thì chiến lược kinh doanh của Công ty phải có sự thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển, Công ty tập trung giữ vững thị phần trên thị trường bảo hiểm Việt Nam và mở rộng thị trường để có thể cạnh tranh với các công ty bảo hiểm nước ngoài. Mục tiêu của Công ty là duy trì vị thế là một trong 4 công ty bảo hiểm có doanh thu hàng đầu của Việt Nam. Đồng thời, Công ty cũng đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tìm hiểu thị trường bảo hiểm trong khu vực cũng như các tập quán, thói quen của các nhà XNK trên thế giới để có cơ hội bán sản phẩm cho các khách hàng mới không chỉ là khách hàng Việt Nam. Công ty cố gắng phấn đấu 74 doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm này có tốc độ tăng trưởng hàng năm là khoảng 25%. Con số tăng trưởng này khá thấp so với tốc độ tăng trưởng năm 2008 vì hiện nay thế giới và Việt Nam đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, làm cho kim ngạch XNK giữa các nước giảm đi khá mạnh và phí bảo hiểm cũng có xu hướng giảm. Về đối tượng bảo hiểm hàng hoá XNK, Công ty đang tiến hành mở rộng ra nhiều loại mặt hàng khác ngoài những mặt hàng chủ lực của Công ty (sắt thép, xăng dầu) để nâng cao tính cạnh tranh về sản phẩm của Công ty. Bên cạnh đó đảm bảo giữ chân khách hàng, thu hút thêm nhiều hợp đồng bảo hiểm hàng hoá từ các đối tác trong nước và nước ngoài hơn. Công tác giám định của Công ty cũng được chú trọng phát triển, đảm bảo tính chính xác, nhanh chóng khi tiến hành giám định. Công ty có xu hướng thuê giám định ngoài trong hầu hết các vụ giám định được khách hàng yêu cầu để đảm bảo tính khách quan trong kết quả giám định. Tuy nhiên, bộ phận giám định của Công ty không vì thế mà không được chú trọng phát triển, Công ty vẫn phát triển đội ngũ giám định viên cả về chất lượng và số lượng, đặc biệt là ở các chi nhánh địa phương – nơi mà đội ngũ cán bộ giám định còn non yếu để thực hiện những yêu cầu giám định với tổn thất không phức tạp và mức độ tổn thất nhỏ để giảm bớt chi phí thuê giám định ngoài. Được biết đến trên thị trường Việt Nam là Công ty bảo hiểm có tỷ lệ bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển thấp (chỉ khoảng 10% trong giai đoạn 2006 – 2008). Trong thời gian tới Công ty cố gắng duy trì tỷ lệ bồi thường ở mức thấp như hiện nay để giảm chi, tăng lợi nhuận từ nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá. Đặc biệt là hạn chế tình trạng trục lợi bảo hiểm hàng hoá. Khi mà hoạt động giao thương diễn ra ở nhiều nước, nhiều khu vực trên 75 thế giới thì Công ty có định hướng là mở rộng quan hệ với các công ty bảo hiểm, công ty giám định ở các khu vực đó để có thể đảm bảo tiến độ, chất lượng công tác giám định tổn thất và bồi thường khi tổn thất xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam. Vậy trong thời gian tới, Công ty sẽ tiếp tục đầu tư và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK, coi đó là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm chủ đạo của Công ty, phát triển thị phần, mở rộng thị trường – khách hàng và nâng cao chất lượng giám định bồi thường và đảm bảo tốc độ tăng trưởng hợp lý. 1.3 Những vấn đề cần giải quyết để nâng cao hiệu quả công tác bồi thƣờng bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đƣờng biển tại Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội Từ những mục tiêu, định hướng phát triển đã nêu, cùng với những điều kiện thuận lợi, khó khăn, những mặt mạnh, mặt hạn chế mà Công ty gặp phải trong thời gian qua thì yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác bồi thường hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển là rất cần thiết và cấp bách trong tình hình hiện nay. Tạo sự phù hợp giữa chiến lược phát triển của Công ty với chiến lược chung của Nhà nước Vấn đề đặt ra đối với Công ty là vừa phải đảm bảo thực hiện tốt chiến lược phát triển của riêng Công ty nhưng cũng phải đảm bảo sao cho đi theo đúng lộ trình, phương hướng phát triển của Nhà nước về dịch vụ bảo hiểm trên thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, không phải công ty nào cũng phải tuân theo hoàn toàn những chiến lược, mục tiêu không còn phù hợp với tình hình hiện tại mà mỗi công ty bảo hiểm chỉ dựa trên những yêu cầu đó để xây dựng kế hoạch riêng của mình sao cho phù hợp nhất với thực trạng kinh doanh của công ty. Do đó, PJICO cũng phải tìm ra hướng đi phù hợp cho những sản phẩm thế mạnh của 76 mình. Phát triển đồng đều cả về chất lượng và số lượng sản phẩm Vừa phải đảm bảo phát triển về số lượng, vừa phải nâng cao chất lượng sản phẩm bảo hiểm để nâng cao uy tín, thu hút khách hàng của Công ty là một vấn đề khó khăn đối với Công ty. Hiện nay, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm gây khó khăn cho Công ty rất nhiều trong việc thoả mãn cả hai tiêu chí, định hướng phát triển trên đối với bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển. Nếu Công ty không hạ phí bảo hiểm, tăng hoa hồng cho môi giới, đại lý hay mở rộng phạm vi bảo hiểm thì sẽ làm giảm tính cạnh tranh của Công ty, khách hàng sẽ tìm tới các công ty bảo hiểm khác có dịch vụ ưu đãi hơn, do vậy khách hàng và thị phần của Công ty sẽ bị thu hẹp. Nếu thực hiện theo các công ty bảo hiểm khác, nghĩa là hạ phí, mở rộng phạm vi bảo hiểm cho các trường hợp có rủi ro cao… thì Công ty phải đối mặt với nhiều rủi ro khi lô hàng XNK chuyên chở bằng đường biển được bảo hiểm bị tổn thất, dẫn đến chi bồi thường tăng trong khi khoản thu phí bảo hiểm gốc giảm, làm cho việc kinh doanh không đạt được hiệu quả cao. Vì vậy Công ty phải xây dựng được những chính sách, biện pháp thích hợp để giải quyết được hai mặt của vấn đề này nhằm đảm bảo nâng cao hiệu quả nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển của Công ty. Nâng cao sự hợp tác giữa các bên liên quan tới hoạt động bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển Việc nâng cao hiệu quả công tác bồi thường nói riêng và nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển không phụ thuộc riêng vào Nhà nước hay Công ty mà phải dựa vào sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước, Công ty và các bên liên quan khác. Do đó, ngoài những nỗ lực của Nhà nước về mặt thủ tục giấy tờ, của Công ty về trình độ nghiệp vụ thì 77 vấn đề liên quan đến các công ty giám định, khách hàng, người chuyên chở, các hội, hiệp hội bảo hiểm cũng đóng vai trò rất lớn để có thể thực hiện được mục tiêu phát triển của ngành bảo hiểm, của công tác bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển. Những vấn đề đó như người chuyên chở và khách hàng có thể cấu kết với giám định viên hay nhân viên bảo hiểm để trục lợi bảo hiểm, khiến cho Công ty thất thoát một số tiền bồi thường lớn; người chuyên chở không chịu hợp tác trong việc giám định, chi trả bồi thường (trong trường hợp lỗi do người chuyên chở) làm kéo dài thời gian khiếu nại đòi bồi thường; hoặc Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam còn thể hiện mờ nhạt vai trò của mình trên thị trường bảo hiểm Việt Nam… Thực tế tại Việt Nam cho thấy việc đưa ra các chính sách, đường lối phát triển của Nhà nước và các cơ quan chức năng còn chậm, không dự báo chính xác được tình hình thị trường Việt Nam trong những năm tới làm cho việc nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển nói riêng và các nghiệp vụ bảo hiểm nói chung gặp nhiều khó khăn. Để giải quyết các vấn đề trên, Công ty phải sớm đề ra biện pháp, chính sách phát triển hợp lý trong thời gian tới, bên cạnh đó là có sự phối hợp hỗ trợ giữa các bên để thực hiện có hiệu quả công tác bồi thường (giảm thời gian giải quyết bồi thường, giảm chi phí bồi thường, giảm số tiền bồi thường sai sót…). II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI VĂN PHÒNG CÔNG TY PJICO HÀ NỘI GIAI ĐOẠN TỚI Với những vấn đề đặt ra ở trên, việc nâng cao hiệu quả nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển là rất cần thiết để có thể phát triển thị trường bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển của 78 PJICO. Trong đó nhiệm vụ nâng cao hiệu quả công tác bồi thường tổn thất góp phần không nhỏ trong quá trình nâng cao hiệu quả kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Để thực hiện được điều đó cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan như Nhà nước, công ty bảo hiểm, công ty giám định… thông qua các chính sách, chiến lược cụ thể, rõ ràng và hợp lý trong thời gian tới. 2.1 Đối với PJICO Đây là nhân tố quan trọng nhất quyết định tới hiệu quả của hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển và chất lượng công tác bồi thường hàng hoá bị tổn thất. Để thực hiện tốt hơn công tác bồi thường tổn thất thì Công ty không chỉ tập trung vào phương pháp bồi thường, rút ngắn thời gian bồi thường, giảm số tiền bồi thường cho khách hàng mà phải chú ý tới cả các khâu phòng ngừa, hạn chế tổn thất và công tác giám định để đạt được hiệu quả tối đa và toàn diện nhất. 2.1.1 Giải pháp đối với công tác phòng ngừa rủi ro và hạn chế tổn thất Đề phòng, hạn chế tổn thất là công việc hết sức quan trọng đối với cả người bảo hiểm và người được bảo hiểm trong điều kiện buôn bán phát triển kèm theo là rủi ro ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ thiệt hại như hiện nay. Nắm rõ thông tin về hành trình, chuyến hàng được bảo hiểm Khi tiến hành ký kết hợp đồng, Công ty cần phải nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng khả năng xảy ra tổn thất đối với loại hàng hoá đó và những rủi ro mà tuyến hành trình đó có thể gặp (vùng nhiều cướp biển, khu vực hay xảy ra bão tố, hàng dễ hư hỏng…) để từ đó quyết định là nên ký kết hợp đồng hay không; nếu ký kết thì mức phí bảo hiểm sẽ phải quy định cao hơn để khi phải bồi thường 79 thì số tiền bồi thường cũng được bù đắp hợp lý. Đồng thời Công ty cũng cần phải nắm rõ thông tin về người chuyên chở để đảm bảo người chuyên chở có kinh nghiệm, phương tiện chuyên chở phù hợp. Thống kê, đánh giá thường xuyên các rủi ro, tổn thất mà chuyến hàng gặp phải Công ty cần phải có đánh giá, tổng kết và thống kê về số vụ bồi thường, các tổn thất thường gặp đối với từng loại mặt hàng, từng nhóm mặt hàng trong từng năm và từng giai đoạn để đưa ra những dự báo, biện pháp đề phòng tổn thất, hạn chế thiệt hại gia tăng khi tổn thất xảy ra một cách hợp lý nhất. Và khi có những biện pháp đó thì nhân viên của Công ty phải tư vấn cho khách hàng/người chuyên chở về cách bảo quản, chất xếp, chèn lót, bốc dỡ hàng hoá cũng như các biện pháp xử lý tổn thất, hạn chế tổn thất gia tăng như việc cách ly, dỡ hàng và bảo quản hàng bị tổn thất, hư hại như thế nào (ví dụ như đối với hàng sắt thép khi bị gỉ sét thì phải nhanh chóng dùng chất tẩy chỗ bị gỉ sét, bôi lớp chống gỉ sét và che chắn sao cho không bị gỉ sét nữa…). Nhờ đó mà mức độ thiệt hại giảm bớt nên Công ty sẽ phải bồi thường ít hơn. Nắm rõ thông tin về các địa điểm, thị trường mua bán hàng hư hỏng tốt nhất trên thế giới và ở từng khu vực Để thu hồi phần nào giá trị hàng hư hỏng, Công ty cần phải nắm rõ các thông tin về những thị trường mua bán hàng hư hỏng tốt nhất và gần với nơi xảy ra tổn thất để thông báo, hướng dẫn người chuyên chở/khách hàng xử lý hàng tổn thất đó. Trong trường hợp phải tổ chức bán đấu giá hàng hư hỏng thì Công ty cần cử nhân viên, liên hệ với nơi xảy ra tổn thất nhanh chóng tổ chức cuộc đấu giá để thu hồi một phần giá trị bị tổn thất. Khi tính toán bồi thường khoản tiền 80 này sẽ được trừ vào số tiền bồi thường Công ty phải trả cho khách hàng. Nếu thực hiện một cách có hiệu quả các công việc trên thì tổn thất, thiệt hại sẽ được giảm đi đáng kể, góp phần làm giảm chi bồi thường trong các trường hợp hàng hoá được bảo hiểm xảy ra tổn thất. 2.1.2 Giải pháp đối với công tác giám định tổn thất Không thể phủ nhận vai trò của công tác giám định trong việc nâng cao hiệu quả của công tác bồi thường bảo hiểm và trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển tại PJICO. Vì vậy, Công ty cần phải thực hiện một số biện pháp sau để đảm bảo thực hiện giám định hàng hoá tổn thất một cách chính xác, nhanh chóng và kịp thời. Nâng cao trình độ chuyên môn của giám định viên Trình độ hiểu biết, kinh nghiệm là những yếu tố quan trọng đối với một giám định viên trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Tại PJICO mặc dù đã có đội ngũ cán bộ giám định trình độ cao nhưng chưa đồng đều ở các nơi nên còn nhiều khó khăn khi có yêu cầu giám định. Vì vậy, các chi nhánh của PJICO ở các địa phương khác cần liên tục gửi cán bộ giám định đi đến những nơi khác để học hỏi kinh nghiệm thực tế, đồng thời những cán bộ có kinh nghiệm cũng cần phải đến các chi nhánh địa phương để truyền đạt kinh nghiệm và kiểm tra tình hình thực hiện giám định ở đó ra sao để nhanh chóng có hướng giải quyết kịp thời. Ngoài các biện pháp như trên, các chi nhánh cũng như Văn phòng Công ty cần phải có chế độ khen thưởng, khuyến khích và thu hút các giám định viên giỏi tham gia làm việc cho Công ty. Tự bản thân các giám định viên cũng cần phải có nhận thức về việc trau dồi kinh nghiệm thông qua việc tìm kiếm thông tin trên sách báo, tạp chí, các vụ xử kiện đòi bồi thường và trên Internet để nắm bắt được những nguyên nhân gây ra tổn thất, thiệt hại cho hàng hoá và cách thức giám 81 định nhanh chóng mà hiệu quả… Nâng cao tinh thần, trách nhiệm làm việc của giám định viên Khi giám định viên đã có trình độ chuyên môn làm việc tốt thì một việc không thể thiếu là nâng cao tinh thần, trách nhiệm làm việc mẫn cán của họ. Vì nếu không có tinh thần làm việc nghiêm túc thì những sai sót, chậm trễ xảy ra trong quá trình giám định sẽ gây ảnh hưởng rất lớn tới uy tín, kết quả công tác giám định và nhất là công tác bồi thường. Ví dụ như nhân viên giám định có thể câu kết với khách hàng, với người chuyên chở để khai báo tăng giá trị tổn thất, chỉ ra nguyên nhân tới tổn thất là do rủi ro được bảo hiểm gây ra trong khi thực tế thì ngược lại, hay giám định viên làm việc chậm chạp… làm cho khách hàng phải chờ đợi lâu, Công ty phải bồi thường những khoản phí mà lẽ ra không phải bồi thường. Vì vậy, bên cạnh chế độ thưởng, chế độ phụ cấp đi lại (xăng xe, điện thoại…) cần có chế độ phạt nghiêm khắc cho những nhân viên giám định nào làm việc thiếu trách nhiệm, câu kết với khách hàng để trục lợi bảo hiểm. Thuê giám định độc lập Việc thuê giám định độc lập có nhiều ưu điểm như là các công ty giám định có chuyên môn nghiệp vụ sâu hơn, trang thiết bị hiện đại và đầy đủ hơn và đảm bảo tính khách quan trong khi giám định. Tuy nhiên, đối với các vụ việc tổn thất nhỏ, đơn giản mà thuê giám định độc lập sẽ làm tăng chi phí cho công tác giám định so với khi Công ty tự thực hiện giám định, ngoài ra nhân viên giám định của Công ty khi được tham gia giám định nhiều lần sẽ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm hơn, chuyên môn nghiệp vụ do đó cũng được cải thiện rõ rệt. Trên cơ sở đó, Công ty cần có quy định cụ thể đối với những trường hợp yêu cầu giám 82 định ngoài (trừ trường hợp có thoả thuận trước về việc thuê giám định ngoài) như nếu tổn thất ước tính lên tới trên 300 USD thì có thể yêu cầu giám định độc lập, còn nếu nhỏ hơn thì Công ty sẽ tự giám định. Về lâu dài thì PJICO nên lập một bộ phận chuyên trách về giám định chuyên nghiệp hơn để có thể tự tiến hành giám định cho các vụ việc tổn thất của các khách hàng của Công ty và hơn hết là có thể giám định cho các khách hàng ngoài Công ty khi họ có yêu cầu giám định độc lập, việc làm này làm giảm một phần chi phí cho việc thuê giám định ngoài, mặt khác lại làm tăng doanh thu cho Công ty khi cho thuê dịch vụ giám định. Khi Công ty phải thuê giám định ngoài, Công ty cũng cần phải cử nhân viên giám định của mình tham gia giám định cùng để luôn kiểm soát được tình hình giám định, đảm bảo không có sự sai sót nào. Mức phí giám định cần được thoả thuận một cách hợp lý nhất để giảm bớt chi phí cho cả Công ty cũng như cho khách hàng. Trường hợp tổn thất xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, Công ty phải nhanh chóng liên hệ với các đại lý giám định gần hiện trường nhất để có thể tiến hành giám định nhanh chóng. Do đó, Công ty cần phải tạo mối quan hệ lâu dài với nhiều công ty, đại lý giám định ở nhiều nước và khu vực trên thế giới, nhất là khi hoạt động giao thương của Việt Nam ngày càng được mở rộng. Công ty cũng cần phải liên tục đánh giá chất lượng giám định của công ty giám định độc lập đó và tìm hiểu những thông tin liên quan đến công ty này để có thể đảm bảo chất lượng kết quả công tác giám định. Mua sắm trang thiết bị đầy đủ Trang thiết bị, máy móc góp phần rất lớn trong quá trình giám định của Công ty. Nếu máy móc mà lỗi thời, không đầy đủ thì việc giám định tổn thất sẽ 83 mất nhiều thời gian hơn để xác định được chính xác nguyên nhân tổn thất, mà trái lại điều đó còn gây nguy cơ hàng hoá bị hư hỏng, thiệt hại nặng nề hơn; còn nếu được trang bị những máy móc thiết bị hiện đại, tiên tiến nhất thì bộ phận giám định sẽ đẩy nhanh được quy trình giám định và đảm bảo tính chính xác về kết quả giám định làm cho khách hàng yên tâm hơn về chất lượng giám định, hay chính là chất lượng nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK của doanh nghiệp. Do vậy, Công ty cần trích ra một khoản phí lớn để mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác giám định, cần lập ra một khoản dự phòng hàng năm dành cho việc mua sắm loại tài sản cố định này cũng như dành cho việc sửa chữa, nâng cấp. Công khai và liên tục cập nhật các thông tin liên quan đến giám định Công ty nên đăng những thông tin về quy trình giám định của Công ty, các đại lý giám định độc lập mà Công ty chấp nhận thuê trong trường hợp có yêu cầu giám định độc lập lên website của Công ty để khách hàng có thể tiện theo dõi, nhanh chóng tìm được thông tin thích hợp về những việc cần làm và lựa chọn được đại lý giám định độc lập phù hợp. Mở rộng quan hệ với các công ty giám định khác Việc mở rộng quan hệ với các công ty, đại lý giám định khác ở trong nước cũng như trên thế giới giúp cho việc giám định được tiến hành nhanh chóng, kịp thời. Bên cạnh đó, cũng có thể yên tâm về chất lượng dịch vụ và có thể thoả thuận để giảm bớt phí giám định dựa vào mối quan hệ thân quen. Do vậy, Công ty phải thường xuyên tìm hiểu, nghiên cứu các công ty bảo hiểm khác, nhất là các công ty bảo hiểm có tiếng trên thế giới và thiết lập mối quan hệ với họ. Ngoài việc phải khắc phục những hạn chế, điểm yếu như trên, Công ty cũng cần tiếp tục phát huy, triển khai những điểm mạnh vốn có của Công ty 84 trong công tác giám định như là trình độ nhân viên cao, có cơ sở hạ tầng khá tốt để nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả công tác giám định, từ đó giúp việc bồi thường chính xác, nhanh chóng hơn. 2.1.3 Giải pháp đối với công tác bồi thường Những giải pháp về hạn chế tổn thất và nâng cao chất lượng công tác giám định góp phần vào việc nâng cao chất lượng công tác bồi thường - yếu tố quyết định, sản phẩm của dịch vụ kinh doanh của một công ty bảo hiểm bất kỳ và của chính PJICO. Nếu chỉ thực hiện các giải pháp trên mà công tác bồi thường không được quan tâm thì cũng không cải thiện được chất lượng bồi thường nhiều, do vậy Công ty phải thực hiện cả một số giải pháp về bồi thường sau. Nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của các nhân viên bồi thường Như đã phân tích ở trên thì nguồn nhân lực thực hiện công tác bồi thường của Công ty có trình độ cao, có thể đáp ứng được yêu cầu tính toán bồi thường nhanh chóng, chính xác và đầy đủ. Tuy nhiên, chất lượng đó lại không đồng đều ở các chi nhánh, địa bàn. Do đó, Công ty cần phải có những chương trình đào tạo về nghiệp vụ chuyên môn trong việc giải quyết bồi thường như là việc kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ khiếu nại bồi thường, việc tính toán các chi phí, tổn thất được bồi thường, việc tiến hành đòi người thứ ba… Đồng thời bên cạnh việc nâng cao về trình độ thì cũng phải có biện pháp nâng cao tình thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của nhân viên bồi thường để tránh tình trạng bồi thường sai sót, chậm trễ cho khách hàng hay là cùng với khách hàng tiến hành trục lợi bảo hiểm. Vì vậy, Công ty phải thường xuyên kiểm tra, rà soát những vụ việc bồi thường đã được giải quyết cũng như các vụ việc đang tiến hành bồi thường để kiểm tra kết quả và nhanh chóng phát hiện ra sai sót nếu có. Để khuyến khích 85 tinh thần làm việc của nhân viên bồi thường, Công ty nên có chế độ lương thưởng xứng đáng cho những người hoàn thành tốt công việc một cách nhanh chóng và hiệu quả, đồng thời phải có biện pháp xử phạt đúng mức đối với các nhân viên làm việc trễ nải, quan liêu hay cấu kết với khách hàng để trục lợi bảo hiểm. Khi có những thay đổi liên quan tới quy định bồi thường của Công ty, và những yêu cầu, mục tiêu và chiến lược phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển thì PJICO cần phải phổ biến rộng rãi cho nhân viên, hướng dẫn thực hiện chi tiết để tránh nhầm lẫn trong khi thực hiện bồi thường; bên cạnh đó phải đặt ra chỉ tiêu cụ thể để nhân viên bồi thường phấn đấu thực hiện như giảm thời gian bồi thường. Tóm lại đối với nhân viên bồi thường, Công ty cần tiến hành nâng cao cả trình độ chuyên môn cũng như tinh thần làm việc. Rút ngắn thời gian bồi thường Đầu tiên Công ty phải tiến hành nhanh chóng giải quyết các hồ sơ khiếu nại bồi thường còn tồn đọng để giải quyết dứt điểm với khách hàng. Nếu còn thiếu chứng từ, giấy tờ nào thì phải thông báo, hướng dẫn khách hàng một cách cụ thể để bổ sung kịp thời giúp giảm thời gian giải quyết bồi thường. Đối với các vụ việc đang được giải quyết hay những trường hợp có thể xảy ra trong thời gian tới, Công ty phải quán triệt cho nhân viên bồi thường thực hiện và giải quyết nhanh khâu tiếp nhận hồ sơ khiếu nại và kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ đó, nhưng vẫn phải đảm bảo tính chính xác, đầy đủ chứng từ giấy tờ theo quy định để có thể bồi thường và đòi người thứ ba, nếu có. Việc giảm thời gian bồi thường giúp cho Công ty tăng uy tín trong khách hàng về chất lượng dịch vụ của mình, giúp cho Công ty giải quyết dứt điểm vụ việc này và tập trung vào giải quyết vụ việc khác cho có hiệu quả. Bên cạnh đó, 86 việc này còn giúp cho khách hàng của Công ty nhanh chóng nhận được khoản bồi thường hợp lý để tiến hành giải quyết thiệt hại và tiếp tục sản xuất kinh doanh. Và kết quả cuối cùng là tăng hiệu quả công tác bồi thường nói riêng và làm tăng chất lượng và hiệu quả nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển để đạt được những mục tiêu và định hướng trong thời gian tới của Công ty. Nâng cao hiệu quả việc tính toán bồi thường để đảm bảo tính toán đầy đủ và chính xác Khi nhận được báo cáo giám định của giám định viên về việc phân chia tổn thất, chỉ ra nguyên nhân tổn thất và các chi phí, tổn thất được bồi thường thì nhân viên bồi thường không nên dựa hoàn toàn vào đó để tiến hành tính toán số tiền bồi thường, chi trả bồi thường mà phải có khâu kiểm tra lại theo những điều kiện bảo hiểm trong đơn bảo hiểm của khách hàng một cách kỹ lưỡng để xác định chính xác nguyên nhân gây tổn thất đó có hợp lý hay không, rủi ro gây ra tổn thất đó có được bảo hiểm hay không… Trong trường hợp gặp khó khăn phải nhanh chóng xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên, nếu phát hiện sai sót cần phải thông báo ngay cho khách hàng, cho giám định viên và cấp trên để sửa chữa và tiến hành giám định lại nếu cần thiết. Khi nhận được bảng phân bổ tổn thất và tính toán số tiền bồi thường trong trường hợp đồng bảo hiểm của Lý toán sư thì cũng phải tiến hành xem xét như trên. Khi tiến hành giải quyết khiếu nại đòi bồi thường của khách hàng, Công ty cần phải kiên quyết theo đến cùng bảo vệ lợi ích của mình khi tổn thất đó không nằm trong phạm vi bảo hiểm của đơn bảo hiểm. Nhân viên bồi thường cũng như nhân viên bảo hiểm của Công ty cần phải giải thích rõ ràng, thấu đáo, hợp lý cho khách hàng hiểu về quyết định của Công ty trong việc không chi trả toàn bộ hay 87 một phần số tiền bồi thường. Việc này giúp cho Công ty tiết kiệm được số tiền chi bồi thường và giúp khách hàng tiết kiệm thời gian cũng như chi phí phải bỏ ra để theo kiện cáo bồi thường. Việc lựa chọn cách tính toán số tiền bồi thường phải phù hợp với từng loại hàng và từng loại tổn thất (tổn thất chung hay tổn thất riêng) và phải được thống nhất, công khai trong quá trình bồi thường. Công ty cũng cần lưu ý đến tỷ giá hối đoái để tính số tiền bồi thường, phải quy định rõ là lấy theo tỷ giá nào (vào ngày ký kết, ngày xảy ra tổn thất hay là ngày thực hiện bồi thường…). Điều này cũng quan trọng trong việc làm tăng hay giảm số tiền bồi thường của Công ty nhất là trong tình hình khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, tỷ giá của VNĐ so với USD liên tục thay đổi theo xu hướng tăng làm cho khả năng Công ty phải bồi thường thêm một khoản phí là khó tránh khỏi. Trong khi tính toán bồi thường, nhân viên bồi thường cũng phải đặc biệt chú ý đến mức miễn thường của các loại hàng hoá theo quy định trong hợp đồng để khấu trừ khoản đó. Mức miễn thường của Công ty là khác nhau trong từng hợp đồng, từng loại hàng hoá theo thoả thuận giữa Công ty và khách hàng nhưng đối với các mặt hàng rời như gạo, khô đậu tương, phân bón… thì mức miễn thường này thường là khoảng 5%. Lưu ý đến mức miễn thường này giúp cho Công ty không phải bồi thường những tổn thất do hao hụt tự nhiên hay do rơi vãi một lượng nhất định làm giảm chi bồi thường, giúp Công ty tăng lợi nhuận. Như vậy có thể thấy việc tính toán bồi thường trực tiếp ảnh hưởng, tác động tới số tiền bồi thường của Công ty cho khách hàng. Do đó Công ty cần phải chú trọng thực hiện những biện pháp trên một cách nhanh chóng và có những giải pháp lâu dài phù hợp với từng tình huống cụ thể. 88 Nâng cao hiệu quả công tác bồi thường thương mại Trong thời gian qua việc tiến hành bồi thường thương mại có hiệu quả, giúp tăng lượng khách hàng đến với Công ty. Cho dù đây là một khoản chi phí không được tính là chi phí hợp lý, do đó không được khấu trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp nên làm giảm một phần lợi nhuận của Công ty. Tuy nhiên, không vì vậy mà Công ty bỏ qua nghiệp vụ này, trái lại Công ty vẫn nên triển khai thực hiện rộng rãi hơn để tạo uy tín, thu hút thêm nhiều khách hàng tiềm năng về lâu dài. Công ty cũng phải chú ý đánh giá đúng tiềm năng của đối tượng mà Công ty định bồi thường thương mại để đảm bảo sẽ ký kết được các hợp đồng bảo hiểm sau này, đồng thời cũng phải đặt ra hạn mức tổn thất hợp lý để tiến hành bồi thường thương mại vừa đảm bảo là giúp khách hàng, vừa đảm bảo không làm mất một khoản chi quá lớn của Công ty. Như vậy, đây là một biện pháp giúp tăng thị phần có hiệu quả mà Công ty nên phát huy. Ngăn ngừa, hạn chế trục lợi bảo hiểm Đây là hành vi nguy hiểm và khó tránh khỏi khi mà thủ đoạn ngày càng tinh vi, khó lường trước hơn và gây thất thoát một số tiền khá lớn đối với Công ty. Để giảm thiểu trục lợi bảo hiểm trong công tác bồi thường, Công ty cần yêu cầu nhân viên thực hiện việc kiểm tra hồ sơ khiếu nại một cách nghiêm túc, cẩn thận và nếu có dấu hiệu gì đáng nghi thì cần phải thông báo ngay để tránh trường hợp làm hợp đồng bảo hiểm giả, khai ngày tổn thất xảy ra sau ngày ký kết hợp đồng bảo hiểm hay nhân viên giám định và khách hàng cấu kết khai tăng giá trị tổn thất… Mọi quy trình thực hiện phải được ghi lại cụ thể, chi tiết để khi phát hiện sai sót, nhầm lẫn thì có thể nhanh chóng tìm ra nguyên nhân và có biện pháp xử lý kịp thời. Khi phát hiện ra có trường hợp trục lợi bảo hiểm mà Công ty đã tiến hành bồi thường rồi thì Công ty phải nhanh chóng khiếu nại, đòi lại khoản tiền bồi thường đó và thông báo thông tin đó trên website của Công ty 89 cũng như các chi nhánh khác để có biện pháp phòng tránh kịp thời. Thúc đẩy mạnh hiệu quả công tác đòi người thứ ba Việc đòi người thứ ba giúp cho Công ty thu lại phần nào số tiền bồi thường đã thanh toán cho khách hàng, giảm chi bồi thường. Để thực hiện tốt công tác đòi người thứ ba, khi có tổn thất xảy ra Công ty cần yêu cầu khách hàng hay đại diện của khách hàng bảo lưu quyền đòi người thứ ba, phòng trường hợp do lỗi của người thứ ba thì Công ty có cơ sở để đòi bồi thường. Sau khi tiến hành giám định xong, nhân viên bồi thường cũng phải tiến hành thu thập đủ các giấy tờ, chứng từ cần thiết, cách tính toán số tiền bồi thường và số tiền bồi thường để nhanh chóng yêu cầu người thứ ba thanh toán. Bên cạnh những biện pháp trên, Công ty cần phải tiến hành cập nhật thông tin về các vụ tổn thất đã bồi thường (thời gian xảy ra tổn thất, nguyên nhân tổn thất, hàng hoá bị hư hỏng thiệt hại, phương án bồi thường, kinh nghiệm rút ra…) để khách hàng cũng như nhân viên có thể nắm rõ thông tin về tình hình hoạt động bồi thường của Công ty nhanh và thuận tiện. Tóm lại Công ty phải thực hiện đồng bộ rất nhiều nhiệm vụ, phải cố gắng nâng cao chất lượng công tác bồi thường để có thể nâng cao uy tín, đảm bảo thị phần trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Việc kết hợp các biện pháp nêu trên phải thực sự linh hoạt, thực hiện một cách nhanh chóng và phù hợp với từng giai đoạn. Muốn tăng hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển thì ngoài các biện pháp theo từng công tác trên Công ty cần đặt ra các chiến lược, định hướng cụ thể cả về ngắn hạn cũng như lâu dài sao cho phù hợp với tình hình thực tế để vừa tận dụng được những thuận lợi của thị trường, thế mạnh của Công ty vừa có biện pháp khắc phục, hạn chế tác động của những khó khăn, điểm yếu của Công ty gặp phải. Để làm được điều 90 đó Công ty cần phải cải thiện chất lượng dịch vụ, có những ưu đãi hợp lý cho khách hàng để cạnh tranh với các công ty bảo hiểm nước ngoài đầy kinh nghiệm và có quy mô lớn và phải biết tận dụng lợi thế là một công ty bảo hiểm của Việt Nam, am hiểu thị trường Việt Nam hơn các công ty nước ngoài mới vào. Hàng năm Công ty cần đánh giá chất lượng, hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK năm trước và theo từng giai đoạn để rút ra kinh nghiệm, đề ra các chính sách cụ thể phải thực hiện như mở rộng thị phần lên bao nhiêu phần trăm, khách hàng chính là ai, tỷ lệ bồi thường phấn đấu đạt bao nhiêu và thời gian bồi thường nên rút ngắn lại như thế nào… Chính sách càng cụ thể thì càng dễ dàng thực hiện hơn. 2.2 Đối với Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam được thành lập vào năm 1999 nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các hội viên, hợp tác và phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam. Hoạt động của Hiệp hội trong những năm qua chưa thể hiện được hết chức năng, vai trò của mình trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Hiệp hội và góp phần vào việc nâng cao hiệu quả công tác bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển thì Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cần thực hiện một số việc sau: Cải tổ cơ cấu tổ chức cho rõ ràng, hiệu quả hơn Hiện nay Hiệp hội hoạt động trên thị trường bảo hiểm nói chung, chưa có sự phân tách rõ ràng, tập trung sâu vào một loại bảo hiểm như Bảo hiểm Phi nhân thọ, Bảo hiểm Nhân thọ hay Tái bảo hiểm… nên chưa thực hiện tốt chức năng của mình trong một lĩnh vực cụ thể. Các nước khác trên thế giới thường có từ hai Hiệp hội liên quan đến bảo hiểm trở lên, như ở Nhật có 2 Hiệp hội (Hiệp hội các nhà bảo hiểm nhân thọ, Hiệp hội các nhà bảo hiểm phi nhân thọ) hay ở Singapore thì có tới 8 hội bảo hiểm (Hiệp hội bảo hiểm Phi nhân thọ/Nhân thọ, 91 Hiệp hội các nhà tái bảo hiểm…) và ở đó sẽ có sự tập trung chuyên môn vào một lĩnh vực hơn. Do đó, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam nên tách thành Hiệp hội bảo hiểm Phi nhân thọ và Hiệp hội bảo hiểm Nhân thọ… Trong Hiệp hội bảo hiểm Phi nhân thọ thì sẽ chuyên trách về các nghiệp vụ bảo hiểm như bảo hiểm hàng hoá, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm thân tàu… Như vậy sẽ mạch lạc hơn trong hoạt động của các nghiệp vụ bảo hiểm. Hỗ trợ nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ quản lý của cán bộ nhân viên trong Hiệp hội Hiệp hội cần đào tạo và nâng cao thường xuyên trình độ chuyên môn của các cán bộ công nhân viên chuyên về bảo hiểm hàng hải nói chung, bảo hiểm hàng hoá XNK nói riêng, nhất là về việc thực hiện bồi thường tổn thất. Hiệp hội có thể tổ chức các khoá tập huấn, các buổi hội thảo… chuyên về bảo hiểm hàng hoá XNK cho các thành viên với tần suất cao hơn và quy mô rộng hơn. Cải thiện hoạt động liên quan đến việc nghiên cứu, đánh giá, định hướng chung cho thị trường và cập nhật thông tin Mặt hạn chế lớn nhất hiện nay của Hiệp hội có thể nói đó là việc cung cấp thông tin liên quan đến bảo hiểm còn chậm chạp, không cập nhật và đầy đủ. Do đó, Hiệp hội cần thường xuyên cập nhật thông tin, đưa ra các số liệu thống kê, các bài phân tích liên quan đến tình hình bảo hiểm, bồi thường, các thuận lợi và khó khăn liên quan đến bảo hiểm hàng hoá XNK lên trên website, tạp chí chuyên ngành để các nhà bảo hiểm hàng hoá XNK có tư liệu để xem xét, phân tích tình hình kinh doanh của mình và đưa ra các chiến lược phát triển đúng đắn. Thêm vào đó, Hiệp hội cần phải có mối quan hệ thường xuyên với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước để nắm rõ tình hình hoạt động của mỗi doanh nghiệp trên thị trường; cần hợp tác với các hội, hiệp hội bảo hiểm khác trên thế giới để có thể giao lưu, học hỏi kinh nghiệm về bồi thường hàng hoá và các vấn 92 đề khác. Thực hiện tốt các nhiệm vụ này, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam mới có thể phát huy hết vai trò và chức năng của mình trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, góp phần định hướng và đánh giá toàn bộ thị trường bảo hiểm Việt Nam. 2.3 Đối với Nhà nƣớc Việt Nam chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường nhưng không thể vì vậy mà vai trò của Nhà nước bị mờ nhạt, giảm sút. Trong bối cảnh đó, các cơ quan chức năng Nhà nước càng phải thể hiện vai trò to lớn của mình thông qua việc định hướng, đưa ra các chính sách, chiến lược phát triển phù hợp cho ngành bảo hiểm nói chung. Dựa vào đó mà các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam mới có thêm sự hỗ trợ để phát triển và cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong các cơ chế chính sách mà Nhà nước ban hành Nhà nước cần phải hoàn thiện môi trường pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động. Do vậy, phải đẩy mạnh công tác xây dựng, bổ sung các quy định pháp lý mới phù hợp với môi trường kinh doanh bảo hiểm ngày nay, đồng thời sửa đổi các quy định, thủ tục rườm rà, chồng chéo nhau gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của công ty bảo hiểm. Nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp mà chỉ nên giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua các chỉ tiêu về hoạt động của doanh nghiệp và kiểm tra, xử lý các sai phạm. Việc đưa ra các quy định pháp lý đó phải phù hợp với các thông lệ, tập quán quốc tế về bảo hiểm – bồi thường hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển tạo môi trường thống nhất cho sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và nước ngoài. 93 Mở rộng quan hệ với các nước khác trên thế giới Nhà nước cần mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm giúp các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam dần dần hướng đến thị trường quốc tế, mở rộng thị phần ngoài nước. Qua đó, doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có cơ hội học hỏi kinh nghiệm từ các nước có lịch sử bảo hiểm hàng hoá phát triển lâu đời (Anh, Italia…) về chiến lược phát triển, công tác quản lý tổn thất, phương pháp bồi thường – giám định có hiệu quả. Thường xuyên kiểm soát hoạt động của thị trường Nhà nước cần lưu ý sự cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay trong việc giảm phí bảo hiểm, mở rộng phạm vi bảo hiểm quá mức để cạnh tranh giành khách hàng và có biện pháp xử lý kịp thời. Xây dựng chiến lược phát triển phù hợp chung cho toàn thị trường Các cơ quan chức năng Nhà nước cũng phải thường xuyên cập nhật thông tin, thực hiện các cuộc điều tra, thống kê về tình hình tổn thất, chất lượng giám định và hiệu quả công tác bồi thường của toàn thị trường bảo hiểm, đặc biệt là hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm để từ đó đưa ra các khuyến nghị hợp lý cho doanh nghiệp bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hoá. Đồng thời cùng với các doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng chiến lược phát triển lâu dài cũng như trước mắt về sự phát triển bền vững của dịch vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển. Những biện pháp nêu trên đối với PJICO, với Nhà nước và các bên liên quan đều có tác động tới hiệu quả, chất lượng công tác bồi thường tổn thất của PJICO. Với sự nỗ lực thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất và lâu dài có thể giúp rút ngắn thời gian bồi thường, số tiền bồi thường không hợp lý được giảm thiểu, tránh được tình trạng trục lợi bảo hiểm và nâng cao uy tín của Công ty. Kết quả của những sự cải thiện trên chính là làm tăng hiệu quả kinh doanh 94 nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển tại PJICO, thực hiện được những mục tiêu và định hướng đề ra trong giai đoạn tới của Công ty. Ngoài ra, tác động đó không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của riêng Công ty mà còn giúp khách hàng nhanh chóng khôi phục được hoạt động kinh doanh sau khi gặp tổn thất, phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam và làm tăng hiệu quả kinh 95 tế – xã hội của đất nước. KẾT LUẬN Bài Khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Đánh giá công tác bồi thường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển tại Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội giai đoạn 2006 – 2008 và định hướng giai đoạn tới” hoàn thành đã giải quyết được các mục tiêu nghiên cứu đề ra. Qua bài nghiên cứu có thể rút ra một số điểm chính sau: Giám định và bồi thường tổn thất hàng hoá là hai công tác rất quan trọng trong hoạt động bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển. Dựa vào đó Người được bảo hiểm và Người bảo hiểm tính toán số tiền bồi thường chính xác, đảm bảo hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Do tầm quan trọng của hai nghiệp vụ này nên nhiều kinh nghiệm về rủi ro, tổn thất và cách tính toán bồi thường đã được thống kê và đúc kết lại tạo ra một nguồn kiến thức bổ ích. PJICO là một trong bốn công ty bảo hiểm hàng đầu và là công ty hoạt động có hiệu quả nhất trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Trong thời gian qua, Công ty đã thực hiện công tác giám định – bồi thường khá tốt và áp dụng một quy trình chung trong toàn bộ hệ thống Công ty. Nhiều nhân tố cả khách quan và chủ quan tác động tới hiệu quả công tác bồi thường của PJICO. Tuy nhiên, những yếu tố thuận lợi bên ngoài cùng với những điểm mạnh bên trong Công ty đã phần nào giảm bớt được những khó khăn, những hạn chế trong công tác bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển tại PJICO. Nhờ đó, hiệu quả công tác bồi thường bảo hiểm nói riêng và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển có 96 kết quả tích cực trong những năm gần đây. Với chiến lược phát triển thành Tổng công ty bảo hiểm hàng đầu Việt Nam và tiếp tục duy trì vị thế trên thị trường bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển, PJICO cần nỗ lực rất nhiều để thực hiện những giải pháp nhằm phát huy những điểm mạnh, tận dụng thời cơ và giải quyết những khó khăn, hạn chế đến mức tối đa những điểm yếu còn tồn tại trong Công ty. Nâng cao hiệu quả công tác bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển là nhiệm vụ chính của Công ty, tuy nhiên bên cạnh đó cần có sự phối hợp với các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam và vai trò quản lý của Nhà nước. Những nghiên cứu trong Khoá luận phần nào giúp làm sáng tỏ hơn quy trình giám định – bồi thường tổn thất hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển trên lý thuyết và trong thực tiễn. Đồng thời, Khoá luận còn đem lại những thông tin cần thiết, những đánh giá khách quan về hoạt động bồi thường bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển tại PJICO. Để hoàn thành Khoá luận tốt nghiệp một cách tốt nhất, em xin cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của TS. Trần Sĩ Lâm, giảng viên Bộ môn Vận tải – Bảo hiểm cùng sự giúp đỡ của các anh chị làm việc tại Văn phòng Công ty PJICO Hà Nội. Do còn hạn chế về thời gian, kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn về bảo hiểm hàng hoá XNK nên bài khoá luận có thể còn có nhiều sai sót, mong Thầy Cô và các bạn đọc đóng góp ý kiến cho Khoá luận hoàn chỉnh hơn. 97 Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Sách và văn bản 1. Bộ Tài chính (2007), Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2006, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội. 2. Chính phủ (2003), QĐ 175/2003/QĐ-TTg về phê duyệt “Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010”. 3. Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (2007), Bản cáo bạch.
4. Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (2007), Quy trình giám định bảo hiểm hàng hoá QT.26.2. 5. Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (2007), Quy trình bồi thường bảo hiểm hàng hoá QT.26.3. 6. Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex, Báo cáo thường niên (2006, 2007, 2008) 7. Đỗ Hữu Vinh (2003), Bảo hiểm và Giám định hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội. 8. Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (2007), Báo cáo hoạt động Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam năm 2007. 9. Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (2007), Cẩm nang bảo hiểm Phi nhân thọ, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội. 10. Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (2007), Thống kê bảo hiểm Phi nhân thọ năm 2007. 11. Hoàng Văn Châu (2006), Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, (trang 5 – 63), Hà Nội. 12. Hồ Thuỷ Tiên (2007), Bảo hiểm hàng hải, Nhà xuất bản Tài chính, thành phố Hồ Chí Minh. 13. Nguyễn Văn Định (2005), Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, Nhà 98 xuất bản Thống kê, (trang 423 – 485), Hà Nội. 14. Nguyễn Vũ Hoàng (2001), Những khía cạnh kinh tế và luật pháp về bảo
hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển trong thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 15. Quốc hội ban hành (2000), Luật Kinh doanh bảo hiểm, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 16. Quốc hội ban hành (2005), Bộ luật Hàng hải Việt Nam.
17. Tạp chí Bảo hiểm – Tái bảo hiểm (Số 1 tháng 2/2008), Bảo hiểm hàng hoá 2007. 18. Trương Mộc Lâm (2002), Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm hàng hoá, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. II. Các website 19. http://www.webbaohiem.net/index.php/Tong-quan-thi-truong/Tong-quan- thi-truong-2006.html 20. http://www.webbaohiem.net/index.php/Tong-quan-thi-truong/Tong-quan- thi-truong-2007.html 21. http://www.webbaohiem.net/index.php/Tong-quan-thi-truong/Tong-quan- thi-truong-BH-VN-2008.html 22. http://www.baoviet.com.vn/print.asp?newsid=1056&lang=VN
23. http://www.avi.org.vn/thitruong/214/default.aspx
24. http://www.webbaohiem.net/index.php/Tong-quan-thi-truong/Thi-truong- bao-hiem-hang-hai-Viet-Nam-nam-2007.html 25. http://atpvietnam.com/vn/thongtinnganh/27151/index.aspx
26. http://www.pjico.com.vn
27. http://www.baohiem.pro.vn/, Bảo hiểm phi nhân thọ: thận trọng kế hoạch kinh doanh 2009 28. http://vietchinabusiness.vn/kinh-te/tieu-diem/1874-nhin-lai-hoat-dong- kinh-doanh-cua-cac-doanh-nghiep-bao-hiem-nam-2008.html 99 29. http://www.hce.edu.vn/hsv/showthread.php?t=5145
30. http://www.bhnt.com.vn/vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1180 100 31. http://www.baohiem.pro.vn/Ins_News_Article.asp?CatID=66&ID=26601.4 Vai trò của bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đƣờng biển
2006
2007
2008
STT
Các nghiệp vụ
Giá trị TT Giá trị TT Giá trị
TT
1. BH xe cơ giới
2. BH hàng hoá
3. BH tàu thuỷ, P&I
4. BH Con người
5.
6. BH kỹ thuật
7. BH khác
Tiến trình
Trách nhiệm
Điểm mạnh
Điểm yếu
Ngoài
Công ty
Trong
Công ty