intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT CÁC GÃY Ổ CỐI

Chia sẻ: Van Tien | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

128
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu: Gãy ô cối vẫn còn là thách thức đối với các phẫu thuật viên chấn thương hỉnh hình cho dù hiện nay có nhiều phương tiện hổ trợ về chẩn đoán cũng như điều trị. Nhằm góp phần tích lũy kinh nghiệm cho việc điều trị loại gãy này chúng tôi thực hiện đề tài về phẫu thuật ổ cối có đánh giá kết quả nắn sau mổ và kết quả cơ năng với thời gian theo dõi từ 4 tháng trở lên. Phương pháp nghiên cứu và kết quả: Số liệu thu thập trong năm tháng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT CÁC GÃY Ổ CỐI

  1. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT CÁC GÃY Ổ CỐI TÓM TẮT Mục tiêu: Gãy ô cối vẫn còn là thách thức đối với các phẫu thuật viên chấn thương hỉnh hình cho dù hiện nay có nhiều phương tiện hổ trợ về chẩn đoán cũng như điều trị. Nhằm góp phần tích lũy kinh nghiệm cho việc điều trị loại gãy này chúng tôi thực hiện đề tài về phẫu thuật ổ cối có đánh giá kết quả nắn sau mổ và kết quả cơ năng với thời gian theo dõi từ 4 tháng trở lên. Phương pháp nghiên cứu và kết quả: Số liệu thu thập trong năm tháng 8/2005 đến tháng 10/2006 tại khoa chấn thương chỉnh hình BV Chợ Rẫy có 30 ca phẫu thuật ổ cối trong trong tổng số 78 ca gãy khung chậu và ổ cối. Có ba trường hợp mổ muộn từ 3-6 tháng. Về chẩn đoán, ngoài X-quang thường quy chúng tôi có được 25 ca (83%) chụp CT đa lớp cắt. Về phân loại chúng tôi tiếp tục sử dụng phổ biến của Tile, được phân bố như sau: loại A có 8 ca, loại B có 15 và loại C có 7 ca. Về đường mổ thường dùng nhất là Langenbeck Kocher với 14 trường hợp, đường chậu bẹn 9 trường hợp,
  2. đường ba tia có 3 trường hợp; đặc biệt năm 2006 chúng tôi bắt đầu sử dụng đường mổ chậu đùi với 4 trường hợp, bước đầu nhận thấy có nhiều thuận lợi.. Đánh giá kết quả nắn chỉnh sau mổ tỷ lệ đạt tốt và khá tương đối cao với 27 trường hợp; kết quả cơ năng cũng rất khả quan. Về biến chứng có 2 trường hợp nhiểm trùng, trong đó 1 ca phải lấy dụng cụ sớm, sau đó nhiểm trùng ổn và mổ thay khớp hang toàn phần. Kết luận: Nhờ chẩn đoán tương đối đầy đủ với X-quang thường quy kết hợp với CTscan để biết được các đường gãy nhờ đó để chọn đường mổ thích hợp. Kết quả nắn chỉnh có liên quan loại gãy, mức độ di lệch và thời gian từ khi bị chấn thương đến khi phẫu thuật; kết quả cơ năng tùy thuộc vào kết quả nắn chỉnh. ABSTRACT Objective : Acetabular fractures is still a challenge for orthopaedist although nowadays there are many ways to support the diagnosis and treatment. In order to get more experience on dealing with this kind of fracture we perform the work on acetabular surgery, evaluating the reduction outcome and functional outcome. Methods and Materials: The material collected from 8/2005 to 10/2006 at the Orthopedic Surgery Department of Chợ Rẫy hospital, there
  3. were 30 cases of acetabular fracture dealt with surgery, 3 of them come late after 3-6 months.. As for diagnosis, besides the clinical findings and conventional X-ray, we had 25 cases (83%) taken multi-slices. As for classification, we continued to apply the comprehensive classification of M. Tile; the fractures were disposed into three main types A, B and C, with 8 cases of A, 15 cases of B and 7 cases of C. As for surgical approaches, the Kocher- Langenbeck was the most applied with 14 cases, 9 cases of the ilio- inguinal and 3cases of the tri-radiate. Specially, this year 2006 we began to apply the Ilio-femoral approach with 4 cases; the preliminary appreciation is quite useful.. As for evaluating result, the quality of post-operative reduction is encouraging with 27 cases of excellent and good; the functional outcome is also encouraging. Finally, about complication, we had 2 cases infected, one superficial and one deep infection; for the second one we had removed the plates and screws and performed total hip arthroplasty later. Conclusion: Based on X-ray and CTscan we can know the detail of fracture lines, then choose a appropriat approach. The functionoutcome depends on the reduction outcome ĐẠI CƯƠNG Phẫu thuật ổ cối trở thành thường qui tại bệnh viện Chợ Rẫy, số lượng bệnh nhân của loại gãy này vẫn cao do tình trạng giao thông của nước ta
  4. chưa được cải thiện, đây cũng là thuận lợi cho chúng tôi có cơ hội thực hiện loại phẫu thuật tương đối phức tạp này, một số cải tiến trong công việc đã góp phần nâng cao hiệu quả điều trị. Trong năm 2006, lần đầu tiên chúng tôi sử dụng đường mổ chậu đùi mà trước đây chúng tôi nghĩ rằng sẽ gặp khó khăn do bóc tách cơ quá rộng nhưng thực tế khi áp dụng đường mổ này trong một số trường hợp nhất định thấy rất có hiệu quả. Có 3 trường hợp gãy ổ cối đến muộn, một ca cal lệch, một ca trật khớp háng và một ca bán trật khớp được phẫu thuật kết quả khả quan. Chẩn đóan hình ảnh X-quang Chụp ba tư thế: tư thế thẳng và hai tư thế Le Tournel là tư thế chéo chậu và tư thế chéo bịt. CT scan Chụp CT cắt lớp cho ta hình ảnh chi tiết các đường gãy. Chụp CT đa lớp cắt cho ta toàn cảnh của khung chậu và ổ cối, dễ hình dung và nhờ đó có thể phác họa các đường gãy lên mô hình xương. Chúng tôi có 25/30 trường hợp được chụp CT đa lớp cắt, làm thuận lợi cho công việc chuẩn bị trước mổ và lưu giữ làm tài liệu khoa học.
  5. Hình CT đa lớp cắt Phân loại các gãy ổ cối Như chúng ta đã biết phân loại ổ cối đầu tiên của Le Tournel từ năm 1964 đến nay vẫn còn hiệu lưc, nó làm cơ sở cho các bảng phân loại mới sau này. Năm 1990, nhóm AO đưa ra bảng phân loại gãy ổ cối theo độ A,B và C với độ nặng tăng dần.
  6. Hình 1: Phân loại theo AO (1990) M.Tile đưa ra bảng phân loại phổ biến khi bổ sung các tính chất của gãy xương ổ cối: Type A: Gãy một phần khớp, chỉ tổn thương một trụ. A1: Gãy vách sau. A2: Gãy trụ sau. A3: Gãy vách trước hoặc trụ trước. Type B: gãy một phần khớp (gãy ngang hay gãy chữ T, tổn thương cả hai trụ). B1: Gãy ngang. B2: Gãy chữ T. B3: Gãy trụ trước và ngang nửa sau. Type C: Gãy mặt khớp toàn phần (gãy cả hai trụ, ổ cối bập bềnh). C1: Gãy hai trụ, đường gãy cao.
  7. C2: Gãy hai trụ, đường gãy thấp. C3: Gãy hai trụ kèm tổn thương khớp cùng chậu. Hình 2: Phân loại theo M.Tile Hiện tại khoa chấn thương chỉnh hình bệnh viện Chợ Rẫy đang áp dụng bảng phân loại nầy(3).Việc vận dụng bảng phân loại phổ biến là cần thiết cho mục đích thu thập tư liệu phục vụ cho việc đánh giá kết quả điều trị cũng như dự kiến về tiên lượng; tuy nhiên nó ít quan trọng trong việc ra quyết định điều trị cho từng trường hợp cụ thể. Vế giải phẫu học ổ cối được chia làm hai trụ và hai vách. Tất cả các gãy ổ cối về mặt giải phẫu đều là sự hoán vị và kết hợp của các thành phần trên. Do đó, về lý thuyết, có thể là gãy trụ trước, trụ sau, hoặc cả hai trụ. Nếu
  8. cả hai trụ bị tổn thương có thể là kiểu gãy ngang. Nếu hai trụ bị tách rời nhau là kiểu gãy chữ T. Trong kiểu gãy ngang và gãy chữ T thì một phần của mặt khớp còn liên tục với cánh chậu nguyên vẹn phía bên trên.Trường hợp các mảnh gãy của ổ cối hoàn toàn tách rời cánh chậu thì gọi là gãy hai trụ phức tạp (kiểu C), đây thực sự là một biến thể của kiểu gãy chữ T trên cao trong đó có đường gãy ngang làm tách rời ổ cối khỏi cánh chậu và được gọi là “ổ cối bập bềnh”, khi ấy trụ sau thường bị tách ra và di lệch. Vách trước và vách sau của ổ cối đều có thể bị tổn thương cùng lúc trong các kiểu gãy khác nhau và khi đó kết hợp với trật khớp ra sau hoặc ra trước. Chỏm xương đùi cũng có thể trật khớp trung tâm xuyên qua diện vuông. Phẫu thuật viên phải biết các loại gãy cơ bản, và quan trọng là phải đọc được các hình ảnh học và vẽ được các đường gãy lên mô hình xương. Tất cả phẫu thuật viên khung chậu và ổ cối đều phải thực hiện điều này, kể cả người có nhiều kinh nghiệm; việc này rất cần thiết trong việc chuẩn bị trước mổ. Một yếu tố khác cần phải xem xét đó là các yếu tố về tính chất của gãy xương có ảnh hưởng đến tiên lượng đó là: +Vị trí giải phẫu?
  9. +Lực tác động nhẹ hay mạnh? +Mức độ và hướng di lệch? +Có trật khớp háng hay không? +Gãy có nhiều mảnh rời? +Mặt khớp của chỏm hoặc ổ cối có bị tổn thương? +Bờ ổ cối có bị lún? +Ngoài ra còn yếu tố về cơ địa như tuổi tác, mức độ loảng xương. Việc ra quyết định điều trị phải được xem xét cho từng trường hợp cụ thể. Chọn đường mổ(1,2) Đường Kocher- Langenbeck được sử dụng nhiều nhất, chúng tôi thích đặt tư thế nằm sấp hơn là nằm nghiêng để dễ tiếp cận với vách sau và trụ sau khi nắn chỉnh đặt nẹp. Đường mổ chậu bẹn cũng được sử dụng khi có tổn thương của trụ trước, vách trước và ngay cả gãy hai trụ phức tạp (loại C). Đường mổ ba tia được áp dụng cho các gãy hai trụ phức tap mà đường Kocher-Langenbeck không thể tiếp cận được, khi ấy thêm đường rạch phía trước của đường Kocher-Langenbeck để thành đường mổ ba tia.
  10. Năm 2006, chúng tôi sử dụng đường mổ chậu đùi (Ilio-femoral), đây là đường mổ phía sau cho các trường hơp gãy phức tạp. Trước đây chúng tôi ngần ngại chưa sử dụng vì phải bóc cơ và màng xương khá rộng sợ nguy cơ biến chứng, nhưng trên y văn có nhiều tác giả sử dụng nên chúng tôi thử và thấy rất hữu ích. Trong 30 ca phẫu thuật, chúng tôi sử dụng đường mổ Kocher- Langenbeck 14 ca, đường chậu bẹn 9, đường ba tia 3 và đường chậu đùi 4. Phẫu thuật các ổ cối đến muộn(4) Có 3 ca gãy ổ cối đến muộn. Trong đó có một trường hợp cal lệch đã được mổ cắt xương sửa trục. Một ca trật khớp háng ra sau do gãy vách sau chưa được xử trí, chúng tôi phải ghép xương tạo hình vách sau. Một ca bán trật khớp háng sau phẫu thuật ổ cối 6 tháng, chúng tôi lấy nẹp củ, ghép xương để tạo hình vách sau. KẾT QUẢ Phân bố theo giới và tuổi Có 20 nam và 10 nữ Lớp N Tỷ tuổi lệ%
  11. 16-30 11 37 31-40 8 27 41-50 7 23 51-60 3 10 >60 1 3 Loại gãy Loại A: có 8 ca trong đó trụ sau và vách sau là 6, trụ trước là 2. Loại B: có15 ca, trong đó gãy ngang là 6, gãy chữ T là 5 và gãy trụ trước và ngang nửa sau là 4. Loại C: có 7 ca, trong đó C thấp là 3, C cao là 2 và phạm khớp cùng chậu có 2. Đường vào Đường chậu bẹn có 9 trường hợp. Đường Kocher-Langenbeck có 14 trường hợp. Đường ba tia có 3 trường hợp. Đường chậu đùi có 4 trường hợp.
  12. Thời gian phẫu thuật 21 ngày có 4 ca, trong đó có một ca 4 tháng bị trật khớp muộn và 6 tháng bị bán trật khớp hang sau phẫu thuật. Kết quả nắn chỉnh sau mổ: dựa trên X-quang kiểm tra. Kết N Tỷ quả lệ% Tốt 17 57 Khá 10 33 Xấu 3 10 Kết quả cơ năng Đánh giá cơ năng dựa vào chỉ số Merle d’Aubigné, tốt chỉ số 5, trung bình chỉ sổ 3-4 và xấu chỉ số 1-2.
  13. Kết N Tỷ quả lệ% Rất tốt 10 33 Tốt 12 40 Trung 7 24 bình Kém 1 3 KẾT LUẬN Phẫu thuật ổ cối vẫn còn là thách thức đối với các phẫu thuật viên chỉnh hình cho dù thời đại ngày nay có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán cũng như các phương tiện hổ trợ trong điều trị. Để đạt kết quả tối ưu cần chẩn đoán đầy đủ các thương tổn, vẽ các đường gãy lên mô hình xương, lựa chọn đường mổ, mổ sớm khi có thể.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2