intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đào tạo nhiếp ảnh ở bậc Cao đẳng, Đại học - Con đường còn lắm gian truân

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

119
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ruộng lua - Ảnh: NGUYỄN DẦN Thế giới phát minh ra nhiếp ảnh năm 1839, chỉ 30 năm sau nó đã được du nhập vào Việt Nam. Như vậy, cho đến nay, nhiếp ảnh đã có mặt tại Việt Nam 136 năm. Trong suốt chặng đường đó, phần lớn những người cầm máy của Việt Nam (chụp ảnh báo chí, nghệ thuật, dịch vụ…) đều bằng con đường “mò mẫm tự học hỏi”, chỉ một số rất ít được “đào tạo bài bản” tại các trường đại học ở nước ngoài (phần lớn là ở CHDC Đức và Liên Xô…)....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đào tạo nhiếp ảnh ở bậc Cao đẳng, Đại học - Con đường còn lắm gian truân

  1. Đào tạo nhiếp ảnh ở bậc Cao đẳng, Đại học - Con đường còn lắm gian truân Ruộng lua - Ảnh: NGUYỄN DẦN Thế giới phát minh ra nhiếp ảnh năm 1839, chỉ 30 năm sau nó đã được du nhập vào Việt Nam. Như vậy, cho đến nay, nhiếp ảnh đã có mặt tại Việt Nam 136 năm. Trong suốt chặng đường đó, phần lớn những người cầm máy của Việt Nam (chụp ảnh báo chí, nghệ thuật, dịch vụ…) đều bằng con đường “mò mẫm tự học hỏi”, chỉ một số rất ít được “đào tạo bài bản” tại các trường đại học ở nước ngoài (phần lớn là ở CHDC Đức và Liên Xô…). Có một điều gần như là thực tế, trong một thời gian khá dài, nhiếp ảnh ít được coi trọng, những người cầm máy ảnh (bất kể thuộc lĩnh vực nào), dưới con mắt mọi người trong xã hội đơn thuần là “thợ ảnh”,
  2. “phó nhòm”… để rồi, thành ấn tượng không tốt là “dân” nhiếp ảnh “ít học” - bởi vì ở Việt Nam làm gì có trường trung cấp, cao đẳng hay đại học đào tạo nhiếp ảnh??? 10 năm trở lại đây, nhiếp ảnh Việt Nam đã có các cơ sở đào tạo được coi là “bài bản” ở bậc đại học. Tuy nhiên chương trình đào tạo không thống nhất, không có nhiều giảng viên chuyên nghiệp chuyên trách nên việc ra được giáo trình chung (mang tính toàn quốc) cho ngành Nhiếp ảnh là điều không dễ. Chính vì vậy, ngành giáo dục, ngành nhiếp ảnh và các ngành có liên quan cần phải ngồi lại với nhau, để tìm ra được một hướng đi đúng đắn cho việc đào tạo nhiếp ảnh ở Việt Nam. 1/Đội ngũ giáo viên: Quá thiếu và chắp vá Khoa Nhiếp ảnh của Trường đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội hiện nay, chỉ có hai người: một trưởng khoa, một trợ lý. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền thì khá hơn: có ba giảng viên nhiếp ảnh. Đội ngũ này đồng thời cũng làm luôn chương trình đào tạo nhiếp ảnh “hộ” Khoa Báo chí Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. Ngành Báo chí Khoa Ngữ Văn trường Đại học Huế chỉ có một giảng viên là sinh viên ngữ văn mới ra trường được giữ lại khoa, cho đi học một khóa Nhiếp ảnh ba tháng tại một trung tâm đào tạo nhiếp ảnh ở Hà Nội. Đến chuyên ngành Thông tin cổ động quảng cáo Khoa Văn hóa quần chúng Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, thì trưởng bộ môn chính là giảng viên nhiếp ảnh duy nhất của trường. Trường Cao đẳng Nghệ
  3. thuật Hà Nội cũng không nằm ngoài tình hình chung đó. Tại thành phố Hồ Chí Minh cũng không khác gì các trường nghệ thuật tại miền Bắc và miền Trung: có bộ môn nhiếp ảnh, có học phần nhiếp ảnh, giáo viên “kiêm nhiệm” mời từ ngoài vào … Ngoài ra, để làm phong phú hơn cho nội dung giảng dạy (vì những giảng viên này cũng không thể và không đủ chuyên môn để ôm hết việc), các trường có mời những nhà nhiếp ảnh có nghiệp vụ, tên tuổi vào giảng, trao đổi kinh nghiệm, nói chuyện với sinh viên - phần lớn các vị “khách mời” này đến từ Thông tấn xã Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, phóng viên ảnh một số báo lớn. Nhưng việc mời này luôn bị động vì các “khách mời” này phải sắp xếp thời gian, công việc của mình… 2/ Nội dung đào tạo: Phần lớn mới chỉ giúp sinh viên biết “bấm máy” (trừ một vài trường có chuyên ngành chính thức) Nội dung giảng dạy chính của Khoa Nhiếp ảnh Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội có 21 môn đại cương và 10 môn chuyên ngành. Với 10 môn chuyên ngành này, khoa cố gắng cung cấp kiến thức nhằm giúp sinh viên có một nền tảng chuyên môn nghiệp vụ tốt khi ra trường. Tuy nhiên, thời gian dành cho chuyên ngành như vậy là quá ít, các môn học đại cương quá nhiều. Việc đào tạo phóng viên ảnh của Khoa Báo chí Phân viện Báo chí và Tuyên truyền cũng đã được chú trọng với 450 tiết chuyên ngành. Đồng
  4. thời, nhà trường cũng đã đầu tư cho các sinh viên các trang thiết bị hiện đại khi theo học chuyên ngành ảnh. Còn lại, hầu hết các trường có bộ môn, môn học nhiếp ảnh mới chỉ cung cấp kiến thức của “thợ ảnh”, dạy cho sinh viên biết sử dụng máy ảnh thông qua những tiết học cơ bản. Có nghĩa là, giúp họ những kiến thức sơ đẳng nhất để có một bức ảnh hoàn chỉnh. Thực tế cho thấy, trừ những sinh viên theo học chuyên ngành ảnh thì có nhiều thời gian cho thực tế, thực hành. Còn lại, hầu như chỉ được học lý thuyết, thời gian dành cho thực hành quá ít - chỉ duy nhất có một buổi, cùng với giáo viên đi đến một nơi nào đó, vài ba người dùng chung một cái máy ảnh, bấm chung một cuộn phim theo một đề tài mà giáo viên đưa ra… Vậy nên cái việc chụp này cũng chỉ mang tính hình thức, có thể một người “làm luôn” cho cả vài ba người và giáo viên cũng “dễ dàng” cho qua. Có một điều đáng chú ý, hiện nay, tất cả các trường (kể cả trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội) đều chưa có ngành lý luận - là một vấn đề cần phải được quan tâm đặc biệt. 3/ Việc đầu tư cho giáo trình và chuẩn bị đội ngũ kế cận a/ Cần thiết phải có giáo trình chuẩn Yêu cầu cấp thiết trước mắt là phải ra được các giáo trình nhiếp ảnh chuẩn chung trên toàn quốc để sinh viên có thể tự học hỏi, tham khảo ở
  5. nhà. Đội ngũ những người làm công tác giảng dậy nhiếp ảnh, những nhà chuyên môn, những nhà lãnh đạo các cơ quan ảnh cần “gắn kết” nhau lại để tập hợp lực lượng, tạo sức mạnh chung cho sự nghiệp giáo dục nhiếp ảnh của nước nhà. Việc ra giáo trình về kỹ thuật cơ bản thì tương đối dễ, chúng ta có thể tham khảo giáo trình của các trường đại học nhiếp ảnh của các nước trên thế giới: Liên Xô, Pháp, Đức, Mỹ, Trung Quốc… để đưa ra những kiến thức chung nhất đã được kiểm nghiệm và khẳng định kể từ khi nhiếp ảnh ra đời. Nhưng việc viết giáo trình về “Nhiếp ảnh Việt Nam” thì không dễ chút nào. Nghĩa là phải tạo dựng được một nền Nhiếp ảnh Việt Nam mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc? Để từ đó có thể đưa ra câu trả lời về nền Nhiếp ảnh Việt Nam, về công tác Lý luận phê bình của Nhiếp ảnh Việt Nam… b/ Cần đầu tư cho đội ngũ kế cận Trước đây, khi nhiếp ảnh chưa được đào tạo hệ Cao đẳng, Đại học thì sự hẫng hụt về công tác giảng dậy nhiếp ảnh chưa là vấn đề cấp thiết. Nhưng giờ, mọi việc đã khác. Đội ngũ giáo viên nhiếp ảnh quá mỏng, thế hệ những người được đào tạo bài bản về nhiếp ảnh ở nước ngoài đều đã ngoài 50. Nhu cầu cần có một đội ngũ kế cận làm công tác giảng dậy nhiếp ảnh là có thực và rất cần.
  6. Việc tìm kiếm nguồn cho công tác giảng dạy nhiếp ảnh là không dễ. Ngay từ bây giờ, chúng ta cần phải tập trung nguồn nhân lực cho việc tìm kiếm và đào tạo những người kế cận. Và vấn đề này phải được nhìn nhận như một nhu cầu bức thiết đối với những người làm công tác giáo dục. Nhân đây, tôi cũng xin được đưa ra một số kiến nghị của mình đối với công việc đào tạo Nhiếp ảnh: - Ngay từ bậc Tiểu học, học sinh đã được làm quen với việc học vẽ (ngành Mỹ thuật), học hát (ngành Âm nhạc)… Với Nhiếp ảnh, nên chăng, khi chưa thật sự có điều kiện (vì quá tốn kém cho việc đầu tư kinh phí) chúng ta đưa nhiếp ảnh vào môn học nghệ thuật tự chọn cho học sinh ở bậc Trung học phổ thông (hoặc Trung học cơ sở thì càng tốt) để học sinh tham gia trong dịp hè bằng cách tham gia vào các Câu lạc bộ (như ở nhiều nước trên thế giới đã và đang làm), từ đó tạo cho các em niềm yêu thích và định hướng cho việc lựa chọn ngành học của mình sau này. - Cần đầu tư kinh phí để cho các giáo viên trẻ (mới được giữ lại trường - đội ngũ kế cận) sang học hỏi nâng cao tại các nước có nền nhiếp ảnh tiên tiến, có các trường đại học Nhiếp ảnh… - Ở các trường có Khoa Nhiếp ảnh, số lượng “đầu vào” nên hạn chế, mỗi lớp chỉ nên từ 10 đến 15 sinh viên. Nhất thiết phải có chuyên
  7. ngành lý luận.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2