Niềm tự hào ca giới nhiếp ảnh
Trong hội hiện đại ngày nay, nếu coi việc trồng người là t
ối quan
trọng, thì Hi nghệ sỹ Nhiếp ảnh Việt Nam đã đạt đư
ợc một kỳch rực
rchưa từng có trong nền giáo dục nước ta từ trước tối nay, đó là H
ội
cùng Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh đề xuất mở lớp đào t
ạo nhiếp
ảnh bậc cao đẳng đã được Bộ Văn hóa Thông tin, nay là B
Văn
hóa Ththao và Du lịch, Bộ Giáo dục Đào tạo chấp thuận đ
ã ra
quyết định thành l
ập. Mỗi khóa tuyển sinh khoảng 25 đến 28 em, học
trong 3 năm. Đến nay đã 3 khóa cao đẳng 2 khóa đ
ại học tốt
nghiệp ra trường.
Do chất lượng đào tạo tốt, năm 2002, theo đề nghị của Trư
Sân khấu Điện nh, Bộ Giáo dục Đào tạo đã quy
ết định nâng lớp cao
đẳng lên bậc đại học với khóa học 4 năm. Năm 2005, đư
ợc sđồng ý
của Bộ, ntrường đã tách l
ớp nhiếp ảnh nằm trong Khoa Điện ảnh,
thành Khoa Nhiếp ảnh độc lập. Đây là ni
ềm vinh dự lớn đối với giới
nhiếp ảnh. Bởi chúng ta biết rằng, từ khi cụ Đặng Huy Trứ đưa k
thuật nhiếp ảnh vào nước ta năm 1869 (sau 30 năm ngày
ớc Pháp
công b
phát minh về nhiếp nh của Louis Jacque Mande Daguerre
ngày 19- 8-1839) cho đến cuối thế kỷ XX, trên đất
ớc Việt Nam
chưa bao giờ có một trường, lớp đào t
ạo nhiếp ảnh quy chính quy
của nhà nước. Tuy đã trải qua gần một thế kỷ rưởi tồn tại, ng
ành
nhiếp ảnh nước ta bước phát triển khá mạnh. Chúng ta đã m
ột
đội ngũ nhiếp ảnh lành nghề, trong đó một snghệ sỹ nổi tiếng nh
ư
Khánh Ký, Võ An Ninh, Đình Chử, Nguyễn Duy Kiên, Đ
Huân,
Nguyễn Mạnh Đan, Vượng đã đóng góp cho kho tàng ngh
thuật
nhiếp ảnh nước nhà nhiều tác phẩm giá trị. Nhưng các nnhi
ếp
ảnh y trưởng thành chyếu do học theo kiểu truyền nghề, kèm c
ặp,
người biết hướng dẫn người chưa biết, hoặc những người có trình đ
văn hóa, ngoại ngữ nhất định họ tự học qua sách vở của nước ngoài .
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt sau ng
ày
hòa bình lập lại năm 1954, một số cơ quan văn hóa và Thông tấn x
ã
Việt Nam có mở những lớp đào t
ạo nhiếp ảnh ngắn hạn, chủ yếu cung
cấp cho học viên những kiến thức bản về kỹ thuật nhiếp ảnh v
à
nghiệp vụ báo chí đkịp thời phục vụ nhiệm vụ chính trị. Nhiều n
i
trong shọ như Đinh Quang Thành, Văn Sắc, Minh Đạo, Trần S
ơn,
Quang Minh, Cao Phong đã gặt hái được những thành t
u đáng kể.
Sau ngày đất nư
ớc thng nhất năm 1975 Hội Nghệ sNhiếp ảnh Việt
Nam, một số Hội Nhiếp ảnh địa phương n H
ội Nhiếp nh Nghệ
thuật Hà Nội, Hội Nhiếp ảnh Tp. Hồ Chí Minh các câu l
ạc bộ văn
hóa cũng có tổ chức các lớp nhiếp ảnh và trại sáng tác cho những ai
ưa
thích nghệ thuật vẽ bằng ánh sáng này. Nhưng nhìn chung các l
ớp học,
chương trình giảng dạy chưa bài b
ản,chủ yếu truyền đạt kinh
nghiệm cho học viênlà chính.
Cũng trong thời gian này tuy chưa có đi
ều kiện mở lớp nhiếp ảnh chính
quy, nhưng Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến nhiếp ảnh, đã g
i một
slưu học sinh ra nước ngoài như Liên Xô, Cộng hòa Dân ch
Đức…
học về nhiếp ảnh. Chính ssinh viên tt nghiệp này vnước cùng v
ới
các giảng viên nhà trường trở thành lực
ợng giảng dạy chủ yếu của
Khoa Nhiếp ảnh. Số giảng viên này không chđược đào tạo b
ản về
chuyên môn, lý luận nghiệp vụ, mà đã kinh qua thực tiễn sáng tác, bi
ên
tập ảnh, làm báo ảnh… Nhiều người trong số hđã có nh
ững tác phẩm
được giải thưởng trong ngoài nước, trở thành các nhà nghsỹ, nh
à
luận phê bình. Nhvậy trong công tác giảng dạy của các thầy nh
ư
cnghệ s Lê Phức, Huyến, Chu Chí Thành, Mạnh Thường,
Khánh, Đình An, Văn Thành… có đ
ầy đủ kinh nghiệm truyền đạt cho
sinh viên những kiến thức cơ bản đã được kinh qua thực ti
ẽn Việt Nam.
Mặc dù việc thù lao cho công tác giảng dạy không đáng l
à bao nhưng
với nhiệt tình cng hiến cho sự nghiệp nhiếp ảnh các thầy đã mang đ
ến
cho các sinh vn không chđơn thuần học thuật, luận, mà c
những
kinh nghiệm tác nghiệp… Do đó nhiều sinh viên trong thời gian c
òn
ngồi trên ghế nhà trường, qua những chuyến đi sáng tác đã có
ảnh tham
gia triển lãm giành được giải thưởng trong các cuộc thi và triển l
ãm
ảnh của các tỉnh, của khu vực, hay toàn qu
ốc do Hội Nghệ sNhiếp