intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Dãy Balmer – Johann Jakob Balmer (1825–1898)

Chia sẻ: Quynh Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

128
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dãy Balmer là tên gọi của một tập hợp các vạch phổ Balmer là các vạch trong quang phổ hydro tạo ra bởi các chuyển tiếp giữa mức n = 2 và các mức cao hơn 2, hoặc là phát xạ, hoặc là hấp thụ, trong đó n là kí hiệu số lượng tử chính.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Dãy Balmer – Johann Jakob Balmer (1825–1898)

  1. Dãy Balmer – Johann Jakob Balmer (1825–1898), Thụy Sĩ Dãy Balmer là tên gọi của một tập hợp các vạch phổ Balmer là các vạch trong quang phổ hydro tạo ra bởi các chuyển tiếp giữa mức n = 2 và các mức cao hơn 2, hoặc là phát xạ, hoặc là hấp thụ, trong đó n là kí hiệu số lượng tử chính. Johann Jakob Balmer sinh ra ở Thụy Sĩ, học đại học ở Thụy Sĩ và ở Đức. Ông lấy bằng cử nhân toán học ở trường đại học Basel vào năm 1849 và sinh sống ở đó trong phần còn lại của đời ông. Ông bắt đầu sự nghiệp giảng dạy tại một trường nữ sinh và không có bất kì đóng góp thật sự nào cho lĩnh vực toán học cho đến khi 60 tuổi. Năm 1885, ông nghĩ ra một công thức khá đơn giản mô tả bước sóng cho các
  2. vạch phổ hydro. Điều này mang lại một khái niệm khái quát hóa cho các vạch phổ Balmer và dãy Balmer. Công thức trên hạn chế với các vạch phổ của nguyên tử hydro nhưng sau này được mở rộng để bao gồm cả các vạch phổ cho mọi nguyên t ố. Công thức Balmer là Trong đó λ là bước sóng, h là một hằng số có giá trị 3,6456.10-7 m hay 364,56 nm, n = 2 và m là một số nguyên lớn hơn 2. Balmer nghĩ ra công thức trên bằng cách thu thập bằng chứng theo lối kinh nghiệm và vì thế không thể nào giải thích tại sao công thức của ông lại đúng. (Đây là do sự thiếu kiến thức của ông và các nhà khoa học khác về cấu trúc của nguyên tử vào thời điểm ấy trong lịch sử) Sau này, vào năm 1888, Johannes Rydberg đã khái quát hóa công thức Balmer để sử dụng nó cho mọi chuyển tiếp đối với nguyên tử hydro. Bốn chuyển tiếp chính của hydro dựa trên các số lượng tử chính của electron trong nguyên tử hydro. Bước sóng và kí tự Hi Lạp đi cùng với các màu sắc khác nhau của quang phổ đó là λ = α, tại 656 nm, phát ra ánh sáng đỏ λ = β, tại 486 nm, phát ra ánh sáng lam-lục λ = γ, tại 434 nm, phát ra ánh sáng tím λ = δ, tại 410 nm, phát ra ánh sáng tím đậm Dãy Balmer quan trọng trong lĩnh vực thiên văn học vì nhiều ngôi sao trong vũ trụ tỏ ra dồi dào hydro. Ánh sáng sao có thể biểu hiện dưới dạng các vạch hấp thụ hoặc phát xạ trong quang phổ tùy thuộc vào tuổi của ngôi sao. Như vậy, dãy Balmer hỗ trợ xác định tuổi của các ngôi sao, vì các ngôi sao trẻ chủ yếu gồm hydro, và các ngôi sao già thì đã sử dụng gần hết hydro của chúng cho quá trình nhiệt
  3. hạch và đi đến một tỉ lệ cao hơn của các nguyên tố nặng hơn, do đó chúng không còn sáng rỡ nữa. Thuyết tương đối rộng: Sóng hấp dẫn Theo thuyết tương đối rộng, ngay cả không-thời gian trống rỗng, không có ngôi sao và thiên hà nào, cũng có một cuộc sống của riêng nó. Các gợn sóng gọi là sóng hấp đẫn có thể truyền qua không gian theo kiểu giống hệt như các gợn sóng lan đi trên mặt hồ nước. Một trong những phép kiểm tra còn lại của thuyết tương đối rộng là đo các sóng hấp dẫn một cách trực tiếp. Để kết thúc câu chuyện này, các nhà vật lí thực nghiệm đã xây dựng Đài thiên văn Sóng hấp dẫn Giao thoa kế laser (LIGO) ở Hanford, Washington, và Livingston, Louisiana. Mỗi thí nghiệm gồm các chùm laser phản xạ giữa các gương đặt cách nhau 4 km. Nếu một sóng hấp dẫn đi qua, nó sẽ làm không-thời gian biến dạng một chút, dẫn tới một sự dịch chuyển ở các chùm laser. Bằng cách theo dõi các biến thiên thời gian ở các chùm laser, người ta có thể tìm kiếm các tác dụng của sóng hấp dẫn.
  4. Cho đến nay, không có ai từng phát hiện ra sóng hấp dẫn một cách trực tiếp, nhưng chúng ta thật sự có bằng chứng gián tiếp rằng chúng tồn tại. Khi các pulsar quay xung quanh những ngôi sao rất đặc, chúng ta hi vọng chúng phát ra một luồng đều đặn những con sóng hấp dẫn, mất dần năng lượng trong quá trình đó nên quỹ đạo của chúng từ từ nhỏ đi. Phép đo sự phá vỡ quỹ đạo của các pulsar kép đã xác nhận rằng chúng thật sự mất năng lượng và lời giải thích tốt nhất là những pulsar này đang mất năng lượng ở dưới dạng sóng hấp dẫn. Sóng hấp dẫn lan truyền trong không gian (Ảnh: Henze/NASA) Pulsar không phải là nguồn được trông đợi duy nhất của sóng hấp dẫn. Big Bang phải tạo ra sóng hấp dẫn vẫn lan truyền trong vũ trụ dưới dạng những gợn nhẹ nhàng trong không-thời gian. Những con sóng hấp dẫn nguyên thủy này quá yếu để có thể phát hiện ra trực tiếp, nhưng người ta có thể nhìn thấy dấu vết của chúng trên bức xạ tàn dư từ thời Big Bang – phông nền vi sóng vũ trụ. Các thí nghiệm hiện nay đang được triển khai để tìm kiếm những dấu vết này. Sóng hấp dẫn cũng sẽ được phát ra khi hai lỗ đen va chạm nhau. Khi chúng xoáy trôn ốc về phía nhau, chúng sẽ phát ra một luồng sóng hấp dẫn với một dấu vết đặc biệt. Biết được va chạm đó đủ gần và đủ dữ dội, người ta có thể quan sát chúng với các thiết bị trên trái đất.
  5. Một dự án nhiều tham vọng hơn là Anten Vũ trụ Giao thoa kế Laser (LISA), gồm bộ ba vệ tinh sẽ theo dõi trái đất trong quỹ đạo của nó quay xung quanh Mặt trời. Chúng sẽ phát ra các chùm laser được điều chỉnh hết sức chính xác về phía nhau, giống hệt như LIGO. Mọi con sóng hấp dẫn đi sẽ làm biến dạng không-thời gian đi một chút và dẫn tới một sự dịch chuyển có thể phát hiện ra ở các chùm laser. NASA và Cơ quan Vũ trụ châu Âu hi vọng phóng LISA lên quỹ đạo trong thập niên kế tiếp. Du hành thời gian Lí thuyết của Einstein cho phép một khả năng làm say đắm lòng người là du hành thời gian. Người ta đã đề xuất phương pháp thu được kì công này, gồm việc xây dựng các đường hầm gọi là lỗ sâu đục nối liền những phần khác nhau của không gian ở những thời điểm khác nhau. Có thể xây dựng các lỗ sâu đục – trên lí thuyết. Nhưng thật không may, chúng đòi hỏi vật chất có năng lượng âm, và những tình huống vật lí không tự nhiên khác, không chỉ mở chúng ra mà còn cho phép chúng đi qua được. Một khả năng khác là tạo ra một vùng không gian rộng lớn quay tròn, hoặc sử dụng các đối tượng giả thuyết gọi là các dây vũ trụ. Khả năng du hành thời gian có thể dẫn tới các nghịch lí vật lí, thí dụ như nghịch lí ông-cháu trong đó nhà du hành thời gian đi ngược dòng thời gian và giết chết ông của cô trước khi ông ta gặp bà của cô. Hệ quả là một trong hai người, cha mẹ của cô, không ra đời được và bản thân nhà du hành vũ trụ trên sẽ không tồn tại. Tuy nhiên, người ta cho rằng các nghịch lí vật lí như thế này, trên thực tế, không thể nào tạo ra được.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2