Dạy học Vật lý thông qua các nhà khoa học
lượt xem 6
download
Cuốn sách kể chuyện về các danh nhân khoa học vật lí trong chương trình sách giáo khoa vật lí từ lớp 6 đến lớp 9, bao gồm tất cả 30 danh nhân. Mỗi bài của một cuốn sách này viết về một danh nhân, trừ một trường hợp đặc biệt.... Mời các bạn cùng tham khảo để nắm nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Dạy học Vật lý thông qua các nhà khoa học
- DẠY HỌC VẬT LÝ THÔNG QUA CÁC NHÀ KHOA HỌC (Tổng hợp những ghi chép quý giá về cuộc đời, sự nghiệp và những phát minh vĩ đại của các nhà khoa học Vật lý được nhắc đến theo chương trình sách giáo khoa) NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUốC GIA HÀ NỘI
- NGUYỄN PHÚC THUẦN (CHỦ BIÊN) NGUYỄN TRỌNG DŨNG DẠY HỌC VẬT LÍ THÔNG QUA CÁC NHÀ KHOA HỌC Dành cho giáo viên giảng dạy vật lí Dành cho sinh viên chuyên ngành vật lí Dành cho học sinh THCS, THPT Dành cho bạn đọc đam mê về lĩnh vực vật lí NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
- Dạy học vật lý thông qua các nhà khoa học LỜI MỞ ĐẦU Đã lâu, có một số thầy (cô) giáo vật lí trung học cơ sở nói là họ muốn có những tài liệu về tiểu sử các nhà khoa học mà sách giáo khoa nhắc đến họ. Theo ý kiến các thầy (cô), việc đó sẽ giúp cho học sinh học các bài giáo khoa đỡ khô khan. Đó quả là một gợi ý hay. Cho đến nay, đã ba bốn chục năm trôi qua, nhưng vẫn chưa có một tài liệu nào đáp ứng gợi ý nói trên. Chúng tôi hi vọng rằng cuốn sách này có thể lấp khoảng trống đó. Cuốn sách này kể chuyện về các danh nhân khoa học vật lí mà sách giáo khoa vật lí trung học cơ sở có nhắc đến. Vì vậy, thích họp hơn cả là các bạn đọc nên sử dụng cuốn sách này kèm theo sách giáo khoa. Trong toàn bộ sách giáo khoa vật lí từ lóp 6 đến lóp 9 có tất cả 30 danh nhân được nhắc đến. Mồi bài của cuốn sách này viết về một danh nhân, trừ một trường họp đặc biệt; bài VI.3 viết về hai danh nhân, đó là hai anh em Mônggônphiê. Các bài sắp xếp theo thứ tự lóp từ thấp đến cao, trong từng lóp thì theo thứ tự bài học từ trước đến sau. Có những danh nhân được sách giáo khoa nhắc đến ở nhiều bài. Trong trường hợp này chúng tôi sẽ viết về danh nhân đó ở bài giáo khoa nào nhắc đến họ đầu tiên. Ví dụ ở trung học cơ sở ta gặp nhà khoa học Giun (ioule) ở ba bài, lần đầu ở bài 13 Vật lí 8, sau đó là bài 21 cũng ở lóp 8, cuối cùng ở bài 16 Vật lí 9. ở lóp 8, đến bài 13 ta đã gặp 5 nhà khoa học khác, đến Giun là người thứ sáu, vì vậy đến bài 13 lóp 8 chúng tôi viết về nhà khoa học này và đặt tên là bài VIII. 6, Giun, về việc viết tên riêng: chúng tôi dùng cách viết liền, không dùng gạch nối, ví dụ viết Niutơn, không viết Niu-tơn. Nhưng những trường họp đã dùng quen thì vẫn dùng như cũ. Ví dụ, trong cuốn sách này, chúng tôi viết “tiếng La tinh” (La tinh viết rời không gạch nối, không viết liền) vi từ lâu sách báo vẫn dùng cách viết đó. Đe giúp bạn đọc dễ tra cứu, khi nói đến tên một danh nhân hay một người nước ngoài hay một địa danh nước ngoài nào đó lần đầu tiên thì ngay sau tên
- SPBook - vưon tầm tri thức, chắp cánh tưcmg lai phiên âm chúng tôi có ghi chú thêm tên viết theo tiếng nước ngoài (trong dấu ngoặc đơn), chủ yếu là theo tiếng Anh. Trừ trường họp những tên riêng đã dùng quen (ví dụ Paris, Italia, ...) thì không cần có ghi chú. Khi đọc cuốn sách này, bạn đọc sẽ thấy diện mạo các nhà khoa học thật muôn hình muôn vẻ. Có người thì sinh trưởng trong gia đình khá giả, do đó được học tập đến nơi đến chốn, nhưng cũng có người lại không có điều kiện như vậy (chẳng hạn Rôbecvan, Oat, Lômônôxôp, ...). Có người thì có bằng cấp đầy đủ, có người lại chẳng có tấm bằng nào, kể cả tấm bằng ở bậc học rất thấp (chẳng hạn Vônta,...). Có người thì nổi bật ngay từ bé, có người thì đến trung học nhà trưòng vẫn còn ghi nhận xét là cần co gang hom. Nhưng dù sự khác nhau đến thế nào thì họ cũng đều có một đức tính chung là lòng dam mê khoa học không bờ bến và sự nồ lực hết mình. Sự nghiệp lẫy lừng của họ chính là nhờ ở đức tính đó. Chúng tôi xin được trân trọng cảm ơn quý bạn đọc vì được sự quan tâm của quý bạn ! Các tác giả
- Rôbecvan (1602-1675) LỚP VI V U - Rôbecvan (1602-1675) Lòi dẫn Những bài đầu tiên của môn Vật lí 6 đề cập đến một số phép đo đcm giản và thưòng gặp: phép đo độ dài, phép đo thể tích, phép đo khối lượng. Dụng cụ đo độ dài là chiếc thước, dụng cụ đo khối lưọng là chiếc cân. Chiếc thước có nhiều loại. Tưcmg tự như vậy, chiếc cân cũng có nhiều loại. Sách giáo khoa lớp 6 chỉ nói đến chiếc cân thuộc loại khá thông dụng, đó là chiếc cân Rôbecvan. Chiếc cân này mang tên người đã sáng chế ra nó và được trình bày trong bài 5, Vật lí 6. Rôbecvan, thời thơ ấu Rôbecvan (Roberval) thực ra không phải là cái tên cha sinh mẹ đẻ đặt cho ông. Tên khai sinh của ông là Gin Pecxon (Gilles Personne), mãi sau này ông mới mang tên Rôbecvan, vì vậy bây giờ ta hãy cứ gọi ông là Gin Pecxon. Cha của Gin Pecxon là Pie Pecxon (Pierre Personne) và mẹ là Gian Lơ Đruy (Jeanne Le Dru). Cha mẹ ông là những nông dân nghèo, sống ở làng Rôbecvan cách Gìn Pecxon đơ Rôbecvan thủ đô Paris của Pháp chừng năm chục cây số về phía bắc. Ngôi làng này thuộc tỉnh Oadơ (Oise). Những khám phá năm 2003 giúp ta biết rằng bà Gian Lơ Đruy sinh Gin Pecxon trong lúc bà đang làm việc trên cánh đồng nối hai làng Rôbecvan và Nôen Xanh Mactanh (Noẽl-Saint-Martin), nhưng nơi sinh Gin Pecxon thì chính xác là thuộc địa phận làng bên. Hôm đó là ngày 08 tháng 8 năm 1602. Làng Rôbecvan nay vẫn mang tên cũ, còn làng Nôen Xanh Mactanh thì ngày nay được mang
- SPBook - vươn tầm tri thức, chắp cánh tương lai cái tên mới là làng Vinlơnơvơ xuya Vecbơri (Villeneuve-sur-Verberie), và đôi khi người ta vẫn còn nhắc đến cái tên cũ từ ngày ấy. Hai ngày sau khi sinh, tức ngày 10 tháng 8 năm 1602, gia đình làm lễ rửa tội cho bé Gìn Pecxon tại một nhà thờ gần làng. Hơn bốn trăm năm đã trôi qua mà ngày nay người ta vẫn còn giữ được những dòng mô tả vắn tắt về buổi lễ rửa tội đó trong hồ sơ lưu trữ của tỉnh Oadơ. Tuổi thơ của Gin Pecxon cứ lặng lẽ trôi đi cùng với những công việc đồng áng của một gia đình nông dân nghèo. Cho đến năm cậu mười bốn tuổi. Trong vùng, có một vị linh mục, đã từng là cha tuyên uý của Nữ hoàng Mari dơ Mêđixi (Marie de Médici), khi đó ông đang là chánh xứ cai quản giáo xứ mà trong đó có làng Rôbecvan. Vị linh mục này là một con người mẫn cán và giàu lòng vị tha. Trong bổn phận của mình, ông quan tâm đến mọi con chiên trong địa phận giáo xứ mà ông coi sóc. Chính vì vậy, ông có dịp tiếp xúc và nhận ra Gin Pecxon là cậu bé có trí thông minh đặc biệt, ông nghĩ rằng nếu cậu được học hành thì chắc chắn cậu sẽ tiến bộ rất nhanh và trở thành người có ích cho xã hội. Do đó ông đã giúp đỡ cậu bằng cách dạy cậu học môn toán, sau đó ông dạy cậu cả tiếng La tinh, và hình như cả tiếng Hi lạp. Quả nhiên chỉ sau một thời gian rất ngắn, những hiểu biết về toán của Gin Pecxon đã vượt xa các bạn cùng lứa tuổi và đã đạt trình độ khá cao. Vì vậy vị linh mục khuyên cậu nên đến trường tiếp tục học. Trong số tất cả các anh chị em trong gia đình Pie thì Gin Pecxon là người con duy nhất được học hành đến hết bậc phổ thông. Và cũng chỉ có một bà chị có tên Mari (Marie) là sống thọ hơn Gin Pecxon. Đi một ngày đàng (để) học một sàng khôn Gin Pecxon rất tiếc là vị linh mục không dạy cậu nữa, nhưng vì nhà nghèo nên cậu không có điều kiện đến trường để học tiếp lên cao. Gìn Pecxon đã sáng
- Rôbecvan (1602-1675) suốt chọn con đường thích họp nhất với hoàn cảnh của mình. Đó là con đường tự học qua sách vở. Nhưng đối với anh, ở một miền quê xa đô thị và nhà nghèo thì việc tìm được sách vở để tự học cũng là việc rất khó. Vì vậy, anh thấy cần phải tìm người có thế giúp anh trong việc tự học, chẳng hạn sinh viên hay giáo sư đại học. Và anh đã có một quyết định có thể nói là dũng cảm, con đường từ giã mái ấm gia đình và làng quê êm đềm, bước ra ngoài xã hội đế tìm cách “học khôn” (cho đến bây giờ người ta cũng không biết cậu từ giã làng quê ra đi chính xác là vào năm nào). Với trái tim đầy hăng say của tuổi trẻ, chàng trai đó Nhà giặt công cộng ở thôn Phôt (Posse) cạnh đường Đầm, làng Rôbecvan. quyết chí tự mình tìm cách nâng cao trình độ học vấn cho chính mình. Anh nghĩ chỉ cần một chú ngựa là anh có thể đi đến bất cứ nơi nào mà anh muốn. Để có thể rong ruổi “tầm sư học đạo” anh đi làm gia sư về môn toán để kiếm tiền nuôi sống mình. Dù vốn kiến thức toán của anh lúc đó còn hạn chế, nhưng nhờ có bộ óc thông minh tuyệt vời nên Gin Pecxon vẫn là một gia sư mà nhiều người mời gọi. ở những nơi mà anh đến, anh tìm cách làm quen với những người mà anh đã để ý và anh không ngần ngại thảo luận với họ về những vấn đề anh quan tâm hay học hỏi họ về những vấn đề anh chưa hiểu. Có bài báo viết từ thời ấy kể rằng khi Gin Pecxon đi ngựa từ thành phố này đến thành phố nọ thì bao giờ cũng có một lọ mực được buộc chặt vào yên ngựa.
- SPBook - vươn tầm tri thức, chắp cánh tương lai Gin Pecxon biết tin Pie đơ Phecma (Pieưe de Permat), một người trạc cùng lứa tuổi với mình nhưng đã là một nhà toán học được nhiều bạn trẻ ngưỡng mộ, hiện đang ở Boocđô (Bordeaux), một thành phố ở phía tây nam nước Pháp. Thật là một dịp may, Gin Pecxon quyết không bở lỡ cơ hội, lặn lội xuống phía nam. Đen Boocđô, Gin Pecxon tìm cách làm quen với Phecma. Quả nhiên cuộc làm quen này đã giúp ích cho Gin Pecxon rất nhiều vào lúc ấy và cả về sau này nữa. Nên nói thêm rằng về sau Pie dơ Phecma là một trong những nhà toán học lón của nước Pháp và cả thế giới. Lưu lại ở Boocđô trong một thời gian ngắn, sau đó Gìn Pecxon lại đi ngược lên phía bắc, đến thành phố La Rôsen (La Rochelle) nằm ngay sát bờ Đại Tây Dương và cách Boocđô gần hai trăm cây số. Cũng nên nói vài lời về hai địa danh Boocđô và La Rôsen. Boocđô là một thành phố nổi tiếng thế giới về nghề làm rượu vang nhưng cũng là một thành phố đầy những biến động lịch sử. Cuộc chiến tranh tôn giáo ở phía tây nam nước Pháp đã ảnh hưỏng không tốt đến Boocđô; nhưng khi Gin Pecxon đến đây thì tình hình đã được cải thiện, Boocđô đã được bình yên. Còn riêng La Rôsen thì hoàn toàn khác: trong cuộc chiến tranh tôn giáo, nơi đây - La Rôsen - đã xảy ra những cuộc đụng độ đẫm máu, những cuộc tàn sát khủng khiếp. Giờ đây, khi Gin Pecxon đến La Rôsen thì La Rôsen lại đang lâm vào một cuộc chiến tranh mới, còn khốc liệt hơn cuộc chiến tranh tôn giáo. Trước thế kỉ XVII, những người Tâm hiên chi đường đi đên làng Rôbecvan theo đạo Tin Lành trong toàn nước Pháp
- Rôbecvan(1602-1675) tập hợp thành một tố chức có đường lối xã hội riêng, thậm chí có cả lãnh thố và lực lưọng quân sự riêng. Nói tóm lại có thể coi tổ chức đó như một nhà nước trong nhà nước: nhà nước của những người Tin Lành trong nhà nước của nhà vua. La Rôsen được coi là thủ đô của những người Tin Lành trong toàn nước Pháp. Vua Lui XIII (Louis XIII) là con chiên của Thiên Chúa giáo. Vì vậy La Rôsen luôn luôn là nỗi nhức nhối của triều đình. Tuy phần thắng trong cuộc chiến tranh tôn giáo thuộc về những người theo đạo Thiên Chúa, nhưng La Rôsen vẫn tuyên bố độc lập đối với nhà vua. Mặt khác, những vùng đất ở sát bờ Đại Tây Dương, trong đó có La Rôsen, từ lâu vẫn là những địa chỉ đế quốc Anh luôn luôn nhòm ngó và xâm lấn. Do đó trong cuộc đối đầu với triều đình, La Rôsen nghĩ ngay đến việc cầu cứu người Anh. Đó là một chủ trương mù quáng. Không bỏ lỡ thời cơ vàng hiếm có, người Anh lập tức đưa một hạm đội gồm một trăm mười tàu chiến và mười sáu nghìn quân đổ bộ lên một hòn đảo thuộc thành phố La Rôsen. Và thế là cuộc chiến tranh giữa Pháp và Anh nổ ra quyết liệt. Ngòi no của cuộc chiến tranh bắt nguồn từ nguyên nhân tôn giáo hoàn toàn có tính chất nội bộ nhưng nhanh chóng trở thành cuộc chiến tranh can thiệp và chống can thiệp (thực chất là cuộc chiến tranh xâm lược và chống xâm lược) giữa hai quốc gia. Gin Pecxon đến La Rôsen vào đúng lúc cuộc chiến nói trên diễn ra ác liệt. Với tinh thần yêu nước nhiệt thành của tuổi trẻ, không một phút chần chừ, anh dấn thân ngay vào cuộc chiến đấu chống lại sự xâm lược của ngoại bang. Nhờ những hoạt động trong chiến đấu mà Gin Pecxon học tập được rất nhiều về kĩ thuật xây dựng công sự, về vũ khí, đạn dược. Cuối năm 1627 người Pháp thắng, cuộc chiến tranh kết thúc. Còn Gin Pecxon thì lại lên đưÒTig. Thủ đô ánh sáng. Gin Pecxon và Rôbecvan.
- SPBook - vươn tầm tri thức, chắp cánh tương lai Sau cuộc chiến tranh chống xâm lược kết thúc, Gin Pecxon “chia tay” La Rôsen và lên đường đi Paris. Một người khát khao mở mang kiến thức cho bản thân, khát khao khám phá những bí ẩn của tự nhiên như Gin Pecxon thì không thể không đến Paris, nơi đã được mệnh danh là thủ đô ánh sáng. Đó là nơi người ta có thể gặp gỡ những nhân vật nổi tiếng, những bộ óc vĩ đại của nước Pháp, qua đó có thể học hỏi, mở mang đầu óc của mình, điều mà anh thanh niên Gin Pecxon hằng ao ước. Vừa đến Paris, Gin Pecxon đã làm quen và tham gia sinh hoạt với một nhóm được gọi theo tên người trưởng nhóm là nhóm Mecxen (Mersenne). Nhóm này gồm những nhà khoa học nhưng ham thích khám phá toán học, trong đó có Patxcan (Pascal). Ngoài nhóm Mecxen, Gin Pecxon còn tìm cách tiếp xúc với những nhà khoa học lớn người Pháp cũng như những nhà khoa học nước ngoài có mặt ở Paris, chang hạn Torixenli (Toưicelli) nhà khoa học người Italia. Mặc dù không bao giờ là sinh viên chính thức ngồi trên ghế giảng đưòng trường đại học nhimg được sống trong môi trường khoa học ở đây, được giao lưu với những bộ óc lớn về khoa học, năng lực trí tuệ của Gin Pecxon được nâng lên rõ rệt từng ngày. Lúc đầu những cuộc gặp gỡ của Gìn Pecxon với những nhà khoa học chủ yếu đế học hỏi; về sau dần dần chuyển thành những cuộc gặp gõ vừa học hỏi, vừa trao đổi ý kiến; cuối cùng những cuộc gặp gỡ chủ yếu đế trao đối ý kiến hay tranh luận về những vấn đề khoa học. Sau bốn năm nồ lực tự học như vậy, Gin Pecxon đã có kiến thức sâu Tòa lâu đài ở làng Rôbecvan (xảy dựng từ thế ki XVIII) rộng và vững chắc về nhiều mặt, nhất là về 10
- Rôbecvan(1602-1675) toán. Bây giờ trong giao lưu với nhiều nhà khoa học đương thời ông đã là nhà khoa học ngang tầm. Vì vậy ông nhận ra rằng đã đến lúc cần phải xác định vị trí chính danh của mình trong giới khoa học. Muốn vậy, ông nộp đơn xin thi tuyến vào chức vụ trưởng bộ môn Triết học (thời ấy, từ triết học dùng để chỉ chung khoa học tự nhiên) tại một trường học và ông đã trúng tuyển. Làm việc này ông đạt được đồng thời hai mục đích. Thứ nhất, dạy học đe có lương nuôi sống bản thân; thứ hai, giữ chức vụ trưởng bộ môn dễ có điều kiện thể hiện năng lực chuyên môn trước đồng nghiệp, có nghĩa là xác định vị trí của mình trong giới khoa học, ít nhất là trong phạm vi một nhà trường. Đe xác định vị trí của mình trong làng khoa học, ông không chỉ nghĩ đến riêng minh mà ông còn nghĩ đến cả nơi sinh trưởng ra mình. Vì vậy ông đã làm một việc có lẽ là độc nhất vô nhị trong đời sống hàng ngày của giới khoa học kể từ xưa đến nay, một việc làm thật là cảm động. Trước khi nộp đơn xin thi tuyển vào chức vụ trưỏng bộ môn Triết học, Gin Pecxon đã viết một bức thư chứa chan tình cảm gửi về làng quê xin phép được lấy tên nơi chôn nhau cắt rốn ghép vào tên cha sinh mẹ đẻ đặt cho mình. Lời thỉnh cầu đó được các bậc bô lão và các vị chức sắc của làng mang ra bàn bạc sôi nổi và cuối cùng là chấp thuận. Thế là từ đó, cái tên Gin Pecxon trở thành cái tên dài dòng Gin Pecxon dơ Rôbecvan (Gin Pecxon của làng Rôbecvan). Và cũng vì vậy trong hồ sơ thi tuyển và cả hồ sơ nhân sự lưu trữ của ngôi trường này người ta không tìm thấy cái tên Gin Pecxon mà chỉ tìm thấy cái tên Gin Pecxon dơ Rôbecvan. Việc xin quê hương cho phép được gắn cái tên làng quê vào cái tên cha mẹ đặt cho mình thể hiện tình yêu quê hương nguồn cội sâu sắc biết bao! Việc làm đó còn thể hiện lòng biết ơn nơi đã sinh thành, đã đùm bọc, đã chắp cánh cho mình
- SPBook - vưoTi tầm tri thức, chắp cánh tưong lai bay vào cuộc đời rộng lớn bao la. Quả thực việc làm đó là một nét đẹp lung linh hiếm thấy mà chỉ riêng nhà khoa học tài ba nhưng nặng ân tình này có được. v ề sau ở mọi nơi người ta cũng dùng cái tên dài dòng đó mỗi khi muốn gọi tên con người này. Còn những khi muốn nói vắn tắt thì người ta không nói Gin Pecxon mà người ta lại nói Rôbecvan; tên một làng quê nghèo nhỏ bé trở thành tên một con người, một con người nổi tiếng, một con người của lịch sử! Và ngay cả cái cân đang ở trước mặt chúng ta, người ta không gọi là cân Gin Pecxon mà gọi là cân Rôbecvan. Hành trình trên bục giảng Ngôi trường đầu tiên mà ông xin thi tuyến vào đó và rồi làm việc tại đó là trưÒTig Giecve (Gervais), nhưng người ta không gọi là trường mà gọi là côlegiơ (college)^*\ côlegiơ Giecve. Côlegiơ Giecve là một trường nhỏ do Giecve Crêchiêng (Gervais Chrétien) thành lập từ thế kỉ XIV, côlegiơ này là một thành viên vệ tinh của trường đại học Xoocbon (Sorbonne), một trưòng đại học nổi tiếng ở Paris được thành lập từ thế kỉ XIII. (ỉ) Theo nghĩa hẹp thì "côìegiơ” dùng đê chi trường trung học. Nhưng nhiều khi người ta dùng từ này theo nghĩa rộng, khi đó ''côỉegiơ’’ có thê là trường trung học, trường dạv nghề, trường nội trú, thậm chi cũng có thê là trường trực thuộc của trường đại học. Cũng Cần nói thêm rằng mặc dù thời gian Rôbecvan dạy ở côlegiơ Giecve không dài, nhưng đối với ông đây là nơi có nhiều kỉ niệm ghi sâu trong lòng không thể nào quên. Đây là bến đỗ đầu tiên của một con chim vừa mới “đủ lông, đủ cánh” bắt đầu muốn thử sức mình. Đây cũng là nơi mà con chim non đó chập chững sải những sải cánh đầu tiên vào không gian Chuồng chim bồ câu ở cuộc đời đầy hoa thơm nhưng cũng có nhiều quả đắng. làng Rôbecvan (xâv dựng từ thế ki XVI) 12
- Rôbecvan(1602-1675) Dạy ờ côlegiơ Giecve được ít lâu, Gin Pecxon đơ Rôbecvan lại xin thi tuyên vào chức vụ trưởng một bộ môn tại một côlegiơ lớn hon, nối tiếng hơn, đó là côlegiơ Hoàng gia. v ề mặt chuyên môn thì côlegiơ Hoàng gia có tầm cỡ như một trường đại học. Côlegiơ này được thành lập từ đầu thế kỉ XVI tại một khu đất nàm trên quận 5 của Paris ngày nay. Đốn năm 1870 nó được đổi tên thành côlegiơ Pháp và cái tên đó vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Lúc đầu côlegiơ chỉ có ba ngành là tiếng Hi lạp, tiếng Hêbơrơ và toán. Nhưng khi Rôbecvan xin thi tuyển vào đây thì số ngành học đã tăng lên rất nhiều. Trong cuộc thi này, Rôbecvan cũng trúng tuyển và được bổ nhiệm chức vụ trưởng bộ môn toán. Những bài giảng của Rôbecvan rất sâu sắc và sáng sủa. Vì vậy các giờ giảng thường có đông sinh viên tham dự, mặc dầu giọng nói của thầy mang nặng tính địa phương, không được nhẹ nhàng thanh thoát dễ nghe như giọng của người Paris chính cống. Dạy toán được ít lâu, Rôbecvan lại xin thi tuyển vào chức vụ trưỏng một bộ môn khác cũng của côlegiơ đó. ở bộ môn mới này, nhiệm vụ của Rôbecvan nặng nề hơn, ông phải làm việc vất vả hơn, vì ông phải dạy số học, hình học, thiên văn học, quang học, cơ học, thậm chí đôi khi cả âm nhạc. Ngoài việc giảng dạy theo các bộ môn, côlegiơ Hoàng gia còn tổ chức các buổi diễn giảng theo chuyên đề. Nội dung các buổi diễn giảng đó có tính chất tổng quan nhằm vào đối tượng là những người đã có chuyên sâu. Thường là những người đang làm khoa học, những quan chức cao cấp trong bộ máy nhà nước, những cố vấn của nghị viện, vân vân. Rôbecvan cũng thường được côlegiơ chọn làm thuyết trình viên trong các buối diễn giảng đó. Đặc biệt việc tuyển chọn giáo viên ở côlegiơ Hoàng gia được tổ chức rất chặt chẽ và kĩ lưỡng. Trong số các giáo sư đại học thì các giáo sư ở côlegiơ này vần được đánh giá là có chất lượng cao. ớ thời Rôbecvan các giáo sư giảng dạy 13
- SPBook - vươn tầm tri thức, chắp cánh tương lai ở đây cứ ba năm tuyển chon lại một lần. Tuy nhiên, Rôbecvan đã vượt qua được tất cả các lần tuyển đi tuyển lại đó. Vì vậy ông đã giữ ghế giáo sư trưỏug bộ môn của mình suốt bốn mươi mốt năm liền, tức là từ ngày đầu ông nhậm chức ở đây cho đến khi ông qua đời (1634-1675). Rôbecvan, sự nghiệp Trong phạm vi lớp 6, nói đến Rôbecvan là muốn nói đến cái cân do ông sáng chế ra và được gọi là cân Rôbecvan. Thành tích này đã mang lại cho ông niềm vinh quang để đời. Sự nghiệp của ông bao gồm hai mảng, giáo dục và khoa học, cái cân Rôbecvan chỉ là một phần rất nhỏ trong sự nghiệp đó. về giáo dục, hơn bổn mươi năm trên bục giảng và liên tục giữ những chức vụ chuyên môn quan trọng trong nhà trường là một sự nghiệp ít người có được. về khoa học, ông có nhiều nghiên cứu có giá trị về toán học và cả về vật lí học. Có Mô hình chiếc cân Rôbecvan đặt ờ lối vào làng Rôbecvan điều là trong suốt cuộc đời làm khoa học, Rôbecvan chỉ công bố một số rất ít những kết quả nghiên cứu của mình. Cho đến nay người ta cũng không biết vì sao Rôbecvan lại “ngại” công bố những công trình của mình như vậy. Chính vì ông không công bố những công trình của mình nên đôi khi nảy sinh những rắc rối về vấn đề bản quyền tác giả. Mãi sau khi Rôbecvan qua đời gần hai chục năm, người ta mới sưu tầm và công bố một số công trình của ông và sau đó gần chục năm nữa người ta công bố bổ sung một số công trình nữa. Trong hai tài liệu này chủ yếu là những công trình về toán học và vật lí học. Người ta biết ràng ông còn có cả những công trình về thiên văn học nhưng việc sưu tầm những công trình đó gặp nhiều khó khăn nên 14
- Rôbecvan (1602-1675) cho đến nay chúng vẫn chưa được công bố và có lẽ chẳng bao giờ chúng được công bố. Tuy ông ít công bố những công trình của mình nhưng trong phản biện hay tranh luận khoa học thường ông có những ý kiến rất độc đáo và rất thuyết phục. Đôi khi ông phản bác ý kiến khá gay gắt, ngay cả đối với những người ông đã quen biết từ lâu. Tuy nhiên bạn bè ông đều thông cảm bản chất ông là con người bộc trực nên họ đều giữ được mối quan hệ bình thưòng. Mặc dù số công trình khoa học của Rôbecvan công bố không nhiều nhưng người ta vẫn thừa nhận ông có một vị trí đáng nể trong khoa học. Vì vậy ông được coi là một trong số bảy thành viên sáng lập Viện Hàn lâm Hoàng gia năm 1666, sau đó được gọi là Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Ba năm sau, ngày 21 tháng 8 năm 1669, ông trình bày trước Viện Hàn lâm Khoa học chiếc cân do ông sáng chế ra, đó là chiếc cân Rôbecvan. Có vấn đề mà nhiều bạn thường nêu lên: chiếc cân Rôbecvan chỉ là một dụng cụ bình thường mà tại sao lại phải đưa nó đến tận Viện Hàn lâm? Để trả lời câu hỏi này cần điểm sơ qua mấy nét về lịch sừ chiếc cân. Ta biết rằng từ thời xa xưa (có ý kiến cho rằng có thể từ 3500 năm trước công nguyên) người ta đã biết đến chiếc cân. Bởi vì nói đến chiếc cân là nói đến việc so sánh nặng nhẹ, mà nhu cầu so sánh nặng nhẹ giữa hai vật thì thời nào cũng có. Đe so sánh hai vật thì cách làm tự nhiên nhất là xách hai vật đồng thời bằng hai tay. Cách so sánh đơn sơ đó làm nảy sinh ý tưởng chế tác ra chiếc cân bằng cách dùng một chiếc đòn cứng có điểm tựa cố định ở giữa, hai vật cần so sánh thì treo ở hai đầu đòn. ở vào thời kì ấy người ta dùng cân chủ yếu để cân những vật nhỏ nhưng nặng và đặc biệt là những vật quý, chẳng hạn những vật bàng vàng hay đồng. 15
- SPBook - vưon tầm tri thức, chắp cánh tương lai Có ý kiến cho rằng người Ai cập đã chế tác ra chiếc cân đầu tiên. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng vinh dự đó thuộc về người Sanđêăng (Chaldéen) sinh sống ở vùng đất phía nam thành phố Batđa, thủ đô của Irăc hiện nay. Ý kiến này dựa vào một chứng cớ là người ta tìm thấy một tài liệu quy định về việc sắp xếp một số vật theo thứ tự nặng nhẹ của chúng. Tài liệu đó của người Hi lạp nhưng có ghi rõ đó là sao chép từ một tài liệu của người Sanđêăng. Trong khi đó người ta không thấy một tài liệu nào theo kiều tương tự như thế của người Ai cập. Trên đây ta vừa nói loài người đã biết đến chiếc cân từ rất lâu. Những chiếc cân thời đó rất thiếu chính xác, rất thiếu độ tin cậy. Cùng một vật, cân hai lần khác nhau bằng cùng một chiếc cân có thể cho hai kết quả khác nhau. Cùng một vật, cân hai lần khác nhau bằng hai chiếc cân khác nhau cũng có Chiêc cân Rôbecvan không lô dài 6 m, thể cho hai kết quả khác nhau. Vì vậy cao 2,2 m đặt ở quảng trường tòa lảu đài, nói một cách chặt chẽ, những dụng cụ khánh thành năm 2005 đó không thể gọi là chiếc cân. Người ta chế tác các dụng cụ đó chỉ bàng mò mẫm theo kinh nghiệm, hoàn toàn chưa biết gì về nguyên lí của việc cân và nguyên lí cấu tạo của chiếc cân. Điều ấy cũng dễ hiểu, bởi vì ở thời kì trước Rôbecvan những hiểu biết của con người về cơ học còn rất hạn chế vì cơ học Niutơn (Newton) chưa ra đời. 16
- Rôbecvan (1602-1675) Riêng đối với Rôbecvan thì có khác. Mặc dù chưa có cơ học Niutơn nhưng bằng các nghiên cứu và cả bằng trực giác của mình Rôbecvan đã có một số hiếu biết nhất định về cơ học, nói theo ngôn ngữ ngày nay thì ông đã có những hiểu biết về khái niệm lực, trọng lực (có người cho rằng ông khám phá ra lực vạn vât hấp dẫn trước Niutơn), mômen lực; đặc biệt ông đã biết đến quy luật cân bằng các mômen lực. Chính ông là người đầu tiên đã áp dụng những hiểu biết này vào việc chế tác ra chiếc cân. Nói cách khác ông đã biết đến nguyên lí cấu tạo của chiếc cân. Đó là lí do tại sao chiếc cân ông chế tác ra phải được trình bày ở viện Hàn lâm Khoa học. Ngoài ra còn điểm nữa đáng chú ý là những chiếc cân trước Rôbecvan dù hình thức bên ngoài có khác nhau nhưng chúng đều giống nhau ở chỗ đĩa cân được treo bên dưới đòn cân. Sáng kiến của Rôbecvan là đưa hai đĩa cân lên bên trên hai đầu đòn cân; nhưng khi cân, đĩa cân bao giờ cũng được giữ ở tư thế nằm ngang. Đe thực hiện được điều đó, ngoài chiếc đòn cân, Rôbecvan còn lắp thêm một thanh giằng. Nhờ có thanh giằng này mà hai chiếc trụ mang hai đĩa cân bao giờ cũng ở tư thể thẳng đứng, do đó đĩa cân bao giờ cũng ở tư thế nằm ngang. Đĩa cân nằm bên trên đòn cân mang lại nhiều thuận tiện hơn trong sừ dụng. Như vây là loài người phải trải qua khoảng hai, ba thế kỉ mới đưa được chiếc đĩa cân từ bên dưới lên bên trên đòn cân! Cuộc sống riêng Làm việc thì nhiều nhưng ông sống cực kì đơn giản, ông sống độc thân và rất tiết kiệm trong việc chi tiêu cho riêng cá nhân ông. Khi đến côlegiơ Giecve, nơi ông dạy học đầu tiên, ông thuê một chổ ở gần côlegiơ đó trên gác hai, gồm hai phòng. Ông sống ở nơi đây cho đến khi qua đời. 17
- SPBook - vưon tầm tri thức, chắp cánh tưcmg lai Đồ đạc trong phòng chỉ có chiếc giường, bộ bàn ghế tiếp khách, chiếc bàn làm việc. Trên tường không có tranh ảnh cũng không có vật trang trí nào khác. Còn lại toàn là sách, chủ yéu là sách toán của rất nhiều tác giả; ngoài ra còn vài quyển từ điển, vài quyển ngữ pháp và có cả quyển kinh thánh bằng tiếng La tinh (mặc dù ông không phải là nhà tu hành). Khi ông mất, người ta không tìm thấy một chiếc vỏ chai vang nào trong phòng ông nhưng tìm thấy một số tiền mặt bằng tám lần tiền lưcmg trong một năm của ông. Có người nói ông sống không phải tằn tiện mà là hà tiện. Thậm chí có người còn nói ông sống keo kiệt. Nhưng sự thực thì không phải như vậy, ông chỉ “hà tiện” đối với riêng ông, còn đối với họ hàng cháu chắt ông lại rất xởi lởi, rộng rãi và chu đáo. ông nghĩ đến cả việc chuẩn bị của hồi môn cho các cháu gái, thậm chí cho cả các chắt gái. Nói cách khác, ông nghĩ đến người nhiều hơn là nghĩ đến mình. Nơi sống duy nhất của ông ở Paris trong hơn bốn chục năm là nơi ông thuê chứ không mua. Nhưng ông lại bỏ tiền mua một trang trại ở làng Mênơvan (Menerval) cũng ở phía bắc Paris, gần làng Rôbecvan. Một người bạn ông nói rằng ông đã mua trang trại đó với giá cao hơn cái giá mà người bán mong đợi. Bạn ông đoán có lẽ do ông thích cái trang trại ấy bởi vì ông nghĩ rằng khi về hưu ông sẽ sống ở đó và sau khi ông qua đời ông sẽ chia cho những người trong đại gia đình ông. Nhớ rằng lúc mua trang trại này ông đã trên năm mươi tuổi. Nhưng thực ra thì ông chưa sống ở đó một ngày nào vì ông qua đời vào ngày 27 tháng 10 năm 1675 tại ngôi nhà mà ông vẫn đang thuê. Khi ấy ông vẫn còn đang làm việc, chưa nghỉ hưu, mặc dù khi qua đời, ông đã ở tuổi 73 . 18
- Ixăc Niuton (1643-1727) VI.2- Ixăc Niutơn (1643-1727) Lòi dẫn Như ta đã nói những bài học đầu tiên ở lớp 6 là những bài học về các phép đo. Đe biểu diễn số đo ta phải có các đon vị đo. Ta đã biết đơn vị đo chiều dài là mét, kí hiệu là m; đơn vị đo khối lượng là kilôgam, kí hiệu là kg. Đen bài 8, Vật lí 6, ta lại biết đơn vị đo lực là niutơn, kí hiệu là N. Người ta đã lấy tên nhà khoa học Niutơn, một nhà khoa học có những đóng góp lừng danh về nhiều mặt (trong đó có cơ học) để đặt tên cho đơn vị lực. Ixăc Nỉutơn, thòi thơ ấu Khi Ixăc Niutơn (Isaac Newton) sinh ra thì nước Anh đang còn dùng lịch Giuliut, vì vậy người ta thường nói Ixắc Niutơn sinh ngày 25 tháng 12, năm 1642, đúng ngày lễ Nôen. Nhưng theo lịch Grêgoa, mà lúc đó rất nhiều nước châu Âu đã dùng, thì đó là ngày 04 tháng 1 Ixăc Niutơn (tháng Giêng) năm 1643. Ixăc Niutơn là chú bé đẻ non nên rất nhỏ con và thể trạng rất yếu, bà mẹ chú kể rằng lúc mới sinh, chú chỉ nhỉnh hơn một chút chiếc chai nước một lít. Gia đình cứ lo không biết chú có sống sót được không. Nơi sinh của Ixăc Niutơn là làng Unthopơ (Woolsthorpe) gần thành phố Granham (Grantham) thuộc tỉnh Lincônsaiơ (Lincolnshire), miền đông nước Anh. Gọi là làng nhưng thực ra ở thế kỉ XVII, Unthopơ là một thôn nhỏ chưa đầy chục gia đình, đó là những gia đình trong các trang trại nuôi cừu (tên thôn này viết theo tiếng Anh là Woolsthorpe, trong đó wool có nghĩa là lông cừu). Ngày nay, Unthopơ là một làng có chừng vài trăm nóc nhà. Thôn Unthopơ cũ nằm ở rìa làng Unthopơ hiện nay. 19
- SPBook - vươn tầm tri thức, chắp cánh tương lai Cha chú cũng có tên là Ixăc Niutơn và là một nông dân làm ăn tương đối khấm khá trong chính trang trại nuôi cừu của mình. Tuy ông Ixăc Niutơn có trong tay một số của cải kha khá gồm nhà cửa, đất đai và một đàn cừu không thể coi là nhỏ nhưng bản thân ông lại gần như mù chữ, đến nồi ông không thể kí được tên mình. Ông đã “về với tiên tổ” trước khi cậu con trai ra đời ba tháng, do đó Ixăc Niutơn không được biết mặt cha. Đến năm Ixăc Niutơn ba tuổi thì mẹ là bà Hanna Âyxcâu (Hannah Ayscough) tái giá với Bacnabat Xmit (Bamabas Smith), một mục sư không giàu nhưng khá giả ở nhà thờ làng bên cạnh. Bà dọn đến ở với Bacnabat, còn Ixăc Niutơn thì để lại sống với bà ngoại Macgơri Âyxcâu (Margery Ayscough) cũng ở làng Unthopơ. Năm Ixăc lên năm tuổi, cậu đi học tại Ngôi nhà ở làng Unthopơ gần Cônxtơuôt(I), nơi Ixăc Niutơn đã sinh trường tiểu học Xcailinhtơn ra và trường thành. Người ta cho rang cửa số tang 2, phía phải, là cửa (Skillington) ở gần nhà. số của căn phòng mà Niutơn đã làm thi nghiệm chứng tỏ ánh sáng trăng là Cũng cắp sách đến trường như tông hợp nhiêu ánh sáng màu. các bạn nhưng tâm trạng Ixăc không giống như các bạn cùng trang lứa. Mặc dù được bà ngoại yêu thương nhưng tình bà cháu không thay thế được tình mẹ con. ổng ngoại cậu là Giêm Àyxcâu (James Ayscough). ông ngoại và cậu hình như hai người không ưa nhau nên sau này khi được hỏi về ông Giêm thi trong đầu cậu chỉ còn lưu lại những hình ảnh không rõ ràng và những kỉ niệm nhạt nhòa. Đối với mẹ và cha dượng thì Ixăc rất hận mẹ và có ác cảm với cha dượng. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
CHƯƠNG 3: CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VẬT LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
22 p | 2030 | 254
-
Kỹ thuật tổ chức hoạt động ngoại khóa Vật lý
122 p | 489 | 140
-
LÍ LUẬN DẠY HỌC VẬT LÝ
168 p | 294 | 85
-
Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá năng lực tự học của học sinh phổ thông trong dạy học vật lý
7 p | 166 | 11
-
Tác dụng của các koại hình thiết bị trong dạy học Vật lý
6 p | 96 | 6
-
Năng lực tính toán và tiêu chí đánh giá năng lực tính toán trong quá trình giải bài tập vật lý của học sinh
6 p | 58 | 5
-
Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong môn Vật lý lớp 7
6 p | 85 | 4
-
Đề thi kết thúc học phần học kì 1 môn Lí luận dạy học Vật lý năm 2020-2021 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
3 p | 22 | 4
-
Khai thác và sử dụng các video clip trong dạy học chương Cảm ứng điện từ Vật lý 11 THPT
5 p | 32 | 3
-
Hình thành năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề trong dạy học vật lý trung học cơ sở
4 p | 38 | 3
-
Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh với sự hỗ trợ của thí nghiệm tự tạo trong dạy học vật lý
4 p | 27 | 3
-
Xây dựng câu chuyện vật lý hỗ trợ dạy học chuyên đề Trường hấp dẫn
10 p | 8 | 3
-
Xây dựng hệ thống câu hỏi về chủ đề “cơ học” vật lý 10 trung học phổ thông theo hướng phát triển năng lực học sinh
8 p | 40 | 3
-
Thiết kế các video clip song ngữ Việt - Anh hỗ trợ dạy học vật lý phần quang học cho sinh viên trường Đại học An Giang
10 p | 55 | 2
-
Một số công cụ đánh giá kết quả học tập của học sinh theo định hướng phát triển năng lực trong dạy học vật lý trung học phổ thông
9 p | 23 | 2
-
Xây dựng bài tập thí nghiệm định lượng vật lý trung học phổ thông
8 p | 67 | 2
-
Sử dụng đa phương tiện để nâng cao chất lượng dạy học chương từ trường vật lý 11 nâng cao
4 p | 79 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn