YOMEDIA
ADSENSE
Đề cương chuẩn ôn thi cao học Quản lý giáo dục môn Giáo dục học
638
lượt xem 87
download
lượt xem 87
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Tài liệu Đề cương chuẩn ôn thi cao học Quản lý giáo dục môn Giáo dục học giới thiệu tới người đọc câu hỏi hướng dẫn trả lời chi tiết câu hỏi ôn thi môn Giáo dục học, Tài liệu dành cho những ai quan tâm và những người đang ôn thi cao học Quản lý giáo dục dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề cương chuẩn ôn thi cao học Quản lý giáo dục môn Giáo dục học
- Câu 1. Tại sao nói giáo dục là hoạt động cơ bản của xã hội ? MỞ ĐẦU Để tồn tại và phát triển, con người cũng như mọi sinh vật khác phải luôn tự vận động và phát triển mọi tiềm năng và sức mạnh bản chất của mình , thực hiện các hoạt động cơ bản nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi để thoả mãn nhu cầu của bản thân và thích ứng với môi trường sống. Trong các hoạt động đó có hoạt động giáo dục. Xét từ góc độ xã hội học và tâm lí học, có thể định nghĩa giáo dục chính là một quá trình xã hội hoá nhân cách được tổ chức một cách chuyên biệt (có tổ chức, có mục đích và được xã hội phân công, chuyên môn hoá). Tất cả các tác động nào đó của con người, nếu nhằm truyền thụ cho thế hệ sau, hoặc cho người khác và giúp họ lĩnh hội “kinh nghiệm xã hội – lịch sử”, định hướng cho thế hệ sau có được sự phát triển nhân cách và sự thuận lợi khi bước vào cuộc sống xã hội thì đều được gọi là giáo dục . Là một hiện tượng XH đặc biệt, chức năng đặc thù của GD là sự chuyển giao (truyền thụ và lĩnh hội, thông qua giao tiếp và hoạt động) hệ thống kinh nghiệm xã hội – lịch sử của các thế hệ trước (của loài người) cho thế hệ sau (đến từng cá thể người) một cách có mục đích, có ý thức , đảm bảo cho thế hệ sau có được sự phát triển nhân cách thuận lợi và thích ứng với yêu cầu cuộc sống, sự phát triển XH Là một quá trình “xã hội hoá nhân cách” được tổ chức một cách chuyên biệt, nhằm mục đích phát triển và hoàn thiện nhân cách con người (cá nhân/ nhóm/ XH) Hoạt động cơ bản của xã hội là hoạt động của con người nhằm để tồn tại và phát triển của XH, không có nó XH không thể tồn tại và phát triển. Các hoạt động cơ bản của xã hội như hoạt động sản xuất, hoạt động nhận thức, hoạt động giáo dục, hoạt động văn hóa, hoạt động đấu tranh chính trị ... Giáo dục, lúc đầu là HĐXH mang tính tự phát, sau dần trở thành hoạt động có ý thức tự giác của con người, của xã hội. Giáo dục bắt nguồn từ lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, giáo dục cũng bắt đầu....Nguồn gốc của giáo dục bắt nguồn từ lao động vì trong quá trình tác động vào thế giới kháeh quan, con người tiếp thu và tích lũy dược những kinh nghiệm truyền lại cho người khác cho thế hệ sau để ứng dụng vào quá trình lao động để đạt hiệu quả cao hơn. Chính vì vậy giáo dục là hoạt động cơ bản của XH GD trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại ứng với mỗi một giai đoạn phát triển các hình thái kinh đều có một cấu trúc xã hội tương ứng. Triết học duy vật lịch sử coi GD thuộc phạm trù thức ý thức xã hội chị sự quy định của các yếu tố tồn tại xã hội: Sản xuất, kinh tế và chịu sự ảnh hưởng của các yêu tố khác: chính trị, văn hóa khoa học. Tuy nhiên giáo dục cũng có sự tác động trở lại nhất định đối với các yểu tố tồn tại xã hội và các yếu tố ý thức xã hội Giáo dục tác động thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện những chức năng xã hội của nó: + Chức năng Kinh tế sản xuất: Giáo dục không phài là yếu tố của sản xuất kĩ thuật nhưng giáo dục tác động trực tiếp đến sức lao động làm chủ công cụ sàn xuất (thông qua nghiên cứu phát minh, cải tiến, chế tạo công nghệ từ đó làm tăng năng xuất và sản lượng từ đó tăng trưởng kinh tế . Như vậy GD có vai trò tác động quyết định đến phát triển nguồn nhân lực và tái sản xuất mở rộng sức lao động của nền sản xuất và kinh tế xã hội thể hiện ở: Đào tạo nhân tài cho các lĩnh vực phi vật thể Bồi dưỡng cho người lao động đạo đức nghề nghiệp Giáo dục là phương tiện hữu hiệu để phổ biến khoa học kĩ thuật đến mọi người dân
- Đầu tư ch GD là đầu tư cho phát triển. GD là động lực phát triển kinh tế xã hội. Để thực hiện tốt chức năng này, công tác GD & ĐT cần quan tâm đến những vấn đề: Gắn kết GD với sự phát triển kinh tế XH trong từng giai đoạn phát triển của đất nước (đào tạo gắn với nhu cầu của XH) Xây dựng hệ thống cơ cấu ngành nghề đào tạo phù hợp sự phát triển kinh tế XH của đất nước, đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Quan tâm thích đáng đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy ở các trường dạy nghề, THCN, cao đẳng, đại học. Đầu tư cơ sở vật chất trường học cả về số và chất đáp ứng nhiệm vụ đào tạo ở tất cả các cơ sở GD & ĐT + Chức năng Chính trị xã hội: Giáo dục chịu sự quy định của chính trị và tư tưởng xong giáo dục cũng tác động mạnh mẽ (Kìm hãm hoặc thúc đẩy) đến chính trị và hệ tư tưởng bằng sự tích hợp, lồng ghép các quy định của hệ tư tưởng, đường lối, chính sách … vào nội dung chương trình giáo dục vào quy trình truyền thụ và lĩnh hội. Như vậy giáo dục trở thành một trong các con đường hiện thực hóa sức mạnh của chính trị và hệ tư tưởng là con đường thuận lợi nhất, hiệu quả nhất đưa chính trị và hệ tư tưởng vào quần chúng nhân dân vả cuộc sống. Mặt khác giáo dục còn có thể tác động mạnh mẽ đến cấu trúc xã hội đặc biệt là trình độ dân trí trong các giai tầng xã hội, sự phát triển của giáo dục làm thay đổi cả về chất và lượng của kết cấu các giai tầng xã hội. Chính vì vai trò to lớn như vậy. Lê nin đã khẳng định mọi giai cấp cầm quyền đều cố gắng nắm vững và độc quyền điều hành các thể chế giáo dục nhằm phục vụ hệ tư tưởng và các mục tiêu chính trị của mình. + Chức năng văn hóa khoa học: Các giá trị cơ bản của nền văn hóa, các tri thức cơ bản của các khoa học được chọn lọc đưa vào hệ thống, chương trình, mục tiêu giáo dục. Ngược lại thông qua sự tác động có định hướng liên tục, rộng khắp đến nhận thức, thái độ, hành vi của nhiều cá nhân, nhiều thế hệ. Giáo dục là con đường cơ bản nhất để lưu trữ, bảo tồn, mở rộng và phát triển các giá trị văn hóa, khoa học. Chất lượng giáo dục có vai trò to lớn đối với tốc độ và quy mô và nhiều chỉ số phát triển kinh tế xã hội quan trọng của một quốc gia. Thông qua 3 chức năng này giáo dục tác động đến sự phát triển của xã hội. Giáo dục chính là một trong nhiều hoạt động xã hội cấu thành nên một hình thái kinh tế xã hội, do đó giáo dục chịu sự quy định của xã hội. Cùng với các hoạt động nhận thức nghiên cứu khoa học, hoạt động lao động sản xuất, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động văn hoá nghệ thuật, giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội, là một trong những điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển của loài người. KLSP Thực hiện tốt các chức năng của giáo dục có tác động to lớn đến sự phát triển của xã hội, vì vậy đặt ra một số vấn đề đối với người làm công tác giáo dục và nhà QLGD trong điều kiện thực tế hiện nay như sau: Phải nhận thức đùng giáo dục có vai trò to lớn trong XH hiện đại chính vì nhận thức đúng đó mà Đảng ta đã xác định Giáo dục là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho GD là đầu tư cho sự phát triển; GD chính là động lực để phát triển kinh tế xã hội. Căn cứ vào bản chất của giáo dục, vai trò của giáo dục nên chúng ta phải đổi mới, cải cách gd nâng cao hiệu quả GD, chất lượng GD để giáo dục làm thay đổi và cải biến xã hội
- GD tác động đến XH, cùng với các hoạt động XH khác như VH, KT CT vì vậy phải đặt nó trong hoàn cảnh xã hội. Giáo dục phải gắn với thực tiễn XH, đáp ứng nguồn nhân lực theo yêu cầu phát triển KTXH trong từng giai đoạn cụ thể. Xây dựng hệ thống GD cấn đối đa năng nhằm thực hiện ba mục tiêu: Lấy nâng cao dân trí làm nền tảng cho cho đào tạo nhân lực, trên cơ sở đó bồi dưỡng nhân tài cho tất cả các lĩnh vực đời sống … làm động lực trực tiếp thúc đẩy đất nước phát triển hòa nhập với thế giáo văn minh. Hệ thống giáo dục cần không ngừng đổi mới nội dung, PP, P tiện … nhằm không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao và những phẩm chất cần thiết để đáp ứng yêu cầu của nện SX hiện tại. Tăng cượng hợp tác QT trong giáo dục. GD cho thế hệ trẻ niềm tin, bản lĩnh và có sự chuẩn bị đầy đủ phẩm chất, năng lực để có thể tham gia vào các mối quan hệ đa dạng. Giáo dục cần phải được quan tâm ngay từ bậc học mầm noncho đến ĐH và trên Đh, phát triển hợp lý các loại hình GD, các phương thức đào tạo để mọi lứa tuổi đều được hưởng quyền lợi học tập, thỏa mãn nhu cầu phát triển tài năng của mọi công dân góp phần đắc lực vào sự phát triển đất nước. Vấn đề 2 Tính lịch sử, tính giai cấp của giáo dục. MỞ BÀI Triết học duy vật lịch sử coi GD thuộc phạm trù thức ý thức xã hội chị sự quy định của các yếu tố tồn tại xã hội: Sản xuất, kinh tế và chịu sự ảnh hưởng của các yêu tố khác: chính trị, văn hóa khoa học. Khi có những biên đổi về chế độ chính trị, cấu trúc Xh và hệ tư tưởng của XH thì giáo dục cũng có những biến đổi tương ứng, lịch sử GD thế giới và nước ta đã khảng định điều đó. Như vậy Giáo dục có tính lịch sử và tính giai cấp trong XH có giai cấp. Thật vậy, tất cả các tác động nào đó của con người, nếu nhằm truyền thụ cho thế hệ sau, hoặc cho người khác và giúp họ lĩnh hội “kinh nghiệm xã hội – lịch sử”... thì đều được gọi là giáo dục Là một hiện tượng XH đặc biệt, chức năng đặc thù của GD là sự chuyển giao (truyền thụ và lĩnh hội, thông qua giao tiếp và hoạt động) hệ thống kinh nghiệm xã hội – lịch sử của các thế hệ trước (của loài người) cho thế hệ sau (đến từng cá thể người) một cách có mục đích, có ý thức , đảm bảo cho thế hệ sau có được sự phát triển nhân cách thuận lợi và thích ứng với yêu cầu cuộc sống, sự phát triển XH Là một quá trình “xã hội hoá nhân cách” được tổ chức một cách chuyên biệt, nhằm mục đích phát triển và hoàn thiện nhân cách con người (cá nhân/ nhóm/ XH) Khoa học giáo dục đã nghiên cứu và chỉ ra hiện tượng giáo dục có các tính chất sau: Tính phổ biến: Ở đâu có xã hội loài người, ở đó có giáo dục. Tính vĩnh hằng: Khi nào còn xã hội loài người, lúc đó còn giáo dục. Tính lịch sử: Giáo dục ra đời theo nhu cầu của lịch sử xã hội, trước hết, nó phản ánh trình độ phát triển lịch sử, bị quy định bởi trình độ phát triển của lịch sử. ở mỗi giai đoạn phát triển của xã hội có một trang lịch sử giáo dục Tính giai cấp: Thông qua các định hướng tư tưởng chính trị và pháp luật đối với mục đich, nội dung và phương pháp giáo dục, giai cấp cầm quyền sử dụng giáo dục như một công cụ chuyên chính của nhằm duy trì quyền lợi của mình, tạo nên nền giáo dục chính thống. Tính nhân loại và tính dân tộc: Giáo dục, trước hết là các giá trị nhân loại, thể hiện ở thành tựu và xu thế phát triển giáo dục, ở mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục...
- Trong mỗi cá nhân, những giá trị văn hoá của dân tộc luôn gắn kết với những giá trị chung của nhân loại Trong các tính chất cơ bản trên ta tập trung phân tích tính lịch sử, tính giai cấp của Giáo dục. *) Tính Lịch sử: Giáo dục là một hình thái ý thức xã hội, luôn vận động và biến đổi theo thời gian. Giáo dục chịu sự quy định của các yếu tố vật chất, thuộc tồn tại xã hội chi phối như các điều kiện kinh tế và trình độ sản xuất xã hội. Mặt khác, là một hình thái ý thức xã hội, nên giáo dục còn chịu sự tác động chi phối, khống chế của các hình thái ý thức xã hội khác, như pháp luật, tôn giáo, đạo đức, văn hoá, khoa học... đặc biệt là tác động của chính trị. Ở mỗi giai đoạn của sự phát triển XH đều tác động đến GD và tạo nên đặc điểm của giáo dục và làm cho GD phát triển. Giáo dục ra đời theo nhu cầu lịch sử XH, trước hết giáo dục phản ánh trình độ phát triển lịch sử, bị quy định bởi trình độ phát triển của lịch sử. Mặt khác trong một chừng mực nhất định giáo dục với các chức năng XH và tính thiết chế của nó lại tác động tích cực vào sự phát triển của lịch sử. Vì vậy ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử XH có 1 trang lich sử giáo dục. Chủ nghĩa duy vật đã khẳng định: Mõi hình thái kinh tế XH có một hình thái giáo dục tương ứng, mỗi phương thức sán xuất có một phương thức giáo dục tương ứng. Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì giáo dục có sự khác nhau về mục đích, mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức. Ở thời kỳ sơ khai giáo dục được thực hiện bởi những người lớn truyền thụ cho trẻ em một cách trực tiếp thông qua sản xuất và giáo dục được giao cho những người già trong nhà. Ở thời kỳ cổ đại trẻ em đươc gửi vào các trường nội tú và sống trong những điều kiện khắc nghiệt nhằm hoàn thành hiệm vụ. Nhà trường ra đời chuyển từ hình thức dạy học cá nhân sang hình thức dạy học tập thể và hiệu quả của việc dạy học được nâng lên. Nửa sau thế kỷ XX cùng với sự phát triển của kinh tế XH thì giáo dục trở thành điều kiện nhất thiết để tái tạo sản xuất sức lao động XH tạo ra nguồn lực cơ bản để đáp ứng yêu cầu của XH. Ngày nay giáo dục trở thành một hoạt động được tổ chức đặc biệt, thiết kế theo một kế hoạch chặt chẽ, có phương pháp, phương tiện hiện đại đã góp phần tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển của XH. Đạo đức, trí tuệ khoa học kỹ thuật, tiềm năng kinh tế của bất kỳ XH nào đều phụ thuộc vào sự phát triển của giáo dục. *) Tính Giai cấp: giáo dục mang tinh giai cấp vì nó phản ánh hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, trong một chừng mực nhất định, trong các tầng lớp xã hội khác, giai cấp khác vẫn tồn tại những quan niệm về mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục không chính thống... tạo thành dòng giáo dục dân gian nhưng giáo dục chính thống bao giờ cũng thuộc giai cấp nắm quyền lãnh đao XH và phục vụ cho giai cấp nắm quyền XH. VD: Trong XH chiếm hữu nô lệ giáo dục của giai cấp chủ nô phát triển có hệ thống, có chữ viết và có người dạy, trog khi đó giáo dục của giai cấp nô lệ là giáo dục gia đình giáo dục của người lớn cho trẻ em với trình độ giáo dục thấp. Trong thời kỳ này trình độ giáo dục lạc hậu chủ yếu là của giai cấp chủ nô. Khi XH phát triển lên hình thái KTXH cao hơn là hình thái KTXH phong kiến thì giáo dục đã khác về bản chất so với thời khì chiếm hữu nô lệ. XH phong kiến có nền giáo dục của giai cấp phong kiến, có chữ viết, có nôi dung giáo dục, mục đích giáo dục là để làm quan, phương pháp tuyển chọn qua thi cử. Còn giáo dục của người dân là giáo dục với mục đích để trở thành ngươi tốt hơn . Các nhà giáo dục học đã khẳng định giáo dục mang tính giai cấp. Nó thể hiện trong các chính sách giáo dục chính thống, được xây dựng trên cơ sở tư tưởng của giai cấp cầm quyền. Giáo dục không đứng ngoài chính sách và quan điểm của nhà nước và điều đó được toàn XH chấp nhận. Trong XH có giai cấp, giáo dục được sử dụng như một công cụ của giai cấp cầm
- quyền để duy trì quyền lợi của mình thông qua mục đích và nội dung giáo dục, phơng pháp giáo dục, lợi ích này phù hợp với một bộ phận người trong xã hội, hoặc đa số các tầng lớp trong XH hay toàn XH. Trong Xh có giai cấp đối kháng thì giáo dục là đặc quyền, đặc lợi của gia cấp thống trị thông qua việc truyền bá và xây dựng ý thức quan hệ giai cấp, giáo dục là vũ khí để đấu tranh giai cấp. Mối quan hê giữa tính lịch sử và tính giai cấp của giáo dục, có thể nói tính giai cấp là một trường hợp riêng của tính lịch sử vì XH có tính lịch sử, khi lịch sử thay đổi thì có sự thay đổi tính giai cấp của giáo dục. KLSP Trong giáo dục và công tác QLGD luôn phải chú trọng tính giai cấp và tính lịch sử trong giáo dục. khi nghiên cứu, xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục phải căn cứ vào điều kiện kinh tế chính trị thực tế, với xu thế của lịch sử để XD chương trình, XD mục tiêu, tuy nhiên đồng thời với XD, đổi mới phải kế thừa tính lịch sử giáo dục. + Do giáo dục có tính lịch sử nên nó vận động theo thời gian. Vì vậy cần nhìn nhận giáo dục trong sự vận động của lịch sử, phải xem xét giáo dục trong mọi mối quan hệ kinh tế xã hội, văn hóa. Luôn xác định rõ chiều hướng phát triển, trình độ phát triển mục đích, mục tiêu, nội dung phương pháp vai trò của giáo dục đối với người dạy và người học. + Trong công việc quản lí: Quán triệt cho cán bộ, giáo viên, học sinh quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước về giáo dục… + Tổ chức, chỉ đạo, quản lí mọi hoạt động giáo dục trong nhà trường theo Luật giáo dục, Điều lệ, tuân thủ mục tiêu, nội dung, phương pháp, kiểm tra đánh giá… + Bản thân tích cực tự học tập, bồi dưỡng, cử cán bộ, giáo viên đi học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lí luận chính trị, quản lí nhà nước về giáo dục…để thực hiện tốt vai trò giáo dục trong nhà trường… Để tránh vi phạm tính quy luật quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về phát triển giáo dục Đã chỉ rõ: “ Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, tiên tiến, hiện đại, xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó để đạt được mặt bằng chung, đồng thời tạo điều kiện để các địa phương và các cơ sở giáo dục có điều kiện bứt phá nhanh, đi trước một bước, đạt trình độ ngang bằng với các nước có nền giáo dục phát triển. Xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học, học suốt đời, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số, người nghèo, con em diện chính sách. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn với phát triển khoa học và công nghệ, tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành để một mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng; mặt khác phải chú trọng thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi người học, những người có năng khiếu được phát triển tài năng”. Vấn đề 3. Môi trường xã hội đối với sự phát triển cá nhân và các kết luận sư phạm Mở bài Từ xa xưa Ông cha ta đã có câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Đó là cách nhìn nhận của Ông cha ta về mối quan hệ giữa môi trường xã hội, những ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với sự hình thành và phát triển cá nhân con người.
- Sự phát triển cá nhân được hiểu là một quá trình trình biến đổi tổng thể cải biến toàn bộ các sức mạnh thể chất và tinh thần cũng như các năng lực của trẻ. Đồng thời sự phát triển cá nhân, mà cốt lõi là nhân cách không chỉ quy vào sự tăng trưởng về lượng mà, trước hết đó là những biến đổi về chất. + Sự phát triển về mặt thể chất: biểu hiện ở những biến đổi về chiều cao, trọng lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan và sự phối hợp vận dộng cơ thể. + Sự phát triển về mặt tâm lý: thể hiện ở những biến đổi của các qúa trình nhận thức, tình cảm, ý chí… và ở sự hình thành những thuộc tính tâm lý mới của cá nhân. + Sự phát triển về mặt xã hội: thể hiện ở những biến đổi trong thái độ cư xử với người xung quanh, ở sự tham gia tích cực vào các quan hệ và hoạt động xã hội. Quá trình hình thành và phát triển nhân cách nói riêng và của cá nhân nói chung chịu ảnh hưởng của các yếu tố: Yếu tố di truyền bẩm sinh là yếu tố giữ vai trò tiền đề vật chất; Yếu tố môi trường, trong đó môi trường xã hội là cơ bản giũ vai trò điều kiện, phương tiện. Yếu tố hoạt động cá nhân là là yếu tố quyết định trực tiếp Yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo, trong đó giáo dục nhà trường là then chốt Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh tác động qua lại và đảm bảo cho hoạt động sống và phát triển của con người. gồm có môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên là những đặc điểm về địa hình, thời tiết, khí hậu tạo điều kiện rèn luyện hình thành những phẩm chất nhân cách của cá nhân. Tuy nhiên môi trường tự nhiên không ảnh hưởng trực tiếp hay có ý nghĩa quyết định mà chỉ có ảnh hưởng gián tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách Môi trường xã hội bao gồm: Môi trường XH vĩ mô là các quan hệ về chính trị, tư tưởng, quan hệ ứng xử, truyền thống văn hóa, tập quán, đường lối chính sách, điều kiện kinh tế XH địa phương … đặc trưng là tác động gián tiếp đến các cá nhân, ảnh hưởng chung cho nhiều người. Môi trường XH vi mô là môi trường sống trong gia đình, bạn bè, các quan hệ trong cộng đồng, làng xã, trong lớp học, trường học là yếu tố tác động trực tiếp, thường xuyên, mạnh mẽ đến cá nhân. Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực hiện trong một môi trường nhất định. Môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện, điều kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân. Trong môi trường xã hội (các quan hệ xã hội) đã chứa đựng những giá trị, kinh nghiệm, lịch sử XH, trong đó có tri thức, kỹ năng, thái độ ưng xử của xã hội loài người. Như vậy nó chứa đựng những cơ hội, điều kiện để cho cá nhân lựa chọn và chiếm lĩnh và biến thành nhân cách của mình. Ngược lại môi trường cũng là nơi cho cá nhân thể hiện nhân cách, trải nghiệm bản thân và thể hiện, bộc lộ ra bên ngoài những kiến thức, kỹ năng đã thu nhận được, đồng thời cũng biết những giá trị đã thể hiện ra đúng hay sai và phương hướng điều chỉnh nhân cách nếu sai. Với ý nghĩa đó, môi trường xã hội là yếu tố làm nên nội dung nhân cách, môi trường là điều kiện, phương tiện cho sự phát triển cá nhân. Chính vì vậy khi bàn về con người Mác đã nói: “trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Tuy nhiên, môi trường nói chung, môi trường XH nói riêng không phải là yếu tố chủ đạo, yếu tố quyết định sự phát triển cá nhân. Tính chất, mức độ ảnh hưởng của môi trường còn tùy thuộc vào: Lập trường, quan điểm, thái độ, của cá nhân đối với các ảnh hưởng đó cũng như tùy thuộc vào xu hướng, năng lực, trình độ tư duy, mức độ hoạt động tham gia của cá nhân, cá nhân tham gia hoạt động càng tích cực thì ảnh hưởng càng nhiều, lính vực tham gia hoạt động càng đa dạng thì chiếm lĩnh được càng nhiều kiến thức, kỹ năng, thích ứng được
- với nhiều mối quan hệ. Thông qua hoạt động, con người dần dần hoàn chỉnh bản thân, hình thành những nét nhân cách thích hợp với yêu cầu của hoạt động và của xã hội. Ví dụ: Chuyển một học sinh chỉ có năng khiếu và yêu thích về các môn thể dục thể thao vào học 1 lớp năng khiếu môn Toán thì dù môi trường học tập, phong trào học tập môn toán của tập thể lớp có tốt đến mấy thì ảnh hưởng đến học sinh đó là rất hạn chế. Vì do xu hướng, năng lực tư duy của học sinh đó mà dẫn đến việc học sinh đó ít hoặc không tham gia các hoạt động, phong trào học tập môn toán của lớp và như vậy ảnh hưởng của môi trường học tập, phong trào học môn toán đến cá nhân học sinh đó là hạn chế. Quay trở lại câu tục ngữ của ông cha ta ở trên “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” là một đúc rút kinh nghiệm vô cùng quý báu của ông cha ta nhưng không thể phủ nhận mặt trái của nó. Ở môi trường tốt, hoàn cảnh tốt nhưng nếu không tham gia vào hoạt động cải tạo môi trường, trải nghiệm bản thân trong đó thì chưa chắc đã tốt. Có những người sông trong môi trường khó khăn, thiếu thốn, không lành mạnh tuy nhiên với lập trường, quan điểm, thái độ tiến bộ thì học vẫn chọn lọc bỏ được những tác động xấu của môi trường đến cá nhân và vươn lên. KLSP. Trong công tác giáo dục chúng ta cần nhận thức đúng mức vai trò của yếu tố môi trường đói với sự phát triển cá nhân. Điều chỉnh và tổ chức hợp lý môi trường sống cho HS theo định hướng và yêu cầu của XH, cho HS tiếp xúc với cuộc sống, xây dựng một môi trường sống lành mạnh, gắn giáo dục với thực tiễn xã xã hội. Thấy được mối quan hệ tác động qua lại giữa nhà trường, gia đình và xã hội, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng, gia đình, xã hội đối với hoạt động giáo dục của nhà trường Tổ chức hiệu quả các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo dục kỹ năng sống, giá trị sống, tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh, tổ chức các hoạt động tham quan, học tập tại cộng đồng, tại di sản, khu sản xuất… Xây dựng môi trường nhà trường thân thiện, lành mạnh, tập thể giáo viên, học sinh vững mạnh, đoàn kết; chú ý bồi dưỡng nâng cao năng lực trình độ của giáo viên; tạo điều kiện cho học sinh tự giác, tích cự học tập, khám phá… Trong công tác giáo dục, điều quan trọng là giúp cá nhân hình thành khả năng tự giáo dục theo hệ thống định hướng giá trị phù hợp với các chuẩn mực xã hội, để họ biết chọn lựa học hỏi những điều tích cực lành mạnh và biết loại bỏ tránh xa những điều xấu xa tiêu cực trong môi trường sống.
- Vấn đề 4. Nhiệm vụ giáo dục và các con đường giáo dục cơ bản MỞ ĐẦU Quá trình Giáo dục trong nhà trường là quá trình tác động có hệ thống và liên tục đến toàn bộ cuộc sống của người được giáo dục, nhằm hình thành ở họ những phẩm chất và năng lực nhân cách phù hợp với yêu cầu của mục đích giáo dục và các mục tiêu giáo dục cụ thể. Quá trình gd trong nhà trường có các đặc điểm sau: là một hình thái đặc biệt của quá trình hình thành và phát triển toàn diện nhân cách (giáo dục theo nghĩa toàn vẹn) được định hướng rõ ràng, có tổ chức bởi các nguyên tắc sư phạm và được thực hiện thông qua các thiết chế học đường. • là quá trình tương tác thống nhất giữa hai mặt đối lập: các tác động sư phạm của nhà giáo dục (những người làm công tác giáo dục, gồm cả phụ huynh học sinh, đoàn thể...); và các tác động tự giáo dục (sự tiếp nhận tích cực của người được giáo dục) • là quá trình có sự tham gia của nhiều yếu tố cấu thành, tác động có định hướng nhằm sự chuyển hoá tích cực những yêu cầu từ bên ngoài – những yêu cầu của xã hội, của nhà trường – tạo thành ý thức, thái độ và một hệ thống hành vi và một trình độ học vấn nhất định, thành những phẩm chất và năng lực bền vững của cá nhân, phù hợp với yêu cầu của mục đích giáo dục, mục tiêu giáo dục của bậc học, cấp học. 2. Các nhiệm vụ giáo dục: Cấp độ xã hội hay mục tiêu xã hội của hệ thống giáo dục của một quốc gia, thường được diễn đạt trong các văn bản pháp quy về đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, dân tộc (văn kiện của Đảng cầm quyền, Luật của Nhà nước...) dưới dạng một mệnh đề ngắn gọn, trong đó nêu rõ một hệ thống phẩm chất, năng lực điển hình, chung nhất của nhân cách tiêu biểu cho một thế hệ và các mục tiêu phát triển xã hội của giáo dục. Cấp độ trung gian: Cụ thể hoá mục đích giáo dục, thành một hệ thống mục tiêu giáo dục đào tạo của các bậc học, cấp học, loại hình đào tạo... cho đến mục tiêu của môn học, bài học.
- Thực tế, là một “cây mục tiêu”, mà mục đích, yêu cầu của mỗi bài học, mỗi hoạt động giáo dục cụ thể là cơ sở, bậc thấp nhất. Trong lý luận giáo dục học, người ta thường phân định thành 5 nhiệm vụ giáo dục (cũng được gọi với nhiều thuật ngữ tương đương: các nhiệm vụ giáo dục cơ bản, các quá trình giáo dục bộ phận...). Đó là các nhiệm vụ: Giáo dục trí tuệ: bao gồm giúp người học tiếp thu, lĩnh hội một hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo ... và phát triển có định hướng các phẩm chất, năng lực trí tuệ, nhằm hình thành ở người học một trình độ học vấn nhất định phù hợp với các qui định của mục tiêu giáo dục dạy học. Giáo dục trí tuệ là nhiệm vụ đặc thù, chuyên biệt và có ưu thế đặc biệt của nhà trường. Giáo dục đạo đức: Theo nghĩa rộng, bao gồm giáo dục về hệ thống giá trị và chuẩn mực đạo đức của con người (lòng nhân ái, lòng yêu nước...) và của người học sinh (ý thức học tập, ý thức tổ chức kỉ luật, thái độ và hành vi ứng xử...). Theo nghĩa hẹp giáo dục các phẩm chất công dân và giáo dục pháp luật, giáo dục thế giới quan khoa học và hệ tư tưởng và giáo dục chính trị... Giáo dục thẩm mĩ: bao gồm giúp người học có được một trình độ văn hoá thẩm mĩ nhất định theo bậc học, thể hiện ở sự hiểu biết, thái độ, hành vi và lối sống văn hoá, thị hiếu thẩm mĩ, và các nội dung giáo dục nghệ thuật. Giáo dục lao động, kĩ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông: theo nghĩa rộng, nhằm hình thành ý thức, thái độ đúng đối với lao động, với người lao động và các kĩ năng cơ bản để chuẩn bị tích cực cho học sinh trở thành người lao động có ích cho xã hội, gia đình và cho sự lập thân, lập nghiệp của mỗi cá nhân; bao gồm cả các tác động định hướng nghề nghiêp và giáo dục nghề nghiệp ở phạm trù kĩ thuật tổng hợp. Giáo dục thể chất và sức khoẻ: theo nghĩa rộng, không chỉ có các hoạt động thể dục thể thao giúp người học đảm bảo về sức khỏe thể lực để học tập, mà hình thành văn hoá thể chất, thể hiện ở sự hiểu biết, ý thức tự giác và thái độ tích cực giữ gìn, bảo vệ cuộc sống cá nhân và cộng đồng, biết tổ chức hợp lí cuộc sống học tập, lao động và rèn luyện ý chí nghị lực, tác phong sinh hoạt, cũng như các tố chất tinh thần và thể chất ở người có văn hoá. Chính bởi ý nghĩa lớn lao đó, hiện nay ở nhiều quốc gia, giáo dục thể chất còn được kết hợp với giáo dục quân sự học đường. Thực chất, toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân thông qua các hoạt động của mình cũng nhằm thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cơ bản trên đây. Tuy nhiên, do có vị trí nền tảng và trung tâm của nền giáo dục, nhà trường phổ thông và đội ngũ nhà giáo phải là khâu then chốt, thực thi đầy đủ và hiệu quả nhất yêu cầu, nội dung của các nhiệm vụ giáo dục. 3. Các con đường GD trong nhà trường PT. Khái niệm: Các con đường GD là một khái niệm rộng, bao hàm sự tổ chức thực hiện các nhiệm vụ GD, thể hiện sự vận dụng tổng hợp các phương pháp, cách thức, cách tổ chức quá trình GD, trong đó người HS được định hướng và tạo điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò chủ thể hoạt động nhằm lĩnh hội có kết quả các hệ thống giá trị văn hóa Khoa học – kỹ thuật – thẩm mỹ… Góp phần sáng tạo ra các giá trị mới của nhân cách. a. Dạy học. (Giáo dục thông qua các hoạt động dạy và học.) Đến trường thông qua việc học các môn học và sự giúp đỡ của thầy, cô giáo, người học sinh được trang bị một hệ thống tri thức cơ bản về tự nhiên, xã hội và con người. Đó là một khối lượng rất lớn tri thức trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật … với tư cách những di sản tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong đó hàm chứa những chân lí khoa học, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo và những giá trị nhân văn sâu sắc . Nhờ quá trình dạy học, hàng ngày và liên tục trong một thời gian dài nhiều năm tháng, không những người lĩnh hội được một vốn học vấn mà còn phát triển các phẩm chất và năng lực trí tuệ. Vì vậy, dạy học chính là con đường cơ bản để thực hiện nhiệm vụ giáo dục trí tuệ.
- b. Tổ chức các hoạt động chính trịxã hội. Cá nhân luôn tồn tại trong một môi trường phức tạp và sống trong các mối quan hệ đa dạng với cộng đồng xã hội. Hoạt động xã hội là trường học rèn luyện và giáo dục con người. Thông qua các hoạt động xã hội, sự giao tiếp giữa các cá nhân, và giữa cá nhân với các loại quan hệ xã hội càng đa dạng, thì các phẩm chất nhân cách càng có cơ hội phát triển phong phú. Hoạt động xã hội mang lại những thỏa mãn tinh thần, cá tính được bộc lộ và hình thành kỹ năng giao tiếp, tích lũy được kinh nghiệm ứng xử xã hội. Tính phức tạp của nội dung công việc càng cao thì con người càng phải cố gắng tìm ra các giải pháp hợp lý, do đó trí thông minh, sáng tạo, tính khéo léo, tế nhị văn hóa ứng xử được hình thành. Như vây, nhà trường cần tổ chức tốt các hoạt động xã hội đa dạng, đặc biệt là các hoạt động có ý nghĩa chính trịxã hội và tạo cơ hội cho đông đảo học sinh tham gia, chính là giúp các em mở mang hiểu biết về thế giới và cuộc sống xã hội, kinh nghiệm hoạt động được tích lũy, tính tích cực xã hội được hình thành. Thu hút học sinh vào các hoạt động xã hội phong phú và đa dạng chính là con đường giáo dục nhằm thực hiện các nhiệm vụ giáo dục có hiệu quả, đặc biệt là nhiệm vụ giáo dục đạo đức, tư tưởngđạo đức. d. Sinh hoạt tập thể. Tổ chức cho học sinh sinh hoạt tập thể là một hoạt động giáo dục quan trọng của nhà trường. Tập thể học sinh(trường,lớp) là một tập hợp nhiều cá nhân cùng gắn bó với nhau bởi các hoạt động chung và cùng hướng đến một mục đích tốt đẹp. Tập thể vừa là môi trường vừa là phương tiện hữu hiệu giáo dục con người. Tổ chức tốt các hoạt động tập thể là con đường giáo dục có hiệu quả để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, đặc biệt là nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ, giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Trong các sinh hoạt tập thể, đặc biệt là các hoạt động văn hóa văn nghệ thể thao. . . các cá nhân cùng nhau hoạt động, tinh thần đoàn kết, tình nhân ái, tính hợp tác, cộng đồng được hình thành, đó chính là những phẩm chất quan trọng của nhân cách. Trong các mối quan hệ và sinh hoạt tập thể, một mặt các cá nhân tác động lẫn nhau, mặt khác là sự tác động của các nhà sư phạm qua tập thể, tạo thành tác động tổng hợp có tác động giáo dục nhân cách rất lớn. c. Lao đông: (Giáo dục thông qua các hoạt động lao động phù hợp) Là hoạt động đặc biệt của con người, lao động tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần, nhằm thỏa mãn nhu cầu cuộc sống và chính trong lao động lại sáng tạo ra con người có ý thức. Mặt khác, giáo dục còn có nghĩa là sự chuẩn bị tích cực cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống lao động xã hội. Chính vì vậy, giáo dục kết với lao động đã được các nhà tư tưởng, trong đó có cả Mác, đã đề xuất từ lâu và đã được các nền giáo dục XHCN coi là một nguyên tắc cơ bản. Trước hết, giúp hình thành ở các thói quen lao động, tự phục vụ và ý thức tự giác, các kỹ năng và phương pháp tích cực trong học tậpmột loại hình lao động đặc biệt, đặc thù của các em. Như vậy, tổ chức tốt các loại hình lao động phù hợp, lấy lao động môi trường và phương tiện giáo dục nhân cách học sinh, chính là con đường giáo dục có hiệu quả, không chỉ nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục lao động mà còn cả với các nhiệm vụ giáo dục khác. Tuy nhiên, trong các con đường trên con đường dạy học với những chức năng đặc thù của mình, cũng có thể tác động đến nhận thức, thái độ và hành vi của người học, nhờ đó mà có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục khác bằng những cách thức: Thông qua nội dung tri thức các môn học. Bao gồm các môn học chuyên biệt( ví dụ, môn GCCD, các môn KTCN, KTNN, môn TD, ÂN…) và các môn học khác(ví dụ, thông qua nhiều tri thức của môn Lịch sử có thể giáo dục lòng yêu nước, truyền thống anh hùng dân tộc…) Thông qua các phương pháp dạy học và các hình thức tổ chức dạy học. Các phương pháp dạy học tích cực có tác động không chỉ đến hiệu quả tiếp nhận tri thức, mà còn tác động đến tư duy, đến hứng thú học tập và đến thái độ, hành vi người học, thậm trí
- góp phần hình thành cả những phẩm chất tích cực trong xu hướng tính cách của người học. Các hình thức ngoại khóa, học tập theo nhóm, hoặc gắn với các tình huống thực hànhthực tiễn. Cũng sẽ đưa lại những định hướng giá trị tích cực về nhiều mặt trong nhân cách người học. Thông qua các mối quan hệ giao tiếp giữa người dạy và người học, giữa người học với nhau; Thông qua viêc tổ chức và duy trì nề nếp, chế độ học tập và đặc biệt là qua tâm gương nhân cách của người dạy… có thể tiếp thu những khái niệm đạo đức, văn hóa, thẩm mỹ, những quy tắc, chuẩn mực ứng sử xac hội thuận lợi và hiệu quả. Như vậy có thể nói: trong giáo dục nhà trường, dạy học cũng chính là con đường giáo dục cơ bản góp phàn thực hiện có hiệu quả các nhiệm vị giáo dục khác. Đó là cơ sở khoa học để thấu hiểu ý nghĩa sâu sa của việc cần và có thể thông qua dạy chữ đề dạy người. Các con đường giáo dục tác động đến sự phát triển nhân cách học sinh không phải theo cách riêng rẽ, tách rời mà là một hệ thống gắn bó với nhau, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau để đạt được mục tiêu giáo dục xã hội. Phối hợp các con đường giáo dục chính là nguyên tắc khoa học giáo dục và cũng là nghệ thuật sư phạm. Vấn đề 5: Mối quan hệ giữa quá trình dạy học và quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp 1. Về khái niệm: Quá trình Giáo Dục (nghĩa rộng) gồm hai thành phần cơ bản: quá trình dạy học (QTDH) và QTGD (nghĩa hẹp). Như vậy, cả hai QTDH và QTGD (nghĩa hẹp) đều là các bộ phận cấu thành nên QTGD (nghĩa rộng). + QTDH: Là quá trình tác động qua lại giữa Giáo viên (GV) và học sinh (HS) nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo...) để phát triển những năng lực và phẩm chất của HS theo mục đích GD. + QTGD (nghĩa hẹp): là quá trình tác động qua lại của nhiều yếu tố: GV HS, các tổ chức đoàn hội HS, HS – HS dưới tác động có mục đích, có hệ thống của nhà GD đến đối tượng GD thông qua việc tổ chức các hoạt động đa dạng.
- QTDH là quá trình bao gồm hai quá trình bộ phận: quá trình dạy và quá trình học. Hai quá trình bộ phận này không tách rời nhau, luôn gắn bó, bổ sung, hỗ trợ cho nhau để cùng phát triển và đạt được mục tiêu DH. QTGD là quá trình 2 mặt. Đó là những tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà GD đến các đối tượng GD và sự hưởng ứng tích cực, tự rèn luyện của các đối tượng GD nhằm tiếp thu những giá trị, chuẩn mực xã hội, tinh hoa văn hóa dân tộc và thời đại. Quá trình GD có các nhiệm vụ: Giáo dục trí tuệ: bao gồm giúp người học tiếp thu, lĩnh hội một hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo ... và phát triển có định hướng các phẩm chất, năng lực trí tuệ, nhằm hình thành ở người học một trình độ học vấn nhất định phù hợp với các qui định của mục tiêu giáo dục dạy học. Giáo dục trí tuệ là nhiệm vụ đặc thù, chuyên biệt và có ưu thế đặc biệt của nhà trường. Giáo dục đạo đức: Theo nghĩa rộng, bao gồm giáo dục về hệ thống giá trị và chuẩn mực đạo đức của con người (lòng nhân ái, lòng yêu nước...) và của người học sinh (ý thức học tập, ý thức tổ chức kỉ luật, thái độ và hành vi ứng xử...). Theo nghĩa hẹp giáo dục các phẩm chất công dân và giáo dục pháp luật, giáo dục thế giới quan khoa học và hệ tư tưởng và giáo dục chính trị... Giáo dục thẩm mĩ: bao gồm giúp người học có được một trình độ văn hoá thẩm mĩ nhất định theo bậc học, thể hiện ở sự hiểu biết, thái độ, hành vi và lối sống văn hoá, thị hiếu thẩm mĩ, và các nội dung giáo dục nghệ thuật. Giáo dục lao động, kĩ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông: theo nghĩa rộng, nhằm hình thành ý thức, thái độ đúng đối với lao động, với người lao động và các kĩ năng cơ bản để chuẩn bị tích cực cho học sinh trở thành người lao động có ích cho xã hội, gia đình và cho sự lập thân, lập nghiệp của mỗi cá nhân; bao gồm cả các tác động định hướng nghề nghiêp và giáo dục nghề nghiệp ở phạm trù kĩ thuật tổng hợp. Giáo dục thể chất và sức khoẻ: theo nghĩa rộng, không chỉ có các hoạt động thể dục thể thao giúp người học đảm bảo về sức khỏe thể lực để học tập, mà hình thành văn hoá thể chất, thể hiện ở sự hiểu biết, ý thức tự giác và thái độ tích cực giữ gìn, bảo vệ cuộc sống cá nhân và cộng đồng, biết tổ chức hợp lí cuộc sống học tập, lao động và rèn luyện ý chí nghị lực, tác phong sinh hoạt, cũng như các tố chất tinh thần và thể chất ở người có văn hoá. Chính bởi ý nghĩa lớn lao đó, hiện nay ở nhiều quốc gia, giáo dục thể chất còn được kết hợp với giáo dục quân sự học đường. Ở quá trình dạy học, chức năng trội là sự tác động về mặt nhận thức của học sinh nhằm hình thành cho họ sự nắm vững hệ thống tri thức và những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Như vậy, tri thức và những kỹ năng thực hành vận dụng tri thức được chú ý đặc biệt ở quá trình này. Thực hiện nhiệm vụ giáo dục trí tuệ Còn ở quá trình giáo dục, chức năng trội của nó là sự tác động trên các mặt cả về nhận thức, tình cảm, hành vi nhằm giúp cho người đựơc giáo dục ý thức đúng đắn và sâu sắc những chuẩn mực xã hội cũng như là ý nghĩa của việc thực hiện những chuẩn mực đó; Qua đây nhằm giúp cho họ tích luỹ được những kinh nghiệm thực tiễn tích cực, có nhu cầu và thói quen ứng xử đúng đắn, phù hợp với các giá trị chuẩn mực. Như vậy, việc hiểu đúng và sâu các chuẩn mực xã hội, thể hiện qua hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực được đặc biệt chú ý ở quá trình giáo dục. Hai quá trình trên phối hợp để thực hiện mục đích giáo dục toàn diện + QTDH: Là quá trình tác động qua lại giữa Giáo viên (GV) và học sinh (HS) nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo...) để phát triển những năng lực và phẩm chất của HS theo mục đích GD. + QTGD (nghĩa hẹp): là quá trình tác động qua lại của nhiều yếu tố: GV HS, các tổ
- chức đoàn hội HS, HS – HS dưới tác động có mục đích, có hệ thống của nhà GD đến đối tượng GD thông qua việc tổ chức các hoạt động đa dạng. Nhiệm vụ của QTGD và QTDH đều tập trung vào 3 nhiệm vụ: Điều khiển, tổ chức chỉ đạo học sinh nắm vững hệ thống tri thức phổ thông cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn của đất nước về tự nhiên, XH nhân văn, đồng thời rèn luyện cho hệ thống kỹ năng kỹ xảo tương ứng.( nhiệm vụ giáo dưỡng: trang bị K K K) Tổ chức, điều khiển học sinh hình thành, phát triển năng lực và phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy, độc lập, sáng tạo (nhiệm vụ pt các năng lực trí tuệ cho hs) Tổ chức, điều khiển học sinh hình thành cơ sở, thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức nói riêng và sự phát triển nhân cách nói chung (nhiệm vụ giáo dục ccs phẩm chất nhân cách cho hs). Như vậy, con đường DH có mục đích DH (là một bộ phận của mục đích giáo dục. Dạy học vừa là nhiệm vụ của GD vừa là con đường của giáo dục (thông qua dạy chữ để dạy người) Các đặc điểm của quá trình GD (nghĩa hẹp) Xét về đặc điểm thì QTGD (hẹp) Gồm những đặc điểm chính sau: * Quá trình giáo dục mang tính lâu dài Quá trình giáo dục phẩm chất, năng lực, đạo đức phải được bắt đầu ngay từ khi con người mới sinh ra và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục trong suốt cuộc đời của con người vì cuộc sống và hoạt động luôn luôn có tác dụng giáo dục đối với con người và cải tạo con người. Trong qúa trình giáo dục, để hình thành một phẩm chất nhân cách cho con người, đòi hỏi phải có một thời gian dài mới có được kết quả vì nó phải trải qua nhiều giai đoạn và phải được lặp đi lặp lại nhiều lần với những yêu cầu và nội dung ngày càng được nâng cao. Những phẩm chất mới của nhân cách chỉ được hình thành sau khi đối tượng giáo dục đã trải qua một thời kỳ nhận thức, trải nghiệm, tập luyện và cả đấu tranh bản thân trong cuộc sống. Những nếp suy nghĩ cũ, những thói quen xấu thường tồn tại dai dẳng, trở đi, trở lại mãi trong ý thức và hành vi của mỗi người. Trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục nên nhớ không nên vội vàng cho rằng một số động tác hành vi vừa mới được tập luyện là những nét tính cách đã vững bền. Vì vậy trong quá trình giáo dục đi đôi với việc hình thành những phẩm chất mới cần phải hình thành thái độ và động cơ tích cực cho đối tượng giáo dục để đối tượng giáo dục luôn luôn có lập trường, quan điểm vững vàng trong quá trình đấu tranh bản thân. Trong công tác giáo dục phải kiên trì bền bỉ, phải tiến hành tác động giáo dục một cách liên tục, có kế hoạch và phải tiến hành trong một thời gian dài, không được nóng vội, không nên đốt cháy giai đoạn. Khi nghiên cứu xem xét đánh giá kết quả giáo dục, nhà giáo dục cần phải thận trọng xem xét, nghiên cứu trong cả quá trình rồi mới đưa ra kết luận và đặc biệt là nhà giáo dục không được thành kiến với đối tượng giáo dục. * Quá trình giáo dục diễn ra với những tác động phức hợp từ nhiều phía: Với tư cách là một hiện tượng xã hội đặc biệt, qúa trình giáo dục luôn chịu sự qui định của các quá trình xã hội khác đó là chịu sự ảnh hưởng của các mối quan hệ kinh tế chính trị, pháp luật, văn hóa xã hội..v.v...Tác động của xã hội đến nhân cách đối tượng giáo dục không diễn ra một cách máy móc, mà thông qua thái độ của con người đối với người xung quanh, trong số đó có thái độ đối với các ảnh hưởng tác động đến mình, đồng thời thái độ đó lại phụ thuộc vào bộ mặt tinh thần đã có ở đối tượng, vào kinh nghiệm sống của đối tượng giáo dục, vào tính chất hoạt động và các quan hệ xã hội của đối tượng giáo dục.
- Trong quá trình giáo dục những tác động giáo dục có mục đích của nhà trường đan xen với những ảnh hưởng của giáo dục xã hội và gia đình. Ngay trong từng nhân tố trên cũng chứa đựng nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng tới đối tượng giáo dục. Ngay trong nhà trường cũng có nhiều tác động khác nhau ảnh hưởng tới nhân cách đối tượng giáo dục: Nhân cách người thầy giáo, nội quy lớp học, quy chế của nhà trường, tập thể học sinh, nhóm bạn, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục .v.v... Có bao nhiêu quan hệ trong nhà trường và ngoài xã hội mà đối tượng giáo dục tham gia có bấy nhiêu loại hình hoạt động trong quá trình sống và sinh hoạt mà đối tượng giáo dục thực hiện sẽ có bấy nhiêu tác động tới đối tượng giáo dục với độ mạnh yếu khác nhau, những yếu tố đó có thể thống nhất và phối hợp để tăng cường lẫn nhau, cũng có thể mâu thuẫn với nhau, dẫn đến kết quả là vô hiệu hóa hay suy yếu ảnh hưởng của nhau. Vì vậy tác động GD của nhà trường chỉ đạt hiệu quả cao khi nhà GD tổ chức phối hợp được tất cả những tác động GD theo chiều hướng tích cực, ngăn chặn và làm vụ hiệu hóa những tác động tiêu cực tới đối tượng giáo dục. Tuy nhiên, trong thực tiễn giáo dục, cũng có những nơi, những lúc, trong các tình huống cụ thể, thường xảy ra những tác động ngược chiều tạo ra những phản ứng nhiễu gây khó khăn cho quá trình giáo dục. Với những tình huống như vậy, đòi hỏi người giáo viên với tư cách là nhà GD cần khéo léo vận dụng các phương pháp giáo dục để hạn chế tới mức tối thiểu những tác động tiêu cực, tự phát và phát huy cao độ những tác động tích cực đối với quá trình giáo dục và tự giáo dục, tự rèn luyện của học sinh. *Quá trình giáo dục mang tính cá biệt Trong quá trình giáo dục, đối tượng giáo dục chịu sự tác động từ nhiều phía từ nhiều nhân tố khác nhau, mọi tác động bên ngoài đó sẽ bị khúc xạ đi qua những điều kiện bên trong được xác định bởi một tổ hợp những phẩm chất mà đối tượng giáo dục kế thừa và hình thành trong cuộc sống. Những phẩm chất này phản ánh các điều kiện của hoàn cảnh gia đình và kinh nghiệm xã hội mà đối tượng giáo dục đã tích lũy được. Trong khi mang những nét, những phẩm chất chung và những kiểu hành vi cần thiết mà nhà giáo dục đã cố gắng hình thành ở đối tượng giáo dục thì mỗi đối tượng lại có những biểu hiện, những cá tính riêng biệt, họ sẽ có những phản ứng khác nhau trước những ảnh hưởng từ bên ngoài. Vì vậy trong quá trình giáo dục nhà giáo dục cần nắm vững đặc điểm đối tượng giáo dục để có những biện pháp đối xử cá biệt. Thái độ đối xử cá biệt với đối tượng giáo dục được thể hiện: Thỏa mãn những hứng thú nhiều mặt, nắm trình độ nhận thức của đối tượng giáo dục, đề ra các nhiệm vụ vừa sức đối với đối tượng giáo dục, phát huy năng lực sở trường đối tượng giáo dục, tìm hiểu những thói quen xấu của đối tượng giáo dục giúp họ từ bỏ những thói quen xấu v.v.. Trong công tác giáo dục, những "bài bản" có sẵn chỉ là điểm tựa cho hoạt động sư phạm, không một lĩnh vực lao động nào lại đòi hỏi tính sáng tạo cao như lao động sư phạm. Mọi ý nghĩ và cách làm dập khuôn, máy móc, hình thức của nhà giáo dục đều mang lại hiệu quả thấp, thậm chí còn có thể mang đến những thất bại lớn. Muốn giáo dục học sinh, giáo viên phải hiểu học sinh về mọi mặt để tìm ra cách tác động phù hợp. Do đó nghệ thuật GD của nhà sư phạm là phải thực hiện cá biệt hóa hoạt động GD, cùng với những biện pháp giáo dục chung đối với tập thể, phải có những tác động riêng phù hợp với đặc điểm của từng cá nhân học sinh.
- Cá biệt hóa quá trình giáo dục là một xu hướng đổi mới phương pháp giáo dục trong lí luận giáo dục hiện đại. Nó đòi hỏi phải tổ chức các loại hình giáo dục phong phú và đa dạng phù hợp với nhịp độ phát triển nhân cách và đặc điểm cá tính,. đời sống nội tâm từng học sinh. Vì thế, nhà giáo dục phải. hiểu biết sâu sắc đối tượng giáo dục của mình, phải đồng cảm và thương yêu học..sinh, phải có cái tâm trong sáng và sự bao dung ... * Quá trình giáo dục thống nhất với quá trình dạy học Trong thực tiễn quá trình dạy học và giáo dục không tách rời nhau và được thực hiện trong sự thống nhất chặt chẽ với nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau cùng thực hiện mục đích của quá trình sư phạm tổng thể. Trong mối quan hệ thống nhất đó quá trình dạy học là cơ sở, là điều kiện cần thiết để tiến hành các hoạt động giáo dục. Ngược lại nếu quá trình giáo dục thực hiện tốt sẽ giúp cho người học xây dựng được thế giới quan khoa học, động cơ, thái độ học tập đúng đắn và những phẩm chất nhân cách khác. Chính những kết quả giáo dục này sẽ là tư tưởng, là động lực thúc đẩy đối tượng giáo dục học tập ngày càng tích cực. Vì vậy trong nhà trường phổ thông người thầy giáo cần phải có sự thống nhất hoạt động giáo dục với hoạt động dạy học, tiến hành dạy chữ để dạy người, đồng thời thông qua dạy người mà dạy chữ. 8. Kết luận: Mối quan hệ biện chứng, thống nhất giữa QTGD với QTDH: QTDH là quá trình truyền thụ kíến thức, kỷ năng, kỷ xảo thì QTGD (nghĩa hẹp) là quá trình hình thành niềm tin lý tưởng, tình cảm, thái độ, nhân cách, QTGD và QTDH đan xen vào nhau tác động bổ trợ lẩn nhau không thể tách rời hai quá trình này. QTDH đơn thuần, hay đơn giản dễ hiểu là QT dạy chữ cho HS dạy những gì mà HS chưa biết, những vấn đề lịch sử, địa lí… thì QTGD phải kết hợp nhiều yếu tố khác như các yếu tố chủ quan, khách quan, tự quan sát, tự giác với nhiếu lực lượng tham gia: nhà trường, Gđ, xã hội. QTDH là quá trình tác động giữa người dạy và người học với nội dung DH được biên soạn sẵn, GV có thể chủ động điều khiển quá trình dạy và học của HS. QTGD diễn ra theo nhiều hướng khác nhau và người GD phải có trách nhiệm đối với người được GD; người GD phải xác định được GD đang cần gì để có hướng GD thích hợp và có được sản phẩm GD mà xã hội cần. Phải hình thành cho HS thái độ, niềm tin, hành vi, thói quen đúng đắn trong quá trình hình thành nhân cách và GV phải hướng cho HS tự GD chính bản thân mình, đây là khâu quan trọng nhất trong QTGD, và là khâu cuối cùng cho sự kết thúc của QTGD. QTGD lại là QT lâu dài, phức tạp đói hỏi phải xác định đúng nguyên nhân, và mức độ sai lệch của HS để có phương pháp GD hiệu quả nhất. QTGD có nhiệm vụ đào tạo người công dân, người lao động hòa nhập thích ứng với cuộc sống và chính QTDH góp phần quan trọng trong mục tiêu ấy, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài... QTGD luôn biến đổi và phát triển về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức GD, từng yếu tố của QTGD cũng có mối liên quan biện chứng mặt khác người được GD đang trưởng thành, phát triển trong xã hội biến đổi…Nên nhà GD phải luôn nhạy cảm trong việc lược chọn nội dung phương pháp hình thức tổ chức, khéo léo phối hợp các giải pháp phù hơp. QTGD và QTDH điều là các quá trình, bộ phận của QTGD tổng thể, chúng quan hệ mật thiết biện chứng với nhau: QTGD nhằm giúp nắm vững tri thức phát triển năng lực hoạt động, trí tuệ. Qua đó hinh thành thế giới quan, phẩm chất nhân cánh. Nói khác đi QTGD được thực hiện trong QTDH. QTGD là một QT bao gồm khâu thống nhất biện chứng với nhau là GD ý thức, GD thái độ và GD hành vi, thói quen, là trình tự triển khai thực hiện QTDH, tổ chức các hoạt động học cho học sinh một cách bài bản;
- GD đạt được hiệu quả khi người giáo dục và người được GD vừa có nhận thức đúng, thái độ đúng, vừa có hành vi phù hợp với chuẩn mực trong cuộc sống hằng ngày. Thể hiện rõ nhất qua việc dạy của GV và việc học của HS, động lực của GV và động lực của HS được khới dạy và bộc lộ. + GD và dạy học là 2 quá trình có cùng mục đích là hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho người học, học sinh. Tuy nhiên chúng không đồng nhất mà mỗi quá trình có chức năng trội riêng: dạy học nhằm tổ chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh có chất lượng và hiệu quả nội dung học vấn; GD hình thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen... + Đồng thời QTGD và QTDH có mối quan hệ biện chứng: trên cơ sở thực hiện các nhiệm vụ dạy học thì thế giới quan và các phẩm chất đạo đức của HS được hình thành và phát triển. Ngược lại, các phẩm chất được GD tốt sẽ thúc đẩy quá trình dạy học đạt kết quả cao. + Nhà GD cần chú ý kết hợp giữa hoạt động GD với hoạt động DH, QTGD được thực hiện chủ yếu qua QTDH, lấy DH là phương tiện để tổ chức hoạt động GD. + QTGD và QTDH là một loại lao động phức tạp và khó khăn, đòi hỏi nhà GD phải có những phẩm chất cao về trí tuệ và ý chí, phải có những tình cảm nhân hậu, vị tha, phải có những tri thức khoa học hiện đại và những kinh nghiệm thực tiễn sinh động. KLSP : Cả hai quá trình QTGD, QTDH cùng hướng tới mục đích chung là hình thành nhân cách toàn diện theo mục tiêu giáo dục Quá trình dạy học hướng tới thực hiện mục tiêu của quá trình giáo dục, thể hiện ở thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Quá trình dạy học đạt chất lượng và hiệu quả cao nếu thực hiện tốt quá trình giáo dục Quá trình giáo dục được thực hiện bằng nhiều con đường, trong đó dạy học là con đường để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục. Như vậy quá trình day học là một phương tiện hiệu quả để thực hiện mục đích của quá trình giáo dục.
- Vấn đề 5 (CU): Mối quan hệ giữa quá trình dạy học và quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp Trong quá trình giáo dục toàn diện gồm hai mặt có quan hệ chặt chẽ với nhau: Quá trình dạy học (QTDH) và Quá trình giáo dục (QTGD) (theo nghĩa hẹp). QTDH chức năng trội là nhận thức cuộc sống, còn QTGD chức năng trội là xây dựng thái độ đối với cuộc sống. Trong QTGD toàn diện: dạy học bao giờ cũng thực hiện cả chức năng giáo dục, còn giáo dục cũng góp phần vào chức năng nhận thức cuộc sống. Mối quan hệ giữa dạy học và giáo dục chính là mối quan hệ giữa phương tiện và mục đích. Khái niệm: QTGD là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức của GV và HS, hình thành những quan điểm, niềm tin, giá trị, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen,phù hợp với những chuẩn mực chính trị đạo đức, pháp luật, thẩm mĩ, văn hóa, làm phát triển nhân cách HS theo mục đích GD của nhà trường và XH. *Bản chất của quá trình GD (theo nghĩa hẹp) QTGD là quá trình hình thành 1 kiểu nhân cách trong XH. Sự phát triển nhân cách con người được quy định bởi tác động qua lại của các yếu tố xã hội và yếu tố sinh học trong đó các yếu tố xã hội được ưu tiên hàng đầu. Dưới ảnh hưởng của các chương trình có tính chất xã hội mà biến cá nhân thành 1 nhân cách, có đầy đủ các giá trị xã hội để tham gia vào hoạt động XH. Do đó, chỉ sống trong xã hội loài người, lĩnh hội kinh nghiệm do loài người truyền đạt con người mới có nhân cách. . 4 Dựa vào mối quan hệ sư phạm giữa nhà GD và người được GD. Đây cũng là 1 cơ sở để xác định bản chất của QTGD, trong đó nhấn mạnh đến sự thống nhất giữa tác động của nhà GD và sự tiếp nhận, tự điều chỉnh của người được GD trong quá trình GD. QTGD phải thiết lập được mqh sư phạm giữa nhà GD với người được GD mới giúp người được GD chiếm lĩnh được những giá trị của nền văn hóa nhân loại, biến nó thành những giá trị (phẩm chất, chuẩn mực) của mỗi cá nhân con người. Từ những cơ sở trên ta thấy:Bản chất của QTGD là quá trình giúp người được GD tự giác, tích cực, độc lập biến (chuyển hoá) những yêu cầu khách quan và những chuẩn mực xã hội thành hành vi và thói quen tương ứng của cá nhân thông qua việc tổ chức các hoạt động và giao lưu cho họ. Quá trình GD là 1 quá trình xã hội có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển mỗi cá nhân trở thành thành viên xã hội. Muốn thế, người được GD phải ý thức được các quan
- hệ xã hội và các giá trị của nó (như quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế, pháp luật, đạo đức…) rồi biến nó thành hành vi và thói quen tương ứng, tức là biết thể hiện, biết cư xử đúng đắn trong các quan hệ xã hội (bởi nét bản chất của cá nhân là do các mối quan hệ xã hội hợp thành). Vì thế, sự vận dụng, trải nghiệm các quan hệ xã hội nêu trên sẽ giúp người được GD tích luỹ được kinh nghiệm xã hội tốt để biết thể hiện đúng đắn các quan hệ XH đó và hình thành hành vi, thói quen tốt cho mình. Trong quá trình hình thành nhân cách ở trên, để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các giá trị xã hội đã nêu thì phải tổ chức hoạt động và giao lưu cho họ. Triết học Macxit đã khẳng định: Bản chất XH của con người chỉ có được khi họ tham gia vào đời sống XH đích thực thông qua hoạt động và giao lưu ở một môi trường văn hoá. Do đó hoạt động và giao lưu là 2 mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống của con người và là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Các lí thuyết về hoạt động đã chứng tỏ con người muốn tồn tại và phát triển phải có hoạt động và giao lưu. Nếu được tổ chức tốt thì hoạt động và giao lưu là các phương tiện tạo điều kiện tốt cho sự phát triển cá nhân. Nói cách khác hoạt động và giao lưu là điều kiện, phương tiện để tổ chức QTGD. Kết luận sư phạm: Nhà GD phải hiểu đối tượng, nắm bắt được đối tượng GD thì mới GD có hiệu quả. Trong QTGD, nhà GD cần quan tâm đến các điều kiện, các yếu tố bên trong, bên ngoài như điều kiện kinh tế, chính trị, tôn giáo, phong tục, tập quán, văn hóa… đặc điểm tâm sinh lí, hoàn cảnh sống, điều kiện gia đình của đối tượng GD để hiểu đối tượng hơn. Nhà GD phải tổ chức và phối hợp được tất cả các tác động GD nhằm thống nhất yêu cầu về nội dung, phương pháp GD theo chức năng của mình. Cần có biện pháp hạn chế, ngăn chặn đến mức tối đa những tác động tiêu cực, tự phát và phát huy những tác động tích cực đối với quá trình GD. Khi đánh giá con người, đánh giá kết quả QTGD phải hết sức thận trọng, đòi hỏi phải có những PP phù hợp, phải có thời gian và hoàn cảnh thông qua các hành vi và thói quen cụ thể của đối tượng GD. Do QTGD đòi hỏi phải có thời gian lâu dài nên trong QTGD, nhà GD không được nôn nóng, vội vàng đốt cháy giai đoạn. Nhà GD cần có đức tính kiên trì, bền bỉ, tự kiềm chế cao. Cần có quá trình lâu dài mới đánh giá được hiệu quả GD. Đặc biệt phải thận trọng khi nhìn nhận, đánh giá con người. Vì 1 người đang tốt không thể xấu ngay được, 1 người đang xấu không có hy vọng tốt ngay được. GD bao giờ cũng có quán tính của nó, tức là phải có thời gian hợp lí mới có sự thay đổi nhất định. Quá trình dạy học Quá trình dạy học gồm quá trình dạy và quá trình học tập. Quá trình dạy học là quá trình nhận thức của học sinh, phản ánh sự vật hiện tượng của thế giới khách quan và đầu óc. Sự phản ánh thế giới khách quan mang tính khách quan về nội dung và chủ quan về hình thức. Nghĩa là nội dung được phản ánh đúng bản chất sự vật hiện tượng còn hình thức thì mỗi học sinh có một cách thể hiện riêng. Quá trình dạy học cũng diễn ra theo công thức “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng, từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn” trong quá trình dạy học quá trình nhận thức của học sinh thể hiện tính độc đáo: Quá trình nhận thực của học sinh không phải là quá trình tạo ra cái mới mà chỉ là sự tái tạo lại tri thức loài người đã tạo ra (tri thức này chỉ mới đối với bản thân họ). Quá trình nhận thức của học sinh không diễn ra theo con đường mò mẫm, thử nghiệm mà diễn ra theo đường thẳng do các nhà giáo dục xây dựng chương trình nội dung, phương pháp tạo lên. Quá trình nhận thức của học sinh tiến hành theo các khâu của quá trình dạy học; Lĩnh hội tri thức mới, củng cố, kiểm tra đánh giá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm biến chúng thành tài sản cá nhân.
- Thông qua quá trình dạy và học cần hình thành ở học sinh thế giới quan, động cơ, các phẩm chất của nhân cách phù hợp với chuẩn mực xã hội. Quá trình nhận thức của học sinh diễn ra dưới vai trò của giáo viên (lãnh đạo, tổ chức, điều khiển) cùng với những điều kiện sư phạm nhất định. Quá trình dạy học cần phải chú ý đến tính độc đáo trong quá trình nhận thức của học sinh để tránh sự đồng nhất quá trình nhận thức chung của loài người với quá trình nhận thức của người học. Song, không vì quá coi trọng tính độc đáo mà thiếu quan tâm đến việc tổ chức cho học sinh dần dần tìm hiểu và tập tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học vừa sức, nâng cao dần để chuẩn bị cho học tự khai thác tri thức, tham gia nghiên cứu khoa học. KLSP : Cả hai quá trình QTGD, QTDH cùng hướng tới mục đích chung là hình thành nhân cách toàn diện theo mục tiêu giáo dục Quá trình dạy học hướng tới thực hiện mục tiêu của quá trình giáo dục, thể hiện ở thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Quá trình dạy học đạt chất lượng và hiệu quả cao nếu thực hiện tốt quá trình giáo dục Quá trình giáo dục được thực hiện bằng nhiều con đường, trong đó dạy học là con đường để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục. Như vậy quá trình day học là một phương tiện hiệu quả để thực hiện mục đích của quá trình giáo dục. Xét về đặc điểm thì QTGD và QTDH Gồm những đặc điểm chính sau: Quá trình GD là một quá trình có tính phức hợp đa chiều: Tính phức tạp của QTGD trước hết nằm ở đối tượng của nó. Đối tượng của QTGD là con người, mà cụ thể là tâm hồn con người, cái mà người khác không trực tiếp nhìn thấy được Thứ hai, QTGD diễn ra dưới tác động của rất nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong khác nhau. Đó là các tác động của gia đình, nhà trường và xã hội, những ảnh hưởng của các sự kiện chính trị kinh tế, tư tưởng – văn hoá, tâm lí tập quán, các nội dung thông tin qua các phương tiện và các kênh thông tin khác nhau … Những yếu tố này tác động đến QTGD với nhiều mức độ khác nhau, và đều có tác động đến HS. Chúng có thể thống nhất, hỗ trợ cho QTGD của nhà trường đạt hiệu quả cao; song cũng có thể tạo ra mâu thuẫn làm hạn chế, suy giảm, thậm chí vô hiệu hoá kết quả của QTGD. Thứ ba, KQ của QTGD không nhìn thấy ngay được, không đánh giá ngay được. KQ của QTGD là sự phát triển nhân cách của đối tượng GD, là những cái rất khó định tính, định lượng 1 cách chính xác. KQ GD phải có thời gian, có điều kiện, có hoàn cảnh mới bộc lộ ra ngoài. KQ của hoạt động GD nhiều khi không tỉ lệ thuận với cường độ LĐ, với sự đầu tư, công sức… của nhà GD. Quá trình GD là một quá trình có tính lâu dài: Quá trình GD nhằm hình thành những phẩm chất, những nét tính cách của cá nhân nên nó đòi hỏi một thời gian lâu dài mới đạt được kết quả. Tính chất lâu dài của QTGD được xem xét ở các góc độ sau: Quá trình GD được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của cuộc đời con người, từ lúc sinh ra cho đến khi không còn sống nữa. Việc hình thành 1 phẩm chất nhân cách cần có thời gian lâu dài. Bởi để hình thành 1 hành vi, 1 thói quen của cá nhân để nó trở thành ổn định và bền vững phải đi từ nhận thức đến hình thành thái độ, niềm tin, rồi mới rèn luyện hành vi thói quen. Công việc đó không thể một sớm, một chiều mà có ngay được. Những phẩm chất mới của nhân cách (niềm tin, động cơ đúng, tình cảm mới... ) chỉ có được và trở nên vững chắc khi người được GD tiếp nhận và trải qua một thời gian tập luyện, thể nghiệm, đấu tranh bản thân (đấu tranh động cơ) trong cuộc sống thực để trở thành kinh
- nghiệm sống của chính mình nên càng đòi hỏi một thời gian lâu dài. Đó là thời gian để trải nghiệm và rút ra bài học, để biến nhận thức trở thành niềm tin. Kết quả tác động GD nhất là các tác động nhằm hình thành những nhận thức mới, niềm tin ... thường khó nhận thấy ngay (khó đánh giá, lượng hóa 1 cách cụ thể) và có khi kết quả đó lại bị biến đổi hoặc mất đi. Do đó công tác GD phải được tiến hành bền bỉ, liên tục theo một kế hoạch ổn định, lâu dài; đồng thời trong QTGD lại phải phát huy được cao độ tính tự giác, nỗ lực tự GD kéo dài, liên tục của người được GD thì mới đạt được hiệu quả GD. Việc sửa chữa, thay đổi những nếp nghĩ, thói quen cũ, lạc hậu, không đúng, nhất là những thói quen – hành vi xấu thường diễn ra dai dẳng, trở đi trở lại mãi trong ý thức, hành vi của mỗi người nên việc khắc phục chúng rất khó khăn và lâu dài. Trong khi đó QTDH thì đơn giản, dễ đo lường hơn nhiều chẳng hạn như việc hình thành một khái niệm, định lí, tinh chất.. chỉ trong một thời gian nhất đinh có đo lường học sinh, người học có hiểu hay không .. Quá trình GD mang tính cụ thể: Các tác động của nhà GD đến đối tượng GD vừa phải tuân theo những quy luật chung, mang tính khái quát; đồng thời lại phải chú ý đến những điểm riêng biệt, cụ thể của đối tượng GD thì mới có hiệu quả. Tính cụ thể của QTGD được thể hiện như sau: Các tác động GD phải phù hợp với từng cá nhân, mỗi cá nhân được GD theo từng tình huống GD cụ thể, riêng biệt: + Mỗi HS là một cá nhân có tính độc lập tương đối của nó về nhiều mặt nên khi thực hiện QTGD phải tính đến những đặc điểm của từng loại đối tượng cụ thể. Mỗi HS có sự khác nhau về trình độ được GD, vốn kinh nghiệm sống, thái độ, tình cảm, thói quen… Họ cũng có đặc điểm tâm sinh lí cũng như điều kiện hoàn cảnh sống rất khác nhau. + QTGD được diễn ra trong thời gian, thời điểm, không gian với những hoàn cảnh cụ thể. Tóm lại, QTGD luôn diễn ra cụ thể trong những tình huống GD, điều kiện GD và với những đối tượng GD cụ thể. Kết quả GD cũng mang tính cụ thể đối với từng loại đối tượng GD. Quá trình DH được thực hiện tương đối đồng đều cho một lớp, một khóa tất nhiên DH cũng có sự phân hóa song nó tương đối đồng đều không cá biệt như Quá trình giáo dục Quá trình GD thống nhất biện chứng với quá trình dạy học: GD và dạy học là 2 quá trình có cùng mục đích là hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho HS, tuy nhiên chúng không đồng nhất mà mỗi quá trình có chức năng trội riêng: dạy học nhằm tổ chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh có chất lượng và hiệu quả nội dung học vấn; GD hình thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen... Đồng thời 2 quá trình này có mối quan hệ biện chứng: trên cơ sở thực hiện các nhiệm vụ dạy học thì TGQ và các phẩm chất đạo đức của HS được hình thành và phát triển. Ngược lại, các phẩm chất được GD tốt sẽ thúc đẩy quá trình dạy học đạt kết quả cao. Nhà GD cần chú ý kết hợp giữa hoạt động GD với hoạt động DH, QTGD được thực hiện chủ yếu qua QTDH, lấy DH là phương tiện để tổ chức hoạt động GD. Tóm lại, công tác GD so với công tác dạy học là một loại lao động phức tạp và khó khăn, đòi hỏi nhà GD phải có những phẩm chất cao về trí tuệ và ý chí, phải có những tình cảm nhân hậu, vị tha, phải có những tri thức khoa học hiện đại và những kinh nghiệm thực tiễn sinh động. Đồng thời những thành công trong công tác GD sẽ để lại những dấu ấn tốt đẹp, lâu bền trong tâm hồn người học cũng như quan hệ thầy trò. Kết luận sư phạm cần thiết Trong QTGD, nhà GD cần quan tâm đến các điều kiện, các yếu tố bên trong, bên ngoài như điều kiện kinh tế, chính trị, tôn giáo, phong tục, tập quán, văn hóa… đặc điểm tâm sinh lí, hoàn cảnh sống, điều kiện gia đình của đối tượng GD để hiểu đối tượng hơn. Việc tổ chức và phối hợp được tất cả các tác động GD nhằm thống nhất yêu cầu về nội dung, phương
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn