Đề tài " Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô hình trong dạy học chương “Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” vật lý lớp 10 trung học phổ thông "
lượt xem 104
download
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là mục tiêu hàng đầu trong đường lối xây dựng phát triển của nước ta, "Đến năm 2020 đất nước ta về cơ bản phải trở thành nước công nghiệp"[27]. Muốn thực hiện thành công sự nghiệp này, chúng ta phải thấy rõ nhân tố quyết định thắng lợi chính là nguồn nhân lực con người Việt Nam. Nền giáo dục của ta không chỉ lo đào tạo cho đủ về số lượng mà cần quan tâm đặc biệt đến chất lượng đào tạo....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài " Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô hình trong dạy học chương “Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” vật lý lớp 10 trung học phổ thông "
- Đề tài " Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô hình trong dạy học chương “Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” vật lý lớp 10 trung học phổ thông "
- Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là mục tiêu hàng đầu trong đường lối xây dựng phát triển của nước ta, "Đến năm 2020 đất nước ta về cơ bản phải trở thành nước công nghiệp"[27]. Muốn thực hiện thành công sự nghiệp này, chúng ta phải thấy rõ nhân tố quyết định thắng lợi chính là nguồn nhân lực con người Việt Nam. Nền giáo dục của ta không chỉ lo đào tạo cho đủ về số lượng mà cần quan tâm đặc biệt đến chất lượng đào tạo. Trước tình hình đó, nhiệm vụ quan trọng đề ra cho các môn học trong trường phổ thông là phải làm sao cho khi vào đời, bắt tay tham gia vào lao động sản xuất hoặc lao động trong một ngành khoa học kỹ thuật nào đó, học sinh có thể nhanh chóng tiếp thu đ ược cái mới, mau chóng thích ứng với trình độ hiện đại của khoa học và kỹ thuật. Để làm được điều đó, ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức, kỹ năng tối thiểu cần thiết, các môn học cần phải tạo ra cho họ một tiềm lực để họ có thể đi xa hơn những hiểu biết mà họ đã thu lượm được trong nhà trường. Tiềm lực đó chính là khả năng giải quyết những vấn đề mà sản xuất và đời sống đặt ra cho họ, là khả năng tự vạch ra đường đi để đạt tới những nhận thức mới. Tiềm lực đó nằm trong phương pháp tư duy và hành động một cách khoa học. Do đó vấn đề bồi dưỡng cho học sinh các phương pháp nhận thức khoa học đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của các môn học trong nhà trường phổ thông. Chỉ trên cơ sở dạy cho các em các phương pháp nhận thức khoa học chúng ta mới có thể làm cho các em biết học tập một cách chủ động, mới rèn luyện được trí thông minh, sáng tạo ở các em. Nhưng việc rèn luyện trí thông minh sáng tạo trong dạy học ở trường phổ thông nước ta hiện nay còn mới mẻ, đang còn nhiều khó khăn cả về lý luận lẫn thực tiễn. 1
- Để đạt được mục đích đó, chúng ta cần phải nghiên cứu, áp dụng và liên tục cải tiến các phương pháp giảng dạy. Nền giáo dục của nước ta hiện nay đã sử dụng một số phương pháp dạy học mang lại những hiệu quả nhất định như phương pháp thực nghiệm, phương pháp đàm thoại nêu vấn đề, phương pháp diễn giảng... Phương pháp mô hình (PPMH) là một trong những phương pháp nhận thức khoa học và đã được vận dụng vào trong dạy học. Khi nghiên cứu những hiện tượng Vật lý xảy ra trong thế giới vi mô, nhất là trong dạy học vật lý, chúng tôi đặc biệt quan tâm tới PPMH. PPMH ngày càng trở nên quan trọng không những trong Vật lý mà cả trong những ngành khoa học tự nhiên và xã hội khác. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô hình trong dạy học chương “Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” vật lý lớp 10 trung học phổ thông . 2. Mục đích nghiên cứu Sử dụng PPMH trong dạy học chương “Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học vật lý trong trường THPT. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - PPMH: Trong nghiên cứu vật lý và trong dạy học vật lý. - Hoạt động dạy và học vật lý của giáo viên và học sinh ở trường THPT. - Quá trình dạy học vật lý chương “ Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” lớp 10 THPT Tĩnh gia II. 4. Giả thuyết khoa học 2
- - Có thể sử dụng PPMH ở các mức độ khác nhau để dạy học chương “ Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng”. - Việc d ùng PPMH dạy học chương “ Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” sẽ mang lại kết quả học sinh không những nắm vững sâu sắc kiến thức của mình mà còn được bồi dưỡng PPMH của nhận thức vật lý. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu lý thuyết về MH và PPMH trong nghiên cứu vật lý và trong dạy học vật lý. - Nghiên cứu chương trình và sách giáo khoa vật lý phần nhiệt học. - Tìm hiểu thực trạng nhận thức về PPMH và sử dụng PPMH trong dạy học vật lý ở trường phổ thông. - Thiết kế các phương án dạy học chương “Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” theo PPMH. - Thực nghiệm sư phạm các phương án đã xây dựng. 6. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên c ứu lý luận: + Các văn kiện của Đảng và Nhà nước, của Bộ giáo dục và đào tạo có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. + Các tài liệu, công trình liên quan đến hướng nghiên cứu. - Nghiên cứu tình hình thực trạng trên đối tượng cụ thể: Dự giờ, quan sát việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh trong quá trình thực nghiệm sư phạm. - Thực nghiêm sư phạm: Thực hiện các bài dạy đã thiết kế, so sánh với lớp đối c hứng để rút ra những cần thiết, chỉnh lý thiết kế đề xuất hướng áp dụng vào thực tiễn, mở rộng kết quả nghiên cứu. 7. Kết quả nghiên cứu 3
- Qua quá trình triển khai đề tài: Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô hình trong dạy học chương “Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” vật lý lớp 10 THPT, chúng tôi đã thu được một số kết quả như sau: - Về mặt lý luận: + Nhận thức đ ược cấu trúc của PPMH, vai trò của PPMH trong nghiên cứu vật lý và trong dạy học vật lý. + Nắm được các bước cơ bản vận dụng PPMH trong dạy học vật lý. - Về mặt nghiên cứu ứng dụng: + Sắp xếp lại nội dung một số vấn đề chương “Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” để thực hiện dạy học theo PPMH. + Xây dựng, thiết kế các giáo án chương “Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” theo PPMH. + Thực nghiệm sư phạm: chúng tôi nhận thấy, có thể tiến hành dạy học chương “Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” theo PPMH, nhờ đó học sinh làm quen với PPMH -phương pháp nhận thức quan trọng của vật lý học. 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương sau: Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2: Tổ chức dạy học chương “Thuyết động học phân tử và chất khí lý tưởng” vật lý lớp 10 THPT theo PPMH. Chương 3: Thực nghiệm sư phạm 4
- Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài 1.1. Mô hình 1.1.1. Khái niệm về mô hình Khái niệm mô hình được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ thông dụng hàng ngày với những ý nghĩa rất khác nhau. Trong các môn khoa học tự nhiên học sinh thường gặp mô hình tế bào, mô hình lò cao, mô hình động cơ đốt trong, tức là vật chất có cấu tạo không gian giống như vật mà ta cần nghiên cứu. Mô hình phân tử, mô hình nguyên tử lại mô tả những vật thể mà ta chỉ biết được những tính chất của chúng chứ không quan sát trực tiếp được. Mô hình quá trình dạy học, mô hình bài học lại không phản ánh một vật thể nào cả mà phản ánh một sự kiện trừu tượng. Mô hình con người mới, mô hình nhà trường phổ thông được hiểu là mẫu mực mà ta phải vươn tới chứ không phải là phỏng theo một thực thể đang tồn tại. Trong vật lý học, V.A Stôphơ đã đ ịnh nghĩa mô hình như sau: “ Mô hình là một hệ thống đ ược h ình dung trong óc hay được thực hiện một cách vật chất, hệ thống đó phản ánh những thuộc tính bản chất của đối tượng nghiên cứu hoặc tái tạo nó, bởi vậy việc nghiên cứu mô h ình sẽ cung cấp cho ta những thông tin mới về đối tượng” [33]. Theo định nghĩa này, cần đặc biệt chú ý đến sự khác biệt giữa mô hình với đối tượng vật chất. Một mô hình chỉ phản ánh một số tính chất của đối tượng vật 5
- chất. C ùng một đối tượng vật chất nhưng có thể có nhiều mô hình khác nhau. Như vậy mô hình không đồng nhất với đối tượng mà nó phản ánh. Còn theo Halbwachs thì định nghĩa “Những dấu hiệu bao gồm trong các hình vẽ, các giản đồ, các ký hiệu toán học hay đơn giản hơn, những mệnh đề đ ược thành lập bởi các từ, những hệ thống sẽ được dùng để biểu diễn cảnh huống. Với một hệ thống các dấu hiệu như thế, chúng ta gọi là một mô h ình”[29]. Khái niệm “mô hình”, theo định nghĩa chung nhất của nó thì là một cái gì đó (một vật thể, một sự biểu đạt hình tượng, một phương trình...) thay thế cho cái nguyên gốc, nó cho phép thay thế cái nguyên gốc này bởi sự trung gian giúp cho dễ hiểu hơn, dễ đạt tới hơn đối với nhận thức. Quan hệ giữa mô hình với thực tế có thể hoặc là sự tương tự về hình thức bề ngoài hoặc là sự tương tự của cái cấu trúc b ị che khuất, hoặc là sự tương tự chức năng, hiệu quả. 1.1.2. Các chức năng của mô hình Như chúng ta đã thấy, vai trò c ủa một mô hình vật lý nhằm đảm bảo cho sự thấu hiểu khoa học một đối tượng vật lý nào đó. Như vậy, trong vật lý học mô hình có ba chức năng chính sau đây: a) Mô tả sự vật, hiện tượng. b) Giải thích các sự kiện và hiện tượng có liên quan tới đối tượng. c) Tiên đoán các sự kiện và hiện tượng mới. Một mô hình không phải chỉ dùng để mô tả và giải thích các hiện tượng vật lý mà hơn thế nữa, nó còn được dùng để tiên đoán những hiện tượng mới. Không có chức năng tiên đoán này, mô hình mất đi vai trò quan trọng của nó trong khoa học. Ví dụ, chúng ta có thể sử dụng mô hình đường cảm ứng từ trong dạy học về từ trường và hiện tượng cảm ứng điện từ (lớp 11). Mô hình đường cảm ứng từ không những biểu diễn được hướng mà còn cả độ lớn của lực từ ở mỗi điểm xung quanh nam châm. Sử dụng mô hình đường cảm ứng từ giúp ta phát hiện ra 6
- định luật cảm ứng điện từ: dòng điện cảm ứng xuất hiện trong một khung dây dẫn kín khi từ thông qua thiết diện của khung dây biến thiên. Bằng mô hình đường cảm ứng từ ta còn có thể phát hiện ra một điều quan trọng là: không gian xung quanh dòng điện cũng tồn tại từ trường. 1.1.3. Tính chất của mô hình Với tư cách là một hệ thống phản ánh những thuộc tính bản chất của đối tượng nghiên cứu, một mô hình có những tính chất cơ bản sau đây: a) Tính tương tự với “vật gốc”: Một hệ thống chỉ có thể được coi là mô hình c ủa vật gốc khi có thể chuyển được những kết quả nghiên cứu trên mô hình sang vật gốc. Nghĩa là nó có sự tương tự giữa mô hình và vật gốc. Sự tương tự đó có thể là đồng cấu hoặc đẳng cấu. Sự tương tự có thể thuộc loại cấu trúc, khi đó sự tương tự chủ yếu ở mối quan hệ giữa các phần tử của hai hệ thống. Ví dụ mô hình ảnh của một vật trên võng mạc: quan hệ giữa phần này và phần kia của ảnh phản ánh đúng quan hệ giữa hai phần tương ứng của vật. Cũng có thể là sự tương tự về chức năng, nghĩa là các phân tử tương ứng của hai hệ thống có chức năng giống nhau nhưng cấu trúc có thể khác nhau. Ví dụ mô hình ả nh tạo bởi thấu kính hội tụ và gương cầu lõm dưới những điều kiện giống nha u là giống nhau và lại biết: có thể sử dụng một thấu kính hội tụ làm vật kính trong chế tạo kính thiên văn. Từ đó, cũng có thể sử dụng gương cầu lõm làm vật kính trong mô hình kính thiên văn. Sự tương tự cũng có thể giống nhau hay na ná giống nhau ở kết quả các quá trình trong hai hệ thống. Thuộc loại cuối cùng thường thấy khi so sánh một hệ thống vật chất thực và sự diễn tả toán học của nó. Các phần tử thuộc hai hệ thống này không có điểm nào giống nhau nhưng kết quả thu được trong quá trình biến đổi toán học lại phù hợp với kết quả thu được bằng thực nghiêm. Ví dụ mô hình toán học diễn tả dao động điều hoà: sự tương tự giữa quy luật biến đổi của điện tích q 7
- trong mạch cũng giống như quy luật biến đổi của ly độ x trong dao động của con lắc lò xo. Trong dạy học vật lý, tính chất tương tự với vật gốc của mô hình có ý nghĩa quan trọng: sử dụng tính chất này khi xây dựng mô hình, học sinh được rèn luyện một loạt các thao tác tư duy, được phát triển niềm tin vào mối liên hệ có tính khái quát, có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng tự nhiên đa đạng, phong phú. Sử dụng tính chất này còn góp phần nâng cao hiệu quả giờ học, thể hiện trước hết ở tính sâu sắc, tính hệ thống của các kiến thức vì nó tạo điều kiện cho học sinh liên hệ cái chưa biết với cái đã biết, phát hiện những mối liên hệ giữa các hệ thống khác nhau ở các phần khác nhau của vật lý cũng như những dấu hiệu giống nhau và khác nhau của chúng. b) Tính đơn giản: Như ta đã biết, thực tế khách quan vô cùng đa dạng và phong phú. Mỗi mô hình chỉ phản ánh đ ược một mặt nào đó của thực tế. Nhiều khi một hệ thống thực thể khách quan phải dùng đến nhiều mô hình để phản ánh. Trong khi xây dựng mô hình ta phải thực hiện các thao tác trừu tượng hóa, khái quát hóa những thao tác ấy bao giờ cũng dẫn đến một sự đơn giản hóa vì rằng ta đã tước bỏ những chi tiết thứ yếu, chỉ còn lại những thuộc tính và những mối liên hệ bản chất. Như vậy tính đơn giản của mô hình là một tất yếu khách quan. Mặt khác cũng nhờ tính đơn giản này c ủa mô hình mà nhà nghiên cứu có thể nắm chắc những vấn đề cơ bản nhất của thực tế khách quan, khái quát hóa chúng mà rút ra những quy luật. Nếu không dùng những mô hình đơn giản để nghiên cứu mà nghiên cứu ngay những hiện tượng thực tế phức tạp thì nhiều trường hợp quy luật bị lu mờ và nhà nghiên cứu có thể bị nhầm lẫn. c) Tính trực quan: Trước hết tính trực quan của mô hình thể hiện ở chỗ dễ dàng nhận biết bằng các giác quan. Ta có thể cảm giác, tri giác trực tiếp trên mô hình, nhưng nhiều khi không làm được việc đó trên các hiện tượng thực tế. 8
- Tính trực quan cũng thể hiện ở chỗ ta đã vật chất hóa những tính chất, những quan hệ không thể trực tiếp tri giác được. Thí dụ lực hút, lực đẩy giữa các phân tử được biểu diễn trên mô hình bằng cách gạch nối đậm hay mảnh, hoặc quy luật chuyển động được biểu diễn bằng đồ thị vận tốc. Khái niệm trực quan còn được mở rộng trong trường hợp mô hình không trực tiếp diễn tả hiện tượng thực tế mà so sánh với một hiện tượng thực tế khác mà ta có thể tri giác bằng giác quan được. Ví dụ như dùng mô hình sóng nước để diễn tả sự giao thoa của sóng ánh sáng mặc dù sóng ánh sáng hoàn toàn khác sóng nước. Rõ ràng mức độ trực giác gián tiếp loại này còn phụ thuộc vào vốn hiêủ biết của chính chủ thể, do chủ thể đã tích lũy được từ trước. ý nghĩa của tính trực quan của mô hình trong dạy học thể hiện ở chỗ, làm cho học sinh dễ hình dung các hiện tượng vật lý không thể quan sát trực tiếp được (Ví dụ sử dụng con lắc lò xo để trực quan hoá quá trình xảy ra và sự biến đổi của các đại lượng vật lý trong mạch dao dộng điện LC), dễ hiểu hơn các khái niệm trừu tượng (ví dụ khi minh hoạ các khái niệm dòng điện và hiệu điện thế, có thể dùng dùng hình ảnh dòng nước chảy để trực quan hoá các kiến thức trên). d) Tính quy luật riêng: Khi xây dựng mô hình, người ta dựa vào sự tương tự của nó với tình huống vật lý mà nó phản ánh. Nhưng bản thân mô hình có những tính chất riêng của nó được quy định bởi tính chất của các phần tử của nó và mối quan hệ giữa các phần tử ấy. Mối quan hệ ấy tuân theo quy luật riêng, nhiều khi không còn giống những quy luật chi phối mối quan hệ giữa các phần tử trong tình huống vật lý nữa. Chẳng hạn như mô hình ký hiệu toán học tuân theo những quy luật toán học. Từ sự vận động của những quy luật riêng này có thể rút ra những kết luận mới có khả năng chuyển tải sang tình huống vật lý (vật gốc). Đương nhiên rằng sự tiên đoán nàycó tính chất giả thuyết, cần được kiểm tra lại. 9
- Đây là giá trị nhận thức của mô hình. Nhờ tính chất này mà với mô hình ta không chỉ dừng lại ở sự mô tả, tìm hiểu các tình huống vật lý mà còn phát hiện ra những tính chất mới, cung cấp những thông tin mới. e) Tính lý tưởng: Mô hình xuất phát từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn. Nhưng khi ta mô hình hóa một vật, một mối quan hệ nào đó ta đã thực hiện một sự trừu tượng hóa, khái quát hóa, phản ánh các thuộc tính của vật thể, hiện tượng khách quan ở mức độ hoàn thiện cao, loại bỏ tất cả những ảnh hưởng nhiễu trong nhận thức. Như vậy mô hình nào cũng có tính chất lý tưởng ít hay nhiều. Nói cách khác không có mô hình nào giống hệt thực tiễn bởi nếu mô hình hoàn toàn giống thực tế khách quan thì nó không còn tính cách là vật đại diện, thay thế nữa. Một mô hình vật lý chỉ phản ánh đến một mức độ nhất định một vài mặt của một tình huống vật lý. Tính chất lý tưởng của mô hình ngày càng cao thì mô hình càng khái quát và giúp ta nhận thức được những nét chung nhất của hiện tượng và bao trùm được một số càng lớn hiện tượng. Nhưng càng khái quát, càng có tính lý tưởng cao thì khi sử dụng mô hình để nghiên cứu thực tế càng gặp nhiều khó khăn vì ta phải bổ sung vào cấu trúc chung của mô hình rất nhiều yếu tố cụ thể phù hợp với các tính chất đối tượng nghiên cứu. 1.1.4. Các loại mô hình sử dụng trong vật lý học Ta có thể phân các mô hình vật lý ra làm hai loại [25, 130], [22, 27]. A) Mô hình vật chất: Là mô hình trên đó phản ánh đặc trưng cơ bản về mặt hình học, vật lý, động lực học, chức năng học của đối tượng nghiên cứu. Thí dụ: Mô hình máy bay, mô hình lò cao, mô hình động cơ đốt trong...Loại mô hình này chỉ sử dụng ở giai đoạn thấp của quá trình nhận thức khi cần hình thành những biểu tượng hoặc thu thập kiến thức có tính chất kinh nghiệm. 10
- Những kiến thức thu được trên mô hình là những tính chất bên ngoài c ủa hiên tượng, của đối tượng thực. B) Mô hình lý tưởng ( hay mô hình lý thuyết) Là những mô hình trừu tượng, trên đó về nguyên tắc người ta chỉ áp dụng những thao tác tư duy lý thuyết. Các phần tử của mô hình và đối tượng nghiên cứu thực tế có thể có bản chất vật lý hoàn toàn khác nhau nhưng hoạt động theo những quy luật giống nhau. Các mô hình lý thuyết có thể có rất nhiều loại tùy theo mức độ trừu tượng khác nhau. a) Mô hình ký hiệu: Là dạng cụ thể nhất của mô hình lý tưởng. Đó là hệ thống những ký hiệu dùng với tư cách là mô hình: hình vẽ, sơ đồ, đồ thị, chữ cái, các công thức, phương trình toán học. Chúng tôi chú ý đặc biệt đến hai loại mô hình ký hiệu là mô hình toán học và mô hình đồ thị. a1) Mô hình toán h ọc: Là những mô hình có bản chất khác với vật gốc, chúng diễn tả những đặc tính của vật gốc bằng một hệ thức toán học. Chẳng hạn như tất cả những đại lượng q biến thiên thỏa mãn phương trình: q”+ 2q = 0 đều biến thiên theo một quy luật dao động điều hòa. Bởi vậy có thể d ùng công thức đó là mô hình c ủa mọi dao động điều hòa không phụ thuộc vào bản chất của dao động. Mục đích của mô hình hóa là thay thế đối tượng nghiên cứu bằng phương trình sao cho có thể thu được những thông tin cần thiết một cách dễ dàng nhất. Bởi vậy có thể ở giai đoạn đầu của quá trình nhận thức xuất phát từ những yếu tố quan sát được (lực đàn hồi) để xây dựng mô hình dao động cơ học, sau đó dùng mô hình để nghiên cứu dao động điện không quan sát trực tiếp được. Tuy mô hình toán có ưu điểm về sự chặt chẽ của toán học, có thể xét tới những yếu tố ảnh hưởng nhỏ nhất tham dự vào quá trình thực nghiệm, song sự chặt chẽ này đồng thời lại là nhược điểm của mô hình toán, vì nó có khoảng cách khá xa với tính linh hoạt của các quá trình thực, nhất là các quá trình xã hội [4]. 11
- a2) Mô hình đồ thị: Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến mô hình đồ thị, là một loại mô hình rất thông dụng trong nghiên c ứu vật lý, đặc biệt là trong nghiên cứu thực nghiệm, nhưng chưa được hiểu và sử dụng đúng mức. Vai trò của đồ thị thể hiện rất rõ: Đồ thị biểu diễn một mối quan hệ giữa hai hoặc ba đại lượng vật lý mô tả hiện tượng tự nhiên. Nếu chỉ dừng lại ở việc giải thích hiện tượng theo quan điểm vĩ mô (theo hiện tương luận) thì trong nhiều trường hợp, có thể dựa vào đồ thị để giải thích sự diễn biến của hiện tượng. Chẳng hạn, người ta thường dựa vào đặc tuyến vôn- ampe của tranzito để chọn điểm làm việc của nó. Ngược lại với một điểm làm việc nhất định, thì dựa vào đặc tuyến vôn- ampe ta có thể biết trazito hoạt động ở chế độ tuyến tính hay không tuyến tính. Mỗi đồ thị không những chỉ phản ánh đơn thuần mối liên hệ hàm số giữa hai đại lượng vật lý, mà nó mang nhiều thông tin quý báu ngoài mối liên hệ đó. đó chính là chức năng tiên đoán của đồ thị. Đồ thị của đ ường đẳng tích và đường đẳng áp đã cho ta tiên đoán sự tồn tại của độ không tuyệt đối. Nếu một đồ thị có một cực đại (hay một cực tiểu) thì nó sẽ cho ta thấy có hai yếu tố trái ngược nhau chi phối hiện tượng mà ta xét. Đó chẳng hạn là trường hợp đồ thị thực nghiệm của sự phụ thuộc năng suất phát xạ đơn sắc của vật đen tuyệt đối và bước sóng. Như vậy, đồ thị vật lý hoàn toàn có đủ tư cách là một mô hình lý thuyết của hiện tượng vật lý. Để cho đồ thị có ý nghĩa như một mô hình độc lập chứ không phải chỉ là một dạng để biểu diễn một công thức toán học, cần nói rõ cách xây dựng và sử dụng riêng của đồ thị. a3) Mô hình lôgic- toán: Mô hình này dựa trên ngôn ngữ toán học. Mô hình này được sử dụng rộng rãi trên các máy tính điện tử. Có thể coi mô hình dùng trong máy tính điện tử là mô hình ký hiệu đã được vật chất hóa. Những hiện tượng hoặc quá trình cần nghiên cứu được mô hình hóa dưới dạng chương trình 12
- của maý tính, nghĩa là hệ thống quy luật đã được mã hóa theo ngôn ngữ của máy, chương trình này có thể coi như algorit của các hành vi của đối tượng nghiên cứu. b) Mô hình biểu tượng: Mô hình biểu tượng là dạng trừu tượng nhất của mô hình lý tưởng. Những mô hình biểu tượng không tồn tại trong không gian, trong thực tế mà chỉ có trong tư duy c ủa ta. Ta chỉ nêu algôrit đã tạo ra mô hình rồi hình dung nó trong óc chứ không cần làm ra mô hình c ụ thể. Với sự hình dung đó người ta có thể hiểu được hành vi của mô hình (và do đó của đối tượng cần nghiên cứu) bằng cách suy luận lôgic. Thí dụ mô hình phân tử trong thuyết động học phân tử của chất khí. Mô hình này mang nhiều đặc tính không thể diễn tả bằng một vật cụ thể hay một ký hiệu (quả cầu đàn hồi, có lực hút, lực đẩy, chuyển động hỗn loạn v.v...). Mô hình lý thuyết nhiều khi được vật chất hóa dưới một dạng nào đó để hỗ trợ cho quá trình tư duy. Ví d ụ mô hình cấu tạo chất: vật chất được cấu tạo từ những hạt nhỏ bé, riêng biệt, giữa các hạt có khoảng cách. Hiện tượng quan sát được trên mô hình “ngô-vừng” khi chúng được trộn lẫn vào nhau có thể chuyển sang vật gốc “rượu-nước”. Trong vật lý học những mô hình lý thuyết có tác dụng to lớn đối với quá trình nhận thức nên chúng giữ một vị trí quan trọng. Mô hình ký hiệu và mô hình biểu tượng trong sáng tạo khoa học vật lý liên quan mật thiết với nhau và có ảnh hưởng đến sự phát triển của nhau. Tóm lại, chúng ta có thể xây dựng sơ đồ các loại mô hình như ở hình 1 sau đây: MÔ HÌNH MH vật chất MH lý thuyết MH chức MH cấu trúc MH ký hiệu MH biểu năng tượng 13 MH lôgic MH toán học MH đồ thị
- 1.2. Phương pháp mô hình trong vật lý học Trong phương pháp mô hình, người ta dựng lại những tính chất cơ bản của vật thể, hiện tượng, quá trình và mối quan hệ giữa chúng dưới dạng mô hình. Việc nghiên c ứu trên mô hình sẽ thay thế cho việc nghiên cứu trên chính đối tượng thực tiễn, những kết quả nghiên cứu trên mô hình sẽ chuyển sang cho những đối tượng gốc cho phép ta thu được những thông tin mới về đối tượng gốc . 1.2.1 Cơ sở lý thuyết của phương pháp mô hình Cơ sở lý thuyết của phương pháp mô hình là lý thuyết tương tự. Theo phương pháp này ta dựa vào s ự giống nhau một phần về các tính chất hay về các mối quan hệ mà chuyển những thông tin thu thập được từ một đối tượng này sang một đối tượng khác. Thuật ngữ “đối tượng” ở đây dùng theo nghĩa rộng chỉ một vật thể (hoặc hệ vật thể) hoặc một hình ả nh (hoặc một hệ hình ảnh) trừu tượng hay một sơ đồ lôgic. Giả sử có một đối tương A mà ta biết có những tính chất a1, a2, a3...an+1 còn khi nghiên cứu một đối tượng B ta chỉ mới thấy B có những tính chất a1, a2, a3...an giống như đối tượng A ta có thể suy ra rằng B cũng có tính chất an+1 như đối tượng A nếu như giữa a1, a2, a3...an+1 có một quy luật lôgic gắn bó. 14
- Rõ ràng sự suy luận tương tự trên chỉ có tính chất là một giả thuyết, là nguồn gốc trí thức mới. Những giả thuyết đó chỉ trở thành nhận thức khoa học khi chúng được kiểm tra và xác nhận bằng thực nghiệm. Sở dĩ sự suy luận bằng phép tương tự đạt được những kết quả đáng tin cậy trở thành một phương pháp có hiệu lực trong khoa học vì theo Kedrốp: Sự tương tự có nguyên nhân sâu xa là sự thống nhất bản chất bên trong c ủa những hiện tượng khác nhau, sự thống nhất có tính tổng quát của các định luật chung chi phối những định luật riêng. Trước hết chúng tương tự với nhau vì chúng tuân theo những mối quan hệ nhân quả. Dựa trên sự tương tự giữa các hệ quả mà người ta có thể đưa ra sự tương tự giữa các nguyên nhân và ngược lại. D.Didorot đã viết “ Trong vật lý học, tất cả những hiểu biết của chúng ta đều dựa vào sự tương tự nếu sự giống nhau về hệ quả mà không cho phép ta kết luận về sự giống nhau về nguyên nhân thì khoa học vật lý sẽ ra sao? Có cần phải đi tìm nguyên nhân của tất cả các hiên tượng tương tự không loại trừ gì hết? Liệu điều đó có thực hiện được không? Y học và những lĩnh vực thực nghiệm của vật lý sẽ như thế nào n ếu không có nguyên lý tương tự đó...Có thể rút ra được kết luận gì từ rất nhiều sự kiện, thực nghiệm và quan sát?”. Trong lịch sử khoa học, phương pháp tương tự đã dẫn đến nhiều phát minh vĩ đại. Đa số những giả thuyết khoa học ngày nay đều được đề xuất dựa trên sự tương tự với những nguyên lý, những tiên đề hoặc những kết quả đã có từ trước trong khoa học và đã được thực nghiệm xác nhận là đúng đắn. 1.2.2. Cấu trúc của phương pháp mô hình trong vật lý học Trong vật lý, phương pháp mô hình có cấu trúc gồm 4 giai đoạn sau đây: a) Nghiên cứu tính chất của đối tượng gốc: 15
- Bằng quan sát thực nghiệm, người ta xác định được một tập hợp những tính chất của đối tượng nghiên c ứu. Giai đoạn này còn gọi là tập hợp các sự kiện ban đầu làm cơ sở để xây dựng mô hình. b) Xây dựng mô hình: Thông thường do kết quả của sự tương tự người ta đi đến hình dung sơ bộ về sự vật, hiện tượng cần nghiên cứu, tức là đi đến một mô hình sơ bộ, chưa đầy đủ. Trong giai đoạn này trí tưởng tượng và trực giác giữ vai trò quan trọng. Nhờ có trí tưởng tượng và trực giác mà người ta mới trừu xuất được những tính chất và những mối quan hệ thứ yếu của đối tượng nghiên cứu, thay nó bằng mô hình chỉ mang tính chất và những mối quan hệ chính mà ta quan tâm. Mô hình lúc đầu mới có ở trong óc nhà nghiên cứu. Nó trở thành mẫu dựa vào đó nhà nghiên cứu xây dựng những mô hình thật (nếu nh à nghiên c ứu dùng phương pháp mô hình vật chất). Trong trường hợp mô hình lý tưởng thì người ta đem đối chiếu trong óc mô hình với những vật, những hiện tượng mà người ta đã quen biết, chẳng hạn như trong thuyết động học chất khí, người ta đã trừu xuất những chi tiết về cấu trúc của những phân tử của chất khí, chỉ còn giữ lại những đặc điểm về mặt động học của các phân tử và thay thế những phân tử khí bằng những hạt. Những hạt này giống với những quả cầu va chạm tuyệt đối đàn hồi mà ta đã biết rõ những quy luật chi phối chúng. c) Thao tác trên mô hình suy ra hệ quả lý thuyết: Sau khi xây dựng mô hình, người ta áp dụng những phương pháp lý thuyết hoặc thực nghiệm khác nhau từ tư duy trên mô hình và thu được kết quả, những thông tin mới. Đối với các mô hình vật chất thì người ta làm thí nghiệm thực trên mô hình . Còn đối với mô hình lý tưởng thì thao tác trên mô hình trong óc, tức là áp dụng những phép tính hay những phép phân tích suy luận lôgic dựa trên các mệnh đề của mô hình như các tiên đề. Người ta coi công việc này như làm một thí nghiệm đặc biệt gọi là thí nghiệm tưởng tượng. Thí nghiệm tưởng tượng tuy không có thật nhưng có thể thực hiện được và có vai trò rất lớn trong 16
- khoa học. Theo Heisenberg: những thí nghiệm đó được sáng tạo để giải thích những vấn đề đặc biệt quan trọng, bất kể là thực tế ta có thể thực hiện được thí nghiệm đó hay không. Dĩ nhiên, điều quan trọng là thí nghiệm đó có thể thực hiện về nguyên tắc, mặc dù kỹ thuật thực hiện của nó có thể rất phức tạp. Trong phương pháp mô hình lý tưởng người ta đã biết trước hành vi của mô hình trong những điều kiện xác định. Điều người ta muốn biết thêm là hệ quả của những hành vi đó như thế nào. Thí nghiệm tưởng tượng thực chất là một thao tác lôgic chứ không phải là một phương pháp nghiên cứu khách quan, những kết quả trên mô hình phải được chuyển đổi về đối tượng nghiên cứu (đối tượng gốc) xem có phù hợp. d) Thực nghiệm kiểm tra: - Nếu bản thân mô hình là một phần tử cấu tạo của nhận thức thì cần phải kiểm tra sự đúng đắn của nó bằng cách đối chiếu kết quả thu được từ mô hình với những kết quả thu được trực tiếp từ đối tượng gốc. Nếu sai lệch thì phải điều chỉnh ngay chính mô hình, có trường hợp phải bỏ hẳn mô hình đó và thay bằng một mô hình khác. Thí dụ mô hình cấu tạo phân tử khí lý tưởng vừa là đối tượng của nhận thức vừa là phương tiện nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu trên mô hình đó đem áp dụng vào khí thực có sai lệch với thực tế. Bởi vậy phải chỉnh lý mô hình khí lý tưởng và phải xây dựng mô hình khí thực. - Nếu bản thân mô hình không phải là đối tượng của nhận thức mà chỉ là phương tiện để nghiên cứu thì việc xử lý kết quả, hợp thức mô hình là phải phân tích những kết quả thu được trên mô hình thành những thông tin về đối tượng nghiên cứu (thí dụ như mô hình kỹ thuật, mô hình toán học...) nếu những thông tin ấ y không phù hợp cũng phải chỉnh lý lại mô hình. Trong nhiều trường hợp mô hình chỉ phản ánh được một hay một số mặt của đối tượng nghiên cứu, còn nhiều mặt khác thì không phản ánh được, thậm chí phản ánh sai lệch. 17
- Những mô hình đã được kiểm nghiệm trong thực tế là những mô hình hợp thức và dùng để phản ánh một số mặt của thực tế khách quan. Nó có thể thay đổi, hoàn chỉnh thêm hoặc bị bác bỏ khi người ta có thêm thông tin chính xác hơn về đối tượng gốc. Tóm lại, ta có thể xây dựng sơ đồ cấu trúc của phương pháp mô hình như ở hình 2 dưới đây. Thuyết (mô hình hoàn chỉnh) Nhận thức về Kết quả nghiên cứu đối tượng trên mô hình PP thực nghiệm Nghiên cứu trên các pp lôgic toán MH PP thực nghiệm Mô hình quan sát so sánh Xây dựng Hợp thức mô hình: hoá mô -PP tương tự hình -Trừu tượng Đối tượng của nhận thức Hình 2: Sơ đồ cấu trúc của PPMH 1.2.3. Vai trò của phương pháp mô hình trong lịch sử vật lý Trong lịch sử vật lý, PPMH đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và hoàn chỉnh các thuyết [18]. Không có mô hình về ête vũ trụ thì trong bối cảnh lịch sử khoa học thế kỷ 19 không thể xây dựng được lý thuyết về các hiện tượng điện từ. Macxoen dùng mô hình ête vũ trụ để xây dựng các phương trình Macxoen, Mặc dù được xây dựng từ mô hình cơ học là ête giả định nhưng không mang trong chúng một hệ số đặc trưng nào cho môi trường đó; trong những trường hợp này mô hình là phương tiện, công cụ nhận thức tương tự như 18
- bộ “giàn giáo” để xây dựng toà nhà, khi xây xong thì bộ “giàn giáo” b ị dỡ bỏ, không cần quan tâm. “Lý thuyết Macxoen chính là các p hương trình Macxoen”[16, 163]. Những mô hình được sử dụng đầu tiên trong vật lý học là mô hình vĩ mô (đơn giản hoá các đối tượng vĩ mô cần nghiên cứu) (ví dụ chất điểm là mô hình trái đất chuyển động quanh mặt trời); Từ giữa thế kỷ 19 xuất hiện rộng rãi các mô hình vi mô (mô hình mô tả các đối tượng vi mô không quan sát trực tiếp được). Thế kỷ 20 xuất hiện mô hình lượng tử. Ví dụ sự phát triển của các mô hình về cấu tạo nguyên tử. Đầu tiên là mẫu cổ điển do Thômsơn đưa ra vào năm 1906: Nguyên tử gồm các electrôn nằm trong một môi trường điện tích dương, electrôn bơi trong môi trường điện tích dương hình cầu có đường kính cỡ Ǻ và các electrôn phân bố thành từng lớp. Mẫu này giải thích được định tính một số tính chất của các nguyên tử nhưng không được thành công lắm. Năm 1908, Rơzơfo làm thí nghiệm kiểm tra mẫu Thômsơn về cấu tạo hạt nhân. Mẫu Thômsơn không giải thích đ ược sự tán xạ của chùm hạt ỏ trên lá vàng. Mẫu Thômsơn thất bại. Rơzơfo bổ sung mẫu nguyên tử có đường kính cỡ 10-4Ǻ. Mẫu này giải thích hoàn hảo các thí nghiệm của Rơzơfo cả về mặt định tính lẫn định lượng, đồng thời tiên đoán năng lượng ion hoá của hyđrô, đã được thí nghiệm kiểm chứng. Tuy nhiên mẫu trên không giải thích được tính bền vững của nguyên tử và sự tạo thành quang phổ vạch của hyđrô. Đến năm 1913 Borh bổ sung thêm hai tiên đề về các trạng thái dừng và về sự hấp thụ, bức xạ năng lượng của nguyên tử. Năm 1915, Somefod cho rằng electrôn chuyển động theo quỹ đạo elip, mô men động lượng của electrôn trên quỹ đạo cũng khác nhau. Mẫu này không giải thích được sự tách vạch quang phổ trong từ trường ngoài. Đến năm 1916, ông đưa thêm vào mẫu của mình: hình chiếu của mô men từ lên phương của từ trường ngoài c ũng đ ược lượng tử hoá. Năm 1925, Gao Smit và Ulnibec lại bổ sung: mỗi electrôn có mô men quay riêng gọi là Spin. Tiếp đó, Pauli đưa ra mẫu: mỗi electrôn được đặc trưng bởi bốn số lượng tử. Trong một 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Phát triển sự đo lường tài sản thương hiệu trong thị trường dịch vụ
81 p | 698 | 148
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong doanh nghiệp kinh doanh khách sạn tình huống tại Nhà khách Hải Quân – công ty Hải Thành
77 p | 532 | 143
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Thực trạng nhân sự và một số giải pháp cải thiện công tác quản lí nhân sự tại một số doanh nghiệp da giày ở Hải Phòng – nghiên cứu điển hình tại công ty TNHH Đỉnh Vàng
102 p | 516 | 97
-
Đề tài: Nghiên cứu sử dụng cỏ Vetiver để cải tạo đất bị nhiễm chì (Pb), asen sau khi khai thác khoáng sản ở tỉnh Thái Nguyên
11 p | 377 | 78
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực – nghiên cứu tình huống tại Công ty cổ phần Hóa chất Vật liệu điện Hải Phòng
87 p | 310 | 78
-
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Thực trạng nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
116 p | 259 | 63
-
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở: Thực trạng sử dụng hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng hoạt động giáo dục trong dạy học giáo dục học ở Đại học Sư phạm
129 p | 368 | 52
-
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Sử liệu học Lịch sử Việt Nam - PTS. Phạm Xuân Bằng (chủ nhiệm đề tài)
56 p | 251 | 47
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Tái cấu trúc nhân sự xí nghiệp xếp dỡ Hoàng Diệu - cảng Hải Phòng
68 p | 150 | 33
-
Báo cáo tóm tắt đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Vai trò của phân tích khoa học luận lịch sử toán học trong nghiên cứu và thực hành dạy - học môn Toán
90 p | 492 | 27
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi trường trong sử dụng khí hóa lỏng (LPG) ở Việt Nam
187 p | 132 | 23
-
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: Nghiên cứu pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong giai đoạn 2010–2020 ở Việt Nam
112 p | 65 | 20
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu sự ảnh hưởng của hiện tượng rẽ tắt lên khả năng thông hành của nút giao
50 p | 21 | 12
-
Đề tài: Nghiên cứu việc tổ chức một số buổi học ngoại khóa về Dao động điện - Dòng điện xoay chiều cho học sinh lớp 2 Trung học phổ thông - Nguyễn Văn Phán
8 p | 145 | 11
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu sự thay đổi hệ số rỗng, hệ số thấm đất bùn lòng sông dưới các cấp áp lực
55 p | 21 | 8
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh về việc sử dụng phần mềm hỗ trợ kê khai thuế
62 p | 11 | 6
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu sự ảnh hưởng của xe container lên ô nhiễm bụi và tiếng ồn
33 p | 17 | 6
-
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp viện Mác - Leenin - Hồ Chí Minh: Những sự kiện lịch sử hoạt động của các xứ ủy trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930–1045)
181 p | 86 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn