Đề tài "TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ"
lượt xem 87
download
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò con người. Không ngừng cải thiện nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục đích hàng đầu của chế độ xã hội ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong các kì đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, 7, 8 đã và đang có nhiều ảnh hưởng...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài "TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ"
- Luận Văn Đề Tài: TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 PHẦN III - TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC 29 TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ I - MỘT VÀI NÉT VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ 29 1. Giới thiệu chung về Công ty 29 2. Những thuận lợi khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em tại 31 Công ty bảo hiểm nhân thọ II - TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC 34 Ở CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ 1. Đánh giá chung về kết quả nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em 34 2. Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em trong quý I 37 năm 1999 tại Công ty Bảo hiểm nhân thọ 2.1. Công tác khai thác 37 2.2. Công tác đánh giá rủi ro ban đầu 37 2.3. Công tác quản lý hợp đồng 40 2.4. Công tác tuyển dụng và đào tạo 42 2.5. Công tác tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý 44 2.6. Công tác giám dịnh bồi dưỡng 47 2.7. Vấn đề hoạt động đầu tư 47 III - MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT 48 ĐỘNG KINH DOANH NGHIỆP VỤ AN SINH GIÁO DỤC 1. Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác 50 2. Đa dạng các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng khai thác 50 3. Cần có phương pháp khai thác hợp với từng thị trường 53 4. Công tác tuyển dụng, đào tạo và quản lý cán bộ khai thác 54 5. Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm 55 6. Một số kiến nghị khác 56 Kết luận 58 1
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 LỜI NÓI ĐẦU Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò con người. Không ngừng cải thiện nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục đích hàng đầu của chế độ xã hội ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong các kì đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, 7, 8 đã và đang có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế nước ta. Sau hơn mười năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã gặt hái được nhiều thành công to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Nên nền kinh tế nước ta dần dần khởi sắc và phát triển một cách vững chắc, về cơ bản chúng ta đã thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài, sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế đang được điều chỉnh, đIều kiện sống của nhân dân không ngừng được cảI thiện và nâng cao. Trong xu thế phát triển toàn diện đó, ngành bảo hiểm cũng có những điều kiện thuận lợi để phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngày càng có nhiều nghiệp vụ mới ra đời, bảo hiểm nhân thọ là một ví dụ điển hình. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ mang tính đặc thù cao, có sức hấp dẫn riêng và có sự khác biệt so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ bao gồm nhiều loạI hình khác nhau như: Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5-10 năm, An sinh giáo dục...Sở dĩ em chọn đề tài:“An sinh giáo dục: Thực trạng và một số biện pháp phát triển nghiệp vụ này ở công ty Bảo hiểm nhân thọ “ cho chuyên đề thực tập của mình là vì những lý do sau: - Mặc dù bảo hiểm nhân thọ ra đời rất sớm trên thế giới ( năm 1583, ở Anh) và khônh ngừng phát triển ở khắp nơi, nhưng lại được triển khai rất muộn ở Việt nam. Vì vậy, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới để áp dụng vào thực tế triển khai ở nước ta là một đòi hỏi cấp bách có ý nghĩa kinh tế lớn - Do nghiệp vụ “ An sinh giáo dục “mới được triển khai ở nước ta, thêm vào đó chúng ta lại thiếu một hệ thống luật đồng bộ trong bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng, nên khó tránh khỏi những hạn chế, những điều bất hợp lý trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu một cách khoa học, tìm ra giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Nghiệp vụ bảo hiểm này có tính chất khác biệt rõ nét so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác ở chỗ nó không chỉ mang tính chất bảo hiểm các rủi ro mà còn mang tính chất tiết kiệm. Điều này có nghĩa là công ty phải trả một khoản tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù không có rủi ro xảy ra với khách hàng. Do vậy công ty bảo hiểm nhân thọ cần có một chính sách đầu tư vốn hợp lý để đảm bảo tài chính của công ty. - Nghiệp vụ này còn thu hút được nhiều người nghiên cứu vì nó có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Với các khẩu hiệu “ Tất cả vì tương lai con em chúng ta”, “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai “ thì chương trình “An sinh giáo dục “ là một biện pháp hữu hiệu để các thế hệ đi trước thể hiện sự quan tâm đối với các thế hệ đi sau. Khi nghiên cứu đề tài, ta phải phân tích tình hình triển khai, từ đó đưa ra một số biện pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của công ty trong thời gian tới. 2
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 Nội dung đề tài gồm ba phần: Phần I: Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ. Phần II: Những nội dung cơ bản về nghiệp vụ An sinh giáo dục trong hệ thống bảo hiểm nhân thọ. Phần III: Tình hình triển khai chương trình An sinh giáo dục tại công ty bảo hiểm nhân thọ. PHẦN I LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ. I. SỰ CẦN THIẾT CỦA BẢO HIỂM NHÂN THỌ. 1. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ. a. Trên thế giới: Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển từ rất lâu trên thế giới. Hình thức bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo hiểm là William Gybbon. Như vậy, bảo hiểm nhân thọ có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại không có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó giống như một trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con người, nên bảo hiểm nhân thọ phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ 3
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 thuật nên bảo hiểm nhân thọ đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Với sự xuất hiện các phép tính xác suất Pascal và Fermat thì sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ là một tất yếu khách quan. Năm 1759, công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở châu Mỹ nhưng chỉ bán các hợp đồng bảo hiểm cho các con chiên trong nhà thờ của họ. Năm 1762, ở Anh thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable. Đây là công ty đầu tiên bán các hợp đồng bảo hiểm rộng rãi cho nhân dân và áp dụng nguyên tắc phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời gian bảo hiểm. Năm 1812, một công ty bảo hiểm nhân thọ nữa được thành lập ở Bắc Mỹ. Năm 1860 bắt đầu xuất hiện hệ thống mạng lưới đại lý bán bảo hiểm nhân thọ. Cho đến nay bảo hiểm nhân thọ đã phát triển rất mạnh mẽ và đa dạng. Từ những loại hình nhân thọ cơ bản là Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn (Bảo hiểm tử kỳ), Bảo hiểm trọn đời, Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, Bảo hiểm trợ cấp hưu trí, mỗi công ty bảo hiểm đều thiết kế những sản phẩm mang những đặc thù riêng để đáp ứng nhu cầu tài chính của từng khu vực dân cư và phù hợp với chính sách kinh tế, xã hội của từng quốc gia. Người ta cũng thường có những điều khoản bổ sung trong đó phạm vi bảo hiểm là tai nạn hoặc bệnh tật, ốm đau, các bệnh hiểm nghèo xảy ra trong thời hạn bảo hiểm của hợp đồng chính (là một trong bốn dạng trên). Trên thế giới, hiện nay doanh số của bảo hiểm nhân thọ chiếm trên 50% doanh số của ngành bảo hiểm. Dưới đây là số liệu thể hiện tỷ trọng doanh số bảo hiểm nhân thọ ở các khu vực trên thế giới trong hai năm 1990, 1996. Bảng 1: Doanh số của bảo hiểm nhân thọ so với doanh số ngành bảo hiểm ở các khu vực Đơn vị tính: % Năm 1990 1996 Khu vực Châu Á 33,8 75 Châu Âu 31,4 50 Châu Mỹ 34,8 43 Nguồn tài liệu: Tạp chí Tái bảo hiểm - 1996. Trong đó, cho đến năm 1993, ở Đông Nam á tổng doanh thu phí bảo hiểm là 61,1 tỷ USD, doanh số của bảo hiểm nhân thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8% , doanh số của bảo hiểm phi nhân thọ là 16 tỷ USD chiếm 26,2%. Có thể đưa ra đây một số ví dụ về sự phát triển bảo hiểm nhân thọ ở một số nước như sau: Bảng 2: Phí bảo hiểm nhân thọ ở một số nước trên thế giới năm 1993. Tên nước Tổng phí Nhân Phi Phí BHNT Tỷ lệ Bảo hiểm bảo hiểm thọ (%) nhân trên đầu BHNT phi nhân (tr.USD) thọ (%) người(US/ trên GDP thọ trên 1000người) (%) GDP (%) Hàn Quốc 36.050 79,66 20,34 651.201 8,68 2,21 Nhật Bản Đài Loan 320.143 73,86 26,14 1.909.870 5,61 1,98 Singapor 9.886 68,77 31,23 325.311 3,14 1,43 Philipin 1.666 62,42 37,28 358.620 1,89 1,14 Thái Lan Malaixia 1.238 59,43 40,57 11.294 1,38 0,82 Inđonêxia 2.127 53,64 43,36 19.470 0,92 0,80 Mỹ Đức 1.989 46,45 53,55 48.125 1,43 1,65 4
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 Pháp 1.233 30,25 69,75 1.974 0,26 0,60 Anh 522.468 41,44 58,56 838.223 3,41 4,82 107.403 39,38 60,62 524.138 2,25 3,46 84.303 56,55 43,65 826.320 3,80 2,82 102.360 64,57 35,43 1.141.450 7,00 3,85 Nguồn: Tạp chí Kinh tế phát triển - Đại học kinh tế quốc dân. b.Tại Việt Nam: Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm nhân thọ, trong những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ này. Với sự ra đời của công ty bảo hiểm nhân thọ, chính thức đầu tiên ở Việt Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ gần ba năm, nhưng trong thực tế bảo hiểm nhân thọ đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm dưới nhiều hình thức khác nhau. Trước năm 1954, ở miền Bắc, những người làm việc cho Pháp đã được bảo hiểm và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ này. Các hợp đồng bảo hiểm này đều do các công ty bảo hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện. Trong những năm 1970 - 1971 ở miền Nam công ty Hưng Việt bảo hiểm đã triển khai một số loại hình bảo hiểm như “An sinh giáo dục”, “Bảo hiểm trường sinh” (Bảo hiểm nhân thọ trọn đời), “Bảo hiểm tử kỳ thời hạn 5 - 10 - 20 năm”, nhưng công ty này chỉ hoạt động từ một đến hai năm nên các nghiệp vụ bảo hiểm không được biết đến rộng rãi. Năm 1987, Bảo Việt đã có đề án “Bảo hiểm nhân thọ và việc vận dụng vào Việt Nam”, nhưng vào lúc đó điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn như: - Tỷ lệ lạm phát rất cao và không ổn định. - Thu nhập của nhân dân chỉ đủ để chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu thường ngày, phần tiết kiệm rất ít. - Chưa có điều kiện để công ty bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực đầu tư. Công ty bảo hiểm lúc đó chưa được phép sử dụng quỹ bảo hiểm đi đầu tư, môi trường đầu tư chưa phát triển. - Chưa có những qui định mang tính chất pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ giá công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi cho người được bảo hiểm và khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm. Với những khó khăn trên đã không cho phép công ty Bảo Việt phát triển nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Thay cho bảo hiểm nhân thọ, năm 1990, Bộ Tài chính cho phép công ty Bảo Việt triển khai “Bảo hiểm sinh mạng con người thời hạn 1 năm”.Thực tế triển khai nghiệp vụ này cho thấy: - Việc lo xa cho gia đình khi không may người chủ gia đình bị mất mà chỉ tính đến trong vòng 1 năm là không hấp dẫn. Tâm lý người tham gia loại hình bảo hiểm này cũng không thoải mái. Và do đó loại hình bảo hiểm này chỉ đáp ứng được nhu cầu cho những người già. - Mọi người tham gia bảo hiểm đều thắc mắc, nếu không gặp rủi ro có được nhận lại gì không? Với thực tế trên, cùng với việc đánh giá các điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm đầu thập kỷ 90, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu triển khai nghiệp bảo hiểm nhân thọ với hai loại hình mang tính chất tiết kiệm từ cuối năm 1993. Đến tháng 1 năm 1994, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam mới chính thức trình Bộ Tài chính dự án thành lập công ty Bảo hiểm nhân thọ. Với những yêu cầu về quản lý quỹ bảo hiểm nhân thọ, Bộ Tài chính đã ký quyết định số 568/QĐ/TCCB ngày 22/6/1996 thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ trực thuộc Bảo Việt. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam. 2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một vài người trong số họ phải gánh chịu. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử là năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. 5
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia bảo hiểm nhân thọ trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển.Ở châu Á, những năm gần đây bảo hiểm nhân thọ phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao.Theo Tài liệu của công ty Bảo Việt nhân thọ, năm 1996, ở châu Á, tổng doanh thu phí bảo hiểm là 61,1 tỷ USD trong đó phí bảo hiểm nhân thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8%. Ơ các nước phát triển có môi trường đầu tư tốt, bảo hiểm nhân thọ phát triển rất mạnh mẽ. Bảo hiểm nhân thọ giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia bảo hiểm nhân thọ nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dải, tạo ra được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh". Muốn thực hiện được thắng lợi mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội đã đề ra thì nhân tố vốn đầu tư là rất quan trọng. Vốn đầu tư chủ yếu được lấy từ quĩ tích luỹ của nền kinh tế quốc dân và nguồn vốn vay nước ngoài. Theo kinh nghiệm của một số nước phát triển và tình hình kinh tế xã hội thực tế của Việt Nam thì nhất thiết phải tạo nhanh nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và phải coi đây là biện pháp chính. Có tích luỹ từ trong nước thì mới tiếp nhận được nguồn vốn từ bên ngoài. Mà quĩ tích luỹ này được hình thành chủ yếu từ tiết kiệm, để phát huy nguồn vốn này cần phải đẩy mạnh tiết kiệm, tạo khoản vốn cần thiết để phát triển kinh tế. Một trong những mặt yếu kém của nền kinh tế nước ta thời gian qua là nguồn vốn đầu tư phát triển bằng nguồn vốn trong nước tăng không đáng kể, mặc dù theo điều tra, vốn trong dân không phải là nhỏ. Báo Đầu tư số ra gần đây cho biết: Nguồn vốn trong dân ước tính trong các năm : - Năm 1992: 9419 tỷ đồng chiếm 9,8% GDP. - Năm 1994: 21.753 tỷ đồng chiếm 12,8% GDP. - Năm 1995: 34.382 tỷ đồng chiếm 13,2% GDP. Dự đoán từ nay đến năm 2000 tỷ lệ này đạt 15% GDP. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngoài khả năng gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi. Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước cần phải có giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển. Bảo hiểm nhân thọ từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách 6
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng lượng vốn mà công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam huy động được cũng là hết sức cần thiết trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay. Nếu như đối với nghiệp vụ bảo hiểm khác thời gian bảo hiểm thường ngắn, mức phí đóng thường là thấp thì ở nghiệp vụ " An Sinh Giáo Dục " thời gian bảo hiểm dài, mức phí định kỳ cao. Điều này cho thấy huy động vốn bằng cách tăng cường triển khai nghiệp vụ "An Sinh Giáo Dục " là hết sức cần thiết đối với công ty bảo hiểm nhân thọ. II - MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA BẢO HIỂM NHÂN THỌ 1.Mục đích Bảo hiểm nhân thọ là một sự đảm bảo và mang tính chất tương hỗ - đó là mục đích chính, và do đó bảo hiểm nhân thọ mang tính chất xã hội rất lớn. Số tiền được trả cho thân nhân và gia đình người tham gia bảo hiểm khi không may gặp rủi ro được bảo hiểm sẽ giúp những người thân chi trả những khoản chi tiêu rất lớn như: tiền thuốc thang và bác sỹ, tiền ma chay, khoản tiền cần thiết để ổn định cuộc sống, chi phí giáo dục con cái, nuôi dưỡng chúng nên người. Không ai muốn nghĩ tới cái chết, nhưng không ai biết nó đến lúc nào. Việc mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là thể hiện sự chu đáo của mình đối với gia đình. Và nếu như may mắn trong suốt thời hạn bảo hiểm không có rủi ro thì người được bảo hiểm vẫn nhận lại được số tiền đã nộp cộng thêm lãi nhờ hoạt động của công ty bảo hiểm. Nhiều khoản tiền nhỏ lúc đó cộng lại đã thành khoản tiền lớn để chi tiêu cho những công việc lớn, hoặc như dành dụm cho con bằng cách mua hợp đồng “An sinh giáo dục” thì khi đứa trẻ 18 tuổi đã có một khoản tiền để cấp vốn cho nó làm ăn hoặc chi phí cho nó tiếp tục đi học đại học. Chi phí giáo dục - một vấn đề lớn trong ngân sách của mỗi gia đình hiện nay và càng trở nên nóng bỏng trong tương lai. So với các hình thức tiết kiệm, bảo hiểm nhân thọ có ưu điểm sau: - Bảo hiểm nhân thọ là hình thức tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch. Khi đã quyết định mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì các khoản phí nhỏ đóng hàng tháng được coi như là các chi phí thường xuyên như tiền ăn, tiền điện, tiền nước...và người đại lý chính là người thường xuyên nhắc nhở và thu khoản tiền này. - Bảo hiểm nhân thọ hỗ trợ khó khăn về tài chính cho thân nhân và gia đình người được bảo hiểm khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bằng một khoản tiền lớn ngay cả khi họ mới kịp tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ. 2 . Ý nghĩa của bảo hiểm nhân thọ Cũng giống như các nghiệp vụ bảo hiểm khác , bảo hiểm nhân thọ có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống mỗi cá nhân , mỗi gia đình nói riêng và của xã hội nói chung . a.Đối với mỗi cá nhân , gia đình . - Bảo hiểm nhân thọ thể hiện sự quan tâm lo lắng của người chủ gia đình đối với con cái hay những người phụ thuộc . Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển , các công nghệ hiện đại giúp cho cuộc sống tiện lợi hơn , văn minh hơn nhưng những rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào , nó cướp đi mạng sống của con người hoặc gây cho con người những thương tật mà không thể phục hồi trở lại . Chính vì thế , trong xã hội văn minh hiện nay vẫn có một thực trạng đáng buồn là nhiều gia đình trở nên khó khăn , túng quẫn khi người trụ cột gia đình không may gặp rủi ro dẫn tới mất mát hoặc giảm thu nhập. Do đó, nếu tham gia bảo hiểm nhân thọ thì họ sẽ có một khoản tiền để chi trả, trang trải những chi phí như nằm viện , 7
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 phẫu thuật , thuốc men , nợ nần , chi phí mai táng hoặc bù đắp một phần những khoản thu nhập thường xuyên của gia đình bị mất hoặc bị giảm . Vì thế , bảo hiểm nhân thọ góp phần giảm bớt khó khăn về tài chính khi không may người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro . -Bên cạnh đó , mỗi người dân lao động đều có ý thức tiết kiệm , dành dụm tiền để thực hiện những dự định trong tương lai . Bảo hiểm nhân thọ là một trong những biện pháp để thực hiện tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch đối với từng gia đình . Đặc điểm ưu việt của loại hình bảo hiểm nhân thọ là khi hết thời hạn bảo hiểm , người được bảo hiểm vẫn được nhận lại toàn bộ số tiền bảo hiểm cho dù trong thời gian bảo hiểm có xảy ra rủi ro hay không . Không ai dám nói trước về tương lai và tiết kiệm từ hôm nay để đảm bảo cho ngày mai là biện pháp tích cực và có ý nghĩa nhất vì tương lai tốt đẹp của con cái , của gia đình luôn được đảm bảo bằng trình độ học vấn , bằng cấp khoa học , vị trí xã hội vững vàng - Bảo hiểm nhân thọ góp phần thực hiện kế hoạch tài chính của từng gia đình : tạo quỹ dành cho giáo dục con cái , có tiền để chi dùng khi về hưu . Tóm lại , bảo hiểm nhân thọ có vai trò hết sức quan trọng, to lớn đối với mỗi thành viên trong toàn xã hội. Tham gia bảo hiểm nhân thọ là quyền lợi của mọi người và nhờ có bảo hiểm nhân thọ mà cuộc sống của con người trở nên hạnh phúc hơn , an toàn hơn .Tham gia bảo hiểm nhân thọ làm người ta tự tin hơn, quyết đoán hơn vì bảo hiểm nhân thọ giúp người tham gia giảm bớt sự ràng buộc đối với người thân mà người tham gia phải có trách nhiệm nuôi dưỡng . Chính sự tự tin này làm cho mọi hoạt động của người tham gia đạt hiệu quả cao hơn . Nhờ những đặc tính ưu việt của mình mà bảo hiểm nhân thọ đã và đang phát triển rất nhanh rộng khắp các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có trình độ phát triển, trình độ dân trí và bình quân thu nhập đầu người cao. Đây là nhuyên nhân chính thúc đẩy bảo hiểm nhân thọ phát triển mạnh ,và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn so với các hoạt động của cả ngành bảo hiểm nói chung. b.Đối với xã hội . - Bảo hiểm nhân thọ là một hình thức quan trọng để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhằm giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Với nguồn vốn lớn thu được từ phí bảo hiểm đã giúp cho công ty đầu tư vào các lĩnh vực, công trình lớn, đặc biệt là các công trình cơ sở hạ tầng . Hiện nay ở một số nước trên thế giới, lượng vốn do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp lớn hơn nhiều so với các tổ chức tài chính khác. Ví dụ như ở Mỹ, năm 1970 số vốn do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp vào thị trường là 9 tỷ USD, trong khi đó số vốn do hệ thống ngân hàng cung cấp là 37 tỷ USD. Nhưng cho đến năm 1991 con số đó đã là: số vốn do công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp: 90,2 tỷ USD, số vốn do hệ thống ngân hàng cung cấp: 85,7 tỷ USD. Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư Việt Nam là 11 tỷ USD, trong đó có khoảng 50% là dự trữ bằng vàng. Đây là một lượng vốn nhàn rỗi lớn, mà các tổ chức tài chính chưa huy động được hết, do đó đã để lãng phí nhiều. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì thế vốn càng là một nhu cầu tất yếu , bức thiết để tiến hành công cuộc này,với các chính sách mở cửa đất nước nhằm thu hút vốn đầu tư của nước ngoài song chúng ta lại chưa khai thác hết tiềm năng trong nước. Trước tình hình này bảo hiểm nhân thọ cần có biện pháp, kế hoạch huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân để phục vụ cho nhu cầu đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước . - Bên cạnh vai trò huy động vốn trong nước thì bảo hiểm nhân thọ còn có vai trò thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư cho một công ty bảo hiểm lúc đầu thường rất lớn , khi có một chính sách phù hợp sẽ thu được một lượng vốn đầu tư bên ngoài đáng kể, vì bảo hiểm nhân thọ là một thị trường hết sức mới mẻ và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa đặc điểm của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ có tính chất dài hạn nên nguồn vốn cung cấp cho nền kinh tế cũng lớn. Trong khoảng thời gian này các nhà đầu tư chưa thu được nhiều lợi nhuận, do đó họ sẽ tiếp tục đầu tư mà không rút khỏi thị trường Việt Nam. - Bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo nên phong cách , tập quán sống mới. Tham gia bảo hiểm nhân thọ thể hiện một nếp sống đẹp, đó là biết lo lắng cho tương lai mình và quan tâm đến tương lai của người thân, đồng thời góp phần giáo dục con em mình về đức tính tiết kiệm, cần cù và sống có trách nhiệm với người khác. - Bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động, để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế . Vấn đề thất nghiệp luôn được quan tâm bởi chính phủ, các tổ chức xã hội, người lao động...Tỷ lệ thất nghiệp cao hay thấp đều ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế xã hội như tình trạng nền kinh tế, sự ổn định chính trị, tệ nạn xã hội .v.v. Giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp là mục tiêu của tất cả các chính ohủ và là mong muốn của toàn thể nhân dân lao động . Để thực hiện mục tiêu này các nước phải chống lại tình 8
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 trạng gia tăng dân số, hạn chế sự tác động của khoa học kỹ thuật . Chính sự mâu thuẫn này làm cho xã hội luôn có tình trạng thất nghiệp dù chúng ta có cố gắng thế nào đi chăng nữa. Với tư cách là tổ chức hoạt động kinh doanh, công ty bảo hiểm cũng đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của toàn xã hội, đó là tạo ra công ăn việc làm, hạn chế tình trạng thất nghiệp . Trước hết, để đảm bảo cho bộ máy của mình hoạt động, bảo hiểm nhân thọ đã trực tiếp tạo việc làm cho một bộ phận không nhỏ lực lượng lao động . Nhữnh người này làm việc trong các mạng lưới của công ty như nhân viên , đại lí , môi giới bảo hiểm .v.v. Chẳng hạn như riêng ở Hồng Kông chỉ với 6 triệu dân nhưng đã có 35 000 người hoạt động trong lĩnh vực vực bảo hiểm nhân thọ. Theo tài liệu thống kê năm 1993 ta có : Bảng3:Số lao động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ ở một số nước Đơn vị tính: người Tên nước Đài Loan Hàn Quốc Pháp Mỹ Số lao động 8.000 14.000 150.000 1.000.000 Nguồn : Tổng cục thống kê Mặt khác công ty bảo hiểm nhân thọ còn là một tổ chức tài chính trung gian, do đó nó có chức năng gián tiếp tạo công ăn việc làm thông qua việc đầu tư , cho vay vốn mà công ty thu được từ những người tham gia bảo hiểm . Như vậy, bảo hiểm nhân thọ có một chức năng , một vai trò to lớn trong việc tạo việc làm , giải quyết thất nghiệp cho xã hội . - Bảo hiểm nhân thọ góp phần giải quyết một số vấn đề như : + Vấn đề giáo dục Đầu tư giáo dục phải được coi là một trong những nhân tố then chốt cho sự phát triển . Trong khi ngân sách Nhà nước còn eo hẹp và chi phí cho giáo dục ngày càng tăng , chúng ta đã thực hiện một số giải pháp như : kêu gọi sự đóng góp của các cơ quan , doanh nghiệp cho việc đào tạo giáo dục , triển khai cho sinh viên vay vốn ngân hàng , hỗ trợ học tập . . . Tuy nhiên đó chỉ là những biện pháp vĩ mô và mang tính chất tình thế , chưa thực sự huy động các tầng lớp trong xã hội tham gia . Bảo hiểm nhân thọ - cụ thể là chương trình An sinh giáo dục là một biện pháp huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho việc giáo dục từ việc tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch của mỗi gia đình . Đấy cũng là một giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội . Tham gia bảo hiểm nhân thọ sẽ đảm bảo được quỹ giáo dục cho con cái ngay cả khi người trụ cột trong gia đình mất hoặc giảm thu nhập . + Vấn đề xoá đói giảm nghèo Mặc dù điều kiện sống đã được nâng cao nhưng không ai lường trước được rủi ro và nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào . Tham gia bảo hiểm nhân thọ là một cách để bảo vệ mỗi cá nhân trong gia đình chống lại sự bất ổn về mặt tài chính khi rủi ro xảy ra . Xét về mặt xã hội , bảo hiểm nhân thọ đã góp phần làm giảm người bần cùng nghèo khổ do những rủi ro gây ra . + Vấn đề người về hưu và cao tuổi Điều kiện sống được cải thiện thì đời sống của con người cũng được nâng cao , dẫn tới tỉ lệ người già ngày càng cao trong dân số . Chính vì thế ta cần phải lo cho tương lai khi về hưu , bảo hiểm nhân thọ chính là một công cụ để thực hiện điều đó . Nói cách khác bảo hiểm nhân thọ đã góp phần giảm bớt gánh nặng trách nhiệm cho xã hội đối với người về hưu , người già... - Bảo hiểm nhân thọ góp phần nâng cao phúc lợi xã hội Tham gia bảo hiểm nhân thọ là quyền lợi của mỗi công dân , sự xuất hiện của bảo hiểm nhân thọ đã làm cho cuộc sống con người được bảo đảm và phát triển một cách có kế hoạch . Sự phát triển này khiến chúng ta có độ thoả mãn cao hơn về vật chất và tinh thần . Khi tham gia bảo hiểm nhân thọ chúng ta sẽ sống thoải mái hơn vì đã có sự đảm bảo nhất định của công ty bảo hiểm . Do vậy, đứng trên phương diện nào đó thì bảo hiểm nhân thọ đã và đang nâng cao phúc lợi xã hội . Thêm vào đó ,bảo hiểm nhân thọ đang góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội như cướp bóc , mãi dâm , cờ bạc v.v... Nếu như không có bảo hiểm nhân thọ thì khi một người là lao động chính trong gia đình gặp tai nạnvà mất khả năng lao động, lúc đó cuộc sống của toàn thể gia đình sẽ gặp muôn vàn khó khăn . Ai cũng có mưu cầu hạnh phúc , mưu cầu tồn tại nhưnh khi không thể kiếm sống được bằng lao động , bằng chính sức lực của mình thì rất có 9
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 thể họ sẽ kiếm tiền bằng các biện pháp phi pháp để đạt được mưu cầu này .Với sự đóng góp của mình , công ty bảo hiểm nhân thọ đã góp phần hoàn thiện các công trình phúc lợi , các khu vui chơi giải trí công cộng . c. Đối với doanh nghiệp: Doanh nghiệp hoặc cá nhân làm kinh doanh thường mua bảo hiểm nhân thọ với một trong hai lý do sau: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cá nhân có thể đảm bảo trả một khoản tiền để công việc kinh doanh vẫn tiếp tục trong trường hợp tử vong của chủ doanh nghiệp, đối tác hoặc những người chủ chốt. Một doanh nghiệp có thể mua bảo hiểm nhân thọ để đảm bảo một số chế độ đãi ngộ cho người làm công. Điều đó có nghĩa là bất cứ một doanh nghiệp tư nhân hay các công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn đều có thể duy trì hoạt động kinh doanh của mình nếu người chủ doanh nghiệp hoặc nhân vật chủ chốt bị tử vong. Nếu người chủ doanh nghiệp chết cổ phần của anh ta trong doanh nghiệp sẽ trở thành một phần tài sản thừa kế của anh ta và tài sản phải trả được dùng để trả các khoản nợ - kể cả nợ kinh doanh . Nếu không đủ tiền trả nợ người thực hiện di chúc bị buộc phải bán doanh nghiệp với khoản lỗ lớn để có được số tiền cần thiết trả các khoản nợ. Đồng thời chỉ định một nhân viên có năng lực tiếp tục kinh doanh. Thêm vào đó, người chủ sở hữu cho phép bán tài sản của anh ta cho doanh nghiệp theo điều khoản hợp đồng mua bán nếu thành viên kia không đủ tiền mua doanh nghiệp thì hoạt động bảo hiểm nhân thọ là cách phổ biến nhất đề cấp vốn cho hoạt động này. Nhân viên mua hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của chủ sở hữu doanh nghiệp vừa là chủ hợp đồng vừa là người trả phí bảo hiểm và là người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm đủ để người đó mua doanh nghiệp. Bảo hiểm nhân thọ thể hiện ở việc bảo hiểm tính mạng con người. Do đó khi chủ doanh nghiệp tham gia bảo hiểm nhân thọ thì sẽ đảm bảo cho quá trình kinh doanh của công ty và cái chết của người này có thể gây thiệt hại về tài sản của công ty. Không chỉ có thế, bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo lập nên mối quan hệ vững chắc giữa chủ doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên trong công ty thông qua chế độ đãi ngộ. Với việc doanh nghiệp tham gia bảo hiểm nhân thọ cho các nhân viên, doanh nghiệp đã góp phần ổn định đời sống cho người lao động nếu không may họ gặp rủi ro. 3. Đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ a. Tính đa mục đích của bảo hiểm nhân thọ: Đối với các loại bảo hiểm khác, người mua bảo hiểm chỉ có một mục đích là khi xảy ra rủi ro được trả một số tiền đủ để thanh toán các chi phí phát sinh. Trong bảo hiểm nhân thọ, người tham gia trông mong nhiều hơn và thực sự bảo hiểm nhân thọ mang tính đa mục đích hơn, thể hiện ở: Thứ nhất, bảo hiểm nhân thọ tạo ra một khoản tiền đáng kể giúp người được bảo hiểm thực hiện được các ý định, công việc của mình. Thứ hai, khi người được bảo hiểm đóng vai trò là người trụ cột trong gia đình không may tử vong, số tiền bảo hiểm lúc này là khoản thu nhập quí giá giúp gia đình người được bảo hiểm trang trải các chi phí cần thiết. Thứ ba, trong một giới hạn nhất định, hợp đồng bảo hiểm trong thời hạn hiệu lực được coi như một Tài sản thế chấp để người được bảo hiểm vay tiền của ngân hàng. Thứ tư, bảo hiểm nhân thọ đảm bảo được cuộc sống cho chính người được bảo hiểm lúc tuổi già hay không may bị tàn tật. b. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm hai sự kiện trái ngược nhau trong cùng một hợp đồng: 10
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 Đó là hai sự kiện sống và chết. Trong bất kỳ một loại hình bảo hiểm nào khác, sự kiện được bảo hiểm chỉ là một rủi ro gây thiệt hại cho người được bảo hiểm. Nếu như không có rủi ro xảy ra trong thời hạn bảo hiểm nhà bảo hiểm sẽ hết trách nhiệm với người được bảo hiểm. Nhưng trong bảo hiểm nhân thọ cụ thể trong loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, nhà bảo hiểm cam kết sẽ trả một số tiền nhất định nếu người được bảo hiểm bị chết trước một thời điểm nào đó đã được ghi trong hợp đồng hoặc nếu người được bảo hiểm còn sống đến hết thời hạn hợp đồng. Như vậy, việc trả tiền của nhà bảo hiểm là chắc chắn, nó chỉ còn tuỳ thuộc vào thời gian xảy ra rủi ro và thời hạn của hợp đồng bảo hiểm của người được bảo hiểm. Đây là một đặc trưng rõ nét nhất của bảo hiểm nhân thọ mà không một loại hình bảo hiểm nào khác có được. c. Vấn đề duy trì sức mua của đồng tiền trong bảo hiểm nhân thọ: Vì thời gian của hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ là dải nên người ta không thể không tính đến sức mua của đồng tiền. Trong thực tế, ở Việt nam có thời kỳ đồng tiền bị mất giá tới hơn 90% trong 10 năm. Giải quyết vấn đề này nhà bảo hiểm có thể áp dụng các phương pháp sau: - Thông qua cơ chế đánh giá lại bằng cách xác định được thời điểm tính được sự mất giá của đồng tiền. Điều này sẽ làm được nếu tính mức phí theo các năm. Đây là một công việc khá phức tạp, hiện nay bảo hiểm nhân thọ ở Việt nam tính theo mức phí cố định. - Thông qua các cam kết của đôi bên (giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm) không được biểu hiện bằng tiền. Nghĩa là số tiền bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm sẽ được biểu hiện qua các hình thức như: + Các ngoại tệ (đặc biệt là các ngoại tệ mạnh) có mức mất giá ít. Tuy nhiên điều này liên quan tới luật pháp của các nước khác nhau. + Vàng, chứng khoán có giá, nhà cửa... người ta hy vọng rằng giá trị của các loại này sẽ tăng, ít nhất cũng bù đắp được sự mất giá của đồng tiền. Ngoài các đặc trưng trên, một đặc trưng nữa của bảo hiểm nhân thọ đó là bảo hiểm nhân thọ chịu sự tác động giao thoa của hai nhân tố: Nhân tố tuổi thọ và nhân tố Tài chính. Cả hai nhân tố tuổi thọ và nhân tố Tài chính đều tác động đến quá trình tính phí bảo hiểm và việc đem đầu tư số phí thu được của công ty bảo hiểm nhân thọ. Trong các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, cần phải duy trì sự công bằng trung thực giữa nhà bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm. Điều này được thể hiện rõ qua việc định phí bảo hiểm đối với các rủi ro có độ trầm trọng tăng lên hoặc trong trường hợp rủi ro rất xấu. Ở trường hợp thứ nhất phải tăng phí, hoặc trong trường hợp thứ hai thì phí phải rất cao. Đó là điều quan trọng đối với người làm bảo hiểm. Trong bảo hiểm tử kỳ thuần tuý, để đảm bảo sự công bằng, người tham gia bảo hiểm không được phép thu về những khoản tiền tiết kiệm tích luỹ được khi họ bị tử vong hay sắp bị tử vong. Trên đây là những đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ, thể hiện sự khác biệt giữa các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ với các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ trong hệ thống bảo hiểm. III . CÁC LOẠI HÌNH BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC TRONG BẢO HIỂM NHÂN THỌ Như trên đã nêu, bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ mang ý nghĩa kinh tế - xã hội sâu sắc . Trong đó, người tham gia bảo hiểm sẽ định kì 11
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 đóng những khoản phí trong một thời gian thoả thuận trước vào một quỹ lớn do công ty bảo hiểm quản lívà công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một khoản tiền khi kết thúc thời hạn hợp đồng bảo hiểm hoặc khi có sự kiện rủi ro xảy ra cho người được bảo hiểm hoặc cho người thừa kế hợp pháp . Do đó bảo hiểm nhân thọ được hiểu như một sự đảm bảo , một hình thức tiết kiệm và mang tính chất tương hỗ .Bảo hiểm nhân thọ trên một phương diện nào đó còn mang tính chất bổ sung cho bảo hiểm xã hội khi đời sống của nhân dân đưọc nâng cao mà chế độ bảo hiểm xã hội chưa đáp ứng được . 1 . Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản đang được triển khai Hiện nay , hầu hết các công ty bảo hiểm nhân thọ ở các nước trên thế giới đang triển khai 4 loại hình bảo hiểm nhân thọ sau : a. Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn bao gồm các loại hình bảo hiểm trong đó tiền bảo hiểm chỉ được trả khi người được bảo hiểm bị chết trong thời hạn bảo hiểm. b. Bảo hiểm trọn đời Bảo hiểm trọn đời là loại hình bảo hiểm nhân thọ mà thời gian bảo hiểm không xác định và số tiền bảo hiểm được chi trả cho người thừa kế khi người được bảo hiểm chết. Người được bảo hiểm sẽ đóng phí ngay từ khi ký hợp đồng cho đến khi chết hoặc đến một độ tuổi nhất định c. Bảo hiểm trợ cấp hưu trí Đây là loại hình bảo hiểm đóng phí ngay một lần và công ty bảo hiểm nhân thọ có trách nhiệm trả trợ cấp định kì cho người được bảo hiểm đến khi chết . Người mua bảo hiểm thường kết hợp dạng bảo hiểm này với dạng bảo hiểm hưu trí . Nghĩa là khi về hưu , người được bảo hiểm được số tiền khá lớn của hợp đồng bảo hiểm hưu trí và mua ngay hợp đồng trợ cấp hưu trí để đảm bảo cuộc sống ngay sau khi về hưu cho đến lúc chết . d. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm . Số tiền bảo hiểm sẽ được trả khi người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến hết hạn hợp đồng . Thời hạn bảo hiểm được xác định trước . Riêng loại hình này cũng rất phong phú,đa dạng như “ Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn , chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành ( An sinh giáo dục ) , bảo hiểm hưu trí , bảo hiểm cưới xin . Ngoài ra còn có các hợp đồng bảo hiểm mang tính chất đầu tư , trong đó số tiền trả khi hết hạn hợp đồng, phụ thuộc vào lĩnh vực và hiệu quả mang lại do đầu tư phí bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn . Tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính khác nhau của bản thân , mỗi người đều có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm bảo hiểm nhân thọ sao cho phù hợp với mục đích của mình . 12
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 2 . Giới thiệu hai loại hình bảo hiểm nhân thọ đầu tiên đươc Bảo Việt triển khai ở Việt Nam ( theo quyết định số 296 / TC / TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài chính ). a. Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm hoặc 10 năm . - Khi hết hạn hợp đồng , nếu người được bảo hiểm còn sống sẽ được nhận số tiền đã đóng khi kí hợp đồng . - Nếu người được bảo hiểm chết trước khi hợp đồng hết hạn , Bảo Việt sẽ trả số tiền đã chọn khi kí hợp đồng cho người thừa kế hợp pháp của người được bảo hiểm . Nếu khi qua đời ( không phải do tai nạn ) hợp đồng chưa đủ 1 năm thì Bảo Vệt Nhân Thọ sẽ hoàn lại 80 % số phí bảo hiểm đã nộp . - Nếu người được bảo hiểm bị thưong tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn , Bảo Việt Nhân Thọ sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm, đồng thời ngừng thu phí nhưng hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực và bảo đảm đầy đủ các quyền lợ bảo hiểm . - Ngoài số tiền bảo hiểm , tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty sẽ trả cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh của Bảo Việt tại nghiệp vụ này vào ngày kết thúc hợp đồng bảo hiểm . - Trong thời hạn bảo hiểm hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên , nếu người tham gia bảo hiểm gặp khó khăn về tài chính thì có thể yêu cầu huỷ bỏ hợp đồngvà nhận được số tiền gọi là giá trị hoàn lại hoặc duy trì miễn phí với số tiền bảo hiểm giảm . b. Chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành ( chương trình An sinh giáo dục ) . - Khi trẻ em đến tuổi trưởng thành ( năm 18 tuổi ) Bảo Việt Nhân Thọ sẽ trả số tiền đã cam kết trong hợp đồng . - Nếu trẻ em không may bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, Bảo Việt ngừng thu phí và trả trợ cấp mỗi năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cho đến năm trẻ em tròn 18 tuổi . - Nếu trẻ em không may bị chết , Bảo Việt Nhân Thọ sẽ hoàn trả 80 % số phí đã nộp . - Nếu người tham gia bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn , công ty sẽ ngừng thu phí bảo hiểm và hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực . - Ngoài số tiền bảo hiểm , tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo hiểm sẽ trả cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh tại nghiệp vụ này vào ngày kết thúc hợp đồng . - Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên , người tham gia bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền gọi là giá trị hoàn lại . Cả hai loaị hình này đều thuộc nhóm bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp nên thể hiện rất rõ nét tính kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm . Như vậy, nội dung của bảo hiểm nhân thọ rất rộng, rất đa dạng, phong phú. Vì thế, nội dung chính của đề tài này chỉ giới hạn ở chương trình An Sinh Giáo Dục 13
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 PHẦN II NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ AN SINH GIÁO DỤC TRONG HỆ THỐNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ I . Ý NGHĨA CỦA CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC . Chương trình An sinh giáo dục là bảo đảm cho trẻ em tới tuổi trưởng thành. Chương trình này là một loại hình thuộc bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp nên nó mang tất cả các ý nghĩa , vai trò của bảo hiểm nhân thọ, ngoài ra nó còn mang một số đặc trưng khác như: - An sinh giáo dục : một giải pháp đầu tư cho tương lai , giúp con nhà nghèo có thể học đại học . Hiện nay có nhiều sinh viên phải bỏ dở việc học đại học , mà một trong những nguyên nhân là do chi phí phải nộp cùng các khoản đóng góp quá cao . Chi phí cho học hành trở thành vấn đề bức xúc đối với toàn xã hội cũng như các bậc phụ huynh mà phần lớn họ có mức thu nhập thấp . Nhà nước chủ trương không bao cấp mà thu học phí của sinh viên là thể hiện phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong giáo dục . Đối với sinh viên việc học để tiếp thu kiến thức đã là một công việc gay go , vất vả nhưng lo sao cho có đủ tiền nộp học phí là chuyện rất khó khăn . Làm sao để con em mình có tiền đi học đại học ? Vậy giải pháp có tính khả thi và phù hợp với tất cả mọi người hiện nay là gì ? Đó là An sinh giáo dục . An sinh giáo dục giúp cho mọi người thực hiện được mong ước cho tương lai và đảm bảo quyền lợi cho chính con cái và gia đình . - An sinh giáo dục mang ý nghĩa nhân văn, giáo dục sâu sắc Là một loại hình của bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, nên người tham gia chương trình An sinh giáo dục chắc chắn sẽ nhận được số tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù rủi ro không xảy ra . Tuy nhiên, nó lại thể hiện tính nhân văn cao cả mà các loại hình bảo hiểm khác không thể hiện được. Có thể cùng nhận một khoản tiền như bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm , 10 năm nhưng nó mang một ý nghĩa to lớn hơn rât nhiều. Trong một xã hội nói chung và một gia đình nói riêng, các thế hệ đi trước thường có mối quan tâm đặc biệt đối với các thế hệ đi sau và chương trình An sinh giáo dục đã thể hiện rõ sự quan tâm đặc biệt đó . Nó thể hiện sự chăm lo sâu sắc của ông bà , cha mẹ đối với con cháu và ngược lại , nó làm cho thế hệ trẻ chúng ta biết sống vì người khác, hiểu rõ hơn sự quan tâm của ông bà , cha mẹ để phấn đấu hơn trong học tập và rèn luyện . - An sinh giáo dục còn góp phần tạo nên một phong cách , tập quán và lối sống mới . Người tham gia bảo hiểm có thể bảo hiểm , tạo quyền lợi cho chính mình và con cháu mình . Điều đó thể hiện một nét sống đẹp là biết chăm lo cho con cái và biết tự lo cho chính bản thân . Cha mẹ tham gia chương trình An sinh giáo dục là một cách để giáo dục con cái mình và sống có trách nhiệm với người khác . - Tham gia chương trình An sinh giáo dục là góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội . Vì “ Trẻ em hôm nay , thế giới ngày mai “ nên đầu tư cho giáo dục phải được coi là một trong những nhân tố then chốt cho sự phát triển , nó làm cho sự tiến bộ xã hội không ngừng được nâng cao . An sinh giáo dục là một trong những giải pháp huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho giáo dục từ việc tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch của mỗi gia đình . Đây là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội . Bảo đảm tương lai cho con em mình, cũng nên được coi là trách nhiệm của mỗi gia đình - tế bào của xã hội với chức năng cơ bản tạo ra thế hệ kế cận ưu tú hơn. - An sinh giáo dục là chưong trình bảo hiểm cho cả người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm . Đây là một đặc trưng của bảo hiểm trẻ em vì khi ông ba, cha mẹ tham gia chương trình An sinh giao dục cho con em mình thì đồng thời cũng bảo hiểm cho bản thân mình.Đó là quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm. * Một số điểm khác nhau giữa bảo hiểm trẻ em ( An sinh giáo dục) và bảo hiểm học sinh : - Thời hạn bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm trẻ em dài hơn ( có thời hạn từ 5 đến 17 năm ) , còn bảo hiểm học sinh có thời hạn từng năm . 14
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 - Phạm vi của hợp đồng An sinh giáo dục hẹp hơn : sự kiện bảo hiểm chỉ có các trường hợp là chết và thương tật toàn bộ vĩnh viễn, còn bảo hiểm học sinh có phạm vi bảo hiểm rộng hơn : chết , thương tật , ốm đau , nằm viện , giải phẫu ... - Trong hợp đồng An sinh giáo dục , người được bảo hiểm chắc chắn nhận được số tiền bảo hiểm khi hết hạn hợp đồng , còn với bảo hiểm học sinh thì số tiền bảo hiểm chỉ nhận được khi có sự kiện được bảo hiểm xảy ra . Trường hợp bảo hiểm học sinh,khi hết hạn hợp đồng mà không gặp rủi ro thì người được bảo hiểm sẽ không nhận lại được khoản gì . Đây là điểm khác biệt rõ nhất giữa An sinh giáo dục và bảo hiểm học sinh và với tất cả các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ khác . -Độ tuổi tham gia của chương trình An Sinh Giáo Dục khác với bảo hiểm toàn diện học sinh II . NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM TRẺ EM ( ASGD ) . A . Hợp đồng bảo hiểm Giấy yêu cầu bảo hiểm , điều khoản và các phụ lục là những bộ phận cơ bản của hợp đồng bảo hiểm . 1 . Giấy yêu cầu bảo hiểm Khái niệm : là thể hiện ý nguyện được bảo hiểm , là bằng chứng của người tham gia bảo hiểm và người mua bảo hiểm . Nội dung của giấy yêu cầu : giấy yêu cầu là một ophần quan trọng của hợp đồng bảo hiểm . Người yêu cầu bảo hiểm phải kê khai trung thực mọi chi tiết về bản thân : tên , tuổi , giới tính , chỗ ở , sở thích ; về tình trạng sức khoẻ : về điều kiện bảo hiểm mà minh lựa chọn theo mẫu đã in sẵn . Trên cơ sở giấy yêu cầu bảo hiểm , công ty bảo hiểm sẽ xem xét có nhận bảo hiểm hay không . Nếu đồng ý chấp nhận bảo hiểm , công ty sẽ đưa ra một mức phí phù hợp . Sau khi nhận được số phí đầu tiên , công ty sẽ phát hành hợp đồng bao gồm điều khoản và các phụ lục . Một bản gửi lại cho khách hàng , một bản giữ lại ở công ty cùng với giấy yêu cầu bảo hiểm. 2 . Các khái niệm chung . 2.1. Người tham gia bảo hiểm : Là công dân Việt Nam trong độ tuổi từ 18 đến 60 , là người kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm , đồng thời là người kí hợp đồng và nộp phí bảo hiểm . Tên người tham gia bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm , là người mà sinh mạng và cuộc sống và sinh mạng của họ được bảo hiểm theo các điều kiện của hợp đồng bảo hiểm . 2.2. Người được bảo hiểm : Trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 1 đến 13 ( tính đến thời diểm gửi giấy yêu cầu bảo hiểm ) . Tên người được bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm . 2.3.Tai nạn Trong bảo hiểm nhân thọ quy ước “ Tai nạn là bất cứ thiệt hại thân thể nào do hậu quả duy nhất và trực tiếp của một lực mạnh , bất ngờ từ bên ngoài tác động lên thân thể người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm , loại trừ ốm đau hoặc bệnh tật hoặc bất kì trạng thái nào xảy ra tự nhiên hoặc quá trình thoái hoá “ . Như vậy những thương tật xảy ra do ngộ độc thức ăn , cảm , trúng gió bất ngờ đối với người bảo hiểm nhưng không được coi là tai nạn bảo hiểm . 2.4.Thương tật toàn bộ vĩnh viễn . Là khi người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị mất hoàn toàn hoặc không thể phục hồi được chức năng của : - Hai tay hoặc hai chân hoặc . . . - Một tay , một chân hoặc hai mắt hoặc . . . - Một tay , một mắt hoặc . . . - Một chân , một mắt hoặc . . . 2.5. Giá trị giải ước ( hay giá trị hoàn lại ) : 15
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 Là số tiền mà người tham gia bảo hiểm có thể nhận lại khi yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực . Hợp đồng bảo hiểm có giá trị giải ước khi có hiệu lực từ 2 năm trở nên . Giá trị giải ước ứng với mỗi năm hợp đồngvào ngày kỉ niệm của hợp đồng bảo hiểm ( là ngày kỉ niệm hàng năm của hợp đồng bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực trong thời hạn bảo hiểm ) . Giá trị giải ước luôn nhỏ hơn tổng số phí mà người tham gia bảo hiểm đã đóng góp với công ty bảo hiểm , nó chiếm khoảng 70 đến 80 % số phí bảo hiểm đã đóng , vì người tham gia bảo hiểm phải thanh toáncho công ty những khoản chi phí đã thực hiện hợp đồng như chi phí phát hành và quản lí hợp đồng , chi phí khai thác... Tỷ lệ giải ước trên số phí đã đóng càng cao thì càng thu hút , hấp dẫn đối với khách hàng và do đó cũng là nhân tố tác động đến quyết định tham gia bảo hiểm nhân thọ hay không . 2.6.Số tiền bảo hiểm giảm Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở lên . Người tham gia bảo hiểm có thể ngừng đóng phí và tiếp tục duy trì hợp đồng bảo hiểm này với số tiền bảo hiểm mới gọi là số tiền bảo hiểm bị giảm . Điều này giúp người tham gia bảo hiểm vẫn tiếp tục tham gia bảo hiểm nhân thọ trong những lúc gặp khó khăn , đây là sự linh động của bảo hiểm nhân thọ ứng với mỗi điều kiện khác nhau . 2.7.Phạm vi bảo hiểm : Do đây là loại hình bảo hiểm nhân thọ nên phạm vi bảo hiểm ( rủi ro ) phải gắn liền với cuộc sống của con người . Do vậy ta phải phân ra : - Rủi ro được bảo hiểm ( sự kiện được bảo hiểm ) + Rủi ro còn sống : người được bảo hiểm sống đến hết hạn hợp đồng bảo hiểm . + Rủi ro tử vong : đây là rủi ro có thể phát sinh do 2 nguyên nhân : chết do tai nạn hoặc chết cho bệnh tật . Bên cạnh những rủi ro được bảo hiểm , trong bảo hiểm nhân thọ còn có quy định về rủi ro loại trừ . Việc đưa ra các rủi ro nhằm hạn chế phạm vi trách nhiệm của nhà bảo hiểm , mặt khác gián tiếp giáo dục mọi người về ý thức tổ chức kỉ luật , tôn trọng pháp luật , có ý thức đề phòng và hạn chế rủi ro . - Rủi ro loại trừ xảy ra do mật số nguyên nhân sau : + Hành động cố ý của người được bảo hiểm , người tham gia bảo hiểm hoặc người được thừa kế . + Hành động vi phạm pháp luật của người được bảo hiểm , người tham gia bảo hiểm . + Người tham gia bảo hiểm bị ảnh hưởng nghiêm trọng của rượu , bia , ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự . + Do động đất , núi lửa v .v . . . + Do chiến tranh , bạo động v.v . . . 3 . Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm a . Trách nhiệm của các bên . * Trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm ; - Kí hợp đồng bảo hiểm : người tham gia trực tiếp kí hợp đồng bảo hiểm , cùng công ty bảo hiểm thoả thuận cam kết thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp đồng . - Trách nhiệm khai báo rủi ro : Ngay khi kí hợp đồng bảo hiểm , người tham gia hợp đồng bảo hiểm có trách nhiệm kê khai trung thực những yêu cầu của công ty bảo hiểm ( kê khai tình trạng sức khoẻ ). - Trách nhiệm đóng phí bảo hiểm : đây là số tiền mà họ phải đóng cho công ty bảo hiểm , theo quy định nộp phí của công ty khoản phí đóng đầu tiên sẽ là cơ sởthời điểm bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng . Người tham gia baỏ hiểm phải đóng đầy đủ phí theo quy định và đúng hạn . - Trách nhiệm khai báo , thông báo tổn thất : khi có sự cố rủi ro xảy ra , người tham gia bảo hiểm phải khai báo cụ thể tình hình xảy ra sự cố tổn thất , tình trạng sức khoẻ của người được bảo hiểm cho công ty bảo hiểm biết . Bên cạnh đó phải cung cấp đầy đủ hồ sơ cho công ty một cách trung thực , chính xác để công ty căn cứ trả tiền bảo hiểm . Tạo điều kiện để công ty giám định tình trạng sức khoẻ . * Trách nhiệm của công ty bảo hiểm : - Kí kết hợp đồng chấp nhận người tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm. - Đề phòng , hạn chế tổn thất xảy ra trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực . - Thu phí và có trách nhiệm nộp cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền gọi là thuế như đối với các doanh nghiệp khác . - Bảo toàn đồng vốn và chấp hành đúng pháp luật . b . Quyền lợi bảo hiểm 16
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 1) Đến năm người được bảo hiểm tròn 18 tuổi , khi hợp đồng bảo hiểm hết hạn , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ trả cho người được bảo hiểm số tiền bảo hiểm đã cam kết và được ghi trong hợp đồng bảo hiểm . 2) Trường hợp ngưòi được bảo hiểm bị chểttước ngày hợp đồng bảo hiểm hết hạn , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ hoàn trả 100% số phí đã nộp . Tại sao khi rủi ro xảy ra đối với ngưòi được bảo hiểm thì công ty chỉ hoàn trả 100% số phí đã nộp mà không phải là số tiền bảo hiểm ? Vì khi người tham gia bảo hiểm nhân thọ kí kết hợp đồng với mục đíchlà đảm bảo cho con em mình tới tuổi trưởng thành . Do vậy khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bị chết thì ý nghĩa của chương trình này không còn nữa , nên công ty bảo hiểm chỉ hoàn trả 100% số phí đã nộp . 3) Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị chết 3.1. Do tai nạn xảy ra sau 01 ngàykể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ ngừng thu phí bảo hiểm từ kì thu phí bảo hiểm tiếp theo ngay sau ngày xảy r tai nạn và hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo hiểm . Trường hợp tai nạn xảy ra trước thời gian 1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực , công ty bảo hiểm sẽ hoàn trả 80% số phí bảo hiểm đã nộp cho người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm và hợp đồng này bị huỷ bỏ . 3.2.Do các nguyên nhân khác ( trừ trường hợp tự tử và nhiễm virut HIV ) . Khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực chưa đủ 1 năm , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ hoàn trả cho người thừa kế hợp pháp của người tham gia bảo hiểm 80% số phí bảo hiểm đã nộp và hợp đồng bảo hiểm này sẽ bị phá bỏ . Khi hợp đồng bảo hiểm này có hiệu lực từ một năm trở lên , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ ngừng thu phí bảo hiểm tiếp sau ngay sau ngày xảy ra tai nạn và hợp đồng vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ các quyền lợi bảo hiểm . 3.3.Do nguyên nhân tự tử hoặc do nhiễm virut HIV . Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên , công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ ngừng thu phí bảo hiểm kể từ ngày đến kì thu phí tiếp theo ngay sau ngày xảy ra tai nạn và hợp đồng vãn tiếp tục duy trì với đày đủ quyền lợi bảo hiểm . 4) Trong trường hợp người được bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn . Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn ( tai nạn được bảo hiểm ) thì sẽ được hưởng quyền lợi như phần 3.1 trên, nghĩa là : Tai nạn xảy ra sau một ngày hợp đồng có hiệu lực thì công ty sẽ ngừng thu phí và hợp đồng bảo hiểm vẫn tiếp tục duy trì với đầy đủ quyền lợi bảo hiểm. Tai nạn xảy ra trước một ngày hợp đồng có hiệu lực thì hợp đồng này sẽ bị xoá bỏ và công ty sẽ hoàn trả 80% số phí đã nộp cho người thừa kế hợp pháp. Trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn xảy ra sau 1 ngày kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực , công ty bảo hiểm nhân thọ trả cho người được bảo hiểm số tiền trợ cấp hàng năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cam kết cho đến ngày hợp đồng bảo hiểm đáo hạn . Trường hợp tai nạn xảy ra trước một ngày nói trên , công ty bảo hiểm nhân thọ hoàn trả 80% số phí đã nộp cho người tham gia bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm này sẽ bị huỷ bỏ . Ngoài các quyền lợi nói trên và khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên , công ty bảo hiểm còn có thể trả một khoản tiền lãi từ kết quả đầu tư phí bảo hiểm nhân thọ của công ty cho người tham gia bảo hiểm vào ngày kỉ niệm của hợp đồng bảo hiểm hoặc khi thanh toán giá trị giải ước hoặc vào ngày thanh toán tiền bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm bị chết và trả cho người được bảo hiểm vào ngày đáo hạn của hợp đồng . 4 . Thủ tục bảo hiểm 4.1. Khi yêu cầu bảo hiểm , người tham gia bảo hiểm phải điền đầy đủ , trung thực vào giấy yêu cầu bảo hiểm , xuất trình giấy khai sinh của người được bảo hiểm và giấy khai sinh hoặc chứng minh thư hay hộ khẩu của người tham gia bảo hiểm cho công ty bảo hiểm nhân thọ. 4.2. Khi hợp đồng đã có hiệu lực từ 2 năm trở lên , người tham gia bảo hiểm không tiếp tục nộp phí bảo hiểm nhưng vẫn muốn duy trì hợp đồng thì phải thông báo bằng văn bản cho công ty bảo hiểm nhân thọ trước kỳ nộp phí tiếp theo 15 ngày,và công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ thông báo bằng văn bản cho người tham gia bảo hiểm biết về số tiền bảo hiểm giảm tại 17
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 thời điểm dừng đóng phí trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của người tham gia bảo hiểm. 4.3. Trong thời gian 14 ngày kể từ ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên, người tham gia BH có quyền từ chối không tiếp tực tham gia bảo hiểm. Trong trường hợp này người tham gia bảo hiểm được nhận 100% số phí đã nộp. 4.4. Huỷ bỏ và thay đổi hợp đồng bảo hiểm: a) Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực công ty bảo hiểm nhân thọ không có quyền huỷ bỏ hay thay đổi các điều khoản, điều kiện của hợp đồng này trừ khi đã có thoả thuận khác nhau giữa công ty bảo hiểm nhân thọ và người tham gia bảo hiểm b) Trường hợp người tham gia bảo hiểm có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm - Khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ hai năm, công ty bảo hiểm nhân thọ không hoàn trả lại số phí đã nộp cho người tham gia bảo hiểm. - Khi hợp đồng có hiệu lực từ hai năm trở lên, công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ thanh toán cho người tham gia bảo hiểm giá trị giải ước tính đến thời điểm, nhận được yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng và khoản tiền lãi của hợp đồng này từ kết quả đầu tư phí bảo hiểm nhân thọ của công ty. B. Phí và số tiền bảo hiểm 1. Phí bảo hiểm và nguyên tắc tính phí Cũng như tất cả các loại hình bảo hiểm , phí bảo hiểm là cơ sở để xây dựng quĩ bảo hiểm để chi trả cho người được bảo hiểm và các khoản phụ phí. Phí bảo hiểm là số tiền cần phải thu của công ty bảo hiểm để công ty bảo hiểm đảm bảo trách nhiệm của mình khi có các sự kiện bảo hiểm được xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm như: chết, hết hạn hợp đồng, thương tật và đảm bảo cho việc hoạt động của công ty. Đây cũng là sự thể hiện trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm với công ty bảo hiểm nhằm nhận được sự bảo đảm trước những rủi ro đã được nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm. Phí bảo hiểm có thể nộp một lần ngay sau khi ký hợp đồng hoặc có thể nộp định kỳ trong năm. Phí nộp một lần sẽ phải đóng góp ít hơn so với tổng số chi phí đóng góp hàng kỳ do hiệu quả đầu tư của việc đóng phí một lần cao hơn và chi phí quản lý thấp hơn. Nguyên tắc tính phí được dựa trên biểu thức cân bằng giữa trách nhiệm của công ty bảo hiểm và trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm tính theo giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng. Trách nhiệm của người được bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng bằng trách nhiệm của công ty bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng Phí bảo hiểm gồm hai phần: phí thuần và phụ phí. + Phí thuần là những khoản phí dùng để chi trả cho người được bảo hiểm. + Phụ phí gồm: - Chi phí khai thác chi cho tuyên truyền, quảng cáo, môi giới, chi cho đại lý... - Chi phí quản lý hợp đồng trong thời hạn hợp đồng đang thu phí, kể cả chi phí thu phí BH ... - Chi phí quản lý liên quan đến các khoản chi trả bồi thường. 18
- Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37 Cách xác định phí: a. Phí thuần: Có rất nhiều yếu tố tác động lên phí nhưng cơ bản vẫn là: - Tuổi thọ của người được bảo hiểm cụ thể là bảng tỉ lệ tử vong. - Lãi xuất kỹ thuật: lãi xuất tiền gửi tính trong cơ sở tính phí. Ngoài ra, còn có các nhân tố khác tác động như thời hạn bảo hiểm , số tiền bảo hiểm, cách thức nộp phí, tỉ lệ huỷ bỏ hợp đồng trước thời hạn. Qua bảng tỉ lệ tử vong ta có thể đưa ra số lượng những người còn sống (lx+n) ở lứa tuổi x sau n năm. Từ đây có thể tính được xác suất sống và xác suất tử vong của một người ở độ tuổi x sau n năm. Tuổi Số người Số người chết Tỷ lệ chết (x) sống (dx) (1000.qx) (lx) Lãi xuất kỹ thuật: nhà bảo hiểm phải có trách nhiệm đầu tư cac khoản phí để đưa ra một phần lãi làm giảm mức phí đóng của người tham gia. Mức lãi này càng cao thì càng phải kích thích được số lượng người tham gia. Do vậy nhà bảo hiểm phải đưa vào lãi suất tiền gửi để tính phí. Trước khi tính phí ta cần hiểu một số khái niệm sau: x: tuổi của người được bảo hiểm khi bắt đầu được nhận bảo hiểm. lx: số người sống l(x+n): số ngưòi được bảo hiểm sống sau n năm hợp đồng. d(x+k): số người được bảo hiểm chết trong năm hợp đồng k. n: thời hạn hợp đồng. v: thừa số chiết khấu v=1/1+i. T(x+k): số người được bảo hiểm bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn trong năm hợp đồng k. C: số tiền bảo hiểm. p: phí thuần. p”: phí toàn phần. Do bảo hiểm nhân thọ gồm nhiều trường hợp được trả số tiền bảo hiểm. Do vậy phải xác định phí bảo hiểm cho từng trường hợp. + Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi hết hợp đồng: lx + n n P1 = C v lx + Phí thuần cho trách nhiệm bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết trước khi hết hạn hợp đồng: n −1 dx + k v k +1 / 2 P2 = ∑ kP v k =0 lx 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài “ Tình hình huy động vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam ”
39 p | 459 | 157
-
Đề tài "Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Bảo Minh Hà Nội trong thời gian qua"
57 p | 164 | 61
-
Đề tài: Tình hình phát triển kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nguồn nhân lực
23 p | 199 | 59
-
Đề tài cấp cơ sở: Nghiên cứu vận dụng phương pháp tính khối lượng khí thải gây ô nhiễm hàng năm vào môi trường không khí
105 p | 316 | 56
-
LUẬN VĂN: Tìm hiểu tình hình triển khai hoạt động xây dựng nông thôn mới taị xã Hợp Đồng huyện Chương Mỹ TP Hà Nội
52 p | 172 | 49
-
Đề tài " “Tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu tại Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) (2000-2006)”
90 p | 129 | 48
-
Báo cáo thực tập tốt nghiệp: Tìm hiểu về ADSL và tình hình triển khai ADSL tại FPT Thái Nguyên
63 p | 197 | 48
-
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp: “Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt tại BIC”
118 p | 266 | 32
-
LUẬN VĂN: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Minh Hà Nội
79 p | 158 | 31
-
Báo cáo tổng kết dự án: Xây dựng Mô hình sản xuất bông năng suất cao và sơ chế bảo quản bông hàng hóa tại 3 xã dân tộc miền núi: Yên Hưng, Chiềng Sơ; Nậm Tỵ, huyện Sông mã, tỉnh Sơn La
32 p | 173 | 20
-
Đề tài: Lý thuyết tài chính tiền tệ
44 p | 118 | 16
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngân hàng: Tình hình triển khai sản phẩm Bảo an tín dụng tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp
10 p | 58 | 8
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu triển khai kỹ thuật chế tạo vào các chuyên ngành cơ khí
57 p | 11 | 8
-
Báo cáo: Tình hình triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên và môi trường
11 p | 104 | 7
-
Báo cáo tóm tắt đề tài khoa học và công nghệ: Nghiên cứu định hướng xây dựng các tiêu chuẩn phục vụ thiết lập, triển khai mạng di động công nghệ LTE tại Việt Nam
19 p | 91 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu mô hình triển khai mạng di động ảo tại Việt Nam
64 p | 31 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu mô hình triển khai mạng di động ảo tại Việt Nam
23 p | 18 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn