intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Di sản công nghiệp: Nhận diện giá trị di sản và định hướng bảo tồn, tái sử dụng thích ứng nhà máy xi măng Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên ở Huế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

4
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bài viết này, thông qua phương pháp tiếp cận các khái niệm liên quan đến “di sản công nghiệp” và “tái sử dụng thích ứng”, phương pháp phân tích và so sánh dựa vào các tư liệu cũ, không ảnh, ảnh VR360 và những hình ảnh thu thập được trong quá trình khảo sát thực địa, nhóm tác giả muốn nhìn nhận và nhận diện giá trị di sản của nhà máy xi măng Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên, đánh giá thực trạng công tác bảo tồn, ứng xử với di sản và đề xuất những định hướng nhằm bảo tồn và phát huy giá trị.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Di sản công nghiệp: Nhận diện giá trị di sản và định hướng bảo tồn, tái sử dụng thích ứng nhà máy xi măng Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên ở Huế

  1. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 23, Số 1 (2023) DI SẢN CÔNG NGHIỆP: NHẬN DIỆN GIÁ TRỊ DI SẢN VÀ ĐỊNH HƯỚNG BẢO TỒN, TÁI SỬ DỤNG THÍCH ỨNG NHÀ MÁY XI MĂNG LONG THỌ VÀ NHÀ MÁY NƯỚC VẠN NIÊN Ở HUẾ Bùi Thị Hiếu*, Nguyễn Quang Huy Khoa Kiến trúc, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế *Email: buihieu@husc.edu.vn Ngày nhận bài: 25/8/2023; ngày hoàn thành phản biện: 12/9/2023; ngày duyệt đăng: 4/12/2023 TÓM TẮT Nhà máy vôi thuỷ Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên được xây dựng dưới thời Pháp thuộc là những công trình công nghiệp có giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, kiến trúc…, đánh dấu bước ngoặc quan trọng trong thời kỳ phát triển công nghiệp sơ khai của Thành phố Huế. Trong bài báo này, thông qua phương pháp tiếp cận các khái niệm liên quan đến “di sản công nghiệp” và “tái sử dụng thích ứng”, phương pháp phân tích và so sánh dựa vào các tư liệu cũ, không ảnh, ảnh VR360 và những hình ảnh thu thập được trong quá trình khảo sát thực địa, nhóm tác giả muốn nhìn nhận và nhận diện giá trị di sản của nhà máy xi măng Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên, đánh giá thực trạng công tác bảo tồn, ứng xử với di sản và đề xuất những định hướng nhằm bảo tồn và phát huy giá trị. Từ khoá: Di sản công nghiệp, nhà máy xi măng Long Thọ, nhà máy nước Vạn Niên, tái sử dụng thích ứng. 1. MỞ ĐẦU Trên thế giới, rất nhiều các nhà máy công nghiệp mặc dầu không còn giá trị phục vụ sản xuất vì đã cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời nhưng vẫn được bảo tồn và phát huy giá trị trong đời sống đương đại, được tái tạo và có thể trở thành yếu tố phát triển công nghiệp văn hoá, công nghiệp sáng tạo, kinh tế du lịch…Một số ví dụ có thể kể đến như: bảo tàng nghệ thuật đương đại Tate Morderne (Anh) được tái thiết và chuyển đổi công năng từ một nhà máy điện cũ; bảo tàng lịch sử công nghiệp Nagasaki Shipyard Museum (Nhật) được hình thành từ bến tàu cảng công nghiệp cũ; khu phức hợp văn hóa Friche La Belle De Mai (Pháp) được tái thiết từ nhà máy thuốc lá…Những công trình công nghiệp này, được nhận diện, nhìn nhận với những giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, khoa học kỹ thuật, xã hội, qui hoạch, cảnh quan, kiến trúc…hay nói một cách khác, chúng được nhìn nhận là di sản – di sản công nghiệp với những giá trị vốn có và cần phải được bảo tồn và nâng 173
  2. Di sản công nghiệp: nhận diện giá trị di sản và định hướng bảo tồn, tái sử dụng thích ứng … cao giá trị để gìn giữ cho thế hệ hiện tại và truyền lại cho thế hệ mai sau. Hơn thế nữa, nhiều di sản công nghiệp trên thế giới đã được Unesco công nhận là di sản văn hoá thế giới như: Tổ hợp công nghiệp khai thác than Zollverein tại Essen được công nhận năm 2001; cảnh quan và cơ sở công nghiệp Agave Tequila ở Mexico được công nhận vào năm 2006… Ở Việt Nam chúng ta, khái niệm về di sản công nghiệp chỉ mới được đề cập trong những năm gần đây thông qua các diễn đàn, các hội thảo, các triển lãm tư liệu… liên quan đến việc tái thiết các nhà máy công nghiệp trong bối cảnh Hà Nội có rất nhiều các nhà máy cũ có giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, kiến trúc…nằm trong diện phải di dời khỏi nội đô. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị của những công trình này gặp vô vàng khó khăn và thách thức và đôi khi phải đánh đổi bằng sự phá dỡ, san phẳng vì khái niệm và chính sách bảo tồn liên quan đến di sản công nghiệp chưa có trong các văn bản pháp lý, văn bản luật. Ở Huế, nhà máy vôi thuỷ Long Thọ, nhà máy nước Vạn Niên được xây dựng dưới thời Pháp thuộc với tuổi đời hơn 100 năm tuổi, là những công trình công nghiệp tiên phong trong thời kỳ khởi điểm phát triển công nghiệp địa phương, là nhân chứng lịch sử của quá trình chuyển đổi, xây dựng và phát triển Thành phố Huế từ một đô thị cổ kính đến hiện đại. Hiện nay, nhà máy xi măng Long Thọ đã được di dời ra khỏi thành phố bởi những vấn nạn về ô nhiễm môi trường và ô nhiễm tiếng ồn ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống sinh hoạt của các hộ dân sống lân cận và hiện trạng công trình đang dần được hạ giải, san ủi. Nhà máy nước Vạn Niên thì vẫn còn hoạt động với chức năng của nó - cung cấp nguồn nước sạch an toàn cho người dân Thành phố Huế. Nhìn nhận được các giá trị quan trọng về mặt lịch sử, văn hoá, kiến trúc…, nhà máy nuớc Vạn Niên được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 4296/QĐ-UBND ngày 21/12/2005. Năm 2020, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành Quyết định số 1611/QĐ- UBND phê duyệt chủ trương đầu tư dự án “Nhà máy xử lý nước sạch Vạn Niên công suất 120.000m3 /ngđ” trong đó có di tích nhà máy nước Vạn Niên xây dựng năm 1909 sẽ được xây dựng thành bảo tàng nước đầu tiên tại Việt Nam. Nhìn nhận các giá trị về mặt di sản, nhận diện di sản công nghiệp đối với nhà máy nước Vạn Niên và nhà máy xi măng Long Thọ, đánh giá thực trạng và hiệu quả của công tác bảo tồn và đề xuất những định hướng nhằm bảo tồn, tái sử dụng thích ứng là rất cần thiết và cấp bách trong bối cảnh các thành phố đang có xu hướng phát triển đô thị bền vững, nền kinh tế sáng tạo trên nền tảng công nghiệp văn hoá, công nghiệp sáng tạo. 174
  3. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 23, Số 1 (2023) 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp khảo sát thực địa là phương pháp nghiên cứu chính. Chúng tôi đã thực hiện quan sát, chụp không ảnh, ảnh VR360, ảnh hiện trạng công trình, tiến hành số hoá và thực hiện các cuộc phỏng vấn cả trước và sau khi nhà máy xi măng Long Thọ được di dời và nhà máy nước Vạn Niên được nâng cấp, cải tạo nhằm thu thập hình ảnh, tư liệu, thông tin liên quan. Phương pháp sử dụng những tài liệu thứ cấp sẵn có ở trong nước và cả những tài liệu nước ngoài cũng rất quan trọng trong nghiên cứu này, giúp chúng tôi tiếp cận được với các khái niệm liên quan đến di sản công nghiệp và tái sử dụng thích ứng hiện vẫn còn rất mới mẻ ở Việt Nam, tiếp cận được những thông tin, những tư liệu, hình ảnh cũ liên quan đến các giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, kiến trúc, qui hoạch…của hai nhà máy xi măng Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên nhằm làm nền tảng cho việc nghiên cứu và trích dẫn tài liệu tham khảo. Đồng thời, chúng tôi cũng đã sử dụng phương pháp so sánh và đối chiếu dựa trên các hình ảnh, tư liệu cũ và ảnh hiện trạng nhằm làm rõ những vấn đề, đánh giá thực trạng công tác bảo tồn và đề xuất những định hướng nhằm tái sử dụng thích ứng. 3. NỘI DUNG 3.1. Khá niệm “Di sản công nghiệp” và “tái sử dụng thích ứng” các công trình di sản *Di sản công nghiệp ( từ tiếng Pháp là “patrimoine industriel” ), được TICCIH-Uỷ ban Quốc tế về Bảo tồn Di sản Công nghiệp định nghĩa trong “Charte Nizhny Tagil Pour Le Patrimoine Industriel”1 là: “ bao gồm các dấu tích của văn hóa công nghiệp có giá trị lịch sử, xã hội, kiến trúc hoặc khoa học. Những dấu tích này bao gồm: các tòa nhà và máy móc, xưởng, cối xay và nhà máy, mỏ và các địa điểm chế biến và lọc dầu, nhà kho và cửa hàng, trung tâm sản xuất, truyền tải và sử dụng năng lượng, kết cấu và cơ sở hạ tầng giao thông cũng như những địa điểm được sử dụng cho các hoạt động xã hội liên quan đến công nghiệp (nhà ở, nơi thờ cúng hoặc giáo dục)”[1]. Trong “Les principes de Dublin” - Nguyên tắc chung về Bảo tồn Di sản Công nghiệp, Cấu trúc, Khu vực và Cảnh quan, ICOMOS2 và TICCIH3 công bố năm 2011 cũng đã thống nhất về định nghĩa Di sản công nghiệp: “ Di sản công nghiệp bao gồm các địa điểm, công trình xây dựng, khu phức hợp, lãnh thổ và cảnh quan cũng như thiết bị, đồ vật hoặc tài liệu minh chứng cho các quy trình sản xuất công nghiệp cũ hoặc hiện tại thông qua khai 1Điều lệ Nizhny Tagil cho Di sản công nghiệp, được thiết lập bởi Ủy ban Quốc tế về Bảo tồn Di sản Công nghiệp tháng 07/2003 2 International Council on Monuments and Sites – Hội đồng di tích và di chỉ Quốc tế 3The International Committee for the Conservation of the Industrial Heritage -Uỷ ban Quốc tế về Bảo tồn Di sản công nghiệp 175
  4. Di sản công nghiệp: nhận diện giá trị di sản và định hướng bảo tồn, tái sử dụng thích ứng … thác và chuyển đổi nguyên liệu thô cũng như cơ sở hạ tầng năng lượng hoặc giao thông liên quan. Nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường văn hóa và tự nhiên do các quá trình công nghiệp - cổ đại hay hiện đại - đều phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, năng lượng và các tuyến giao thông để sản xuất và phân phối hàng hóa ra thị trường. Di sản này bao gồm cả các nhân tố phi vật thể như bí quyết kỹ thuật, tổ chức công việc và người lao động hoặc di sản phức hợp của các tập quán xã hội và văn hóa do ảnh hưởng của ngành công nghiệp đối với cuộc sống của cộng đồng và sự biến đổi của xã hội và thế giới nói chung” [2]. Giá trị của di sản công nghiệp, theo TICCH, là những giá trị về mặt lịch sử, xã hội, kiến trúc hoặc khoa học. Cụ thể là: di sản công nghiệp là minh chứng cho các hoạt động đã và vẫn còn những ảnh hưởng lịch sử sâu sắc. Những lý do để bảo vệ di sản công nghiệp dựa trên giá trị phổ quát của dấu vết này hơn là dựa trên tính độc nhất của các địa điểm đặc biệt. Di sản công nghiệp có giá trị xã hội làm sống lại cuộc sống của những người công nhân bình thường và mang lại cho họ ý thức quan trọng về bản sắc. Trong lịch sử công nghiệp, kỹ thuật, xây dựng, nó có giá trị khoa học và công nghệ. Nó cũng có thể có giá trị thẩm mỹ về chất lượng kiến trúc, thiết kế của các công trình [1]. * Tái sử dụng thích ứng các công trình di sản (từ tiếng Anh là “adaptive reuse of heritage buildings” và tiếng Pháp là “réutilisation adaptative du patrimoine”) là một quá trình của sự can thiệp nhất định vào công trình di sản nhằm bảo tồn các giá trị sẵn có của nó đồng thời điều chỉnh nó cho phù hợp và trao cho nó một cuộc sống mới, để nó có thể hoạt động theo một cách mới, đáp ứng với nhu cầu của hiện tại và của cả trong tương lai. “Các dự án tái sử dụng thích ứng di sản được xây dựng thành công nhất là những dự án tôn trọng và giữ lại ý nghĩa di sản của tòa nhà tốt nhất và thêm một lớp hiện đại cung cấp giá trị cho tương lai " [3]. Tái sử dụng thích ứng các tòa nhà di sản là một chiến lược để bảo tồn giá trị lịch sử và văn hóa của các cấu trúc cũ đồng thời mang lại cho chúng những chức năng và cách sử dụng mới. Đó có thể là một cách bền vững và sáng tạo để hồi sinh các công trình di sản đồng thời nâng cao bản sắc và sự đa dạng của khu vực đô thị. Hay nói một cách khác, tái sử dụng thích ứng là phương pháp bảo tồn, là một cách tiếp cận của bảo tồn theo hướng thích ứng nhằm gìn giữ, chuyển tiếp được các giá trị cũ và bổ sung các giá trị mới phù hợp, có tính sáng tạo đảm bảo cho di sản tồn tại được với cộng đồng, sống được với xã hội đương đại. “Tái sử dụng thích ứng được xem là một cánh tiếp cận của bảo tồn theo hướng Bảo tồn thích ứng cho phép sự thay đổi công năng mới của công trình hoặc có thể bổ sung/ mở rộng yếu tố mới để phù hợp và thích nghi với nhu cầu sử dụng mới” [4]. Như vậy, tái sử dụng thích ứng các công trình di sản không chỉ giúp bảo tồn các giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, kiến trúc…mà còn là cơ hội đem lại nhiều lợi ích về kinh tế, văn hoá, giáo dục, tạo hình ảnh, bản sắc đô thị thông qua việc tái thiết, chuyển đổi chức năng, chuyển đổi không gian thành các không gian sáng tạo, không gian công cộng, không gian văn hóa nghệ thuật... 176
  5. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 23, Số 1 (2023) 3.2. Nhận diện giá trị di sản nhà máy xi măng Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên Nhà máy xi măng Long Thọ, tiền thân là nhà máy vôi thuỷ Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên là hai công trình công nghiệp tiêu biểu được xây dựng dưới thời Pháp thuộc, là nhân chứng, là biểu tượng, là tiên phong cho thời kỳ văn minh công nghiệp ở Huế. Hai nhà máy này mang trong mình những giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, mỹ thuật, kiến trúc, cảnh quan... cần được nhìn nhận. * Giá trị lịch sử, văn hoá Theo những tư liệu được tìm thấy trong BAVH [5], trước hết, nhóm tác giả muốn nhìn nhận giá trị về mặt lịch sử, văn hoá liên quan đến việc chọn lựa vị trí xây dựng nhà máy vôi thuỷ Long Thọ trong thời Pháp thuộc có kế thừa vị trí mà vua Gia Long cho đặt nghề gốm sứ, nghề làm ngói ở đồi Long Thọ trước đó vào cuối năm 1810 ”… một vị trí địa lý đặc biệt, nơi có ngọn đồi Long-Thọ gần kinh đô lớn, và cho phép nó chống chọi với lũ lụt mạnh nhất của dòng sông, thêm một mỏ đất sét dễ khai thác, chúng tôi hiểu được những lý do thực sự đã khiến Vua Gia-Long cho đặt nghề gốm sứ ở Long-Thọ”[5, tr 20]. “ Biên niên sử Gia- Long tường thuật rằng vào tháng 11 năm thứ 9 dưới triều đại của vị hoàng tử này, tháng 12 năm 1810, một sắc lệnh của triều đình được ban hành cho Hà- Đạt người Trung Quốc, người đứng đầu giáo đoàn Quảng Đông, để thuê ba thợ ngói từ Quảng Ðông đem về Kho-Thượng, nay là đồi Long-Thọ, làm ngói tương tự lu-ly, đủ màu: xanh dương, vàng, xanh lục. Dưới sự chỉ đạo của những người Hoa này, người An Nam đã nhanh chóng học được ngành này”[5, tr22-23]. ”Di tích của các lò nung cũ được tìm thấy,… dấu vết của các sản phẩm được sản xuất…chỉ ra rõ ràng rằng Long Thọ luôn luôn là một trung tâm sản xuất gạch ngói rất năng động, cuối cùng, kể từ thời Gia-Long, các sản phẩm tráng men ”[5, tr23]. Hình 1. Dấu tích các lò nung và các sản phẩm được sản xuất ở Long Thọ dưới thời vua Gia Long. Nguồn: BAVH [5] Giá trị lịch sử, văn hoá của nhà máy xi măng Long Thọ cũng được nhìn nhận qua quá trình hình thành và phát triển trong hơn 125 năm tồn tại với những thăng trầm, suy thịnh cùng với những biến cố lịch sử của vùng đất cố đô: “Năm 1885, sau khi chiếm xong kinh thành Huế, thực dân Pháp đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất cho chính quyền cai trị tại Miền Trung... Năm 1896, hãng xây dựng tư nhân Bogaert đã xây dựng xí nghiệp vôi nước Long Thọ ở chân đồi Long Thọ nhằm giải quyết nhu cầu vật liệu xây dựng… Từ năm 1910 bắt đầu xuất hiện sự cạnh tranh sản xuất vôi nước tại Long Thọ với hãng Bogaert. Rigaux nhà thầu khoán xây dựng không có giấy phép đã tự tiện chiếm đất trái phép trên nhượng địa của Bogaert 177
  6. Di sản công nghiệp: nhận diện giá trị di sản và định hướng bảo tồn, tái sử dụng thích ứng … để cạnh tranh sản xuất. Trong cuộc tranh chấp này, Khâm sứ Trung kỳ đã ủng hộ Rigaux… Năm 1911, có một nhóm tư sản hùn vốn cổ phần lập công ty vôi nước Long Thọ, đặt trụ sở tại Paris. Công ty này đặt dưới sự kiểm soát về tài chính và kỹ thuật của công ty xi măng Poóc-lăng nhân tạo Đông Dương… Công ty vôi nước Long Thọ trong thực tế là một chi nhánh của xi măng Poóc-lăng. Công ty vôi nước Long Thọ liên kết với Rigaux, với chính quyền thực dân ở Trung Kỳ để cạnh tranh với Bogaert. Công ty vôi nước Long Thọ cử Rigaux làm đại diện cho họ thương lượng với Bogaert nhằm giành giật chủ quyền trên vùng đất mỏ và việc sản xuất vôi nước tại Huế. Sau 5 năm cạnh tranh, Bogaert không thắng nổi Công ty vôi nước Long Thọ. Từ cuối tháng 8/1915, xí nghiệp vôi nước Long Thọ đã bị thu hút và sát nhập vào công ty vôi nước Long Thọ do Rigaux làm đại diện… Năm 1934, công ty vôi nước Long Thọ cử Gallois làm giám đốc nhà máy thay Rigaux. Sau khi Nhật đảo chính ngày 9/3/1945, Gallois – chủ nhà máy do Nhật giữ lại điều hành sản xuất cũng bỏ chạy, nhà máy ngưng trệ hoàn toàn… Từ năm 1958, nhà máy Long Thọ được giao cho ông chủ Viễn Đệ – một kỹ sư tốt nghiệp tại Pháp, quản lý nhưng cũng chỉ duy trì hoạt động sản xuất cầm chừng do chiến tranh… Đến năm 1972, nhà máy ngừng hoạt động, trở thành hoang phế. Sau chiến thắng 30/4/1975, chính quyền cách mạng thành lập Ban khôi phục nhà máy… Ngày 01/7/1976, nhà máy chính thức đi vào hoạt động… Ngày 01/7/1977, nhà nước đầu tư xây dựng dây chuyền công nghệ xi măng lò đứng… Tháng 9/1994 – 30/11/2005, là doanh nghiệp Nhà nước hạng I, với tên gọi là Công ty SXKDVLXD Long Thọ. Tháng 12/2005, chuyển đổi thành Công ty Cổ phần Long Thọ ” [10]. Hình 2. Logo nhà máy qua các thời kỳ. Nguồn: Công ty Cổ phần Long Thọ [10] Nhà máy nước Vạn Niên với hơn 110 năm xây dựng, hình thành và phát triển, được người Pháp khởi công xây dựng từ năm 1909 dưới thời vua Duy Tân và hoàn thành vào năm 1911, là công trình nhà máy nước đầu tiên ở Trung Kỳ trong thời kỳ thực dân thuộc địa, là công trình công nghiệp tiêu biểu gắn liền với thời kỳ sơ khai của nền văn minh công nghiệp thành phố Huế, với giai đoạn đầu thời kỳ chuyển đổi, chuyển tiếp thành phố Huế từ một kinh đô cổ kính bắt đầu bước vào giai đoạn qui hoạch đô thị hiện đại. Nhà máy nuớc Vạn Niên được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 4296/QĐ-UBND ngày 21/12/2005 “ Nhà máy nuớc Vạn Niên là di tích lịch sử văn hóa, gắn liền với giai đoạn đầu thời kỳ chuyển đổi thành phố Huế từ đô thị cổ đến hiện đại, vào những năm đầu thế kỷ XX. Đánh dấu buớc ngoặc của địa phuơng từ nền kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sang quá trình kỹ nghệ hóa. Cũng là điều kiện khách quan, góp phần tích cực vào quá trình hình thành đội ngũ công nhân ở trung tâm thành phố Huế, từ trong lòng kinh đô phong kiến phong kiến triều Nguyễn” [7]. Một trong những minh chứng rõ ràng nhất thể hiện giá trị lịch sử, văn hoá của nhà máy nước Vạn niên là nguồn tư liệu quý gồm các bản đồ, các bản vẽ thiết kế kiến 178
  7. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 23, Số 1 (2023) trúc công trình, thiết kế các cấu kiện máy móc và các tài liệu liên quan đến quá trình xây dựng và vận hành của nhà máy thời Pháp thuộc vẫn còn được gìn giữ một cách cẩn thận và đầy đủ tại một trung tâm lưu trữ ở Aix en Provence - cộng hoà Pháp. Các tài liệu quý này đã được lãnh đạo của công ty cổ phần cấp nước Thành Phố Huế quyết định bỏ kinh phí sao chụp đưa về Huế phục vụ cho công tác trưng bày nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày thành lập nhà máy nước Vạn Niên [8]. Hình 3. Tư liệu tại Trung tâm lưu trữ ở Aix en Provence - cộng hoà Pháp. Nguồn: Trích lại từ [8] Với những giá trị lịch sử, văn hoá to lớn, Công ty cổ phần cấp nước Thừa Thiên Huế đã và đang nỗ lực xây dựng nhà máy nước Vạn Niên thành Bảo tàng nước đầu tiên ở Việt Nam để bảo tồn và nâng cao giá trị của công trình kiến trúc độc đáo kết hợp với việc trưng bày các tư liệu, hiện vật liên quan đến nhà máy nước Vạn Niên. Như vậy, nhà máy xi măng Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên là những công trình mà lịch sử hình thành và phát triển của nó gắn liền với chiều dài lịch sử của vùng đất cố đố trãi qua các giai đoạn thuộc địa hóa, đô thị hoá, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giá trị về mặt lịch sử, văn hoá luôn là yếu tố cần phải được nhìn nhận và xem xét một cách thận trọng để bảo tồn và nâng cao giá trị. *Giá trị về mặt công nghệ và khoa học kỹ thuật Đối với các nhà máy công nghiệp, giá trị về mặt công nghệ và khoa học thể hiện qua các kỹ thuật xây dựng, dây chuyền vận hành, máy móc, trang thiết bị, dụng cụ, đồ vật…, bí quyết hoặc các tài liệu minh chứng cho các quy trình sản xuất, chế tạo ra các sản phẩm công nghiệp trong quá khứ hoặc hiện tại. Ngay cả việc khảo sát và chọn lựa vị trí mỏ đá của Henri Bogaert để xây dựng nhà máy vôi thuỷ Long Thọ cũng thể hiện giá trị về mặt khoa học nhằm phục vụ hiệu quả cho quy trình sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm: “Năm 1896, ông phát hiện mỏ đá vôi ở Long Thọ, cách Huế 6km. Ở đó có một xưởng sản xuất loại đá vôi nổi tiếng “blues de Hué” nhưng người Trung Quốc, người sở hữu bí quyết này một mình, đã bỏ trốn trong các sự kiện ở Huế năm 1885. Ông tin chắc rằng sau khi nung, loại đá vôi này sẽ cho ra loại vôi thủy lực tuyệt vời. Do đó, ông bắt đầu xây dựng một nhà máy sẽ hoạt động vào năm 1901 ”[9]. Các kỹ thuật, công nghệ và khoa học tiên tiến của phương Tây thời đó, đặt biệt là của Pháp đã được áp dụng trong quy trình hoạt động, sản xuất của nhà máy nước 179
  8. Di sản công nghiệp: nhận diện giá trị di sản và định hướng bảo tồn, tái sử dụng thích ứng … Vạn Niên. Nhiều thiết bị của nhà máy có nguồn gốc từ Pháp và tồn tại hơn cả 100 năm từ khi nhà máy bắt đầu được xây dựng. Hiện tại chúng tôi vẫn tìm thấy rất nhiều cấu kiện, thiết bị ngành nước có nguồn gốc từ Pháp đầu thế kỷ XX, một số vẫn được sử dụng phục vụ cho hoạt động sản xuất, một số được giữ lại để trưng bày trong khuôn viên sân vườn của nhà máy nước. Qui trình vận hành của nhà máy lúc mới xây dựng được nhìn nhận giá trị về mặt công nghệ và khoa học, áp dụng các kỹ thuật tiên tiến của phương Tây, đó là một bước tiến quan trọng của ngành nước khu vực Trung kỳ thời bấy giờ. “Khởi công năm 1909 hoàn thành năm 1911. Nước, được lấy từ sông, được dẫn bằng một đường thông đơn giản vào một buồng chứa nước được đào trong lòng đất gần các máy bơm. Từ đó, chúng được hút lên, sau khi đã được làm sạch trong các bộ lọc cát có mái che, cùng loại với những bộ lọc gần đây được thành phố Paris áp dụng cho vùng ngoại ô…”[6, tr 107]. Hình 4. Một số thiết bị ngành nước có xuất xứ từ Pháp còn lại ở nhà máy. Nguồn: Tác giả * Giá trị về mặt mỹ thuật, qui hoạch, kiến trúc, cảnh quan Nhà máy xi măng Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên là hai công trình công nghiệp tiêu biểu trong quỹ kiến trúc thuộc địa mà người Pháp đã định hình và xây dựng ở vùng đất kinh kỳ bên cạnh các công trình đa dạng các thể loại như công trình quân sự, trụ sở, bệnh viện, trường học, biệt thự…, là hình ảnh còn lại của đô thị Huế xưa thời Pháp thuộc, là minh chứng cho sự giao lưu văn hóa Đông - Tây trong một giai đoạn lịch sử quan trọng. Nhà máy nước Vạn Niên được thiết kế bởi kiến trúc sư người Pháp, Bossard, mang các giá trị to lớn về mặt qui hoạch, kiến trúc, mỹ thuật, cảnh quan…Trước hết, công trình thể hiện được tầm nhìn về mặt quy hoạch đô thị giữa phát triển công nghiệp gắn với gìn giữ cảnh quan thiên nhiên, cảnh quan văn hoá vốn có của Huế. Mặc dầu với chức năng là một nhà máy công nghiệp, nhưng phong cách kiến trúc mà Bossard mang đến lại nhẹ nhàng, gần gũi, hài hoà với cảnh quan thơ mộng ở vùng tả ngạn thượng nguồn sông Hương nơi có đồi Vọng Cảnh, với các công trình văn hoá truyền thống và hệ thống lăng tẩm ở vùng đất cố đô chứ không nặng nề như các công trình công nghiệp thường thấy. Đây là một thành công rất lớn trong thiết kế của Bossard vì ông đã chọn cách tôn trọng văn hoá bản địa để tạo nên tính độc đáo trong tác phẩm của mình “…hãy viếng thăm nhà máy nước, một công trình được xây dựng để đưa nước uống đến Huế. Nó đáng được chú ý vì nó được kiến trúc sư Bossard thiết kế theo phong cách An Nam một cách rất hài hoà” [6, tr 107].” Công trình với 5 trụ biểu, mái ngói âm dương và các đầu hồi uốn cong. Chính 180
  9. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 23, Số 1 (2023) điều ấy đã làm cho toàn bộ công trình kiến trúc của một nhà máy công nghiệp nằm hài hòa cùng với cảnh quan thơ mộng của vùng thượng lưu sông Hương”[7] Hình 5. Bản đồ Huế và vùng phụ cận- Dự án cấp nuớc Thành phố Huế vẽ thời Pháp thuộc Nguồn: HUEWACO -Tư liệu từ Trung tâm lưu trữ ở Aix en Provence ( Pháp) Hình 6. Bản vẽ mặt bằng và mặt cắt nhà máy nước Vạn Niên Nguồn: HUEWACO -Tư liệu từ Trung tâm lưu trữ ở Aix en Provence (Pháp) Hình 7. Nhà máy nước Vạn Niên. Nguồn: Ảnh của Eberhardt [ 6, tr 107] Hình 8. Nhà máy nước Vạn Niên trước khi khởi công dự án năm 2020. Nguồn: Tác giả 181
  10. Di sản công nghiệp: nhận diện giá trị di sản và định hướng bảo tồn, tái sử dụng thích ứng … Khác với nhà máy nước Vạn Niên, nhà máy xi măng Long Thọ trãi qua nhiều biến cố thăng trầm, thay đổi chủ sở hữu, người quản lý và qua nhiều giai đoạn sửa chữa, nâng cấp. Kiến trúc nhà máy qua các ảnh tư liệu thể hiện rõ nét hình ảnh của một công trình công nghiệp phù hợp với hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng. Hình 9. Hình ảnh nhà máy theo thứ tự qua các thời kỳ. Nguồn: Trích lại từ [10] Nhóm tác giả đã kịp thời số hoá và lưu lại những không ảnh, ảnh VR360, ảnh các công trình trước khi bị hạ giải, di dời. Các khối công trình trong khuôn viên của nhà máy cùng với mỏ đá vôi, sông nước, ruộng đồng xung quanh tạo thành tổng thể cảnh quan công-nông nghiệp độc đáo khi nhìn trên không ảnh. Đặc biệt mỏ khai thác đá vôi như là một tuyệt tác cảnh quan văn hoá. Các khối công trình tạo thành những điểm nhấn, tầm nhìn từ hướng các đồng ruộng, tạo thành những bức tranh phong cảnh đối kháng giữa các hoạt động sản xuất nông nghiệp với sản xuất công nghiệp trong thôn Nguyệt Biều. Hình 10. Hình ảnh nhà máy xi măng Long Thọ trước khi bị giải hạ, di dời. Nguồn: Tác giả * Giá trị về mặt xã hội, kinh tế, du lịch Sự xuất hiện của nhà máy xi măng Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đánh dấu một mốc rất quan trọng của nền công nghiệp bắt đầu hình thành ở vùng đất cố đô, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội địa phương, góp phần chủ lực giải quyết nhu cầu về vật liệu xây dựng và nhu cầu phục vụ nước sạch sinh họat cho người dân ở thành phố Huế và khu vực lân cận. Sự ra đời của hai nhà máy này cũng là điều kiện khách quan, có ý nghĩa xã hội to lớn, góp phần tích cực vào quá trình hình thành một đội ngũ lao động mới - đội ngũ công nhân ở vùng Huế, vùng đất 182
  11. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 23, Số 1 (2023) vốn trước đây chỉ có hoạt động nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Giá trị xã hội, kinh tế thể hiện rõ nét là sự xuất hiện của hai nhà máy đồng thời giải quyết công ăn việc làm và thu nhập cho hàng trăm, hàng nghìn người lao động, nuôi sống họ và gia đình. Nhiều thế hệ cán bộ, công nhân viên đã từng làm việc và cống hiến cả đời cho nhà máy, trong họ luôn có các ký ức, kỷ niệm về nhà máy mà họ có thể kể lại cho con cháu của mình. Về giá trị du lịch, nhà máy nước Vạn Niên và nhà máy xi măng Long Thọ có ưu thế là nằm ở Thuỷ Biều- làng trong phố, liên kết được với nhiều danh lam, thắng cảnh nổi tiếng xung quanh như đồi Vọng Cảnh, lăng Tự Đức, điện Voi Ré, Hổ Quyền… Hơn nữa, hai nhà máy là những công trình mang dấu ấn thuộc địa nên đã luôn là địa chỉ tham quan của du khách trên cùng tour tuyến. Trong tương lai, khi nhà máy nước Vạn Niên trở thành Bảo tàng nước và vị trí của nhà máy xi măng Long Thọ cũ được đầu tư chỉnh trang cảnh quan để bảo tồn, phát huy giá trị như một dấu tích lịch sử thì vị thế và giá trị về mặt kinh tế và du lịch càng được phát huy. 3.3. Bảo tồn, tái sử dụng thích ứng nhà máy xi măng Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên Hiện tại, nhà máy Xi măng Long Thọ đã di dời khỏi vị trí xây dựng ban đầu theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ [11] và chuyển đến vị trí mới ở cụm công nghiệp Thuỷ Phương, Hương Thuỷ do những vấn nạn ô nhiễm môi trường, tiếng ồn và những yêu cầu đảm bảo qui hoạch đô thị, đảm bảo đời sống sinh hoạt của người dân khu vực lân cận… Những hình ảnh hiện trạng mà nhóm tác giả thu thập được sau di dời thì hầu như phần lớn các hạng mục, công trình đã bị san ủi và hiện tại chỉ còn một khối công trình được giữ lại nhưng cũng ở trong trình trạng xuống cấp trầm trọng. Hình 11. Hình ảnh hiện trạng nhà máy xi măng Long Thọ sau di dời. Nguồn: Tác giả Mặc dầu không còn bảo tồn nguyên vẹn những giá trị vốn có của nhà máy, nhưng giá trị di sản mà nó mang lại đặc biệt là giá trị lịch sử, văn hoá là vô cùng to lớn. Vì vậy, rất cần thiết phải gìn giữ và lưu lại những hình ảnh và dấu tích của nó ở vị trí chân đồi Long Thọ mà một thời nó đã từng tồn tại. Liên quan đến công tác bảo tồn và tái sử dụng thích ứng nhà máy xi măng Long Thọ, UBND Tỉnh đã đề nghị “…Về lâu dài, UBND thành phố Huế phải phối hợp với các đơn vị liên quan có phương án khoanh vùng phù hợp để bảo vệ, cải tạo, chỉnh trang cảnh quan. Những gì thuộc yếu tố lịch sử cần xem xét thận trọng để bảo tồn, phát huy giá trị của nhà máy xi măng Long Thọ như một dấu tích lịch sử về một thời phát triển công nghiệp sơ khai của tỉnh, nhằm giáo dục thế hệ trẻ và phục vụ phát triển du lịch ”[12]. UBND Tỉnh cũng đã có chủ trương kêu gọi đầu tư dự án “ Khu đô thị du lịch sinh thái thanh trà 183
  12. Di sản công nghiệp: nhận diện giá trị di sản và định hướng bảo tồn, tái sử dụng thích ứng … Thủy Biều” với mục tiêu đầu tư là “xây dựng một khu đô thị, du lịch sinh thái đẳng cấp, trên cơ sở cảnh quan độc đáo hiện hữu của nhà máy xi măng Long Thọ sau khi di dời, tạo nên một điểm nhấn đô thị sinh thái đặc sắc tại khu vực bờ nam sông Hương, tạo cơ sở để phát triển toàn bộ khu vực Tây nam thành phố Huế”[13]. Xây dựng nhà máy nước Vạn Niên với tính chất “Là khu vực nhà máy cung cấp nước sạch cho thành phố Huế và vùng phụ cận; bao gồm các chức năng như: Khu nhà máy; khu điều hành; khu bảo tồn, bảo tàng nước; khu sinh hoạt cộng đồng; công viên, cây xanh,... kết hợp hài hòa với cảnh quan thiên nhiên và di tích lịch sử xung quanh” [14] trong đó hạng mục ưu tiên là ”...Đầu tư khu bảo tàng nước, viện nghiên cứu về nước và các không gian sinh hoạt văn hóa để góp phần bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích” [14] là nổ lực của chính quyền và Công ty cổ phần cấp nước Thừa Thiên Huế nhằm tái sử dụng thích ứng nhà máy với các giải pháp kỹ thuật là mở rộng, bổ sung chức năng. Cụ thể là đã và đang xây dựng lồng ghép các khối kiến trúc mới bên cạnh khối kiến trúc thuộc địa cũ (xây dựng từ năm 1909) để đảm bảo hoạt động cấp nước cho cả thành phố và khu vực lân cận, đồng thời bổ sung thêm các chức năng mới đặc biệt là Bảo tàng nước. Tuy nhiên, theo nhận định của nhóm tác giả, lo ngại rằng tỷ lệ và hình thức các công trình xây mới trong khuôn viên nhà máy đang lấn át, làm ảnh hưởng đến giá trị kiến trúc cảnh quan của nhà máy cũ. Hình 12. Hình ảnh hiện trạng nhà máy nước Vạn Niên. Nguồn: Tác giả Tái sử dụng thích ứng là cách tiếp cận tất yếu trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị nhà máy nước Vạn Niên và nhà máy xi măng Long Thọ - những di sản công nghiệp của thành phố Huế. Trước hết, chúng ta có thể tổ chức, khởi xướng các cuộc thi nhằm chọn ra những ý tưởng tái thiết nhà máy kết hợp giữa yếu tố lịch sử, văn hoá với các chức năng mới; tổ chức các hội thảo, toạ đàm… lấy ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước hoạt động trong các lĩnh vực liên quan đến công tác bảo tồn, lấy ý kiến của cộng đồng, của người dân địa phương nhằm khuyến khích họ tích cực tham gia vào việc đem lại sức sống mới cho các không gian đô thị. Các cấp chính quyền cần ban hành các chính sách liên quan đến các di sản công nghiệp của thành phố, kêu gọi đầu tư, xây dựng và thực hiện các dự án để tái thiết các nhà máy dưới các dạng phù hợp với xu hướng phát triển đô thị bền vững như các công viên văn hoá, không gian cộng đồng, không gian sáng tạo, nơi tổ chức các sự kiện văn hoá nghệ thuật… góp phần phát triển bản sắc đô thị và mang lợi những lợi ích mặt kinh tế, du lịch, xã hội, văn hóa, giáo dục và môi trường. 184
  13. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 23, Số 1 (2023) Công viên văn hoá phục vụ cho các hoạt động văn hoá, vui chơi, giải trí… của người dân đồng thời là điểm dừng tham quan của khách du lịch khi ghé Thuỷ Biều và các danh lam thắng cảnh lân cận có thể là sự lựa chọn phù hợp cho việc tái sử dụng thích ứng nhà máy xi măng Long Thọ cũ. Chúng ta có thể cải tạo, chỉnh trang cảnh quan khu vực trong và xung quanh khuôn viên nhà máy, đặc biệt chú trọng đến yếu tố cảnh quan mỏ đá vôi và tạo các hướng tiếp cận để dễ dàng tham quan. Tùng tu, gia cố khối kiến trúc cũ còn lại của nhà máy đang trong trình trạng xuống cấp, tổ chức không gian trưng bày những hình ảnh, hiện vật gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển cũng như các hoạt động của nhà máy như là minh chứng cho sự từng tồn tại của nó. Giải pháp tổ chức không gian khu vực phía đông nhà máy thành “không gian bảo tàng, trưng bày, nghiên cứu, đào tạo và tổ chức các hoạt động văn hóa; với mục tiêu hình thành một địa điểm giáo dục các thế hệ về giá trị của nguồn lợi tài nguyên nước và ý thức bảo vệ môi trường” [14] như trong quy hoạch chi tiết xây dựng nhà máy nước Vạn Niên là một sự lựa chọn hợp lý cho việc tái thiết, tái sử dụng thích ứng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để sự tồn tại của các công trình, hạng mục mới bổ sung trong khuôn viên phải đảm bảo hài hoà với cảnh quan khu vực, hạn chế sự ảnh hưởng môi trường sinh thái, hạn chế làm phá vỡ những ý đồ tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan nhà máy cũ mà kiến trúc sư Bossard đã kiến tạo để nó trở thành công trình công nghiệp độc đáo. 4. KẾT LUẬN Tiến hành đánh giá và công bố các giá trị di sản của nhà máy xi măng Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên, nhìn nhận đó là những di sản công nghiệp của thành phố Huế là rất cần thiết trong bối cảnh các thành phố đang có xu hướng phát triển đô thị bền vững, nền kinh tế sáng tạo trên nền tảng công nghiệp văn hoá, công nghiệp sáng tạo. Cần kịp thời ban hành các chính sách để bảo tồn và quản lý các di sản công nghiệp này như là một dạng của di sản văn hoá. Cần có sự chung tay của nhà nước, của chính quyền địa phương, của doanh nghiệp và của cả cộng đồng, người dân địa phương trong việc bảo tồn, phát huy giá trị các di sản công nghiệp này. Cần nhìn nhận việc tái sử dụng thích ứng các nhà máy không chỉ là để bảo tồn giá trị di sản mà còn là động lực để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội khu vực xung quanh và cả thành phố Huế. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. TICCIH (2003). “Charte Nizhny Tagil Pour Le Patrimoine Industriel / Juillet, 2003”, Website: https://ticcih.org/wp-content/uploads/2013/04/NTagilFrench.pdf, [2]. ICOMOS, TICCIH ( 2011). “Les principes de Dublin”, Website: https://www.icomos.org/images/DOCUMENTS/Charters/GA2011_ICOMOS_TICCIH_joi nt_principles_EN_FR_final_20120110.pdf, 185
  14. Di sản công nghiệp: nhận diện giá trị di sản và định hướng bảo tồn, tái sử dụng thích ứng … [3]. Australian Government - Department of the Environment and Heritage (2004). “Adaptive Reuse- Preserving our past, building our future”, Website: https://www.dcceew.gov.au/sites/default/files/documents/adaptive-reuse.pdf, [4]. TS.KTS Phạm Phú Cường; KTS Lê Trường An (2022). Hồi sinh thích ứng các công trình di sản kiến trúc và những ứng dụng thực tiễn trên thế giới, Kiến trúc việt nam, Website: https://kientrucvietnam.org.vn/hoi-sinh-thich-ung-cac-cong-trinh-di-san-kien-truc-va- nhung-ung-dung-thuc-tien-tren-the-gioi/, [5]. M. RIGAUX (1917). Le Long-tho ses poteries anciennes et modernes, BAVH ( tập san Bulletin des amis du Vieux Hué), N01, tr. 20-23 [6]. Ph. EBERHARDT (1914). Guide de L’annam, Paris : A. Challamel, tr. 107 [7]. Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế (2023). Nhà máy nuớc Vạn Niên - di tích lịch sử cấp Tỉnh, Website: https://thuathienhue.gov.vn/vi-vn/Doanh-nghiep/Thong-tin-chi- tiet/tid/Nha-may-nuoc-Van-Nien/newsid/C985ED3C-F16F-4E97-8EB8- AFAA00ECC3CE/cid/-1, [8]. Công Điền, Ngọc Minh (2023). Người Huế dùng nước máy từ lúc nào?, Nông nghiệp Việt Nam, Website: https://nongnghiep.vn/nguoi-hue-dung-nuoc-may-tu-luc-nao- d345227.html, [9]. Blog Paris-Hué (2020). Henri Bogaert, la réussite exceptionnelle du 1er colon de Hué, Website: https://blogparishue.fr/henri-bogaert-la-reussite-exceptionnelle-du-1er-colon-de-hue/, [10]. Công ty cổ phần Long Thọ, Lịch sử hình thành, Website: https://www.longthohue.com.vn/gioi-thieu/lich-su-hinh-thanh/, [11]. Quyết định số 64/2003/QĐ-TTG: QĐ phê duyệt "Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng". [12]. Sở văn hoá và thể thao Thừa Thiên Huế (2021). Bảo tồn và phát huy giá trị các di tích trên địa bàn Tỉnh, Website: https://svhtt.thuathienhue.gov.vn/?gd=30&cn=1&id=114&tc=36817 [13]. Quyết định số 235 /QĐ-UBND về việc bổ sung 39 dự án kêu gọi đầu tư của tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2019, định hướng đến năm 2020. [14]. Quyết định số 2740/QĐ-UBND ngày 22/11/2017 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về việc phê duyệt quy hoạch Điều chỉnh Quy hoạch chi tiết xây dựng Nhà máy nước Vạn Niên, phường Thủy Biều, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. 186
  15. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 23, Số 1 (2023) INDUSTRIAL HERITAGE: IDENTIFICATION OF HERITAGE VALUES AND ORIENTATIONS FOR CONSERVATION AND ADAPTIVE REUSE OF LONG THO CEMENT FACTORY AND VAN NIEN WATER FACTORY IN HUE CITY Bui Thi Hieu*, Nguyen Quang Huy Faculty of Architecture, University of Sciences, Hue University *Email: buihieu@husc.edu.vn ABSTRACT Long Tho cement factory and Van Nien water factory built under the French colonial period are industrial works of historical, cultural, scientific, technical, and architectural values, marking an important turning point in the early industrial development of Hue City. In this paper, through an approach to concepts related to "industrial heritage" and "adaptive reuse", method of analysis and comparison based on old documents, photos taken by flycam, 360 degree panoramas, and photos collected during the field survey, the authors want to recognize and identify the heritage value of Long Tho Cement Factory and Van Nien water factory, and assess the current status of heritage conservation as well as propose orientations to preserve and promote its values. Keywords: industrial heritage, adaptive reuse, Long Tho cement factory, Van Nien water factory… 187
  16. Di sản công nghiệp: nhận diện giá trị di sản và định hướng bảo tồn, tái sử dụng thích ứng … Bùi Thị Hiếu sinh ngày 29/08/1981 tại Huế. Năm 2004, bà tốt nghiệp Kiến trúc sư tại trường Đại học Kiến Trúc Hà Nội. Năm 2010, bà hoàn thành chương trình thạc sĩ chuyên ngành "Thiết kế đô thị, Di sản và Phát triển bền vững", hợp tác giữa trường Đại học Kiến trúc Hà Nội và trường Đại học Kiến trúc Toulouse, Pháp. Năm 2014, bà lấy bằng tiến sĩ chuyên ngành Kiến trúc của trường Đại học Kiến trúc Grenoble, Pháp. Hiện nay, bà giảng dạy tại khoa Kiến trúc, Trường Đại học khoa học, ĐH Huế. Lĩnh vực nghiên cứu: Kiến trúc nhà ở, Thiết kế đô thị, Bảo tồn di sản và Phát triển bền vững. Nguyễn Quang Huy sinh ngày 16/11/1981 tại Huế. Năm 2004, ông tốt nghiệp Kiến trúc sư tại trường Đại học Kiến trúc Hà Nội. Năm 2008, ông hoàn thành chương trình thạc sĩ chuyên ngành Kiến trúc tại Đại học ChiangMai, Thái Lan. Hiện nay, ông giảng dạy tại khoa Kiến trúc, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế. Lĩnh vực nghiên cứu: Vật lý kiến trúc , Số hóa, 3D mô phỏng kiến trúc… 188
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2