intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Địa danh phản ánh địa hình, thủy văn ở Tây Nam Bộ

Chia sẻ: ViVatican2711 ViVatican2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

66
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Con người tồn tại và phát triển trong môi trường tự nhiên, vì thế môi trường tự nhiên đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nên văn hóa của con người. Tây Nam Bộ là vùng đất có những đặc trưng về khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng... gắn liền với sông nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Địa danh phản ánh địa hình, thủy văn ở Tây Nam Bộ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL<br /> ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY<br /> Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019)<br /> Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn<br /> <br /> <br /> ĐỊA DANH PHẢN ÁNH ĐỊA HÌNH, THỦY VĂN Ở TÂY NAM BỘ<br /> Place names reflecting terrain and waterways in Southwest Vietnam<br /> <br /> ThS.NCS. Võ Nữ Hạnh Trang<br /> Trường Đại học Đồng Nai<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Con người tồn tại và phát triển trong môi trường tự nhiên, vì thế môi trường tự nhiên đóng vai trò rất<br /> quan trọng trong việc hình thành nên văn hóa của con người. Tây Nam Bộ là vùng đất có những đặc<br /> trưng về khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng... gắn liền với sông nước. Chính những đặc trưng đó đã chi phối<br /> và tạo nên một đời sống văn hóa mang đậm dấu ấn sông nước của cư dân Tây Nam Bộ. Nghiên cứu địa<br /> danh trên cơ sở xem xét mối quan hệ, tác động của yếu tố địa lý là cách giúp phác họa văn hóa vùng<br /> miền một cách hữu hiệu và có ý nghĩa.<br /> Từ khóa: địa lý, địa hình, địa văn hóa, sông nước, Tây Nam Bộ.<br /> Abstract<br /> People live and evolve in the natural environment; therefore, the natural environment plays an important<br /> role in the formation of human culture. The western part of South Vietnam is the land with special<br /> characteristics of climate, terrain, land, etc. associated with waterways. These features influence and<br /> create a cultural life which is imbued with watermarks of Southwestern residents. The study of place<br /> names on the basis of considering the relationships and the effects of geography is the way to sketch<br /> regional culture efficiently and meaningfully.<br /> Keywords: terrain, geography, cultural geography, waterways, the Western part of South Vietnam.<br /> <br /> <br /> 1. Mở đầu ý, những nét riêng ấy được phản ánh khá rõ<br /> Là vùng đất có lịch sử không dài so qua địa danh, đặc biệt là qua số lượng lớn<br /> với lịch sử dân tộc, nhưng Tây Nam Bộ thu các địa danh thể hiện đặc trưng về địa hình,<br /> hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu thủy văn của Tây Nam Bộ.<br /> bởi những đặc trưng vùng miền khá khác 2. Nội dung<br /> biệt. Theo thống kê, dân số toàn vùng Tây Hiện nay chưa có một định nghĩa<br /> Nam Bộ chiếm 20,6% cả nước. Dân cư thống nhất về địa danh. Hiểu một cách<br /> sinh sống tập trung vùng ven sông Tiền, tương đối đầy đủ thì “Địa danh là những từ<br /> sông Hậu và thưa hơn ở các vùng sâu xa hoặc ngữ được dùng làm tên riêng của địa<br /> trong nội đồng như U Minh, Đồng Tháp hình thiên nhiên, các đơn vị hành chánh,<br /> Mười với 4 dân tộc chính là: Kinh (Việt), các vùng lãnh thổ và các công trình xây<br /> Hoa, Khmer và Chăm. Trong quá trình cư dựng thiên về không gian hai chiều” [5;<br /> trú, người dân Tây Nam Bộ đã hình thành 18]. Như vậy, địa danh phản ánh nhiều<br /> nên những nét riêng về văn hóa. Đáng chú mặt, trong đó có địa hình thiên nhiên, các<br /> Email: vohanhtrang@gmail.com<br /> 44<br /> VÕ NỮ HẠNH TRANG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> vùng lãnh thổ. Các yếu tố này là một phần trên phá địch đài để quan sát canh phòng.<br /> của địa danh. Cụ thể hơn, Hoàng Phê Có người cho rằng gọi là Giao Lửa, tức là<br /> khẳng định địa hình “Là bề mặt một vùng vùng đất có giao tranh, nên gọi Giao Lửa.<br /> với sự phân bố các yếu tố như núi, đồi, Người Khmer cũng gọi nơi này là Koh<br /> đồng bằng,...”1. Với cách hiểu này, bài báo Phlơn “cù lao Lửa”.<br /> sẽ triển khai theo hướng nghiên cứu địa Cồn là chỗ đất bồi cao lên giữa dòng<br /> danh phản ánh địa hình, thủy văn Tây Nam sông [6; 15]. Có thể kể đến bãi biển, rạch ở<br /> Bộ gắn với sự phân bố các yếu tố núi, đồi, Duyên Hải (TV) mang tên Ba Động vì có<br /> sông, hồ… và những đặc điểm liên quan. ba cồn (cát); hay cồn cát ven biển (Bình<br /> 2.1. Địa danh đặt theo đặc điểm địa Đại, BT) tên Cồn Trẹt, sông Cồn Tròn ở<br /> hình đất Tây Nam Bộ Cù Lao Dung (ST); ngoài ra có rạch Cồn<br /> Nằm ở hạ lưu sông Mê Kông, Tây Vông (Vĩnh Long, VL), rạch Cù Lao Tròn<br /> Nam Bộ nổi tiếng với kênh rạch chằng (Trà Ôn, VL)… Đảo Cổ Bo ở ngoài khơi<br /> chịt, sông ngòi dày đặc. Về cơ bản, vùng vịnh Thái Lan. Cổ Bo gốc Khmer: Cổ do<br /> Tây Nam Bộ được hình thành từ trầm tích Koh, là “cồn, cù lao”. Bo: chưa biết nghĩa.<br /> phù sa và bồi dần qua từng giai đoạn tạo Bên cạnh đó còn một số địa danh có yếu tố<br /> nên các giồng đất kéo dài theo ven sông và gốc Khmer “cổ” như cù lao Cổ Bồn (Châu<br /> biển. Hoạt động của sông và biển đã hình Phú, AG), cũng gọi Cỏ Bon; cù lao nằm<br /> thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc giữa và dọc theo một nhánh sông Tiền<br /> theo đê ven sông cùng một số giồng cát (TV) và sông chảy giữa hai tỉnh Bến Tre,<br /> ven biển. Xen kẽ giữa các đồng đất là các Trà Vinh có tên Cổ Chiên; đảo ngoài khơi<br /> khu vực chưa được bồi đắp hoàn chỉnh tạo vịnh Thái Lan tên Cổ Cong.<br /> nên địa hình trũng thấp như vùng Đồng Giồng là chỗ đất cao hơn ruộng, do<br /> Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên – Hà phù sa sông hoặc biển bồi đắp. Vùng đất<br /> Tiên, tây nam sông Hậu và bán đảo Cà thuộc hai huyện Kiến Đăng và Kiến Hưng,<br /> Mau. Tóm lại, có thể hình dung “Tây Nam tỉnh Định Tường (cũ) nay là tỉnh Tiền<br /> Bộ có cảnh quan sông nước với một hệ Giang tên gọi Ba Giồng. Ba Giồng là “ba<br /> thống thủy đạo, sông, rạch, lạch gắn với vồng đất”. Ba Giồng là Gò Yến, Kỳ Lân và<br /> điều kiện tự nhiên và tạo nên một vùng văn Qua Qua. Ngoài ra có rạch Giồng ở Mang<br /> hóa sông nước” [2: 9]. Thít (VL); ấp Giồng Tân (Gò Công Đông –<br /> 2.1.1. Địa danh phản ánh địa hình đất TG), ấp Giồng Keo (Gò Công Tây – TG).<br /> Doi được hiểu là chỗ đất gie ra sông, Núi là dạng địa hình nhô cao rõ rệt trên<br /> biển. Sông Ba Doi (Gò Quao, KG) có tên mặt đất. Có thể kể đến các địa danh rạch<br /> gọi đó vì nó có 3 doi đất thòi ra uốn cong Núi (Cần Giuộc, LA) nhằm chỉ gò đất cao<br /> gần như đảo ngược rồi trở chiều uốn cong 6m, dài 100m, nằm giữa đồng, bên cạnh<br /> về hướng tới, làm cho tàu ghe đi theo sông rạch. Gò Núi Đất (Mộc Hóa, LA), phường<br /> xa đến 11,2km, thay vì chỉ 4km; rạch Doi Núi Sam (Châu Đốc, AG), xã Núi Tô (Tri<br /> (Trà Ôn, VL); rạch Doi Đồn (Long Hồ, Tôn, AG), xã Núi Voi (Tịnh Biên, AG).v.v.<br /> VL); địa điểm Doi Lửa ở hữu ngạn sông Tên xã, thị trấn Sóc Sơn (Hòn Đất, KG)<br /> Tiền (TG). Doi Lửa, vì địa điểm nằm trên được giải thích: “trước đây gọi là Sóc<br /> một doi đất, đêm đêm lính canh đốt lửa Xoài, sóc là để chỉ xóm của người Khmer,<br /> <br /> <br /> 45<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)<br /> <br /> <br /> không biết sao đổi thành tên Sóc Sơn chõ”. Giồng Lò Ngò (Tiểu Cần, TV) gốc<br /> nhưng có lẽ vùng này có một số chỗ cao Khmer Choòng Ngò (Choòng: ở cuối; Ngò:<br /> nên gọi như vậy”2. hay xã Thổ Sơn (Hòn cong) là “giồng đất ở cuối con rạch có hình<br /> Đất, KG), Thổ Sơn nghĩa là “núi đất”; cong”. Mỏ Cày là tên sông, thị trấn, huyện<br /> huyện, núi Thoại Sơn (AG), riêng núi trước (BT), quận của tỉnh Kiến Hòa (cũ). Mỏ<br /> đây gọi là Núi Sập; còn tên huyện do tên Cày vốn là một bộ phận của cái cày từ tay<br /> núi mà ra. nắm đến lưỡi cày. Mỏ cày hình cong như<br /> Gò như giồng nhưng diện tích hẹp chữ Z nên những vật có hình dáng tương tự<br /> hơn, tuy nhiên cũng có thể do cách gọi của thì gọi là mỏ cày, như sao mỏ cày. Có lẽ do<br /> từng địa phương [6: 16]. Làng xưa ở Sóc đoạn sông Hàm Luông chảy qua vùng này<br /> Trăng có tên Phú Nổ. Phú Nổ gốc Khmer, cong như cái mỏ cày nên mang tên trên.<br /> phiên âm từ Phnor, là “gò đất”. Địa danh chợ Đường Thét (Cao Lãnh,<br /> 2.1.2. Địa danh chỉ đặc trưng địa hình ĐT) nghĩa là “đường rất thẳng”, xưa<br /> Ở Tây Nam Bộ có rất nhiều đĩa danh thường nói thẳng thét “rất thẳng”. Kênh<br /> chỉ địa hình mang thành tố trũng, cong và Cán Gáo nối sông Cái Lớn (An Biên, KG),<br /> thẳng. Nhiều nhà nghiên cứu đã nghiên cứu sở dĩ có tên Cán Gáo vì hình dáng kênh<br /> và giải thích ý nghĩa và nguồn gốc của các thẳng như cán gáo múc nước.<br /> thành tố này. Văn Tân đã giải thích “Trũng Ngoài ra là những địa danh khác như<br /> là lõm xuống”; “Thẳng là không cong, kinh ở Chợ Mới (AG) mang tên Cái Hố là<br /> không gấp khúc”; “Cong là có hình vòng do đất ở đây bị lở sụp từng mảng lớn rất<br /> cung hay hình ngoằn ngoèo, không thẳng nghiêm trọng; kênh Chẹt Sậy (Bến Tre,<br /> mà cũng không gấp khúc”3. BT) nghĩa là “chỗ hẹp có nhiều lau sậy”,<br /> Trũng là địa điểm Hoành Tấu (BL), là kênh Chìm (Chợ Mới, AG) vì kênh ở vùng<br /> địa danh gốc Hoa, nghĩa là “vùng trũng thấp, đến mùa nước nổi không còn thấy<br /> màu mỡ”; mõm đá (Hà Tiên, KG), rạch kênh. Tên gọi đìa Chùm (Vũng Liêm, VL)<br /> (Tiểu Cần, TV), sông chảy từ Kiên Giang vì gồm 5 đìa kế cận nhau. Hay Đảo (Hà<br /> đến Cà Mau mang tên Trẹm. Trẹm là từ Tiên, KG), vàm (Tân Phước, TG) Bánh Tét<br /> gốc Chăm, chưa biết nghĩa. Có thể Trẹm là do vàm này là nơi hội tụ các con kinh uốn<br /> một dạng khác của Lẹm, nghĩa là “có chỗ nắn như đòn bánh tét.v.v.<br /> bị lõm, bị khuyết vào, không đầy đặn như 2.2. Địa danh đặt theo địa hình thủy văn<br /> thường” vì dạng cổ của lêu và trêu là tlêu, Tây Nam Bộ là vùng đồng bằng sông<br /> dạng cổ của lên và trên là tlên nên có thể nước có diện tích (6.130.000ha) và độ phì<br /> dạng cổ của lẹm và trẹm là tlẹm. nhiêu cao nhất trong các đồng bằng nước<br /> Chỉ độ cong như chợ Cua Quẹo ta. Toàn vùng có đến 4.000 kinh rạch, dài<br /> (Thanh Bình, ĐT). Cua Quẹo nửa gốc Pháp tổng cộng 5.700km. Những vùng trũng ở<br /> (courbe) nửa TV, là khúc quẹo nơi chợ tọa Đồng Tháp Mười ở hai bên con sông Tiền,<br /> lạc. Địa điểm Trà Tâm (ST) vốn gốc tứ giác Long Xuyên ở phía Tây sông Hậu,<br /> Khmer Chrui Tum, nghĩa là “(chỗ) khuỷu là những hồ nước thiên nhiên góp phần<br /> tay”. Khúc sông nhỏ từ Băng Cung ra Cổ điều hòa lưu lượng cho sông Cửu Long vào<br /> Chiên (VL) tên là Eo Lói, nghĩa là “chỗ mùa nước nổi. Sông Tiền là phân lưu từ<br /> quanh gắt trên đường, trên sông, có cùi dòng chính Mê Kông và có các phân lưu kế<br /> <br /> <br /> 46<br /> VÕ NỮ HẠNH TRANG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> kiếp nhau là sông Cổ Chiên, sông Hàm đồng hay giữa rừng [5; 120]. Ở Tây Nam<br /> Luông, sông Ba Lai, sông Cửa Đại và Cửa Bộ có các địa danh như rạch Lung Ấu,<br /> Tiểu, sông Hậu qua cửa Định An và Trần mương Lung Tà Sen (Châu Phú, AG); cầu<br /> Đề3. Bên cạnh đó còn có những con sông Lung Âm, Lung Cần Thơ, Lung Nai (Phú<br /> nhỏ hơn mà qua mỗi địa phương đươc dân Tân, CM); kênh Lung Cái (Bình Tân, VL);<br /> gian gọi bằng những cái tên khác nhau. Vì rạch Lung Chim (Long Hồ, VL); cầu Lung<br /> vậy xuất hiện nhiều dạng địa hình như đã Chuối; ấp, cống Lung Đồng (Tam Bình,<br /> phân tích ở trên. Với một vùng mà đời VL).v.v.<br /> sống gắn với sông nước như Tây Nam Bộ, Trấp trong tiếng Khmer là trop/<br /> người dân phải quan sát con nước lớn, pangtrap, là khu đất trũng nhỏ, ngập nước<br /> ròng, xoáy, bình, đặc trưng dòng chảy... để quanh năm, có nhiều cỏ [7: 559]. Có thể kể<br /> có thể di chuyển thuận tiện và hình thành đến hai con kênh ở Tân Hồng (ĐT) tên Cả<br /> lối sinh hoạt thích hợp. Từ sự quan sát đó, Trấp 1, Cả Trấp 2. Tên Cả Trấp là biến<br /> xuất hiện nhiều địa danh phản ánh địa hình âm của Cái Trấp; kinh Trấp Bèo (Cai Lậy,<br /> thủy văn và đặc trưng, tính chất thủy văn. TG).v.v.<br /> 2.2.1. Địa danh phản ánh địa hình Rạch do từ Khmer “prêk”, nghĩa là<br /> thủy văn nhánh tương đối lớn của một con sông, ghe<br /> Bưng do từ Khmer “bâng” (nghĩa là thuyền có thể đi lại được [5; 120]. Rạch<br /> “hồ to”) chỉ chỗ đất trũng giữa đồng, đọng Giá là tên thị xã, thành phố, vịnh biển<br /> nước, có nhiều cây mọc [5: 119]. Có thể kể (KG), trong quá khứ từng là tên một hạt,<br /> đến các địa danh như rạch Bưng Bót (Cầu làng, tỉnh, xã ở khu vực Tây Nam Bộ.<br /> Kè, TV), vùng đất Bưng Bùn nằm giữa hai Vùng Rạch Ngọn (Chợ Lách, BT), sông<br /> đầu kênh Vĩnh Tế (AG), chợ Bưng Chông Rạch Lá (Trà Ôn, VL), cầu Rạch Miễu nối<br /> (Trần Đề, ST), cầu Bưng Chụm (ST). Tên Bến Tre và Tiền Giang. Cầu (Sa Đéc, ĐT),<br /> cầu trên quốc lộ 1A và tỉnh lộ 938 (ST) vùng đất (Ngọc Hiển, CM) có tên là Rạch<br /> cùng có tên Bưng Cốc, cũng viết Bưng Ruộng hay Rạch Sỏi là tên chợ, phường<br /> Cóc.v.v. (Rạch Giá, KG).<br /> Láng chỉ chỗ trũng ngập nước không Rộc là chỗ trũng dài [6; 17]. Một số<br /> sâu, tương đối bằng phẳng [6; 16]. Liên địa danh gắn với “rộc” như cầu Rộc Lá<br /> quan đến “láng” có địa điểm Láng Linh (BL), thường bị viết sai Rọc Lá, vùng đất<br /> (AG), kênh Láng Sắc (Duyên Hải, TV), (Chợ Mới, AG) tên Rộc Sen. Rộc Sen là<br /> rạch Láng Thé ở Trà Vinh (TV). Ở Thới lạch nhỏ mà cạn có nhiều sen mọc; Gọi ấp<br /> Bình (CM) có lộ Láng Trâm hay Láng Rộc Muống (Tân Hồng, ĐT vì “ở đây có<br /> Tượng là tên kinh ở Cái Nước (CM). Ngoài con lạch nhỏ, nước không sâu, do đó người<br /> ra còn rạch Láng Bồn Bồn (Mỹ Tú, ST), dân trồng nhiều rau muống nên gọi vậy<br /> cầu Láng Cháo (Đầm Dơi, CM), cầu Láng luôn”4.<br /> Cháy (TV); tên cầu, sông, kinh Láng Chim Xẻo chỉ con rạch cùng, nước chảy vào<br /> (Duyên Hải, TV), Vàm Láng là địa điểm, và chảy ra cùng một cửa [6; 18]. Có thể kể<br /> xã ở Gò Công Đông (TG). đến kênh Xẻo Cách (Cầu Kè, TV); cầu Xẻo<br /> Lung do từ Khmer ăn lôong chuyển Cai, Xẻo Dừa, kinh Xẻo Chiếc (Ngã Năm,<br /> thành, là chỗ đọng nước quanh năm ở giữa ST); địa điểm Xẻo Lá, Xẻo Lúa, Xẻo Nhàu,<br /> <br /> <br /> 47<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)<br /> <br /> <br /> Xẻo Quao, Xẻo Đước (An Minh, KG) hay dốc [3, 112-113].<br /> rạch Xẻo Mác (An Phú, AG).v.v. 2.2.2. Địa danh chỉ đặc trưng, đặc<br /> Tắt do hiện tượng biến âm nên có nơi điểm của thủy văn<br /> gọi là tắc: Đường nước thường là nhỏ để đi Ở Tây Nam Bộ có rất nhiều địa danh<br /> tắt từ dòng nước này đến dòng nước khác chứa thành tố cái. Nhiều nhà nghiên cứu đã<br /> cho gần [5; 56]. Các địa danh gắn với yếu cố gắng giải thích ý nghĩa và nguồn gốc<br /> tố này nhưl: ấp Tắc Ráng (Rạch Giá, KG), của thành tố này. Trong Đất Gia Định xưa,<br /> sông Tắc Thủ (Thới Bình, CM), vàm Tắt Sơn Nam cho rằng: “Rạch bắt nguồn từ bờ<br /> Bà Đồng (Bình Minh, VL), địa điểm Tắt sông cái đổ vào ruộng. Tên rạch thường có<br /> Cát (Long Hồ, VL). chữ cái đứng đầu, có lẽ do chữ “ngả cái”<br /> Khém chỉ con rạch cùng ( nghĩa là nằm tức là ngả đổ ra sông cái, nói gọn lại”5.<br /> ở vị trí cuối cùng – TG) (như xép, xẽo) [6: Trong Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam<br /> 17]. Các tên gọi như cầu Khém Dưới (Bình Bộ của Bùi Đức Tịnh: “Cái là tiếng rút gọn<br /> Đại, BT), rạch Khém Bà Hành, Khém Cạn của “sông cái”, chỉ có nhiều con sông lớn<br /> (Long Phú, ST), kinh Khém Lớn (Cao Lãnh, có nhiều sông nhỏ, rạch, xẽo, mương... đổ<br /> ĐT), sông Khém Rạch Già, Khém Sâu ra đó. Cái là do từ kẻ mà ra”6. Theo Trần<br /> (Long Phú, ST), cầu Khém Trên (Bình Đại, Ngọc Thêm: “...cái vốn có nghĩa là mẹ,<br /> BT), rạch Khém Vườn (Cao Lãnh, ĐT). được chuyển thành nghĩa lớn, quan trọng,<br /> Vàm trong tiếng Khmer là “piam” (có chủ yếu (sông cái, đường cái..)”7. Như vậy,<br /> người phiên âm piêm, piăm), chỉ chỗ ngã cái vốn có nghĩa là “mẹ, lớn”; có nguồn<br /> ba sông, nơi sông nhỏ hay rạch đổ nước gốc tiếng Việt cổ, nay ít thông dụng.<br /> vào sông lớn [4; 121]. Liên quan có các địa Như̛ng theo Lê Trung Hoa, cái là từ cổ, có<br /> danh chợ Vàm (Trà Ôn, VL), rạch Vàm nghĩa là “sông/rạch”8 dùng chỉ dòng nước<br /> Buôn (Trà Cú, TV), ấp Vàm Kinh (Gò lớn, nhỏ có những địa danh như cầu, sông<br /> Công Đông, TG), rạch Vàm Giồng (Gò Cái Bé (KG), Rạch Ngọn Cái (Châu<br /> Công Tây, TG), rạch Vàm Cả Lức (Thạnh Thành, AG).<br /> Phú, BT), sông có tên Vàm Cỏ (LA), khu Đảo, rạch Ụ (Hà Tiên, KG), ụ chính là<br /> cư dân ven biển Vàm Gãnh (KG), địa điểm “dòng nước nhỏ” (TMĐ). Bên cạnh đó địa<br /> Vàm Trên (Chợ Thủ, AG), địa điểm Vàm danh chỉ nhiều nhánh như: cầu, sông, rạch<br /> Vòng ở Bình Minh (VL).v.v. Cái Đôi (Vĩnh Long, VL). Gọi Cái Đôi vì<br /> Ngoài ra là những địa danh phản ánh nước từ sông Tiền (sông Cái) chảy vào địa<br /> đặc trưng địa hình khác liên quan đến nước phận này chia làm 2 nhánh: nhánh sông<br /> như sông, suối, hồ, đảo, vũng, bàu, búng, Cái Đôi và nhánh sông Cái Đôi Cạn. Ngoài<br /> xép, ao, hóc, mương, kinh, đìa.v.v. Thử đặt ra, còn địa điểm ở Duyên Hải (TV) và rạch<br /> trong tương quan so sánh, có thể thấy dấu ở Mang Thít (VL), Long Hồ (VL), Sa Đéc<br /> ấn đặc trưng địa hình phản ánh qua địa (ĐT) cũng mang tên Cái Đôi, rạch Cái Đôi<br /> danh tương ứng đặc trưng vùng miền. Ví Lớn, Cái Đôi Bé (Bình Tân, VL), cầu Cái<br /> dụ như tỉnh Khánh Hòa với những nét Đôi Nhỏ (Phú Tân, CM); thị trấn Cái Đôi<br /> riêng về địa hình là biển, núi đồi nên các Vàm (Cái Nước, CM). Cái Chóc là tên một<br /> địa danh phản ánh địa hình là bàu, gành, con rạch ở tỉnh Sóc Trăng. Cái Cỏ là tên<br /> đầm, mũi, vụng (vũng), rạn (rạng), gộp, con rạch ở huyện Châu Thành, tỉnh Bến<br /> <br /> <br /> 48<br /> VÕ NỮ HẠNH TRANG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> Tre. Cái Cỏ cũng là rạch cỏ. Cái Chuối là là Cổ Hổ, Củ Hủ, Cổ Hũ. Cổ Hũ là khúc<br /> tên sông ở huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh sông rộng mà có một đoạn tóp lại như cổ cái<br /> Long. Cái Chuối là “sông hay rạch chuối”. hũ. Rạch, cầu Cổ Lịch (Cái Bè, TG) là dòng<br /> Cái Lá là tên một con rạch ở huyện Cai nước nhỏ và cong giống cổ con lịch. Sông<br /> Lậy, tỉnh Tiền Giang. Cái Lá là rạch (lá) Cổ Cò (Mỹ Xuyên, ST), vì đoạn giữa sông<br /> dừa nước. tóp lại như cổ con cò. Vùng đất Tràm Chẹt<br /> Bên cạnh đó có Thông Lưu là tên của (Giồng Riềng, KG) là khu rừng tràm có<br /> ấp (Vĩnh Lợi, BL) phản ánh “dòng chảy dòng nước hẹp; rạch Khe Luông (Long Hồ,<br /> thông suốt. Rạch Chân Rích (Bình Tân, VL) mang tên đó cũng vì lý do tương tự.<br /> VL), gọi Chân Rích có lẽ có âm gốc Chân Ngoài ra, những địa danh phản ánh<br /> Rít, vì rạch có nhiều nhánh nhỏ như chân một số đặc trưng khác như rạch có tên gọi<br /> con rít. Cầu Cựa Gà (Chợ Gạo, TG), vốn là Cửa Lấp (Phú Quốc, KG) vì “mỗi năm vào<br /> tên kinh/rạch, được chuyển hóa thành tên mùa gió nam (gió hướng tây) sóng biển lùa<br /> cầu, chỉ dòng nước lớn có nhánh nhỏ đâm cát lấp kín cửa rạch, đến mùa gió chướng<br /> ngang giống như cựa con gà trống. Giao (gió hướng đông) thì rạch được nước thủy<br /> Miệng là tên sông nhánh ở Cái Bè (TG); triều mở cửa ra”9, rạch Đường Bưng (Tam<br /> Giao Miệng vì có hai phụ lưu giao nhau. Bình, VL) là “đường nước chảy qua vùng<br /> Rạch Kè Đôi (VL) nghĩa là “hai dòng”. bưng”, chợ Gãy (ĐT) phản ánh đặc trưng<br /> Ngã ba (Trà Vinh, TV), rạch (Bình Minh, đây là nơi gặp nhau giữa 5 con sông và<br /> VL) tên Đuôi Cá vì đoạn cuối rạch chia kinh: Đồng Tiến, Tư Mới (Quatre Bis),<br /> làm hai nhánh rẽ ra như đuôi cá. Phước Xuyên, Dương Văn Dương<br /> Ở Tây Nam Bộ có nhiều kênh rạch (Lagrange) và Kháng Chiến. Thời Pháp<br /> không thông với kênh rạch khác và vì thế thuộc chỉ mới có hai con kinh mang tên<br /> có những địa danh phản ánh đặc trưng này Pháp, tạo thành một góc nhọn 300. Gọi Gãy<br /> như đầm (Trần Văn Thời, CM), kênh (Năm vì hai con kinh nối tiếp nhau giống như một<br /> Căn, CM), (Ngã Năm, ST) tên Cùng vì khúc cây gãy, hay sông Bà Cờ Nhỏ (Mang<br /> đầm, kênh không thông với sông rạch mà Thít, VL) có lẽ là biến âm của Bàn Cờ Nhỏ,<br /> chảy vào ruộng; bưng (Vũng Liêm, VL) vì sông rạch chằng chịt nơi đây.<br /> tên Cụt. Sông Đầm Cùng (Phú Tân, CM) bị 2.2.3. Địa danh chỉ sự vận động, tính<br /> nói và viết chệch thành Đồng Cùng, có chất của thủy văn<br /> người ghi nhầm là Đầm Cùn vì sông này Nói đến dòng nước xoáy có địa điểm<br /> vốn là một cái đầm không thông thương mang tên là Bún Đình (Châu Thành A,<br /> với sông rạch nào; thị trấn (Phụng Hiệp, VL). Bún Đình có lẽ âm gốc là Búng Đình,<br /> HG) tên là Kinh Cùng, cũng viết Kênh là chỗ dòng nước xoáy tròn gần một cái<br /> Cùng, là “con kinh ở vị trí cuối cùng” hoặc đình. Ấp Búng Lớn, Búng Nhỏ (An Phú,<br /> “kinh lan tỏa vào ruộng”; cầu Kinh Cụt AG), búng lớn là “chỗ nước xoáy lớn”,<br /> (Vĩnh Long, VL), thường bị viết sai thành búng nhỏ là “chỗ nước xoáy nhỏ”. Rạch Bà<br /> Kinh Cục. Xoay (Mang Thít, VL) có dạng gốc là Bờ<br /> Phản ánh đặc điểm dòng nước bị hẹp Xoay vì tại đây có câu ca dao:<br /> lại ở một đoạn nào đó là những địa danh Sông Mang Thít có dòng nước xoáy<br /> như sông Cổ Hủ (Chợ Mới, AG), cũng gọi Rạch Bà Xoay nước chảy lòng vòng.<br /> <br /> <br /> 49<br /> SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019)<br /> <br /> <br /> Rạch Cần Lố (Cao Lãnh, ĐT) vốn có Để chỉ nước cạn có sông, thôn Bể Cạn<br /> gốc từ tiếng Khmer: Srôk Canloh, nghĩa là ở cạnh bờ phía nam sông Tiền (ĐT), Bể<br /> “nước lộn (xoáy)”. Cầu (Đầm Dơi, CM) Cạn vì khi nước lên, lái ghe không thuộc<br /> tên Giáp Nước vì đó là nơi hai dòng nước đường thường mắc cạn. Sông, xã Cửa Cạn<br /> không cùng chiều gặp nhau, tạo thành vùng (Phú Quốc, KG) vì mùa nam, gió biển đem<br /> nước xoáy. Vịnh Nước Sôi (Ngọc Hiển, cát lấp cửa sông. Suối Cạn là tên rạch ở<br /> CM) do nước xoáy tại đây giống nước sôi. Càng Long (TV). Để chỉ nước sâu có cầu<br /> Vàm Xoáy là địa điểm (Ngọc Hiển, CM), mang tên Cả Rạn Sâu (Thạnh Phú, BT), có<br /> địa danh này nửa gốc Khmer nửa gốc tiếng lẽ là biến âm của Cái Rạn Sâu, là rạch chảy<br /> Việt, nghĩa là “ngã ba sông/rạch có nước qua vùng có đá ngầm (rạn) và sâu. Lòng<br /> xoáy”. Vịnh (Trà Ôn, VL) có tên Vần Ống là tên kênh (Đầm Dơi, CM), tên sông<br /> Xoay. Vần Xoay do rạch bắt nguồn chỗ hai (Bình Tân, VL). Lòng Ống là chỉ dòng<br /> dòng nước gặp nhau, xoáy tròn. Rạch (Lấp nước ở giữa sâu xuống như lòng cái ống.<br /> Vò, ĐT) tên Nước Xoáy. Người Khmer Chợ Cửa Khâu (Gò Công Đông, TG) có<br /> cũng gọi như thế Prêk Tưk Vil “rạch nước gốc là rạch Cửa Sâu, vì rạch này thông ra<br /> xoáy”. Địa điểm Xẻo Búng (Phú Tân, AG) cửa Tiểu, lòng sông sâu rộng (VC). Kênh<br /> nghĩa là dòng nước nhỏ nhưng xoáy nên nối sông Cần Giuộc với Vàm Cỏ (LA)<br /> nguy hiểm. mang tên Nước Mặn do “nước có vị mặn”<br /> Phản ánh dòng chảy thẳng là địa danh vì nước biển xâm nhập vào. Rạch Nước<br /> Ruột Ngựa gắn với kênh (Long Hồ, VL. Mục (Bến Lức, LA) vì xưa kia nơi đây lá<br /> Ruột Ngựa vì dòng thẳng như ruột ngựa. cây rừng rụng nhiều trôi về làm nghẽn lối<br /> So Đũa là tên rạch (Rạch Giá, KG), (Mang đi của ghe xuồng. Ngoài ra còn có sông<br /> Thít, VL) vì rạch chạy thẳng như chiếc Nước Trong (HG) hay rừng (Tam Bình,<br /> đũa. Rạch, kinh, sông Cái Ngay (CM) tức VL) tên gọi là Nước Đục.v.v.<br /> “kinh/sông thẳng”. Rạch Ngả Ngay (Phú 3. Kết luận<br /> Tân, AG) là “rạch thẳng”. Qua địa danh, bức tranh địa hình Tây<br /> Bên cạnh đó là những địa danh phản Nam Bộ được phác hoạ khá rõ nét. Đó là<br /> ánh độ quanh co của dòng chảy như rạch vùng đất nhiều sông ngòi, kênh rạch với rất<br /> (Trà Ôn, Mang Thít, VL) có tên Sâu do nhiều đặc trưng riêng về địa hình được<br /> rạch ngoằn ngoèo như con sâu. Sông Cái phản ánh qua những địa danh gắn liền với<br /> Quanh (Mỹ Xuyên, ST) là “con sông thế nước như sông, hồ, bàu, búng, trấp,<br /> quanh co” (NTB). Rạch Cái Rắn (Cai Lậy , ngọn, tắt, cái, khém, lạch, xẽo... cùng với<br /> TG), có cách lý giải: “Rạch chạy ngoằn đó là địa danh gắn với địa thế đất như<br /> ngoèo như con rắn”; “Trước đình Phú giồng, cồn, gò, doi, biền, núi và thẳng,<br /> Nhuận có một hang rắn lớn, tập hợp những cong, hẹp, trũng, chìm, trẹm cũng được bộc<br /> loài rắn dữ nên gọi là “Cái Rắn” 10. Sở dĩ lộ qua địa danh.<br /> kênh (Vũng Liêm, VL) có tên Rắn Hổ vì Ngoài phản ánh địa hình, các địa danh<br /> kinh ngoằn ngoèo như con rắn. Vàm Vòng Tây Nam Bộ còn ghi dấu khá cụ thể đặc<br /> là địa điểm ở Bình Minh (VL), có tên này trưng thủy văn vùng Tây Nam Bộ. Đó là<br /> vì là nơi 4 dòng chảy gặp nhau tạo thành những đặc điểm của dòng nước (hẹp, lớn,<br /> một dòng nước chảy vòng. nhỏ, nhiều nhánh, chia hai dòng), sự vận<br /> <br /> <br /> 50<br /> VÕ NỮ HẠNH TRANG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> <br /> <br /> động của dòng nước (xoáy, thẳng, ngang, cách là một vùng văn hóa và các tiểu vùng<br /> quanh co), tính chất dòng nước (đục, trong, của nó” trong Văn hóa phi vật thể người<br /> Việt miền Tây Nam Bộ, Kỷ yếu Hội thảo<br /> mặn). Chỉ với chừng đó, những người chưa<br /> khoa học khoa Văn hóa học và Tạp chí Văn<br /> từng đến Tây Nam Bộ cũng có thể hình hóa nghệ thuật.<br /> dung được vùng văn hóa sông nước đặc biệt 3. Huỳnh Lê Thị Xuân Phương (2009), Văn<br /> này. Nghiên cứu văn hóa một vùng đất hóa qua địa danh Khánh Hòa, Luận văn<br /> thông qua địa danh, cụ thể ở đây là Tây thạc sĩ, Văn hóa học, Trường ĐHKHXH-<br /> Nam Bộ qua góc nhìn địa văn hóa, thật sự NV, TP HCM.<br /> cần thiết. Từ góc nhìn này, đặc trưng vùng 4. Lê Trung Hoa (2005), Tìm hiểu nguồn gốc<br /> đất Tây Nam Bộ đã ít nhiều được định hình. địa danh Nam Bộ và tiếng Việt văn học,<br /> HN, Nxb Khoa học xã hội.<br /> Qua đó có thể nhận ra người Tây Nam Bộ<br /> 5. Lê Trung Hoa (2006), Địa danh học Việt<br /> khi đặt tên thường nôm na, dễ hiểu phản Nam, HN, Nxb Khoa học xã hội.<br /> ánh hình dạng, đặc điểm của đối tượng dựa 6. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Tìm hiểu nguồn<br /> trên những điều mắt thấy tai nghe, những gì gốc địa danh Nam Bộ qua chuyện tích và<br /> gắn bó hàng ngày trong đời sống. giả thuyết, Nxb KHXH, HN.<br /> Chú thích: 7. Nguyễn Văn Ái (cb) (1994), Từ điển<br /> phương ngữ Nam Bộ, Nxb TP. HCM.<br /> 1<br /> Hoàng Phê (cb) (2003), Từ điển Tiếng Việt,<br /> 8. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người môi<br /> Nxb Đà Nẵng<br /> trường và văn hóa, Nxb KHXH.<br /> 2<br /> Phỏng vấn ông Huỳnh Văn Hậu, 39 tuổi, khu<br /> 9. Sơn Nam (1997), Đất Gia Định xưa, Nxb<br /> phố Thị Tứ, thị trấn Sóc Sơn, huyện Hòn Đất,<br /> Trẻ TP.HCM.<br /> Kiên Giang.<br /> 3<br /> Văn Tân (cb) (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb 10. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc<br /> Khoa học Xã hội văn hóa Việt Nam, Nxb Tp.HCM.<br /> 4<br /> Cửa Bát Xắt ngày nay đã bị bồi lắp. 11. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái<br /> 5 nhìn địa văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc,<br /> Phỏng vấn bà Lê Thị Vân, 47 tuổi, xã Tân<br /> HN.<br /> Công Chí, Tân Hồng, Đồng Tháp.<br /> 6 12. Đinh Thị Dung (2009), “Văn hóa du lịch từ<br /> Nxb Trẻ TP.HCM, 1997, tr.15.<br /> góc nhìn sử văn hóa và địa văn hóa (trường<br /> 7<br /> Nxb Văn nghệ, 1997, tr.13 hợp văn hóa Huế)”,<br /> 8<br /> Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn http://vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-<br /> hóa Việt Nam, Nxb TP.HCM, tr.43. hoc-ung-dung/van-hoa-du-lich/1509-dinh-<br /> 9<br /> Lê Trung Hoa(2005), Địa danh Nam Bộ, Nxb thi-dung-van-hoa-du-lich-tu-goc-nhin-su-<br /> Khoa học xã hội, tr.42 van-hoa-va-dia-van-hoa.html<br /> 10<br /> Phỏng vấn ông Nguyễn Văn Út, 65 tuổi, xã 13. Lý Tùng Hiếu (2009), “Vùng văn hóa Nam<br /> Dương Tơ, huyện Phú Quốc, Kiên Giang. Bộ định vị và đặc trưng”,<br /> 11<br /> https://baocantho.com.vn/hinh-anh-con-ran- http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-<br /> trong-truyen-dan-gian-dbscl-a20779.html hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/1238-ly-<br /> tung-hieu-vung-van-hoa-nam-bo-dinh-vi-<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO va-dac-trung-van-hoa.html<br /> 1. Bùi Đức Tịnh (1999), Lược khảo nguồn gốc 14. http://nguoianphu.com/topic/23/nguon-<br /> địa danh Nam Bộ, Nxb Văn nghệ, HN. goc-mot-so-dia-danh-o-nam-bo-giai-thich-<br /> 2. Đinh Thị Dung (2010), “Tây Nam Bộ với tư theo-tieng-khmer/5<br /> <br /> Ngày nhận bài: 25/07/2018 Biên tập xong: 15/12/2018 Duyệt đăng: 20/01/2019<br /> <br /> 51<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2