intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Diễn biến tỷ giá USD-VND 2007-2012

Chia sẻ: Jang Momo | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:14

510
lượt xem
104
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tỷ giá hối đoái là một chính sách vĩ mô mà bất cứ quốc gia nào cũng quan tâm. Ở Việt Nam, TGHĐ không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng. Do vậy, việc biến động của tỷ giá bất thường là một mối quan ngại lớn. Trong thời gian tới, TGHĐ biến động theo hướng nào, quả thật không dễ dự đoán. Sự biến động của tỷ giá sẽ khó lường, bởi nhiều nhân tố tác động...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Diễn biến tỷ giá USD-VND 2007-2012

  1. I. Những vấn đề chung 1.1 Tỷ giá hối đoái USD/VND Tỷ giá hối đoái là một chính sách vĩ mô mà bất cứ quốc gia nào cũng quan tâm. Ở Việt Nam, TGHĐ không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng. Do vậy, việc biến động của tỷ giá bất thường là một mối quan ngại lớn. Trong thời gian tới, TGHĐ biến động theo hướng nào, quả thật không dễ dự đoán. Sự biến động của tỷ giá sẽ khó lường, bởi nhiều nhân tố tác động như: nhập siêu còn lớn không chỉ trong ngắn hạn mà cả trong trung hạn; thâm hụt ngân sách vẫn ở mức cao (trên dưới 6%/GDP); giá vàng trong nước và thế giới luôn tăng mạnh (do khủng hoảng chi tiêu công tại một số quốc gia Châu Âu, châu Mỹ); nhu cầu ngoại tệ nói chung, USD nói riêng vào những tháng cuối năm sẽ tăng cao do khách hàng vay vốn đến hạn trả nợ ngân hàng; do nhu cầu chuyển lợi nhuận về nước của các nhà đầu tư nước ngoài; do kinh tế ngầm vẫn phát triển rất mạnh, khó có khả năng ngăn chặn, nên đôla hóa nền kinh tế còn ở mức cao; do thực hiện chính sách đồng tiền mạnh hay yếu của một số quốc gia trong khu vực… Dưới đây là Tỷ giá hối đoái Đô la Mỹ lần cuối cập nhật 19 tháng Mười một 2012 từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Tỷ giá hối đoái Việt Nam Đồng lần cuối cập nhật 19 tháng Mười một 2012 từ Yahoo Finance. USD VND VND USD coinmill.com coinmill.com 0.50 10,400 20,000 0.96 1.00 20,800 50,000 2.40 2.00 41,600 100,000 4.80 5.00 104,200 200,000 9.60 10.00 208,400 500,000 23.99 20.00 416,800 1,000,000 47.98 50.00 1,042,000 2,000,000 95.97 100.00 2,084,000 5,000,000 239.92 200.00 4,168,000 10,000,000 479.85 500.00 10,420,000 20,000,000 959.69 1000.00 20,840,000 50,000,000 2399.23 2000.00 41,680,000 100,000,000 4798.47 5000.00 104,199,800 200,000,000 9596.94
  2. 10,000.00 208,399,800 500,000,000 23,992.35 20,000.00 416,799,600 1,000,000,000 47,984.69 50,000.00 1,041,999,000 2,000,000,000 95,969.38 100,000.00 2,083,998,000 5,000,000,000 239,923.46 USD tỷ lệ VND tỷ lệ 19 tháng Mười một 2012 19 tháng Mười một 2012 1.2 Mối quan hệ thương mại Mỹ - Việt 2007-2012 Việt Nam và Mỹ đã có một số thỏa thuận dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau hợp tác thúc đẩy kinh tế phát triển trong lĩnh vực thương mại giao thương giữa hai nước. Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký kết vào tháng 7/2000 và có hiệu lực vào tháng 12/2001 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại và đầu tư giữa hai nước. Ngoài ra, hai bên đã ký một loạt thỏa thuận và hiệp định kinh tế như Hiệp định Dệt may (2003), Hiệp định Hàng không (2003), Thư Thỏa thuận về Sáng kiến cạnh tranh Việt Nam, Thỏa thuận về hệ thống cấp visa điện tử cho hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ... và đang trao đổi, đàm phán tiến tới ký kết Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế - kỹ thuật, Hiệp định Hàng hải, Bản ghi nhớ về Hợp tác nông nghiệp.. Theo số liệu mới nhất của hải quan Mỹ công bố ngày 4-11-2011, thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Mỹ trong năm 2011 tiếp tục tăng mạnh so với năm 2010. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ trong 8 tháng đầu năm đạt 11,3 tỷ USD, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm 2010 và xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam đạt 2 ,7 tỷ USD, tăng 21,5%. Như vậy là việc phát triển quan hệ giữa hai nước không chỉ đem lại lợi ích cho Việt Nam mà còn đem lại lợi ích cho cả Hoa Kỳ. Kể từ năm 2007, Mỹ và Việt Nam có một cơ chế chung thúc đẩy thương mại đầu tư là Hội đồng tư vấn Việt Mỹ, nơi mà bên cạnh chức năng tư vấn chính sách còn là điểm để các nhà đầu tư Mỹ thảo luận với các đối tác Việt Nam các kế hoạch làm ăn một cách “cơ bản” và “có hệ thống” nhất. Thông qua cầu nối này, trong hơn một năm qua các nhà đầu tư đã đề xuất ít nhất khoảng 10 dự án trong hầu hết các lĩnh vực quan trọng như dầu khí, điện lực, hàng không và công nghệ thông tin. 10 thành viên chính thức về phía Mỹ trong hội đồng, cùng với một số doanh nghiệp chưa là thành viên khác, đã cam kết sẽ đầu tư khoảng 4-5 tỷ USD vào Việt Nam trong vòng 2-3 năm tới.
  3. Trong giai đoạn 2007-2011, Mỹ đã luôn kêu gọi Việt Nam mở cửa thương mại dịch vụ, đồng thời cũng đưa ra những tiêu chuẩn kĩ thuật đối với hàng hóa, đặc biệt là nông sản. Bình luận về vấn đề này, ông Ron Kirk khẳng định đây là những tiêu chuẩn chung mà Mỹ áp dụng với hàng hóa nhập khẩu, chứ không cá biệt dành cho Việt Nam. Ông cũng cho rằng việc kim ngạch xuất khẩu cá da trơn vào Mỹ đã tăng gấp 3 lần trong năm 2011, lên mức 300 triệu USD cho thấy doanh nghiệp Việt không quá khó khăn khi tiếp cận thị trường này. Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Mỹ tại ASEAN. Năm 2011, kim ngạch xuất nhập khẩu 2 chiều giữa 2 nước là 22 tỷ USD, tăng 17%. Mỹ cũng hứa sẽ giúp đỡ Việt Nam nhiều hơn trong giai đoạn phát triển. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), kết thúc 8 tháng đầu năm 2011, Mỹ có tổng cộng 31 dự án FDI đăng ký mới và mở rộng đầu tư tại Việt Nam, với tổng vốn gần 92,7 triệu USD, đứng thứ 11 trong số các quốc gia – lãnh thổ. Trước đó, cơ quan chức năng 2 nước cho biết kim ngạch thương mại 2 chiều đạt khoảng 22 tỷ USD trong năm 2011, tăng 17% so với 2010. Hiện tại, rất nhiều công ty, tập đoàn lớn của Mỹ đã có mặt tại Việt Nam, Starwood Hotels & Resorts, Citigroup và American Group, New York & Company, Alfonso DeMatteis, Dickerson Knight Group, AIA... Tất cả đã khẳng định được chỗ đứng của mình tại thị trường Việt Nam, và là những bằng chứng thuyết phục để thu hút thêm các nhà đầu tư Mỹ đến Việt Nam. II. Diễn biến tỷ giá hối đoái USD/VND từ 2007-2012 2.1 Diễn biến năm 2007  Diễn biến - Lần đầu tiên trên thị trường ngoại hối VN, lượng ngoại tệ mà NHNNVN mua vào tăng mức kỉ lục 7 tỷ USD chỉ trong vòng 5 tháng đầu năm. Con số này gần bằng cả lượng kiều hối chuyển về theo kênh chính thức trong hai năm trước đó và vượt cả lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài qua mỗi năm của giai đoạn trước 2006. - Lượng ngoại tệ chuyển về Việt Nam trong 6 tháng đầu năm nay đã tăng khoảng 12% so với cùng kỳ năm 2006 - Ngoại tệ vào nhiều đã tạo nên một diễn biến chưa từng có trong hàng chục năm qua: Tỷ giá của các ngân hàng thương mại (có thời điểm cả trên thị trường tự do)
  4. thấp hơn tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng, do Ngân hàng Nhà nước công bố Tỷ giá VND/USD 6 tháng cuối năm 2007 đã diễn biến như sau: tháng 7 tăng 0,22%, tháng 8 tăng 0,16%, tháng 9 tăng 0,57%, tháng 10 giảm 0,6%, tháng 11 giảm 0,28%, tháng 12 giảm 0,19%. Cụ thể như sau: Hình 2.7: Diễn biến tỷ giá USD/VND trong năm 2007 (Nguồn: HSBC, Reuters)  Nguyên nhân - Thứ nhất, kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục với tốc độ cao hơn là tiền đề quan trọng để đồng tiền lên giá so với các đồng tiền khác (bình quân năm thời kỳ 1996- 2000 tăng 7%, thời kỳ 2001- 2006 tăng trên 7,6%, trong đó 2 năm nay tăng trên 8%). Khi có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn thì đồng tiền lên giá là tất yếu. - Thứ hai, cùng với tăng trưởng kinh tế cao và liên tục, với chủ trương chủ động mở cửa, hội nhập, hiện có một lượng ngoại tệ lớn chảy vào nước ta từ nhiều nguồn:
  5. + Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm 2006. + Vốn đầu tư gián tiếp (FII) đổ vào thị trường chứng khoán tăng mạnh, lên đến 7,414 tỷ USD. + Năm 2007, nước ta nhập siêu khoảng 12 tỷ USD, trong khi kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ lại đạt 45 tỷ USD. + Năm 2007 là thời điểm nước ta gia nhập WTO, ta tự do hóa nguồn vốn vãng lai + Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) năm 2006 cũng đạt kỷ lục về lượng vốn cam kết (4,45 tỷ USD) và là năm thứ hai liên tục thực hiện vượt mức kế hoạch (1,81 tỷ USD). + Nguồn kiều hối (bao gồm của Việt kiều và số tiền do lao động xuất khẩu) gửi về nước đạt mức kỷ lục (khoảng 4,7 tỷ USD). + Chi tiêu của khách quốc tế đến Việt Nam năm nay cũng đạt kỷ lục (ước đạt trên 2,8 tỷ USD). + Lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán hiện cũng đạt khoảng 4 tỷ USD, chiếm khoảng 28,6% tổng giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán của Việt Nam. Khi có lượng ngoại tệ lớn chảy mạnh vào trong nước, thì đó vừa là kết quả, vừa tạo tiền đề để tỷ giá khó tăng lên. - Thứ ba, đồng USD giảm giá so với các đồng tiền chủ chốt trên thế giới, như 1 USD hiện chỉ đổi được dưới 0,76 Eur, 0,51 Bảng Anh; giảm giá so với một số đồng bản tệ của các nước, như 1 USD hiện chỉ đổi được 7,72 CNY (Nhân dân tệ), 9,35 Won Hàn Quốc, 35,6 Baht Thái Lan,... - Thứ tư, có một nguyên nhân quan trọng nhưng khá trừu tượng mà không phải ai cũng để ý đến, đó là “cánh kéo tỷ giá” giữa tỷ giá hối đoái và tỷ giá sức mua tương đương. 1 USD tại Việt Nam có sức mua vào khoảng 4,3 USD tại Mỹ 2.2 Diễn biến năm 2008-2009  Năm 2008 Năm 2008 được coi là "năm bất ổn của tỷ giá" với những biến động tỷ giá rất phức tạp với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung cầu ngoại tệ và thậm chí cả tin đồn.
  6. Chỉ trong năm 2008, biên độ tỷ giá đã được điều chỉnh 5 lần, một mật độ chưa từng có trong lịch sử. Giai đoạn Diễn biến tỷ giá Nguyên nhân 1/1/2008 đến Tỷ giá USD/VND liên ngân -Cung USD tăng: các NĐT dự đoán VND sẽ tăng giá, 25/3/2008 hàng liên tục sụt giảm từ cộng với lãi suất VND cao hơn USD nên các NĐT Tỷ giá liên tục 16.112 đồng xuống 15.960 đẩy mạnh chuyển USD sang VND; NDDT nước giảm, dưới mức đồng, mức thấp nhất là ngoài mua 1,4 tỷ USD Trái phiến CP; các NHTM sàn 15.560 đồng. đẩy mạnh bán USD; lượng kiều hối chuyển về (VND liên tục Trên thị trường tự do, tỷ giá nước khá lớn do thời điểm gần Tết âm lịch. lên giá) USD/VND giao động 15.700 -CP và NHNN đẩy mạng kiềm chế lạm phát, thắt -16.000 đồng. chặt tiền tệ, tăng lãi suất cơ bản lên 8.75%/năm; hạn chế bơm tiền ra lưu thông, nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-1%. 26/3/2008 đến -Tỷ giá tăng dẫn đều và đột -Tâm lý hoang mang cộng với động thái đầu cơ của 16/7/2008 ngột tăng mạnh từ giữa giới buôn ngoại tệ trên thị trường tự do đẩy giá Tăng với tốc độ tháng 6, đỉnh điểm đến USD lên cao. chóng mặt tạo 19.400 đồng vào ngày 18/6, -NHNN nới rộng biên độ tỷ giá USD/VND lên +/- sơn sốt USD trên cách hơn 2.600đ so với mức 2%. cả 2 thị trường. trần. -Cầu ngoại tệ tăng: nhu cầu mua ngoại tệ trả các (VND mất giá) -Tỷ giá đạt đỉnh vào ngày khoản nợ của cả DN xuất-nhập khẩu đến hạn tăng 18/6 và sau đó giảm dần. cao; tình hình thanh khoản thấp trên thị trường thế giới đẩy nhu cầu mua USD chuyển vốn về nước lên cao (bán ròng 0,86 tỷ USD). -Cung ngoại tệ thấp: NĐT nước ngoài bắt đầu rút vốn khỏi VN do lo ngại tình hình kinh tế; NHNN ban hành Quyết định số 09/2008 không cho phép vay ngoại tệ đối với DN xuất khẩu nhằm giảm hiện tương DN XK vay ngoại tệ bán lại trên thị trường. 17/07/2008 -Cơn sốt USD đã được chặn -Lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN đã công khai đến15/10/2008 đứng. công bố dự trữ ngoại hối quốc gia là 20,7 tỷ USD Tỷ giá -Tỷ giá giảm mạnh từ nhằm làm dịu tin đồn USD đàn trở nên khang hiếm. USD/VND giảm 19.400 đồng xuống còn -NHNN ban hành 1 loạt các chính sách nhằm bình ổn dần và đi vào 16.400 đồng. thị trường ngoại tệ: kiểm soát chặt các đại lý thu bình ổn -Bình ổn quanh mức đổi ngoại tệ; cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ 16.600đồng từ tháng 8 đến khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng, cho phép tháng 11. xuất khẩu vàng; bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn. 16/10/2208 đến -Tỷ giá USD/VND tăng đột -Cầu ngoại tệ tăng: NĐT nước ngoài mua USD để hết 2008 ngột trở lại từ 16.600 lên đảm bảo thanh khoản; nhu cầu mua USD của NH Tỷ giá mức cao nhất là 16.998 sau nước ngoài cũng tăng mạnh (khoảng 40 triệu USD/VND tăng đó giảm nhẹ. USD/ngày); hiện tượng nhập lậu vàng tăng cao. trở lại -Sau khi NHNN nới rộng -Cung hạn chế: NHNN chỉ bán ra hơn 1 tỷ USD cho biên độ lên +/-3 thì tăng tới các NHTM đáp ứng nhu cầu nhậ khẩu 1 số mặt mức 17.440 vào 7/11. hàng thiết yếu.  Năm 2009
  7. Tỷ giá USD/VNĐ lại tiếp tục tăng đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5% khiến cho tỷ giá ngoại tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến và giao dịch trên TTTD tiến sát mức 18000đồng/USD.Trong bối cảnh nguồn ngoại tệ ròng vào VN là + trong 4 tháng đầu năm thì dường như yếu tố chính khiến cho tỷ giá USD/VNĐ tăng mạnh lại là do sự găm giữ ngoại tệ. Giai đoạn Diễn biến tỷ giá Nguyên nhân 1/1/2009 đến -Tỷ giá USD/VND liên tục tăng trên cả 2 -Hiện tượng găm giữ ngoại tệ chờ lên giá. 24/11/2009 thị trường. -Nhiều DN vay bằng USD, lo ngại USD lên Tỷ giá liên tục -Tháng 1-3: tỷ giá LNH giao động 17.450- giá nên mua USD để dự trữ trước. tăng 17.700, tỷ giá trên thị trường tự do cao hơn -NHNN có chính sách hỗ trợ cho vay bằng LNH khoảng 200 đồng. VND với lãi suất ưu đãi, thời gia hoàn trả -Tháng 4-9: tỷ giá trên cả 2 thị trường giao dài nên các DN nắm giữ ngoại tệ không động 18.180-18.500. muốn bán ra, chỉ muốn đi vay VND. -Tháng 10 đến 24/11 tỷ giá biến động dữ dội từ 18.450 đến 19.300, có lúc đạt đỉnh 20.000 đồng/USD trên thị trường tự do, 19.750 tại thị trường LNH. 25/11/2009 Tỷ giá bắt đầu giảm về quanh mức 18.500 NHNN đã thực hiện các biện pháp bình ổn đến hết 2009 VND/USD. tỷ giá, đặc biệt có sự chung tay góp sức của Tỷ giá ổn định các NHTM 2.3 Diễn biến năm 2010-2011 Trong năm 2010 các NHTM vẫn tiếp tục áp dụng tỷ giá tại mức trần biên độ của tỷ giá chính thức trong hầu hết các tháng. DO áp lực của tỷ giá trên thị trường NHNN đã phải tăng tỷ giá chính thức từ 17940 lên 18544 giai đoạn 2008-2010 luôn đạt mức tỷ giá trần theo biên độ mà NHNN quy định, chỉ vào một số thời điểm thì tỷ giá này mới thấp hơn trần biên độ. Cùng với việc na7ng tỷ giá thì NHNN còn thực hiện nhiều biện pháp hành chính để giảm áp lực lên thị trường ngoại hối như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, mở rộng đối tượng cho vay bằng ngoại tệ…đồng
  8. thời NHNN tăng lãi suất cơ bản lên 8%/năm. Kết quả là 6 tháng đầu năm 2010 tín dụng ngoại tệ tăng cao và các khoản đầu tư và giải ngân ODA, FDI làm cho nguồn cung ngoại tệ tăng lên làm giảm tỷ giá trên thị trường tự do, giảm khoảng cách giữa tỷ giá trên thị trường tự do với tỷ giá chính thức. Đầu năm 2010, tỷ giá giảm nhẹ và dao động quanh mức 18479 đồng/USD cho đến 2/2010. Nguyên nhân là do nguồn cung USD từ nước ngoài vào Việt Nam tăng, kể cả nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn hỗ trợ phát triển chính thức do năm trước cam kết, đầu tư gián tiếp thong qua thị trường chứng khoán cũng tăng, nguồn kiều hối và lượng khách quốc tế vào Việt Nam cũng tăng lên đáng kể. Điều đó làm cung ngoại tệ tăng lên. Bên cạnh đó, các tập đoàn và các công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hang, sức ép gim giữ ngoại tệ giảm và tỷ giá trên thị trường tự do và thị trường chính thức giảm chênh lệch đáng kể. Từ giữa tháng 2/2010 đến nay tỷ giá tăng và dao động quanh mức 19.000 đồng/USD (18.900-19.100 đồng/USD) và đang có xu hướng giảm do những chính sách tích cực từ phía NHNN. Ngày 11/02, NHNN điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân lien ngân hang từ mức 17.910 VNĐ/USD lên mức 18.544 VNĐ/USD. Nguyên nhân do NHNN có quyết định số 74/QĐ-HNNN giảm mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng. Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng đã làm tăng nguồn vốn khoảng 500 triệu USD (9.000 tỷ đồng) cho các NHTM để cho vay trên thị trường, ngay sau đó NHNN tiếp tục ban hành thông tư số 03/2010/TT-NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức kinh tế tạo tổ chức tín dụng là 1%/năm. Đây được xem là cú hích mạnh khi ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích các tổ chức kinh tế có tiền gửi bằng USD, khi lãi suất trước đó được hưởng có từ 4%-4,5%/năm. Quy định này được xem là đặt các tổ chức kinh tế vào thế tự xử, phải tính toán lợi ích và xem xét bán lại ngoại tệ, chuyển sang VNĐ để có lãi suất tiền gửi cao hơn. KHớp với chính sách này, các NHTM đồng loạt tăng giá USD mua vào để thu hút nguồn ngoại tệ tiềm năng này. Chênh lệch lãi suất vay vốn bằng USD và VNĐ lớn khiến các doanh nghiệp cân nhắc và dịch chuyển sang vay USD. Đến các tháng cuối năm 2010 tỷ giá vẫn tiếp tục tăng mạnh đặc biệt từ tháng 8/2010, tỷ giá trên thị trường tự do lại tăng cao so với tỷ giá chính thức tại các ngân hàng khiến NHNN phải tăng tỷ giá trên thị
  9. trường lien ngân hang từ 18544 VNĐ lên 18932 VNĐ (tăng 2,1%). Và các HNTM vẫn tiếp tục áp dụng mức lãi suất kịch trần. Đến khoảng cuối tháng 9/2010 tỷ giá vào khoảng 19500 VNĐ/USD. Theo số liệu từ bài viết của TS. Võ Đại Lược và TS. Lê Xuân Nghĩa trình bày tại Hội thảo “Ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2010, triển vọng năm 2011” ta thấy đồng nhân dân tệ của Trung Quốc định giá thấp hơn 30% so với USD, tuy nhiên VND lại định giá cao hơn 15% so với USD. Điều đó cho thấy tỷ giá VND/USD được định giá quá cao so với cung cầu thực tế về ngoại tệ. Cuối năm 2010 thì tỷ giá lại tiếp tục biến động tăng, các chủ thể vẫn thực hiện việc mua ngoại tệ để kỳ vọng giá tăng. Cuối tháng 11 tỷ giá lên mức 21500 đồng/USD. Trong năm 2010 ta có thể thấy tỷ giá biến động bất thường, đầu ra ngoại tệ tăng mạnh do chính sách của NHNN về mở rộng đối tượng được vay vốn ngoại tệ nhưng đầu vào ngoại tệ lại rất khiêm tốn. NHTM buộc phải tăng lãi suất huy động lên. Sự bất thường của tỷ giá cho thấy sức mạnh của yếu tố tâm lý người dân, doanh nghiệp. Việc găm giữ USD tiếp tục do tình trạng đô la hóa của Việt Nam ngày càng trầm trọng. Bước sang đầu năm 2011 thì tỷ giá cũng có biến động nhưng không nhiều, tuy nhiên sau thời gian kiềm giữ tỷ giá USD chính thức ở mức 18932 đồng/USD thì đã đẩy chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do lên tới 2000-3000 VND/USD và NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hang thêm 9,3%, đồng thời thu hẹp biên độ tỷ giá xuống còn +/-1% từ ngày 11/02/2011. Có nhiều lý giải đặt ra quanh con số 9,3% đó. Thứ nhất, đó là sự giải phóng áp lực dồn nén quá lớn sau một thời gian tương đối dài. Thứ hai, nhà điều hành muốn một bước để nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giữa hai tỷ giá. Thứ ba, nhà điều hành đã song phẳng hơn và theo yêu cầu của thị trường…Và một điểm quan trọng của nó là xóa bớt kỳ vọng sẽ tiếp tục phá giá trong năm 2011 ở giới đầu cơ, hay trong tâm lý thị trường. Tuy nhiên đến đầu tháng 4/2011 tỷ giá mới có dấu hiệu bình ổn, đó cũng là nhờ NHNN đã triền khai để có thể tăng cung ngoại tệ. Đó là cơ chế áp và siết trần lãi suất huy động USD, thực hiện kết nối và mở rộng đối tượng kết nối, xử lý loạt giao dịch bất hợp pháp trên thị trường tự do…Thêm vào đó, tín dụng ngoại tệ vẫn tăng cao tạo một nguồn cung thương mại từ vốn chuyển đổi cho thị trường; sự chuyển đổi vốn ngoại tệ sang VND cũng có ở các NHTM khi chênh lệch lãi suất cho vay quá hấp dẫn với khoảng
  10. 300% càng tạo cung cho thị trường…Việc cung USD tăng đã làm cho tỷ giá VND/USD lao dốc chóng mặt từ 20940 VND xuống còn 20590 VND kể từ 19/4 – 28/4/2011. Và 29/4 đã trở thành mốc sự kiện quan trọng khi Sở giao dịch NHNN bất ngờ tăng mạnh giá mua vào USD và dự trữ ngoại tệ có sự cải thiện nhanh chóng. Ngày 7/9/2011, 1 tháng sau khi tân thống đốc tiếp nhận nhiệm vụ điều hành, NHNN tổ chức hội nghị ngành, tại đây thong điệp được đưa ra: nếu điều chỉnh tỷ giá VND/USD thì từ nay (tại ngày 7/9)đến cuối năm không quá 1%. Với cam kết này NHNN sẽ khó thuyết phục niềm tin của thị trường về tỷ giá. Tuy nhiên đến cuối 2011, NHNN vẫn giữ được cam kết. Các chính sách đưa ra đã từng bước phát huy được hiệu quả, góp phần ổn định tỷ giá bình quân lien ngân hang thời gian dài ở mức 20803 trong cả tháng 11, đến ngày 14/12 mới điều chỉnh tăng lên 20813 rồi 20828. Đối với tỷ giá ở thị trường chính thức và phi chính thức tính đến giữa tháng 12, tỷ giá ở thị trường phi chính thức giảm đáng kể so với cuối tháng 11, dao động phổ biến trong khoảng từ 21150 đến 21300; ở thị trường chính thức tỷ giá dao động phổ biến từ 21005 đến 21036. 2.4 Diễn biến 6 tháng đầu năm 2012 Các quyết sách rõ ràng và minh bạch của NHNN trong công tác điều hành chính sách tỷ giá nửa đầu năm 2012, cùng với diễn biến khả quan của cung – cầu ngoại tệ trong nền kinh tế (Việt Nam có xuất siêu trở lại sau nhiều năm; cán cân vãng lai thặng dư sau khi đã thâm hụt trong năm 2010 – 2011, góp phần quan trọng tạo nên thặng dư của cán cân tổng thể nửa đầu năm 2012) đã giúp diễn biến tỷ giá USD/VND trong 6 tháng đầu năm 2012 tiếp tục duy trì xu thế ổn định:
  11. + Tỷ giá bình quân liên ngân hàng (BQLNH) tiếp tục được duy trì ở mức 20.828 VND/ 1USD; + Tỷ giá giao dịch của Ngân hàng Thương mại (NHTM) sau một thời gian được duy trì ở mức kịch trần biên độ đã được các ngân hàng điều chỉnh giảm dừng ở mức 20.860 (mua vào) – 20.920 (bán ra) vào thời điểm cuối tháng 6/2012; + Diễn biến tỷ giá trên thị trường chợ đen bám sát diễn biến tỷ giá giao dịch của Ngân hàng Thương mại (NHTM). Bên cạnh diễn biến ổn định của tỷ giá, để thực hiện mục tiêu tăng dự trữ ngoại hối, tăng cường khả năng can thiệp thị trường ngoại hối của NHNN khi cần thiết – tỷ giá mua vào của Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bắt đầu từ ngày 13/2/2012 được điều chỉnh cao hơn tỷ giá mua vào của NHTM. Ước dự trữ ngoại hối trong quý I/2012 đã tăng thêm 30% so với cuối năm 2011. Mặc dù diễn biến tình hình ngoại hối hiện tại là tương đối ổn định, bám sát mục tiêu điều hành. Tuy nhiên những yếu tố hỗ trợ cho công tác điều hành tỷ giá vẫn cần được kiểm soát chặt chẽ, cụ thể như sau: + Sau khi NHNN điều chỉnh giảm giá VND 9,3% vào đầu năm 2011, tỷ giá thực hiệu quả REER tháng 2/2011 ở mức xấp xỉ 100%. Tuy nhiên ngay sau đó, REER duy trì xu hướng giảm, xa dần trục gốc 100%. + Nếu so với mục tiêu điều hành trong năm 2012 (tỷ giá năm 2012 biến động không quá 2-3%) thì sau 6 tháng đầu năm, tỷ giá BQLNH gần như được giữ nguyên, tỷ giá NHTM chỉ thay đổi 0,55 %. Trong bối cảnh kiềm chế lạm phát, tỷ giá được giữ cố định là một cái neo kỳ vọng tích cực, song cũng cần phải có lộ trình điều chỉnh thích hợp đặc biệt là khi tình hình lạm phát đã được cải thiện, REER diễn biến chưa thuận lợi để tránh tạo ra những thay đổi đột biến trong bối cảnh kinh tế nhạy cảm và khó khăn như hiện nay. - Tính ổn định của cán cân vãng lai chưa thật sự bền vững
  12. Nguồn: Tổng cục Thống kê và tính toán của Viện Chiến lược Trong nửa đầu năm 2012, Việt Nam đã có xuất siêu trở lại sau nhiều năm nhờ lợi thế về giá của một số mặt hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam hiện vẫn chưa có những thay đổi cần thiết, vẫn còn phụ thuộc vào hàng nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam phần lớn vẫn là hàng nông, thủy sản, các hàng hóa có giá trị gia tăng thấp và các doanh nghiệp vẫn cần nhập một lượng đáng kể nguyên nhiên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Chẳng hạn, trong 8,4 tỷ USD xuất khẩu hàng hóa dệt may, giày dép trong 5 tháng đầu năm 2012 thì Việt Nam cũng đã phải nhập khẩu gần 4,9 tỷ USD bông, sợi dệt, vải và nguyên vật liệu cho dệt may, giày dép – chiếm khoảng 60% giá trị hàng xuất khẩu. Tỷ lệ này gần như không thay đổi suốt từ năm 2004 đến nay. III. Nguyên nhân và giải pháp 3.1 Nguyên nhân 3.1.1 Khách quan Tỷ giá USD/VND trong thời gian qua đã có một số biến đổi bất ngờ cũng là do xuất phát từ những nguyên nhân sau: − Thứ nhất, nhu cầu thực tế về đồng bạc xanh về cuối năm cho thanh toán nhập khẩu và trả nợ gia tăng là có cơ sở. − Thứ hai, việc nhà nước cho phép nhập khẩu vàng trở lại trong lúc cán cân thương mại đang bị sức ép thâm hụt lại càng bị dồn nén. Con số âm về chênh lệch xuất
  13. nhập khẩu vừa được công bố trong quí 3, cộng thêm sức ép nhập khẩu vàng tạo tâm lý khan hiếm USD, dù thực hư chưa thể xác định. − Thứ ba, sự chênh lệch quá lớn giữa tỉ giá chính thức và thị trường tự do là một cơ hội không thể bỏ qua cho giới đầu cơ tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch giá này. − Thứ tư, trong hoàn cảnh mà sự chênh lệch tỉ giá giữa hai kênh chính thức và phi chính thức còn tồn tại, buộc các tổ chức tín dụng (TCTD) phải rất cẩn trọng và dè dặt khi cho vay hay bán USD. Lý do, xét chặt việc bán hay cho vay bằng USD của các TCTD nhằm hạn chế việc tìm kiếm lợi nhuận do chênh lệch tỉ giá giữa hai thị trường, mà không vì mục đích phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu, chi trả nợ của khách hàng. Tốt và xấu chỉ khác nhau ở góc nhìn, và người mua hay đi vay USD không được thõa mãn bỗng thấy USD có giá hơn thực tế. − Thứ năm, trong tình hình kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, thâm hụt thương mại gia tăng thì một chính sách tỉ giá có lợi cho xuất khẩu (đ ịnh giá th ấp đ ồng nội tệ) luôn được nhà nước ta đặt lên hàng đầu. − Thứ sáu, tuyên bố của Mỹ là duy trì sức mạnh đồng bạc xanh được phát đi trong thời gian gần đây. 3.1.2 Chủ quan Bên cạnh những nguyên nhân khách quan đó thì còn có những nguyên nhân chủ quan khác như: tâm lý xem trọng đồng bạc xanh từ lâu trong dân chúng trong nước và thế giới (do vị thế trong thanh quốc tế của USD, vị thế kinh tế của Mỹ ), cộng tâm lý thích sở hữu “hàng ngoại” cũng góp một phần dẫn đến tình trạng USD trong nước lên giá trong thời gian gần đây. 3.2 Giải pháp quản lý tỷ giá USD/VND của nhà nước Ngân hàng nhà nước(NHNN) cần ra quyết định cấm tuyệt đối việc giao dịch mua bán USD trên thị trường tự do. Qui định mức phạt gấp nhiều lần mức chênh lệch tỷ giá giữa hai kênh nếu có hành động mua bán USD diễn ra trái qui định. Cấm giao dịch, mua bán, chi trả bằng USD tiền mặt trong nước, ngòai nước với số tiền quá 5000 USD chẳng hạn (qui định hạn mức giao dịch ngọai tệ tiền mặt). Mọi giao dịch, trao đổi, mua bán, thanh tóan đều phải thực hiện qua chuyển khỏan qua hệ thống ngân hàng.
  14. Ưu tiên mua bán, cho vay USD đối với các tổ chức, cá nhân thường xuyên thực hiện giao dịch thanh tóan xuất nhập khẩu qua hệ thống ngân hàng. Có những biện pháp mạnh đối với những doanh nghiệp xuất nhập khẩu duy trì tỷ lệ tiền mặt USD quá l ớn trong két sắt thông qua việc sóat xét lại nguồn tiền ra vào của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế lưu thông qua hệ thống NHTM. NHNN cần chọn thời điểm thích hợp để nâng dần trần lãi suất huy động VNĐ, tạo lại sức mạnh cho VNĐ có tính tới yếu tố hỗ trợ xuất nhập khẩu. Và biện pháp này từng bước được NHNN quan tâm thực hiện, thể hiện qua việc nâng lãi suất cơ bản thêm 1% lên mức 8%, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 12 năm 2009. Như vậy, lãi suất trần huy động của hệ thống NHTM từ 10.5% lên 12%. Một khi bài toán huy động vốn của hệ thống NHTM được giải quyết, tính thanh khỏan về VNĐ của hệ thống được cải thiện thì niềm tin sở hữu tiền đồng chắc chắn có chiều hướng tăng. Điều này góp phần lớn trong việc thu hút nguồn USD được găm giữ trong nền kinh tế chuyển từ USD sang VNĐ và theo dòng chảy vào hệ thống NHTM. NHNN cần sớm ban hành cơ chế quản lý giá và biên độ dao động của giá vàng trong nước nhằm giúp bình ổn giá trong nước, bám sát diễn biến giá vàng thế giới. Giúp bình ổn thị trường ngọai tệ, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng rút tiền tiết ki ệm VNĐ mua vàng như trong thời gian vừa qua. Gây ảnh hưởng không tốt đến niềm tin của dân chúng vào VNĐ. Gây những xáo trộn mang tính hệ thống trong thị trường tài chính. Ban hành luật chóng đưa tin đồn thất thiệt gây hoang mang và ảnh hưởng không tốt đến kênh dẫn xuất vốn cho nền kinh tế như chứng khóan. Nâng cao hơn nữa tính minh bạch thông tin trên thị trường chứng khóan, đa dạng các lọai hình mua bán chứng khóan nh ư thị trường công cụ phái sinh (mở rộng theo chiều sâu cho sàn chứng khóan), bên cạnh mở rộng nguồn hàng từ các tổ chức (mở rộng qui mô thị trường). Sớm rút ngắn th ời hạn từ T+ 3 lên T+2, gia tăng thời gian giao dịch mỗi ngày.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1