intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ĐIỀU TRỊ Ở NGƯỜI MẮC BỆNHTĂNG HUYẾT ÁP

Chia sẻ: Nguyen Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:19

77
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đặt vấn đề: Tăng huyết áp (THA) nếu không được kiểm soát sẽ gây nhiều hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, triệu chứng ban đầu lại rất mờ nhạt nên số bệnh nhận biết mình mắc bệnh còn thấp và ý thức tuân thủ điều trị bệnh thấp. Do đó, với bệnh THA cần đặt ra những vấn đề về kiến thức phòng chống và điều trị ở mức cộng đồng. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ thực hành điều trị dùng thuốc và không dùng thuốc của bệnh nhân THA. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ĐIỀU TRỊ Ở NGƯỜI MẮC BỆNHTĂNG HUYẾT ÁP

  1. ĐIỀU TRỊ Ở NGƯỜI MẮC BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tăng huyết áp (THA) nếu không được kiểm soát sẽ gây nhiều hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, triệu chứng ban đầu lại rất mờ nhạt nên số bệnh nhận biết mình mắc bệnh còn thấp và ý thức tuân thủ điều trị bệnh thấp. Do đó, với bệnh THA cần đặt ra những vấn đề về kiến thức phòng chống và điều trị ở mức cộng đồng. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ thực hành điều trị dùng thuốc và không dùng thuốc của bệnh nhân THA. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang Kết quả: Tỉ lệ thực hiện đúng điều trị THA bằng thuốc chỉ có 26,8%; thấy trong người vẫn khỏe mạnh, quên uống thuốc, huyết áp có cải thiện sau khi uống thuốc, không quan tâm đến bệnh…là các lí do ảnh hưởng đến việc thực hiện không đúng. Tỉ lệ thực hiện đúng điều trị THA không dùng thuốc lần lượt là: bỏ hút thuốc chỉ có 33% (lí do không bỏ: nghiện, buồn, giao tiếp); bỏ uống rượu/bia hoặc hạn chế ở mức điều độ chiếm 57,9% (lí do uống vượt mức cho phép: giao tiếp như đi đám, rủ
  2. rê; nghiện); thực hiện đúng chế độ ăn nhạt chiếm 60,7% (lí do không đúng: thói quen ăn mặn, ăn theo gia đình); thực hiện thể dục thể thao đúng cách chỉ có 28,4% (lí do không đúng: không có thời gian tập, sức khỏe không cho phép hoặc không thích tham gia); thực hiện cải thiện cân nặng chỉ chiếm 12%. Kết luận: Truyền thông, giáo dục người bệnh là vấn đề then chốt trong kiểm soát THA lâu dài. Nên truyền thông qua mạng lưới y tế cộng đồng và các phương tiện thông tin đại chúng (truyền hình, phát thanh, báo chí, tờ rơi…). Điều quan trọng để điều trị và kiểm soát THA thành công là lôi kéo người bệnh tham gia và tạo mối quan hệ tốt giữa thầy thuốc với bệnh nhân. ABSTRACT TREATMENT OBEDIENT PRACTICE OF HYPERTENSIVES IN AN THANH VILLAGE, BEN LUC DISTRICT, LONG AN PROVINCE, IN 2008 Tran Cao Minh, Phung Duc Nhat, et al * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 89 – 94 Background: Hypertension will cause many consequences unless controlled. Initial symptoms, however, are not also obvious so the proportion of patients identifying they are suffering from hypertension by themselves is somewhat low.
  3. Therefore, knowledge about prevention and treatment in the level of community need to be paid more attention. Objectives: to determine the proportion of hypertension patients practising drug treatment and lifestyle alterations. Method: Cross-sectional study. * Viện Vệ Sinh – Y tế Công Cộng TPHCM Result: the proportion of patients properly practising the using of drugs treatment is 26,8%. The reasons affecting proper practice involve healthy physical feeling by themselves, forget taking pills, blood pressure improved after taking pills, no care for hypertension, ect. The proportion of patients not properly practising lifestyle alterations includes: 33% patients stop smoking (reasons of not quitting: addiction, sadness, for communication); 57,9% ones stop drinking alcohol or limiting in permitted level (reasons of exceeding drinking: for communication, from friends, addiction); 60,7% ones following the salt reduced practice in meals (reasons of not following: salty food eating habit, share salty food in meals of family); 28,4% ones doing appropriate physical exercises (reasons of not doing: have no time, weakness or no interest in participating); 12% ones following losing-weight regulation.
  4. Conclusion: communicating and educating patients is the important solution for controlling hypertension effectively, by means of public health network and media (television, broadcast, magazines, newspaper…). To cure and to control hypertension successfully it is essential by encouraging patients’ cooperation and creating good patient-physician relationship. ĐẶT VẤN ĐỀ Tăng huyết áp hiện nay là một vấn đề thời sự, là một gánh nặng cho Y tế Công cộng không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển. Một số yếu tố nguy cơ do lối sống đã được xác định qua nhiều nghiên cứu như: tăng cân quá mức, ít hoạt động thể lực, uống rượu, ăn mặn, hút thuốc …ngày càng ảnh hưởng tới một bộ phận không nhỏ trong dân số; đã làm cho tỷ lệ THA nói riêng và bệnh tim mạch nói chung ngày càng tăng(1). Nhiều người đã không nhận thức được những mối đe doạ của THA vì thường nó ít gây ra triệu chứng trực tiếp. Tuy nhiên nếu không được kiểm soát, bệnh gây nhiều hậu quả nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim, đột quỵ, suy tim, suy thận... nhưng triệu chứng ban đầu lại rất mờ nhạt nên số bệnh nhân biết mình mắc bệnh cũng như ý thức tuân thủ điều trị bệnh còn thấp(3). Dù người bệnh sống sót được sau những hậu quả nghiêm trọng trên thì sau này cũng trở thành tàn phế hoặc liệt nửa người, hoặc suy tim nặng phải nằm kéo dài tới nhiều tháng nhiều năm. Trong bệnh tim mạch, THA là bệnh tai hại, không những đối với bệnh nhân mà còn với cả gia đình và xã hội
  5. nữa. Do đó, với bệnh THA cần đặt ra những vấn đề về kiến thức phòng chống và điều trị ở mức cộng đồng(1). Cho đến nay, ở nước ta có rất nhiều công trình nghiên cứu về bệnh THA, nhưng việc điều trị lâu dài và thực hiện đúng chiến lược điều trị cũng như kiến thức phòng chống bệnh trong cộng đồng vẫn chưa cao. Do đó, có một lượng khá lớn các bệnh nhân THA trong cộng đồng không được theo dõi đầy đủ, tự ý bỏ điều trị do nhiều nguyên nhân khác nhau và không được cung cấp kiến thức phòng, chống THA(3). Chính vì thế, việc tiến hành nghiên cứu này nhằm mục đích: tìm hiểu hiện trạng thực hành điều trị THA ở người lớn trong cộng đồng. Từ đó đề xuất những phương pháp thích hợp để kiểm soát bệnh THA cũng như biến chứng do THA gây ra. Mục tiêu nghiên cứu 1. Xác định tỉ lệ thực hành điều trị dùng thuốc của bệnh nhân THA. 2. Xác định các tỉ lệ thực hành điều trị không dùng thuốc của bệnh nhân THA gồm: bỏ thuốc lá, hạn chế rượu/bia, ăn nhạt, giảm cân, luyện tập thể dục thể thao. 3. Tìm hiểu các yếu tố liên quan đến thực hành điều trị dùng thuốc và không dùng thuốc của bệnh nhân THA. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu
  6. Điều tra cắt ngang. Địa điểm Xã An Thạnh, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Dân số mục tiêu Người mắc bệnh THA ≥18 tuổi tại xã An Thạnh, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Dân số chọn mẫu Người mắc bệnh THA ≥18 tuổi có trong hồ sơ quản lý của Trạm Y tế xã An Thạnh, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Cỡ mẫu được tính theo công thức N=Z2(1- / d2 = 384 /2).P.(1-P) Với: d: độ chính xác mong muốn 5% P: tỉ lệ thực hành điều trị tăng huyết áp, chọn p=0,5; 1-p=0,5 Z: mức ý nghĩa 0,05 Z1- /2 = 1,96 Kỹ thuật chọn mẫu
  7. Theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống, chọn 384 người THA trong số người THA ở hồ sơ quản lý của Trạm Y tế xã An Thạnh, huyện Bến Lức. Tiêu chí chọn vào Tất cả bệnh nhân THA có trong hồ sơ quản lý tại Trạm Y tế xã An Thạnh, huyện Bến Lức, tỉnh Long An và đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chí loại ra Các bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu; phụ nữ có thai; bệnh nhân mắc bệnh tăng huyết áp mới được phát hiện lần đầu tiên chưa trải qua thời gian điều trị. Kiểm soát sai lệch chọn lựa Chọn đúng đối tượng theo tiêu chí chọn vào và loại ra. Kiểm soát sai lệch thông tin Bộ câu hỏi được soạn sẵn, dễ hiểu phù hợp với mục tiêu. Có phỏng vấn thử 20 bệnh nhân để chỉnh sửa lại cho phù hợp. Tập huấn điều tra viên trước khi tiến hành phỏng vấn. Phương pháp thu thập số liệu Phỏng vấn trực tiếp người bệnh qua bảng câu hỏi đã soạn sẵn.
  8. Công cụ thu thập Bảng câu hỏi, thước dây cuộn, cân. Phân tích số liệu Nhập số liệu sử dụng phần mềm Epi-Data 3.2 và được xử lý bằng phần mềm Stata 8.0. Thống kê mô tả Mô tả tần số và tỉ lệ % của các biến thực hành điều trị dùng thuốc và không dùng thuốc của bệnh nhân THA; mô tả các lí do liên quan đến thực hành điều trị dùng thuốc và không dùng thuốc của bệnh nhân THA tại xã An Thạnh. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đặc tính của mẫu khảo sát Đa số bệnh nhân THA có tuổi từ 50 trở lên (92,2%) và tỉ lệ THA tăng dần theo nhóm tuổi; tỉ lệ nam:nữ xấp xỉ 1:2; trình độ học vấn thấp dưới cấp 1 (87,8%); lao động chân tay và thuộc nhóm già yếu, nội trợ do đây là nhóm người lớn tuổi. Sử dụng thuốc lá Bảng 1: Tần số, tỉ lệ thực hành hút thuốc, bỏ thuốc và không bỏ thuốc theo nhóm tuổi
  9. Bỏ Nhóm Không Hút thuốc tuổi bỏ thuốc (%) thuốc (%) (%) 0 5 5 (100) (0) (100) 35-49 31 12 43 50-64 (72,1) (27,9) (100) ≥65 25 18 43 (58,1) (41,9) (100) 30 91 Tổng 61 (67) (33) (100) Khi xếp phân nhóm tuổi tăng dần: số người hút thuốc tăng dần; tỉ lệ bỏ hút thuốc trong cùng một nhóm cũng tăng dần.
  10. Hình 1: Mức độ hút thuốc lá so với trước khi mắc bệnh THA (%) Tỉ lệ đã từng hút thuốc là 23,7%, toàn là nam giới. Trong đó, bỏ hút thuốc chỉ có 33%. Các lí do tác động đến việc không bỏ hút thuốc là: nghiện, buồn, giao tiếp. Sử dụng rượu bia Tỉ lệ đã từng uống rượu/bia chỉ chiếm 19,8% là tương đối thấp, do nữ giới trong mẫu nghiên cứu chiếm tỉ lệ cao (65,4%) mà đa số lại không biết uống rượu/bia. Trong số những người có uống rượu/bia thì nam chiếm đa số 97,4%; nữ chỉ có 2,6%; Nếu so trong cùng một giới thì tỉ lệ nam từng uống rượu/bia chiếm 55,6% (74/133). Bảng 2: Tần số, tỉ lệ của mức độ uống rượu/bia theo ly chuẩn so với trước khi mắc bệnh THA So với Ly chuẩn (%) trước khi mắc >1 ≤1 THA
  11. So với Ly chuẩn (%) trước khi mắc THA >1 ≤1 8 17 (68%) (32%) 11(91,7%) Giảm 1 1 (100%) Như cũ (8,3%) Tăng 0 (0%) ≥5 ngày / 1 4 (80%) tuần (20%) 4 (100%) 1-4 ngày 0 12 / tuần (0%) (92,3%) 1-3 ngày 1 9 (56,2%) / tháng (7,7%)
  12. So với Ly chuẩn (%) trước khi mắc THA >1 ≤1 tháng (43,8%) 9 29 Tổng (23,7%) (76,3%) Mức độ uống rượu/bia càng giảm (thực hành hạn chế tốt lên) thì tỉ lệ đạt mức điều độ (≤1 ly chuẩn) càng cao. Trong số những người có uống rượu/bia thì có 57,9% là bỏ uống hoặc hạn chế ở mức điều độ; còn 42,7% uống vượt mức cho phép. Con số thực hành đúng chỉ có mức tương đối, và góp phần vào lí do không hạn chế uống ở mức điều độ là do giao tiếp (đám tiệc, đám giỗ, tụ họp) và nghiện. Do đó, để thực hành đúng về rượu/bia phụ thuộc nhiều vào phong tục, tập quán nơi đây. Chế độ ăn nhạt
  13. Hình 2: Tỉ lệ các hành vi thực hiện đúng trong chế độ ăn nhạt (%) Thực hiện đúng hành vi cho muối khi nấu ăn (69%) khó hơn hai hành vi chấm thêm nước mắm/nước tương (76,9%) và ăn thực phẩm chứa nhiều muối (77,7%). Nhưng thực hiện đúng ba hành vi trên chỉ chiếm gần 2/3 (60,7%) trong tổng số đối tượng khảo sát. Khi xếp phân nhóm tuổi tăng dần: số người thực hành ăn nhạt tăng dần; tỉ lệ thực hành ăn nhạt trong nhóm 50-64 tuổi và nhóm ≥65 tuổi cao hơn nhóm ≤34 tuổi và nhóm 35-49 tuổi. Lí do không thực hiện ăn nhạt chủ yếu là: thói quen ăn mặn, ăn theo gia đình. Chế độ giảm cân
  14. Có 83 đối tượng là thừa cân, béo phì thì tỉ lệ thực hành cải thiện cân nặng chiếm rất thấp 12% (10/83). Các biện pháp giảm cân đ ược thực hiện là: chế độ ăn kiêng và tăng hoạt động thể dục thể thao. Hoạt động thể dục thể thao Bảng 3: Tần số, tỉ lệ tham gia hoạt động thể dục thể thao đúng cách Hoạt Tần Tỉ động thể dục thể thao số lệ Không tham 241 62,8 gia 109 28,4 Tham gia 34 8,8 đúng Tham gia không đúng Tổng 384 100 Tỉ lệ tham gia thể dục thể thao chỉ có 37,2% (143/384); điều này cũng hợp lý vì đây là vùng nông thôn, đa số người dân dành thời gian để làm ruộng là nghề thu
  15. nhập chính của gia đình. Tỉ lệ tham gia thể dục thể thao giữa nam và nữ gần như nhau: nam (36,8%), nữ (37,5%). Đi bộ là môn mà các đối tượng tham gia chủ yếu chiếm tới 69,9%. Các lí do không tham gia thể dục thể thao: không có thời gian (45,2%); sức khỏe không cho phép (22,4%); không thích (9,5%). Trong số 384 đối tượng tham gia nghiên cứu thì chỉ có 28,4% là thực hiện đúng cách (khi đối tượng tập đều đặn mỗi ngày ít nhất 15 phút hoặc tập ít nhất 3 lần mỗi tuần, mỗi lần ít nhất 30 phút). Điều này chứng tỏ kiến thức của người bệnh THA về thực hiện đúng hoạt động thể dục thể thao chưa cao. Sử dụng thuốc Bảng 4: Tần số thực hiện điều trị bằng thuốc giữa đều đặn liên tục và đủ liều Đủ liều Uống thuốc Tổng Có Không Đều Có 103 5 108 đặn và liên tục Không 50 136 186
  16. Tổng 153 141 294 Hình 3: Tỉ lệ thực hành điều trị dùng thuốc và không dùng thuốc của bệnh THA (%) Tỉ lệ đã từng uống thuốc là 76,6% (294/384). Trong đó, uống đều đặn và liên tục chiếm 36,7%; uống đủ liều chiếm 52%. Tỉ lệ thực hiện đúng dùng thuốc điều trị THA (vừa đều đặn liên tục vừa đủ liều) chỉ có 26,8% (103/384). Các lí do không uống đều đặn và liên tục lần lượt có tỉ lệ như sau: vẫn khỏe mạnh (46,8%), quên (23,1%), HA có cải thiện (16,1%), không quan tâm đến bệnh (10,8%)
  17. Tỉ lệ tái khám bệnh chiếm 54,2% (208/384). Thời điểm tái khám lần lượt có tỉ lệ là: ≤1 tháng (47,1%), >1 tháng (5,8%), khi mệt/nhức đầu/chóng mặt (44,7%). Các lí do không tái khám lần lượt có tỉ lệ như sau: tự mua thuốc (27,3%), không uống thuốc (12,5%), uống thuốc nam (4%), sợ đi bệnh viện (1,7%) và giá trị khuyết chiếm đến 50,5% góp phần làm ảnh hưởng đến các tỉ lệ trên. KẾT LUẬN Thực hành điều trị dùng thuốc và không dùng thuốc của người mắc bệnh THA tại xã An Thạnh còn thấp. Thực hành về ăn nhạt và hạn chế rượu/bia được người bệnh thực hiện dễ hơn thực hành bỏ thuốc lá, tập thể dục thể thao, dùng thuốc và giảm cân (giảm cân là thực hành khó khăn nhất). Tỉ lệ điều trị bệnh THA ở Việt Nam nói chung là thấp so với các nước khác (Philippines 47%; Ấn độ 59%; Bulgaria 36%; Czech 49,3%; Mỹ 45,3%; Albania 87%). Các lí do ảnh hưởng đến việc không thực hành hoặc thực hành không đúng về điều trị bệnh THA là phù hợp với phong tục, tập quán của người bệnh nơi đây cũng như của người dân Việt Nam. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành điều trị THA là: mức độ người bệnh tiếp xúc với các cơ sở y tế; tình trạng kinh tế của mỗi gia đình; chính sách hỗ trợ của xã hội cho từng người; mức độ cộng đồng ưu tiên chữa trị và kiểm soát THA. Việc truyền thông, giáo dục người bệnh là vấn đề then chốt trong kiểm soát THA lâu dài.
  18. Điều quan trọng để điều trị và kiểm soát THA thành công là lôi kéo người bệnh tham gia và tạo mối quan hệ tốt giữa thầy thuốc với bệnh nhân. KIẾN NGHỊ Kiểm soát tốt THA cần có chương trình truyền thông, giáo dục sức khoẻ trong cộng đồng với các nội dung: - Đối với người bệnh: cách nhận biết bệnh và các biến chứng của bệnh; cách điều trị dùng thuốc và không dùng thuốc (thay đổi lối sống); tái khám theo hẹn. - Đối với người thân: hỗ trợ tốt quá trình điều trị lâu dài cho bệnh nhân. Trong khi chờ đợi những thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội (ảnh hưởng thuận lợi đến ý thức và nâng cao thu nhập của người dân), ngành y tế nên cân nhắc thực hiện những công việc sau: Thành lập chương trình kiểm soát THA quốc gia có mạng lưới chuyên trách từ trung ương đến tận cơ sở. Trạm y tế là đơn vị chủ yếu trong quản lý bệnh nhân THA trên địa bàn; cần theo dõi, nắm danh sách và quản lý chặt chẽ. Cập nhật các hướng dẫn về chẩn đoán và điều trị THA quốc gia cho thầy thuốc chuyên khoa và đa khoa bất luận cơ sở nhà nước hay tư nhân, chú trọng phổ cập kiến thức tim mạch cơ bản cho mạng lưới y tế cơ sở. Khuyến khích khám sàng lọc bệnh THA trong cộng đồng. Tăng cường truyền thông, giáo dục sức khỏe THA trong cộng đồng thông qua mạng lưới y tế cộng đồng và các phương tiện thông tin đại chúng (truyền hình, phát thanh, báo chí, tờ rơi…).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2