BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC

PHÒNG

HỌC VIỆN QUÂN Y

LÊ HỮU TRÌ

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI TỔN THƯƠNG VÀ

KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ

GÃY CỘT SỐNG NGỰC, THẮT LƯNG

ĐA TẦNG

3

ĐẶT VẤN ĐỀ

Vỡ túi phình động mạch não là một bệnh lý cấp tính, ngày

càng gặp nhiều ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Theo ước tính có

khoảng 5% dân số có ít nhất 1 túi phình động mạch não và 0,2% các

túi phình này vỡ mỗi năm, trong đó 85-95% là túi phình thuộc hệ

động mạch cảnh trong. Hiện nay, với sự phát triển không ngừng của

các phương tiện chẩn đoán trước mổ kính hiển vi, các dụng cụ vi

phẫu cũng như kiến thức ngày càng sâu sắc về giải phẫu và sinh lý

nên phẫu thuật ít xâm lấn được áp dụng trong mổ bệnh lý phình động

mạch não vỡ với đường kính mở xương sọ khoảng 2,5-3 cm. Đường

mổ này có ưu điểm hơn so với đường mổ trán thái dương là: làm

giảm sang chấn não, thẩm mỹ hơn, giảm thời gian phẫu thuật và phục

hồi sau mổ, là phẫu thuật mới và là xu hướng của phẫu thuật thần

kinh thế giới. Tuy nhiên, hiệu quả của phẫu thuật còn phụ thuộc rất

nhiều yếu tố như: sự hiểu biết về các kỹ thuật xử lý mạch máu não,

các đường mổ tùy thuộc vào từng vị trí của túi phình, sự chính xác

trong chẩn đoán, chọn lựa bệnh nhân, chỉ định cũng như đánh giá các

biến chứng có thể xảy ra trong quá trình phẫu thuật...Do đó, phẫu

thuật này vẫn còn ít cơ sở thực hiện được, với mong muốn góp phần

điều trị có hiệu quả bệnh lý này, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu

điều trị túi phình hệ động mạch cảnh trong vỡ bằng phẫu thuật ít

xâm lấn” nhằm 2 mục tiêu:

1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học của túi phình hệ

động mạch cảnh trong vỡ được chỉ định điều trị phẫu thuật ít xâm

lấn.

2. Đánh giá kết quả phẫu thuật ít xâm lấn trong điều trị túi

phình hệ động mạch cảnh trong vỡ tại Bệnh viện Bạch Mai.

4

Đóng góp mới của luận án:

Đề tài luận án đã mô tả một cách hệ thống, chi tiết về đặc

điểm lâm sàng, hình ảnh học của túi phình hệ động mạch cảnh trong

vỡ được chỉ định điều trị phẫu thuật ít xâm lấn.

Góp phần làm sáng tỏ vai trò của chụp cắt lớp vi tính 64 dãy

trong việc chẩn đoán vị trí, đánh giá sau can thiệp loại bỏ túi phình.

Áp dụng phương pháp phẫu thuật ít xâm lấn hiệu quả tốt

trong trường hợp túi phình hệ động mạch cảnh trong vỡ có tình trạng

lâm sàng trước mổ tốt: từ độ I-III theo phân độ WFNS và chảy máu

dưới nhện từ độ 1-3 theo phân độ Fisher trên cắt lớp vi tính.

Bố cục của luận án: luận án gồm 125 trang. Trong đó có 39

bảng, 15 hình và 8 biểu đồ. Phần đặt vấn đề (2 trang); chương 1: tổng

quan tài liệu (33 trang); chương 2: đối tượng và phương pháp nghiên

cứu (27 trang); chương 3: kết quả nghiên cứu (26 trang); chương 4:

bàn luận (34 trang); kết luận (2 trang); kiến nghị (1 trang); danh mục

các công trình công bố kết quả nghiên cứu của đề tài luận án (1

trang); tài liệu tham khảo (163 tài liệu gồm; 18 tài liệu tiếng Việt, 145

tài liệu tiếng Anh); các phụ lục.

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Sơ lược lịch sử điều nghiên cứu

1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới

Thuật ngữ phình động mạch não có nguồn gốc từ Hy Lạp:

ana- phía trên, euros: mở rộng ra, anaeuros: kéo dãn. Galien (1656) là

người đầu tiên sử dụng thuật ngữ aneurysma vào từ điển y khoa

chính chức. Brock M. và Dietz H. (1978) mô tả đường mở sọ nhỏ

trán bên trong phẫu thuật túi phình động mạch cảnh trong, và cho

rằng phẫu thuật này dễ dàng thực hiện với chiều dài đường mổ 6-8

5

cm. Lindert E.V. và Perneczky (1998) báo cáo kinh nghiệm đầu tiên

về mở sọ ít xâm lấn trên trần ổ mắt trong điều trị 197 túi phình động

mạch não, trong đó có 39 bệnh nhân đa túi phình được phẫu thuật

bằng 1 đường mổ.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Phẫu thuật phình động mạch não được thực hiện đầu tiên năm

1962 bởi Nguyễn Thường Xuân. Phẫu thuật ít xâm lấn trong điều trị

túi phình vòng tuần hoàn trước được thực hiện đầu tiên tại Bệnh viện

Việt Đức bởi Nguyễn Thế Hào năm 2012. Năm 2017, Trần Kim

Tuyến báo cáo “20 trường hợp điều trị túi phình động mạch thông

trước qua trần ổ mắt”.

1.2. Giải phẫu hệ động mạch cảnh trong

Hệ động mạch cảnh trong gồm hai động mạch cảnh trong

phải và trái, cấp máu chính cho hai bán cầu đại não. Bouthilier (1996)

chia động mạch cảnh trong thành 5 đoạn: đoạn cổ, trong xương đá,

xoang hang, quanh mỏm yên trước và đoạn trên mỏm yên trước.

Đoạn trên mỏm yên trước bắt đầu từ chỗ đi vào khoang dưới nhện và

cho ra các nhánh chính là: động mạch mắt, động mạch yên trên, động

mạch thông sau và động mạch mạch mạc trước và kết thúc tại vị trí

phân chia thành động mạch não trước và động mạch não giữa bên

dưới chất thủng trước.

1.3. Đặc điểm của túi phình

Tần suất túi phình động mạch não theo các nghiên cứu phẫu

tích xác thay đổi từ 0,2-7,9%. Tuổi thường gặp: 40-60, và vỡ túi

phình giới nữ gấp 1,5 lần giới nam.

Túi phình hệ động mạch cảnh trong chiếm từ 85-95% các túi

phình nội sọ. Tỷ lệ một túi phình là 70-75%, đa túi phình 25-30%.

Phân loại túi phình theo hình dạng có 3 loại căn bản: hình túi,

6

hình thoi và phình bóc tách. Phình hình túi chiếm 90%.

Phân loại theo kích thước: túi phình <10 mm: loại nhỏ, 10-25

mm: loại lớn, >25 mm: loại khổng lồ. Hơn 90% túi phình có đường

kính nhỏ hơn 10 mm. Các túi phình khổng lồ chỉ chiếm 3-5%.

Nguyên nhân hình thành túi phình: là do tính yếu của thành

động mạch não và do tác động áp lực của dòng máu não.

1.4. Lâm sàng vỡ túi phình hệ động mạch cảnh trong

1.4.1. Thể chảy máu dưới màng nhện điển hình

Đây là biến chứng hay gặp nhất của vỡ túi phình động mạch

não chiếm 85% các trường hợp, với các biểu hiện lâm sàng như:

Đau đầu dữ dội, đột ngột, như “sét đánh” thường dưới 1

phút, có thể kéo dài đến vài giờ. Đau đầu là triệu chứng rất quan

trọng và khá phổ biến từ 74-85,3%.

Mất tri giác đột ngột và tạm thời gặp khoảng 36%. Suy giảm

tri giác phụ thuộc vào mức độ chảy máu, mức độ tổn thương não,

tăng áp lực nội sọ chiếm 2/3 trong tất cả các trường hợp.

Dấu hiệu kích thích màng não (buồn nôn, nôn, đau cổ và hội

chứng màng não) là triệu chứng thường gặp chiếm từ 35-70%.

Hội chứng Terson (giảm thị lực, chảy máu dịch kính, chảy

máu võng mạc) gặp từ 18,3-45% dưới 24 giờ sau vỡ túi phình.

Triệu chứng thần kinh khu trú thường ít gặp.

Động kinh toàn thể có thể xảy ra do tăng áp lực nội sọ đột

ngột lúc vỡ túi phình chiếm 6,3-7,8 %.

Rối loạn toàn thân như: mạch, nhiệt độ, huyết áp và rối loạn

cân bằng nước và điện giải: giảm natri máu thường hay gặp nhất.

1.4.2. Thể chảy máu dưới màng nhện phối hợp với khối máu tụ

trong sọ (chiếm khoảng 21%)

1.4.3. Thể chảy máu dưới màng nhện có biến chứng phối hợp.

7

Biến chứng tim mạch và hô hấp; Tăng áp lực nội sọ, giảm áp

lực tưới máu não; Có chảy máu tái phát; Co thắt mạch máu não; Giãn

não thất

1.5. Chẩn đoán hình ảnh

1.5.1. Chụp cắt lớp vi tính sọ não

Khi lâm sàng nghi ngờ chảy máu dưới màng nhện thì chụp

cắt lớp vi tính không tiêm thuốc cản quang là lựa chọn để chẩn đoán

xác định, đó là hình tăng tỷ trọng của khoang dưới nhện ở nền sọ.

Ngoài ra, chụp cắt lớp vi tính còn chỉ ra khối máu tụ trong não, chảy

máu não thất, phù não... Theo Bosiger B.M và cs với các máy chụp

cắt lớp vi tính tốt có khả năng phát hiện chảy máu dưới màng nhện

với độ nhạy lên đến 100%, và độ nhạy là 96% sau 2 ngày, và còn

85% sau 5 ngày, 50% sau 1 tuần, 30% sau 2 tuần và gần như không

phát hiện được sau 3 tuần.

1.5.2. Chụp cắt lớp vi tính mạch máu não

Chụp CTA giúp chẩn đoán chính xác vị trí, hình dáng, kích

thước, hướng túi phình, và sự liên quan giữa túi phình với các mạch

máu lân cận. Ngoài ra, CTA giúp đánh giá tình trạng co thắt mạch

não sau chảy máu dưới màng nhện một cách chính xác và an toàn.

Hiện nay, CTA rất phổ biến ứng dụng để chụp kiểm tra sau can thiệp

nội mạch, cũng như sau phẫu thuật.

1.5.3. Chụp động mạch não số hóa xoá nền

Chụp động mạch não số hóa xóa nền có độ phân giải không

gian tốt nên được xem là “tiêu chẩn vàng” trong phát hiện túi phình

nội sọ, nhất là DSA-3D. Tuy nhiên, đây là phương pháp xâm nhập,

gây nhiễm xạ, có tỷ lệ biến chứng thần kinh là từ 1,8-2,3%.

1.5.4. Chụp cộng hưởng từ và cộng hưởng từ mạch máu não

Cộng hưởng từ mạch máu não là phương pháp chẩn đoán

8

phình mạch không xâm nhập, không gây nhiễm xạ. Tuy nhiên, không

phải là lựa chọn ưu tiên đối với các trường hợp có chảy máu dưới

màng nhện, vì bệnh nhân khó nằm yên và phải có máy móc theo dõi

khác kèm theo. Hai kỹ thuật xung TOF-3D và chụp MRA có tiêm

thuốc đối quang từ thường được sử dụng để khảo sát động mạch não.

1.6. Các phương pháp điều trị vỡ phình động mạch não

1.6.1. Hồi sức và điều trị nội khoa

Hồi sức đóng vai trò quan trọng, khi tình trạng bệnh nhân

nặng, hôn mê, cần đặt ống nội khí quản và thở máy, đảm bảo tốt về

hô hấp, tuần hoàn. Chống phù não bằng cách sử dụng các thuốc như:

giảm đau, an thần, tránh tình trạng kích thích ánh sáng và tiếng động,

phòng và điều trị các cơn động kinh, sử dụng các thuốc lợi tiểu trong

trường hợp có tăng áp lực nội sọ, bồi phụ nước và điện giải. Phòng và

điều trị co thắt mạch não bằng cách sử dụng các thuốc giãn mạch và

liệu pháp 3H (Hemodilution, Hypervolemia, Hypertension – là pha

loãng máu, tăng thể tích tuần hoàn, tăng huyết áp).

1.6.2. Điều trị can thiệp nội mạch

- Điều trị nút túi phình bằng vòng xoắn kim loại: chỉ định

được cho hầu hết các vị trí túi phình.

+ Khi túi phình cổ hẹp (đường kính đáy/cổ > 1,5) thì việc

làm đầy khuôn và lấp đầy túi phình bởi Coil khá ổn định.

+ Khi túi phình cổ rộng hoặc rất rộng (đường kính đáy/cổ từ

1,2-1,5 hoặc < 1,2) thì Coil đặt trong túi phình kém ổn định hơn, khi

đó phải dùng các kỹ thuật đặt bóng bảo vệ chèn cổ túi phình hoặc đặt

giá đỡ nội mạch tạm thời chẹn cổ hoặc giá đỡ nội mạch vĩnh viễn.

- Điều trị nút túi phình bằng cách làm tắc động mạch mang:

được chỉ định cho túi phình khổng lồ hoặc túi phình hình thoi mà

không thể điều trị bảo tồn được trong giai đoạn cấp.

9

- Điều trị làm tắc túi phình bằng cách thay đổi hướng dòng

chảy: được chỉ định với túi phình chưa vỡ hoặc đã vỡ nhưng đã qua

giai đoạn cấp có dạng hình thoi, túi phình khổng lồ hoặc với các túi

phình có nguy cơ tái thông lớn.

1.6.3. Điều trị phẫu thuật

1.6.3.1. Điều trị phẫu thuật biến chứng của vỡ túi phình

- Lấy bỏ khối máu tụ trong sọ: mục đích lấy bỏ khối máu tụ

làm giảm chèn ép não, làm giảm áp lực nội sọ.

- Dẫn lưu não thất: giãn não thất là một nguyên nhân làm tăng

áp lực nội sọ và sự suy giảm tri giác ở giai đoạn cấp tính, đòi hỏi phải

dẫn lưu não thất.

1.6.3.2. Điều trị phẫu thuật xử lý túi phình vỡ

- Kẹp cổ túi phình (neck clipping): là lựa chọn đầu tiên trong

điều trị, và thực hiện ở 94,5% túi phình động mạch não vỡ, trừ một

số trường hợp đặc biệt (túi phình khổng lồ, hay không có cổ).

- Thắt động mạch mang (proximal occlusion): được chỉ định

trong các trường hợp túi phình khổng lồ và túi phình cổ rất rộng hoặc

không có cổ, không kẹp được cổ.

- Bọc túi phình (Wrapping): được chỉ định đối với túi phình có

cổ rộng hoặc không có cổ, túi phình có nhánh bên hay mạch xuyên đi ra

từ túi phình, bọc phần túi phình còn sót lại sau khi cặp clip. Với mục

đích làm tăng cường độ vững chắc của thành túi phình.

1.6.3.3. Các phương pháp điều trị phẫu thuật

a. Phẫu thuật kẹp túi phình kinh điển

Đầu tiên, sử dụng đường mở sọ trán hai bên được mô tả bởi

Dandy W.E. năm 1938, đòi hỏi vén não nhiều thùy trán và thùy thái

dương mới đủ quan sát được túi phình. Với sự tiến bộ của kính vi

phẫu giúp cải thiện về sự chiếu sáng và đủ độ phóng đại, Yasargyl đã

10

đưa ra đường mở sọ trán- thái dương giảm vén não nhưng lấy bỏ

nhiều hơn xương sọ vùng xương cánh bướm và phẫu tích khe sylvius.

Sau khi phẫu tích khe sylvius, cho phép tiếp cận được thần kinh thị

giác và vòng tuần hoàn đa giác Willis.

b. Phẫu thuật ít xâm lấn trong điều trị túi phình động mạch não vỡ

- Mở sọ ít xâm lấn trên trần ổ mắt (suppraorbital

craniotomy): đây là đường vào trên trán đến tầng trước nền sọ để

tiếp cận đến túi phình trên lều và túi phình đỉnh thân nền, được thực

hiện thông qua đường rạch da trên chân mày hoặc rạch qua mi mắt.

- Mở sọ ít xâm lấn trên trần ổ mắt bên (lateral suppraorbital

craniotomy): được chỉ định phẫu thuật cho túi phình vòng tuần hoàn

trước, u não vùng nền sọ trước và u vùng tuyến yên.

- Mở sọ ít xâm lấn vùng trán thái dương (mini-pterional

craniotomy): đường rạch da gần giống như mở sọ qua trần ổ mắt bên,

có ưu thế trong tiếp cận vòng tuần hoàn trước, và các túi phình động

mạch cảnh trong và túi phình động mạch não giữa.

- Mở sọ ít xâm lấn qua khe liên bán cầu (interhemispheric

crantiotomy): được sử dụng để điều trị túi phình động mạch não

trước đoạn ngoại vi và túi phình động mạch thông trước lồi cao.

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu 2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân nghiên cứu

- Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán xác định túi phình hệ

động mạch cảnh trong vỡ, có tình trạng lâm sàng tốt từ độ I-III theo phân

độ của WNFS và chảy máu dưới màng nhện trên phim chụp CLVT từ

độ 1-3.

- Có phim CTA và / hoặc DSA chỉ rõ túi phình hệ động mạch

11

cảnh trong vỡ, và được điều trị bằng phẫu thuật ít xâm lấn. Tiêu

chuẩn quyết định trong mổ có túi phình hệ động mạch cảnh trong vỡ.

- Bệnh nhân có thể trạng tốt, tuổi ≤ 80.

- Bệnh nhân đồng ý tham gia vào nhóm nghiên cứu.

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ

- Túi phình kích thước >10 mm.

- Túi phình động mạch mắt, túi phình động mạch yên trên.

- Bệnh nhân có các di chứng tại não hoặc bệnh lý thực thể

tại não, di chứng tại tủy hoặc bị liệt các dây thần kinh ngoại biên do

bệnh lý khác ảnh hưởng đến việc đánh giá các triệu chứng thần kinh

khu trú, có rối loạn tâm thần làm sai lệch đánh giá thần kinh tại não.

- Bệnh nhân có vỡ túi phình hệ động mạch cảnh trong vỡ nhưng

có tiền sử bệnh lý toàn thân nặng như: suy tim độ 4, suy thận giai đoạn

cuối có chạy thận chu kỳ, rối loạn đông máu.

+ Bệnh nhân được phẫu thuật sau đó thất lạc thông tin hoặc

không đến khám lại, không hợp tác điều trị. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả cắt ngang loạt ca, tiến cứu, không đối

chứng. Các thông tin, và chỉ tiêu nghiên cứu sẽ được nghiên cứu sinh

trực tiếp khai thác, điền vào mẫu bệnh án có sẵn và tham gia điều trị.

2.2.2. Xác định cỡ mẫu

Chọn mẫu thuận tiện, bao gồm tất cả các bệnh nhân đủ tiêu

chuẩn lựa chọn và loại trừ trong thời gian nghiên cứu.

2.2.3.Thiết kế nghiên cứu mục tiêu 1

- Nghiên cứu các đặc điểm chung của bệnh nhân, đặc điểm

lâm sàng, hình ảnh học: chụp cắt lớp vi tính sọ não không cản quang

và chụp cắt lớp vi tính động mạch não (CTA)

12

2.2.4. Quy trình phẫu thuật ít xâm lấn trong điều trị túi phình hệ

động mạch cảnh trong vỡ

2.2.5. Thiết kế nghiên cứu mục tiêu 2

Đánh giá một số đặc điểm trong quá trình phẫu thuật, một số

đặc điểm điều trị sau mổ, và kết quả phẫu thuật.

2.3. Xử lý số liệu

Xử lý số liệu trên máy tính theo chương trình phần mềm Epi-

info 7 trong thống kê y học.

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học của túi phình hệ động mạch cảnh trong vỡ

3.1.1. Các đặc điểm bệnh nhân

Tuổi trung bình 55,98±8,96 (từ 35-77 tuổi). Nhóm tuổi từ

50-59 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 43,06% (χ²=5,8278, p=0,0157). Giới

nữ (48,61%), giới nam (51,39%).

3.1.2. Đặc điểm lâm sàng

Thời gian đến bệnh viện trung bình là 3,30±3,26 ngày (từ 1-

20 ngày). Số trường hợp đến bệnh viện từ ngày thứ 1-4 chiếm tỷ lệ

cao nhất là 76,39%.

Có 8,33% có triệu chứng báo trước là đau đầu, với thời gian

trung bình là: 18,4±6,98 ngày.

Đau đầu là triệu chứng gặp nhiều nhất chiếm tỷ lệ là 98,61%,

tiếp theo là nôn và buồn nôn (58,33%). Các triệu chứng khác ít gặp

hơn như là: sụp mi mắt (8,33%), co giật, động kinh (4,17%), sợ ánh

sáng, nhìn mờ (4,17%) và mất tri giác ban đầu (2,78%).

Hội chứng màng não là dấu hiệu lâm sàng chiếm tỷ lệ cao

nhất 81,94%, tiếp theo bị suy giảm tri giác là 25%, tăng huyết áp trên

13

140 mmHg là 23,61% và có dấu hiệu thần kinh khu trú là 9,72%.

Liệt dây thần kinh số III một bên chiếm tỷ lệ 8,33%. Tỷ lệ

liệt dây III của bệnh nhân vỡ túi phình động mạch thông sau là

28,57%.

Bảng 3.1. Độ lâm sàng của bệnh nhân khi vào viện theo WNFS

Độ lâm sàng Độ I Độ II Độ III Tổng số Số bệnh nhân 48 17 7 72 Tỷ lệ % 66,67 23,61 9,72 100

3.1.3. Đặc điểm hình ảnh học

3.1.3.1. Chụp cắt lớp vi tính sọ não

Thời gian chụp CLVT trung bình là 2,83±2,72 ngày (từ 1-20

ngày). Số bệnh nhân chụp từ 1-4 ngày chiếm tỷ lệ cao nhất 83,33%.

Bảng 3.2. Phân độ chảy máu dưới màng nhện theo Fisher Tỷ lệ % 8,33 19,44 77,22 100 Chảy máu dưới màng nhện Độ 1 Độ 2 Độ 3 Tổng số Số bệnh nhân 6 14 52 72

3.1.3.2. Chụp cắt lớp vi tính động mạch não

Thời gian chụp CTA trung bình sau đột quỵ là 3,55±3,68

ngày (từ 1-20 ngày). Có 21 trường hợp túi phình động mạch thông

sau vỡ (29,17%), 3 túi phình động mạch mạch mạc vỡ (4,17%), 1 túi

phình ngã ba động mạch cảnh trong vỡ (1,39%), 35 túi phình động

mạch thông trước vỡ (48,61%) và 12 trường hợp túi phình động

mạch não giữa vỡ (16,67%). Đối chiếu với kết quả trong mổ, có 2

trường hợp chẩn đoán nhầm vị trí vỡ trên CTA đó là: 1 trường hợp túi

phình động mạch thông trước vỡ với túi phình ở ngả ba động mạch

14

cảnh trong vỡ, và 1 trường hợp là túi phình động mạch thông sau vỡ

với túi phình động mạch mạch mạc trước vỡ.

Kích thước trung bình của túi phình là: (4,91±2,27) x

(3,45±1,31) x (2,89±1,03) mm.

3.2. Kết quả điều trị phẫu thuật

3.2.1. Một số đặc điểm trong quá trình phẫu thuật

Thời gian mổ can thiệp trực tiếp lên túi phình: có 55,56% các

trường hợp được mổ trong 4 ngày đầu sau đột quỵ, 33,33% được mổ

từ 5-10 ngày, và chỉ có 11,11% được mổ sau 10 ngày.

Bảng 3.3. Vị trí đường mổ

Vị trí đường mổ Ít xâm lấn trên cung mày Ít xâm lấn vùng trán thái dương Tổng số Số bệnh nhân 34 38 72 Tỷ lệ % 47,22 52,78 100

Chiều dài trung bình đường mổ: 5,30±0,46 cm. Kích thước

nắp sọ trung bình là: (3,34±2,80) x (2,44±0,35) cm.

Khó khăn trong quá trình mở sọ: 4,17% có chảy máu cơ thái

dương, 11,11% mở vào xoang trán, 5,56% tổn thương thần kinh trần

ổ mắt, 5,56% rách màng cứng.

Khó khăn trong mổ:phù não 27,78%, khó định hướng 8,33%,

thiếu ánh sáng 6,94%, khó thao tác 6,94%, vị trí khó mổ 2,78%, túi

phình cổ rộng 4,17%, có mạch bên từ cổ túi phình 6,94%.

Tỷ lệ vỡ túi phình trong mổ là 8,33%.

Tỷ lệ kẹp tạm thời động mạch mang túi phình là 36,11. Thời

gian kẹp tạm thời trung bình là 7,5±2,94 phút (từ 5-15 phút).

Thời gian trung bình của cuộc mổ là 92,01±23,46 phút (từ

50-165 phút).

3.2.2. Một số đặc điểm điều trị sau mổ

15

Thời gian nằm hồi sức sau mổ trung bình là 20,34±9,84 giờ (từ

5,5-70 giờ). Thời gian nằm viện trung bình sau mổ là 9,20±5,15 ngày

(từ 3-29 ngày).

100% các bệnh nhân đều được chụp CLVT sọ não kiểm tra

sau mổ với thời gian trung bình là: 4,08±2,56 ngày (từ 1-13 ngày).

Kết quả: hình ảnh tụ khí, tụ dịch tại và tụ máu vùng mổ 70,83%, phù

nề và đụng giập não 33,33%.

100% bệnh nhân được chụp CTA kiểm tra sau mổ, với thời

gian trung bình 3,5±1,92 ngày (từ 1-9 ngày). Kết quả: 97,22% các

trường hợp hết cổ túi phình, và 2,78% còn tồn dư cổ túi phình, 1,39%

bị co thắt mạch nhiều, và 1,39% bị tắc mạch não sau mổ.

Các biến chứng sau mổ: tụ dịch vết mổ 4,17%, chảy dịch não

tủy qua vết mổ 2,78%, bị liệt ½ người sau mổ 4,17%.

3.2.3. Kết quả phẫu thuật

3.2.3.1. Kết quả điều trị khi ra viện

Kết quả tốt (mRS 0-2) chiếm tỉ cao nhất 93,06%, kết quả

trung bình (mRS 3) 2,78%, kết quả lâm sàng xấu (mRS 4) 4,17% (3

trường hợp bị liệt ½ người sau mổ).

3.2.3.2. Kết quả tái khám sau mổ

100% các bệnh nhân đều tái khám và theo dõi sau mổ với

thời gian trung bình: 8,23 ± 5,23 tháng (từ 3-21 tháng). Kết quả tốt

(mRS 0-2) chiếm tỷ lệ cao nhất 93,06%, kết quả trung bình (mRS 3)

chiếm tỷ lệ 1,39%, kết quả xấu (mRS 4-6) chiếm tỷ lệ 5,56%.

Trừ 3 trường hợp tử vong, Trong 69 bệnh nhân còn lại có: 22

trường hợp (31,88%) sau mổ thỉnh thoảng vẫn xuất hiện đau đầu, có

1 trường hợp (1,45%) bị co giật, động kinh, có 2 trường hợp (2,9%)

có yếu liệt ½ người, và có 5 trường hợp (7,25%) vẫn còn bị liệt dây

thần kinh III sau mổ.

16

- Kết quả về đường mổ: có 11,6% các trường hợp bị tê bì,

giảm cảm giác vùng mổ, 8,7% sẹo mổ rõ, 27,54% teo cơ tại vị trí

vùng mổ, chủ yếu mức độ ít, và 2,9% khó nhai, cắn sau mổ.

Bệnh nhân hài lòng về sẹo đường mổ với mức độ 1,2,3,4,và 5

chiếm tỷ lệ tương ứng là 50,72%, 37,68%, 8,7%, 2,9% và 0.

Có 89,86% bệnh nhân đau sẹo mổ ở mức độ 0-2, và 10,14%

ở mức độ 3-5 theo thang điểm GRS (Graphic Rating Scale).

Chương 4: BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học của túi phình hệ động

mạch cảnh trong vỡ

4.1.1. Đặc điểm chung của bệnh nhân

Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 55,98±8,96

(từ 35-77 tuổi), nhóm tuổi thường gặp nhất 50-59 tuổi chiếm 43,06%

(với χ² =5,8278, p=0,0157). Đa số các tác giả đều cho rằng tần suất vỡ

túi phình động mạch cảnh trong thường tăng theo tuổi, tuổi trung bình

cho cả nam và nữ là 52. Mặc dù hiện nay, xu hướng tuổi của bệnh nhân

được chẩn đoán túi phình động mạch não ngày càng trẻ hơn, nhưng

trong nghiên cứu này chúng tôi vẫn nhận thấy: phần lớn hay gặp vẫn là

lứa tuổi từ 50 trở lên.

Không có sự khác biệt về giới trong nghiên cứu của chúng

tôi, trong đó: nữ 48,61% và nam 51,39%, nguyên nhân là do cỡ mẫu

nghiên cứu của chúng tôi bé và lựa chọn bệnh nhân của chúng tôi

không ngẫu nhiên. Trong các báo cáo với số lượng bệnh nhân lớn cho

thấy có sự nổi trội hơn về giới nữ, thường chiếm từ 66-70%, nguyên

nhân được cho là có liên quan đến sự giảm hụt ostrogen ở giai đoạn

tiền mãn kinh, làm giảm các sợi collagen ở thành mạch dẫn đến giảm

sức căng thành mạch máu.

4.1.2. Đặc điểm lâm sàng

17

Thời gian đến bệnh viện trung bình là 3,30±3,26 ngày, đến

sớm trong 24 giờ đầu và trong vòng 4 ngày đầu sau đột quỵ chiếm tỷ

lệ cao tương ứng là 31,94% và 76,39%.Thời gian đến viện sớm tại

các cơ sở điều trị chuyên sâu có vai trò quan trọng trong điều trị can

thiệp phẫu thuật sớm giúp ngăn ngừa chảy máu tái phát, sẽ an toàn và

hiệu quả hơn khi điều trị chống co thắt mạch.

Có 8,33% các trường hợp có triệu chứng báo trước là đau

đầu và 1,39% có buồn nôn và nôn trong nghiên cứu của chúng tôi, và

thời gian từ khi có triệu chứng báo hiệu đến khi đột quỵ là 18,4±6,98

ngày. Việc phát hiện ra các triệu chứng báo hiệu này rất quan trọng,

giúp chẩn đoán xác định sớm và can thiệp điều trị kịp thời, tránh bị

vỡ túi phình, giảm tỷ lệ tử vong và di chứng.

Đau đầu là triệu chứng chiếm tỷ lệ cao nhất 98,61%, đây

cũng là triệu chứng rất phổ biến trong nghiên cứu của Wang H.

100%, của Nguyễn Thế Hào 85,3%, của Nguyễn Sơn 90,91%. Vị trí

đau đầu thường gặp là ở vùng trán hoặc vùng thái dương lan xuống

cổ, vài trường hợp có thể gặp lan xuống cả tủy sống và hai chân,

nguyên nhân là do sự xuất hiện của máu trong khoang dưới nhện.

Nôn và buồn nôn gặp 58,33% trong nghiên cứu của chúng

tôi, thấp hơn so với báo cáo của Nguyễn Sơn là 81,82%, của

Fontanarosa P.B 77%, của Wang H. buồn nôn 92,3% và nôn 75%.

Nôn và buồn nôn là triệu chứng thường gặp, khi xảy ra kèm với đau

đầu cấp có ý nghĩa gợi ý chẩn đoán vỡ túi phình.

Sự suy giảm tri giác phụ thuộc vào mức độ chảy máu, mức

độ tổn thương não và tăng áp lực nội sọ, với biểu hiện từ: lơ mơ, lú

lẫn đến hôn mê, gặp 25% trong nghiên của chúng tôi. Tỷ lệ này của

Fontanarosa P.B 53%, của Vũ Minh Hải 67,5%. Suy giảm tri giác ít

gặp hơn trong nghiên cứu của chúng tôi là do chúng tôi chỉ lựa chọn

18

những bệnh nhân có Glasgow chỉ từ 13 điểm trở lên.

Hội chứng màng não gặp 81,94%, và 3 bệnh nhân đến muộn

sau đột quỵ hơn 10 ngày thì hội chứng màng não không còn rõ nữa.

Kết quả của chúng tôi thấp hơn so với của Wang H. 100%, và cao

hơn trong nghiên cứu của Nguyễn Thế Hào là từ 35-70%.

Có 8,33% bị liệt dây thần kinh III một bên, và có 1,39% bị

liệt nhẹ ½ người bên phải trong nghiên cứu của chúng tôi. Tỷ lệ liệt

dây III của bệnh nhân vỡ túi phình thông sau trong nghiên cứu của

chúng tôi là 28,57%, tương đương của Zheng F. tỷ lệ này là 1/3. Liên

quan giữa túi phình thông sau và liệt dây thần kinh III được xem là

kinh điển, có giá trị gợi ý vị trí túi phình, nguyên nhân là do vị trí gần

nhau của dây thần kinh số III và động mạch thông sau.

4.1.3. Đặc điểm hình ảnh học

4.1.3.1. Chụp cắt lớp vi tính

Tất cả các bệnh nhân đều được chụp CLVT trước mổ với

thời gian trung bình là 2,83±2,72 ngày, trong đó có 83,33% các

trường hợp được chụp trong vòng 4 ngày đầu sau đột quỵ. Có

91,66% các trường hợp phát hiện có chảy máu dưới màng nhện rõ

trên phim CLVT (bao gồm: 19,44% Fisher độ 2, và 77,22% độ 3. Có

6 trường hợp (8,33%) có lâm sàng điển hình của vỡ túi phình nhưng

không rõ chảy máu dưới màng nhện trên phim chụp CLVT (Fisher

độ 1), nguyên nhân do bệnh nhân đến muộn. Như vậy, tiêu chuẩn

vàng để chẩn đoán chảy máu dưới màng nhện vẫn là chọc cột sống

thắt lưng, có thể phát hiện được một lượng máu rất nhỏ và

xanthochromia trong dịch não tủy.

4.1.3.2. Chụp cắt lớp vi tính mạch máu não

Các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi đều được sử

dụng CTA để chẩn đoán vỡ túi phình, với thời gian chụp trung bình là

19

3,55±3,68 ngày. Kết quả chụp CTA cho thấy: có 30,56% là vỡ túi

phình động mạch thông sau, 2,78% vỡ túi phình động mạch mạch

mạc, 50% vỡ túi phình động mạch thông trước, và 16,67% vỡ túi

phình động mạch não giữa. Đối chiếu với kết quả trong mổ nhận thấy

có 2 trường hợp chẩn đoán sai vị trí túi phình vỡ trên CTA, đó là: túi

phình động mạch mạch mạc vỡ chẩn đoán là túi thông sau vỡ và túi

phình động mạch thông trước vỡ chẩn đoán là túi phình ở ngả ba

động mạch cảnh trong vỡ, nguyên nhân là vị trí quá gần nhau giữa

các động mạch này, kích thước túi phình này lại quá bé (1,9 mm x 2,6

mm x 2 mm), và do lỗi dựng hình. Do đó, CTA 64 dãy có thể chẩn

đoán tốt được túi phình vỡ, nhưng hạn chế là các túi phình bị các mảnh

xương mỏng che phủ ở vùng nền sọ và trong vùng xoang hang, ngoài

ra còn phụ thuộc vào kinh nghiệm của người đọc phim.

4.2. Kết quả phẫu thuật ít xâm lấn trong điều trị túi phình hệ

động mạch cảnh trong vỡ

4.2.1. Một số đặc điểm trong quá trình phẫu thuật

4.2.1.1. Chỉ định phẫu thuật

Chúng tôi chỉ định phẫu thuật ít xâm lấn với những trường

hợp có độ lâm sàng từ I-III theo phân độ của WNFS (bảng 3.6), đồng

thời mức độ chảy máu dưới màng nhện trên phim CLVT từ độ 1-3

theo Fisher (bảng 3.8). Đối với những bệnh nhân nặng, độ lâm sàng

từ IV-V, đều có điểm Glasgow thấp (dưới 13 điểm), thường có phù

não nặng, mà trường mổ quá nhỏ nên không thể tiếp cận được tổn

thương, nên chúng tôi sử dụng đường mổ trán thái dương kinh điển

cho các trường hợp này.

Chúng tôi không chỉ định cho túi phình động mạch mắt vỡ,

túi phình động mạch yên trên vỡ, vì để kẹp được cổ túi phình phải

mài được mỏm yên trước, nguy cơ vỡ túi phình trong mổ rất cao

20

trong khi động mạch trước túi phình nằm trong xương sọ không kiểm

soát được.

Chúng tôi không chỉ chỉ định cho bệnh nhân có túi phình

kích thước lớn hơn 10 mm, bởi vì các túi phình này thường có cổ

rộng, có nhiều thùy che khuất các cấu trúc mạch máu lân cận, gây

khó khăn trong quá trình phẫu tích.

Chúng tôi không chỉ định cho các bệnh nhân lớn hơn 80 tuổi

và các bệnh lý toàn thân nặng khác kết hợp, bởi vì não người lớn tuổi

thường đáp ứng kém với hiện tượng chảy máu ban đầu, và khả năng

hồi phục kém, nên rất khó khăn trong điều trị.

4.2.1.2. Thời điểm mổ can thiệp trực tiếp lên túi phình

Có 33,33% bệnh nhân được phẫu thuật cấp cứu từ ngày thứ

5-10 sau vỡ túi phình, đây là thời kỳ thường xảy ra co thắt mạch.Tuy

nhiên, do điều trị co thắt mạch tốt nên kết quả tốt sau mổ là 91,67%.

Cùng quan điểm giống chúng tôi, Lan Q. cho là phẫu thuật ít xâm lấn

có thể thực hiện được ở bất kỳ thời điểm nào, khi mà không có tăng

áp lực nội sọ quá cao và tình trạng co thắt mạch nghiêm trọng.

4.2.1.3. Lựa chọn vị trí đường mổ

Tùy theo vị trí, hướng túi phình, tình trạng vỡ túi phình, ưu

thế mạch máu đến túi phình và các mạch xuyên, tình trạng hiện tại

của phù não và máu tụ mà chúng tôi lựa chọn đường mổ phù hợp. Có

34 bệnh nhân (47,22%) được sử dụng đường mổ qua trần ổ mắt để

phẫu thuật cho túi phình động mạch thông trước vỡ và 38 bệnh nhân

(52,78%) sử dụng đường mổ ít xâm lấn qua vùng trán thái dương

(bảng 3.13) để phẫu thuật cho túi phình động mạch thông sau, túi

phình động mạch mạch mạc trước, túi phình ngã ba động mạch cảnh

trong và túi phình động mạch não giữa. Chúng tôi nhận thấy: quá

trình mổ an toàn, thuận lợi, nhìn thấy rõ ràng tổn thương dưới kính

21

vi phẫu mà không cần hỗ trợ của nội soi.

4.2.1.4. Kích thước đường mổ

Các tác giả trên thế giới đều có quan điểm và kinh nghiệm

riêng về lựa chọn vị trí và kích thước đường mổ, và trên nguyên tắc

không làm tổn thương các mạch máu thần kinh. Cụ thể đối với vùng

mổ này là: phía thái dương không được làm tổn thương nhánh trán

của thần kinh mặt, phía trong không tổn thương thần kinh trên trần ổ

mắt, và kích thước trung bình đường rạch da trong nghiên cứu của

chúng tôi là 5,30±0,46 cm, của đường mổ ít xâm lấn trên cung mày là

5,05±0,23 cm, và qua vùng trán thái dương là 5,52±0,50 cm.

4.2.1.7. Các khó khăn trong phẫu tích túi phình động mạch não

27,78% bệnh nhân có phù não trong quá trình phẫu thuật.

Phù não thật sự là một khó khăn lớn đối với phẫu thuật ít xâm lấn,

đặc biệt trong giai đoạn cấp tính của chảy máu dưới màng nhện.

Chúng tôi làm xẹp não bằng cách sử dụng các thuốc như: manitol, lợi

tiểu, và lấy bớt dịch não tủy dần dần bằng cách mở các bể trên yên,

bể cảnh thị thì não xẹp.

Có 8,33% trường hợp là khó định hướng trong quá trình phẫu

thuật, nguyên nhân là do sự thay đổi từ phẫu thuật mở sọ lớn sang mở

sọ nhỏ, và ở vị trí sâu nên các mốc giải phẫu xung quanh không được

bộc lộ đầy đủ. Để khắc phục điều này cần phải chuẩn bị chu đáo, kế

hoạch trước mổ theo tình huống giải phẫu bệnh riêng và sự hiểu biết

về giải phẫu và mục tiêu vùng phẫu thuật.

Khó khăn trong thao tác gặp 6,94%, nguyên nhân là do góc

trường mổ chật hẹp và hầu hết kiểm soát phẫu tích đồng trục, đặc biệt

là khi sử dụng các dụng cụ mổ truyền thống thì rất khó thao tác linh

hoạt được. Sau này, nhờ sử dụng các dụng cụ riêng biệt có dạng

hình ống như: kéo cắt, các kìm cầm máu, các clip ứng dụng...,

22

chúng tôi nhận thấy thoái mái và linh hoạt hơn trong mổ.

Thiếu ánh sáng trong mổ gặp 6,94%, đặc biệt là các trường

hợp phù não, làm giảm khả năng quan sát và kiểm soát tối ưu trong

quá trình phẫu thuật, nhất là ở các vị trị sâu của nền sọ. Để khắc phục

khó khăn này, chúng tôi tăng cường độ chiếu sáng của kính vi phẫu,

và kê tư thế bệnh nhân tốt ở vị trí mà phẫu thuật viên có thể quan sát

trường mổ thuận lợi theo hướng thẳng góc.

Có 8,33% các trường hợp bị vỡ túi phình trong mổ. Theo các

nghiên cứu trên thế giới, tỷ lệ vỡ trong mổ trong những ngày đầu sau

đột quỵ thường khá cao. Vì vậy, khi thực hiện phẫu thuật ít xâm lấn ở

thời điểm sớm sau chảy máu thường chúng tôi chủ động kẹp tạm thời

động mạch mang túi phình, nhằm giảm bớt tỷ lệ vỡ trong mổ. Tỷ lệ

kẹp tạm thời động mạch mang của chúng tôi là 36,11% với thời gian

trung bình là 7,5±2,94 phút.

4.2.1.9. Thời gian của cuộc mổ

Thời gian trung bình của cuộc mổ là 92,01±23,46 phút.

Chúng tôi nhận thấy thời gian của cuộc mổ ít xâm lấn là ngắn hơn so

với đường mổ trán thái dương kinh điển, nguyên nhân là do mở sọ

nhỏ hơn và phẫu tích trong não cũng ít hơn, việc hạn chế phẫu tích

rộng này cũng góp phần làm giảm thời gian phẫu thuật.

4.2.2. Một số đặc điểm sau mổ

Thời gian nằm hồi sức trung bình là 20,34±9,84 giờ (từ 5,5-

70 giờ). Các bệnh nhân nằm hồi sức trên 24 giờ đều có độ lâm sàng

trước mổ là độ III và chảy máu dưới màng nhện Fisher độ 3, hoặc

các trường hợp bị vỡ túi phình trong mổ có chảy máu nhiều, nằm ở

hồi sức lâu hơn để truyền máu.

Số ngày điều trị trung bình sau mổ là 9,20±5,15 ngày (từ 3-

29 ngày). Đa số các tác giả đều thống nhất thời gian nằm viện sau mổ

23

của phẫu thuật ít xâm lấn là ngắn hơn so với đường mổ trán thái

dương, và sẽ làm giảm chi phí điều trị.

4.2.2.3. Chụp cắt lớp vi tính kiểm tra sau mổ

100% các bệnh nhân đều được chụp CLVT kiểm tra sau mổ,

kết quả: có 33,33% có biểu hiện phù nề và đụng dập tại vị trí mở khe

sylvius và hồi thẳng của thùy trán, nguyên nhân là do chúng tôi phải

phẫu tích vùng này để tìm đường vào và phẫu tích tìm túi phình thông

trước. Các tổn thương khác trên CLVT như: 8,33% có hình ảnh thiếu

máu não và 3 bệnh nhân trong số đó có biểu hiện lâm sàng liệt ½

người sau mổ. Có 70,83% tụ dịch và tụ máu tại vùng mổ.

4.2.2.4. Chụp cắt lớp vi tính đa dãy động mạch não sau mổ

100% các bệnh nhân được chụp CTA kiểm tra sau mổ, kết

quả: 97,22% hết túi phình, và 2,78% còn tồn dư cổ túi phình, và

1,39% bị co thắt mạch và 1,39% bị tắc mạch sau mổ. Kết quả của

chúng tôi tương đương của: Fischer G. tỷ lệ tồn dư túi phình cần

được điều trị lại 3,28%, Nguyễn Thế Hào tỷ lệ tồn dư túi phình 3,2%,

và bị tắc mạch não 4,5%. Tỷ lệ này cao hơn trong báo cáo của

Radovanovic I. 8,7%, nguyên nhân được cho là cố ý để lại để duy trì

các mạch chính và các mạch bên xuất phát từ cổ túi phình.

4.2.2.5. Các biến chứng sau mổ

Có 3 bệnh nhân (4,17%) liệt ½ người sau mổ. Trong đó, có 1

bệnh nhân sau phẫu thuật vỡ túi phình động mạch mạch mạc trước,

gây biến chứng tắc động mạch mạch mạc trước, và 2 bệnh nhân sau

mổ túi phình động mạch não giữa vỡ, nguyên nhân là do chúng tôi

làm tổn thương các động mạch thị vân, nên bệnh nhân bị liệt ½ người

sau mổ. Kết quả của chúng tôi tương đương với nghiên cứu của

Radovanovic I. tỷ lệ bị liệt ½ người là 4%.

4.2.3. Kết quả phẫu thuật

24

4.2.3.1. Kết quả điều trị khi ra viện

Kết quả tốt khi ra viện (mRS 0-2) là 93,06%, trung bình

(mRS 3) là 2,78%, xấu (mRS 4) là 4,17% (đây là 3 bệnh nhân có

biến chứng liệt ½ người sau mổ). Tỷ lệ bệnh nhân có kết quả tốt cao

và không có trường hợp nào tử vong trong nghiên cứu của chúng tôi

cho thấy phẫu thuật này là an toàn, hiệu quả.

4.2.3.2. Kết quả tái khám

72 bệnh nhân của chúng tôi đều được tái khám với thời gian

theo dõi trung bình là: 8,23±5,23 tháng (từ 3-21 tháng). Kết quả tốt

(mRS 0-2) 93,06%, kết quả trung bình (mRS 3) 1,39%, kết quả xấu

(mRS 4-6) 5,56% (3 bệnh nhân tử vong và 1 bệnh nhân bị liệt hoàn

toàn ½ người). Kết quả của chúng tôi tương đương với Radovanovic

I. kết quả tốt (mRS≤2) 91,7%, cần sự trợ giúp (mRS 5) 4,2%, và có

1 bệnh nhân không tái khám, và cao hơn so với: Welling L.C. kết quả

tốt 85,7%, và có 4 bệnh nhân tử vong, Chen L. kết quả tốt 88,6%, và

trung bình 11,4% tại thời điểm trên 12 tháng sau mổ.

Có 88,4% bệnh nhân có mức độ hài lòng cao: 50,72% là độ

1 và 37,68% là độ 2. Đây là những bệnh nhân có sẹo mổ ngắn, nhìn

không rõ sẹo, không có teo cơ hoặc teo cơ rất ít tại vết mổ và hầu

như không có sự khác biệt so với bên đối diện. Không hài lòng về

sẹo mổ chiếm 11,6% ở mức độ 3 và 4, nguyên nhân chủ yếu là do

vết lõm tại vị trí mũi khoan sọ, teo cơ tại vùng mổ (mức độ ít), và tê

bì, giảm cảm giác vùng mổ, giảm vận động cơ vùng mổ.

KẾT LUẬN

25

Qua nghiên cứu điều trị 72 bệnh nhân túi phình hệ động

mạch cảnh trong vỡ được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật ít

xâm lấn, chúng tôi có một số kết quả sau:

1. Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học của túi phình hệ động mạch

cảnh trong vỡ

Tuổi trung bình của các đối tượng nghiên cứu là: 55,98±8,96

(từ 35-77 tuổi). Nhóm tuổi 50-59 chiếm tỷ lệ cao nhất 43,06%. Tỷ lệ

vỡ túi phình của giới nữ là 48,61%, và của giới nam là 51,39%.

Thời gian đến bệnh viện trung bình là 3,30±3,26 ngày. Đau

đầu là triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất 98,61%, nôn và buồn

nôn 58,33%. Có 81,94% có hội chứng màng não, 23,61% bị suy giảm

tri giác, và 9,72% có dấu hiệu thần kinh khu trú.

66,67% các bệnh nhân độ I, 23,61% độ II, và 9,72% độ III

theo phân độ lâm sàng trước mổ của WNFS.

100% các bệnh nhân được chụp cắt lớp vi tính trước mổ với

thời gian trung bình là 2,83±2,72 ngày. 72,22% các bệnh nhân có

chảy máu dưới màng nhện Fisher độ 3; 19,44% độ 2; và 8,33% độ 1.

100% các bệnh nhân được chụp CTA trước mổ với thời gian

trung bình là 3,55±3,68 ngày. Kích thước trung túi phình: (4,91±2,27)

mm x (3,45±1,31) mm x (2,89±1,03) mm. Vỡ túi phình động mạch

thông trước chiếm tỷ lệ cao nhất là 48,61%, sau đó là vỡ túi phình

động mạch thông sau là 29,17%, vỡ túi phình động mạch não giữa là

16,67%, vỡ túi phình động mạch mạch mạc trước là 4,17% và vỡ túi

phình ngã ba động mạch cảnh trong là 1,39%.

26

2. Kết quả phẫu thuật ít xâm lấn trong điều trị túi phình hệ động

mạch cảnh trong vỡ

Có 47,22% được phẫu thuật ít xâm lấn trên cung mày và

52,78% qua vùng trán thái dương, chiều dài trung bình của đường mổ

5,30 ± 0,46 cm, và kích thước nắp sọ trung bình (3,34±2,80) x

(2,44±0,35) cm.

Khó khăn trong quá trình mở sọ: 4,17% có chảy máu cơ thái

dương, 11,11% mở vào xoang trán, 5,56% tổn thương thần kinh trần

ổ mắt, 5,56% rách màng cứng.

Khó khăn gặp phải phẫu tích túi phình như: phù não 27,78%,

khó định hướng 8,33%, thiếu ánh sáng 6,94%, khó thao tác 6,94%, có

mạch bên từ cổ túi phình 6,94%, và vỡ túi phình trong mổ 8,33%.

Thời gian trung bình của cuộc mổ là 92,01±23,46 phút. Thời

gian nằm hồi sức trung bình sau mổ là 20,34±9,84 giờ. Số ngày điều

trị trung bình sau mổ là 9,20±5,15 ngày.

Các biến chứng au mổ như: tụ dịch vết mổ 4,16%, bị chảy

dịch não tủy qua vết mổ 2,78%, và liệt ½ người sau mổ 4,17%.

100% các bệnh nhân được chụp CTA kiểm tra sau mổ. Tỷ lệ

loại bỏ hoàn toàn túi phình 97,22%, và tồn dư cổ túi phình 2,78%, tỷ

lệ co thắt mạch 1,39%, và tỷ lệ tắc mạch sau mổ 1,39%.

Kết quả tái khám: tốt (mRS 0-2) chiếm tỷ lệ 93,06%, trung

bình (mRS 3) 1,39%, xấu (mRS 4-6) 5,56%.

88,4% các bệnh nhân hài lòng về sẹo vùng mổ mức độ 0-2 và

10,14% là có đau sẹo mổ mức độ 3-5.

Có 8,7% sẹo mổ rõ, và 11,6% tê bì, giảm cảm giác vùng mổ,

27,25% teo cơ vùng mổ (chủ yếu teo cơ mức độ ít).

27

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC

GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Hữu Hưng, Nguyễn Thế Hào, Nguyễn Thọ Lộ, (2021). Đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và chỉ định

điều trị phẫu thuật ít xâm lấn đối với túi phình hệ động mạch

cảnh trong vỡ. Tạp chí Y học Việt Nam,505: 157-161.

2. Nguyen Huu Hung, Nguyen The Hao, Nguyen Tho Lo, Vu Van Hoe, Nguyen Van Hung, (2019). Minimally invasive

approaches suitable for ruptured aneurysms of cerebral

anterior circulation: a prospective study at a single

institute. Tạp chí Y Dược học Quân sự, 44(4): 139-146.